Nguyên tác: La Peau Du Pachyderme
Số lần đọc/download: 1895 / 36
Cập nhật: 2016-07-06 02:05:58 +0700
Phần III: Sài Gòn Giải Phóng – Chương 1: Hòa Hợp Dân Tộc
N
gay từ đầu, giải phóng đã được đón chào với một sự nhất trí cao trong dân chúng.
Đó là điều mà nhiều người được chứng kiến đã xác nhận. Ví dụ như lời kể sau đây của một bác sĩ tâm thần người Bỉ đã sống và làm việc lâu năm tại Sài Gòn. Theo ông kể thì từ trước ngày giải phóng, một không khí nặng nề đầy rẫy những ngờ vực bao trùm nơi bệnh viện ông làm, ở những con người ông gặp, ông tiếp xúc. Không một ai dám bộc lộ tâm tư tình cảm của mình, cũng như không dám tâm sự với ai, sợ nhỡ chẳng may người “bạn” ấy lại là một tên chỉ điểm đi tố cáo. Thế rồi đột ngột cái ngày 30 tháng Tư: “... Trước khi Quân giải phóng tiến vào thì giải phóng đã có mặt. ChỈ vừa mới được tin những người Mỹ cuối cùng và những kẻ chạy theo họ đã cuốn gói ra đi thì lập tức bầu không khí nặng nề nghi kỵ đã hầu như tan biến, các đồng sự của tôi bắt đầu chuyện trò sôi nổi và bắt tay vào may cờ...”. Ở nơi ông ở, một quận trung tâm nội thành, trong khi đâu đó ngoài xa còn thỉnh thoảng vang lên những tiếng nổ của rốc két, người dân đã đổ ra ngoài đường và gọi nhau ì ới... Sự căng thẳng hoàn toàn biến mất.
Thậm chí nếu trong chuyện trò đôi lúc còn đượm những lo âu toan tính về tương lai thì không khí chung vẫn toát lên một niềm vui, một sự thư giãn thoải mái, nó tựa như một sự bùng nổ: trong cái thành phố mà nỗi lo âu cứ tích tụ dần đến cực điểm trong những ngày cuối cùng của chế độ cũ, thì bất thình lình đó là sự giải thoát. Bởi chẳng có gì đã diễn ra như những lời hù dọa của Washington và chính quyền cũ. Những người Sài Gòn, hết sức ngạc nhiên khi họ khám phá ra thế nào là “anh Bộ đội” của Quân đội nhân dân: kỷ luật, nhưng rụt rè bẽn lẽn, các anh trong dáng dấp cũng như trong bộ quân phục giản dị, chẳng có gì giống với những tên lính của quân đội Sài Gòn cũ với bộ dạng “yêng hùng” ngổ ngáo và bộ quần áo bó chặt người của bọn chúng.
Với đại đa số dân chúng, quân giải phóng về có nghĩa trước hết là chiến tranh đã chấm dứt và điều đó với họ mới là cái chủ yếu. Còn những “vấn đề”, những câu hỏi, điều đó sẽ đến sau.
Ở Tân cảng nằm trong một phường vào loại tồi tàn của Gia Định, một tỉnh liền sát Sài Gòn, tôi đã gặp hai người lính của quân đội Sài Gòn cũ. Cả hai đều còn trẻ, một người làm kỹ thuật viên trong bộ đội không quân, còn người kia làm nhân viên tác nghiệp ra đa trong bộ đội hải quân. Họ chọn hai quân chủng này để tránh khỏi phải vào bộ binh, một nơi đồng nghĩa với việc phải ra trận và chết chóc. “Tôi cảm thấy dễ chịu hơn trước”, người thứ nhất trả lời tôi, “bởi trước hết là không còn chiến tranh nữa, và tôi không còn phải sợ những hậu quả có thể xảy ra”. Nhưng anh ta cũng rất lo lắng cho tương lai, nhất là công ăn việc làm. Trước đây mỗi tháng anh kiếm được 21.000 đồng tạm đủ để nuôi người bố thất nghiệp và hai em trai.
Còn người thứ hai thì anh ta nghĩ “hạnh phúc hiện thời của anh là không phải mang bộ áo lính nữa”. Nhưng đối với giải phóng, anh cảm thấy nó cũng chẳng có nghĩa gì lắm, bởi trước sau “có bao giờ người ta được độc lập đâu” và anh tỏ ra bi quan đối với tương lai.
Tại khách sạn “Caravelle”, khách sạn sang nhất Sài Gòn - thuộc về Tòa giám mục - quang cảnh không có gì thay đổi. Nhưng ở chỗ những “vị” tai to mặt lớn, những tay nhà giàu cỡ bự và các sĩ quan Mỹ ngày trước, thì bây giờ là những người ở bưng biền về, khách mời của Chính phủ cách mạng, họ đang nâng cốc mừng lễ hội Chiến thắng ngày 15 tháng Năm. Người bồi bàn không giấu nổi niềm tâm sự với tôi:
“Chiến tranh kết thúc quả là tốt... trước đây tôi tháng tháng kiếm được ba chục ngàn, gia đình tôi có mười hai người. Từ khi người Mỹ tới, cuộc sống thật không sao chịu nổi: cái gì cũng đắt, đắt khủng khiếp. Vợ và hai con gái lớn của tôi phải làm để kiếm phụ thêm. Khi ốm đau, thuốc men quá đắt thì đành phải nhờ trời mà chịu vậy. Ngày nào tôi cũng đi làm, làm suốt năm suốt tháng thế mà vẫn không đủ sống. Thêm nữa lại còn phải đóng thuế. Tôi muốn các con tôi được đi học và tôi đã phải đổ mồ hôi sôi nước mắt để làm được việc đó. Và khi mười tám tuổi, chúng buộc phải vào lính vì chẳng còn cách nào khác, bởi nếu không thì chúng sẽ bị bắt. Lúc này chưa biết mai kia sẽ tốt, xấu ra sao, nhưng tiền thì giờ tôi bất cần miễn sao gia đình tôi có đủ cái ăn, các con tôi được học hành và ốm đau được chăm sóc tử tế: đối với tôi thế đã là quá đủ…”
Những lời nói ấy biểu hiện một hiện tượng lạ lùng, tuy diễn ra ngắn ngủi thật đấy nhưng đúng là nó đã xảy ra trong những ngày đầu giải phóng: đó là sự thay đổi đột ngột trong những quan hệ với đồng tiền. Ở cái thành phố mà người ta luôn luôn tôn thờ “con bê vàng” này, chỉ trong một buổi sáng, người dân như được sống trong một ân sủng: chưa có đâu như ở đây, ngay cả ở Hà Nội, đồng đôla lại mất giá đến thế: ngày 29 tháng 4, nó chỉ được đổi với giá 6000-7000 đồng, thế mà các nhà buôn còn do dự khi phải bỏ ra 4000 đồng để đổi lấy nó. Đối với nhiều người, cách mạng hiện ra một chiếc đũa thần: nó chỉ cần hô một cái thế là mọi khó khăn đều biến mất!
Một trong những biểu hiện của sự nhất trí rộng rãi mà những người giải phóng gặp được, đó là ngay ngày hôm sau, đông đảo thanh niên đã tham gia vào những hoạt động giữ gìn trật tự và ổn định đời sống bình thường. Trên tất cả các thành phố, thị trấn dọc đường số 1, thanh niên, tự vệ đứng ra bảo đảm an ninh, hàng ngàn thanh niên ở Huế, Đà Nẵng tham gia các hoạt động cứu trợ công cộng và ngay cả ở Sài Gòn cũng thế. Hạt nhân của họ là các sinh viên Văn khoa... Đó đúng là một hiện tượng có tính chất đông đảo, hàng loạt, mà người ta không thể giải thích nổi nếu như gán cho nó một thứ cơ hội chủ nghĩa để tự cứu. Vậy chế độ cũ thực tế đã tặng cho tầng lớp thanh niên những gì? Họ đã sống trong những cơ cấu xã hội bị đảo lộn, trưởng thành lên ngoài khuôn khổ truyền thống, cắt đứt với mọi giá trị tinh thần của xã hội Việt Nam, và cắt đứt ngay cả với khuôn khổ gia đình họ.
Nhà văn Vũ Anh, tổng thư ký Hội các nghệ sĩ yêu nước, đã mô tả những thay đổi của một gia đình trong phường ông như sau: năm 1965, giống như nhiều gia đình Việt Nam khác, người bố trong gia đình làm việc trong một gara ôtô, người mẹ có một sạp bán vải ngoài chợ; họ đều là những người lao động trung thực. Họ có ba trai và ba gái được giáo dục tử tế. Ít lâu sau khi người Mỹ tới, cô gái út đi làm điếm và cô ta đã lôi kéo theo hai người chị, cả hai đều đã có chồng: họ thuê một căn nhà để “làm ăn” với lính Mỹ, mua những hàng miễn thuế của tụi này cho chồng con, anh em. Thế là cả gia đình sống trong cảnh nhàn rỗi. Sau 1972 người Mỹ ra đi, gia đình họ chẳng còn nguồn lợi gì để sinh sống: một cô chị đi buôn lậu ma túy phải vào tù, còn cô kia sống như vợ chồng với một tay nhà buôn già vào loại khá giả...
Tất cả đám con cái nhà này đã tiêm nhiễm những thói quen khó bỏ, thế mà công ăn việc làm lại không có...
“Những gia đình ấy, Vũ Anh kết luận, đã tan vỡ. Cho đến trước khi người Mỹ ra đi họ còn có thể lấy đôla để che đậy những thối nát của nó còn bây giờ, cách duy nhất để hàn gắn lại gia đình, để lấy lại nếp sống gia giáo và khôi phục lại phẩm cách, thì điều đó lại còn tuỳ thuộc vào điều kiện là phải có một đời sống vừa phải và một nguồn thu nhập tối thiểu. Nhưng qua những gì thấy được ở phường này thì có lẽ sự tan rã đó vẫn tiếp tục”.
Trong việc “Tây hoá” cách sống của họ, một cách sống đối với họ mới chỉ giới hạn trong sự nông cạn, hời hợt trên những khía cạnh bề nổi, có phải là ở đó, tuổi trẻ ấy mới tìm thấy những “giá trị thay thế”. Số người nghiện ở Nam Việt Nam sau đây có lẽ sẽ minh chứng nhiều hơn cho sự thiếu hụt “sâu sắc của họ đối với trình độ “Tây hoá”.
Theo thống kê của cảnh sát Sài Gòn thì số con nghiện ấy là 130.000 người, trong đó có từ 30.000 đến 50.000 người là đệ tử của hêrôin. “Năm 1970, 2% học sinh sinh viên nghiện ma túy. Những năm 1971-1972, con số ấy lên tới 30%, sáu tháng cuối năm 1972 là 48 đến 50%, và sáu tháng đầu năn 1973 là 70%”, báo Đại dân tộc số ra ngày 16-6-1973 đã tiết lộ như thế. Thật vậy, đó là một lớp tuổi trẻ đang bị rối loạn sâu sắc. Mọi mối liên hệ về văn hóa bị cắt đứt, tuổi trẻ ấy vật vờ trôi nổi trong một thế giới bệnh hoạn mà tất cả mọi viễn cảnh ở phía trước nó chỉ là “vào lính” từ mười bảy tuổi trở đi.
Còn về những vật dụng tiêu thụ hiện nay, tôi hỏi vấn đề này với một sinh viên khoa văn. Sáu tháng trước đây, anh tham gia một mạng lưới kháng chiến; anh có sợ khi không còn được hưởng thụ những gì của “nền văn minh Honđa”? “Những thứ ấy, anh trả lời tôi, không phải là cốt yếu lắm. Và như ông biết đấy, rađiô làm ở Cộng hòa dân chủ Đức chất lượng rất tốt. Còn étxăng thì có thể của Liên Xô, và xe máy, của Tiệp”. Khi tôi nhắc lại với một thanh niên Sài Gòn câu trả lời đó thì mới đầu anh ta phá lên cười: “Chúng tôi khó thích nghi lắm”, nhưng rồi sau anh ta nghiêm trang nói: “Khi chúng tôi trông thấy những anh bộ đội mặc quân phục xanh bé nhỏ, hết sức chững chạc, liêm khiết, chúng tôi tự nhủ là mình cũng có thể thấy lại niềm tự hào là người Việt Nam và chúng tôi sẽ tu tỉnh lại”.
Đối với phần lớn những thanh niên ấy, cách mạng tới như mở trước mắt họ một chân trời mới; vả lại họ đâu phải là một “vùng đất” chưa được khai phá: số 20.000 sinh viên văn khoa Sài Gòn trước đây đã từng có những cuộc đấu tranh sôi nổi chống lại chính quyền cũ đôi khi có quy mô rất lớn. Tôi đã có dịp được dự một cuộc họp của “Ủy ban cách mạng thanh niên Hai Bà Trưng”, quận trung tâm của Sài Gòn: hạt nhân của Uỷ ban là một mạng lưới thanh niên hoạt động bí mật; trước ngày giải phóng, những thanh niên này với hai mươi người đã chờ đợi trong một gian phòng từ hai tuần trước cái ngày trọng đại ấy… Và sáng hôm sau, người của họ đã lên tới hàng nghìn.
Tối hôm ấy, khoảng năm chục thanh niên nam nữ đã hội họp để điểm lại tình hình theo nhiệm vụ chủ yếu của họ là Hội cứu tế xã hội trong một quận có 300.000 dân. Nhất là trong buổi sáng hôm ấy, họ đã phát gạo cho những gia đình nghèo nhất với tiêu chuẩn mỗi đầu người một kilô. Nhiều thanh niên đã tới xin gia nhập hội; họ viết vào giấy lý do tại sao xin gia nhập và giấy được chuyển tới bàn của Minh, người phụ trách. Minh phân tích nội dung và tất cả cùng thảo luận. Phần lớn những thanh niên có mặt là học sinh trung học hoặc sinh viên, nhưng cũng có cả những thợ máy, thợ dệt... và họ đang thất nghiệp: nhiều người biểu lộ sự rối loạn hoang mang trước đây của họ: “Mục đích cuộc đời tôi có thể là cái gì?”, một người trong họ nêu câu hỏi. Họ kể lại cú sốc gây ra khi phát hiện thấy những nỗi thống khổ, bần cùng xung quanh họ và từ đó họ bước vào đấu tranh. Cuộc thảo luận hơi bị mắc kẹt vào chủ nghĩa hình thức, phát biểu theo kiểu kêu gọi chung chung: “Chúng ta cần phải có ý thức hơn nữa, làm việc tốt hơn và nỗ lực nhiều hơn để phục vụ nhân dân”. Một người đã đứng lên can thiệp: “Các đồng chí, cuộc họp yêu cầu chúng ta nói lên những cảm nghĩ chân thực của mình, chúng ta cần phát biểu một cách thẳng thắn, trung thực tất cả những gì ta nghĩ, cho dù nó có trái với đường lối bây giờ”. Một tay vô trách nhiệm chăng? Không người ấy là một người đã từng hoạt động từ sáu năm nay trong một mạng lưới cách mạng bí mật. Minh đứng dậy phát triển ý vừa nói và cuối cùng anh bổ sung thêm: thanh niên chúng ta cần phải chờ đón những khó khăn hơn nữa, bởi: “Những khó khăn ấy là bình thường, chúng là kết quả của chế độ cũ.”
Minh, hai mươi lăm tuổi, nhưng nom anh rất trẻ, đoán già đi nữa thì người ta cũng chỉ có thể bảo mười sáu là cùng. Anh chẳng có vẻ gì đặc biệt: Một học sinh trung học ngoan ngoãn, chịu khó, người manh mảnh và bẽn lẽn kiểu một anh con trai mới lớn. Anh chứng tỏ giữa thế hệ anh và lớp cha anh của anh không có một cái hố ngăn cách: cha anh làm ruộng ở một vùng gần Cần Thơ trong châu thổ Cửu Long và đã từng tham gia cuộc “kháng chiến chín năm”. Trong chống Mỹ, ông cùng gia đình về ở thành phố Cần Thơ và trở thành một người thợ trong một xưởng làm nước đá.
Quả là rất khó khăn khi yêu cầu Minh kể lại chuyện của anh, nhưng cuối cùng anh đã kể, song với một giọng khô khan như trong một báo cáo của cảnh sát. Một cuộc đời khá lạ lùng: năm 1968, mười tám tuổi anh tham gia kháng chiến và hoạt động bí mật ở Cần Thơ trong một tổ biệt động chuyên trừ khử những tên chỉ điểm. Tháng Ba năm 1968, anh bị bắt. Bị tra khảo liền trong một tháng, anh không hề hé răng, cuối cùng địch phải thả.
Anh được điều về Sài Gòn, có nhiệm vụ hoạt động trong sinh viên. Năm 1970, anh được gọi về cứ học chính trị trong một năm. Anh lại quay về Sài Gòn, trở thành một lãnh đạo chủ chốt của phong trào sinh viên, đặc biệt trong cuộc đấu tranh của sinh viên văn khoa chống bầu cử gian lận của Thiệu năm 1971.
Đầu năm 1971, do bị địch đàn áp mạnh, anh lại trở lại chiến khu, tham gia các trận đánh lớn năm 1972 với cương vị chính trị viên đại đội. Sau Hiệp định Paris, anh được lệnh quay về Sài Gòn với căn cước giả và tiếp tục hoạt động bí mật trong thành phố.
Năm 1974, anh lại được gọi về cứ học thêm một lớp chính trị trong bảy tháng. Tiếp đó quay về Sài Gòn sáu tháng trước khi giải phóng; lãnh đạo phong trào thanh niên. Lần này, giấy tờ không có, anh chỉ có thể đi lại trong thành phố ban đêm. Đầu tháng Tư, anh nhận được lệnh chuẩn bị cho cuộc nổi dậy của quần chúng ở Phú Nhuận, một quận lớn của Sài Gòn đông tới 500.000 dân. Anh tổ chức đội hoạt động bí mật: anh chỉ tập họp được hai mươi chiến sĩ, bởi từ năm 1968, địch đánh phá cơ sở cách mạng rất ác liệt.
Ngày 30 tháng Tư, dẫn đầu đội, anh chiếm trụ sở chính quyền quận, đồn cảnh sát... Quân đội Sài Gòn xin hàng khắp nơi; anh tổ chức một cuộc biểu tình trên đường phố thu hút vài trăm người tham gia...
Tất cả như thế đấy, Minh kể lại không một chút khoe khoang, cứ như thể anh khai lý lịch, như kể lại một câu chuyện bình thường. Anh đã quên không nói là năm 1970 anh đã nhiều lần bị địch bắt.
- Anh là đảng viên cộng sản, phải không anh Minh?
- Dạ...
Đối với nhiều người, giải phóng đã như một sự giải thoát theo nghĩa hồi sinh. Nhiều cảnh tượng kỳ lạ đã diễn ra...
Tân Cảng, một phường của Gia Định, một trong những nơi nổi tiếng xấu nhất trong cái “chính quốc” rộng lớn gồm Chợ Lớn, Sài Gòn và Gia Định. Được thành lập xung quanh một căn cứ Mỹ, Tân Cảng đã sống nhờ cái căn cứ ấy: ăn trộm hàng ở những “P’X”, những kho hậu cần của quân đội Mỹ, làm điếm... Đó là một phường của những người đi lánh nạn hoặc những kẻ trốn lánh, những tên mất gốc đủ loại mà phép màu thành thị xuất hiện hơn là thực tế nó có. Nhà giàu thì xây nhà ngoài mặt phố, còn khi đi vào những ngõ, những con hẻm, thì người ta có cảm tưởng như dấn sâu vào một mê cung của những trò kỳ lạ... Sau khi người Mỹ ra đi, những tệ nạn không hề giảm, trái lại nó càng trầm trọng hơn: trộm cắp, giết người, cướp của, đĩ điếm, người ta xa lánh nhau, nghi kỵ lẫn nhau.
Cha linh hồn thực sự của người nghèo, cha Minh - ông cũng tên là Minh - phụ trách xứ đạo ôm trọn cả khu vực Tân Cảng. Theo mô tả của cha, người ta có thể hiểu được thế nào là Tân Cảng trước đây: ở đây, người ta không chuyện trò gì với nhau, cũng chẳng có sự tương trợ hay học hành gì hết... Đó là những kẻ không được ai ưa ở thành phố Sài Gòn này. Thế mà khi giải phóng về, không khí chợt thay đổi hẳn: công tác vệ sinh đường phố trước đây chẳng ai ngó ngàng tới, nhưng nay: “Ba, bốn ngày sau giải phóng, hưởng ứng lời kêu gọi của chính quyền mới, nhiều người ở nơi khác đã kéo đến để cùng bà con dân phố vệ sinh dọn dẹp; đường sá đi lại phong quang, dễ chịu hẳn lên.”
Không khí ấy thấy được ở khắp nơi. Ông Chung thuộc tầng lớp tiểu tư sản ở Chợ Lớn. Để thuê được một căn nhà hết sức xuềnh xoàng ở đây với giá 6000 đồng một tháng, ông đã phải lót tay một triệu đồng tiền hoa hồng. Ông làm quản lý cho một khách sạn nhưng đã tám tháng nay ông thất nghiệp. “Trong xã hội của chế độ cũ, ông nói, đụng một tý gì cũng phải chi tiền, từ học hành đến chạy khỏi đi quân dịch”. Con ông đã qua tuổi mười sáu, chỉ vài tháng nữa thôi là phải vào lính. Ông Chung di cư từ Hà Nội vào năm 1954: “Lúc ấy tôi còn rất trẻ, nhưng từ đó cuộc đời đã dạy tôi rất nhiều.” Giấc mơ của ông là được thấy lại Hà Nội và gửi các con ông học hành ở đấy. “Tôi còn anh em ở ngoài ấy, các cháu con anh em tôi đều học hành nên người cả, đứa thì bác sĩ. Con gái lớn tôi có nghề may, nó sẽ cắt quần áo để giúp đỡ tôi sinh sống”.
Chúng tôi đến thăm một người anh em của ông, cũng chạy từ Bắc vào, trước giải phóng là một hạ sỹ trong quân đội Sài Gòn. Ông ta đi vắng, chỉ người vợ có mặt ở nhà. Nhà cũng chỉ một gian con con, giống như Hà Nội, khác một điểm là có cái tivi. Người vợ hỏi tôi về tình hình Hà Nội: có xăng dùng, có thợ may, có người bán rong không? Người ta có thể nuôi gà vịt được không? Nhà của mình, mình vẫn có thể ở được chứ? Thuế má có phải đóng không?... Quan tâm lúc này của chị là cái ăn cái uống hàng ngày, nhưng chị ta cũng hỏi có phải sau 1954, ở ngoài ấy “người ta cũng trả thù những ai trước đó đã làm việc cho chính quyền Pháp?”... Chị lo ngại bởi trong thành phố đang loan truyền cái tin có “sự phân biệt giữa dân Bắc và dân Nam”.
Chị cũng tự hỏi tại sao từ nay lại có “hai chính phủ?”
Không riêng người dân thường, ngay trong giới chính quyền cũ, một số người cũng có cảm giác được giải thoát. Tướng Dương Văn Minh chẳng hạn, là tổng thống vào những giờ phút cuối của Việt Nam Cộng hòa. Ông đã tuyên bố: “Cá nhân tôi, tôi rất sung sướng khi bước vào tuổi sáu mươi, tôi lại được trở thành công dân của một nước Việt Nam độc lập”. Còn chuẩn tướng Nguyễn Thành Sang, cựu tư lệnh sư đoàn 22 và phó tổng thanh tra quân đội Sài Gòn, trước Uỷ ban quân quản cách mạng, đã kết thúc lời nói của mình rằng: “Tôi phấn khởi được thấy nước nhà độc lập, tự do và thống nhất.” Và một tướng Sài Gòn khác, Lê Trung Trực, đã thừa nhận trước Uỷ ban quân quản: “Các ông thắng là rất bình thường. Bởi các ông có tất cả về phía các ông: sự công bằng và sức mạnh.”
Đương nhiên giải phóng không được “hoan nghênh” nhiều cũng là ở những giới ấy: một số không sao chấp nhận nổi sự sụp đổ thế giới của họ và họ đã tự vẫn. Có người còn nuối tiếc nó đến nỗi phát điên lên, như một viên quan lại cũ của Hà Nội ngày trước. Ông ta đã xây dựng được cả một cơ ngơi đồ sộ bằng cách xây cabin định cho Mỹ thuê, rồi đã bỏ cả một đống tiền ra để có được giấy xuất cảnh đúng trước ngày giải phóng. Tối 29 tháng Tư, ông ta có được nó nhưng lúc ấy thì đã quá muộn. Thần kinh ông ta suy sụp những ngày sau đó... và cái chết của ông cũng đúng là sự kết thúc hình ảnh của một xã hội cũ.
Nhưng nói chung, những ngày sau giải phóng, Sài Gòn như đắm mình trong một không khí hồ hởi, thoải mái. Thành phố như tự bộc lộ mình ra, ngạc nhiên, nhưng cũng bối rối cho tương lai. Đối với những người hiểu biết, cách mạng mới chỉ ở những bước đầu. Còn với một số người khác, họ cho rằng có lẽ rồi tất cả sẽ lại tiếp tục như trước: họ nghĩ họ có thể “kham nổi”, “chịu đựng” nổi những “anh”, những “chú” bộ đội, họ sẽ tìm cách xử trí, hy vọng là sẽ có thể “làm ăn” như cũ.