Số lần đọc/download: 1229 / 67
Cập nhật: 2016-06-09 04:42:48 +0700
Chương 5
C
ó sáu căn lều bạt lớn màu xám và trên vách mỗi căn lều có một chữ cái màu đen: A, B, c, D, E, hoặc F. Năm lều đầu tiên dành cho trại viên. Các quản giáo ngủ ở lều F.
Stanley được phân vào lều D. Ông Pendanski là quản giáo của nó.
- Tên tôi rất dễ nhớ - ông Pendanski nói trong khi bắt tay Stanley ở ngay bên ngoài lều - Ba từ ngắn gọn: bút, múa, khóa.
Ông Ngài quay trở về văn phòng.
Ông Pendanski trẻ hơn ông Ngài và hình như trông không đáng sợ bằng. Tóc trên đỉnh đầu ông được cạo sát gần như trọc, nhưng mặt ông lại trùm kín trong bộ râu quai nón đen, rậm rạp, xoăn tít. Mũi ông bị nắng đốt cháy lam nham.
- Ông Ngài không tệ lắm đâu - ông Pendanski nói - Ông ấy đâm ra bẳn tính từ hồi bỏ hút thuốc lá. Người mà chú mày phải dè chừng là Cai. Trại Hồ Xanh này chỉ có duy nhất một luật thôi: Chớ làm Cai bực mình.
Stanley gật đầu như thể nó hiểu lắm vậy.
Ông Pendanski tiếp:
- Stanley, ta muốn chú mày biết rằng ta tôn trọng chú mày. Ta hiểu chú mày đã phạm những lỗi lầm tệ hại nào đó trong cuộc sống. Nếu không thì chú mày đã chẳng có mặt ở đây. Nhưng bất cứ ai cũng phạm sai lầm. Có thể chú mày đã làm điều xấu, nhưng điều đó không có nghĩa chú mày là đứa trẻ xấu.
Stanley gật đầu. Xem ra vô ích nếu cứ cố thanh minh với ông quản giáo rằng nó vô tội. Chắc chắn ông ấy sẽ suy luận rằng ai mà chẳng nói thế. Nó không muốn ông Bút-Múa-Khóa nghĩ là nó có thái độ không tốt.
- Ta sẽ giúp chú mày chuyển hướng cuộc đời - ông quản giáo của nó nói - Nhưng chú mày phải giúp ta. Liệu ta có thể trông cậy vào sự giúp đỡ của chú mày được không?
- Dạ, được - Stanley nói như cái máy.
Ông Pendanski khen “Tốt” và vỗ lưng Stanley.
Hai chú bé, mỗi đứa vác một cái xẻng đi ngang qua khu lều. Ông Pendanski gọi họ.
- Rex! Alan! Tôi muốn các cậu tới chào Stanley. Cậu ấy là thành viên mới nhất trong đội chúng ta.
Hai anh chàng mệt mỏi liếc nhìn Stanley.
Người chúng nhỏ mồ hôi tong tỏng, mặt mũi dơ bẩn đến nỗi phải mất một lúc Stanley mới nhận ra một đứa da trắng còn đứa kia da đen.
- Bao Hèm bị sao vậy? - thằng da đen hỏi.
Ông Pendanski đáp:
- Lewis vẫn đang nằm viện. Cậu ta sẽ không trở lại đâu.
Ông bảo hai đứa tới bắt tay Stanley và tự giới thiệu “như những quý ông lịch sự.”
- Chào - thằng bé da trắng lầm bầm.
- Đó là Alan - ông Pendanski giới thiệu.
- Tên tôi không phải Alan - thằng bé nói - mà là Mực Ống. Còn thằng kia là Tia X.
- Chào - Tia X chào. Nó mỉm cười bắt tay Stanley.
Thằng này đeo kính râm, nhưng tròng kính dính đất dơ đến độ Stanley thắc mắc làm sao nó có thể nhìn được qua kính.
Ông Pendanski bảo Alan tới Phòng Giải Trí kêu các thành viên khác tới gặp Stanley. Dặn xong ông dắt Stanley vào trong lều.
Có bảy cái giường xếp kê cách nhau chừng nửa thước.
- Đâu là giường của Lewis? - ông Pendanski hỏi.
- Bao Hèm ngủ ở đây này - Tia X vừa nói vừa giơ chân đá một trong những cái giường.
- Thôi được, Stanley. Đó sẽ là giường của chú mày - ông Pendanski nói.
Stanley ngó cái giường và gật đầu. Cậu chẳng thích thú gì về việc phải ngủ trên cái giường từng được một thằng nào đó tên là Bao Hèm sử dụng.
Bảy cái thùng gỗ chất thành hai chồng xếp ở một bên lều. Mỗi chiếc thùng để hở một mặt quay ra ngoài. Stanley nhét ba lô, quần áo và khăn tắm vào cái thùng từng là của Bao Hèm. Tức là cái dưới cùng trong chồng có ba cái thùng.
Mực Ống quay lại cùng với bốn thiếu niên khác. Ba đứa đầu được ông Pendanski giới thiệu là José,
Theodore và Ricky. Chúng tự gọi mình là Nam Châm, Nách và Dích Dắc.
- Tất cả các cậu ấy đều có biệt danh - ông Pendanski giải thích.
- Tuy nhiên, tôi thích dùng tên thật của họ hơn, những cái tên mà nhờ chúng xã hội sẽ nhận ra họ khi họ quay về và trở thành những người chăm chỉ làm việc.
- Đó không chỉ là biệt danh - Tia X cãi ông Pendanski, tay búng nhẹ gọng kính - Tôi rành tâm địa ông quá mà, Má. Má có một trái tim mập ú.
Thằng bé cuối cùng không có tên thật, cũng không có biệt danh. Cả ông Pendanski và Tia X đều gọi nó là Zero.
- Chú mày biết tại sao tên nó là Zero không? - ông Pendanski hỏi - Bởi vì chẳng có tí gì trong đầu nó cả - Ông ta mỉm cười và thích chí lắc vai Zero.
Zero chẳng nói chẳng rằng.
- Còn ông í là Má! - một thằng nói.
Ông Pendanski mỉm cười với thằng này - Nếu cái tên đó khiến cậu cảm thấy dễ chịu thì cứ việc, Theodore à, cứ gọi ta là Má - Ông quay qua Stanley - Nếu chú mày có thắc mắc, Theodore sẽ giúp. Nghe chưa, Theodore. Tôi trông cậy vào cậu đấy.
Theodore xịt một tia nước miếng qua kẽ răng khiến vài đứa khác trong đám con trai lên tiếng đòi giữ vệ sinh “nhà cửa” của chúng.
Ông Pendanski nói:
- Tất cả các cậu đều từng là người mới ở đây. Và các cậu đều biết cảm giác đó như thế nào. Tôi tin các cậu sẽ giúp đỡ Stanley.
Stanley ngó tịt xuống đất.
Ông Pendanski rời lều và loáng cái bọn con trai cũng đi hết, lấy theo khăn tắm và đồ thay. Được ở lại một mình, Stanley nhẹ cả người, nhưng nó khát nước tưởng chết đi được nếu không có cái gì uống ngay lập tức.
- Này, ờ... Theodore - nó gọi đuổi theo - Anh cho em hỏi, em có thể hứng nước vào bi-đông ở đâu?
Theodore quay phắt lại, chộp cổ áo Stanley:
- Tên tao không phải là Thee-o-dore. Mà là Nách - Hắn xô Stanley ngã xuống đất.
Stanley ngước mắt lên, kinh hãi.
- Có một cái vòi nước trên tường buồng tắm ấy.
- Cám ơn... Nách - Stanley lắp bắp.
Nhìn thằng đó quay lưng bỏ đi, Stanley tự nhủ đến hết đời nó cũng không tài nào hiểu nổi tại sao có người muốn được gọi là Nách.
Về mặt nào đó chuyện vừa xảy ra với Nách khiến nó cảm thấy dễ chịu hơn khi phải ngủ trên cái giường từng được ai đó tên là Bao Hèm sử dụng. Không chừng, đấy lại là một kiểu kính trọng.
Stanley tắm - nếu bạn có thể gọi đó là tắm - ăn tối - nếu bạn có thể gọi đó là ăn tối - và đi ngủ - nếu bạn có thể gọi cái giường xếp bốc mùi và gây ngứa đó là giường.
Vì khan hiếm nước nên mỗi trại viên chỉ được phép tắm bốn phút. Stanley mất gần hết thời gian ấy để làm quen với nước lạnh. Không có nút nước nóng nên cậu cứ chui vào rồi lại nhảy vọt ra khỏi vòi sen, cho đến khi dòng nước tự động tắt ngóm. Cậu không làm thế nào dùng được bánh xà phòng của mình. Thế cũng là may, bởi vì chắc chắn cậu sẽ không có đủ thời gian để dội sạch bọt xà phòng.
Đồ ăn cho bữa tối hình như là thịt hầm và rau. Thịt màu nâu còn rau từng có màu xanh. Mùi vị món
nào cũng như nhau. Cậu ăn hết nhẵn, lại còn dùng lát bánh mì trắng vét sạch nước sốt. Stanley là đứa không bao giờ bỏ mứa đồ ăn trong đĩa của mình, bất kể mùi vị của nó ra sao.
- Mày đã làm gì? - một trong những trại viên hỏi cậu.
Ban đầu Stanley không hiểu thằng ấy muốn nói gì.
- Phải có lý do người ta mới tống mày tới đây chớ.
- Ồ - cậu hiểu ra - Tớ đã đánh cắp một đôi giày thể thao.
Đám con trai nghĩ chuyện đó thật buồn cười. Stanley không hiểu tại sao chúng lại cười. Có lẽ vì tội của chúng nặng hơn tội chôm giày thể thao nhiều.
- Trong cửa hàng hay trên chân ai đó? - Mực Ống hỏi.
- Ờ... chẳng ở đâu cả - Stanley trả lời - Giày của Clyde Livingston.
Không ai tin cậu.
- Đôi chân vàng hả? - Tia X thốt lên - Ái chà chà!
- Không đời nào có chuyện đó! - Mực Ống cao giọng.
Lúc này, nằm trên giường xếp của mình, Stanley ngẫm lại thấy thật buồn cười. Hồi trước cậu ra sức kêu oan nhưng không ai chịu tin cậu. Còn bây giờ khi cậu nhận là đã ăn cắp giày cũng chẳng ai tin nốt.
“Đôi chân vàng” Clyde Livingston là cầu thủ bóng chày lừng danh. Anh ta dẫn đầu Giải Vô địch Quốc gia Mỹ về khoản đồ dùng cá nhân bị chôm chỉa trong suốt ba năm qua. Anh ta cũng là cầu thủ duy nhất trong lịch sử bóng chày đã lập bốn cú đúp-ba trong một trận đấu.
Stanley treo một tấm áp phích có hình anh ta trên tường phòng ngủ của cậu. Đúng ra Stanley đã từng có tấm áp phích ấy. Cậu không biết bây giờ nó đang phiêu bạt chốn nào. Cảnh sát đã tịch thu nó làm tang vật tại tòa chứng minh cho tội lỗi của cậu.
Clyde Livingston cũng tới tòa án. Dẫu đang khốn đốn, nhưng khi hay tin Đôi chân vàng sẽ có mặt ở tòa, Stanley vô cùng sung sướng với viễn cảnh được gặp người hùng của cậu.
Clyde Livingston làm chứng rằng đôi giày thể thao đó đúng là của anh ta, và rằng anh ta đã tặng chúng để quyên tiền xây nhà tình thương cho những người vô gia cư. Anh ta bảo không thể hình dung nổi loại người xấu xa nào mà lại đi chôm chỉa đồ của bọn trẻ con không nhà cửa.
Đó là nỗi đau đớn nhất đối với Stanley. Thần tượng của cậu nghĩ cậu là một tên trộm chết-tiệt- xấu-xa-bẩn-thỉu.
Stanley rón rén trở mình trên chiếc giường xếp vì sợ nó sụp xuống dưới sức nặng của cậu. Người cậu vừa khít với giường. Nhưng vừa úp bụng xuống thì mùi hôi xông lên khó chịu đến nỗi cậu phải lật mình nằm ngửa trở lại và cố thiếp đi. Cái giường bốc mùi sữa thiu chua loét.
Mặc dù là ban đêm nhưng không khí vẫn nóng bức. Nách đang ngáy pho pho cách Stanley hai chiếc giường xếp.
Hồi còn học ở trường, có một thằng du côn tên là Derrick Dunne thường hay bắt nạt và hành hạ Stanley. Các giáo viên chưa bao giờ đón nhận những lời than phiền của Stanley một cách nghiêm túc bởi vì Derrick nhỏ con hơn Stanley nhiều. Vài giáo viên thậm chí còn buồn cười vì một thằng nhóc bé tẹo như Derrick lại có thể ăn hiếp được một đứa to xác như Stanley.
Vào cái ngày Stanley bị bắt, Derrick lấy cuốn tập chép bài của Stanley và sau một hồi chơi trò tới-mà-lấy-này, cuối cùng đã quẳng tọt nó vào cầu tiêu trong nhà vệ sinh nam. Đến lúc Stanley móc được cuốn tập lên thì cậu bị trễ xe buýt của trường và phải cuốc bộ về nhà.
Chính trong lúc cậu đang đi bộ về nhà, tay cầm cuốn tập ướt nhẹp và ngán ngẩm nghĩ tới viễn cảnh phải chép lại những trang bị nhòe, thì đôi giày thể thao đó rớt từ trên trời xuống.
Cậu đã khai với quan tòa: “Cháu đang đi bộ về nhà thì đôi giày thể thao đó rớt từ trên trời xuống. Một chiếc đập trúng đầu cháu.”
Chiếc giày làm cậu đau điếng. Dĩ nhiên.
Những chiếc giày không hẳn là rớt từ trên trời xuống. Cậu vừa mới bước ra khỏi gầm cầu vượt bắc ngang xa lộ thì bị một chiếc giày rơi trúng đầu.
Stanley coi chuyện này là điềm gì đó. Cha cậu đang tìm cách tái chế giày thể thao cũ, thì đột nhiên một đôi giày thể thao chẳng biết từ đâu ra đáp trúng ngay đầu cậu hệt như món quà của Thượng Đe.
Đương nhiên cậu chẳng tài nào biết được chúng thuộc về Clyde Livingston. Thật ra, đôi giày đó chẳng có gì đáng nói ngoài việc bốc mùi nồng nặc. Bất cứ ai đã từng mang chúng hẳn người đó có đôi chân bốc mùi kinh khủng.
Không hiểu sao Stanley không cưỡng được ý nghĩ rằng đôi giày này có gì đó khác thường, rằng có lẽ chúng sẽ cung cấp chìa khóa cho sáng chế của cha cậu. Có quá nhiều sự trùng hợp nên không thể coi chuyện này là ngẫu nhiên. Stanley cảm thấy cậu đang cầm trong tay đôi giày định mệnh.
Cậu bỏ chạy. Giờ nghĩ lại, cậu vẫn không hiểu tại sao mình lại chạy như thế. Có lẽ cậu vội vã mang đôi giày về cho cha; hoặc có thể cậu cố chạy thoát khỏi một ngày khổ sở và bẽ mặt ở trường.
Một chiếc xe tuần tra đỗ xịch bên cạnh cậu. Viên cảnh sát hỏi cớ sao cậu chạy. Rồi ông ta giằng lấy đôi giày và gọi vào máy bộ đàm. Ngay sau đó Stanley bị bắt.
Hóa ra đôi giày thể thao đó bị đánh cắp từ tủ kính trưng bày trong khu nhà tạm dành cho những người nghèo. Tối hôm đó những người giàu sẽ tới nhà tạm cư và sẽ trả hàng trăm đô la để xơi thứ thức ăn mà người nghèo dùng miễn phí hàng ngày. Clyde
Livingston, người từng sống trong những khu nhà tạm cư lúc thiếu thời, sẽ tới nói chuyện và tặng chữ ký. Đôi giày của anh sẽ được đem đấu giá, và người ta hy vọng chúng sẽ bán được với giá trên năm ngàn đô la. Toàn bộ số tiền đó dành để giúp đỡ những người vô gia cư.
Do phụ thuộc vào lịch thi đấu bóng chày của Clyde Livingston nên phiên tòa xử Stanley bị hoãn lại vài tháng. Cha mẹ cậu không đủ tiền thuê luật sư.
- Con không cần luật sư - mẹ cậu trấn an - Cứ nói sự thật thôi.
Stanley đã nói sự thật, nhưng hình như nói dối một chút lại tốt hơn. Lẽ ra cậu nên khai là cậu nhặt được đôi giày nằm trên đường. Không ai chịu tin là chúng rơi từ trên trời xuống.
Cậu nhận ra không phải do định mệnh, mà là tại cụ-cố-tổ-ăn-trộm-lợn-chết-tiệt-xấu-xa-bẩn-thỉu của cậu!
Quan tòa phán tội lỗi của Stanley là hèn hạ.
- Đôi giày trị giá trên năm ngàn đô. Số tiền ấy có thể cung cấp thức ăn và nơi trú ngụ cho những người vô gia cư. Thế mà bị cáo đã đánh cắp của họ tất cả những thứ đó, chỉ để có một món quà kỷ niệm.
Quan tòa thông báo còn một chỗ trống ở Trại Hồ Xanh, và ông ta gợi ý rằng kỷ luật của trại có lẽ sẽ cải thiện nhân cách của Stanley. Hoặc là đến đó hoặc là vào khám. Cha mẹ Stanley hỏi liệu họ có được chút thời gian để tìm hiểu thêm về Trại Hồ Xanh hay không, nhưng quan tòa khuyên họ mau mau quyết định. “Ở Trại Hồ Xanh chỗ trống không kéo dài lâu.”