Nguyên tác: La Maison De Matriona
Số lần đọc/download: 1774 / 29
Cập nhật: 2016-01-29 21:59:00 +0700
Chương 3
S
áng sớm mấy chị đàn bà đem về từ chỗ giao lộ tất cả những gì còn lại của Matriona, bọc trong một tấm bố bẩn thỉu, và chở trên một chiếc xe trượt tuyết nhỏ. Người ta vất tấm bố đi để tắm cho bà lần cuối. Những gì còn lại đó là một đống bầy nhầy: mất chân, mất một nửa thân, và cả cánh tay trái. Một người đàn bà trong bọn nói:
"Chúa đã để lại cho bà bàn tay mặt. Bà sẽ có thể cầu nguyện ở trên ấy".
Và đây, đám gỗ sung mà Matriona đã yêu thương đến độ một đêm, giật mình thức dậy giữa mùi khói sặc sụa, bà không lo chạy đi cứu căn nhà mà chỉ lo ném đám gỗ sung xuống đất (cho chúng khỏi hư trong đám khói), đang được mang ra khỏi căn nhà gỗ. Mặt ván được lau chùi sạch sẽ. Tấm gương mờ của bà được che lại với một cái khăn dệt tay của thời xa xưa. Những tấm bích chương vô ích trên tường được gỡ xuống. Bàn của tôi được đẩy ra sát mấy cái cửa sổ, và dưới các pho tượng Thánh Mẫu, người ta đặt trên mấy cái ghế đỡ cỗ quan tài đóng rất thô sơ.
Trong hòm có Matriona. Thân thể không toàn vẹn của bà được phủ một tấm khăn trải giường sạch và đầu bà được quấn một chiếc khăn quàng trắng; gương mặt bà vẫn nguyên vẹn, bình thản, có vẻ còn sống hơn là đã chết.
Dân làng đến nhìn bà một lúc rồi đi. Đàn bà thì mang luôn cả con cái đến cho chúng nhìn thấy người chết. Mỗi khi có ai bắt đầu khóc thì tất cả mấy bà, luôn cả những bà chỉ đến vì tò mò, đều thi nhau sướt mướt từ cửa ra vào cho đến dọc theo bốn vách tường như để phụ họa. Đàn ông thì đứng thẳng, im lặng và đầu trần.
Các bà họ hàng mới là những người hát giọng chánh. Trong tiếng khóc than đó, tôi ghi nhận có một trật tự đã được nghiền ngẫm một cách lạnh lùng và đặt để ra từ muôn thuở. Những bà có họ xa thì chỉ đến đứng một chốc cạnh quan tài và kể lể nho nhỏ. Mỗi bà sáng tác một âm điệu riêng biệt, trong đó họ diễn tả tất cả ý nghĩ và tình cảm của mình. Những bà nào tự cho mình có họ hàng gần hơn thì bắt đầu khóc ngay từ ngưỡng cửa, và đến gần quan tài thì họ cúi xuống để cho tiếng khóc than chạm tận mặt kẻ quá cố.
Có dịp này tôi mới biết được là sự than khóc của người chết không phải là những khóc lóc tầm thường, mà là một đường lối chính trị. Ba bà em của Matriona đến với vẻ hấp tấp, vội vã, họ chiếm ngôi nhà gỗ, con dê và cái lò, khóa cái rương bằng một ổ khóa, mở lớp vải lót của cái áo choàng ra để lấy số tiền hai trăm rúp làm đám táng, giải thích với mọi người họ là những người bà con gần duy nhất của Matriona. Và họ cũng khóc trên quan tài của bà.
"Ối, chị ơi là chị ơi! Trời ơi! Người mẹ nhỏ bé của tôi! Tụi em chỉ có mình chị thôi! Chị có thể sống yên thân mà! Và tụi em lúc nào cũng cưng chiều chị mà! Cái "căn phòng" của chị nó giết chị, chị ơi! "Căn phòng" yêu quỷ đó nó kết liễu đời chị rồi! Tại sao chị lại đi tháo nó ra làm gì? Ôi! Tại sao chị không nghe chúng em?".
Như vậy rõ ràng những lời than khóc của mấy bà em là một lời buộc tội gia đình bên chồng bà: đáng lẽ không nên bắt Matriona phá "căn phòng" (và như vậy có nghĩa là mấy người có thể có "căn phòng", nhưng ngôi nhà này thì đừng hòng).
Gia đình bên chồng: chị em dâu của Matriona, chị và em gái của Efime và Faddéi, rồi thêm đủ loại cháu chít đều đến khóc lóc:
"Trời ơi! Cô ơi là cô ơi! Sao cô không giữ lấy thân? Rồi bây giờ thế nào họ cũng oán trách chúng cháu cho mà xem! Ối trời ơi! Dì yêu dấu ơi! Hu hu! Tại dì mà! Chớ "căn phòng" nó có làm gì đâu! Tại sao dì lại đi tới nơi thần chết đang rình rập dì làm chi? Có ai bắt dì đi đâu! Dì xem dì chết như thế nào nè! Tại sao dì không chịu suy nghĩ? Tại sao dì không nghe chúng cháu chớ?".
(Trong những lời than khóc đó ta thấy có câu trả lời: Chúng tôi không can dự gì trong cái chết của bà ấy cả; còn vụ ngôi nhà gỗ sẽ tính sau!).
Nhưng bà Matriona thứ nhì, với gương mặt to lớn méo mó kỳ cục, một Matriona thay thế mà trước kia Faddéi đã lấy chỉ vì cái tên của bà ta, không theo nổi cái chính trị đó, bà thét to lên, một cách rất mộc mạc, tiếng nấc nghẹn ngào trên hòm gỗ:
"Nhưng mà em là em gái của chị mà! Không lẽ em lại giận chị sao? Ôi chao ôi! Ôi chao ôi! Mình nói chuyện với nhau không biết bao nhiêu lần rồi! Em tha lỗi cho chị nhé. Chị khổ lắm! Ôi chao ôi! Em về với mẹ em rồi, chắc thế nào em cũng về tìm chị mà! Ôi chao ôi! Ôi chao ô… ôi!"
Trong cái "ôi chao ô… ôi" đó, bà có vẻ như để vào hơi thở cuối cùng của bà ta vậy; rồi bà đập ngực vào quan tài liên hồi. Đến khi sự khóc lóc của bà đã vượt quá mức nghi thức thì tất cả mấy bà kia đều đồng thanh, như muốn nhìn nhận là như vậy đủ thành công lắm rồi:
"Thôi! Thôi!".
Matriona bỏ đi, nhưng sau đó trở lại khóc lóc dữ dội hơn nữa. Thế rồi một bà lão lụm cụm từ một góc phòng bước tới, đặt tay lên vai Matriona và nói với giọng gay gắt:
"Trên đời có hai điều bí mật: Ta sanh ra thế nào, không nhớ, ta sẽ chết thế nào, chưa biết được".
Matriona liền nín ngay, và tất cả đều nín, và im lặng hoàn toàn.
Nhưng rồi chính bà lão lụm khụm đó, già hơn những bà già hiện có mặt tại đây rất nhiều, và hình như không có họ hàng gì với Matriona, một lúc sau lại òa lên khóc:
"Ôi, đau khổ quá Matriona ơi! Ôi! Vassiliévna của tôi ơi! Tôi chán phải đưa xác mọi người như vầy lắm rồi!".
Rồi đến lượt người con nuôi Kira rấm rứt khóc, lần này không nghi thức mấy, vì những tiếng nức nở của chị ta giản dị hơn, như thường thấy ở thời đại chúng ta. Chính vì chị mà người ta đã tháo "căn phòng" ra và chở đi. Những lọn tóc quăn của chị rối bời thảm não. Mắt của chị đỏ hoe như rướm máu. Chị không buồn để ý đến cái khăn quàng của chị đã tuột ra và rơi xuống đất lạnh. Chị mặc áo choàng mà cũng chưa xỏ tay. Chị ngơ ngác chạy từ nhà này đến nhà nọ, từ chiếc quan tài của bà mẹ nuôi đến chiếc quan tài của người anh, và mọi người đều lo cho tinh thần thần kinh của chị vì chồng chị sắp phải ra tòa.
Với những sự việc đã xảy ra, anh ta sẽ bị buộc tới hai tội: thứ nhất là anh chở "căn phòng" đi, thứ nhì anh là tài công xe lửa, đáng lẽ anh phải biết rõ luật lệ khi băng qua giao lộ không có người gác, và phải chạy đến ga trước để báo cho người ta biết là có cái máy kéo sắp băng qua. Trong đêm ấy, trong chuyến xe tốc hành chạy đường Oural, hàng ngàn sinh mạng đang yên giấc trên những giường nhỏ tầng trên và tầng dưới, trong ánh mắt lung linh của ngọn đèn chong, hàng ngàn sinh mạng có thể đã ra đi vĩnh viễn. Vì lòng tham của một nhóm người muốn chiếm một mảnh đất nhỏ nhoi, hay vì không chịu để cho chiếc máy kéo đi thêm một cuốc thứ hai.
Vì "căn phòng" trở thành xui xẻo từ lúc Faddéi đang tâm xuống tay phá hủy.
Còn đối với người sống sót, thì anh tài xế đã thoát khỏi pháp luật loài người. Về phần Nha Hỏa xa thì họ phải chịu một phần trách nhiệm, lý do là nơi giao lộ có xe cộ qua lại thường xuyên như vậy mà lại không có người gác, và hai cái đầu máy lôi nhau chạy thụt lùi mà không đèn đóm gì hết. Chính vì vậy mà thoạt tiên người ta đã cố đổ lỗi cho sự say rượu và giờ đây thì tìm cách dìm câu chuyện cho êm.
Con đường sắt bị hư hai nặng đến nỗi trong suốt ba ngày liền, trong khi các cỗ quan tài được trưng bày trong nhà, xe lửa không di chuyển qua đó được mà phải dùng một con đường rẽ. Trong suốt những ngày thứ Sáu, thứ Bảy và Chủ nhật, từ lúc cuộc điều tra bắt đầu cho đến khi chôn cất, người ta ngày đêm sửa chữa con đường sắt nơi xảy ra tai nạn. Bọn thợ bị lạnh cóng, và để sưởi ấm và soi sáng ban đêm, họ đốt những đống lửa lớn với ván và gỗ lóng cho không của chiếc xe trượt thứ nhì còn vung vãi nơi giao lộ.
Còn chiếc xe trượt thứ nhất, vẫn chở đầy gỗ, nguyên vẹn, thì nằm cách đó không xa, phía bên kia con đường sắt.
Và chính những điều ấy, một chiếc thì như trêu ghẹo, chờ đợi với sợi dây cáp sẵn sàng để kéo đi, và chiếc kia còn có thể cứu khỏi ngọn lửa của bọn thợ sửa đường, đã làm cho lão râu đen Faddéi ray rứt cả ngày thứ Sáu và thứ Bảy. Con gái lão đã bị điên, con rể lão đang bị tòa án hăm dọa, trong nhà lão còn nằm trơ trơ xác đứa con trai đã do lỗi của lão mà chết, cũng cùng ở con đường đó còn xác một người lão đã từng yêu và lão đã giết. Faddéi chỉ đứng bên cạnh mấy cái quan tài trong chốc lát, tay vuốt hàm râu. Vầng trán cao của lão sa sầm với những ý nghĩ khổ sở, nhưng điều lão đang nghĩ tới là làm cách nào lôi những lóng gỗ của "căn phòng" ra khỏi ngọn lửa và khỏi những âm mưu của mấy người em gái của Matriona.
Khi kiểm điểm lại những người dân sống ở Talnovo, tôi nhận thấy Faddéi không phải là kẻ duy nhất thuộc hạng ông ta trong làng.
Và ngôn ngữ của họ có cách diễn tả lạ lùng khi gọi của cải của người khác là của chính mình. Và để mất nó đi là một điều nhục nhã và ngu si đối với mọi người.
Faddéi chạy từ tỉnh đến ga, từ cơ quan này đến cơ quan nọ, không một chút thì giờ để ngồi nghỉ, và với cái lưng không đứng thẳng nổi của lão, lúc nào lão cũng phải tựa vào cây gậy, để van xin mọi người thương hại tuổi tác của lão mà cho phép lão mang "căn phòng" về.
Rồi cũng có người cho lão đặc ân đó. Thế là lão huy động con trai, con rể và cháu của lão còn sống sót, và đi tìm ngựa ở công xã để chở về nhà lão tất cả những gì còn lại của "căn phòng" bằng cách đi một vòng qua ba làng để sang phía bên kia con đường sắt bị hư hại. Lão đã hoàn tất công việc đó trong đêm thứ Bảy rạng ngày Chủ nhật.
Ngày Chủ nhật là ngày đưa đám. Hai cỗ quan tài được đưa đến gặp nhau ở giữa làng. Họ hàng bàn tính xem phải để cái nào đi trước. Cuối cùng người ta đặt hai dì cháu nằm song song trên một chiếc xe trượt, và trên lớp băng của tháng Hai ẩm ướt dưới bầu trời u ám, người ta đưa hai kẻ xấu số đến nghĩa trang nhà thờ cách đó hai làng. Trời nhiều gió, mây đen vần vũ, vị linh mục cùng người hộ tế chờ sẵn ở nhà thờ chớ không chịu đi Talnovo.
Ra đến cổng làng, người đưa đi chậm lại và cùng hát những bản thánh ca. Sau đó họ để cho xe quan tài đi cách xa dần.
Trước hôm Chủ nhật, mấy người đàn bà còn chộn rộn trong căn nhà gỗ của chúng tôi: bà cụ già nhất lâm nhâm hát những bản thánh ca bên cạnh quan tài, mấy bà em của Matriona bận rộn bên cái lò tỏa ra một hơi nóng kinh khủng vì chứa đầy than hồng, bao than mà Matriona đã mang về từ một cái ao xa xôi. Họ làm những chiếc bánh pa-tê không thể nuốt nổi với một thứ bột hạng bét.
Chiều Chủ nhật, khi đã hạ huyệt xong, mọi người về tụ họp để ăn lễ tống táng. Bàn được kê thành một hàng dài nằm chật hết chỗ đặt quan tài lúc sáng. Thoạt tiên mọi người đều đứng chung quanh chiếc bàn tập thể và một ông cụ, chồng của người chị dâu, đọc kinh "Lạy Cha". Sau đó mỗi người được phát một lớp mỏng nước mật vừa đủ lót đáy tô. Chúng tôi dùng muỗng ăn mật không, để cầu cho linh hồn Matriona được an nghỉ. Sau đó chúng tôi ăn và uống rượu Vodka, câu chuyện bắt đầu nổ như bắp rang. Trước khi dùng đến mứt trái nạc, mọi người đều đứng dậy và hát bài "Kỷ niệm muôn đời" (người ta giải thích cho tôi là trước khi ăn mứt phải hát như vậy). Rồi mọi người lại tiếp tục uống rượu. Họ nói chuyện mỗi lúc một ồn ào, nhưng không còn ai nhắc đến Matriona. Ông chồng bà chị dâu bắt đầu khoác lác:
"Quý vị là Chánh giáo, quý vị có để ý là ngày nay mình hát thánh lễ hơi chậm hay không? Chính Cha Mikhail đã lưu ý tôi đó. Ông ấy biết là tôi thuộc lễ chế mà. Nếu không thì chỉ một kinh "Lạy Cha" rồi một kinh "Kính mừng", vừa đủ tiền thưởng, là xong".
Cuối cùng tiệc cũng tàn. Mọi người lại đồng loạt đứng lên hát bài "Bà thật xứng đáng", sau đó lặp lại ba lần "Kỷ niệm muôn đời", "Kỷ niệm muôn đời", "Kỷ niệm muôn đời"! Nhưng giọng nói của ai cũng đã khàn khàn, không nhịp điệu, mặt nào mặt nấy đều có vẻ say, và không ai còn cảm thấy một chút hứng thú nào trong cái kỷ niệm muôn đời đó nữa cả.
Sau đó đa số khách khứa đều ra về, chỉ còn lại những người bà con gần nhất, họ móc thuốc lá ra và bắt đầu hút, một vài câu chuyện pha trò được kể lại và tiếp theo là những tiếng cười vang. Câu chuyện bỗng được lái sang sự mất tích của ông chồng Matriona ngoài trận địa, và ông cụ chồng bà chị dâu cũng tay đấm vào ngực mình để chứng minh với tôi cùng lão thợ giày, chồng của một trong mấy bà em của Matriona:
"Thằng Efime nó chết rồi! Nếu không tại sao nó không về? Tôi ấy à? Dù tôi biết về tới quê người ta sẽ treo cổ tôi, tôi vẫn cứ về!".
Lão thợ giày gật gù ra vẻ đồng tình. Lão ta là một đào binh; còn quê hương của lão, chưa bao giờ lão rời một bước. Trong suốt cuộc chiến lão vẫn luôn luôn trốn trong hầm rượu của mẹ lão.
Ngồi trên mặt lò là một bà cụ với vẻ mặt nghiêm khắc và lầm lì, bà ta già hơn cả những bà già nhất và vì vậy mà người ta muốn để bà đi nằm trước. Bà im lặng nhìn xuống với vẻ khinh khỉnh đám người trẻ của tuổi năm mươi, sáu mươi đó đang chộn rộn một cách khó thương.
Chỉ có người con nuôi đau khổ đã từng được dưỡng dục giữa bốn bức tường này là lẻn ra phía sau tấm vách để ngồi khóc.
Faddéi không đến dự tiệc ma chay của Matriona: phải chăng vì lão còn phải bận lo cho đám tiệc ma chay của con trai lão? Nhưng những ngày sau đó, lão đã đến hai lần, dáng vẻ đầy thù nghịch, để thương lượng với mấy bà em của Matriona và lão thợ giày đào binh.
Sự tranh chấp liên hệ đến căn nhà gỗ: ai sẽ được thừa hưởng, em gái hay người con nuôi? Thoạt tiên họ đã đưa ra giải pháp nhờ tòa án can thiệp, nhưng sau đó họ lại tìm cách hòa giải, vì sau khi suy nghĩ kỹ, mọi người đều nhìn nhận là tòa án sẽ không cho ai thừa hưởng cả mà sẽ sung vào tài sản của Hội đồng nông thôn Xô Viết. Cuộc thương lượng đã đi đến một thỏa thuận. Một trong mấy bà em sẽ bắt con dê, căn nhà gỗ sẽ về tay lão thợ giày và vợ lão; về phần Faddéi, xét vì "lão đã từng tự tay đẽo gọt từng mảnh ván", lão sẽ làm chủ "căn phòng" mà lão đã chở về nhà, ngoài ra người ta cũng nhường luôn cho lão cái nhà để xe, nơi Matriona nuôi con dê cái, và cả dãy hàng rào ngăn cái sân với khu vườn.
Và một lần nữa, cố nén những tật xấu và sự đau đớn của mình, lão già tham lam lại tỏ ra phấn khởi và trẻ lại. Lão lại huy động đám con cháu còn sống sót để phá hủy căn nhà để xe và cái hàng rào, rồi lão đích thân mang gỗ ra chất lên xe trượt, và chỉ đến lúc gần xong, lão mới gọi thằng Anton của lớp 8D đến phụ một tay; lần này thì thằng bé không có gì là lười biếng cả.
Người ta cấm cửa ngôi nhà của Matriona cho đến mùa xuân, và tôi phải đến ngụ gần đó tại nhà một bà chị dâu của Matriona. Sau đó bà chị dâu này mới kể lại trong những dịp khác nhau nhiều sự kiện liên hệ đến Matriona làm cho tôi thấy một khía cạnh khác của người quá cố.
"Efime đâu có thương nó. Thằng ấy hay nói: "Tôi thích ăn mặc theo người văn minh, còn bà ấy thì lôi thôi, sao cũng được, giống như ở nhà quê vậy. Thế là, trong khi nó không cần gì hết, nó là vậy đó mà, chồng nó đem tiền dư đi uống rượu. Rồi một hôm vợ chồng nó lên tỉnh kiếm tiền, thằng chồng nó mới gặp được một cô bạn gái dễ thương và không muốn về với nó nữa".
Tất cả những gì bà ta kể đều có ý chê bai: nó ăn mặc bê bối, không thèm chăm sóc nhà cửa, không biết tiết kiệm, thậm chí đến heo mà cũng không biết nuôi, không ai hiểu nổi tại sao nó không thích nuôi heo, và cái con khùng ấy chỉ lo đi giúp không cho người khác. (Bà ta nhắc đến Matriona đúng vào dịp tìm không ra người để nhờ kéo cày xới đất trong khu vườn).
Ngay cả lòng tốt và tính bình dị của Matriona, bà ta cũng gợi lại, dù bà ta nhìn nhận những tính ấy, một cách đầy thương hại pha lẫn khinh khi.
Cho tới giờ phút này - trước những lời chê trách của bà chị dâu - tôi mới thấy hiện lên trước mắt hình ảnh một Matriona mà trước kia tôi không thể hiểu được, dù sống bên cạnh bà.
Quả thật trong làng, nhà ai cũng có nuôi một con heo hết! Nhưng bà ta thì không. Còn gì giản dị hơn là nuôi một con heo con tham ăn, suốt ngày chỉ biết có ăn! Trộn đồ ăn cho nó mỗi ngày ba bận, sống vì nó, rồi sau đó giết nó đi để lấy mỡ?
Nhưng bà đã không làm như vậy …
Bà xem thường việc dọn dẹp nhà cửa… Bà không hơi sức đâu đi sắm sửa quần áo để phải gìn giữ và coi chúng quý giá hơn chính cuộc đời của bà.
Bà không chạy theo đồ trang sức. Quần áo chỉ để làm đẹp những kẻ xấu xa và ác đức.
Không được ai hiểu, bị chồng ruồng bỏ, đã phải đem chôn sáu người con, nhưng bà vẫn giữ được tính hợp quần, xa lạ đối với các em gái và chị em dâu, lố bịch, làm việc không công cho người khác một cách ngu muội. Bà không để dành được gì cho ngày mình nằm xuống. Một con dê cái dơ dáy, một con mèo què quặt, một vài món đồ đạc bằng gỗ sung…
Và tất cả chúng tôi là những kẻ sống bên cạnh bà đã không hiểu được rằng bà là kẻ giàu lòng nhân ái mà cách ngôn thường nhắc đến, và nếu không có những người như vậy thì không có làng mạc nào, thành phố nào, hay cả thế gian này nữa có thể tồn tại được.