Nguyên tác: Living Dead In Dallas
Số lần đọc/download: 0 / 10
Cập nhật: 2023-06-18 15:54:37 +0700
Chương 6
“A
nh ơi, em hơi sợ không gian hẹp,” tôi nói ngay lập tức. “Em không biết nhiều tòa nhà ở Dallas lại có tầng hầm đến thế, nhưng phải nói là, em không nghĩ mình muốn ngắm chúng đâu.” Tôi bám vào cánh tay Hugo và cố mỉm cười thật duyên dáng nhưng cũng rất tự ti.
Tim của Hugo đập ầm ầm như trống vỗ bởi vì anh ta sợ són cả cứt - tôi thề là như vậy. Khi đối mặt với những bậc cầu thang này, sao đó mà sự bình thản của anh ta lại biến đi đâu hết. Hugo bị làm sao vậy nhỉ? Dù đang sợ hãi, anh ta vẫn đùa đùa vỗ về vai tôi và cười cười hối lỗi với những người bạn đồng hành của chúng tôi. “Có lẽ chúng tôi nên đi,” anh ta thỏ thẻ.
“Nhưng tôi thực sự nghĩ rằng hai bạn nên thấy chúng tôi có gì dưới tầng hầm đấy. Chúng tôi thực sự có cả hầm tránh bom ở dưới này,” Sarah nói, gần như cười phá lên vì thích thú. “Và được trang bị đầy đủ hết, phải không Steve?”
“Có đủ mọi thứ ở dưới dó,” Steve đồng tình. Ông ta vẫn có vẻ thoải mái, vui vẻ, và mang dáng dấp chỉ huy, nhưng tôi không còn coi những biểu hiện đó là tính cách ôn hòa vô hại nữa. Ông ta tiến đến, và vì ông ta ở ngay sau chúng tôi, nên tôi cũng phải tiến đến trước bằng không sẽ để ông ta chạm vào người, điều mà tôi biết mình không hề muốn xảy ra.
“Coi nào,” Sarah hăm hở nói. “Tôi dám cá rằng Gabe đang ở dưới này, và Steve có thể gặp anh ta xem Gabe muốn gì trong khi tất cả chúng ta tham quan hết phần cơ sở vật chất còn lại.” Bà ta lướt xuống những bậc cầu thang thật nhanh cũng như khi đi trong tiền sảnh, đôi mông tròn trịa ngoáy ngoáy theo cái kiểu mà tôi sẽ thấy là dễ thương nếu tôi không đứng trên bờ vực hoảng loạn như thế này.
Polly vẫy tay ra dấu cho chúng tôi bước xuống tiếp trước cô ta, thế là chúng tôi bước xuống. Tôi ngoan ngoãn làm theo vì Hugo vẫn có vẻ hết sức tự tin rằng chẳng mối nguy nào sẽ xảy đến cho anh ta. Tôi bắt được suy nghĩ này rất rõ ràng. Sự sợ hãi trước đây của anh ta đã hoàn toàn được dẹp bỏ. Cứ như thể anh ta đã trao thân cho một chương trình nào đó, và sự mâu thuẫn trong suy nghĩ đã biến mất. Một cách vô ích, tôi ước sao cho tâm trí anh ta dễ đọc hơn. Tôi chuyển sự tập trung sang Steve Newlin, nhưng tất cả những gì tôi thu nhận được từ ông ta là một bức tường tự mãn dày cui.
Chúng tôi đi xuống xa hơn theo những bậc cầu thang, mặc dù bước chân của tôi đã chậm lại, rồi lại chậm hơn nữa. Tôi có thể phân định được Hugo hoàn toàn tin tưởng rằng anh ta vẫn có thể quay ngược trở lại những bậc cầu thang này: dù sao thì, anh ta là một người văn minh. Mấy người này đều là người văn minh cả.
Thực sự Hugo chẳng thể tưởng tượng được rằng có những chuyện không thể khắc phục được có thể xảy ra với mình, bởi anh ta là một người Mỹ da trắng trung lưu với tấm bằng đại học, cũng như tất cả mọi người đang bước những bậc thang này cùng chúng tôi.
Tôi không có được sự chắc chắn như thế. Tôi không hoàn toàn là một người văn minh học thức.
Đó là một ý tưởng mới mẻ và thú vị, nhưng cũng như rất nhiều ý nghĩ của tôi chiều hôm đó, ý tưởng ấy phải được dẹp qua một bên, khi nào rảnh rỗi tôi mới nghiền ngẫm đến. Nếu như tôi còn có được thời gian rảnh rỗi nào nữa.
Dưới chân cầu thang là một cánh cửa khác, và Sarah gõ lên đó theo nhịp. Ba nhịp nhanh, ngừng một lúc, hai nhịp nhanh nữa, trí óc tôi ghi lại. Tôi nghe thấy tiếng khóa cửa bật mở.
Đầu Đinh Tóc Đen - Gabe - mở cửa. “Ê, mọi người mang cho tôi mấy vị khách này,” hắn hăng hái nói. “Trò hay đây!” Chiếc áo chơi golf của hắn được nhét ngay ngắn vào cái quần Dockers xếp nếp, đôi giày Nike mới tinh sạch bóng, và hắn cạo râu nhẵn nhụi. Tôi sẵn sàng cá là hắn hít đất năm mươi cái mỗi sáng. Trong mỗi một cử chỉ và điệu bộ của hắn đều mang vẻ hứng khởi ngấm ngầm; Gabe đang sôi sục phấn khích thì phải.
Tôi cố gắng “đọc” phân vùng tâm trí đó, nhưng lại quá kích động chẳng thể tập trung được.
“Mừng là anh đã đến, Steve,” Gabe nói. “Trong lúc Sarah dẫn những vị khách của ta đây tham quan hầm trú ẩn, có lẽ anh xem qua phòng khách của chúng ta một chút đi.” Hắn hất đầu về phía cánh cửa bên tay phải hành lang bê tông hẹp. Còn một cánh cửa khác cuối hành lang, và một cánh cửa nữa bên tay trái.
Tôi ghét nơi này. Tôi đã viện cớ sợ không gian kín để thoát khỏi nơi này. Nhưng giờ đây khi bị bắt ép phải đi xuống cầu thang, tôi đang nhận ra rằng đấy quả là điểm yếu của tôi thật. Một thứ mùi ẩm mốc, ánh điện chói lòa, và cảm giác bị giam hãm… Tôi ghét tất. Tôi chẳng muốn ở lại đây. Hai lòng bàn tay tôi vã hết cả mồ hôi. Chân tôi dán chặt xuống nền đất. “Hugo à,” tôi thì thầm. “Em không muốn làm chuyện này.” Sự tuyệt vọng trong giọng nói của tôi chỉ có chút xíu vờ vịt. Tôi không muốn cảm thấy, nhưng nó ở ngay đấy.
“Cô ấy thực sự cần phải trở lại trên lầu,” Hugo nói vẻ áy náy. “Nếu mọi người không phiền, chúng tôi sẽ trở lại trên tầng đợi mọi người ở đó.”
Tôi quay lại, mong là những lời nói đó có kết quả, nhưng tôi thấy mình đang ngước nhìn lên gương mặt của Steve. Hắn không còn mỉm cười nữa. “Tôi nghĩ hai người cần đợi trong một căn phòng khác ở đằng kia, cho đến khi tôi xong việc trước đã. Và rồi chúng ta sẽ nói chuyện. Giọng hắn hàm ý rằng không bàn cãi gì nữa, và Sarah mở cánh cửa để lộ ra một căn phòng bé nhỏ trống trơn với hai chiếc ghế và hai tấm chiếu.
“Không,” tôi thét lên, “tôi không thể làm thế được,” và tôi xô Steve thật mạnh. Tôi rất khỏe, rất rất khỏe là đằng khác, vì đã uống máu ma cà rồng, và dù to lớn là vậy, hắn vẫn loạng choạng ngã. Tôi leo hết tốc lực lên những bậc cầu thang nhưng một bàn tay đã nắm lấy mắt cá chân tôi, khiến tôi ngã xuống thật đau. Mép những bậc thang va khắp người tôi, ngang qua má trái, qua ngực, vào xương hông, và cả đầu gối trái nữa. Đau đến nỗi tôi suýt nôn khan.
“Đây này, cô nàng bé bỏng,” Gabe bảo, kéo tôi đứng dậy.
“Anh làm cái… làm sao anh có thể làm đau cô ấy như vậy được?” Hugo lắp bắp, thực lòng tức giận. “Chúng tôi đến đây nghĩ là để gia nhập hội của các người, và đây là cách các người đối xử với chúng tôi đó sao?”
“Thôi cái trò diễn kịch ấy đi,” Gabe khuyên nhủ, và hắn vặn tay tôi ngoặt ra sau lưng trước khi tôi kịp định thần sau cú ngã. Tôi thở hổn hển vì cơn đau mới này, và hắn đẩy tôi vào trong căn phòng, phút cuối cùng, hắn tóm lấy mái tóc giả giật khỏi đầu tôi. Hugo bước vào phía sau tôi, mặc dù tôi đã hổn hển, “Không!” và rồi họ đóng của ngay sau lưng anh ta.
Và rồi chúng tôi nghe thấy tiếng cửa khóa lại.
Và thế là hết.
“Sookie,” Hugo nói, “có một vết xước dọc theo gò má cô kìa.”
“Đúng thật,” tôi lẩm nhẩm yếu ớt.
“Cô đau lắm à?”
“Thế anh nghĩ sao?”
Anh ta hiểu lời tôi theo nghĩa đen. “Tôi nghĩ cô bị thâm tím vài chỗ và có lẽ cả bị choáng nữa. Cô không bị gãy cái xương nào, phải không?”
“Có một hai cái gì đấy thôi,” tôi đáp.
“Và rõ ràng là cô chưa đau đến nỗi bỏ được cái kiểu mỉa mai đó đi,” Hugo nói. Nếu có thể nổi đóa lên với tôi, chắc chắn anh ta sẽ thấy đỡ hơn, tôi biết là thế, và tôi thắc mắc vì sao. Nhưng tôi cũng không phải thắc mắc nhiều lắm đâu. Tôi khá chắc là mình biết.
Tôi nằm trên một trong hai tấm chiếu, cánh tay vắt ngang mặt, cố được riêng tư và suy nghĩ một chút. Chúng tôi vẫn không thể nghe ngóng được nhiều chuyện xảy ra ở hành lang bên ngoài. Có một lần tôi nghĩ rằng mình nghe thấy tiếng cửa mở, và chúng tôi nghe thấy vài giọng thầm thì, nhưng tất cả chỉ có vậy. Những bức tường này được xây lên để chống lại cả các vụ nổ hạt nhân, thế nên tôi đoán sự yên lặng này là tất yếu.
“Anh có đồng hồ không?” tôi hỏi Hugo.
“Có. Năm rưỡi rồi.”
Còn hai tiếng dài nữa ma cà rồng mới tỉnh giấc.
Tôi cứ để cho sự im lặng kéo dài. Khi tôi biết Hugo kín tiếng chắc hẳn đang chìm trong dòng suy nghĩ của mình, tôi mở tâm trí ra lắng nghe bằng sự tập trung cao độ.
Đáng lẽ mọi chuyện không xảy ra như thế này, không phải như thế này, chắc chắn mọi thứ đều ổn, đến khi chúng ta cần dùng nhà vệ sinh thì sao, mình không thể cứ lôi ra trước mắt ả được, có thể Isabel sẽ không bao giờ biết, đáng lý ra sau chuyện cô gái tối qua thì mình phải biết chứ, làm sao mình thoát khỏi chuyện này mà vẫn tiếp tục hành nghề luật được chứ, nếu mình bắt đầu tách xa ra sau ngày mai thì có lẽ mình có thể dần thoát khỏi nó…
Tôi áp cánh tay vào mắt mạnh đến nỗi đau nhức, để ngăn mình khỏi nhảy dựng lên tóm lấy một cái ghế mà phang điên cuồng vào Hugo Ayres. Ngay lúc này, hắn không hoàn toàn hiểu được khả năng ngoại cảm của tôi, cả những người trong Hội cũng không, chứ nếu không thì chúng chẳng đời nào để tôi lại đây cùng với hắn cả.
Hoặc cũng có thể Hugo là con tốt thí đối với chúng như là đối với tôi vậy. Và hắn cũng chính là quân cờ thí của ma cà rồng; tôi nôn nóng muốn nói với Isabel rằng chàng phi công trẻ của cô ta là một kẻ phản bội.
Điều này khiến tôi khát máu. Nhưng khi nhận ra những gì Isabel sẽ làm với Hugo, tôi hiểu rằng mình sẽ chẳng thỏa chí gì với việc đó nếu được chứng kiến. Thực tế là, chuyện đó sẽ làm tôi sợ hãi và phát bệnh.
Nhưng một phần trong tôi nghĩ rằng hắn ngàn lần xứng đáng nhận lấy hậu quả đó.
Tên luật sư mâu thuẫn này phải trung thành với ai đây nhỉ?
Chỉ có một cách để biết.
Tôi đau đớn ngồi dậy, áp lưng vào tường. Tôi có thể hồi phục rất nhanh - máu của ma cà rồng mà, lại nữa - nhưng tôi vẫn là con người, và tôi vẫn cảm thấy đau kinh khủng. Tôi biết mặt mình đang thâm tím tàn tệ, và tôi dám tin rằng xương gò má của mình đã bị gãy. Bên trái gương mặt tôi đang sưng vù lên đau đớn. Nhưng chân tôi vẫn không gãy, và tôi vẫn có thể chạy, nếu có cơ hội; đó mới là phần chính.
Một khi đã ngồi vững và thoải mái hết mức, tôi cất tiếng, “Hugo này, anh làm kẻ phản bội bao lâu rồi?”
Mặt hắn đỏ bừng hết cả lên. “Phản bội ai? Isabel hay loài người?”
“Tùy anh chọn.”
“Tôi đã phản bội loài người khi về phe ma cà rồng trước tòa án. Giá mà khi đó tôi biết được chúng là gì… Tôi nhắm mắt nhận vụ ấy, bởi tôi nghĩ đó sẽ là một thách đố luật pháp thú vị. Tôi luôn là một luật sư vì quyền công dân mà, và tôi bị thuyết phục rằng ma cà rồng cũng có quyền công dân như bất kể người nào khác.”
Quý Ngài Điếm Đàng đây mà. “Hẳn rồi,” tôi đáp.
“Tước bỏ khỏi tay họ quyền được sống ở bất kỳ nơi nào họ muốn, đó đâu phải là tinh thần người Mỹ, tôi nghĩ vậy,” Hugo tiếp tục. Giọng anh ta có vẻ cay đắng và chán đời.
Anh ta chưa chứng kiến thế nào là cay đắng đâu.
“Nhưng cô biết sao không, Sookie? Ma cà rồng không phải công dân Mỹ. Họ cũng chẳng phải người da màu hay châu Á hay da đỏ gì cả. Họ cũng không phải người yêu chuộng hòa bình hay thuộc liên hữu Giám lý. Họ đơn giản chỉ là ma cà rồng thôi. Đó là màu da, là tôn giáo và cũng là quốc tịch của họ.”
Phải rồi, đó là những gì xảy ra khi một bộ phận thiểu số chui xuống đất sống hàng ngàn năm. Giời ạ.
“Lúc đó, tôi nghĩ nếu Stan Davis muốn sống ở phố Green Valley, hay ở rừng Hundred Acre, đó là quyền của anh ta khi là người Mỹ. Nên tôi biện hộ cho anh ta chống lại cộng đồng dân cư ở đó, và tôi đã thắng vụ kiện. Tôi cực kỳ tự hào về bản thân mình. Và rồi tôi quen với Isabel, tôi đưa cô ấy lên giường một tối, cảm thấy mình thật sự táo bạo, thật sự vĩ đại, một người có suy nghĩ tiên phong.”
Tôi nhìn chăm chăm vào hắn, không nháy mắt hay nói bất cứ điều gì cả.
“Như cô biết đấy, tình dục thì tuyệt rồi, tuyệt nhất đấy. Tôi làm nô lệ cho cô ta, cỡ nào vẫn cứ thèm muốn. Việc hành nghề của tôi bị ảnh hưởng. Tôi bắt đầu chỉ gặp khách hàng vào buổi chiều, bởi chẳng thể nào dậy nổi vào buổi sáng được. Tôi không thể ra tòa vào buổi sáng. Tôi chẳng thể rời khỏi Isabel khi màn đêm buông xuống.”
Nghe như chuyện của một gã nghiện rượu vậy, theo tôi thấy là thế. Hugo đã trở nên nghiện chuyện chăn gối với ma cà rồng. Tôi nhận thấy khái niệm này vừa hấp dẫn vừa đáng kinh tởm.
“Tôi bắt đầu làm những công việc vụn vặt mà cô ấy tìm cho mình. Tháng vừa qua, tôi cứ đến đó làm những công việc nội trợ, chỉ để có thể quanh quẩn bên Isabel. Khi cô ấy muốn tôi mang một bát nước vào phòng ăn, tôi cảm thấy phấn khích. Không phải vì được làm những công việc tôi đòi đó - tôi là luật sư kia mà, có Chúa chứng giám! Mà Hội đã gọi cho tôi, hỏi xem tôi có thể cho họ chút thông tin nội bộ nào về những việc ma cà rồng ở Dallas định làm không. Vào lúc họ gọi, tôi đang bực mình với Isabel. Chúng tôi đã cãi nhau về cách cô ấy đối xử với tôi. Nên tôi sẵn lòng nghe theo lời họ. Tôi nghe thấy tên cô khi Stan và Isabel nói chuyện với nhau, nên tôi chuyển thông tin đó cho Hội. Họ có một gã làm cho hãng hàng không Anubis Air. Hắn tìm ra được khi nào thì chuyến bay của Bill đến, và họ cố gắng bắt cô ở sân bay để có thể tìm ra xem những ma cà rồng muốn gì từ cô. Ma cà rồng sẽ làm những gì để giành lại cô. Khi mang bát nước vào phòng, tôi nghe thấy Stan hay Bill gọi tên cô, nên tôi biết rằng Hội đã lỡ mất cô ở sân bay. Tôi cảm thấy mình cần phải có gì đó để nói chuyện với họ, như để đền bù cho việc tôi đã làm hỏng con bọ mà tôi đã cài trong phòng họp.”
“Anh đã phản bội Isabel,” tôi nói. “Và anh cũng phản bội tôi nữa dù tôi cũng là con người, như anh vậy.”
“Phải,” hắn đáp. Hắn không nhìn thẳng vào mắt tôi.
“Vậy còn Bethany Rogers thì sao?”
“Cô hầu bàn ấy à?” hắn nói lảng.
“Cô hầu bàn vừa chết ấy,” tôi đáp.
“Họ mang cô ta đi,” hắn đáp, đầu lắc qua lại, như thể hắn đang thực sự nói, Không, lẽ ra họ không thể làm những gì họ đã làm. “Họ mang cô ta đi, và tôi không biết họ định làm gì. Tôi biết cô ta là người duy nhất trông thấy Farrell và Godfrey, và tôi đã nói với họ điều đó. Khi tỉnh dậy sáng nay và nghe tin người ta phát hiện ra cô ấy đã chết, tôi không thể nào tin vào tai mình nữa.”
“Bọn chúng bắt cóc cô ấy sau khi anh nói cho chúng biết cô ấy ở chỗ của Stan. Sau khi anh nói cho chúng biết cô ấy là nhân chứng có thực duy nhất.”
“Vâng, hẳn chúng đã làm vậy rồi.”
“Tối qua anh đã gọi cho chúng.”
“Phải, tôi có một chiếc di động. Tôi đi ra vườn sau gọi. Thiệt tình là tôi đã liều lắm rồi, bởi cô biết thừa thính giác của ma cà rồng tốt đến thế nào mà, nhưng tôi vẫn gọi.” Hắn ta đang cố thuyết phục bản thân rằng đây là một hành động hết sức gan dạ và dũng cảm. Gọi một cuộc điện thoại từ chính hang ổ đầu não của ma cà rồng để ra tay với Bethany tội nghiệp, đáng thương, người cuối cùng đã bị bắn ở trong một con hẻm.
“Cô ấy bị bắn sau khi bị anh phản bội.”
“Phải, tôi… tôi có nghe trên tin tức.”
“Đoán xem ai đã làm điều đó đi, Hugo.”
“Tôi… thật sự không biết.”
“Chắc chắn anh biết, Hugo. Cô ấy là một nhân chứng mục kích. Và cô ấy cũng là một bài học, một bài học dành cho ma cà rồng: ‘Đây là những gì chúng tao sẽ làm đối với những ai làm việc cho các ngươi hay kiếm sống từ các ngươi, nếu chúng dám chống đối Hội.’ Anh nghĩ họ sẽ làm gì với anh đây, Hugo?”
“Tôi đang giúp họ mà,” hắn có vẻ bất ngờ.
“Có ai khác biết điều này không?”
“Không ai cả.”
“Vậy ai sẽ chết nào? Gã luật sư đã giúp Stan Davis sống ở nơi hắn ta muốn sống.”
Hugo chẳng thốt nên lời.
“Nếu anh cực kỳ quan trọng với họ tới vậy, sao anh lại ở trong căn phòng này cùng tôi?”
“Bởi vì cho tới tận bây giờ, cô vẫn chưa biết được những gì tôi đã làm,” hắn chỉ ra. “Cho tới tận bây giờ, cô vẫn có thể sẽ lộ ra những thông tin khác để chúng tôi sử dụng chống lại ma cà rồng.”
“Thế bây giờ, khi tôi đã biết anh là ai, họ sẽ để anh tự do. Phải không? Sao anh không thử mà xem? Tôi thà một mình còn hơn.”
Ngay lúc đó một lỗ hổng nhỏ ở cửa hé mở. Tôi thậm chí không biết rằng có một cái lỗ như thế ở đấy, vì tôi đã quá chú tâm đến chuyện khác khi còn ở ngoài sảnh. Một khuôn mặt xuất hiện ở miếng lỗ tròn vành vạnh khoảng hai mươi lăm phân.
Đó là một khuôn mặt quen thuộc. Gabe cười toét. “Hai người có khỏe không?”
“Sookie cần được gặp bác sĩ,” Hugo nói. “Cô ấy không than phiền gì cả, nhưng tôi nghĩ xương gò má của cô ấy vỡ rồi.” Giọng hắn có vẻ quở trách. “Và cô ấy cũng biết tôi theo phe Hội rồi, nên anh cũng nên cho tôi ra thôi.”
Tôi không biết Hugo đang nghĩ mình làm gì, nhưng tôi sẽ cố ra vẻ thảm thương hết mức. Chuyện đó cũng dễ thôi.
“Tự tao có ý này,” Gabe nói. “Ở dưới này tao chán quá đi mất, và tao cũng không nghĩ Steve hay Sarah - hay kể cả Polly già cỗi - sẽ xuống đây sớm. Bọn tao cũng có một tên tù nhân khác ở đây này, Hugo, có lẽ hắn mừng lắm khi được gặp mày đấy. Farrell ấy? Mày đã gặp hắn ở căn cứ của lũ Ác Quỷ đó rồi mà, phải không?”
“Phải,” Hugo đáp. Hắn trông cực kỳ khó chịu khi cuộc nói chuyện đổi chiều.
“Mày biết Farrell sẽ khoái mày thế nào mà? Và hắn cũng là dân đồng tính nữa, một thằng hút máu dị hợm. Chúng ta đang ở sâu dưới lòng đất đến nỗi hắn tỉnh giấc sớm. Nên tao nghĩ tao sẽ tống mày vào đó với hắn, trong khi tao vui vẻ một chút với con ả phản bội này.” Và Gabe cười với tôi theo kiểu làm dạ dày tôi như muốn ói hết cả ra.
Gương mặt của Hugo chết sững. Chết sững như hóa đá. Rất nhiều thứ lướt qua trí óc tôi, toàn những điều thích đáng cả. Tôi cố bỏ qua cái có lẽ là niềm vui ấy. Tôi cần phải tiết kiệm năng lượng.
Một trong những câu châm ngôn ưa thích nhất của bà tôi nảy ra trong đầu tôi khi tôi nhìn vào khuôn mặt bảnh bao của Gabe. “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,” tôi lẩm nhẩm, và bắt đầu quá trình đau đớn gượng đứng lên để tự vệ. Chân tôi có thể không gãy, nhưng đầu gối trái chắc chắn không ổn chút nào. Nó đã tím bầm và sưng phồng lên.
Tôi băn khoăn không hiểu nếu Hugo và mình hợp sức thì có đánh bại được Gabe khi hắn mở cửa không, nhưng ngay khi cánh cửa bật mở, tôi thấy hắn đã tự trang bị cho mình một khẩu súng, và một vật màu đen xấu xí mà tôi xác định là một khẩu súng sốc điện.
“Farrell!” tôi gọi to. Nếu đã dậy, anh ấy sẽ nghe thấy; anh ấy là ma cà rồng mà.
Gabe nhảy dựng lên, nhìn tôi đầy ngờ vực.
“Vâng?” một giọng nói trầm trầm vang lên từ căn phòng cuối hành lang. Tôi nghe thấy tiếng xích va đập leng keng khi tay ma cà rồng chuyển động. Tất nhiên rồi, chúng đã trói anh ta bằng sợi xích bạc. Bằng không thì anh ta có thể dễ dàng giật tung bản lề cánh cửa kia ra.
“Stan cử chúng tôi đến đây!” tôi hét lên, khi đó Gabe thúc cùi chỏ vào tôi bằng bên tay cầm súng của hắn. Vì tôi đang đứng dựa vào tường, đầu tôi dội vào tường. Tôi bật ra một tiếng kêu kinh khủng, chưa hẳn là hét nhưng rên rỉ thì lại quá to.
“Câm miệng ngay, con chó kia!” Gabe gào lên. Hắn chĩa súng về phía Hugo và giơ sẵn khẩu súng sốc điện cách tôi vài phân. “Bây giờ, thằng luật sư, mày đi ra ngoài hành lang kia kìa. Tránh xa tao ra, rõ rồi chứ?”
Hugo, mồ hôi đầm đìa trên mặt, men qua Gabe bước ra hành lang. Tôi cố gắng ghi nhận những gì đang xảy ra, nhưng nhận thấy trong khoảng cách chật hẹp mà Gabe đang xoay xở, hắn đã phải đi sát Hugo khi đến mở cửa phòng giam Farrell. Ngay khi tôi nghĩ hắn đã đứng đủ xa về phía hành lang để tôi hành động, thì hắn bảo Hugo đóng cửa phòng giam tôi lại, và dù tôi đã lắc đầu điên cuồng về phía Hugo, anh ta vẫn làm vậy.
Tôi không biết Hugo thậm chí có nhìn thấy tôi không. Anh ta đang hoàn toàn không để ý đến bên ngoài nữa. Mọi thứ bên trong tâm trí anh ta đang sụp đổ, những suy nghĩ rối như tơ vò. Tôi đã giúp anh ta hết mức bằng cách nói với Farrell rằng chúng tôi đều đến từ chỗ Stan, trong hoàn cảnh của Hugo thì điều này có thể giúp được anh ta rất nhiều, nhưng Hugo lại quá sợ hãi hay vỡ mộng hay xấu hổ quá nên chẳng thể trợ giúp gì được. Nếu nghĩ tới sự phản bội tận cùng của anh ta, tôi đã rất ngạc nhiên sao mình lại bận tâm cơ chứ. Nếu lúc trước không nắm tay anh ta và nhìn thấy hình ảnh đứa con gái của anh ta thì tôi đã chẳng nghĩ ngợi nhiều làm gì rồi.
“Chẳng có thứ gì ở đây dành cho anh đâu, Hugo à,” tôi nói. Khuôn mặt anh ta xuất hiện nơi ô cửa sổ vẫn còn để mở, gương mặt trắng bệch vì lo lắng đau khổ đủ kiểu, nhưng rồi anh ta cũng biến mất. Tôi nghe tiếng cửa mở, tiếng những sợi xích lanh canh, rồi tôi nghe thấy tiếng cửa đóng lại.
Gabe đã bắt Hugo vào phòng giam của Farrell. Tôi hít thật sâu, hết lần này đến lần khác, cho đến khi cảm thấy mình có lẽ mắc chứng thở gấp. Tôi cầm một chiếc ghế lên, một chiếc bằng nhựa với bốn chân bằng kim loại, kiểu ghế mà bạn đã ngồi lên cả triệu lần trong nhà thờ, trong những buổi họp mặt và trong lớp học. Tôi cầm ghế theo đúng kiểu người dạy sư tử thường làm, với chân ghế hướng ra bên ngoài. Đó là tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra lúc này. Tôi thoáng nghĩ về Bill, nhưng ý nghĩ đó quá đau đớn. Tôi nghĩ về anh trai mình, Jason, và ước gì anh ấy ở đây cùng tôi. Đã rất lâu rồi tôi mới ước những điều như thế về Jason.
Cánh cửa mở ra. Gabe đã cười mỉm sẵn khi bước vào. Một nụ cười bần tiện, để cho mọi sự ghê tởm rò rỉ ra khỏi tâm hồn của hắn qua khóe miệng và đôi mắt. Đây thực sự là ý tưởng về vui vẻ của hắn đây mà.
“Cô em nghĩ chiếc ghế bé xíu đó sẽ giúp cô em an toàn ư?” hắn hỏi.
Tôi chẳng có tâm trạng nào để nói chuyện, và tôi cũng không muốn phải lắng nghe những lời xà độc trong tâm trí hắn. Tôi khép tâm trí mình lại, đóng kín bản thân, cố gắng tận sức.
Hắn tra súng vào vỏ, nhưng súng sốc điện thì hắn vẫn giữ trên tay. Bây giờ, khi tự tin hết cỡ như thế, hắn nhét luôn súng sốc điện vào một bao da nhỏ trên thắt lưng, về phía bên trái. Hắn nắm lấy chân ghế và bắt đầu giằng qua giằng lại.
Tôi lao tới tấn công.
Tôi suýt đẩy được hắn ra khỏi cửa, sự phản đòn của tôi mạnh mẽ đến không ngờ, nhưng vào đúng phút cuối hắn xoay xở để vặn chân ghế nằm ngang ra, làm chúng không thể thoát ra khỏi lối cửa chật hẹp. Hắn đứng dựa lưng vào tường ở phía bên kia hành lang, thở dốc, mặt đỏ bừng.
“Đồ chó cái,” hắn rít, và lao về phía tôi lần nữa, lần này hắn cố kéo chiếc ghế tuột hẳn khỏi tay tôi. Nhưng như đã nói từ trước, tôi đã từng uống máu ma cà rồng, và tôi chẳng để hắn cướp được cái ghế. Tôi cũng chẳng để hắn chiếm đoạt được mình.
Khi tôi không để ý, hắn rút khẩu súng sốc điện ra, nhanh như rắn, hắn với qua chiếc ghế và chạm khẩu súng vào vai tôi.
Tôi không đổ nhào xuống như hắn mong đợi, nhưng tôi khuỵu chân xuống, vẫn giữ ghế trong tay. Khi tôi đang cố nghĩ xem chuyện gì vừa xảy ra với mình, hắn giật chiếc ghế khỏi tay tôi, rồi đạp tôi ngã mạnh ra sau.
Tôi khó có thể nhúc nhích nổi, nhưng vẫn có thể hét và khép chặt hai chân lại với nhau, và tôi đã làm vậy.
“Câm ngay!” hắn quát, và vì hắn đang mò mẫm tôi, tôi có thể chắc chắn rằng hắn rất muốn làm tôi bất tỉnh, hắn sẽ tận hưởng niềm vui sướng hãm hiếp tôi khi tôi bất tỉnh; thực ra, đó là một tình huống lý tưởng cho hắn.
“Mày không thích ghệ mày tỉnh táo,” tôi thở dốc, “phải không nào?” Hắn thọc tay giữa hai thân người rồi xé toạc áo tôi ra.
Tôi nghe thấy tiếng Hugo quát tháo, cứ như thể làm thế sẽ có ích gì lắm vậy. Tôi cắn vào vai Gabe.
Hắn gọi tôi là con chó cái một lần nữa, nhàm quá rồi. Hắn đã cởi quần mình ra, và giờ hắn đang cố kéo váy tôi lên. Tôi thoáng mừng là mình đã mua một cái váy dài.
“Mày sợ họ sẽ than phiền, nếu họ tỉnh dậy chứ gì?” tôi hét lên. “Thả tao ra, leo xuống khỏi người tao! Leo xuống, leo xuống, leo xuống!” Cuối cùng, tôi cũng nới lỏng được cánh tay mình. Trong thoáng chốc, hai tay cũng hồi phục lại chút ít sau cơn sốc điện để mà hành động. Tôi khum hai bàn tay lại. Trong khi đang la hét vào mặt hắn, tôi nện hai nắm tay vào hai tai hắn.
Hắn gầm lên, và lùi lại, hai tay ôm đầu. Hắn điên tiết đến nỗi cơn điên thoát ra khỏi chính hắn và trùm khắp lên người tôi; cảm giác như đang tắm mình trong cơn giận dữ điên cuồng vậy. Lúc đó tôi biết rằng hắn sẽ giết tôi nếu có thể, bất chấp những hậu quả sau này mà hắn phải đối mặt. Tôi cố lăn về một bên, nhưng chân hắn đã ghìm chặt tôi. Tôi quan sát khi bàn tay phải của hắn nắm lại thành nắm đấm, với tôi trông có vẻ như to bằng một hòn đá tảng vậy. Và với cảm giác thế là hết, tôi nhìn trân trân vào vòng cung của nắm đấm khi nó hạ xuống mặt mình, biết rằng cú đấm này sẽ hạ gục tôi và mọi thứ sẽ kết thúc…
Nhưng chuyện đã không xảy ra.
Gabe bị nâng bổng lên không trung, quần vẫn phanh ra và của quý lủng lẳng bên ngoài, nắm đấm của hắn thoi vào trong không khí, giày của hắn đá vào chân tôi.
Một người đàn ông thấp người đang giữ Gabe ở trên không; không phải là một người đàn ông, tôi nhận ra khi liếc lại lần nữa, mà là một thanh niên. Một thanh niên cổ xưa.
Cậu ta tóc vàng và cởi trần, những hình xăm màu xanh phủ kín hai tay và khắp ngực. Gabe la hét và vùng vẫy, nhưng cậu thanh niên vẫn đứng yên, gương mặt vô hồn, cho đến khi Gabe kiệt sức. Khi Gabe đã im lặng, cậu thanh niên chuyển tư thế từ đang nắm giữ bằng nắm tay thành ôm chặt ngang hông Gabe, để hắn treo lắc lẻo phía trước.
Cậu thanh niên thờ ơ nhìn xuống tôi. Chiếc áo của tôi đã bị mở toang, áo lót thì bị xé toạc ngay giữa.
“Cô có đau lắm không?” cậu ta hỏi, gần như miễn cưỡng.
Tôi có một ân nhân, nhưng không phải là kẻ hăng hái cho lắm.
Tôi đứng dậy, việc đó nghe tưởng dễ nhưng lại là một kỳ công với tôi lúc này. Tôi mất một lúc mới đứng dậy được. Tôi vẫn còn run lẩy bẩy sau những chấn động tinh thần. Khi tôi đã đứng thẳng người lên được, tầm mắt tôi ngang với cậu ta. Nếu tính theo tuổi con người, cậu ta chắc chỉ khoảng mười sáu khi bị biến đổi thành ma cà rồng. Chẳng thể nhận ra được bao nhiêu năm đã trôi qua. Cậu ta chắc hẳn phải già hơn Stan, già hơn cả Isabel nữa. Tiếng Anh của cậu ta rõ ràng, nhưng âm điệu lại rất nặng. Tôi chẳng biết đây là loại giọng gì. Có thể ngôn ngữ ban đầu của cậu ta đã hoàn toàn không được dùng đến nữa. Cảm giác đó chắc hẳn cô đơn lắm.
“Tôi sẽ khá hơn thôi,” tôi đáp. “Cảm ơn.” Tôi cố gắng cài cúc áo lại - vẫn còn sót lại vài chiếc cúc - nhưng tay tôi run lật bật. Dù sao thì cậu ta cũng chẳng hứng thú muốn nhìn thấy da thịt tôi. Chẳng có ích gì với cậu ta. Đôi mắt cậu vẫn thờ ơ hết sức.
“Godfrey,” Gabe nói. Giọng phều phào. “Godfrey, con ả đang cố bỏ trốn.”
Godfrey lắc hắn, và Gabe câm miệng.
Vậy ra, Godfrey chính là tay ma cà rồng tôi đã thấy qua mắt của Bethany - đôi mắt duy nhất có thể nhớ lại đã nhìn thấy cậu ta ở quán Bat’s Wing tối đó. Đôi mắt đã không còn có thể nhìn thấy bất cứ thứ gì nữa.
“Anh định làm gì?” tôi hỏi cậu ta, cố giữ giọng trầm và bình thản.
Đôi mắt màu xanh nhợt nhạt của Godfrey thoáng lóe sáng. Cậu ta cũng không biết.
Cậu ta có nhiều hình xăm trên mình, và chúng rất kỳ lạ, những ký hiệu mà ý nghĩa đã bị đánh mất hàng thế kỷ trước, tôi dám cá là vậy. Có thể một vài học giả sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì chỉ để được nhìn những hình xăm đó. Tôi may mắn nhỉ, được nhìn thấy chúng mà chẳng tốn gì cả.
“Làm ơn hãy thả tôi ra,” tôi nói với toàn bộ lòng tự trọng mà mình có thể góp nhặt lại được. “Họ sẽ giết tôi mất.”
“Nhưng cô kết giao với ma cà rồng,” cậu ta nói.
Ánh mắt của tôi đảo từ bên này sang bên kia khi cố nghĩ cho thông chuyện này.
“À,” tôi ngập ngừng nói. “Anh là ma cà rồng, phải không?”
“Ngày mai tôi sẽ công khai chuộc lại những lỗi lầm của mình,” Godfrey nói. “Ngày mai tôi sẽ đón gặp ánh bình minh. Lần đầu tiên sau một nghìn năm, tôi sẽ nhìn thấy ánh mặt trời. Rồi tôi sẽ thấy mặt Chúa trời.”
Được thôi. “Anh đã chọn,” tôi nói.
“Phải.”
“Nhưng tôi thì không. Tôi không muốn chết.” Tôi thí một cái liếc nhìn về phía khuôn mặt đã xanh ngắt của Gabe. Trong lúc bối rối, Godfrey đã bóp nghẹt Gabe chặt hơn mức cần thiết. Tôi tự hỏi liệu mình có nên nói gì không.
“Cô quả thật có kết giao với ma cà rồng,” Godfrey buộc tội, và tôi quay lại nhìn mặt cậu ta. Tôi biết tốt nhất mình đừng để sự tập trung đi lang thang thêm một lần nữa.
“Tôi đang yêu,” tôi đáp.
“Một ma cà rồng.”
“Phải. Bill Compton.”
“Tất cả mọi ma cà rồng đều bị nguyền rủa, và đều đáng phải gặp mặt trời. Chúng tôi là một vết nhơ, một điều ô nhục trên đời này.”
“Còn những người này” - tôi hướng tay lên trên để ám chỉ Hội - “những người này thì tốt đẹp hơn sao, hả Godfrey?”
Tay ma cà rồng trông bứt rứt không vui. Cậu ta đang khát nữa, tôi để ý thấy; hai gò má gần như lõm sâu vào trong, và trắng như giấy. Mái tóc màu vàng gần như trôi bồng bềnh quanh đầu cậu ta, thật sống động, còn đôi mắt cậu ta thì trông như hai hòn bi xanh dương tương phản với vẻ xanh xao tái nhợt. “Họ, ít nhất, là con người, là một phần kế hoạch của Chúa trời,” cậu ta đáp khẽ. “Ma cà rồng là sự ghê tởm.”
“Vậy mà anh vẫn tốt với tôi hơn gã người này.” Hắn đã chết, tôi nhận ra vậy khi liếc xuống gương mặt hắn. Tôi cố không nao núng, và tập trung lại vào Godfrey, người quan trọng đối với tương lai của tôi hơn rất nhiều.
“Nhưng chúng tôi hút máu người vô tội.” Đôi mắt xanh nhợt nhạt của Godfrey hướng đăm đăm vào tôi.
“Ai là người vô tội?” tôi hỏi kháy lại, hy vọng giọng mình không nghe quá giống như kiểu Pontius Pilate hỏi, Sự thật là gì? trong khi anh ta biết rõ quá rồi.
“À ừ, trẻ con,” Godfrey đáp.
“Ôi, anh… hút máu trẻ con ư?” tôi đưa tay lên che miệng.
“Tôi đã giết trẻ con.”
Tôi không thể nghĩ ra điều gì để nói trong suốt một lúc lâu. Godfrey đứng đó, nhìn tôi buồn bã, hai tay giữ lấy xác chết của Gabe mà quên bẵng đi mất.
“Thứ gì đã ngăn anh lại?” tôi hỏi.
“Chẳng thứ gì có thể ngăn tôi lại. Chẳng thứ gì cả trừ cái chết.”
“Tôi rất lấy làm tiếc,” tôi nói thừa thãi. Cậu ta đang đau khổ, và tôi thực sự tiếc vì điều đó. Nhưng nếu cậu ta là con người, tôi sẽ nói ngay rằng cậu ta xứng đáng bị ngồi lên ghế điện mà chẳng cần cân nhắc đến lần thứ hai.
“Từ giờ đến tối còn bao lâu?” tôi hỏi, không biết nói gì khác nữa.
Godfrey không có đồng hồ, tất nhiên rồi. Tôi cho là cậu ta đã thức dậy chỉ vì đang ở dưới lòng đất và cậu ta cũng rất già rồi. Godfrey đáp, “Một giờ nữa.”
“Xin hãy thả tôi ra. Nếu anh giúp tôi, tôi có thể thoát khỏi đây.”
“Nhưng cô sẽ kể lại với những ma cà rồng khác. Chúng sẽ tấn công. Tôi sẽ bị ngăn không cho gặp mặt trời.”
“Sao phải đợi đến sáng mai chứ?” tôi hỏi, đột nhiên thấy cáu tiết. “Đi ra ngoài đi. Ngay bây giờ.”
Cậu ta sửng sốt. Đánh rơi cả Gabe, xác hắn rơi bịch xuống sàn. Godfrey thậm chí không thèm liếc nhìn cái xác đến một lần. “Nghi lễ được dự tính vào lúc bình minh, với rất nhiều tín đồ đến chứng kiến,” cậu giải thích. “Farrell cũng sẽ bị đưa lên để gặp mặt trời.”
“Nhưng tôi thì đóng vai trò gì trong trò này cơ chứ?”
Cậu ta nhún vai. “Sarah muốn xem bên ma cà rồng có đánh đổi một trong số họ lấy cô không. Steve thì có kế hoạch khác. Ý tưởng của ông ta là buộc cô cùng với Farrell, để khi hắn bị thiêu đốt, cô cũng bị theo.”
Tôi choáng váng. Không phải bởi vì Steve Newlin đã có ý tưởng này, mà là vì hắn nghĩ ý tưởng đó sẽ hấp dẫn cả giáo đoàn của mình, bởi đám người này ra đời là vì những chuyện như thế. Newlin làm mạnh tay hơn cả tôi tưởng tượng. “Và anh nghĩ rất nhiều người sẽ thích thú nhìn cảnh đấy, một phụ nữ trẻ bị hành hình mà không hề qua xét xử? Rằng họ sẽ nghĩ đó là một buổi nghi lễ tôn giáo hợp pháp? Anh nghĩ rằng những người sắp xếp cái chết khủng khiếp này cho tôi hoàn toàn ngoan đạo sao?”
Lần đầu tiên, vẻ mặt cậu thoáng chút nghi hoặc. “Kể cả với con người, điều đó quả thật cũng hơi quá,” cậu ta đồng ý. “Nhưng Steve nghĩ đó sẽ là một lời tuyên bố hùng hồn.”
“Phải rồi, hùng hồn là cái chắc rồi. Lời tuyên bố là, ‘Tôi bị điên.’ Tôi biết rằng thế giới này có rất nhiều người và ma cà rồng xấu xa, nhưng tôi không tin rằng số đông mọi người ở đất nước này, hoặc đơn giản chỉ là ở Texas đây thôi, sẽ được khai sáng trước cảnh tượng một người phụ nữ la thét bị thiêu đốt đến chết đâu.”
Godfrey có vẻ bối rối. Tôi có thể thấy mình đang nói lên những suy nghĩ đã đến với cậu ta từ trước, những suy nghĩ mà chính cậu phải phủ nhận rằng mình đang nung nấu. “Họ đã gọi bên truyền thông rồi,” cậu ta nói. Như sự phản kháng của cô dâu nguyền rủa việc phải cưới một chú rể mà cô ấy đột nhiên nghi ngờ vậy. Nhưng thiệp mời đã được gửi đi rồi, mẹ ạ.
“Chắc chắn họ đã làm vậy. Nhưng đó cũng sẽ là ngày tàn của hội, tôi sẽ nói thẳng cho anh biết. Tôi lặp lại, nếu anh thực sự muốn tuyên bố bằng cách đó, một câu ‘tôi xin lỗi’ mạnh mẽ nhất, thì hãy bước ra ngoài nhà thờ này ngay bây giờ và đứng trên bãi cỏ. Chúa trời sẽ chứng giám, tôi hứa với anh điều đó. Ngài mới là người anh phải quan tâm.”
Cậu ta đấu tranh với ý tưởng đó; khá khen cho cậu ta.
“Họ đã chuẩn bị một chiếc áo choàng trắng đặc biệt cho tôi mặc,” cậu ta nói. (Nhưng con cũng đã mua váy áo và đặt chỗ ở nhà thờ rồi mà mẹ.)
“To tát quá nhỉ. Nếu chúng ta đang tranh luận về chuyện áo quần, thì anh chẳng thực sự muốn làm vậy. Tôi cá là anh rụt vòi rồi chứ gì.”
Tôi chắc là đã lạc mất mục tiêu của mình rồi. Khi những lời đó thốt ra, tôi hối tiếc ngay lập tức.
“Cô sẽ thấy thôi,” cậu ta quả quyết.
“Tôi không muốn thấy, nếu tôi bị trói vào Farrell lúc đó. Tôi chẳng phải quỷ dữ, và tôi cũng không muốn chết.”
“Lần cuối cùng cô ở nhà thờ là khi nào?” cậu ta quẳng ra một lời thách thức tôi.
“Khoảng một tuần trước. Và tôi còn xưng tội nữa cơ.” Chưa khi nào tôi mừng đến thế vì mình là người đi lễ thường xuyên, bởi đáng ra tôi chẳng thể nói dối chuyện này được.
“Ồ.” Godfrey trông đần thối ra.
“Thấy chưa?” Tôi cảm thấy như thể bằng cuộc tranh luận này mình đang cướp đi của cậu ta tất cả sự uy nghiêm, nhưng mặc xác nó đi, tôi không muốn chết vì bị thiêu sống. Tôi muốn Bill, muốn anh ấy tha thiết căng tràn đến mức tôi mong điều ấy có thể mở bung quan tài của anh ra. Giá như tôi có thể kể cho anh nghe chuyện gì đang diễn ra… “Thôi nào,” Godfrey nói, chìa tay ra.
Tôi không muốn cho cậu ta cơ hội nghĩ lại chuyện này, không thể để thế sau tất cả khoảng thời gian con cà con kê đó, nến tôi nắm tay cậu ta bước qua cái xác nằm sấp của Gabe để ra ngoài sảnh. Bên phía Farrell và Hugo đáng ngại là không thấy nói năng gì, và thành thật mà nói, tôi sợ phát khiếp nên chẳng thể gọi to lên để tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra giữa họ. Tôi đoán nếu thoát ra được thì đằng nào mình cũng có thể cứu cả hai.
Godfrey đánh hơi mùi máu trên người tôi, và khuôn mặt cậu ta tràn đầy khao khát. Tôi biết vẻ mặt đó. Nhưng đó là một sự thèm khát không xác thịt. Cậu ta chẳng quan tâm chút gì đến cơ thể tôi. Mối liên kết giữa máu và tình dục rất mạnh mẽ đối với mọi ma cà rồng, nên tôi cho rằng mình may mắn khi có dáng vẻ của người hoàn toàn trưởng thành. Tôi nghiêng mặt mình về phía cậu ta với vẻ biết ơn. Sau một lúc chần chừ rất lâu, cậu ta liếm vệt máu trên vết cắt nơi gò má tôi. Cậu nhắm nghiền mắt lại trong một giây, nhấm nháp hương vị, và rồi chúng tôi bắt đầu hướng về phía cầu thang.
Với sự giúp đỡ rất lớn từ Godfrey, tôi đã leo được lên hết dãy cầu thang dốc đứng. Cậu ta dùng cánh tay rảnh rỗi của mình để nhấn mật mã trên cánh cửa, và mở nó ra. “Tôi đang ở dưới này, căn phòng phía cuối,” cậu ta giải thích, bằng một giọng nói khẽ như chút khí thoảng.
Hành lang hoàn toàn vắng lặng, nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể có người bước ra từ một trong những văn phòng kia. Godfrey trông chẳng có vẻ gì là sợ hãi cả, nhưng tôi thì có, và tôi là người mà sự tự do đang như chỉ mành treo chuông. Tôi không nghe thấy bất kỳ tiếng nói nào; rõ là nhân viên đã về nhà hết để chuẩn bị cho buổi tiệc ngủ, còn những vị khách ngủ lại thì chưa đến. Một vài cánh cửa văn phòng được đóng lại, và cửa sổ trong các văn phòng là lối duy nhất để những tia nắng xuyên vào bên trong đại sảnh.
Trời đủ tối để Godfrey cảm thấy thoải mái, tôi đoán vậy, vì thậm chí cậu ta chẳng thoáng nheo mày chút nào. Có ánh đèn sáng rực lọt ra từ dưới cánh cửa văn phòng chính.
Chúng tôi rảo bước, hay ít nhất thì cũng cố gắng làm thế, nhưng chân trái của tôi không chịu hợp tác. Tôi không dám chắc Godfrey đang hướng tới cánh cửa nào, có thể là cánh cửa đôi tôi đã nhìn thấy trước đây phía sau điện thờ. Nếu có thể an toàn ra khỏi cánh cửa đó, tôi sẽ không phải đi ngang qua cánh tòa nhà bên kia. Tôi không biết khi ra ngoài mình sẽ làm gì tiếp theo. Nhưng ở bên ngoài thì chắc chắn là tốt hơn bên trong này rồi. Ngay khi chúng tôi đến được lối cửa mở ngay cạnh văn phòng áp cuối phía bên tay trái, cánh cửa mà từ đó người phụ nữ Mễ bé nhỏ đã xuất hiện, thì cửa văn phòng Steve bật mở. Chúng tôi chết lặng. Cánh tay Godfrey bao quanh tôi như thể một vòng sắt. Polly bước ra, vẫn quay mặt vào căn phòng. Chúng tôi chỉ đứng cách đó có vài mét.
“… ngọn lửa mừng,” cô ta đang nói.
“Ôi, tôi nghĩ chúng ta có đủ mà,” giọng nói ngọt ngào của Sarah vang lên. “Nếu tất cả mọi người đều hồi âm thông báo tham dự, chúng ta sẽ biết chắc chắn. Tôi không thể tin nổi sao người ta lại lười hồi âm đến thế. Như vậy thật thiếu suy nghĩ, sau khi chúng ta đã tạo điều kiện dễ dàng hết mức để họ nói cho ta biết liệu họ có đến đây hay không!”
Một cuộc tranh luận về nghi thức ứng xử à. Chúa ơi, tôi mong rằng Quý Cô Phép Tắc có ở đây để cho tôi lời khuyên trong tình huống này. Tôi là khách không mời của một nhà thờ nhỏ, và tôi bỏ về mà chưa nói lời tạm biệt. Liệu tôi có phải viết một tấm thiệp cảm ơn, hay đơn giản chỉ cần gửi hoa là đủ?
Đầu Polly chuẩn bị quay qua, và tôi hiểu rằng bất cứ lúc nào cô ta cũng có thể nhìn thấy chúng tôi. Ngay khi suy nghĩ đó hình thành trong đầu, Godfrey đẩy tôi vào một văn phòng trống trải tối tăm.
“Godfrey! Anh làm gì trên này vậy?” Giọng Polly không hề sợ hãi, nhưng cũng chẳng vui vẻ gì. Giống như là cô ta tìm thấy người làm vườn đang ở trong phòng khách, tự tiện thoải mái như ở nhà mình vậy.
“Tôi đến xem mình còn cần làm gì nữa không.”
“Không phải giờ còn quá sớm để anh thức dậy sao?”
“Tôi rất già rồi,” cậu ta đáp lịch sự. “Người già thì không cần ngủ nhiều như bọn trẻ.”
Polly cười phá lên. “Sarah ơi,” cô ả nói vẻ tươi tắn, “Godfrey dậy rồi này!”
Giọng của Sarah gần hơn khi nói. “Ôi, chào anh, Godfrey!” chị ta nói, bằng giọng điệu tươi tắn tương tự. “Anh có hồi hộp không? Tôi cá là có!”
Họ đang nói chuyện với một ma cà rồng nghìn năm tuổi như thể cậu ta chỉ là một đứa trẻ trong ngày trước hôm sinh nhật vậy.
“Áo choàng của anh đã sẵn sàng rồi đấy,” Sarah nói. “Mọi thứ đã được chuẩn bị đầy đủ!”
“Nếu tôi đổi ý thì sao?” Godfrey hỏi.
Im lặng thật dài. Tôi cố thở thật chậm và khẽ. Buổi tối càng cận kề thì tôi có thể càng tưởng tượng rõ ràng hơn cơ hội thoát ra khỏi nơi này của mình.
Nếu như tôi có thể gọi điện… tôi liếc mắt về phía bàn giấy trong văn phòng. Ở đó có một cái điện thoại. Nhưng nếu nút bấm trong các văn phòng đều sáng lên thì sao, cả các nút trên máy điện thoại nếu tôi sử dụng nó nữa? Trong lúc này, làm thế sẽ gây nhiều tiếng ồn quá.
“Anh đổi ý sao? Có thể nào chăng?” Polly hỏi. Cô ta rõ ràng cáu tiết. “Anh đến gặp chúng tôi mà, nhớ không? Anh kể cho chúng tôi nghe về cuộc sống đầy tội lỗi của mình, nỗi xấu hổ anh cảm thấy khi giết bọn trẻ và… và làm những thứ khác nữa. Tất cả những chuyện này cũng đều thay đổi hết à?”
“Không,” Godfrey đáp, giọng trầm tư hơn bao giờ hết. “Chẳng có chuyện gì trong số đó thay đổi cả. Nhưng tôi thấy không cần phải thêm cả con người vào sự hy sinh này của tôi. Thực tế thì, tôi tin rằng Farrell có quyền tự thiết lập hòa bình với Chúa. Chúng ta không nên bắt ép anh ta làm tế vật.”
“Chúng ta cần gọi Steve lại đây,” Polly thầm thì với Sarah.
Sau đó, tôi chỉ nghe thấy giọng Polly, nên tôi đoán rằng Sarah đã quay trở lại văn phòng để gọi Steve.
Ánh đèn trên điện thoại sáng lên. Phải, đó là những gì cô ta đang làm. Cô ta sẽ biết nếu tôi cố sử dụng đường dây khác. Có lẽ chỉ trong nháy mắt thôi.
Polly đang cố ngọt ngào lý lẽ với Godfrey. Bản thân Godfrey thì không nói nhiều lắm, và tôi chẳng thể biết trong đầu cậu ta đang nghĩ gì nữa. Tôi đứng đó vô dụng, lưng dựa vào tường, mong rằng sẽ không ai bước vào văn phòng này, mong rằng sẽ không có ai xuống tầng kéo còi báo động, mong rằng Godfrey không đổi ý thêm một lần nào nữa.
Giúp tôi với, tôi nhủ thầm trong đầu. Giá như tôi có thể gọi ai đó giúp theo cách đó, thông qua giác quan đặc biệt của mình!
Một ý tưởng lóe lên trong đầu tôi. Tôi bắt bản thân mình đứng yên, dù rằng chân vẫn run rẩy vì hoảng loạn, mà đầu gối và mặt tôi vẫn đau như ở sáu tầng địa ngục. Có lẽ tôi có thể gọi được cho ai đó: Barry, cậu bé trực sảnh khách sạn. Cậu ta cũng là người có khả năng ngoại cảm, như tôi. Cậu ta có thể nghe thấy tôi. Nói như thế không có nghĩa trước đây tôi đã có lần thử - này, tôi chưa từng gặp một nhà ngoại cảm nào khác, đúng không nào? Tôi cố hết sức liên kết mình với Barry, cứ cho là cậu ta đang ở chỗ làm đi. Bây giờ cũng đúng khoảng thời gian chúng tôi đến từ Shreveport, nên có lẽ cậu ta đang ở chỗ làm. Tôi hình dung ra nơi mình đang ở trên bản đồ, bản đồ mà tôi đã may mắn dò cùng với Hugo - dù rằng giờ đây tôi biết anh ta chỉ giả vờ rằng mình không biết Trung tâm Hội ở đâu - và tôi hình dung ra chúng tôi đang ở đâu đó về phía Tây Nam khách sạn Silent Shore.
Tôi đang ở trong một lãnh địa tâm tưởng hoàn toàn mới. Tôi tập trung mọi năng lượng còn lại và cố gắng gom chúng lại thành một trái bóng trong tâm trí mình. Trong một thoáng, tôi cảm thấy hết sức kỳ cục, nhưng khi tôi nghĩ đến việc thoát ra khỏi nơi này và những người ở đây, nếu không kỳ cục thì sẽ chẳng đạt được gì cả. Tôi nghĩ tới Barry. Rất khó xác định chính xác xem nên làm như thế nào, nhưng tôi vẫn tiến hành. Việc biết được tên cậu ta rất có ích, và việc biết được vị trí của cậu ta cũng thế.
Tôi quyết định bắt đầu từ từ. Barry Barry Barry Barry…
Cô muốn gì? Cậu ta đang hoảng hết cả lên. Chuyện này chưa bao giờ xảy ra với cậu ta.
Tôi cũng chưa từng làm thế này bao giờ. Tôi mong rằng giọng mình nghe chắc ăn. Tôi cần giúp đỡ. Tôi đang gặp rắc rối lớn.
Cô là ai?
Ừ nhỉ, nói tên sẽ giúp được mà. Tôi ngốc quá. Tôi là Sookie, cô gái tóc vàng đến khách sạn tối qua với một ma cà rồng tóc nâu. Dãy phòng tầng ba ấy.
Cô gái ngực bự ấy à? Ôi, tôi xin lỗi.
Ít nhất cậu ta cũng xin lỗi. Phải. Cô gái ngực bự ấy. Và bạn trai.
Thế, cô có chuyện gì?
Bây giờ, mọi âm thanh đều rõ ràng và có trật tự, nhưng vẫn chưa thành câu chữ đầy đủ. Giống như là chúng tôi đang gửi cho nhau những bức điện tín cảm xúc và hình ảnh vậy.
Tôi vắt óc nghĩ cách để giải thích tình huống khó khăn của mình. Hãy gọi ma cà rồng của tôi ngay khi anh ấy thức dậy nhé.
Rồi sau đó?
Nói với anh ấy là tôi đang gặp nguy hiểm. Nguyhiểmnguyhiểmnguyhiểm…
Được rồi, tôi hiểu rồi. Ở đâu?
Nhà thờ. Tôi cho rằng đó là cách nói vắn tắt để chỉ Trung tâm Hội. Tôi cũng chẳng nghĩ ra cách nào khác để truyền đạt điều ấy cho Barry nữa.
Anh ta biết chỗ đấy chứ?
Anh ấy biết. Cứ nói với anh ấy. Đi xuống cầu thang.
Cô là thật chứ? Tôi không biết có ai khác…
Tôi là thật. Làm ơn hãy giúp tôi.
Tôi có thể cảm nhận được một mớ cảm xúc phức tạp chạy rần rật trong tâm trí Barry. Cậu ta sợ hãi khi phải nói chuyện với ma cà rồng, cậu ta sợ rằng ông chủ của mình sẽ biết được rằng cậu ta có “vấn đề trí não kỳ quặc”, cậu ta chỉ thấy hứng thú rằng có ai đó giống với mình. Nhưng chủ yếu cậu sợ hãi về cái phần tâm hồn bấy lâu nay đã làm cậu hoang mang khiếp sợ.
Tôi biết tất cả những cảm giác đó. Không sao đâu, tôi hiểu mà, tôi nói với cậu ta. Nếu không phải sắp bị giết thì tôi sẽ không nhờ cậu đâu.
Sự sợ hãi lại ập đến cậu ta một lần nữa, nỗi sợ hãi trách nhiệm trong chuyện này. Đáng ra tôi không nên nói thêm vào làm gì.
Và rồi, bằng cách nào đó, cậu ta dựng lên một rào cản mỏng manh giữa chúng tôi, và tôi cũng không chắc là Barry định làm gì nữa.
Trong khi tôi tập trung vào Barry, mọi thứ vẫn đang diễn ra ngay bên ngoài hành lang. Khi tôi bắt đầu nghe ngóng lại, Steve đã tới nơi. Cả ông ta nữa, cũng đang cố lý lẽ và lạc quan với Godfrey.
“Bây giờ nhé, Godfrey này,” ông ta nói, “nếu anh không muốn làm nữa, anh chỉ việc nói thế. Anh đã nguyện làm chuyện này, tất cả chúng tôi đều vậy, và chúng tôi đã xúc tiến mọi việc với toàn tâm toàn ý là anh sẽ giữ lời. Rất nhiều người sẽ rất thất vọng nếu anh phá vỡ cam kết với buổi nghi lễ.”
“Ông sẽ làm gì với Farrell? Với gã người Hugo đó, và cả người phụ nữ tóc vàng nữa?”
“Farrell là ma cà rồng,” Steve nói, vẫn bằng giọng ngọt lịm. “Hugo và người phụ nữ đó là sinh vật thuộc sở hữu của ma cà rồng. Bọn chúng cũng phải ra trước ánh mặt trời thôi, buộc chung vào ma cà rồng ấy. Đó là số phận chúng chọn khi sống, và đó cũng nên là số phận chúng chịu khi chết.”
“Tôi là người có tội, và tôi biết điều đó, vậy nên khi tôi chết linh hồn tôi sẽ về với Chúa trời,” Godfrey nói. “Nhưng Farrell không biết điều đó. Nên khi anh ta chết, anh ta chẳng có chút cơ hội nào cả. Người đàn ông và người phụ nữ kia cũng vậy, họ không có chút cơ hội nào để ăn năn về lựa chọn của mình. Có công bằng không khi giết tất cả rồi đày họ xuống địa ngục?”
“Chúng ta cần vào văn phòng của tôi,” Steve quả quyết.
Và cuối cùng tôi cũng nhận ra, rằng đó là những gì Godfrey đang nhắm tới suốt từ nãy đến giờ. Một loạt tiếng chân bước lạo xạo, và tôi nghe thấy tiếng Godfrey lẩm nhẩm hết sức nhã nhặn, “Mời các vị đi trước.”
Cậu ta muốn là người đi cuối cùng để có thể khép cánh cửa lại phía sau.
Mái tóc tôi cuối cùng cũng khô, sau khi được giải phóng khỏi bộ tóc giả đã làm tóc tôi ướt sũng mồ hôi. Bộ tóc giả vắt vẻo trên vai tôi thành từng lọn riêng rẽ, bởi tôi đã lặng lẽ tháo nó ra trong suốt cuộc đối thoại vừa rồi. Đó có vẻ không giống như điều bình thường cần làm, khi lắng nghe vận mệnh của mình được sắp đặt, nhưng tôi phải giữ cho tay chân bận rộn. Giờ đây tôi cẩn thận cất vào túi mấy chiếc kẹp tăm, lùa tay vào đống rối nùi, và chuẩn bị lẻn khỏi nhà thờ.
Tôi ló mắt ra cẩn thận quan sát từ lối cửa. Phải rồi, cửa phòng Steve đang đóng. Tôi nhón chân ra khỏi văn phòng tối om, rẽ trái, và tiếp tục đi đến cánh cửa dẫn vào điện thờ. Tôi xoay nắm cửa hết sức nhẹ nhàng và từ từ mở ra. Tôi bước vào điện thờ, một nơi lờ mờ tối. Chỉ có ít ánh sáng rọi vào từ cánh cửa sổ to đùng làm bằng kính màu mới giúp tôi đi dọc theo những hàng ghế mà không bị vấp phải ghế ngồi.
Rồi tôi nghe thấy những giọng nói, dần to hơn nữa, đến từ cánh nhà phía xa kia. Ánh đèn trong điện thờ bừng sáng. Tôi cúi xuống một hàng ghế và lăn mình vào dưới gầm. Một gia đình bước vào, tất cả đều nói rất to, cô bé con đang cằn nhằn về chuyện bị lỡ mất chương trình ti vi ưa thích bởi phải tham gia vào một bữa tiệc ngủ hết thời hôi hám.
Sự cằn nhằn đó khiến cô bé bị phát một phát vào mông, nghe có vẻ như vậy, và bố cô bé nói rằng cô bé thật may mắn mới có cơ hội được chứng kiến bằng chứng đáng kinh ngạc về sức mạnh Chúa trời. Rằng cô bé sẽ được nhìn thấy sự cứu rỗi.
Kể cả trong tình cảnh này, tôi vẫn thấy bất đồng. Tôi thắc mắc không hiểu người cha có thật sự hiểu rõ lãnh đạo hội của mình đang dự định cho cả giáo đoàn chứng kiến cảnh hai ma cà rồng bị thiêu đốt đến chết, với ít nhất một trong hai số đó được buộc kèm thêm một người cũng sẽ bị thiêu cháy. Tôi tự hỏi làm sao mà sức khỏe thần kinh của cô bé kia có thể bồi bổ được sau cái màn “bằng chứng đáng kinh ngạc về sức mạnh của Chúa trời” kia nữa.
Sợ thay, họ vẫn bước tiếp để đặt túi ngủ dựa vào tường phía bên kia điện thờ, vẫn tiếp tục nói chuyện. Ít nhất thì đây là một gia đình có nói chuyện với nhau. Ngoài cô bé con cảu nhảu càu nhàu kia, gia đình đó còn có hai đứa trẻ lớn hơn, một trai một gái, và như bất kỳ cặp anh em nào khác, chúng cũng cãi nhau như chó với mèo vậy.
Một đôi giày bệt đỏ nhỏ nhắn lướt qua cuối băng ghế của tôi rồi biến mất qua cánh cửa vào cánh nhà của Steve. Tôi băn khoăn không hiểu liệu nhóm người trong văn phòng ông ta có còn tranh luận không.
Đôi chân đó quay lại chỉ sau vài giây, lần này chạy rất nhanh. Tôi cũng thắc mắc chuyện này nữa.
Tôi chờ thêm năm phút nữa, nhưng chẳng có gì khác xảy ra.
Từ bây giờ, sẽ có thêm nhiều người nữa tới. Bây giờ hoặc không bao giờ. Tôi lăn mình khỏi gầm ghế và nhỏm dậy. May mắn cho tôi, tất cả bọn họ đều đang chú tâm vào công việc của mình khi tôi đứng dậy, và tôi bắt đầu hùng dũng rảo bước đến cánh cửa đôi phía cuối nhà thờ. Từ sự im lặng đột ngột của họ, tôi biết họ đã phát hiện ra tôi.
“Xin chào!” người mẹ lên tiếng. Bà ta nhỏm dậy từ bên cạnh chiếc túi ngủ màu xanh dương sáng. Khuôn mặt chất phác của bà ta tràn ngập tò mò. “Em chắc hẳn là thành viên mới của Hội. Chị là Francie Polk.”
“Vâng,” tôi đáp, cố tỏ giọng vui vẻ. “Em đang vội lắm! Nói chuyện sau nhé!”
Chị ta đến gần hơn. “Em đang bị thương sao?” chị ta hỏi. “Em - xin lỗi nhé - trông kinh quá. Đó là máu à?”
Tôi liếc xuống áo mình. Có một vài vệt nhỏ trên ngực.
“Em vừa bị ngã,” tôi đáp, cố tỏ vẻ phiền muộn. “Em cần về nhà sơ cứu một chút, thay quần áo nữa, đại loại vậy. Em sẽ quay lại!”
Tôi có thể nhận ra sự ngờ vực trên khuôn mặt của Francie Polk. “Có một hộp sơ cứu ở trong văn phòng, sao không để chị vào lấy ra nhỉ?” chị ta hỏi.
Bởi vì tôi không muốn chị làm thế. “Chị biết đấy, em cần thay áo sạch nữa,” tôi đáp. Tôi chun mũi để thể hiện sự ghê tởm nếu phải đi loanh quanh với chiếc áo lấm bẩn suốt cả tối.
Một người phụ nữ khác bước vào từ chính cánh cửa mà tôi muốn lao ra, cô ta đứng lắng nghe mẩu đối thoại, đôi mắt đen đảo qua lại giữa tôi và Francie đầy cương quyết.
“Này, nhỏ này!” cô ta gọi với ngữ điệu nhẹ nhàng, và cô gái La tinh nhỏ nhắn, người biến hình ấy, ôm chầm lấy tôi. Tôi xuất thân từ một nền văn hóa ôm ấp, nên cũng tự động ôm lại cô ta. Cô ta véo tôi một cái đầy ẩn ý khi chúng tôi đang ghì chặt lấy nhau.
“Cậu thế nào?” tôi hỏi niềm nở. “Lâu quá rồi nhỉ.”
“Ôi, cậu biết mà, vẫn thế thôi,” cô ta đáp. Cô cười rạng rỡ với tôi, nhưng trong mắt cô ta là vẻ đề phòng. Mái tóc cô màu nâu sẫm, gần như đen, dày cui thô ráp. Nước da của cô ta màu caramel sữa, và có cả tàn nhang sẫm màu. Một đôi môi đầy đặn được tô son màu cánh sen rực rỡ. Cô có hàm răng to và trắng, lóa lên trước mắt tôi khi cô cười toe toét. Tôi liếc nhìn xuống chân cô. Giày bệt màu đỏ.
“Này, ra ngoài với tớ để tớ làm một điếu chứ,” cô nói.
Francie Polk trông có vẻ còn thỏa mãn hơn nữa.
“Luna à, em không thấy là bạn mình cần đến gặp bác sĩ sao?” chị ta nói thẳng.
“Đúng là cậu có vài vết sưng và thâm tím này,” Luna nhận định khi săm soi tôi. “Cái cậu này, lại ngã nữa đấy à?”
“Cậu biết mẹ tớ luôn nói gì mà, ‘Marigold à, con hậu đậu như voi vậy.’”
“Mà mẹ của cậu nữa,” Luna nói, lắc đầu với vẻ chán ghét. “Cứ như thể nói thế sẽ giúp cậu bớt hậu đậu đi vậy!”
“Thế cậu giúp tớ được gì nào?” tôi nhún vai nói. “Xin lỗi chút nhé, chị Francie?”
“Ôi, chắc chắn rồi,” chị ta đáp. “Gặp lại các em sau nhé.”
“Chắc chắn rồi,” Luna đáp. “Em sẽ chẳng bỏ lỡ dịp này vì bất cứ thứ gì đâu.”
Và cùng với Luna, tôi dạo bước ra khỏi sảnh hội nghị của Hội Bằng Hữu Mặt Trời. Tôi gắng hết sức tập trung bước đều, để Francie không thấy vẻ khập khiễng của tôi mà nghi ngờ thêm nữa.
“Ơn trời,” tôi thốt lên khi chúng tôi ra được đến bên ngoài.
“Cô biết tôi là người như thế nào rồi,” cô ta nói nhanh. “Sao cô biết được chứ?”
“Tôi có một người bạn cũng là người biến hình.”
“Anh ta là ai?”
“Anh ấy không phải dân ở đây. Và tôi cũng không thể nói cho cô biết mà không được sự đồng ý của anh ấy.”
Cô ta nhìn chăm chăm vào tôi, vẻ vờ vĩnh thân thiện biến mất ngay lúc ấy.
“Được, tôi tôn trọng điều đó,” cô ta đáp. “Sao cô ở đây?”
“Có liên quan gì đến cô chứ?”
“Tôi vừa cứu cái mạng cô đấy.”
Cô ta có lý, một lý do đúng đắn. “OK. Tôi là người có khả năng ngoại cảm, và tôi được lãnh đạo ma cà rồng khu vực của cô thuê để truy tìm xem chuyện gì đã xảy ra với một ma cà rồng bị mất tích.”
“Tốt hơn rồi đấy. Nhưng đó không phải là lãnh đạo khu vực của tôi. Tôi là siêu vật, chứ chẳng phải lũ ma cà rồng quái đản đó. Cô làm việc cho ma cà rồng nào?”
“Tôi không phải kể với cô điều đó.”
Cô ta nhướn mày.
“Tôi không phải làm thế.”
Cô ta mở miệng cứ như thể sắp hét lên.
“Cứ gào lên đi. Có những thứ tôi sẽ chẳng bao giờ nói. Mà siêu vật là sao?”
“Một sinh vật siêu nhiên. Giờ thì nghe tôi nói đây,” Luna nói. Giờ đây hai chúng tôi đang đi xuyên qua bãi để xe, và những chiếc xe đang lần lượt tấp vào đều đặn từ con đường lộ. Cô ta mỉm cười và vẫy tay rất nhiều, còn tôi cũng cố gắng để ít nhất ra chiều vui vẻ.
Nhưng cái chân khập khiễng chẳng thể nào che giấu được nữa, và khuôn mặt tôi bắt đầu sưng phù lên như một con quỷ cái, đúng kiểu Arlene hay nói.
Chúa ơi. Tôi đột nhiên nhớ nhà quá. Nhưng tôi gạt bỏ cảm giác đó đi để tập trung vào Luna, cô ta rõ ràng muốn nói gì đó với tôi.
“Cô báo lại với lũ ma cà rồng rằng tụi này đang giám sát chỗ này rồi nhé…”
“ ‘Tụi này’ là ai?”
“ ‘Tụi này’ là những người biến hình của cả thành phố Dallas và khu vực lân cận.”
“Mấy người có tổ chức à? Này, thế thì tuyệt quá! Tôi sẽ phải kể với… bạn của mình mới được.”
Cô ta đảo mắt, rõ ràng chẳng lấy làm ấn tượng với hiểu biết của tôi. “Nghe này, thưa quý cô, cô báo với lũ ma cà rồng rằng ngay khi Hội phát hiện ra chúng tôi, họ cũng sẽ bắt đầu săn đuổi chúng tôi nữa. Và chúng tôi không chịu chung sống với con người đâu. Chúng tôi sẽ lánh dưới lòng đất suốt đời. Lũ ma cà rồng quái đản ngu ngốc. Nên chúng tôi sẽ để mắt tới Hội.”
“Nếu để mắt hay ho đến thế, sao cô không gọi cho ma cà rồng về chuyện Farrell bị giữ ở dưới tầng hầm ấy đi? Và về Godfrey nữa?”
“Này, Godfrey muốn tự sát, chẳng liên quan gì đến tụi này cả. Anh ta đến với Hội; họ không đi tìm anh ta. Họ đã sợ đến xém tè ra quần, rồi mừng vui khi có được anh ta, sau khi vượt qua nỗi hoảng loạn lúc ngồi cùng phòng với một kẻ bị nguyền rủa.”
“Còn Farrell thì sao?”
“Tôi chẳng biết ai ở dưới đó,” Luna thú nhận. “Tôi biết họ đã bắt ai đó, nhưng tôi chưa hoàn toàn ở trong vòng thân cận nên không thể biết đó là ai. Tôi thậm chí đã cố bợ đỡ thằng khốn nạn Gabe đó, nhưng cũng chẳng ích gì.”
“Cô hẳn sẽ vui khi biết Gabe đã chết rồi.”
“Ê!” Lần đầu tiên cô ta mỉm cười thành thật. “Đấy là tin tốt đấy.”
“Và đây là phần còn lại. Ngay khi tôi liên lạc lại được với ma cà rồng, họ sẽ đến đây để cứu Farrell. Nên nếu là cô, tôi sẽ chẳng quay lại Hội tối nay.”
Cô ta thoáng cắn môi dưới. Chúng tôi đã đến cuối bãi gửi xe.
“Thực ra thì,” tôi nói, “cô cho tôi đi nhờ về khách sạn thì tốt quá.”
“Này, tôi chẳng có trách nhiệm biến cuộc sống của cô thành hoàn hảo đâu,” cô ta gầm gừ, trở lại với bản tính lì lợm của mình. “Tôi sẽ phải quay lại nhà thờ trước khi lũ rác rưởi đó hại tín đồ, để lấy lại giấy tờ. Nghĩ mà xem, cô em. Lũ ma cà rồng sẽ xử lý Godfrey như thế nào? Chúng sẽ để hắn ta sống sao? Hắn ta là một kẻ gạ gẫm trẻ con và giết người hàng loạt, nhiều đến nỗi cô đếm cũng chẳng hết nữa kìa. Hắn không thể dừng lại, và bản thân hắn cũng biết điều đó.”
Vậy có một điểm tốt ở nhà thờ… à… nơi cung cấp địa điểm để những ma cà rồng như Godfrey tự sát khi được chiêm ngưỡng hay sao chứ?
“Đáng lẽ họ nên lên kênh truyền hình thu phí mới đúng,” tôi nói.
“Được thì họ đã làm rồi.” Luna rất nghiêm túc. “Những ma cà rồng đang muốn chung sống với con người ấy, họ khá thẳng tay với những ai có khả năng làm hỏng kế hoạch đó. Godfrey cấm không được lên trang bìa.”
“Tôi không thể giải quyết mọi vấn đề được, Luna à. Nhân tiện đây, tên thật của tôi là Sookie. Sookie Stackhouse. Dù sao thì, tôi đã tận sức tận lực rồi. Tôi đã làm công việc mình được thuê, và bây giờ tôi sẽ quay lại báo cáo. Godfrey sống hay chết. Tôi nghĩ là Godfrey sẽ chết.”
“Tốt hơn hết là cô nên đánh trúng,” Luna nói.
Tôi không thể hiểu tại sao lại là lỗi của tôi nếu Godfrey thay đổi ý kiến của mình. Tôi chỉ căn vặn chuyện lựa chọn địa điểm của anh ta thôi mà. Nhưng có thể cô ta nói đúng. Tôi chắc hẳn cũng phải có trách nhiệm trong chuyện này.
Mọi thứ quá sức chịu đựng của tôi rồi.
“Tạm biệt,” tôi nói, và bắt đầu cà nhắc dọc phía sau bãi gửi xe để ra đường cái. Tôi chưa đi được xa thì nghe thấy tiếng kêu la hò hét vang lên từ phía nhà thờ, và tất cả đèn bên ngoài bật sáng. Ánh đèn bất ngờ sáng đến chói lòa.
“Có lẽ rốt cuộc tôi không nên quay lại Trung tâm Hội nữa. Không phải ý hay,” Luna nói từ cửa sổ xe của chiếc Subaru Outback. Tôi trèo vào ghế hành khách, và chúng tôi lao nhanh đến lối ra gần nhất dẫn đến đường cái bốn làn xe. Tôi máy móc cài dây an toàn.
Nhưng dù chúng tôi đã ứng phó rất nhanh, họ thậm chí còn nhanh hơn nữa. Rất nhiều xe bảy chỗ đã được lui vào vị trí để chắn lối ra khỏi bãi đỗ xe.
“Chết tiệt,” Luna thốt lên.
Chúng tôi ngồi bất động trong một chốc khi cô suy tính.
“Họ sẽ chẳng đời nào cho tôi ra, kể cả khi chúng ta giấu cô đi được bằng cách nào đó. Tôi không thể đưa cô lại vào trong nhà thờ được. Họ có thể lục soát bãi xe quá dễ dàng.” Luna cắn môi mạnh hơn nữa.
“Ôi, kệ xác cái công việc này đi,” cô ta nói, và cài số cho chiếc Outback. Thoạt đầu cô lái xe rất dè dặt, cố gắng thu hút càng ít sự chú ý càng tốt. “Những người này sẽ chẳng biết gì về tín ngưỡng đâu nếu tín ngưỡng phản lại họ,” cô nói. Gần đến nhà thờ, Luna lái xe leo lên dải phân cách giữa bãi đỗ xe và bãi cỏ. Rồi chúng tôi chạy xe trên nền cỏ, cua vòng qua sân chơi với hàng rào bao quanh, và tôi nhận ra mình đang cười toét đến tận mang tai, dù rằng cười như thế rất đau.
“A ha!” Tôi hét toáng lên khi chúng tôi đâm vào ống xịt nước của hệ thống tưới cỏ. Chúng tôi lái xe như bay xuyên qua sân trước nhà thờ, và, ngạc nhiên làm sao, chẳng ai đuổi theo chúng tôi. Nhưng mà chẳng mấy chốc họ sẽ hoàn hồn thôi, mấy kẻ cứng đầu ấy. Tối nay những người không tán thành các biện pháp thậm cực đoan của Hội này sẽ thức tỉnh thật sự.
Chắc là thế rồi, Luna quan sát gương chiếu hậu rồi nói, “Họ đã bỏ rào chắn lối ra rồi, và có người đang đuổi theo chúng ta.” Chúng tôi lao vào dòng xe trên con đường chạy trước nhà thờ, một con đường bốn làn xe to rộng khác, và những tiếng còi xe kêu inh ỏi khi chúng tôi đột ngột hòa vào dòng giao thông.
“Trời đất quỷ thần ơi,” Luna thốt lên. Cô giảm xuống tốc độ phù hợp và tiếp tục nhìn vào kính chiếu hậu. “Trời bây giờ tối quá rồi, tôi không phân định được đèn xe nào là của chúng nữa.”
Tôi không hiểu Barry đã báo động cho Bill chưa.
“Cô có di động đấy không?” tôi hỏi cô ta.
“Trong ví tôi ấy, cùng với giấy phép lái xe, tất cả vẫn đang ở văn phòng tôi trong nhà thờ. Đó cũng là khi tôi biết cô trốn ra được. Tôi đi lên văn phòng của mình, đánh hơi được mùi của cô. Biết cô đang bị thương. Nên tôi ra ngoài dò xét xung quanh, và khi không thể tìm thấy cô, tôi quay lại vào trong. Chúng ta cực kỳ may mắn vì tôi vẫn mang theo chìa khóa xe trong túi đấy.”
Chúa phù hộ những người biến hình. Tôi vẫn thấy hơi tiếc về chiếc điện thoại, nhưng giờ có tiếc cũng chẳng ích gì. Đột nhiên tôi tự hỏi không biết ví của mình ở đâu rồi. Có lẽ nó vẫn đang ở văn phòng của Hội Mặt Trời. May là tôi đã lấy hết giấy tờ tùy thân ra khỏi đó.
“Chúng ta có thể dừng lại ở trạm điện thoại hoặc đồn cảnh sát nào được không?”
“Nếu cô gọi cảnh sát thì họ sẽ làm gì chứ?” Luna hỏi, bằng cái giọng dạy đời của người lớn khi dạy khôn trẻ con.
“Đến nhà thờ?”
“Và sau đó thì sao thưa cô em?”
“À, họ sẽ thẩm vấn Steve rằng tại sao hắn lại giữ một tù nhân là người?”
“Phải. Và hắn sẽ đáp ra sao?”
“Tôi không biết.”
“Hắn sẽ nói, ‘Chúng tôi chẳng bao giờ giam cầm cô ta cả. Cô ta cãi vã gì đó với nhân viên của chúng tôi là Gabe và cuối cùng thì anh ta đã chết. Bắt cô ta đi!’ ”
“Ồ, cô nghĩ thế à?”
“Phải, tôi nghĩ vậy.”
“Vậy còn Farrell thì sao?”
“Nếu cảnh sát bắt đầu đến, tốt hơn cô nên tin rằng chúng sẽ sai tay chân lao xuống tầng hầm mà dùng cọc sắt khử hắn rồi. Và khi cảnh sát tới đó, chẳng còn Farrell nào nữa. Họ cũng có thể làm tương tự với Godfrey, nếu anh ta không đứng về phía Hội. Có khi anh ta cũng chẳng chống trả gì đâu. Anh ta muốn chết mà, gã Godfrey ấy.”
“Thế à, vậy còn Hugo thì sao?”
“Cô nghĩ rằng Hugo sẽ giải thích lý do tại sao mình bị nhốt ở tầng hầm à? Tôi không biết gã bần tiện đó sẽ nói gì nữa, nhưng hắn sẽ không nói ra sự thật đâu. Hắn đã sống cuộc đời hai mang hàng tháng nay rồi, và hắn cũng chẳng thể phân định được rõ ràng mình theo phe nào nữa mà.”
“Vậy chúng ta không thể báo cảnh sát. Chúng ta gọi ai được bây giờ?”
“Tôi phải đưa cô về với người của cô. Cô không cần thiết phải gặp người phe tôi. Họ không muốn tiết lộ danh tính, cô hiểu chứ?”
“Hiểu.”
“Bản thân cô chắc cũng phải là thứ gì kỳ quặc, phải không? Để nhận diện được chúng tôi ấy mà.”
“Phải.”
“Vậy cô là gì? Không phải ma cà rồng, hẳn rồi. Cũng không phải một trong số tụi này.”
“Tôi là nhà ngoại cảm.”
“Thật à! Không điêu chứ! Ôi, u u u,” Luna thốt lên, bắt chước âm thanh quen thuộc của hồn ma.
“U u cũng đâu có hơn cô,” tôi đáp, cảm thấy mình sẽ được thứ lỗi vì đã hơi gắt gỏng một chút.
“Xin lỗi,” cô ta nói, thật bụng thì không. “OK, kế hoạch là thế này…”
Nhưng tôi không nghe được kế hoạch đó ra sao, bởi đúng lúc đó xe chúng tôi bị đâm từ đằng sau.
Bất thình lình tôi thấy mình bị treo ngược trong dây an toàn. Một bàn tay thò vào những muốn lôi tôi ra. Tôi nhận ra ngay đống móng tay đó; là của Sarah. Tôi cắn ả.
Với một tiếng hét inh tai, bàn tay đó rụt lại. “Cô ta không tỉnh táo rồi,” tôi nghe thấy giọng nói ngọt ngào của Sarah đang bẻm mép với ai đó, và người này không liên quan gì đến nhà thờ cả, tôi nhận ra điều đó, và biết rằng mình phải hành động.
“Đừng nghe lời mụ ta. Xe mụ ta đâm vào chúng tôi,” tôi hét gọi. “Đừng để mụ ta động vào tôi.”
Tôi nhìn sang Luna, tóc của cô đang chạm trần xe. Cô đã tỉnh nhưng không nói không rằng gì cả. Cô đang vặn vẹo một hồi, và tôi hiểu rằng cô đang cố tháo dây an toàn ra.
Có rất nhiều giọng người nói bên ngoài cửa sổ xe, hầu hết là những mẩu thoại gây gổ cãi vã.
“Tôi nói cho anh biết, tôi là chị gái nó, và nó đang say,” Polly đang phân trần với ai đó.
“Tôi không hề say. Tôi yêu cầu được kiểm tra nồng độ cồn ngay bây giờ,” tôi nói, bằng giọng tự tôn hết mức, vì dù sao tôi cũng đang choáng váng ngu ngơ và đang bị treo ngược. “Làm ơn gọi cảnh sát ngay, và cả xe cứu thương nữa.”
Mặc cho Sarah bắt đầu nói líu cả lên, một giọng nam trầm nặng nói, “Cô à, nghe chừng cô ấy không muốn cô ở gần. Nghe có vẻ cô ấy có lý lắm.”
Một khuôn mặt đàn ông xuất hiện ở cửa sổ. Anh ta quỳ xuống, cúi nghiêng người nhìn vào trong. “Tôi đã gọi chín-một-một rồi,” giọng nam trầm đó nói. Đầu tóc anh ta rối bời và râu ria lởm chởm nhưng tôi vẫn nghĩ rằng anh ta thật điển trai.
“Làm ơn ở đây cho đến khi họ tới,” tôi van nài.
“Tôi sẽ ở lại mà,” anh ta hứa, và khuôn mặt đó biến mất.
Giờ lại có thêm nhiều giọng nói nữa. Sarah và Polly đang bắt đầu tru tréo lên. Chúng đâm vào xe chúng tôi. Rất nhiều người đã chứng kiến điều đó. Chuyện chúng khăng khăng là chị em hay bất kể thứ gì khác cũng không thuyết phục được đám đông. Thêm nữa, tôi nhận ra rằng chúng còn đi cùng hai gã trong Hội mà hai tên này càng không được đám đông quý mến lắm.
“Vậy thôi tụi tôi đi,” Polly nói, giọng rõ là cáu.
“Không, không đi đâu hết,” người đàn ông tuyệt vời đứng về phe tôi nói. “Cô phải trao đổi thông tin bảo hiểm với họ nữa mà.”
“Đúng thế đấy,” một giọng đàn ông trẻ hơn rất nhiều vang lên. “Mấy người chỉ không muốn trả tiền sửa xe cho họ thôi. Mà nếu họ bị thương thì sao? Không phải mấy người cũng phải trả tiền viện phí à?”
Luna đã xoay xở để tháo được dây an toàn, và cô xoắn người lại rơi xuống trần xe mà bây giờ đúng hơn là sàn xe. Với sự dẻo dai đáng ghen tị, cô thò được đầu ra khỏi cửa sổ để mở, và bắt đầu đạp chân vào bất kể điểm tựa nào cô tìm thấy. Dần dần, cô bắt đầu vặn vẹo mình thoát ra được khỏi cửa sổ xe. Một trong những điểm tựa ngẫu nhiên lại là vai của tôi, nhưng tôi thậm chí không ho he lấy một tiếng. Một trong hai đứa chúng tôi cần thoát ra ngoài.
Có tiếng vỗ tay reo hò bên ngoài khi Luna xuất hiện, và tôi nghe thấy giọng cô, “OK, ai trong số mấy người là lái xe?”
Rất nhiều giọng nói hùa vào, một vài người nói là người này, số khác lại nghĩ là người kia, nhưng tất cả đều biết rằng Sarah và Polly cùng với tay sai của chúng là thủ phạm còn Luna là nạn nhân. Có quá nhiều người xung quanh đến nỗi khi một chiếc xe chở những người khác của Hội đỗ lại, chúng chẳng có cách nào lôi chúng tôi đi được. Chúa phù hộ các khán giả của nước Mỹ, tôi nghĩ. Tôi đang vô cùng xúc động.
Nhân viên cứu thương gỡ tôi ra khỏi xe là anh chàng dễ thương nhất mà tôi từng gặp. Tên anh ấy là Salazar, theo như bảng tên đề, thế là tôi gọi, “Salazar,” chỉ để chắc chắn rằng mình có thể phát âm được cái tên đó. Tôi cần phải phát âm tên ấy thật cẩn thận.
“Phải, là tôi đây,” anh ta nói khi nâng mi mắt tôi lên để nhìn vào mắt tôi. “Cô có vẻ như bầm giập hết cả rồi đấy, thưa cô.”
Tôi tính kể với anh ấy rằng tôi đã bị vài chấn thương trước khi vụ tai nạn xảy ra, nhưng rồi tôi nghe Luna nói, “Cuốn lịch của tôi bay ra khỏi bệ đầu xe đập vào mặt cô ấy.”
“Nếu cô giữ cho bệ đầu xe được thông thoáng thì an toàn hơn đấy, thưa cô,” một giọng mũi mới nhảy vào.
“Tôi nghe rõ rồi, thưa ngài cảnh sát.”
Cảnh sát ư? Tôi xoay đầu lại và bị Salazar rầy ngay. “Cô phải nằm yên cho tới khi tôi khám sơ bộ xong đã chứ,” anh ta nghiêm giọng nói.
“OK.” Sau một giây tôi nói tiếp, “Cảnh sát đến rồi à?”
“Phải, thưa cô. Bây giờ thì, cô bị đau ở đâu?”
Chúng tôi trao qua đổi lại một hồi, hầu như tôi trả lời được mọi câu hỏi.
“Tôi nghĩ cô sẽ ổn thôi, thưa cô, nhưng chúng tôi vẫn cần đưa cô và bạn cô vào bệnh viện để kiểm tra thêm lần nữa.” Salazar và cộng sự của mình, một phụ nữ gốc Anh to lớn, coi điều này là chuyện hiển nhiên.
“Ôi,” tôi lo lắng nói, “chúng ta không cần phải vào viện, phải không Luna?”
“Chắc chắn là vào chứ,” cô nói, giọng ngạc nhiên hết sức. “Chúng ta phải đưa cô đi chụp X quang nữa, cưng à. Ý tôi là, bên gò má cô trông có vẻ tệ lắm.”
“Ôi.” Tôi hơi ngạc nhiên một chút bởi chiều hướng thay đổi của câu chuyện. “Được thôi, nếu cô nghĩ vậy.”
“Ừ phải rồi.”
Thế là Luna bước về phía xe cứu thương, còn tôi được khiêng trên cáng, và với tiếng còi hú inh ỏi, chúng tôi khởi hành. Hình ảnh cuối cùng tôi nhìn thấy trước khi Salazar sập cánh cửa lại là Polly và Sarah đang nói chuyện với một viên cảnh sát cao lớn. Cả hai trông rất khổ sở. Chuyện hay đây.
Bệnh viện này trông hệt như mọi bệnh viện khác. Luna kè kè theo tôi như hình với bóng, và khi chúng tôi đang ở trong cùng một gian phòng thì một nữ y tá bước vào ghi lại thông tin chi tiết hơn. Luna nói, “Bảo bác sĩ Josephus rằng Luna Garza và em gái cô ấy đang ở đây.”
Nữ y tá, một cô người Mỹ gốc Phi, nhìn Luna bằng con mắt nghi ngờ, nhưng vẫn nói, “OK,” rồi bỏ đi ngay lập tức.
“Sao cô làm thế được vậy?” tôi hỏi.
“Làm y tá ngừng điền thông tin vào bảng thông tin ư? Tôi chủ ý yêu cầu đến bệnh viện này mà. Chúng tôi có vài người ở tất cả các bệnh viện trong thành phố, nhưng tôi quen người của chúng ta ở đây nhất.”
“Của chúng ta ư?”
“Của chúng tôi. Người Nhị-Thể.”
“Ồ.” Người biến hình. Tôi nóng lòng muốn kể cho Sam nghe về chuyện này.
“Tôi là bác sĩ Josephus,” một giọng nói điềm tĩnh vang lên. Tôi nhỏm đầu dậy thấy một người đàn ông gầy gò tóc muối tiêu bước vào khu vực quây rèm che của chúng tôi. Mái tóc ông ta được chải ngược ra sau, sống mũi cao, và đậu trên đó là một cặp kính gọng mỏng. Ông ta có đôi mắt xanh dương chăm chú, được khuếch đại lên bởi cặp kính.
“Tôi là Luna Garza, và đây là bạn tôi, à, Marigold.” Luna nói cứ như thể cô là một người nào đó khác. Thực ra, tôi đã liếc nhìn sang xem có phải đó cùng là một Luna không. “Chúng tôi đã gặp chuyện chẳng lành tối nay khi đang thực hiện nhiệm vụ.”
Viên bác sĩ nhìn tôi bằng ánh mắt hoài nghi.
“Cô ta đáng tin,” Luna nói với vẻ rất nghiêm trang. Tôi không muốn phá hỏng khoảnh khắc này bằng một tiếng cười khúc khích, nhưng tôi cũng phải cắn khóe miệng để ngăn tiếng cười lại.
“Cô sẽ cần phải chụp X quang,” viên bác sĩ nói sau khi nhìn qua gương mặt và kiểm tra cái đầu gối sưng phồng một cách kỳ cục của tôi. Người tôi có đủ vết trầy xước và thâm tím, nhưng đầu gối và má của tôi mới là những vết thương thực sự đáng kể.
“Vậy thì chúng ta cần làm nhanh tay lên, rồi sau đó ra khỏi đây an toàn,” Luna nói bằng giọng khiến người nghe không được phản kháng.
Chưa từng có bệnh viện nào giải quyết mọi chuyện nhanh đến vậy. Tôi chỉ có thể đoán rằng bác sĩ Josephus nằm trong ban lãnh đạo. Hoặc có thể ông ta làm sếp đám nhân viên. Máy chụp X quang xách tay được đẩy bằng bánh xe vào, tôi được chụp X quang, và chỉ trong vài phút, bác sĩ Josephus nói với tôi rằng tôi có một vết nứt nơi xương gò má nhưng nó sẽ tự lành. Hoặc tôi có thể gặp bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ khi vết sưng xẹp bớt. Ông ta đưa tôi đơn thuốc giảm đau, rất nhiều lời khuyên cùng một túi đá để chườm mặt và một túi khác nữa để chườm đầu gối, chỗ mà ông ấy cho là bị “sái”.
Trong vòng mười phút sau đó, chúng tôi đã trên đường ra khỏi bệnh viện. Luna đẩy tôi trên một chiếc xe lăn, được bác sĩ Josephus dẫn đường qua một lối đi kiểu như đường hầm dịch vụ. Chúng tôi đi ngang qua một vài nhân viên đang trên đường vào. Họ có vẻ là người nghèo hèn, loại người thường nhận những công việc lương thấp như lao công bệnh viện hoặc đầu bếp. Tôi không thể tin được rằng một người rất hãnh tiến như bác sĩ Josephus đã từng đi xuống những đường hầm này trước đây, nhưng ông có vẻ biết đường, và các nhân viên không phản ứng theo kiểu giật mình khi thấy ông. Đến cuối đường hầm, ông đẩy mở một cánh cửa kim loại nặng nề.
Luna Garza gật đầu kẻ cả với ông, nói, “Cảm ơn nhiều,” rồi đẩy tôi vào màn đêm. Có một chiếc xe cũ kỹ to lớn đậu ở đó. Nó màu đỏ đậm hoặc nâu đậm. Khi nhìn quanh thêm một chút, tôi nhận ra chúng tôi đang ở trong một con hẻm. Có những thùng rác lớn xếp hàng kê sát tường, và tôi nhìn thấy một chú mèo đang vồ chụp gì đó - tôi không muốn biết là cái gì - nằm giữa hai thùng rác. Sau khi cánh cửa hút khí đóng sập sau lưng chúng tôi, con hẻm trở nên yên tĩnh. Tôi bắt đầu cảm thấy sợ trở lại.
Tôi cảm thấy cực kỳ mệt mỏi với việc sợ hãi rồi.
Luna bước tới xe, mở cửa sau và nói gì đó với người ngồi bên trong. Bất luận là nhận được câu trả lời kiểu nào, câu trả lời ấy làm cô nổi giận. Cô gắt gỏng lên bằng một ngôn ngữ khác.
Lại cãi vã thêm nữa.
Luna giậm chân thình thịch về phía tôi, “Phải bịt mắt cô lại,” cô nói, rõ ràng chắc mẩm rằng tôi sẽ coi đó là một sự sỉ nhục rất hung.
“Không có vấn đề gì,” tôi nói, kèm theo một cái phẩy tay ám chỉ rằng đó chỉ là chuyện vặt.
“Cô không ngại sao?”
“Không hề. Tôi hiểu mà, Luna. Mọi người đều thích được riêng tư.”
“Vậy thì ổn rồi.” Cô vội vã quay về xe và trở lại mang theo một chiếc khăn choàng lụa màu xanh lá cây và xanh cổ vịt. Cô ta gấp nó lại như thể chúng tôi sắp chơi bịt mắt bắt dê vậy, rồi buộc cẩn thận sau đầu tôi. “Nghe tôi này,” cô thì thầm vào tai tôi, “hai người này rất khó chịu. Cô nên cẩn thận đấy.” Tốt thôi. Tôi muốn sợ hãi thêm nữa mà.
Cô dìu tôi lại xe và giúp tôi vào trong. Tôi đoán là cô đẩy chiếc xe lăn lại phía cửa đợi cho người ta đến lấy; dù sao đi nữa, một phút sau cô đã vào ngồi phía bên kia xe.
Có hai người ngồi ở ghế trước. Tôi cảm nhận được họ về mặt tinh thần, chỉ rất thoảng qua thôi, và tôi phát hiện ra cả hai đều là người biến hình; ít nhất thì họ cũng có những cảm xúc của người biến hình trong tâm trí, những mớ lộn xộn mờ đục rối mù như tôi cảm nhận được từ Sam và Luna. Sếp của tôi, Sam, thường xuyên biến thành một chú chó Êcốt. Tôi băn khoăn không biết Luna thích biến thành gì hơn. Có một sự khác biệt giữa hai người này, kiểu như xung động nặng nề. Khuôn đầu họ dường như phảng phất chút khác biệt, không hẳn là con người.
Chỉ có một khoảng lặng trong vài phút, khi chiếc xe lao ra khỏi con hẻm tiến vào màn đêm.
“Khách sạn Silent Shore, phải không nào?” ả tài xế hỏi. Giọng ả nghe như đang gầm gừ. Và tôi nhận ra rằng trăng đêm đó gần tròn tới nơi rồi. Ôi quỷ thần ơi. Họ sẽ phải biến đổi khi trăng tròn. Có lẽ đó là lý do vì sao Luna lại quá sẵn lòng bỏ qua hết các manh mối ở Hội tối nay, một khi trời tối. Trăng lên làm cô choáng váng.
“Vâng, làm ơn,” tôi đáp lịch sự.
“Thức ăn biết nói,” hành khách bên cạnh nói. Giọng hắn còn hơn cả một tiếng gầm gừ.
Tôi chắc chắn không thích điều đó chút nào, nhưng lại chẳng biết phản ứng ra sao. Rõ là có quá nhiều thứ để tôi học hỏi về người biến hình cũng như về ma cà rồng vậy.
“Hai người thôi đi,” Luna nói. “Đây là khách của tôi.”
“Luna bây giờ lại chơi với thức ăn cho cún à,” người đàn ông nói. Tôi bắt đầu không ưa nổi gã này rồi đây.
“Với tôi thì ả có mùi giống hamburger hơn,” ả lái xe nói. “Cô ta bị một hai vết xước gì đó, phải không nào, Luna?”
“Hai người đều đang gây ấn tượng mạnh với cô ấy rằng chúng ta văn minh đến thế nào đấy,” Luna đốp chát. “Tỏ ra biết kiềm chế chút đi. Cô ấy đã có một đêm tồi tệ rồi. Mà cô ấy lại còn bị gãy xương nữa.”
Mà thậm chí còn chưa quá nửa đêm. Tôi chuyển túi chườm đá đang giữ trên mặt mình. Bạn chỉ có thể chịu được cơn lạnh giá đến thế trên xoang thùy rỗng thôi.
“Tại sao Josephus lại cho gọi mấy tay người sói quỷ sứ này cơ chứ?” Luna thì thầm vào tai tôi. Nhưng tôi biết là họ nghe được; Sam có thể nghe thấy mọi thứ, mà kiểu gì anh ấy cũng không thể nào mạnh ngang ngửa một người sói thực thụ được. Ít nhất thì, đó là đánh giá của tôi. Thành thật mà nói, cho đến lúc này, tôi vẫn không chắc chắn rằng người sói thực sự tồn tại.
“Tôi đoán là,” tôi đáp lại một cách lịch sự và rõ ràng, “ông ta nghĩ rằng họ có thể bảo vệ chúng ta hiệu quả nhất nếu chúng ta lại bị tấn công lần nữa.”
Tôi cảm nhận được những sinh vật ngồi ở ghế trước vểnh tai lên. Có lẽ là theo nghĩa đen.
“Chúng ta đang rất ổn mà,” Luna căm phẫn nói. Cô bồn chồn xoay qua xoay lại bên cạnh tôi cứ như thể cô nàng vừa uống hết mười sáu cốc cà phê một lúc vậy.
“Luna à, chúng ta bị đâm xe và chiếc xe của cô thì vỡ tan tành. Chúng ta còn phải vào phòng cấp cứu nữa. ‘Ổn’ cái kiểu gì cơ chứ?”
Và sau đó tôi phải tự trả lời câu hỏi của mình. “Này, xin lỗi nhé, Luna. Cô đã cứu tôi ra khỏi chỗ đó khi chúng định giết tôi. Chuyện chúng ta bị đâm xe không phải lỗi của cô đâu.”
“Hai người tối nay cũng khốn khổ đấy nhỉ?” tên ngồi bên ghế hành khách hỏi, nghe lịch sự hơn. Hắn đang hậm hực chỉ muốn đánh nhau thôi. Tôi không biết có phải mọi người sói đều hăng tiết như gã này không, hay đó chỉ là bản tính của gã thôi.
“Phải, với lũ Hội khốn kiếp,” Luna trả lời, giọng rõ là hung hăng. “Chúng nhốt cô bé này dưới phòng giam. Dưới hầm tù.”
“Không điêu chứ?” ả tài xế hỏi. Cô ả cũng có cùng cơn hăng tiết trong cái - à, tôi chỉ có thể gọi là cái uy của ả thôi nhỉ, vì chẳng có từ nào tốt hơn nữa cả.
“Chẳng điêu chút nào,” tôi quả quyết. “Tôi làm việc cho một người biến hình, ở quê tôi ấy,” tôi thêm vào để bắt chuyện.
“Không đùa chứ? Kinh doanh gì thế?”
“Quán bar. Anh ấy mở một quán bar.”
“Vậy cô đang ở xa nhà nhỉ?”
“Quá xa,” tôi đáp.
“Có thực là nàng dơi nhỏ bé đây tối nay đã cứu cô không?”
“Phải,” tôi hoàn toàn thành thực về chuyện này. “Luna đã cứu mạng tôi.” Họ nói thế theo nghĩa đen à? Luna sẽ biến chuyển thành một… ôi trời ơi.
“Giỏi lắm, Luna à.” Có thêm một chút kính trọng trong giọng nói gầm gừ trầm trầm đó.
Luna hài lòng với lời khen đó, mà thế cũng phải thôi, đoạn cô vuốt nhẹ tay tôi. Trong một khoảng im lặng hòa đồng hơn chút đỉnh, chúng tôi lái thêm khoảng năm phút nữa, rồi ả tài xế nói, “Khách sạn Silent Shore, sắp đến rồi đây.”
Tôi thở một hơi dài nhẹ cả người.
“Có một ma cà rồng đang đợi bên ngoài.”
Tôi suýt chút nữa đã xé toạc tấm bịt mắt ra, nhưng rồi kịp nhận ra đó là một việc hết sức không hay. “Anh ấy trông như thế nào?”
“Rất cao, tóc vàng. Quả đầu to toàn tóc là tóc. Bạn hay thù đấy?”
Tôi phải nghĩ một chút về chuyện này. “Bạn,” tôi nói, cố để giọng mình không quá hoài nghi.
“Ngon lành quá đi,” ả tài xế nói. “Anh ta có hẹn hò với người khác loài không?”
“Tôi cũng không biết. Cô có muốn tôi hỏi không?”
Luna và tay đồng hành còn lại vờ nôn ọe. “Cô không thể hẹn hò với một xác chết được!” Luna phản đối. “Thôi đi nào, Deb… à, ờ, cô em!”
“Ồ, được rồi,” ả tài xế nói. “Một vài kẻ trong số họ cũng đâu đến nỗi tệ. Tôi tấp xe vào lề đây, bé con Xương-Sữa à.”
“Nó nói cô đấy,” Luna thì thầm vào tai tôi.
Xe chúng tôi dừng lại, và Luna với qua người tôi để mở cửa xe cho tôi. Khi tôi bước ra, được cô dìu và dẫn hướng, tôi nghe thấy tiếng kêu từ phía vỉa hè. Nhanh như chớp Luna sập cửa xe lại phía sau tôi. Chiếc xe toàn người biến hình tách ra khỏi vỉa hè trong tiếng lốp rít lên ken két. Một tiếng tru dài vang lên theo sau chiếc xe trong bóng tối dày đặc.
“Sookie à?” một giọng nói quen thuộc vang lên.
“Eric hả?”
Tôi dò dẫm cởi khăn bịt mắt, nhưng Eric chỉ cần nắm đằng sau chiếc khăn mà kéo. Tôi có được một chiếc khăn quàng rất đẹp, chỉ hơi nhăn nheo chút. Mặt trước khách sạn, với những cánh cửa trống trải nặng nề, được ánh đèn chiếu sáng rực rỡ trong đêm tối, và Eric trông cực kỳ nhợt nhạt. Vậy mà trên hết, hắn ta lại đang mặc một bộ vest sọc dọc màu xanh đen kiểu xưa hết cỡ.
Tôi mừng như bắt được vàng khi nhìn thấy hắn. Hắn chộp lấy cánh tay tôi để đỡ tôi khỏi loạng choạng rồi nhìn xuống với vẻ mặt không thể dò được. Ma cà rồng rất giỏi trong chuyện này. “Chuyện gì đã xảy ra với cô vậy?” hắn hỏi.
“Tôi bị… thôi, khó mà giải thích tất cả trong vài giây. Bill đâu rồi?”
“Đầu tiên cậu ta đến Hội Mặt Trời để cứu cô ra. Nhưng trên đường đi chúng tôi nghe được từ một cảnh sát là người của chúng tôi, rằng cô có liên quan đến một vụ tai nạn và đã được chuyển tới bệnh viện. Nên cậu ấy đến bệnh viện, ở bệnh viện, cậu ta lại thấy cô nằm ngoài các trường hợp nhập viện thông thường. Chẳng ai có thể nói cho cậu ấy biết gì cả, và cậu ấy không thể đe dọa bọn họ một cách phải phép được.” Eric trông cực kỳ bực bội. Cái thực tế phải sống trong luật pháp của con người là một nỗi bực bội thường trực với Eric, dẫu rằng hắn ta hưởng lợi rất nhiều từ những lợi ích mà việc đó mang lại. “Và rồi chẳng có chút dấu vết nào của cô cả. Cậu phục vụ tiền sảnh chỉ có thể nghe tin tức của cô một lần, trong tâm trí.”
“Barry tội nghiệp. Cậu ta ổn chứ?”
“Còn giàu thêm với hàng trăm đô la ấy chứ, cậu ta đang mừng húm đấy,” Eric nói giọng khô khốc. “Bây giờ chúng ta chỉ cần Bill nữa thôi. Cô thật là rắc rối quá, Sookie ạ.” Hắn ta rút một chiếc di động từ trong túi ra nhấn nút. Sau một khoảng dường như rất lâu, đầu dây bên kia nhấc máy.
“Bill à, cô ấy ở đây rồi. Vài người biến hình mang cô ấy tới.” Hắn nhìn tôi từ đầu xuống chân. “Tơi tả, nhưng vẫn đi được.” Hắn lắng nghe thêm một chút. “Sookie à, cô có mang theo chìa khóa không?” hắn hỏi. Tôi sờ tay vào cái túi nhỏ trong váy nơi tôi đã nhét miếng nhựa hình chữ nhật vào có lẽ từ cả triệu năm trước rồi.
“Có,” tôi đáp, và hoàn toàn chẳng thể tin được rằng có một chuyện đã đi đúng quỹ đạo. “Ôi, đợi đã! Họ đã cứu được Farrell chưa?”
Eric giơ tay ra để nói hắn ta sẽ quay lại với tôi trong vòng một phút nữa. “Bill à, tôi sẽ đưa cô ấy lên phòng kiểm tra một chút.” Lưng Eric cứng lại. “Bill,” hắn nói, giọng đầy đe dọa. “Được rồi. Tạm biệt.” Hắn ta quay lại về phía tôi cứ như thể chưa từng bị gián đoạn.
“Phải, Farrell đã được an toàn. Họ đột kích vào Hội rồi.”
“Có… nhiều người bị thương lắm không?”
“Hầu hết đều quá sợ hãi không dám tiến lại gần. Chúng giải tán và về nhà. Farrell bị giữ trong một phòng giam dưới đất cùng với Hugo.”
“Ôi phải rồi, Hugo. Chuyện gì đã xảy ra cho Hugo?”
Giọng tôi chắc hẳn phải rất tò mò, bởi Eric liếc xéo tôi khi chúng tôi đang rảo bước về phía thang máy. Hắn ta song hành cùng tôi, còn tôi thì cà nhắc một cách khốn khổ.
“Tôi bế cô nhé?” hắn đề nghị.
“Ôi, tôi không nghĩ vậy đâu. Tôi đi được xa thế này rồi cơ mà.” Nếu đó là Bill thì tôi sẽ nhận lời ngay. Barry, đang đứng ở bàn quản lý trực cổng, nhè nhẹ vẫy tay với tôi. Cậu ta chắc hẳn sẽ chạy về phía tôi nếu tôi không đi cùng Eric. Tôi trao cho cậu ta một ánh nhìn mà tôi hy vọng là đầy ý nghĩa, để nói rằng tôi sẽ nói chuyện với cậu ta sau, và rồi chuông thang máy kêu lên và cánh cửa mở ra, chúng tôi bước vào. Eric nhấn nút lên tầng và dựa vào bên thành thang máy có ốp kính đối diện tôi. Khi nhìn hắn ta, tôi thấy được hình ảnh phản chiếu của chính mình.
“Ôi không,” tôi nói, hoàn toàn khiếp hãi. “Ôi, không.” Tóc tôi ép bẹt bởi mớ tóc giả, và sau đó lại được tay chải quáng quàng nên trông thật thảm họa. Bàn tay tôi đưa lên tóc, bất lực và đau đớn, khóe miệng run run cố kìm nước mắt. Mà mái tóc vẫn là phần đẹp đẽ nhất rồi. Tôi có những vết thâm tím hiển hiện từ tim tím đến tím bầm dữ dội trên gần khắp cả người, mà đó chỉ mới là những phần nhìn thấy được thôi đấy. Mặt tôi sưng phồng và đổi màu ở một bên. Có một vết cắt ở giữa chỗ tím bầm trên gò má. Áo tôi mất nửa số cúc, còn váy thì bẩn thỉu te tua. Tay phải tôi chi chít những mẩu dằm bê bêt máu.
Tôi bắt đầu khóc. Trông tôi kinh khủng quá; và hình ảnh đó đã phá tan chút tinh thần còn sót lại trong tôi.
Đáng khen cho Eric, hắn không hề cười, dù rằng có thể hắn ta rất muốn. “Sookie à, tắm táp rồi thay quần áo sạch vào là cô sẽ ổn ngay mà,” hắn nói như thể đang nói với một đứa trẻ. Và thành thật mà nói, lúc đó tôi cũng chẳng cảm thấy mình già dặn hơn một đứa trẻ là bao.
“Một ả người sói nghĩ anh dễ thương đấy,” tôi nói, và nấc thêm chút nữa. Chúng tôi bước ra khỏi thang máy.
“Người sói ư? Sookie à, tối nay cô đã trải qua quá nhiều chuyến phiêu lưu nhỉ.” Hắn đỡ tôi đứng thẳng dậy như thể một nhúm quần áo rồi dựa tôi vào người hắn. Tôi làm cho cái áo vest đáng yêu của hắn ướt đẫm nước mắt nước mũi, còn chiếc sơ mi trắng tinh tươm không còn được sạch sẽ nữa rồi.
“Ôi, tôi xin lỗi!” Tôi lùi lại nhìn toàn bộ người hắn. Tôi chùi chùi áo hắn bằng chiếc khăn quàng.
“Đừng khóc nữa đấy,” hắn vội vã nói. “Chỉ đừng khóc nữa là được, và tôi sẽ chẳng thấy phiền khi phải mang chúng tới tiệm giặt là đâu. Tôi thậm chí chẳng ngại mua một bộ vest hoàn toàn mới nữa.”
Tôi nghĩ khá là thú vị khi biết Eric, chúa tể đáng kinh hãi của loài ma cà rồng, lại sợ đàn bà mít ướt. Tôi bật cười qua tiếng nấc.
“Có chuyện gì vui à?” hắn hỏi.
Tôi lắc đầu.
Tôi tra khóa vào ổ rồi cả hai bước vào. “Tôi sẽ giúp cô trong bồn tắm nếu cô muốn, Sookie à,” Eric đề nghị.
“Ôi, tôi không nghĩ thế đâu.” Tắm rửa là thứ tôi mong muốn hơn hết thảy mọi thứ trên đời, việc đó và việc không bao giờ phải mặc những thứ quần áo này một lần nào nữa, nhưng tôi chắc chắn chẳng muốn tắm khi Eric quanh quẩn xung quanh đâu.
“Tôi dám cá là cô rất ngon lành, khi không mặc gì,” Eric nói, như để động viên tinh thần cho tôi.
“Anh biết điều đó mà. Tôi ngon như một chiếc bánh su kem to tổ chảng,” tôi nói, cẩn thận ngồi vào ghế. “Mặc dù lúc này đây, tôi thấy mình giống một cái xúc xích ruột heo hơn.” Đấy là loại xúc xích Cajun, được làm từ đủ mọi thứ, mà chẳng có thứ nào là tao nhã cả. Eric đẩy một chiếc ghế lưng thẳng lại và đặt chân tôi lên đó để nâng đầu gối lên. Tôi đặt lại túi chườm đá lên chân và nhắm mắt lại. Eric gọi bộ phận phục vụ phòng yêu cầu mang lên một chiếc nhíp, một cái bát và thuốc mỡ sát trùng, kèm thêm một chiếc ghế có bánh xe. Mọi thứ được mang lên mười phút sau. Đám nhân viên này giỏi thật đấy.
Có một bàn nhỏ đặt sát tường. Eric dịch nó đến bên tay phải của tôi, nâng tay tôi đặt trên mặt bàn. Hắn bật đèn bàn lên. Sau khi lau qua cánh tay tôi bằng một miếng vải ướt, Eric bắt đầu gỡ những mẩu dằm ra. Đấy là những mẩu kính từ cửa sổ chiếc Outback của Luna. “Nếu cô là một cô gái bình thường, tôi có thể quyến rũ cô để cô không cảm thấy những thứ này,” hắn bình luận. “Dũng cảm lên nhé.” Đau như quỷ sứ, và nước mắt đầm đìa trên mặt tôi suốt lúc hắn ta làm công việc đó. Tôi cố hết sức giữ im lặng.
Cuối cùng, tôi nghe tiếng một chiếc chìa khóa khác tra vào ổ, và tôi mở mắt ra. Bill nhìn thoáng qua gương mặt tôi, cau mày, và kiểm tra xem Eric đang làm gì. Anh gật đầu tán đồng với Eric.
“Chuyện xảy ra như thế nào vậy em?” anh hỏi, chạm tay rất đỗi nhẹ nhàng vào mặt tôi. Anh kéo chiếc ghế còn lại đến gần hơn và ngồi xuống. Eric vẫn tiếp tục công việc của mình.
Tôi bắt đầu giải thích. Tôi mệt mỏi đến nỗi giọng nói thỉnh thoảng cứ lạc đi. Khi đến phần về Gabe, tôi không còn đủ tỉnh táo để kể giảm kể tránh đi, và tôi có thể nhận ra Bill đang cố kiềm chế cơn nóng giận của mình một cách sắt đá. Anh nhẹ nhàng nhấc áo tôi lên để quan sát chiếc áo lót bị rách toạc và những vết thâm tím trên ngực tôi, kể cả khi Eric đang ở đó. (Hắn ta nhìn lên, tất nhiên rồi.)
“Chuyện gì đã xảy ra với Gabe?” Bill hỏi rất khẽ.
“À, hắn chết rồi,” tôi nói. “Godfrey đã giết hắn.”
“Cô nhìn thấy Godfrey ư?” Eric nghiêng người về phía trước. Mãi đến lúc này hắn mới mở miệng. Hắn đã sơ cứu xong cánh tay tôi. Hắn cũng đã bôi thuốc mỡ sát trùng lên khắp cánh tay tôi như thể bảo vệ đứa bé khỏi bị hăm tã lót vậy.
“Anh đã đúng, Bill à. Anh ta cũng chính là người đã bắt cóc Farrell, mặc dù em không biết chi tiết mọi chuyện thế nào. Và Godfrey ngăn Gabe hiếp em. Mặc dù phải nói rằng em cũng bị vài phát liếm khá lâu đấy.”
“Đừng khoác lác chứ,” Bill nói kèm theo một cái mỉm cười nhẹ. “Vậy hắn đã chết.” Nhưng anh có vẻ vẫn chưa hài lòng.
“Godfrey quả là tốt khi ngăn Gabe lại và giúp em trốn ra. Đặc biệt hơn nữa khi anh ta chỉ muốn nghĩ về việc gặp bình minh. Anh ta đâu rồi?”
“Hắn biến mất vào bóng đêm khi bọn anh tấn công Hội,” Bill giải thích. “Chẳng ai trong số bọn anh bắt hắn được.”
“Chuyện gì đã xảy ra ở Hội?”
“Anh sẽ kể với em, Sookie à. Nhưng hãy chúc Eric ngủ ngon đã, rồi anh sẽ vừa tắm cho em vừa kể nhé.”
“Được ạ,” tôi đồng ý. “Chúc anh ngủ ngon, Eric. Cảm ơn đã sơ cứu cho tôi.”
“Tôi nghĩ đó là tất cả những điểm chính yếu,” Bill nói với Eric. “Nếu có thêm chuyện gì, tôi sẽ ghé qua phòng anh sau.
“Tốt.” Eric nhìn vào tôi, khóe mắt khép hờ. Hắn ta cũng đã liếm cánh tay tôi một hai cái khi sơ cứu, và hương vị dường như làm hắn say sưa. “Nghỉ ngơi cho khỏe nhé Sookie.”
“Ồ,” tôi nói, mắt đột ngột mở to hết cỡ. “Anh biết không, chúng ta còn nợ những người biến hình nữa.”
Cả hai ma cà rồng đều nhìn chăm chăm vào tôi. “À, có lẽ không phải các anh, nhưng em chắc chắn là nợ họ rồi.”
“Ôi, chúng sẽ đòi thưởng thôi,” Eric đoán. “Những người biến hình đó chẳng bao giờ làm gì miễn phí cho ai đâu. Ngủ ngon nhé, Sookie. Tôi mừng là cô không bị hiếp, giết gì cả.” Hắn ta đột nhiên toét miệng nở nụ cười cố hữu, trông giống bản chất của hắn hơn nhiều.
“Chúa ơi, cảm ơn anh rất nhiều,” tôi nói, mắt nhắm lại. “Chúc ngủ ngon.”
Khi cánh cửa đã đóng sau lưng Eric, Bill bế tôi lên khỏi ghế và đem tôi vào phòng tắm. Phòng tắm to như bất kể phòng tắm khách sạn nào, nhưng bồn tắm thì rộng vừa đủ. Bill vặn đầy nước nóng và cực kỳ cẩn thận cởi quần áo tôi ra.
“Cứ xé chúng đi, Bill à,” tôi nói.
“Có lẽ anh sẽ làm thế với những vết này.” Anh đang nhìn những vết thâm tím một lần nữa, môi anh mím chặt thành một đường thẳng.
“Một vài vết là do ngã cầu thang, vài vết khác là từ vụ tai nạn ô tô,” tôi giải thích.
“Nếu Gabe chưa chết, anh sẽ tìm giết hắn,” Bill nói, hầu như chỉ với chính mình. “Anh sẽ thật từ từ thôi.” Anh nâng tôi lên dễ dàng như thể tôi chỉ là một đứa bé rồi đặt tôi vào bồn, sau đó bắt đầu dùng khăn và xà phòng tắm cho tôi.
“Tóc em kinh quá.”
“Phải, quả là thế, nhưng bọn mình sẽ chăm sóc tóc em vào buổi sáng. Em cần phải ngủ.”
Bắt đầu từ mặt của tôi, Bill nhẹ nhàng kỳ cọ tôi dọc xuống tận chân. Nước ngả sang màu đất và máu khô. Anh kiểm tra cánh tay tôi một cách kỹ lưỡng, để đảm bảo rằng Eric đã lấy hết những mẩu kính ra. Rồi anh thải hết nước trong bồn và xả đầy lại, trong khi tôi run lập cập. Lần này, tôi đã sạch sẽ. Sau khi tôi rên rỉ về mái tóc của mình thêm lần nữa, anh đầu hàng. Anh xả ướt tóc tôi và xát xà phòng, rồi lại xả sạch kỹ lưỡng. Chẳng có gì tuyệt vời hơn cảm giác sạch sẽ từ đầu đến chân sau khi đã dơ dáy bẩn thỉu hết sức, và có sẵn một chiếc giường sạch sẽ, có thể kê cao gối mà ngủ.
“Kể cho em nghe những gì xảy ra ở Hội đi,” tôi nói khi anh bế tôi vào giường. “Ở lại bên cạnh em đi.”
Bill đặt tôi vào trong lớp chăn và chuồi người vào bên kia giường. Anh luồn tay dưới đầu tôi kéo lại gần. Tôi cẩn thận chạm trán mình vào ngực anh rồi dụi đầu lên đấy.
“Khi bọn anh đến nơi, chỗ đó như một bầy kiến vỡ tổ vậy,” anh nói. “Bãi xe chỉ toàn người với xe, và rất nhiều chiếc xe khác tiếp tục đến dự buổi - buổi ngủ lại cả đêm à?”
“Tiệc ngủ,” tôi thì thầm, cẩn thận quay sang bên phải để vùi mình tựa vào anh.
“Có một vài vụ hoảng loạn khi bọn anh tới. Hầu hết bọn họ đều dồn hết vào xe cố phắn thật nhanh. Tay cầm đầu của bọn họ, Newlin, cố ngăn không cho tụi anh vào sảnh đường của Hội - chắc hồi nào đó đấy đã từng là nhà thờ phải không? - và hắn bảo rằng tụi anh sẽ tự động bùng cháy nếu bước vào, bởi tụi anh là giống loài bị nguyền rủa.” Bill khịt mũi chế giễu. “Stan túm lấy hắn vứt sang một bên. Và rồi bọn anh đi vào nhà thờ, Newlin và ả đàn bà của hắn tò tò theo sau. Chẳng một ai trong số bọn anh bùng cháy cả, có vẻ điều này làm cho mọi người ở đó rúng động cực độ.”
“Còn phải hỏi,” tôi lầm bầm vào ngực anh.
“Barry nói với tụi anh rằng khi nó nói chuyện với em, nó có cảm giác rằng em đang ở ‘bên dưới’ - bên dưới mặt đất. Nó nghĩ nó đã bắt gặp từ ‘cầu thang’ trong tâm trí của em. Bọn anh có sáu người - Stan, Joseph Velasquez, Isabel, và những người khác - và bọn anh tốn mất khoảng sáu phút để loại trừ hết mọi khả năng và tìm thấy cầu thang.”
“Anh làm gì với cái cửa?” Nó bị khóa kín, tôi nhớ vậy.
“Thì giật nó ra khỏi bản lề.”
“Ồ.” Ừ, đó là cách vào nhanh nhất, hẳn là thế rồi.
“Anh nghĩ em vẫn còn dưới đó, tất nhiên rồi. Khi anh tìm thấy căn phòng có xác chết của gã đó, quần phanh ra…” Anh dừng lại một lúc lâu. “Anh chắc chắn rằng em đã ở đó. Anh vẫn có thể ngửi thấy mùi của em trong không khí. Có những vệt máu trên người hắn, máu của em, và anh tìm thấy thêm những vết xung quanh nữa. Anh đã rất lo lắng.”
Tôi vỗ về anh. Tôi quá yếu mệt không thể vỗ về hết mực được, nhưng đó là sự an ủi duy nhất mà tôi có thể dành cho anh vào lúc này.
“Sookie à,” anh cẩn thận nói, “có điều gì em muốn nói với anh nữa không?”
Tôi quá buồn ngủ nên không thể nghĩ cho thông chuyện này. “Không,” tôi vừa ngáp vừa đáp. “Em nghĩ vừa nãy em đã kể hầu như toàn bộ chuyến phiêu lưu của mình rồi.
“Anh nghĩ có lẽ vì lúc nãy Eric còn ở đây, nên em không muốn kể mọi thứ chứ?”
Tôi rốt cuộc cũng hiểu ra hàm ý. Tôi hôn lên ngực anh, phía trên trái tim. “Godfrey đã đến thực sự đúng lúc.”
Một khoảng dài im lặng ập tới. Tôi ngước lên nhìn khuôn mặt của Bill đang đanh lại như một pho tượng. Hàng mi đen của anh nổi bật lên hẳn trên màu da xanh xao. Đôi mắt tối màu của anh trông sâu thăm thẳm. “Kể em phần còn lại đi,” tôi nói.
“Rồi tụi anh đi xuống sâu hơn nữa vào hầm tránh bom và tìm thấy một căn phòng rộng hơn, cùng với một khu vực cơi nới đầy những nhu yếu phẩm - thức ăn và súng - nơi rõ ràng có một ma cà rồng nữa đang ở.”
Tôi chưa từng nhìn thấy phần đó của hầm tránh bom, và tôi chắc chắn không muốn đến thăm lại đó mà chứng kiến những gì mình đã để lỡ đâu.
“Ở phòng giam thứ hai, bọn anh tìm thấy Farrell và Hugo.”
“Hugo còn sống chứ?”
“Thoi thóp,” Bill hôn trán tôi. “May cho Hugo, Farrell thích làm tình với mấy thằng trẻ hơn thôi.”
“Có lẽ đó là lý do vì sao Godfrey chọn bắt cóc Farrell, khi anh ta quyết định phải tìm thêm dẫn chứng về một kẻ tội lỗi khác.”
Bill gật đầu. “Đó là những gì Farrell nói. Nhưng anh ta thiếu tình dục và máu quá lâu rồi, và anh ta đói lả. Nếu không có đống xích bạc đó, hẳn Hugo đã… đã khốn khổ lắm đấy. Thậm chí với cả dây bạc tròng cổ tay và mắt cá chân, Farrell vẫn xoay xở để hút máu Hugo được.”
“Anh có biết Hugo là kẻ phản bội không?”
“Farrell đã nghe thấy mẩu nói chuyện của em và hắn.”
“Làm sao - ôi, phải rồi, thính giác của ma cà rồng. Em ngốc quá.”
“Farrell cũng muốn biết em đã làm gì với Gabe để hắn hét toáng lên thế.”
“Nện vào tai hắn.” Tôi khum tay chỉ cho anh thấy.
“Farrell thích thú lắm đấy. Gã Gabe này là một trong số những người thích thể hiện quyền lực với người khác. Hắn sỉ nhục Farrell rất nhiều lần.”
“May mắn cho Farrell là anh ta không phải phụ nữ đấy,” tôi nói. “Bây giờ Hugo ở đâu?”
“Hắn đang ở một nơi an toàn.”
“An toàn cho ai?”
“Cho ma cà rồng. Tránh xa khỏi giới truyền thông. Họ sẽ thích thú mẩu chuyện của Hugo lắm đấy.”
“Họ sẽ làm gì với hắn?”
“Tùy Stan quyết định.”
“Nhớ cam kết giữa chúng ta với Stan chứ? Nếu con người được xác định là có tội với bằng chứng mà em tìm ra, họ sẽ không bị giết.”
Bill rõ ràng không muốn bàn cãi chuyện này với tôi ngay bây giờ. Gương mặt anh hết biểu cảm ngay. “Sookie à, em giờ phải ngủ thôi. Chúng ta sẽ nói chuyện này khi em tỉnh dậy.”
“Nhưng lúc đó có thể anh ta đã chết rồi.”
“Sao em lại quan tâm chứ?”
“Bởi đó là thỏa thuận! Em biết Hugo là một thằng chó, và em cũng ghét anh ta nữa, nhưng em cũng thấy thương cảm; và em không nghĩ em có thể dính líu vào cái chết của anh ta mà lại sống với lương tâm thanh thản được.”
“Sookie à, hắn vẫn sẽ sống khi em thức dậy. Chúng ta sẽ bàn chuyện này vào lúc đó.”
Tôi cảm thấy cơn buồn ngủ kéo mình đi như một đợt sóng cuốn. Thật khó tin rằng bây giờ mới chỉ có hai giờ sáng.
“Cảm ơn anh vì đã lần theo em.”
Bill nói, sau một khoảng lặng, “Đầu tiên thì em không có ở Hội, chỉ có những vết máu của em và xác của một gã hiếp dâm. Rồi khi anh thấy em không ở trong bệnh viện, rằng em đã bốc hơi khỏi đấy bằng cách nào đó…”
“Ừ hử?”
“Anh đã sợ, sợ lắm. Không ai biết em đang ở đâu. Thực tế thì, khi anh đứng nói chuyện với cô y tá đã nhập em vào viện, tên của em dần biến mất khỏi màn hình vi tính.”
Tôi bị ấn tượng mạnh. Những người biến hình đó có tổ chức đến mức đáng kinh ngạc. “Có lẽ em nên gửi cho Luna vài bông hoa,” tôi nói, khó khăn lắm mới thốt ra nổi những lời đó.
Bill hôn tôi, một nụ hôn đầy thỏa mãn, và đó là điều cuối cùng tôi còn nhớ được.