Nguyên tác: Call Me Irresistible (Wynette, Texas #5)
Số lần đọc/download: 0 / 5
Cập nhật: 2023-06-18 15:50:11 +0700
Chương 6
N
hà thờ gỗ lâu đời nằm trên đoạn dốc cuối một con đường trải sỏi. Ánh đèn pha xe Meg chiếu tỏ một cái tháp chuông thấp tè màu trắng nhô lên ngay phía trên những cánh cửa giữa. Trong bóng tối, cô không thể thấy khu nghĩa địa đang dần kín chỗ bên tay phải, nhưng cô nhớ rõ nó nằm ở đó. Cô cũng nhớ rõ Lucy đã lấy chìa khóa được giấu đâu đó cạnh chân bậc thềm. Cô chiếu đèn pha vào phía trước tòa nhà và bắt đầu dò dẫm quanh các phiến đá và đám cây bụi. Nền đất lổn nhổn sỏi đá chọc vào đầu gối cô, mấy đốt ngón tay bị cào xước hết cả, nhưng cô vẫn không thể tìm ra bất kỳ dấu hiệu nào của một chiếc chìa khóa. Đập vỡ cửa sổ có vẻ là hành động hơi báng bổ, nhưng cô phải vào được bên trong.
Ánh đèn pha in bóng cô thành một hình thù kỳ dị trên mặt tiền giản dị bằng gỗ. Trên đường quay lại xe, cô thấy một con ếch bằng đá chạm khắc thô ráp nhô ra bên dưới một bụi cây. Nhấc con ếch lên, cô phát hiện ra cái chìa khóa được giấu bên dưới. Nhét chìa khóa vào sâu trong túi cho an toàn; cô đỗ chiếc Xế Gỉ vào chỗ để xe, xách va li ra và leo lên năm bậc thềm bằng gỗ.
Theo lời Lucy, những tín đồ Hội Thánh Luther đã bỏ hoang ngôi nhà thờ bé xíu này từ hồi thập niên 60. Hai khuôn cửa sổ hình mái vòm kẹp hai bên hai cánh cửa chính của nhà thờ. Chìa khóa nhẹ nhàng xoay trong ổ. Bên trong nhà thờ bốc mùi ẩm mốc, không khí vẫn còn lưu cái nóng hầm hập ban ngày. Lần cuối cùng cô đến thăm nơi đây, khoảng không gian này được tắm đẫm ánh mặt trời, nhưng giờ thì bóng tối bao trùm lại nhắc cô nhớ đến hết thảy các bộ phim kinh dị cô đã từng xem. Cô mò mẫm tìm công tắc, hy vọng hệ thống điện vẫn hoạt động. Diệu kỳ thay, hai bóng đèn tròn màu trắng gắn trên tường bật sáng. Cô không thể để đèn sáng lâu, e rằng sẽ có người nhìn thấy - chỉ đủ thời gian cho cô khám phá xung quanh. Cô thả va li xuống rồi khóa cửa lại sau lưng.
Những dãy ghế dài trong nhà thờ đã bị dời đi chỗ khác, để lại một khoảng trống hoác, âm vang. Các cha xây dựng nhà thờ này không hề thích trang trí bày biện. Chẳng có ô cửa sổ lắp kính màu cũng chẳng có mái vòm cao vút hay cây cột đá nào dành cho những tín đồ Hội Thánh Luther nghiêm nghị ấy. Phòng khá hẹp, thậm chí rộng chưa mười mét vuông, sàn nhà lát gỗ thông được lau chùi nhẵn thín và hai cái quạt trần treo trên trần nhà làm từ các tấm sắt dập kiểu đơn giản. Năm ô cửa sổ con con hình chữ nhật nằm ngang xếp thành hàng trên mỗi bức tường. Một cái cầu thang mộc mạc dẫn tới căn gác nhỏ bằng gỗ phía cuối nhà thờ dành cho đội đồng ca, chút xa xỉ duy nhất của nhà thờ.
Lucy đã nói rằng Ted từng sống ở nhà thờ vài tháng trong lúc nhà anh đang xây, nhưng nếu anh mang theo bất cứ món đồ nội thất nào đến đây thì giờ nó cũng đã biến mất rồi. Chỉ có một cái ghế tựa nâu xấu xí rách mép phô ra cả lớp đệm nhồi bên trong, cộng thêm cái ghế dài bằng sắt đen xì có thể dùng làm giường cô tìm thấy trong căn gác dành cho dàn đồng ca. Lucy đã định bài trí không gian bên trong bằng hệ thống ghế êm ái, những cái bàn kiểu cách và các tác phẩm nghệ thuật dân gian. Điều duy nhất Meg quan tâm ngay lúc này là liệu hệ thống cấp nước còn hoạt động hay không.
Đôi giày thể thao của cô kẽo cọt trên mặt sàn gỗ thông cũ khi cô bước về phía cánh cửa nhỏ nằm bên phải vị trí từng đặt bàn thờ. Đằng sau cánh cửa là một căn phòng sâu chưa tới ba mét vừa được dùng làm bếp vừa là kho chứa đồ. Một cái tủ lạnh cổ lỗ câm lặng, loại có các góc tròn, yên vị cạnh ô cửa sổ nhỏ bên hông nhà. Trong bếp còn có một lò tráng men kiểu cổ có bốn bếp, một tủ chén bát bằng kim loại và một bồn rửa bằng sứ. Một cánh cửa nằm vuông góc với cửa hậu, dẫn tới một phòng tắm hiện đại hơn hẳn so với những phần còn lại của nhà thờ, bên trong có toilet, bệ rửa màu trắng và một cái buồng tắm đứng. Cô nhìn chằm chằm vào những chiếc van sứ hình chữ X và chậm rãi, ngập tràn hy vọng vặn một vòi nước.
Dòng nước mát lạnh phụt ra khỏi vòi. Nguyên sơ. Hào phóng.
Cô không bận tâm đến chuyện thiếu nước nóng. Cô mất vài phút lấy va li, cởi quần áo, chộp lấy mớ xà phòng dầu gội lấy trộm từ khách sạn rồi bước vào bên trong. Cô thở hổn hển khi nước lạnh té tung tóe lên người. Cô sẽ không bao giờ coi thường sự xa xỉ này nữa.
Sau khi đã lau khô người, cô thắt cái dải lụa đã mặc trong bữa tối trước hôn lễ như áo. Cô vừa phát hiện ra một hộp bánh quy mặn chưa mở và sáu hộp xúp cà chua trong tủ bát đĩa bằng kim loại thì điện thoại đổ chuông. Cô bắt máy, nghe thấy một giọng nói thân thuộc.
“Meg?”
Cô đặt hộp xúp sang bên. “Luce? Bồ vẫn ổn chứ?” Đã gần hai tuần trôi qua kể từ buổi tối Lucy bỏ trốn, và đó là lần cuối cùng họ trò chuyện.
“Tớ ổn.” Lucy nói.
“Sao cậu phải thì thầm thế?”
“Vì...” Một khoảng dừng. “Liệu tớ có... giống như... một con ngốc tuyệt đối không nếu bây giờ tớ ngủ với một anh chàng khác? Như kiểu trong mười phút nữa ấy?”
Meg vươn thẳng người dậy. “Tớ không biết. Có lẽ.”
“Tớ cũng nghĩ thế đấy.”
“Cậu có thích anh ta không?”
“Đại loại thế. Anh ấy không phải Ted Beaudine, nhưng...”
“Vậy thì rõ ràng cậu nên ngủ với anh ta đi.” Meg nói bằng giọng mạnh mẽ hơn chủ đích, nhưng Lucy vẫn chưa hoàn toàn bị thuyết phục.
“Tớ muốn thế lắm, nhưng...”
“Cứ ngu ngốc đi, Luce. Như thế sẽ tốt cho cậu đấy.”
“Có lẽ nếu muốn nghiêm túc nói chuyện về vấn đề này, tớ nên gọi điện cho người khác thì hơn.”
“Thế thì chẳng hai năm rõ mười rồi sao.”
“Cậu nói đúng.” Meg nghe thấy tiếng nước tắt vọng từ đầu dây bên kia. “Tớ phải đi rồi,” Lucy vội vã nói. “Lúc nào tiện tớ sẽ gọi cho cậu. Yêu cậu lắm.” Cô bạn dập máy.
Giọng Lucy có vẻ mệt mỏi, nhưng cũng rất phấn khích. Meg suy nghĩ về cuộc điện thoại đó lúc ăn xong tô xúp. Có khi xét cho cùng mọi chuyện hóa ra lại ổn. Ít nhất là với Lucy.
Khẽ buông một tiếng thở dài, cô rửa sạch nồi, rồi giặt đống quấn áo bẩn bằng một ít nước rửa bát tìm thấy dưới bồn rửa giữa đám phân chuột rải rác. Sáng sáng, cô sẽ phải xóa bỏ mọi dấu vết cho thấy cô từng ở đây, đóng gói đồ đạc rồi nhét chúng vào trong xe, phòng trường hợp Ted ghé qua. Nhưng bây giờ, cô có thức ăn, chỗ ngủ, và nước vẫn chảy. Cô lại cầm cự được thêm một ít thời gian nữa.
Mấy tuần lễ tiếp theo là quãng thời gian tồi tệ nhất trong cuộc đời cô. Arlis không ngừng khiến cho cuộc sống của cô thêm khổ sở, và Meg luôn mơ đến ngày được quay về L.A., nhưng cho dù có quay về đó thì cô cũng chẳng biết ở đâu. Cô sẽ không ở cùng hai đấng sinh thành, những bài thuyết giảng đanh thép của họ đã ăn sâu trong xương tuỷ cô. Cô cũng sẽ không ở cùng bạn bè, vì họ ai cũng đều có gia đình, ghé qua một đêm thì được chứ ở lâu dài thì không ổn chút nào. Đến lúc nghe Birdie miễn cưỡng thông báo rằng cuối cùng cô cũng đã trả xong khoản nợ, Meg chẳng cảm thấy gì ngoài sự thất vọng. Cô không thể rời khỏi nhà trọ cho tới khi nào kiếm được một nguồn thu nhập khác, và cô cũng chẳng thể chuyển đi nơi khác một khi ngôi nhà thờ của Lucy là nơi trú ẩn duy nhất của cô. Cô cần tìm công việc khác, một công việc nào đó ở ngay tại Wynette. Có lẽ tốt hơn hết là một công việc được nhận tiền boa ngay lập tức.
Cô nộp hồ sơ xin làm hầu bàn ở Roustabout, một quán bar rẻ tiền vốn được coi như chốn tụ họp của cả thị trấn. “Cô đã phá hoại đám cưới của Ted,” người chủ quán nói, “và lại còn cố gây khó cho Birdie. Việc gì tôi phải thuê cô chứ?” Roustabout quá xa vời.
Trong vài ngày tiếp theo, cô đến mọi quán bar và nhà hàng trong thị trấn, nhưng chẳng nơi nào cần thêm nhân viên. Hoặc không thì cũng là không cần một nhân viên như cô. Cô không có nguồn cung cấp thực phẩm, mỗi lần đổ xăng đều phải mua mười lít, và cô còn sắp phải mua băng vệ sinh nữa. Cô cần tiền mặt, và cô cần càng sớm càng tốt.
Trong lúc loại bỏ thêm một búi tóc kinh tởm nữa ra khỏi một cái bồn tắm với lớp tráng men đã khô khốc, cô thầm nghĩ không biết đã bao nhiêu lần cô quên đưa tiền boa cho những người hầu phòng dọn dẹp các căn phòng khách sạn cô đã trọ.
Tính đến giờ, toàn bộ số tiền boa cô thu được chỉ vẻn vẹn hai mươi tám đô la. Lẽ ra còn nhiều hơn, nhưng Arlis giỏi một cách kỳ lạ trong việc đánh hơi ra được những vị khách bản tính hào phóng và lúc nào cũng kiểm tra phòng họ trước tiên. Nếu Meg có thể nghĩ ra được cách nào đó vượt mặt cô ta thì đợt cuối tuần tới thu nhập của cô có lẽ sẽ khá khẩm hơn.
Cựu phù rể của Ted, Kenny Traveler, đang tổ chức một đợt chơi golf dành cho những người bạn đã từ khắp mọi miền đất nước bay đến đây và đang nghỉ tại nhà trọ. Có thể Meg luôn thấy khinh thường môn thể thao này bởi cái cách nó ngốn ngấu các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhưng những tín đồ của nó lại có thể giúp cô tăng thêm thu nhập, vậy nên suốt cả ngày thứ Năm, cô nung nấu ý định tìm cách kiếm lợi từ kỳ nghỉ cuối tuần. Đến tối, cô đã vạch ra được một kế hoạch. Chỉ có điều nếu muốn triển khai, cô sẽ buộc phải hy sinh một khoản phí tổn gần như vượt quá sức mình, nhưng sau giờ làm việc, cô vẫn đành ghé qua cửa hàng tạp phẩm, vét hai mươi đô la tiền lương còm cõi làm khoản đầu tư cho tương lai gần.
Hôm sau, cô đợi cho đến khi các tay golf lục tục trở về sau vòng đấu chiều thứ Sáu. Nhằm lúc Arlis không để ý, cô chộp vội mấy cái khăn tắm và bắt đầu gõ cửa các phòng. “Chào ngài, ngài Samuels.” Cô toét miệng cười với người đàn ông tóc muối tiêu vừa ra mở cửa. “Tôi đoán là ngài muốn có thêm vài cái khăn tắm. Chắc hẳn ngoài kia nóng lắm.” Cô đặt một thỏi kẹo quý giá vừa mua tối hôm trước lên trên chồng khăn. “Tôi hy vọng ngài đã có một vòng đấu thành công, nhưng phòng trường hợp ngài không được như ý, tôi có mang theo đây ít kẹo ngọt. Thay lời thăm hỏi của tôi.”
“Cảm ơn cưng nhé. Cô thật chu đáo quá.” Ngài Samuels lôi ra xấp tiền rồi rút ra một tờ năm đô la.
Tối đó, đến lúc rời khỏi khách sạn, cô đã kiếm được bốn mươi đô. Cô cảm thấy tự hào như thể lần đầu tiên trong đời kiếm được một triệu đô. Tuy nhiên, nếu muốn tiếp tục mưu đồ này vào chiều thứ Bảy, cô sẽ phải có một mánh lời mới, đồng nghĩa với việc sẽ mất thêm một khoản phí tổn nho nhỏ nữa.
“Ôi trời. Mấy năm rồi tôi chưa được ăn món này,” ngài Samuels thốt lên khi ra mở cửa vào chiều thứ Bảy.
“Tôi tự tay làm đấy.” Cô trao cho ông ta nụ cười rạng rỡ hân hoan nhất kèm theo đống khăn tắm mới và một cái bỏng gạo làm từ Rice Krispies, cô đã phải thức đến quá nửa đêm mới làm xong và gói từng cái một. Lẽ ra bánh quy thì hiệu quả hơn nhiều, nhưng kỹ năng nấu nướng của cô cũng chỉ có hạn. “Tôi ước gì có thể mời ngài một cốc bia lạnh,” cô nói. “Chắc chắn chúng tôi rất cảm kích vì một quý ông như ngài đã lưu lại tại nơi đây.”
Lần này ông ta boa cho cô mười đô.
Arlis, đã sẵn nghi ngờ vì thấy thiếu hụt khăn tắm trong lần kiểm kê mới đây, hai lần suýt bắt quả tang cô, nhưng Meg đã xoay xở qua mắt được cô ta, và khi cô tiến đến dãy phòng trên tầng ba, được đăng ký dưới tên Dexter O’Connor, túi áo đồng phục của cô đã kha khá nặng rồi. Hôm qua, lúc cô đến ông O’Connor đã đi ra ngoài, nhưng hôm nay thì một người phụ nữ cao ráo xinh đẹp đến sững sờ ra mở cửa, quấn người trong chiếc áo choàng bông màu trắng của khách sạn. Cho dù vừa tắm gội xong, khuôn mặt không hề phấn son và những lọn tóc ướt đẫm dang dính vào cổ, cô ta vẫn thật hoàn hảo - cao dong dỏng, mắt màu xanh lá cây đậm và đôi hoa tai kim cương to như hai núi băng. Trông cô ta chẳng có vẻ gì là một ngài Dexter nào đó. Và cả người đàn ông mà Meg thoáng nhìn thấy qua vai cô ta cũng vậy.
Ted Beaudine đang ngồi trên chiếc ghế thư giãn, giày đã bị đá ra khỏi chân, tay cầm một lon bia. Một hình ảnh lóe lên trong tâm trí Meg và cô nhận ra đấy chính là người phụ nữ tóc nâu Ted đã hôn ở trạm xăng vài tuần trước.
“Ái chà, tuyệt quá. Có thêm khăn tắm này.” Chiếc nhẫn cưới đính kim cương sáng lấp lánh khi cô ta chộp cái khăn tắm phía trên. “Lại còn một cái bỏng gạo Rice Krispies tự làm nữa chứ! Nhìn này, Teddy. Đã bao lâu anh chưa được ăn bỏng gạo Rice Krispies rồi?”
“Chịu,” Teddy đáp.
Người phụ nữ kẹp đống khăn dưới cánh tay và giật lớp giấy bóng ra. “Em rất thích những món này. Anh cho cô ấy mười đô chứ?”
Anh không nhúc nhích. “Anh hết sạch đồng mười đô rồi. Chẳng còn tờ tiền lẻ nào hết.”
“Đợi chút nhé.” Người phụ nữ xoay người, chắc hẳn định đi lấy ví, nhưng rồi ngay lập tức quay phắt lại. “Lạy Chúa lòng lành!” Cô ta thả rơi đống khăn tắm. “Cô chính là kẻ đã phá hoại đám cưới! Cô mặc đồng phục thế này làm tôi không nhận ra.”
Ted rời khỏi ghế tiến về phía cửa ra vào. “Đang bán đồ nướng mà chưa có giấy phép hả, Meg? Đây là hành động trực tiếp vi phạm quy định của thị trấn đấy.”
“Chúng là quà tặng, thưa ngài thị trưởng.”
“Birdie và Arlis có biết về những món quà của cô không?”
Người phụ nữ tóc nâu chen ra trước mặt anh. “Bỏ qua chuyện đó đi.” Đôi mắt xanh của cô ta lấp lánh ánh nhìn phấn khích. “Kẻ phá hoại đám cưới. Thật không tin nổi. Vào trong phòng đi. Tôi có vài chuyện muốn hỏi cô đây.” Cô ta giật cửa mở toang ra và túm lấy tay Meg. “Tôi muốn nghe chính xác tại sao cô cho rằng Cái-Cô-Gì-Gì-Đó không phù hợp với Teddy.”
Rốt cuộc, ngoài Haley Kittle, Meg cũng gặp được một người không căm ghét cô vì những gì cô đã làm. Hẳn cũng chẳng có gì lạ khi cô nàng này sẽ trở thành người tình hình như đã có chồng của Ted.
Ted bước chen ra phía trước người phụ nữ và gạt tay cô ta ra khỏi cánh tay Meg. “Tốt hơn hết cô nên quay lại làm việc đi, Meg. Chắc chắn tôi sẽ cho Birdie biết cô mẫn cán đến mức nào.”
Meg nghiến chặt răng, nhưng Ted vẫn chưa thôi. “Lần tới nếu nói chuyện với Lucy, cô sẽ nhớ cho cô ấy biết tôi nhớ cô ấy đến mức nào chứ?” Khẽ cử động ngón tay, anh tháo tung nút thắt hờ hững trên vạt trước áo choàng tắm của người phụ nữ rồi kéo sát cô ta vào người mà hôn đắm đuối.
Không lâu sau đó, cánh cửa ra vào đóng sầm lại ngay trước mũi Meg.
Meg căm ghét thói đạo đức giả, và cô gần như phát điên khi phải chứng kiến việc toàn bộ cư dân thị trấn này đều coi Ted như chuẩn mực của sự đứng đắn trong khi anh lại đang thậm thụt với một phụ nữ đã có chồng. Cô sẵn sàng đem cả mạng sống ra mà đánh cược rằng vụ ngoại tình này đã được duy trì trong thời gian anh và Lucy đính hôn.
Tối đó, cô dừng xe trước cửa nhà thờ và bắt đầu hì hụi công cuộc lôi hết đồ đạc cá nhân vào trong nhà - va li, khăn tắm, thức ăn, khăn trải giường được cô mượn từ khách sạn và dự định sẽ trả lại ngay khi có thể. Cô kiên quyết buộc mình không được vướng bận về Ted Beaudine nữa. Nên tập trung vào những điều tích cực thì hơn. Nhờ các tay golf, cô đã có thể trả tiền xăng, băng vệ sinh và một số nhu yếu phẩm. Không phải một thành công rực rỡ, nhưng dù sao vẫn đủ cho cô có thể hủy bỏ bất kỳ cuộc điện thoại đáng xấu hổ nào đến bạn bè mình.
Nhưng cô chẳng thở phào được bao lâu. Ngày Chủ nhật, đúng vào buổi tối hôm sau, lúc chuẩn bị rời khỏi chỗ làm thì cô phát hiện ra một tay golf - chẳng cần viện đến các kỹ năng thám tử thì cũng vẫn dư sức đoán ra đó là ai - đã phàn nàn với Birdie về một cô hầu tìm cách moi tiền boa. Birdie gọi Meg tới văn phòng và, với sự hài lòng không để đâu cho hết, sa thải cô ngay lập tức.
Ủy ban Tái thiết Thư viện quây quần trong phòng khách nhà Birdie thưởng thức món cocktail dứa nổi tiếng của bà chủ nhà. “Haley lại phát điên lên với tôi nữa.” Bà chủ nhà ngả người vào chiếc ghế bành dáng tàu siêu tốc phong cách thập niên 1950 vừa được cô ta bọc lại bằng vải linen màu va ni, một thứ hẳn sẽ không trụ nổi trong nhà Emma quá một ngày. “Bởi vì tôi đã sa thải Meg Koranda, thế cơ đấy. Con bé nói Meg sẽ không thể kiếm được việc nào khác. Tôi đã trả lương cho nhân viên của mình cao hơn mức trung bình nhiều, và lẽ ra Tiểu thư Hollywood không được phép cố tình tìm cách moi tiền boa.”
Cánh phụ nữ liếc nhìn nhau đầy ẩn ý. Tất cả bọn họ đều biết tiền công mỗi giờ Birdie trả cho Meg thấp hơn hẳn ba đô so với mức cô ta trả cho mọi người khác, một hành động mà Emma chưa bao giờ đồng tình, cho dù chính Ted là người nảy ra ý đó.
Zoey nghịch nghịch mảnh vỏ sò lấp lánh màu hồng nhạt mới lôi khỏi chiếc ghim cài trên cổ cái áo không tay màu trắng của cô ta. “Haley vốn có trái tim ngây thơ mà. Em dám cá Meg đã lợi dụng điều đó.”
“Cái đầu ngây thơ thì đúng hơn,” Birdie nói. “Tôi biết tất cả mọi người đều nhận thấy cách ăn mặc dạo gần đây của con bé rồi, và tôi rất cảm kích vì không ai đả động gì đến nó cả. Con bé cứ đinh ninh chỉ cần phơi ngực ra ngoài là đủ sức thu hút sự chú ý của Kyle Bascom.”
“Em đã vớ phải cậu ta khi dạy lớp Sáu,” Zoey nói. “Và phải nói rằng theo em, Haley quá thông minh so với cậu chàng đó.”
“Cứ nói thế với nó mà xem.” Birdie gõ gõ ngón tay lên thành ghế.
Kayla đặt thỏi son bóng xuống rồi cầm ly cocktail lên. “Haley nói cũng có cái đúng đấy. Trong thị trấn này sẽ chẳng ai thuê Meg Koranda đâu, trừ phi họ không muốn nhìn mặt Ted Beaudine nữa.”
Emma chưa bao giờ thích thú chuyện cá lớn bắt nạt cá bé, và thái độ thù địch mà dân thị trấn chĩa về phía Meg đang bắt đầu khiến cô thấy khó chịu. Đồng thời, cô cũng không thể tha thứ cho Meg vì đã góp phần làm tổn thương một trong những người cô yêu quý nhất.
“Dạo gần đây tôi nghĩ rất nhiều về Ted.” Shelby vén một bên búi tóc vàng ra sau tai và nhìn chằm chằm xuống đôi giày bệt hở mũi mới toe.
“Tất cả chúng ta đều vậy mà.” Kayla nhíu mày, mân mê sợi dây chuyền gắn ngôi sao kim cương.
“Quá nhiều.” Zoey bắt đầu nhấm nhấm môi dưới.
Tình trạng độc thân mới đây của Ted đã một lần nữa khơi dậy hy vọng của họ. Emma ước gì cả hai có thể chấp nhận cái thực tế rằng anh sẽ không bao giờ qua lại với bất kỳ ai trong bọn họ. Kayla đòi hỏi quá nhiều, còn Zoey chỉ khiến anh ngưỡng mộ chứ không hề yêu.
Đã đến lúc hướng cuộc đối thoại trở về với chủ đề mà họ đang lảng tránh, cách thức gây quỹ để kiếm cho đủ chi phí tái thiết thư viện còn thiếu. Những Mạnh Thường Quân quen thuộc của thành phố, bao gồm cả hai vợ chồng Kenny và Emma, vẫn chưa phục hồi sau những phi vụ đầu tư tệ hại trong cuộc khủng hoảng kinh tế mới rồi, và nửa tá hoạt động từ thiện sống còn của địa phương đang cần cứu trợ mà họ phải cáng đáng đã làm họ gần như kiệt quệ rồi. “Có ai có ý tưởng gây quỹ mới nào không?” Emma hỏi.
Shelby gõ gõ ngón trỏ vào hàng răng cửa. “Chắc tôi có đấy.”
Birdie rên lên. “Không có bán bánh đâu đấy nhé. Lần vừa rồi, bốn người đã bị ngộ độc do ăn phải món bánh trứng dừa của Mollie Dodge rồi.”
“Vụ quay xổ số trúng chăn chần bông thì đúng là nỗi sỉ nhục toàn tập,” Emma không thể không thêm vào, cho dù cô không thích hùa vào bầu không khí tiêu cực chung.
“Làm gì có ai muốn một con sóc chết nhìn họ chằm chằm mỗi lần họ bước vào phòng ngủ chứ?” Kayla nói.
“Nó là con mèo con, có phải sóc chết đâu,” Zoey tuyên bố.
“Tôi thì thấy chắc chắn nó giống sóc chết hơn,” Kayla bẻ lại.
“Không bán bánh và cũng không quay xổ số trúng chăn.” Mắt Shelby toát lên vẻ mơ màng. “Một thứ gì đó khác. Một thứ gì đó... hoành tráng hơn. Thú vị hơn.”
Tất cả đều quay lại nhìn cô đầy dò hỏi, nhưng Shelby lắc đầu. “Tôi phải suy nghĩ trước đã.”
Cho dù cố gắng đến đâu, họ cũng không thể moi thêm bất kỳ thông tin gì.
Chẳng ai đồng ý thuê Meg. Ngay cả tại quán trọ mười phòng ở ngoại vi thị trấn. “Cô có biết muốn duy trì hoạt động của chỗ này thì chúng tôi cần bao nhiêu thể loại giấy phép không?”, viên quản lý khuôn mặt hồng hào nói với cô. “Chừng nào Ted Beaudine còn làm thị trưởng thì tôi sẽ không đời nào làm gì trái ý anh ấy. Khỉ thật, ngay cả khi anh ấy không làm thị trưởng...”
Vậy là Meg lái xe hết từ cơ sở kinh doanh này đến cơ sở kinh doanh khác, chiếc xe hơi của cô ngốn xăng chẳng thua gì anh công nhân xây dựng uống nước trong chiều hè. Ba ngày trời qua, rồi bốn ngày. Đến ngày thứ năm, khi cô nhìn chằm chằm sang phía bên kia bàn, nhìn người trợ lý mới vào làm việc ở câu lạc bộ Windmill Creek Country, nỗi tuyệt vọng của cô đã dâng cao đầy cay đắng. Ngay khi cuộc phỏng vấn này kết thúc, cô sẽ phải nuốt vào tận tâm can mảnh kiêu hãnh cuối cùng còn sót lại để mà gọi điện cho Georgie.
Viên trợ lý giám đốc thuộc kiểu người phách lối, cổ lỗ sĩ, gầy gò, đeo kính và vừa vân vê bộ râu tỉa tót gọn gàng vừa giải thích rằng, mặc dù câu lạc bộ này có vị trí khiêm tốn, chỉ mang tính bán tư nhân và không đẳng cấp cao như chỗ làm cũ của anh ta, nhưng Windmill Creek vẫn là câu lạc bộ ruột của Dallas Beaudine và Kenny Traveler, hai trong số những huyền thoại vĩ đại nhất trong làng golf chuyên nghiệp. Cứ làm như cô mù tịt không bằng.
Windmill Creek cũng là câu lạc bộ ruột của Ted Beaudine cùng bằng hữu, và cô sẽ không đời nào lãng phí xăng lặn lội đến đây nếu không đọc được thông tin từ tờ Tuần báo Wynette cho biết người trợ lý mới được câu lạc bộ thuê lúc trước đã làm việc ở một câu lạc bộ golf tại Waco, đồng nghĩa với việc anh ta là một người lạ trong thị trấn này. Biết đâu may ra anh ta vẫn chưa biết cô chính là Voldemort của Wynette, cô ngay lập tức nhấc điện thoại và, trước sự sững sờ của cô, đã được xếp lịch phỏng vấn ngay chiều nay.
“Giờ làm việc từ tám giờ sáng đến năm giờ chiều,” anh ta nói, “và nghỉ thứ Hai.”
Cô đã quá quen bị từ chối đến nỗi nãy giờ vẫn để tâm trí lang thang mất một lúc. Thành thử cô chẳng hiểu công việc anh ta đang đề cập đến là gì, hay liệu có phải anh ta vừa đề nghị cô nhận nó thật hay không. “Như thế thì... như thế thì thật quá ổn,” cô nói. “Tám giờ sáng đến năm giờ chiều thì quá ổn rồi.”
“Tiền lương không nhiều, nhưng nếu cô làm việc đúng cách, tiền boa cũng được kha khá, đặc biệt vào dịp cuối tuần.”
Tiền boa. “Tôi sẽ nhận việc này!”
Anh ta săm soi bản sơ yếu lý lịch đã được thêm mắm giặm muối của cô, rồi đưa mắt nhìn bộ trang phục được cô nhặt nhạnh từ gia sản quần áo ít ỏi đến kinh khủng của cô - một cái chân váy mỏng tang với các tà váy xếp lớp theo kiểu bông hoa, áo hai dây trắng, thắt lưng đen đính đinh tán, xăng đan chiến binh đi kèm đôi hoa tai triều Tống. “Cô có chắc không?” anh ta hỏi với vẻ hoài nghi. “Khó có thể gọi việc lái xe giải khát là một công việc ra hồn.”
Cô cố kìm nén cái thôi thúc nói cho anh ta biết cô cũng chẳng phải một nhân viên ra hồn. “Tôi thấy hoàn toàn không vấn đề gì.” Nỗi tuyệt vọng là một cái cớ dễ dàng đến mức đáng báo động để cô gạt bỏ niềm tin của mình rằng các sân golf là một tác nhân phá hoại môi trường.
Khi được anh ta dẫn ra ngoài cửa hàng đồ ăn vặt để gặp cấp trên của mình, cô gần như vẫn không thể tiêu hóa nổi cái ý thức rằng cuối cùng mình cũng có một công việc. “Các sân golf chuyên biệt thường không có xe giải khát,” anh ta khịt mũi.
“Nhưng có vẻ như các thành viên ở đây không thể đợi đến khi họ có thể chộp lấy vại bia kế tiếp của mình.”
Meg vốn trưởng thành giữa bầy ngựa, và cô chẳng tài nào hiểu được anh ta nói gì. Cô không quan tâm. Cô đã có công việc.
Tối đó khi về nhà, cô đỗ xe phía sau một nhà kho cũ được cô tìm thấy trong lùm cây phía bên kia hàng rào đá bao quanh nghĩa trang. Nhà kho đã mất mái chẳng biết tự đời nào, còn dây leo, lê gai và cỏ khô mọc chằng chịt quanh những bức tường đổ nát. Thổi mấy lọn tóc ra khỏi vầng trán ướt đẫm mồ hôi, cô hì hục lôi chiếc va li ra khỏi xe. Ít nhất cô cũng có thể giấu đống nhu yếu phẩm khiêm tốn của mình đằng sau mấy đồ dùng nhà bếp bị bỏ hoang, nhưng ngay cả thế thì việc hết lần này đến lần khác phải đóng gói rồi lại tháo dỡ đồ đạc vẫn vắt kiệt sức lực của cô. Trong lúc kéo đống tài sản xuyên qua khu nghĩa địa, cô mơ màng tưởng tượng đến chiếc điều hòa nhiệt độ và một nơi lưu trú không bắt cô sáng nào cũng phải xóa sạch dấu vết của mình.
Đang là đầu tháng Bảy, và trong nhà thờ có vẻ nóng nực hơn bao giờ hết. Những lớp bụi cuộn lên khi cô bật mấy chiếc quạt trên đầu. Quạt chẳng có tác dụng gì ngoài khuấy động không khí, nhưng cô không thể mạo hiểm mở cửa sổ, cũng như cô cố gắng tránh bật đèn khi bóng tối đã buông xuống. Vậy nên thành ra tối tối, cô chẳng có việc gì làm ngoài chui lên giường vào đúng cái giờ mà trước đây cô vẫn thường xách túi đi chơi.
Cô trút hết đồ trên người, chỉ còn lại áo hai dây và quần lót, đi dép xỏ ngón rồi bước ra ngoài theo đường cửa hậu. Trong lúc lang thang xuyên qua khu nghĩa địa, cô liếc mắt nhìn những cái tên trên bia mộ. DIETZEL. MEUSEBACH. ERNTST. Những khó khăn cô phải đối mặt chẳng thấm tháp gì so với những gánh nặng mà những người Đức tử tế này hẳn đã phải chịu đựng khi rời bỏ họ hàng thân thích để ổn định cuộc sống ở đất nước ác ôn này.
Một rừng cây rậm rạp nằm sau khu nghĩa địa. Ở phía bên kia, một con lạch lớn với nước đổ tới từ sông Pedernales đã tạo thành một hồ bơi hẻo lánh được cô khám phá ra không lâu sau khi chuyển đến sống tại nhà thờ. Hồ nước trong vắt càng ra giữa lòng càng sâu, và chiều chiều, cô thường đến đây giải nhiệt. Bơi vào trong làn nước, cô cố gắng xua tan cái ý nghĩ khổ sở rằng nếu phát hiện ra sự tình, câu lạc bộ những người hâm mộ Ted Beaudine hẳn sẽ cố tìm cách sa thải cô ngay lập tức. Cô phải nỗ lực hết sức đảm bảo sao cho ngoài cái nguyên nhân cơ bản kia, họ sẽ không thể tìm ra lý do nào khác để căm ghét cô. Còn biết nói gì về cuộc đời cô khi khát khao cháy bỏng nhất bây giờ là không gặp phải sự cố gì khi lái một chiếc xe giải khát.
Đêm đó, căn gác dành cho dàn đồng ca nóng hầm hập như cái lò thiêu, và cô quăng mình lên chiếc đệm lồi lõm. Ngày mai cô phải có mặt tại câu lạc bộ từ sớm, và cô cố buộc mình đi ngủ, nhưng đúng lúc vừa bắt đầu thiêm thiếp thì cô lại bị đánh thức bởi một tiếng động. Phải mất vài giây cô mới xác định được đó là tiếng cửa ra vào dưới tầng bật mở.
Cô ngồi bật dậy trên giường khi hàng loạt ánh đèn được bật sáng. Chiếc đồng hồ báo thức của cô chỉ mười hai giờ, và tim cô đập thình thịch. Cô đã chuẩn bị sẵn sàng tinh thần rằng Ted có thể xuất hiện tại nhà thờ bất kỳ lúc nào giữa ban ngày trong lúc cô đi vắng, nhưng cô không bao giờ ngờ nổi anh lại tạt qua vào giữa đêm. Cô cố vắt óc nhớ lại xem mình có bỏ lại bất cứ món đồ nào trong phòng chính không. Cô nhẹ nhàng rời khỏi giường và rón rén tới sát lan can gác xép nghía xuống phía dưới.
Một người đàn ông không phải Ted Beaudine đang đứng ở chính giữa phòng giáo đường cũ. Mặc dù họ có cùng chiều cao, nhưng tóc người này sẫm màu hơn, gần như màu xanh đen, và nặng hơn khoảng vài cân. Đây chính là Kenny Traveler, tay golf huyền thoại đồng thời là phù rể của Ted Beaudine. Cô từng gặp anh ta và cô vợ người Anh, Emma, tại bữa tiệc trước hôn lễ.
Tim cô lại thót lại thêm lần nữa khi nghe thấy tiếng bánh xe thứ hai nghiến trên mặt đường. Cô nghển đầu cao hơn chút nữa nhưng không thể nhìn thấy bất cứ món quần áo hay giày dép nào bị bỏ quên. “Ai đó để mở cửa ra vào này,” Kenny nói khi người kia bước vào.
“Chắc lần vừa rồi đến đây, Lucy đã quên khóa lại,” một giọng đàn ông quen thuộc đáp lại với giọng điệu không mấy hài lòng. Tính từ ngày hôn lễ của anh bị hủy bỏ cho đến nay mới chưa đầy một tháng, ấy vậy mà cái tên Lucy được anh thốt ra một cách thật dửng dưng.
Cô lại nhô đầu lên chút nữa. Ted đã bước vào giữa giáo đường và đang đứng ngay trước vị trí đặt ban thờ trước đây. Anh mặc quần bò, áo phông chứ không phải áo choàng với đôi xăng đan, vậy nhưng cô vẫn phần nào nghĩ anh sắp vươn tay lên và bắt đầu gọi tên Đấng Toàn Năng.
Kenny tầm ngoại tứ tuần, cao, vạm vỡ, và cũng giống như Ted, đặc biệt ưa nhìn theo cách riêng của mình. Rõ ràng Wynette có nhiều anh chàng quyến rũ hơn hẳn mức bình thường. Kenny đón lấy một lon bia từ tay Ted rồi bước đến góc phòng, ngồi dựa vào khoảng tường giữa ô cửa sổ thứ hai và thứ ba. “Có vấn đề gì với thị trấn này đây khi mà chúng ta phải lén lút trốn đi mới có thể trò chuyện riêng tư được,” anh nói, bật nắp lon.
“Vấn đề nằm ở cô vợ tọc mạch của anh hơn là ở thị trấn đấy.” Ted cầm theo lon bia ngồi xuống cạnh bạn.
“Công nương Emma muốn biết đang có chuyện gì.” Thái độ âu yếm của Kenny khi thốt ra tên người vợ đã chứng tỏ cảm xúc anh dành cho cô. “Kể từ hôm đám cưới đến giờ, cô ấy cứ nhất mực bắt tôi phải dành nhiều thời gian ra tấm ra miếng cho cậu hơn. Cô ấy cho rằng cậu cần sự an ủi từ những người bạn và những thứ chết tiệt kiểu thế.”
“Công nương Emma của anh là thế mà,” Ted nhấp ngụm bia. “Anh có hỏi chị ấy xem chị ấy nói ra tấm ra miếng nghĩa là sao không?”
“Tôi chẳng dám nghe câu trả lời đâu.”
“Chẳng trách dạo này chị ấy giao lưu với các câu lạc bộ sách nhiều thế.”
“Lẽ ra cậu không nên chỉ định cô ấy làm giám đốc phụ trách các vấn đề văn hóa của thị trấn. Cậu biết thừa cô ấy coi trọng những vấn đề kiểu đó như thế nào rồi đấy.”
“Anh phải làm chị ấy mang bầu lần nữa đi. Bầu bí vào rồi thì chị ấy chẳng còn sung sức như vậy được nữa đâu.”
“Ba đứa con là đủ lắm rồi. Đặc biệt là con của bọn tôi.” Một lần nữa, niềm tự hào tỏa rạng trong câu nói của anh.
Hai người đàn ông lẳng lặng uống bia một lúc. Meg tự cho phép mình nhen nhúm chút hy vọng. Chỉ cần họ không lang thang ra phía sau, nơi áo quần của cô đang vương vãi mỗi thứ một nơi thì cô vẫn có cơ hội cứu vãn.
“Cậu thấy lần này ông ta có mua khu đất không?” Kenny hỏi.
“Khó nói lắm. Spencer Skipjack vốn là người khó đoán. Mới sáu tuần trước, ông ta còn nói chắc như đinh đóng cột với chúng ta là ông ta đã quyết định chọn San Antone, ấy thế mà giờ ông ta lại ở đây rồi.”
Meg đã nghe lỏm kha khá cuộc chuyện trò, đủ để biết rằng Spencer Skipjack là ông chủ của Viceroy Industries - tên tuổi lớn trong ngành ống nước và đồng thời cũng là nhân vật được tất cả mọi người kỳ vọng sẽ xây dựng một kiểu sân golf nghỉ dưỡng địa phương và khu chung cư cao cấp, thu hút cả khách du lịch lẫn những người nghỉ hưu và sẽ giải thoát thị trấn khỏi tình hình kinh tế u ám hiện thời. Có vẻ như trung tâm công nghiệp duy nhất của Wynette có quy mô tầm tầm là công ty điện tử do cha của Kenny, Warren Traveler, đồng sở hữu. Nhưng chỉ một công ty thì không đủ sức chống đỡ cho nền kinh tế địa phương, và thị trấn đang rất cần công việc cũng như nguồn thu nhập mới.
“Ngày mai, chúng ta phải mang đến cho Spence phút huy hoàng của đời ông ta,” Ted nói. “Cho ông ta thấy tương lai ông ta sẽ ra sao nếu ông ta chọn Wynette. Tôi sẽ đợi đến bữa tối mới bàn về công việc - trình bày các ưu đãi thuế má, nhắc đến những lợi lộc mà ông ta sẽ thu được trên mảnh đất ấy. Anh biết phải làm gì rồi đấy.”
“Giá như Windmill Creek rộng rãi thì ta đã có thể san phẳng rồi dựng khu nghỉ dưỡng ở đấy rồi.” Nghe cách nói của Kenny thì có thể đoán ra chủ đề này đã được họ thảo luận khá thường xuyên.
“Chắc chắn như thế thì chi phí xây dựng sẽ rẻ hơn nhiều.” Ted nện lon bia xuống bên. “Torie muốn ngày mai chơi cùng chúng ta, vậy nên tôi đã bảo nếu thấy cô ấy lảng vảng gần câu lạc bộ, tôi sẽ cho bắt giam cô ấy ngay.”
“Nói thế cũng chẳng ngăn được con bé đâu,” Kenny nói, “em gái tôi mà đến thì chúng ta tiêu chắc. Spence biết rõ ông ta không thể chơi hay hơn chúng ta, nhưng ông ta không thích bị đánh bại bởi một phụ nữ, mà kỹ thuật chơi các trận golf ngắn của Torie cũng chẳng hề kém cạnh so với tôi đâu.”
“Dex sẽ bảo Shelby để mắt đến Torie.”
Meg tự hỏi không biết Dex có phải tên gọi tắt của Dexter, cái tên đã được dùng để đăng ký cho tổ ấm tình yêu của Ted không.
Ted dựa lưng vào tường. “Ngay khi phong thanh biết tin Torie dự định trám nốt chỗ trống trong trận đấu golf bốn bên của chúng ta, tôi đã đề nghị cha tôi bay từ New York về rồi.”
“Thế thì Spence sẽ phổng hết cả mũi lên cho mà xem. Được chơi cùng Dallas Beaudine cơ mà.”
Meg nhận thấy trong giọng Kenny phảng phất vẻ hờn dỗi, và rõ ràng Ted cũng vậy.
“Đừng có cư xử như con gái thế. Anh cũng nổi tiếng đâu kém gì cha tôi đâu.” Nụ cười của Ted nhạt dần, và anh buông đôi tay thõng xuống giữa hai đầu gối. “Nếu chúng ta không giải quyết xong xuôi vụ này, không biết thị trấn sẽ phải gánh chịu những tổn thất lớn thế nào đây.”
“Đã đến lúc cậu cho mọi người biết chính xác tình hình nghiêm trọng như thế nào rồi đấy.”
“Họ đã biết từ lâu rồi. Nhưng bây giờ, tôi không muốn bất kỳ ai toang toác chuyện đó ra.”
Lại thêm một khoảng im lặng nữa khi hai người đàn ông uống nốt lon bia. Cuối cùng, Kenny đứng dậy ra về. “Chuyện này không phải lỗi của cậu, Ted. Trước khi cậu đồng ý nhận chức thị trưởng, mọi thứ đã loạn cào cào lên rồi.”
“Tôi hiểu mà.”
“Cậu đâu phải chuyên gia ban phát phép mầu. Cậu chỉ có thể nổ lực hết sức thôi.”
“Anh cưới Công nương Emma lâu quá rồi,” Ted lẩm bẩm.
“Anh nói năng chẳng khác gì cô ấy. Rồi chẳng mấy chốc, anh sẽ mời tôi gia nhập câu lạc bộ sách chết tiệt của anh cho xem.”
Cứ thế, hai người đàn ông vừa đá qua đá lại vừa tiến ra bên ngoài. Tiếng nói nhỏ dần. Một chiếc ô tô gầm gừ nổ máy. Meg khuỵu người quỳ xuống, tự cho phép mình thở phào.
Và rồi cô nhận ra đèn vẫn sáng.
Cửa ra vào lại mở ra, rồi tiếng bước chân của một ai đó vang vọng trên mặt sàn lát gỗ thông. Cô liếc mắt nhòm xuống dưới. Ted đang đứng giữa phòng, hai ngón tay cái móc vào túi quần jean phía sau. Anh nhìn chằm chằm về chỗ trước đây từng đặt ban thờ, nhưng lần này hai vai anh hơi rũ xuống, thành ra trong một giây phút hiếm hoi, cô đã thấp thoáng bắt gặp hình ảnh con người thật đằng sau lớp vỏ điềm tĩnh, luôn tự chủ.
Giây phút ấy trôi qua nhanh chóng. Anh tiến về phía cánh cửa thông với căn bếp. Ruột gan cô thít lại trong nỗi kinh hoàng. Ngay sau đó, cô nghe thấy một tiếng chửi thề rất to và vô cùng giận dữ.
Cô thụp đầu xuống, giấu mặt vào lòng bàn tay. Tiếng bước chân thình thịch âm vang khắp nhà thờ. Biết đâu đấy, nếu cô im thin thít...
“Meg!”