We are too civil to books. For a few golden sentences we will turn over and actually read a volume of four or five hundred pages.

Ralph Waldo Emerson

 
 
 
 
 
Tác giả: Diana Wynne Jones
Thể loại: Truyện Ngắn
Biên tập: diep ho
Upload bìa: diep ho
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 43
Cập nhật: 2023-04-08 21:56:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6: Abdullah Tránh Vỏ Dưa Gặp Vỏ Dừa
HƯƠNG 6
Abdullah tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa
Abdullah bị đám lính tống vào một hầm giam sâu và hôi hám, nơi ánh sáng duy nhất đến từ ô lưới sắt cao trên trần - và ánh sáng lọt vào không phải ánh sáng ban ngày. Có lẽ nó đến từ một cửa sổ phía xa ở cuối hành lang tầng trên, nơi ô lưới sắt là một phần mặt sàn.
Biết rõ đây là thứ mình phải trông đợi, Abdullah cố gắng lấp đầy ánh mắt và tâm trí bằng hình ảnh của ánh sáng khi đám lính lôi anh đi. Trong khoảng lặng lúc đám lính đang mở cửa phía ngoài dẫn vào hầm ngục, anh ngước lên nhìn quanh. Họ đang ở trong một cái sân nhỏ tối tăm với những bức tường đá trống trơn như vách núi bốn phía xung quanh. Nhưng nếu ngửa đầu ra sau, Abdullah có thể vừa vặn thấy một ngọn tháp nhỏ ở cách hơi xa, được viền trong vầng sáng ban mai đang dần rực rỡ. Anh kinh ngạc thấy mới chỉ qua bình minh một tiếng. Phía trên tháp, chỉ có một đám mây hiền hòa lững lờ giữa bầu trời xanh thẫm. Buổi sáng vẫn đang nhuộm ánh đỏ và vàng lên đám mây, khiến nó trông giống một tòa lâu đài cao ngất với những ô cửa sổ vàng đồng. Ánh sáng vàng rọi lên đôi cánh một chú chim trắng bay quanh ngọn tháp. Abdullah chắc chắn đây là cảnh đẹp cuối cùng mà anh được thấy trong đời. Anh ngoái đầu nhìn lại khi đám lính lôi anh vào bên trong.
Anh cố trân trọng hình ảnh ấy khi bị giam vào hầm ngục xám xịt lạnh lẽo, nhưng chẳng thể làm được. Hầm giam quả là một thế giới khác. Trong một lúc lâu, anh đau khổ đến nỗi không để ý thấy mình gò bó thế nào khi bị xiềng xích. Tới lúc chú ý, anh cựa mình và leng keng nhúc nhích trên mặt sàn lạnh, nhưng chẳng có ích gì mấy.
“Mình phải lường được là sẽ phải sống cả đời như thế này,” anh tự nhủ. “Dĩ nhiên trừ phi ai đó cứu được Hoa Đêm.” Điều đó khó mà xảy ra, bởi nhà vua không chịu tin rằng có ma thần.
Sau đó, anh cố xua đuổi nỗi tuyệt vọng bằng những giấc mơ giữa ban ngày. Nhưng không biết tại sao tưởng tượng mình là một hoàng tử bị bắt cóc cũng chẳng có ích gì. Anh biết đó không phải sự thật, và anh cứ ân hận mãi rằng Hoa Đêm đã tin anh khi anh kể câu chuyện đó. Nàng hẳn đã quyết định lấy anh vì nàng tin rằng anh là một hoàng tử - bởi nàng cũng là công chúa, giờ anh đã biết điều đó. Anh chỉ đơn giản không thể tưởng tượng mình có bao giờ dám nói thật với nàng. Trong một lúc, anh thấy mình đáng chịu vận mệnh tồi tệ nhất nhà vua có thể nghĩ ra và bắt anh phải chịu.
Rồi anh bắt đầu nghĩ về Hoa Đêm. Dù đang ở đâu, rõ ràng chí ít nàng cũng sợ hãi và đau khổ như anh bây giờ. Abdullah khao khát muốn an ủi nàng. Anh muốn cứu được nàng đến nỗi anh mất một lúc vặn vẹo xiềng xích trong vô vọng.
“Chắc chắn là sẽ không có ai khác tìm cách cứu nàng,” anh thì thầm. “Mình phải ra khỏi đây!”
Rồi, dù biết đây chỉ là một việc ngớ ngẩn hệt như những chuyện mơ mộng của anh, anh vẫn cố gắng triệu hồi tấm thảm ma thuật. Anh tưởng tượng nó nằm trên sàn quầy hàng, và anh gọi nó, thành tiếng, hết lần này đến lần khác. Anh hô tất cả những từ nghe có vẻ mầu nhiệm mà anh nghĩ ra được, hy vọng một trong số chúng sẽ là khẩu lệnh.
Chẳng có gì xảy ra cả. Và thật ngớ ngẩn khi nghĩ sẽ có gì xảy ra! Abdullah nghĩ. Thậm chí dù tấm thảm có thể nghe thấy anh từ hầm ngục, cứ cho rằng cuối cùng anh cũng nói đúng khẩu lệnh đi, thì làm sao một tấm thảm mầu nhiệm có thể len vào đây qua tấm lưới sắt nhỏ xíu? Và cứ cho rằng nó thật sự len vào được, nó đưa Abdullah ra ngoài kiểu gì?
Abdullah bỏ cuộc và dựa vào tường, nửa ngủ gật, nửa tuyệt vọng. Lúc này hẳn là lúc nóng nhất trong ngày, khi hầu hết người dân thành Zanzib nghỉ ngơi, ít nhất cũng là chút xíu. Chính Abdullah cũng thường ngồi trên đống thảm ít quý giá trong bóng râm quầy hàng khi anh không đi ra công viên công cộng, rồi uống nước hoa quả, hoặc rượu nếu anh trả nổi tiền, và uể oải tán dóc với Jamal. Không làm được thế nữa rồi. Mà đây chỉ mới là ngày đầu tiên của mình thôi! anh ủ dột nghĩ. Mình đang đếm từng giờ. Phải mất bao lâu nữa mình sẽ không cảm nhận được cả ngày tháng?
Anh nhắt mắt lại. Có một điểm sáng. Cuộc lục soát từng nhà để tìm con gái nhà vua ít nhất sẽ gây chút phiền toái cho Fatima, Hakim và Assif, chỉ đơn giản vì người ta biết họ là những họ hàng duy nhất của Abdullah. Anh hy vọng đám lính sẽ lật tung cả cái cửa hàng màu tím ấy. Anh hy vọng chúng xẻ đôi tường và mở tất cả những tấm thảm ra. Anh hy vọng chúng bắt giam...
Có thứ gì đó rơi lên sàn trước chân Abdullah.
Vậy là họ ném cho mình thức ăn, Abdullah nghĩ, nhưng mình thà chết đói còn hơn. Anh lười biếng mở mắt ra. Mắt anh bất giác trợn trừng.
Ở đó, trên sàn hầm giam là tấm thảm mầu nhiệm. Phía trên, con chó khó tính của Jamal đang yên lành ngủ.
Abdullah trân trân nhìn cả hai. Anh có thể tưởng tượng ra, trong cái nóng ban trưa, con chó có thể nằm xuống dưới bóng quầy hàng của mình. Anh có thể thấy nó nằm lên tấm thảm vì tấm thảm thoải mái. Nhưng làm sao một con chó - một con chó! lại có thể nói ra khẩu lệnh thì anh hoàn toàn chịu không hiểu nổi. Và khi anh trân trối nhìn, con chó bắt đầu mơ. Bốn chân nó cử động. Mũi nó nhăn nhăn, và nó khụt khịt, như thể nó ngửi thấy mùi gì ngon lành lắm, rồi nó rên rỉ khe khẽ, như thể bất cứ mùi hương nào nó đã ngửi thấy trong mơ đang rời nó mà đi.
“Bạn thân mến, có phải là mày đang mơ về tao, và về lúc tao cho mày phần lớn bữa sáng của tao không?” Abdullah nói với nó.
Trong giấc ngủ, con chó nghe thấy anh. Nó ngáy một tiếng to và tỉnh dậy. Đúng như một con chó, nó không mất thời gian để phân vân xem tại sao mình lại ở hầm giam xa lạ này. Nó khụt khịt và ngửi Abdullah. Nó nhảy lên với một tiếng sủa vui sướng, ấn chân vào xiềng xích trên ngực Abdullah và háo hức liếm mặt anh.
Abdullah cười phá lên rồi quay đầu để mũi không bắt lấy hơi thở đầy mùi mực của con chó. Anh hiện cũng vui vẻ như nó. “Vậy là mày đã mơ về tao!” anh nói. “Cậu bạn ơi, tao sẽ cho mày một tô mực mỗi ngày. Mày đã cứu mạng tao, và có lẽ là cả Hoa Đêm nữa!”
Ngay khi con chó bớt phấn khích, Abdullah bắt đầu lăn mình và nhích đi trên sàn trong đám xiềng xích cho tới khi nằm chống một khuỷu tay trên tấm thảm. Anh thở dài thật dài. Giờ anh đã an toàn. “Tới đây nào,” anh nói với con chó. “Lên thảm với tao nào.”
Nhưng con chó đã bắt được thứ mùi rõ ràng là của chuột trong góc hầm ngục. Nó đuổi theo mùi ấy, đoạn khịt mũi thích thú. Với mỗi tiếng khụt khịt, Abdullah có thể cảm thấy tấm thảm rung lên bên dưới anh. Anh đã có câu trả lời mình cần.
“Đi theo tao nào,” anh nói với con chó. “Nếu tao bỏ mày lại đây, họ sẽ tìm thấy mày khi đến tra hỏi tao, và họ sẽ cho rằng tao đã tự biến mình thành chó. Rồi số phận của tao sẽ thành của mày. Mày đã mang tấm thảm đến cho tao và chỉ cho tao bí mật của nó, nên tao không thể nhìn mày mắc kẹt trên cái cọc mười hai mét được.”
Con chó sục mũi vào góc ngục. Nó không chú ý đến lời anh nói. Abdullah nghe thấy bước chân rầm rập và tiếng chìa khóa loảng xoảng không lẫn đi đâu được dù đã qua bức tường dày của hầm ngục. Có người đang đến. Anh bỏ cuộc, không thuyết phục con chó nữa. Anh nằm lên tấm thảm.
“Lại đây, cậu nhóc!” anh nói. “Tới đây liếm mặt tao nào!”
Con chó hiểu lời này. Nó rời khỏi góc hầm giam, nhảy lên ngực Abdullah và nghe theo lời anh.
“Thảm bay,” Abdullah thì thầm dưới cái lưỡi vội vã liếm mặt anh. “Tới chợ, nhưng không hạ cánh. Bay phía trên quầy hàng của Jamal.”
Tấm thảm cất cánh và chao nghiêng - một điều rất đúng đắn. Người ta đang tra chìa khóa mở cửa hầm ngục. Abdullah không chắc tấm thảm rời khỏi hầm ngục như thế nào, vì con chó vẫn liếm mặt anh, và anh buộc phải nhắm mắt lại. Anh cảm thấy một cái bóng ẩm ướt lướt qua mình, có lẽ đó là khi họ chui xuyên qua tường - và rồi ánh nắng rực rỡ. Con chó ngẩng đầu lên trong nắng, bối rối. Abdullah nheo mắt nhìn xéo qua xiềng xích và thấy một bức tường cao lừng lững xuất hiện phía trước họ, và rồi rớt lại khi tấm thảm nhẹ nhàng bay vút lên qua nó. Rồi tiếp theo là một chuỗi các ngọn tháp và mái nhà, cảnh tượng khá quen thuộc với Abdullah dù anh mới chỉ thấy chúng buổi đêm. Rồi sau đó, tấm thảm bay vụt xuống rìa khu chợ. Vì thực ra lâu đài của nhà vua chỉ cách quầy hàng của Abdullah có năm phút đi bộ.
Quầy hàng của Jamal lọt vào tầm nhìn, và ở bên cạnh nó là quầy hàng tan nát của Abdullah, nơi những tấm thảm bị vứt khắp lối đi. Rõ ràng quân lính đã tìm Hoa Đêm ở đây. Jamal đang ngủ gật, đầu gục trên cánh tay giữa một nồi mực lớn đang sôi và một vỉ than với thịt xiên nướng bốc khói bên trên. Jamal ngẩng đầu dậy và con mắt duy nhất của anh ta trân trân nhìn khi tấm thảm bay lững lờ trong không trung phía trước mình.
“Xuống đi, cậu nhóc!” Abdullah nói. “Jamal, gọi chó của anh đi.”
Jamal rõ ràng rất sợ. Thật chẳng vui vẻ tí nào khi mở quầy hàng bên cạnh bất cứ ai nhà vua muốn xiên trên cọc. Anh ta không thốt nổi nên lời. Vì con chó chẳng để ý đến ai, Abdullah cố gắng ngồi dậy, leng keng loảng xoảng mướt mồ hôi. Nhờ vậy con chó bị hất xuống. Nó nhanh nhẹn nhảy lên quầy hàng, và Jamal lơ đễnh ôm nó vào lòng.
“Cậu muốn tôi làm gì?” anh ta vừa hỏi vừa nhìn bộ xiềng xích. “Tôi đi tìm thợ rèn nhé?”
Đây là bằng chứng cho tình bạn của Jamal, và Abdullah thấy cảm động trước điều đó. Nhưng khi đã ngồi dậy, anh nhìn được xuống lối đi giữa những quầy hàng. Anh có thể thấy đôi bàn chân đang chạy dưới đó và mớ quần áo phần phật. Có vẻ một người chủ hàng đang chạy đi tìm lính canh - dù có điều gì ở bóng người đang chạy đó khiến Abdullah thấy rất giống Assif. “Không,” anh nói. “Không còn thời gian.” Leng keng leng keng, anh nhích chân trái ra rìa tấm thảm. “Thay vì thế hãy giúp tôi làm việc này. Đặt tay anh lên đường thêu trên ủng trái của tôi.”
Jamal tuân theo, vươn cánh tay cơ bắp ra, rất cẩn thận chạm vào đường thêu. “Có phải bùa chú gì không?” anh ta căng thẳng hỏi.
“Không,” Abdullah trả lời. “Ở đấy giấu một túi tiền. Anh thò tay vào lấy tiền ra đi.”
Jamal bối rối, nhưng những ngón tay vẫn lần mò, tìm đường vào bên trong và lôi ra một nắm đầy tiền vàng. “Ở đây có cả gia tài,” anh ta nhận xét. “Chỗ này có đổi lấy tự do cho cậu được không?”
“Không,” Abdullah nói. “Đây là cho anh đấy. Họ sẽ truy đuổi anh và chú chó của anh vì đã giúp tôi. Hãy lấy tiền vàng và đưa chó của anh đi. Rời khỏi Zanzib. Đi về hướng Bắc, tới những miền đất man rợ nơi anh có thể ẩn trốn.”
“Phương Bắc!” Jamal kêu lên. “Nhưng tôi làm được gì ở phương Bắc chứ?”
“Hãy mua bất cứ thứ gì anh cần và mở một nhà hàng đồ ăn Rashpuht,” Abdullah nói. “Ở đây có đủ vàng cho chuyện đó, mà anh thì là một đầu bếp tuyệt vời. Anh có thể kiếm bộn ở đấy.”
“Thật không?” Jamal nhìn từ Abdullah sang nắm tiền vàng. “Cậu thật sự nghĩ tôi có thể thành công chứ?”
Nãy giờ Abdullah vẫn thận trọng quan sát con đường. Giờ anh thấy nơi đó đầy người, không phải lính canh mà là lính đánh thuê phương Bắc, và chúng đang chạy. “Chỉ khi anh rời đi ngay lúc này,” anh nói.
Jamal nghe thấy tiếng xủng xoẻng của quân lính đang chạy. Anh ta nhoài ra ngoài để chắc chắn. Rồi anh ta huýt sáo gọi con chó và biến mất, nhanh chóng khẽ khàng đến mức Abdullah chỉ có thể thán phục mà thôi. Jamal thậm chí còn thừa thời gian lấy thịt ra khỏi giá nướng để nó không cháy khét. Tất cả những gì đám lính tìm thấy sẽ chỉ là một nồi mực gần sôi.
Abdullah thì thầm với tấm thảm, “Đến sa mạc. Nhanh lên!”
Tấm thảm lập tức cất cánh, vẫn với kiểu bay nghiêng vội vã của nó. Abdullah nghĩ mình hẳn sẽ bị rớt khỏi tấm thảm, nhưng sức nặng của mớ xiềng xích khiến nó hõm xuống ở giữa, giống như một cái võng. Mà tốc độ thì rất cần thiết. Đội lính la hét phía sau anh. Có tiếng đùng đoàng. Trong một thoáng, hai viên đạn và một mũi tên xiên vào bầu trời xanh bên cạnh tấm thảm, và rồi rơi lại đằng sau. Tấm thảm lao đi, qua các mái nhà, qua các bức tường, sát qua các tòa tháp, rồi lướt qua những cây dừa và khu vườn trong chợ. Cuối cùng nó phóng vào khoảng không xám xịt nóng nực, lấp lánh trắng vàng bên dưới vòm trời bao la, nơi xiềng xích trên người Abdullah bắt đầu ấm lên tới mức khó chịu.
Tiếng gió ngừng lại. Abdullah ngẩng đầu lên và thấy thành Zanzib chỉ còn là một cụm tháp nhỏ đến đáng ngạc nhiên ở đường chân trời. Tấm thảm trôi chầm chậm qua một người cưỡi lạc đà và ông ta quay gương mặt bịt kín lại nhìn. Nó bắt đầu hạ xuống cát. Thấy thế, người kia quay cả lạc đà lại và thúc nó đi nước kiệu sau tấm thảm. Abdullah hầu như có thể trông thấy hắn vui sướng nghĩ đây là cơ hội chạm tay vào một tấm thảm mầu nhiệm thực sự mà chủ nhân của nó bị xiềng xích và không thể chống lại hắn.
“Bay lên, bay lên!” anh gần như gào lên với tấm thảm. “Bay về phía Bắc đi!”
Tấm thảm lại kềnh càng bay lên không. Sự khó chịu và miễn cưỡng tỏa ra từ từng sợi vải. Nó nặng nề đảo nửa vòng và nhẹ nhàng bay về phía Bắc với tốc độ đi bộ. Kẻ cưỡi lạc đà cắt ngang qua nửa vòng đó và bắt đầu phi nước đại. Vì chỉ cách mặt đất khoảng gần ba mét, tấm thảm là mục tiêu dễ dàng cho một kẻ cưỡi lạc đà phi nước đại.
Abdullah thấy đã đến lúc mau mồm mau miệng. “Hãy cẩn thận!” anh hét lên với kẻ cưỡi lạc đà. “Zanzib đã đuổi tôi ra trong xiềng xích vì sợ tôi sẽ làm lây lan bệnh dịch mình mắc phải!” Kẻ cưỡi lạc đà chẳng dễ bị lừa gạt. Hắn kéo dây cương và đuổi theo với tốc độ thận trọng hơn, trong khi lôi một cái gậy chống lều ra khỏi hành lý. Rõ ràng hắn định chọc cho Abdullah ngã xuống đất. Abdullah vội vã chú tâm tới tấm thảm. “Hỡi tấm thảm tuyệt vời nhất,” anh nói. “Hỡi tấm thảm màu sắc rực rỡ nhất và được dệt tinh xảo nhất, với những họa tiết được cường hóa khéo léo bằng phép mầu, ta sợ rằng ta đã không đối xử với ngươi bằng sự kính trọng đúng mực. Ta đã gắt lên ra lệnh, và thậm chí la hét với ngươi, trong khi giờ đây ta đã nhận ra rằng bản tính dịu dàng của ngươi chỉ cần những yêu cầu được thốt ra nhỏ nhẹ nhất. Thứ lỗi cho ta, ôi hãy thứ lỗi cho ta!”
Tấm thảm tán thưởng điều này. Nó căng ra trên không, và tăng tốc một chút.
“Và ta đúng là đồ chó má,” Abdullah tiếp tục. “Ta đã bắt ngươi phải lao lực trong cái nóng của sa mạc với mớ xiềng xích nặng trĩu khủng khiếp này. Ôi tấm thảm tốt và thanh nhã nhất, giờ ta chỉ nghĩ đến ngươi và làm sao để có thể vứt bỏ sức nặng này ra khỏi ngươi. Nếu ngươi bay với một tốc độ nhẹ nhàng - xem nào, chỉ hơi nhanh hơn lạc đà chạy nước đại một chút - tới điểm gần nhất trong sa mạc phía Bắc nơi ta có thể tìm thấy ai đó tháo được mớ xiềng xích này ra, thì liệu bản tính tốt bụng và quý phái của ngươi có chấp nhận việc này không?”
Anh có vẻ đã chạm đúng chỗ nhột. Một chút tự hào kiêu ngạo toát ra từ tấm thảm. Nó bay cao lên khoảng ba mươi phân, hơi thay đổi hướng, và cố ý bay về phía trước với tốc độ bảy mươi dặm một giờ. Abdullah bám vào rìa tấm thảm, và ngoái lại nhìn tên cưỡi lạc đà vỡ mộng, kẻ rất nhanh chỉ còn là một cái chấm trên sa mạc đằng sau anh.
“Ôi món bảo vật cao quý nhất, ngươi đúng là vua của những tấm thảm, và ta là tên nô lệ hèn mọn của ngươi!” anh trơ trẽn nói.
Tấm thảm thích những lời này đến mức nó bay thậm chí còn nhanh hơn.
Mười phút sau, nó bay qua một cồn cát và ngừng lại đột ngột ở phía bên kia, chỉ ngay dưới đỉnh cồn cát. Và nghiêng xuống. Abdullah bất lực lăn tròn giữa một đám mây cát. Và anh tiếp tục lăn lông lốc, leng keng, loảng xoảng, nẩy lên nẩy xuống, khiến nhiều cát tung lên hơn, và rồi - sau những nỗ lực tuyệt vọng - trượt xọc chân vào một rãnh cát, xuống tận rìa của một ao nước nhỏ đầy bùn giữa một ốc đảo. Vài kẻ ăn mặc xơ xác đang túm tụm cúi người trên một thứ gì đó ở rìa ao, và đứng bật dậy rồi tản ra khi Abdullah lăn sầm vào họ. Bàn chân Abdullah mắc phải thứ họ đang cúi nhìn, và đá nó bắn lại vào trong ao. Một người đàn ông hô lên phẫn nộ và nhảy ùm xuống nước để vớt lấy nó. Những người còn lại rút dao kiếm ra - và một người rút súng lục dài - và bao vây Abdullah đầy đe dọa.
“Cắt cổ hắn đi,” một người nói.
Abdullah chớp chớp cho cát ra khỏi mắt, lòng thầm nghĩ anh hiếm gặp đám người nào hung ác hơn. Chúng đều có gương mặt đầy sẹo, đôi mắt gian xảo, răng sâu và biểu cảm khó chịu. Người cầm khẩu súng lục là kẻ trông khó chịu nhất. Gã đeo khuyên trên một bên cái mũi khoằm lớn, và có bộ ria mép rất rậm rạp. Vải trùm đầu của gã được cài cao một bên với chiếc ghim vàng có gắn viên đá đỏ lấp lánh.
“Mày từ đâu chui ra?” gã đàn ông đó hỏi. Hắn đá Abdullah. “Giải thích đi.”
Tất cả bọn chúng, cả người đang leo lên khỏi ao nước bùn với thứ trông giống cái chai, đều nhìn Abdullah với biểu cảm nói lên rằng tốt nhất anh nên có lý do chính đáng vào.
Nếu không thì liệu hồn.
Lâu Đài Trên Mây Lâu Đài Trên Mây - Diana Wynne Jones Lâu Đài Trên Mây