If there's a book you really want to read but it hasn't been written yet, then you must write it.

Toni Morrison

 
 
 
 
 
Tác giả: Na Đa
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 27
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1667 / 13
Cập nhật: 2015-08-04 19:33:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5
ậy là điểm nghi vấn này giờ chuyển từ câu hỏi “Vì sao quân xâm lược Nhật không ném bom bốn tòa nhà ba tầng?” sang câu hỏi “Vì sao quân xâm lược Nhật không ném bom khu vực này?” Những câu hỏi này vẫn là một câu hỏi chưa thể tìm ra lời giải như câu hỏi trước.
“Bác ơi, ban nãy bác nói bốn anh em nhà họ Tôn không còn, nghĩa là sao hả bác?” Câu hỏi này với tôi rất quan trọng bởi lẽ tôi đã hướng sự chú ý sang bốn anh em nhà họ Tôn, nếu tìm được bốn anh em nhà họ Tôn hoặc hậu duệ của họ thì mọi việc sẽ sáng tỏ.
“Mất tích, không ai biết họ đi đâu cả. Chuyện xảy ra khoảng một tháng sau ngày quân Nhật ném bom. Về sau, người ta không cho những người không phận sự vào trong khu đất mà bốn anh em họ Tôn đã mua. Khi quân Nhật trở lại tấn công khu vực này lần nữa thì đội ngũ vẫn trở nên rối loạn. Tôi cũng không biết rốt cuộc bốn anh em họ mất tích vào lúc nào, nghe nói phủ Tuần phủ phải lập hồ sơ điều tra vụ án, phái người đi tìm nhưng không có kết quả”.
Tối đến, tôi ngồi dựa vào đầu giường. Tờ giấy trong tay tôi vàng vọt dưới ánh đèn ngay đầu giường.
Ban ngày, lúc sắp sửa ra về, tôi bảo ông lão Dương Thiết phác họa lại cho tôi hình dạng của lá cờ kì dị in trong trí nhớ ông lão. Lá cờ này gây cho ông lão ấn tượng khá sâu sắc nên chỉ loáng một cái, ông lão đã vẽ xong nó bằng thứ mực của bút bi. Ông lão chỉ vào những hoa văn trên lá cờ và nói dõng dạc như tuyên thệ: “Đúng nó đấy”.
Tất nhiên, nó không phải là quốc kì của một đất nước nào cả. Không cần quan sát kĩ nó, chỉ lướt nhìn mấy chỗ bí ẩn chạy dọc theo đường viền của nó cũng đủ biết, làm gì có lá quốc kì nào quái dị như thế? Tôi chỉ hi vọng có thể khám phá ra xuất xứ của nó từ những hoa văn phác họa trên nó. Vì tôi cũng có kinh nghiệm trong lĩnh vực này rồi, không đến nỗi mù tịt những kí hiệu bí ẩn như người bình thường.
Nhưng tôi lại chẳng khám phá ra điều gì. Nhìn những nét vẽ vòng vèo, chệch choạc như con nòng nọc, tôi thật tình không thể liên hệ nó với bất kì một kí hiệu nào hằn in trong đầu óc tôi.
Tôi nhìn lá cờ rất lâu. Những nét vẽ vòng vèo dường như động đậy. Tôi tiện tay đặt tờ giấy lên cái tủ kê phía đầu giường ở ngay bên cạnh. Tôi biết nó chỉ là ảo giác, giống như khi ta nhìn chăm chăm vào một chữ trong thời gian dài thì ngay cả một chữ mà vốn dĩ ta có thể nhận ra dù nó bé xíu cũng trở nên xa lạ. Cái lá cờ do ông lão Dương Thiết vẽ này chẳng hấp dẫn như lá cờ mà Tôn Tam Gia giương cao trong tay như trong trí nhớ của ông.
Tôi đã mạo hiểm nhiều lần nên hiếm khi tin vào mấy chuyện kì quái, nhưng cũng dám bạo gan suy nghĩ, nếu quả có lá cờ khiến con người khiếp nhược thì câu đố bí ẩn còn lưu lại từ trận hỏa chiến ở “khu ba tầng” sẽ có lời giải đáp. Bởi lẽ, khả năng oanh tạc ở tầng không gian thấp của những chiếc máy bay ném bom năm xưa hoàn toàn phụ thuộc vào tầm nhìn của phi công, song người phi công khi nhìn thấy lá cờ này lại hốt hoảng mà không dám tiếp cận mục tiêu thì vùng này sẽ được an toàn. Nếu sự việc quả diễn ra chân thực như lời ông lão Dương Thiết, đó là lá cờ ấy có thể tác động khủng khiếp tới tâm lý con người thì những gã phi công người Nhật bản lĩnh phải cao cường lắm mới không bị đâm nhào xuống đất.
Thật tuyệt! Giờ thì tôi đã tìm được lời giải cho câu đố còn lưu lại từ “khu ba tầng” nhờ vào suy nghĩ táo bạo của mình. Nhưng thế thì sao nào? Cứ cho là tôi tin vào điều đó, nhưng liệu người khác có tin như tôi? Tôi có thể viết một bài báo nhan đề “Lá cờ ma đánh tan quân Nhật” không? Tôi có thể viết như thế không? Hay tôi sẽ lập tức bị đuổi việc sau khi nộp bài viết?
Hơn nữa, cứ theo trí nhớ của ông lão Dương Thiết, lá cờ ấy đã đuổi được quân Nhật, nhưng nó đơn thuần chỉ là tác dụng phụ mà thôi. Còn chuyện bốn anh em nhà họ Tôn xưa nay cầm lá cờ này, vẽ một vòng tròn đánh dấu phạm vi, yêu cầu tất cả những hộ gia đình nằm trong phạm vi ấy phải chuyển ra ngoài sinh sống chắc chắn có ý đồ riêng của họ. Họ muốn làm gì? Lá cờ trong tay họ là lá cờ như thế nào?
Chà, tắt đèn đi ngủ thôi.
Sáng hôm sau, tôi gõ cửa nhà bác Phó Tích Đệ.
Chiếc máy ghi âm của tôi vừa bật là những chuyện của năm xưa tức thì tuôn ào ào khỏi miệng bác, không ngừng nghỉ. Phụ nữ lúc nào cũng ưa dài dòng, chuyện ông lão Dương Thiết chỉ nói trong một phút thì bác Phó Tích Đệ phải mất gấp đôi thời gian để kể lại.
Trí nhớ của phụ nữ thường tốt hơn trí nhớ của đàn ông, nhất là khi bác Phó Tích Đệ nhớ về lá cờ ma đã hằn in dấu ấn cực kì sâu sắc trong kí ức của bác. Phải, tôi nghe rất rõ bác Phó Tích Đệ gọi lá cờ đó là lá cờ ma.
Từ trong lời kể của bác, tôi biết thêm rất nhiều tình tiết, chỉ có điều những tình tiết này lại không quá quan trọng đối với mục đích của tôi. Trong lúc say sưa nói, thỉnh thoảng bác lại lạc đề, ví như đang kể về lá cờ ma tự nhiên bác lại nói tới chuyện may vá thêu thùa.
“Đẹp thật, đường thêu rất sống động, rất có hồn”. Bác Phó Tích Đệ loay hoay lôi từ trong đáy hòm ra một bức thêu được thêu từ năm xưa. Làm khách nhà người ta nên dù thế nào đi nữa tôi cũng phải khen vài câu. Đường thêu khá tinh tế, thời đó, phụ nữ thường rất khéo trong chuyện may vá thêu thùa.
Nhìn gương mặt rạng rỡ như bông hoa thắm nở của bác tôi biết mình phải cố gắng hết sức kéo câu chuyện trở lại chủ đề chính. Quả tình tôi không sao hiểu nổi, rõ ràng bác đang kể một câu chuyện kì bí quái dị, đang kể về một ấn tượng sâu sắc khiến bác năm xưa hãi hùng khủng khiếp, thế mà tự dưng bác lại lạc đề?
Tôi khẽ ho một tiếng, bảo bác: “Cháu nghe nói năm đó xảy ra một chuyện khiến bốn anh em nhà họ Tôn từ đó về sau không cầm lá cờ đi diễu phố nữa, bác có ở đó lúc xảy ra chuyện không ạ?”
Tay bác đột nhiên run rẩy, chiếc khăn gấm thêu hình đôi uyên ương bay vèo xuống đất.
“Anh, anh cũng biết chuyện đó à?”
“Hôm qua, cháu tới nhà bác Dương Thiết, bác ấy có kể với cháu chuyện này, nhưng bác ấy bảo, bác ấy không có ở đó lúc xảy ra chuyện nên không kể rõ được ạ”. Tôi cúi người nhặt chiếc khăn gấm lên, nhẹ nhàng phủi hết bụi rồi đặt lên bàn trà ngay bên cạnh.
Bác Phó Tích Đệ khẽ thở dài: “Ôi, mong sao tôi cũng không ở đó”.
“Nói như thế tức là bác có mặt ở đó lúc xảy ra chuyện ạ?”, tôi mừng ra mặt.
“Tôi sống tới chừng này tuổi đầu, ngay cả lúc gặp ma đi nữa cũng không khiếp đảm như lúc đó đâu”.
Tôi giật thót tim, không lẽ người phụ nữ này đã gặp ma? Gặp ma, không ít người đã từng trải qua chuyện này, nhiều khi chỉ là tự mình dọa mình, nhưng cũng có một vài trường hợp gặp ma thật và đó là hiện tượng quái dị không thể tìm lời giải thích.
“Lúc đó trong nhà hết muối, tôi định ra khỏi nhà mua một gói muối hạt, vừa hay gặp bốn anh em nhà họ Tôn cầm cờ lướt qua. Tôi không dám nhìn thẳng vào lá cờ ma chỉ trừ lần đầu không biết. Ngoài lão Dương Thiết không thích sống ra, chẳng ai dám cố tình nhìn lá cờ ma đó cả. Nếu không nhìn thẳng vào lá cờ ma đó thì cũng không sao, cùng lắm chỉ thấy nó u ám. Lần đó, tôi vốn không định nhìn, kết quả đi đứng thế nào mà tôi ngã phịch ra đất, khi tôi ngẩng lên nhìn thì trên phố đã vắng hoe, chẳng có ai ngoài bốn anh em nhà họ Tôn. Cái thân già này của tôi không sợ anh cười chê đâu, nói thật với anh, lúc đó tôi sợ tới nỗi són cả ra quần ấy. Mà chả cứ gì tôi, ngay cả đàn ông đi nữa, mười người thì cũng có tới bốn, năm người khiếp hãi giống tôi, thậm chí có người còn phát điên đấy”.
“Phát điên cơ ạ?”
“Có khoảng ba, bốn người và một số người nữa về sau trở nên hơi cổ quái, người như tôi cũng được gọi là bạo gan rồi đấy”.
“Nhưng rốt cuộc thì đó là chuyện gì ạ?”, nói tới đây tôi vẫn không hiểu vì sao bác Phó Tích Đệ lại bị dọa cho sợ đến mức ấy.
“Chuyện ấy thì không ai có thể giải thích rõ được, người ta chỉ cảm thấy tất cả mọi người tự nhiên đều sợ phát khiếp. Giờ hồi tưởng lại, lúc đó tôi chẳng nghe thấy gì, chẳng nhìn thấy gì hết, nhưng trong lòng bỗng dưng hoảng hốt tới cực điểm, tưởng chừng như trời sập xuống mất rồi”.
Tôi hỏi lại bác mấy lần song vẫn chỉ có một cảm giác vô cùng trừu tượng, chả trách ông lão Dương Thiết cũng không thể nói rõ được, ngay cả người trong cuộc cũng không biết vì sao mình lại sợ đến thế nữa là. Thường thì nỗi hãi hùng của con người luôn có nguyên nhân, là do họ đã nhìn hoặc nghe thấy điều gì đó khiến họ khiếp đảm, đằng này tất cả mọi người hiện diện trên con phố đó lại bị nỗi sợ hãi trực tiếp tấn công, cảm giác sợ hãi tới cực điểm bỗng dưng cồn lên trong lòng.
Lá cờ đó đúng là lá cờ ma, kì quái tới mức không thể tìm thấy dấu vết, ngay cả khi tìm thấy người trong cuộc rồi cũng không thể phá vỡ thành trì bí ẩn của nó.
Tôi lắc đầu, tự sâu trong lòng, tôi cảm thấy không biết mình phải bắt đầu từ đâu. Tôi lôi từ trong túi ra tờ giấy vẽ hình lá cờ ma mà ông lão Dương Thiết đã phác họa cho tôi, đưa cho bác Phó Tích Đệ.
“Chính là lá cờ này phải không bác?”
“Ai bảo thế, nó không giống như vậy đâu.”, tôi không ngờ bác Phó Tích Đệ lại lắc đầu quầy quậy.
“Lá cờ này là do bác Dương Thiết phác họa cho cháu mà, bác ấy còn vỗ ngực khẳng định chắc chắn là nó cơ mà”.
“Xời, lão già ấy hồ đồ còn tôi thì không nhé. Mặc dù tôi chỉ liếc nhìn lá cờ đó có một lần, nhưng đến chết tôi cũng không thể quên hình dạng của nó”. Nói rồi bác Phó Tích Đệ lật sang mặt bên kia của tờ giấy, bác lấy một chiếc bút rồi vẽ lá cờ.
Trên lá cờ là một hình xoáy trôn ốc lòng vòng rất dễ khiến người xem hoa mắt.
“Lá cờ đó có rất nhiều vòng tròn từ trong ra ngoài, cụ thể có bao nhiêu vòng thì tôi không biết, tôi chỉ liếc nhìn lá cờ đó có một lần rồi không bao giờ dám nhìn lại nữa, nhưng chắc chắn là nó có hình dạng như thế này đây”, bác Phó Tích Đệ nói chắc như đinh đóng cột.
Tôi nhìn hai hình vẽ khác nhau hoàn toàn ở hai mặt của tờ giấy rồi lẳng lặng nhét nó vào túi, không nói câu nào. Xét về lý thì ông lão Dương Thiết đã nhìn thấy lá cờ đó nhiều lần, ấn tượng của ông lão với nó khá sâu đậm, còn xét theo tính quy luật của hình vẽ thì lá cờ của bác Phó Tích Đệ lại giống lá cờ thật nhiều hơn.
Xem ra, phải đợi bác Chung Thư Đồng từ Paris trở về, để bác ấy nhận diện lá cờ vậy.
Buổi chiều, về tới tòa soạn, tôi đụng ngay phải người tôi không muốn gặp nhất: sếp Lam.
“Thu hoạch của anh trong hai ngày hôm nay thế nào rồi, bao giờ thì có bài viết đấy?”, sếp Lam vừa cười hi hí vừa hỏi.
Quỷ tha ma bắt, chẳng phải hôm trước vừa nói với tôi “đừng để ý tới thời gian” hay sao, sao bây giờ vừa gặp đã hỏi rồi. Có điều, tôi cũng dự đoán trước được tình huống này nên thật lòng mà nói, tôi không hề muốn gặp anh ta tẹo nào.
Tôi biết nói thế nào về chuyện này nhỉ? Nói rằng có một lá cờ ma mà người lạ không ai dám lại gần, dù đó là người Trung Quốc hay người Nhật Bản ư?
“Cuộc phỏng vấn cũng khá thuận lợi”, tôi gần như không đủ hơi sức để đáp lại câu hỏi của sếp Lam, những mong trả lời qua quýt cho xong rồi tính tiếp.
“Thế à, vậy anh đã điều tra rõ nguyên nhân vì sao bốn tòa nhà ba tầng vẫn nguyên vẹn trong bom đạn chưa? Mấy nhân chứng kể với anh thế nào?”
Lẽ nào anh ta không bận hay sao? Tôi oán thầm trong lòng.
“À, họ chỉ kể một số chuyện liên quan tới người xây bốn tòa nhà ba tầng, nhưng…”, tôi do dự một hồi, ài, việc cần nói thì vẫn cứ phải nói thôi, “thời điểm quân Nhật ném bom Thượng Hải, cả hai người họ đều không ở đó, vì thế nguyên nhân cụ thể thế nào họ cũng không được rõ”.
“Ồ…”, gã đứng trước mặt tôi kéo dài giọng, gương mặt sa sầm hẳn xuống.
“Vẫn còn một người nữa tôi chưa phỏng vấn, chính là nhà sử học nổi tiếng Chung Thư Đồng. Ông ấy cũng là cư dân cũ của ‘khu ba tầng’, mấy hôm trước tôi gọi điện liên hệ thì người nhà ông ấy bảo, ông ấy đi Paris chưa về”.
Chiêu bài vàng này của tôi quả nhiên làm chuyển hướng sự chú ý của sếp Lam. Anh ta nhướn mày nói: “Ngài Chung Thư Đồng ấy hả? Tôi thật không ngờ đấy! Lát nữa anh thử gọi điện xem sao, nếu ông ấy về thì anh tới phỏng vấn ngay nhé, để ông ấy nhìn nhận sâu hơn từ góc độ sử học”.
Tôi ngoài miệng thì đồng ý nhưng trong lòng thì ngầm rủa. Nhìn nhận sâu hơn từ góc độ sử học á? Nhìn nhận cái gì cơ, nhìn nhận trận ném bom đó hay nhìn nhận bốn tòa nhà ba tầng đó? Nói thì nghe có vẻ đúng đấy những ngẫm nghĩ kĩ thì chẳng biết ra làm sao.
Nhưng lãnh đạo đã mở lời, tôi không thể không tuân theo. Bởi thế, việc đầu tiên của tôi khi ngồi vào vị trí là nhấc điện thoại lên, quay số điện thoại nhà bác Chung Thư Đồng.
Quả nhiên, bác ấy đã trở về từ sáng sớm nay.
Mặc dù trong lòng tôi nghĩ, một vị cao niên như bác Chung Thư Đồng cần được nghỉ ngơi vài ngày nhưng ngoài miệng vẫn cứ hỏi: “Ngày mai bác có rảnh không ạ?”
Bản chất của phóng viên là thế, luôn dồn thúc người ta mà chẳng chịu đền mạng, nếu anh không như thế thì không thể gọi là một phóng viên cừ khôi được.
Bác Chung Thư Đồng nhận lời.
Tình trạng giao thông của Thượng Hải ngày càng trở nên tồi tệ. Nhà bác Chung Thư Đồng ở trong khu đô thị, nhìn trên bản đồ rõ ràng gần hơn nhà bác Dương Thiết và bác Phó Tích Đệ nhiều, nhưng đến nhà hai bác ấy tôi có thể đi tàu điện ngầm, còn tới nhà bác Chung Thư Đồng thì tôi phải chuyển hai tuyến xe buýt, đến đầu ngã ba nào cũng tắc đường, thành thử lại mất nhiều thời gian nhất.
Chị giúp việc nhà bác Chung Thư Đồng dẫn tôi vào phòng khách. Việc đầu tiên của tôi khi vừa trông thấy bác ấy là lấy ngay ra tờ giấy vẽ hình lá cờ, để trước mặt bác.
“Bác có biết lá cờ này không ạ?”
Bác đeo kính vào, ngắm nghía cẩn thận rồi lắc đầu.
Tôi lật mảnh sau của tờ giấy, để bác xem lá cờ còn lại. Có lẽ lá cờ mà bác Phó Tích Đệ vẽ là lá cờ thật.
“Lá cờ này… bác chưa từng nhìn thấy lá cờ nào như thế này, nó là lá cờ gì thế cháu?”, bác Chung Thư Đồng đột ngột hỏi lại tôi.
Tôi bỗng chốc cứng họng. Tôi vốn dĩ định đi thẳng vào vấn đề, không ngờ bác Chung Thư Đồng lại không biết cả hai lá cờ mà ông lão Dương Thiết và bác Phó Tích Đệ phác họa trên giấy. Tình huống này khiến những lời tôi đã chuẩn bị sẵn tự nhiên mắc kẹt trong họng.
Lúc này, có biết bao nhiêu câu hỏi quay cuồng trong đầu óc tôi, nhưng tôi vẫn giữ nguyên trình tự, lần lượt nói rõ với bậc lão làng của giới sử học mục đích của chuyến viếng thăm lần này.
“Chà, thật không ngờ, sau bao nhiêu năm như vậy rồi bây giờ người ta lại nhắc đến lá cờ đó”, bác Chung Thư Đồng thở dài.
“Nhưng hình dạng của lá cờ đó không phải như thế này, trong trí nhớ của bác thì…”
Bác Chung Thư Đồng lấy ra một tờ giấy mới, phác họa lên giấy một lá cờ.
Lá cờ thứ ba. Vậy là trong tay tôi giờ đây có tới ba lá cờ với hình dạng khác nhau.
Nhưng rõ ràng chúng phải cùng là một lá cờ chứ!
“Bác nhớ rất rõ hình dạng của lá cờ đó, tại sao ông lão Dương Thiết và bà Phó Tích Đệ lại vẽ cho cháu như thế nhỉ?” Bác Chung Thư Đồng cau mày hỏi tôi vẻ khó hiểu. “Cả bác Dương Thiết và bác Phó Tích Đệ đều khẳng định chắc chắn với cháu, hai bác ấy nhớ như in lá cờ đó và hình dạng của nó giống như hình dạng hai bác ấy đã phác họa ra cho cháu. Cháu cứ nghĩ là tới gặp bác thì sẽ biết trí nhớ của bác Dương Thiết hay bác Phó Tích Đệ chính xác hơn, không ngờ…”, tôi mỉm cười đau khổ.
“Hay là lá cờ đó mỗi người nhìn nó lại thấy một hình dạng khác nhau bác nhỉ?”, tôi thầm nghĩ như thế, và bất giác buột ra khỏi miệng.
“Ôi, cháu ngượng quá, bác cứ cho là cháu nói mò thế thôi ạ”, ý thức được người đứng trước mặt mình là một cây đại thụ khoa học, tôi vội vã xin lỗi bác về cái ý tưởng quái đản vừa buột ra khỏi miệng ban nãy.
“Không, bác nghĩ có lẽ cũng có khả năng như cháu nói. Lá cờ đó vốn đã nằm ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, nên không hẳn là không có khả năng nó mang thêm những điều kì dị khác nữa”. Tôi không ngờ bác Chung Thư Đồng lại nói thế.
“Chà, giá như cháu được tận mắt nhìn thấy lá cờ đó thì tốt biết mấy. Chẳng giấu gì bác, lúc đầu cháu chỉ muốn tìm hiểu về kì tích ‘khu ba tầng’ nguyên vẹn trong mưa bom bão đạn của quân xâm lược Nhật để viết bài, không ngờ sự việc lại liên đới tới lá cờ này. Nhưng dù chuyện li kì về lá cờ này có thật đi nữa thì cháu cũng không thể đăng lên mặt báo được”.
Bác Chung Thư Đồng khẽ gật đầu: “Đúng thế, nếu không phải được mục sở thị thì bác cũng không thể tin được chuyện người ta đứng lên đỉnh nóc nhà, giương cao một lá cờ, vẫy đi vẫy lại mà đuổi được máy bay của quân xâm lược Nhật”.
“Bác được mục sở thị ạ?”, tôi ngẩng phắt đầu lên nhìn bác và hỏi: “Ban nãy bác nói tận mắt chứng kiến cảnh ấy ạ?”
Qua lời kể của ông lão Dương Thiết và bác Phó Tích Đệ tôi chỉ biết được, mãi tới năm 1939, những cư dân ban đầu của “khu ba tầng” có thỏa thuận nhà đất trong tay mới được chuyển vào “khu ba tầng” sinh sống. Cứ theo lời bác Chung Thư Đồng vừa nói thì bác đã có mặt ở “khu ba tầng” vào thời điểm quân Nhật ném bom Thượng Hải hổi năm 1937.
Bác Chung Thư Đồng sửng sốt: “Bác cứ tưởng là cháu biết rồi chứ. Bác là một trong những vị khách sớm nhất của ‘khu ba tầng’, không giống như hội ông Dương Thiết mãi tới năm 1939 mới chuyển vào ở. Bác đã chuyển đến sống ở tòa trung tâm của ‘khu ba tầng’ ngay khi nó vừa xây xong, bởi thế khi quân Nhật ném bom, bác cũng có mặt trong tòa nhà”.
“Cháu không có được thông tin này khi phỏng vấn bác Tô Miễn Tài và bác Trương Khinh, cũng không nghe bác Dương Thiết và bác Phó Tích Đệ nhắc tới chuyện nên phỏng vấn bác, thế nên nếu bác không nói thì cháu thật sự không biết ạ”.
“Ô, thế cái lão Tô ấy không chịu kể chuyện năm xưa à? Vậy thì lão Trương gàn dở và Tiền Lục lại càng không chịu kể rồi, hai người này tính tình cổ quái… nếu thế thì, có lẽ bác cũng…”
Sao lại có thêm một ông Tiền Lục nữa nhỉ? Tôi nhận ra vẻ do dự trong lời nói của bác Chung Thư Đồng nên vội vã ngắt lời bác: “Bác Tiền Lục là người nào thế ạ?”
“Ba vị khách sớm nhất của tòa nhà ba tầng trung tâm là Tiền Lục, Trương Khinh và Tô Miễn Tài. Cháu đã phỏng vấn Trương Khinh và Tô Miễn Tài, tại sao lại không biết Tiền Lục nhỉ?”, bác Chung Thư Đồng hỏi lại tôi. “Lúc cháu tới tổ dân phố khu ba tầng để tìm hiểu thông tin, các bác trong tổ dân phố chỉ giới thiệu bác Trương Khinh và bác Tô Miễn Tài thôi, không nhắc đến bác Tiền… Tiền đâu ạ”.
“Ồ, thế thì bác biết rồi. Tính tình của lão Tiền Lục cổ quái lắm, chẳng bao giờ thấy lão ra ngoài. Lão cứ ru rú sống một mình trong cái phòng âm u dưới mặt đất, nhiều người tưởng lão dở dại dở điên, chả trách mấy ông trong tổ dân phố không nói với cháu. Ngay cả Tô Miễn Tài cũng không tiết lộ cho cháu thì làm sao cháu có thể moi được thông tin gì từ lão Tiền Lục cơ chứ?!”
“Bác ơi, bác bảo bác là một trong những người khách sớm nhất của ‘khu ba tầng’, vậy các vị khách khác là những ai ạ?”
“Cháu có thuốc lá không? Con trai bác không cho bác hút thuốc”, bác Chung Thư Đồng nói.
Tôi rút ra một điếu “Trung Hoa[4]”.
[4] Thuốc lá Trung Hoa: một hiệu thuốc lá nổi tiếng của Trung Quốc.
Đầu điếu thuốc khi mờ khi tỏ, bác Chung Thư Đồng rít vài hơi rồi gạt mẩu tàn dài màu xám vào trong gạt tàn.
Tôi lặng lẽ ngồi bên cạnh, chờ bác mở lời.
“Chuyện này ngay với lũ con trai của bác, bác cũng không kể. Thời gian qua lâu lắm rồi, tới bây giờ bác không nhớ rõ là bọn họ muốn làm gì nữa. Nhưng cháu đã hỏi thì bác sẽ kể với cháu mọi điều bác biết. Có điều, những gì bác biết chỉ là một góc của núi băng thôi, cháu muốn biết rõ chân tướng sự việc, bác e là… chuyện này năm xưa đã thần bí thế rồi, sau bao nhiêu năm mới lật lại, có lẽ càng khó khăn hơn gấp bội đấy. Khà khà, tuy bác già rồi, nhưng trí tò mò thì vẫn ghê gớm lắm, vì thế bác mong cháu có thể điều tra thật xuất sắc, nếu có phát hiện gì mới nhớ phải báo bác nhé, không biết cái thân già như bác, trước khi hòa mình vào đất có thể vén được bức màn bí mật của năm xưa hay không”.
“Nếu cháu có phát hiện gì mới nhất định cháu sẽ báo với bác trước tiên”, tôi hứa với bác ngay tức khắc.
“Những vị khách đầu tiên của ‘khu ba tầng’ ngoài những người xây dựng nó là bốn anh em nhà họ Tôn ra còn có bác, Trương Khinh và Tô Miễn Tài”.
Tôi mấp máy miệng, định nói nhưng lại thôi. Tôi nghĩ, lúc này nên nghe nhiều hỏi ít, không nên ngắt lời bác.
Lá Cờ Ma Lá Cờ Ma - Na Đa Lá Cờ Ma