Số lần đọc/download: 0 / 5
Cập nhật: 2024-09-01 17:37:19 +0700
Chương 5: Thành Phố
C
hị về thành phố những tháng cuối năm 1981 vì một scandal tình cảm mà tính ra chị là bên bị: bị yêu. Một anh chàng cán bộ có vợ - cũng là cán bộ - lại đeo đuổi chị. Lúc đầu thì anh ta chỉ ngấm ngầm đeo đuổi nhưng rồi càng lúc càng lộ liễu, lộ liễu đến nỗi đám học trò cũng biết. Chúng nó bảo nhỏ với nhau mà chị nghe lõm được:
- Ổng cua cô giáo mình.
Ở trong một tình thế không tiến, không thoái được, chị cứ cắn răng chịu đựng. Nếu nói thẳng thừng vào mặt chàng ta là chị không chịu thì chị sợ nỗi hận thù của một người cao ngạo hẹp hòi nghĩ rằng mình có quyền có thế. Còn tiến thì đương nhiên là không tiến được. Cái bà vợ cán bộ cấp bậc cao hơn chồng lại là một bà Hoạn Thư kiểu mới, liệu chị có thể sống nổi trên đất nầy? Bà Vú biết được. Thế là Vú lôi chị về thành phố. Có thể nói mà không sợ là nói quá đáng là bà Vú đã nắm cổ lôi chị về thành phố vào cái ngày mà bà Hoạn Thư kia đang mài nanh vuốt móng chuẩn bị dương oai.
Chị bàng hoàng bỏ lại vùng đất ấy cùng đám học trò đang khao khát được học hỏi. Chị ra đi như trốn chạy những người hàng xóm tốt bụng cũng là những phụ huynh học sinh kính mến chị hết lòng.
Chị về thành phố và sống bằng hai thúng khoai luộc bán trước cổng trường học.
Trong lúc những người không có hộ khẩu thành phố thì không được đi học, bà Vú đã đem thằng bé con chị gởi gắm cho cô giáo kế bên nhà. Thương cho hoàn cảnh chị, cô giáo lại đem thằng bé gởi gắm cho một cô giáo khác đang đứng lớp và cô giáo ấy đã bổ túc cho nó tất cả hồ sơ của lớp một và nửa năm lớp hai mà nó vì vội vã đi theo mẹ không rút được, có rút được cũng chẳng để làm gì. Cám ơn cuộc đời, dầu sao thì trên đời vẫn còn những tấm lòng vàng, nếu không thì làm sao con người sống nổi.
Bằng con mắt của một nhà giáo dục nhưng đứng từ một góc cạnh khác trong cuộc đời để nhìn vào học đường, chị bỗng hỡi ôi! Không ngờ rằng sự nghiệp gíao dục của nước nhà lại bị phá sản đến như vậy. Cô giáo kế bên nhà than thở:
- Tình hình chung là vậy!
Vậy là sao? Là sự thụt lùi về học lực, là sự băng hoại về đạo đức!
Ở kinh tế mới, vùng đất khô cằn và nghèo nàn chị vừa rời bỏ, chị có thể tạm giải thích về tình trạng sức học yếu kém của học sinh là vì khó khăn: khó khăn về kinh tế, khó khăn vì hoàn cảnh, thầy cô giáo ở xa gia đình bị chi phối. Thế nhưng, tại cái vùng quê mùa hẻo lánh đó, tuyệt không có chuyện học trò vô lễ với thầy cô, tuyệt không có chuyện học trò coi thường sự học. Có những đứa vì hoàn cảnh gia đình, vì đồng tiền ít ỏi không thể tiếp tục học, phải phụ gia đình kiếm sống thì nếu có dịp là chúng lân la đến trường thăm thầy thăm bạn. Chị chỉ là một cô giáo tư - có thể nói như vậy - thế mà chị vẫn nhận được từ những người phụ huynh nghèo thiếu kia lòng biết ơn sâu sắc của họ. Vài quả trứng gà, vài ký khoai lang, dăm ba tai nấm. Của không nhiều nhưng bao hàm lòng thương mến.
Vậy mà ở đây, nơi cuộc sống cao hơn gấp bội, sự nghiệp giáo dục cũng thụt lùi gấp bội.
Học trò chửi thề văng mạng. Người miền Nam thì thường hay chửi thề vào những lúc bực mình hay gặp việc gì quá đáng. Thế nhưng cứ nghe những tiếng chửi thề một cách sành sõi phát ra từ miệng những đứa bé ngây thơ chỉ lớn bằng thằng bé con chị hay nhỉnh hơn một tí, chị thấy lạnh cả mình. Chúng nó chửi thề trên bất cứ việc gì và chửi luôn vào mặt thầy cô giáo. Ngồi trước cổng trường trong vị trí một người bán hàng rong chị hứng nghe tất cả những lời nói vô ơn bạc nghĩa của đám học trò băng hoại. Thầy cô giáo không dám đánh phạt học trò. Chị đã tận mắt thấy cảnh một phụ huynh học sinh hành hung thầy giáo chỉ vì thầy giáo đã đét vào mông thằng học trò ngỗ nghịch, hỗn hào và lười biếng của mình. Chị lắc đầu ngán ngẩm. Đâu rồi cái thời “nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ”, đâu rồi lời dạy của người xưa:
“Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu mến thầy.”
Cái đạo lý “tiên học lễ, hậu học văn” không còn là châm ngôn cho việc học và việc dạy. Thầy cô giáo bỏ nhiều thì giờ của mình cho những trang giáo án hơn là bỏ thì giờ cho đám học trò. Chị ngạc nhiên hỏi cô giáo kế bên nhà:
- Sáu năm đứng dạy một lớp mà chị vẫn phải soạn giáo án?
- Ừ, đừng nói mỗi năm mỗi soạn, từ đầu năm đến nay vì thiếu giáo viên, chị phải đứng hai lớp của một khối thế mà chị vẫn phải soạn hai quyển giáo án.
Không còn những tà áo dài tha thướt về phía học sinh đã đành, cũng chẳng còn cái áo dài cho các cô giáo. Ai đã ký sắc lệnh giết chết cái áo dài Việt Nam của mình thế nhỉ? Có người bảo:
- Thời buổi bình đẳng, thằng cũng như ông; người tử tế cũng cầm bằng thằng vô lại, có khi còn không bằng thằng vô lại.
Ừ, thì thân phận chị đây nào dám bằng ai.
Thấy chị bưng thúng khoai ngồi bán trước cổng trường chịu mưa, chịu nắng, chịu cả những lời chửi mắng của đám học sinh cờ đỏ mỗi khi chúng được lệnh lập lại trật tự trước cổng trường, đầu năm học mới, cô giáo kế bên nhà khi được phần bán ở căn-tin nhà trường đã nhường lại cho chị trên danh nghĩa chị là người nhà của cô.
Bước sâu vào sân trường là bước sâu vào đời sống nhọc nhằn của anh chị em giáo viên. Đồng lương ít ỏi lại nay có mai không, cho dù có cộng thêm bao nhiêu là thứ linh tinh khác cũng chẳng thấm vào đâu. Cái căn-tin trở thành một mối thu nhập khá lớn, và thế là nó cũng chiếm khá lớn thì giờ của các thầy cô. Cô giáo nhận quầy kế bên chị bán bánh canh. Ba bốn giờ sáng cô đã thức dậy nấu nướng sửa soạn để đến năm giờ là chở đến căn-tin. Tiếng là hai đứa con lớn của cô thay phiên nhau bán, thế nhưng những buổi sáng học trò ăn đông thì đích thân cô cũng đứng rửa tô, múc bánh, nhận những đồng tiền thảy ra từ tay những đứa học trò và nhận luôn cả những lời cằn nhằn của chúng.
Biết chị có chồng vượt biên, cô ấy bảo:
- Tôi thì cực khổ đã đành. Vợ nhà giáo, chồng nhà giáo. Hai vợ chồng nuôi bốn đứa con. Chẳng lẽ mình đi dạy lại để con mình phải dốt nên tôi mới phải chịu nhọc, chịu nhục như vầy. Còn cô, sĩ diện làm gì? Cứ viết thư cho ông bà nội nó, bảo gởi về đây vài thùng nuôi con. Tội lệ gì mà phải gánh chịu?
- Họ có vợ khác rồi mà chị.
- Kệ nó, vợ khác thì vợ khác, chứ còn thằng con đó làm chi?
- Vâng, thì cũng nhiều người bảo em như vậy. Thế nhưng…
Chị không nói tiếp được. Chị biết rằng không ai chấp nhận cái lý lẽ “gàn gàn” của chị; thế nhưng mỗi người mỗi tính cách. Khi được tin Ngạc đi, cả chị và cả mẹ chị đều như những con chim thình lình trúng đạn. Mẹ chị đã gục chết, còn chị, nếu không vì thương con chị cũng đã có thể chết theo mẹ rồi. Cho nên, khi được tin Ngạc chính thức lấy bà Thủy, chị nghe lòng mình như chai đi hơn là nghe đau đớn. Chị không viết gì cho Ngạc từ đấy mặc dù Ngạc vẫn viết về. Ngày bị Vú lôi về thành phố, chị có đặt điều kiện với Vú:
- Vú thương, Vú bảo bọc thì con về với Vú; nhưng mà tuyệt đối Vú đừng cho Ngạc biết là con về với Vú. Nếu ông bà nội cháu hoặc Ngạc có viết thư hỏi quá thì Vú bảo là thỉnh thoảng có gặp mà thôi.
Nói ngay ra thì ba mẹ Ngạc cũng được lắm. Từ ngày Ngạc đi rồi cưới vợ khác, mặc dù chị không liên lạc gì với ông bà thì cũng đã mấy lần ông bà gởi tiền về cho Vú, cho nhà Hồng, bảo cố tìm chị mà trao lại. Cũng nhờ đó mà chị mới có tiền gởi thăm anh Vinh.
Bà Vú cũng khéo lắm, những lần như vậy Vú không trả lời ngay cho ông bà. Vú để một vài tháng sau mới bảo là có người đưa lại hoặc là tình cờ gặp chị. Bên nhà Hồng cũng dấu giùm chị nên Ngạc chỉ biết là chị đã về thành phố, còn sống ở đâu, sống thế nào thì Ngạc không rõ lắm.
Khoảng đầu năm 83, khi chính sách của nhà nước thoáng hơn; các cơ sở tư nhân bắt đầu hoạt động thì một hôm bà Vú hỏi chị:
- Con có biết đánh máy, biết làm sổ sách kế toán gì không con?
Chị khoe:
- Con đánh máy khá lắm đấy Vú. Hồi chưa đi dạy con có học qua một khoá đánh máy và một khoá kế toán đấy.
Vú mừng rỡ:
- Thế thì tốt quá. Dẹp ngay mấy thúng khoai lang của mầy đi rồi vô làm chỗ nầy đi con. Cái thằng nầy, ông già nó trước giải phóng cũng có cái hãng nho nhỏ. Giải phóng vô thì ổng dẹp. Dạo đánh tư sản ổng đăng ký đi kinh tế mới rồi đem vàng lên chôn trên ấy. Bây giờ cởi mở một chút, nhà nước cho tư nhân sản xuất, họ đào vàng lên đầu tư lại. Cũng là làm nho nhỏ thôi, chưa dám làm mạnh chớ cái đám nầy là vàng ký không đấy con. Nghĩ cũng kỳ, mấy ông nhà nước mình. Phải cái dạo giải phóng vô, mấy ổng từ từ, cứ để cho người ta làm ăn thì đâu đến nỗi mình khổ quá như vầy hả con.
Chị cười với Vú:
- Cũng khó nói lắm Vú. Chính sách kinh tế của hai chủ nghĩa, trên lý thuyết là trái ngược nhau hoàn toàn. Nói nào ngay, bên nào thì cũng có cái hay và cái dở của nó.
- Hay dở gì tao không biết, tao chỉ nghĩ là làm gì thì cũng là để cho dân giàu nước mạnh mà thôi chớ dân mà nghèo, nghèo hoài thì lấy gì mà nước mạnh. Nhà nước mình cho tư nhân sản xuất lại, đây rồi tiền bạc cất giấu lâu nay bây giờ họ lại bung ra. Ngành nầy kéo theo ngành khác, thế nào đời sống cũng khá hơn con ạ.
Vâng, đời sống của riêng chị cũng có khá hơn từ ngày chị buông hai thúng khoai lang luộc để đi vào bên sản xuất; và cũng từ đây chị mới bắt đầu va chạm vào cái muôn mặt của cuộc sống mà thật sự từng nầy tuổi đầu chị mới biết qua sách vở và qua những lời của người đi trước.
Tại cơ sở, chị làm tất cả công việc của một người quản lý. Nguyên liệu nhập vào, hàng hoá xuất ra, mua bao nhiêu, bán bao nhiêu, ai nợ mình, mình nợ ai, cái gì cần, cái gì còn. Đó là về mặt đối nội, còn về “đối ngoại” thì chị phải làm tất cả giấy tờ, sổ sách để đối phó với các cơ quan nhà nước. Đúng là dùng từ “đối phó”, bởi vì cũng như tất cả các cơ sở khác, cái đám sổ sách nhiêu khê mà phòng thuế, liên hiệp xã và uỷ ban phường đưa ra thì những con số trong đó chỉ là sự vẽ vời để làm bùa hộ mạng mà thôi. Chẳng có một con số nào là trung thực. Chị cứ thắc mắc hoài:
- Tại sao những người quản lý nhà nước lại ngây thơ đến vậy? Có thật là họ không biết hoặc là họ không muốn biết?
Qua cái lăng kính của một nhà mô phạm, chị không thể hiểu được những gì đang xảy ra quanh những sự việc mà hằng ngày chị phải tiếp xúc. Ngồi quay lưng lại với tấm biểu ngữ to tưởng treo trên tường: “Cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư” là những bàn tay đưa ra cầm cái bao thư dày cộm sau khi ký duyệt một cái hợp đồng mà rõ ràng là thất lợi cho nhà nước.
- Lợi gì được mà lợi, khi cái định mức nguyên vật liệu của nhà nước cấp gia công thì ở trên trời còn sản phẩm thực sự làm ra là ở dưới đất. Cái khoản chênh lệch được chia chác như thế nào chị không rõ nhưng chị biết chắc rằng đã có sự chia chác đó.
Lúc đầu chị cứ nghĩ rằng đó chỉ là một vài hiện tượng không bình thường và thế nào rồi cũng sẽ bị đào thải, thế nhưng, theo đà phát triển của kinh tế thì làm như cái hiện tượng “không bình thường” ấy cũng phát triển theo.
Cơ sở sản xuất bị thiệt thòi so với sản xuất tập thể. Người ta giới hạn năng suất và giới hạn quy mô đầu tư, thế nên, theo sự chỉ vẽ của những người hữu trách, ông chủ trẻ của chị đưa cơ sở lên thành tổ hợp. Cái tổ hợp đó chỉ có mỗi một mình ông chủ chị đứng tên tổ trưởng là có thật thôi, còn thì danh sách tổ viên, ban điều hành, ban kiểm sát gì cũng đều là “ma” cả.
Bà Vú thắc mắc:
- “Ma” là làm sao con? Vú nghe nó nói phải tổ chức đại hội bầu cử đàng hoàng, có chính quyền các cấp tham dự rồi sau có liên hoan nữa mà mầy bảo ma là ma làm sao con?
- Vâng, có chính quyền các cấp tham dự liên hoan, cái đó thì có thật. Còn đại hội bầu cử thì mình đóng kịch, đóng kịch có người đạo diễn.
- Mầy nói sao nghe kỳ vậy con. Tao thì dốt nát thật nhưng tao nghĩ rằng họ phải nghĩ đến quyến lợi của nước nhà trên hết chứ con. Mấy mươi năm chiến đấu của mấy ổng cũng chỉ vì quyền dân lợi nước đấy chứ con.
- Vú ơi! Những người chiến đấu vì dân tộc, vì tổ quốc đã chết cả rồi.
- Sao con lại bi quan đến vậy?
Sao mà không bi quan cho được khi mà cả xã hội đang chạy theo đồng tiền, còn đồng tiền của mình thì cứ xuống giá liên tục. Đã vậy đồng tiền còn bị đe doạ, nay có tin đồn đổi tiền, mai có tin đồn huỷ tiền, và cứ mỗi lần xôn xao như vậy thì chỉ có những người nghèo như chị hứng chịu mọi thiệt thòi mà thôi. Ngân hàng không đủ tiền mặt để chi trả cho các đơn vị sản xuất; thế là người ta chi trả lòng vòng cho nhau những tờ uỷ nhiệm chi, và cứ mỗi tờ uỷ nhiệm được chuyển đi là nhà nuớc bị mất đi cái phần phẩy phẩy. Vậy thì, còn cái dấu chấm nào để cho dân giàu nước mạnh?
Hồng mắng chị:
- Cái túi rỗng của mầy, mầy không lo lại đi lo cái chuyện bao đồng. Để tao nói cho mầy nghe: tao là con của ông già tao, cho nên tiền của ông già tao cũng là của tao. Nếu tao có lấy tiền trong túi ông già tao bỏ vào túi tao thì cũng chả mất mát vào đâu vì tao là con của ông già tao. Mầy hiểu chưa?
- Hiểu cái con khỉ mốc. Nếu mầy lấy tiền ông già mầy để mầy mua sắm lo liệu cho gia đình thì nó không mất mát chớ còn mầy đem tiền cho trai ăn thì tao hỏi mầy nói còn là còn vào đồng nào?
- Cái con mất dạy. Mầy dám bảo ông đem tiền cho trai ăn hả?
- Khỏi cần mắng tao, tao mất dạy từ ngày giải phóng đến giờ đấy.
- Đồ phản động, đồ ăn nói vô trật tự, vô tổ chức. Đồ…đồ…
- Đồ bạn bè thâm giao.
Ừ, thì chỉ có bạn bè thâm giao mới ăn nói với nhau như vậy, và chỉ sau những lần trút đổ như vậy chị mới nghe lòng mình nguôi ngoai.
Đầu năm 1986 anh trai chị về với một con mắt bị hỏng và bàn tay trái chỉ còn hai ngón.
- Làm sao mà ra vậy?
- Tàn dư của đế quốc để lại đấy em.
- Là làm sao? Em chẳng hiểu.
- Có gì mà không hiểu. Mìn. Mình giăng mìn ra thì bây giờ mình gỡ. Có gỡ thì có nổ. Chưa chết là còn may lắm đấy.
- Hồi mẹ lên thăm anh đâu có gì.
- Ừ, lúc đó thì chưa. Mãi đến sau nầy lận.
- Sao lúc bị thương rồi anh không gia đình biết?
- Biết để làm gì em? Chỉ là thêm khổ thôi chứ có ích gì đâu. Em đừng lo. Mỹ nó đã gây nên cuộc chiến vừa rồi thì nó sẽ có trách nhiệm với những gì còn lại. Nó sẽ nhận lại những người đã từng đứng một bên với nó. Em không đọc báo à?
Không muốn đào sâu vấn đề, chị nói lãng:
- Có còn thì giờ, có còn tâm tình gì đâu mà báo chí sách vở anh. Hơn nữa, nhiều lúc em thấy báo chí chỉ toàn là tô hồng cuộc sống, trong khi thực tế thì khác hẳn. Cuộc sống người dân nói chung là nghèo đói mà báo đài thì cứ nay chỗ nầy đạt năng suất, mai chỗ kia đạt chỉ tiêu, cái chỉ tiêu ấy em rành quá, chỉ toàn là những con số bay lượn trên những tờ giấy thừa của những người rỗi việc. Có những điều cần làm thì họ không làm, họ lại cứ vẽ vời ra những điều tốn thì giờ, tốn tiền của và tốn nhiều nhân lực vô ích.
- Nói có được gì đâu mà nói.
- Là nói mà nghe với nhau thôi chứ có ai nghe mình đâu mà nói.
Anh Vinh về, căn nhà lâu nay chỉ có hai người đàn bà đơn độc và một thằng bé con như được sưởi ấm bằng bóng dáng của người đàn ông. Thế nhưng cùng với niềm vui anh em đoàn tụ, chị cũng kịp nhận ra rằng sau những tháng ngày nhọc nhằn, thương tật; thành kiến và mặc cảm cũng được hình thành trong anh. Cộng thêm những tin đồn - lại cũng chỉ là những tin đồn - về việc ra đi của những người đã từng cộng tác với chế độ cũ, anh Vinh bây giờ không còn là anh Vinh của chị ngày trước nữa. Anh đã mất đi những nhận xét, những suy luận khách quan và sáng suốt trong cuộc sống.
Gặp được một tay hạ sĩ quan dưới quyền ngày trước, anh giao trọn giấy tờ của anh vì anh bảo:
- Thằng nầy nó chuyên chạy giấy tờ xuất ngoại. Bọn nó có đường dây. Thời buổi nầy không biết đường đi là không bao giờ được việc gì cả.
- Rồi tiền bạc đâu mà lo như vậy?
- Thì anh tính như vầy, bởi vì bà Vú thì không muốn đi còn em thì không có hộ khẩu -có làm sao được mà có, cứ là ở đại vậy thôi - nên hắn đề nghị anh làm giấy tờ kết hôn với cô em họ của hắn. Anh chuyển hộ khẩu về nhập với gia đình cô ấy để rồi coi như mình đi là gia đình cô ấy đi theo. Qua được bên ấy, nếu vừa ý thì sống chung còn không vừa ý thì cứ li dị. Dễ mà. Nếu mà không như vậy thì phải tốn từ hai đến ba cây.
- Cây củi ấy. Làm gì có giá đó. Nếu anh muốn đi thì cứ từ từ mà đi. Nếu đúng là tụi Mỹ nó muốn nhận các anh thì cứ đường đường chính chính, mình đi gặp các cơ quan hữu trách hỏi thăm thủ tục rồi họ chỉ vẽ. Cần gì phải nhờ đến những tay trung gian như vậy.
- Em ngây thơ quá. Thời buổi bây giờ mà đường đường chính chính! Nếu không qua cái thủ tục “đầu tiên” thì chả bao giờ được việc gì cả. Em hiểu “đầu tiên” không?
Chị im lặng. Thôi thì anh ấy tính tính sao thì tuỳ bởi vì chị sẽ không đi theo anh và cũng bởi vì chị chả tin tưởng gì lắm vào lòng nhân đạo của tụi Mỹ. Mỹ nó đâu ngu gì mà nhận cái đám người quá date này qua bên ấy để tốn thêm một mớ tiền trợ cấp. Nếu thật lòng vì những người đã từng cộng tác với mình thì nó đã không để mãi đến bây giờ. Cái mà Mỹ nó muốn nhận là cái đám trẻ dính theo với những con người đã quá date ấy.
Thôi thì tuỳ anh, chị không có ý kiến. Ngày nào anh còn ở với chị thì anh em dựa nhau mà sống chớ còn chị không bao giờ mong sống rồi có ngày anh sẽ giúp đỡ chị.
Hỏi mượn trước tiền lương, hỏi mượn của Hồng và bà Vú chạy mượn ở đâu đó nữa về cộng lại được bốn chỉ vàng. Chị chạy mua cho anh Vinh một cái máy cắt dây thun. Rồi bằng sự quen biết của mình trong mấy năm làm việc ở thành phố chị xin được người ta cho mua gối đầu. Vậy là trong thời gian chờ đợi để ra đi, anh Vinh với một bàn tay và một con mắt lành lặn còn lại, mỗi ngày đi mua thun ống về chặt, vào bao rồi giao cho bạn hàng ngoài chợ; thằng bé con và Vú cũng hụ hợ một tay.
Có đồng ra đồng vào, cuộc sống gia đình chị cũng đỡ vất vả.
Nhà nước cho nới rộng việc kinh doanh sản xuất, cơ sở làm ăn nhỏ được dịp bung ra và thế là lượng tiền mặt vốn đã thiếu hụt ở các đơn vị quốc doanh lại chui hết vào các cơ sở tư nhân nhỏ nầy. Bởi vì, tư nhân họ thích được mua bán bằng tiền mặt hơn là bằng uỷ nhiệm chi. Tiền họ đổi ngay ra vàng và thứ họ tính trị giá hàng hoá bằng vàng nhiều hơn là bằng tiền đồng.
Để tháo gỡ phần nào khó khăn về vấn đề tiền mặt, cũng là trong chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế xã hội. Các hợp tác xã tín dụng nở rộ ra như nấm. Thôi thì thượng vàng hạ cám, đủ loại tín dụng với những quảng cáo lãi xuất hấp dẫn. Anh Vinh bàn với chị:
- Mấy đồng bạc để dành trả lại Hồng mình đem gởi tín dụng kiếm lời bù thêm vào nha em.
Chị không chịu:
- Khoan đã anh, phiền lắm. Ba cái tín dụng kiểu ngân hàng không cần bảo chứng nầy rồi lỡ nó ôm tiền mình nó dông tuốt thì mình đòi vào ai?
Nghe có lý anh không gởi tín dụng, thế mà rồi không biết nghe đâu được là hãng nước hoa nọ huy động vốn với lãi xuất vô cùng hấp dẫn 10% rút lãi mỗi tháng.
- Tư nhân họ uy tín lắm. Thì đây cũng chỉ là một hình thức góp cổ phần thôi. Hơn nữa nhà nước họ đã cho phép hoạt động là họ đã lường trước mọi bất trắc rồi, có gì còn có nhà nước. Lâu nay người ta rút lãi ào ào mà mình không biết. Rút bằng tiền mặt và rút bằng hiện vật nữa đấy.
Thế là anh ôm tiền đi gởi, lãi hàng tháng anh cũng không rút, ký tiếp vào để đến tháng sau tiền lãi tính gộp vào tiền vốn.
Mọi sự dường như tốt đẹp thì đùng một cái, cùng một lúc, cả hai ngọn roi quất vào Vinh, anh trai chị. Thứ nhất, cái thằng thuộc cấp cũ của anh và cả cái gia đình mà nó gọi là bà con của nó ra đi bằng chính giấy tờ của anh. Khi anh biết được thì nó đã phơi phới ở xứ người cả tháng rồi. Chưa kịp bàng hoàng thì hãng nước hoa nọ bể bạc. Ôi! Thì ra đây cũng chỉ là một thử nghiệm. Trời ơi! Rồi người ta đem cả đất nước nầy ra để mà thử nghiệm chắc? Mấy đồng bạc dành dụm để trả nợ bây giờ bay theo mùi nước hoa trong gió.
Xót thân, xót của, anh Vinh đi ra đi vô như người mất hồn và rồi một buổi chiều đi giao hàng, anh bị xe đụng chết.
Chị chết lặng bên nấm mộ người anh trai. Bốn mươi tuổi đời, đích tay chị khâm liệm cho ba người ruột thịt thân yêu trong ba hoàn cảnh bi đát khác nhau. Rồi còn có nỗi đau nào chất chồng lên đôi vai sầu nầy nữa không? Ôi! Xin Chúa lòng lành thương xót. Xin đừng để con cái ngài phải bước vào đường cùng của khổ nhục, hầu khi qua cơn đau thương chúng còn có cớ ca ngợi lòng lành của ngài.