Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Chương 5: Kẻ Báo Thù
M
ưa ào ào trút xuống thành dòng trên nền trời tháng Mười tối sớm trong ánh sáng của ngọn đèn đường. Từ tấm biển bằng sứ phía dưới, Harry đọc thấy rằng Espen, Stine và Trond Grette sống ở đây, “đây” tức một ngôi nhà liền kề tường sơn vàng ở khu Disengrenda. Anh nhấn chuông và nhìn bao quát cả khu. Disengrenda gồm có bốn dãy nhà liền kề dài ở giữa một cánh đồng rộng và bằng phẳng, vây quanh nó là những tòa chung cư, khiến Harry nhớ tới cảnh những người đi tiên phong trên thảo nguyên Bắc Mỹ chiếm cứ lấy vị trí phòng thủ trước những cuộc tấn công của người Anh Điêng. Có lẽ chuyện là như vậy. Những ngôi nhà liền kề được xây dựng vào thập niên sáu mươi cho những người thuộc tầng lớp trung lưu mới nhất, và có lẽ đám dân lao động địa phương đang thu hẹp vào những tòa chung cư ở Disenveien và Traverveien đã biết rằng đó là những kẻ xâm lược mới; rằng họ sẽ kiểm soát đất nước mới ra đời này.
“Có vẻ như không có nhà,” Harry nói, nhấn chuông thêm lần nữa. “Cô có chắc là anh ta biết chúng ta sẽ tới nhà chiều nay không?”
“Không.”
“Không ư?” Harry quay lại và nhìn xuống Beate Lønn đang rét run bên dưới chiếc ô. Cô mặc váy ngắn, đi giày cao gót, và khi cô tới đón anh ở ngoài quán Schrøder, anh chợt nghĩ cô ăn mặc cứ như để đi uống cà phê buổi sáng vậy.
“Lúc tôi gọi đến thì Grette đã xác nhận về cuộc gặp này tới hai lần,” cô nói. “Nhưng anh ta có vẻ hoàn toàn… quẫn trí.”
Harry ngả người qua bậc cầu thang và gí sát mặt vào cửa sổ bếp. Bên trong tối om và anh chỉ nhìn thấy cuốn lịch Ngân hàng Nordea màu trắng treo trên tường.
“Quay về thôi,” anh nói.
Đúng lúc đó, cửa sổ bếp của nhà hàng xóm bật mở đánh rầm. “Anh chị đang tìm Trond phải không?”
Bà ta nói tiếng bokmal tiếng Na Uy chuẩn, nhưng lại bằng giọng vùng Bergen, với âm “r” rung đến mức nghe như thể một đoàn tàu cỡ trung bị trật đường ray. Harry quay sang và nhìn chằm chằm khuôn mặt da nâu nhăn nheo của người phụ nữ bị chộp đúng lúc đang cố gắng mỉm cười mà vẫn toát ra vẻ nghiêm nghị.
“Vâng,” Harry xác nhận.
“Người nhà à?”
“Cảnh sát.”
“Phải rồi,” người đàn bà đó nói và lập tức bỏ ngay vẻ mặt đưa đám. “Tôi lại nghĩ là anh chị tới để chia buồn. Anh ta đang ở ngoài sân tennis ấy, tội nghiệp.”
“Sân tennis ư?”
Bà ta chỉ. “Ở phía bên kia cánh đồng. Anh ta ở đó suốt từ lúc bốn giờ cơ.”
“Nhưng tối rồi mà,” Beate nói. “Mà trời lại còn đang mưa nữa.”
Người đàn bà nhún vai. “Chắc là đau khổ quá.” Bà ta lại uốn lưỡi ở âm rung riết đến mức Harry bắt đầu nhớ tới hồi anh lớn lên ở Oppsal và những mảnh giấy bồi người ta thường nhét vào trong các bánh xe đạp để chúng đập phần phật vào nan hoa.
“Nghe giọng cô thì chắc là cô cũng lớn lên ở phía Đông Oslo,” Harry nói trong lúc và Beate đi về phía người đàn bà đó chỉ. “Hay là tôi nhầm?”
“Không,” Beate đáp, không muốn giải thích dài dòng.
Sân tennis nằm giữa quãng đường từ khu chung cư tới khu nhà liền kề. Họ có thể nghe thấy tiếng thình thịch khi lưới của vợt tennis đập vào quả bóng tennis bị ướt. Bên trong hàng rào lưới bằng kim loại, họ nhìn thấy một bóng người đang đứng phát bóng trong cái bóng tối ảm đạm của mùa thu đang dồn lại.
“Xin chào!” Harry hét lên khi họ tới chỗ hàng rào, nhưng người đàn ông chẳng hề đáp lại. Tới tận lúc này họ mới nhìn thấy anh ta mặc nguyên áo vest, sơmi và đeo cà vạt.
“Anh là Trond Grette phải không?”
Một quả bóng đập xuống vũng nước đen, bật lên rồi va vào hàng rào và làm bắn tóe nước mưa vào người họ, nhưng Beate đã giương ô ra chắn được.
Beate kéo cổng ra. “Anh ta đã khóa cổng tự nhốt mình ở bên trong rồi,” cô thì thào.
“Cảnh sát đây! Thanh tra Hole và Lønn đây!” Harry hét lên. “Chúng tôi đã hẹn gặp anh. Chúng ta có thể… Trời ạ!” Harry không nhìn thấy quả bóng cho tới lúc nó lao thẳng vào hàng rào kim loại, cách mặt anh chỉ vài xăng ti mét. Anh bèn chùi nước bắn vào mắt và nhìn xuống: thứ nước bẩn màu nâu đỏ đã vấy khắp người anh. Harry tự động quay phắt đi khi nhìn thấy người đàn ông tung quả bóng tiếp theo.
“Trond Grette?” Tiếng hét của Harry vang khắp tòa chung cư. Họ nhìn quả bóng tennis bổng lên theo hình vòng cung về phía những ngọn đèn trong tòa chung cư rồi mất hút trong bóng tối và rơi xuống đâu đó ngoài cánh đồng. Harry lại quay mặt về phía sân tennis thì đột ngột nghe thấy tiếng rú man dại và thấy từ trong bóng tối có một cái bóng lao về phía anh. Cái hàng rào kim loại rít lên khi nó đập vào người chơi tennis đang lao tới tấn công. Anh ta ngã chổng vó trên nền sân đất nện, bật dậy và lại lao tới hàng rào. Lại ngã, lại đứng dậy và lao tới.
“Chúa ơi, anh ta mất trí rồi,” Harry lẩm bẩm. Anh bất giác lùi lại khi một khuôn mặt trắng bệch, mắt trợn trừng đột ngột hiện ra ngay trước mặt anh. Beate bật đèn pin lên và chiếu vào mặt Grette lúc này đang bám vào hàng rào. Với mái tóc đen, ướt nhẹp dính sát vào vầng trán trắng nhợt, dường như anh ta đang tìm kiếm thứ gì đó để tập trung nhìn vào trong lúc từ từ trượt xuống như tuyết tan trên kính chắn gió, cho tới khi nằm bất động trên sân.
“Giờ chúng ta làm gì?” Beate thốt ra.
Harry cảm thấy lạo xạo trong răng, bèn nhổ ra tay. Dưới ánh sáng đèn pin, anh nhìn thấy những hạt đất màu đỏ.
“Cô gọi cấp cứu đi, còn tôi đi lấy dụng cụ cắt kim loại trong xe,” anh nói.
○○○
“Rồi anh ta được cho thuốc an thần hả?” Anna hỏi.
Harry gật đầu và nhấp một ngụm Coca.
Những khách hàng trẻ măng khu West End đang ngồi trên những chiếc ghế đẩu xung quanh họ, uống rượu vang, những đồ uống sóng sánh và Coca không đường. Quán M giống hầu hết các quán cà phê ở Oslo - thành thị theo một cách quê kệch và ngô nghê nhưng cũng khá dễ chịu, làm Harry nhớ tới Kebab, thằng bé thông minh, lễ độ học cùng lớp với anh mà bọn anh từng phát hiện ra là có một cuốn sổ chép tất cả những cách nói lóng mà bọn học sinh “sành điệu” hay dùng.
“Họ đã đưa anh chàng tội nghiệp đó tới bệnh viện. Rồi bọn anh nói chuyện với bà hàng xóm lần nữa và bà ấy bảo bọn anh rằng từ hồi vợ anh ta bị giết, tối nào anh ta cũng ra đó đánh tennis.”
“Trời. Tại sao?”
Harry nhún vai. “Khi người ta mất người thân trong một hoàn cảnh như vậy thì hóa điên cũng là bình thường thôi. Một số người thì nén đau thương và hành động như thể người đã mất vẫn còn sống. Bà hàng xóm kể rằng Stine và Trond Grette là một cặp vợ chồng đánh đôi tennis vô cùng ăn ý, rằng chiều hè nào họ cũng ra sân tập.”
“Vậy là anh ta kiểu như đang mong đợi vợ mình sẽ đỡ cú giao bóng?”
“Có lẽ vậy.”
“Trời! Anh lấy cho em lon bia trong lúc em đi vệ sinh được không?”
Anna tụt xuống khỏi cái ghế đẩu và uốn éo bước qua phòng. Harry cố không nhìn theo cô. Mà cũng chẳng cần phải nhìn, vì anh đã nhìn no mắt rồi. Cô đã có vài nếp nhăn quanh mắt, vài sợi ngả xám trên mái tóc đen như mun; còn lại thì cô vẫn y như trước. Vẫn cặp mắt đen với cái vẻ hơi sợ hãi bên dưới cặp lông mày giao nhau, vẫn cái mũi cao, thon bên trên cặp môi đầy đặn một cách khiếm nhã và hai cái má hóp vào thường dễ khiến cho cô trông có vẻ thèm khát. Có thể cô không đủ tiêu chuẩn để được gọi là “đẹp” - vì các nét của cô quá dữ dội và cứng rắn - nhưng thân hình mảnh mai của cô lại có những đường cong đủ khiến Harry nhận thấy ít nhất hai người đàn ông ngồi ở dãy bàn trong khu nhà ăn ngơ ngẩn khi cô đi ngang qua.
Harry châm một điếu thuốc lá nữa. Sau Grette, họ tới gặp Helge Klementsen, người trưởng chi nhánh. Nhưng chuyến viếng thăm đó cũng chẳng cung cấp cho họ thêm manh mối gì để điều tra. Ông ta vẫn còn trong cơn sốc, cứ ngồi trên chiếc ghế tựa trong ngồi nhà hai hộ ở Kjelsasveien hết nhìn con chó xù đang chạy qua chạy lại giữa hai chân mình đến nhìn bà vợ đang chạy qua chạy lại giữa nhà bếp và phòng khách với cà phê và món bánh sừng bò nhồi kem khô nhất Harry từng được nếm. Trang phục của Beate hợp với khung cảnh trưởng giả ở nhà Klementsen hơn là cái quần bò Levi’s bạc phếch và đôi giày Doc Martens của Harry. Tuy thế, Harry lại là người đảm trách cuộc trò chuyện với bà Klementsen đang run rẩy bồn chồn về chuyện mùa thu năm nay nhiều mưa đến bất thường và nghệ thuật làm món bánh sừng bò nhồi kem, thỉnh thoảng lại bị gián đoạn bởi những tiếng giậm chân thình thịch và tiếng nức nở ầm ĩ từ trên tầng vẳng xuống. Bà Klementsen giải thích rằng cô con gái tội nghiệp Ina đang mang thai bảy tháng của bà vừa bị bò đá. Chậc, thực ra hắn là thủy thủ và đã lên đường tới Địa Trung Hải thì đúng hơn. Harry suýt làm vãi kem ra bàn. Đến lúc đó, Beate bèn thế chỗ anh để hỏi Helge, lúc này đã thôi không rượt đuổi con chó bằng mắt nữa vì nó đã nhẹ nhàng lẻn ra khỏi cửa phòng khách. “Ông đoán tên cướp cao khoảng bao nhiêu?”
Helge nhìn cô chăm chú, rồi nhấc tách cà phê đưa lên miệng, nhưng lại bắt nó phải đợi vì ông ta không thể cùng lúc vừa uống vừa nói. “Cao ư? Chắc phải hai mét. Cô ấy luôn rất chính xác, Stine ấy.”
“Hắn không thể cao đến thế được, ông Klementsen.”
“Ờ, vậy thì chắc là mét chín. Và lúc nào cũng ăn mặc sành điệu.”
“Hắn mặc quần áo như thế nào?”
“Loại gì đó màu đen, trông như cao su. Mùa hè này là lần đầu tiên cô ấy có một kỳ nghỉ đúng nghĩa. Ở Hy Lạp.”
Bà Klementsen sụt sịt.
“Giống như cao su ư?” Beate hỏi lại.
“Vâng. Và một cái mũ len trùm kín đầu và cổ.”
“Màu gì, ông Klementsen?”
“Đỏ.”
Đến đoạn đó thì Beate ngừng nghỉ và họ mau chóng ra xe để lên đường trở lại thành phố.
“Nếu các thẩm phán và hội đồng xét xử biết rằng lời khai của nhân chứng trong các vụ cướp ngân hàng thiếu chính xác đến thế nào thì họ sẽ không cho phép chúng ta sử dụng chúng làm bằng chứng nữa đâu,” Beate nói. “Những gì mà bộ não của họ tái tạo sai lạc khủng khiếp. Như thể nỗi sợ hãi đã đeo lên mắt họ một đôi kính khiến cho mọi tên cướp đều trở nên cao lớn và độc ác hơn, một khẩu súng biến thành nhiều khẩu và thời gian trở nên dài hơn bình thường. Vụ cướp chỉ diễn ra trong hơn một phút, thế mà bà Brænne, nhân viên thu ngân gần cửa ra vào nhất bảo rằng hắn ở đó gần năm phút. Và hắn không cao tới hai mét, mà chỉ có 1 mét 79 thôi. Trừ phi hắn đi giày có đế trong, mà những tên cướp chuyên nghiệp cũng thường làm thế.”
“Làm sao cô có thể xác định chính xác về chiều cao của hắn đến thế?”
“Qua cuốn băng thôi. Anh ước tính chiều cao của hắn dựa vào khung cửa mà hắn bước vào. Sáng nay tôi đã đến ngân hàng để lấy dữ liệu, chụp vài tấm ảnh và tính toán.”
“Ừm. Ở Đội Hình sự, chúng tôi để việc tính toán đó cho Đơn vị Điều tra hiện trường đảm trách.”
“Đo chiều cao từ một cuốn băng ghi hình phức tạp hơn một chút so với hình dung. Ví dụ như trong vụ cướp chi nhánh ngân hàng Den norske ở đường Kaldbakken năm 1989, những tính toán của Đơn vị Điều tra Hiện trường bị chênh mất ba xăng ti mét. Vì thế tôi thích tự mình đo lấy hơn.”
Harry liếc cô và băn khoăn không biết anh có nên hỏi tại sao cô lại theo ngành cảnh sát không. Nhưng thay vì hỏi, anh lại đề nghị cô cho anh xuống chỗ cửa hàng khóa trên đường Vibes. Trước khi xuống xe, anh hỏi liệu cô có nhận thấy Helge không hề làm sánh một giọt cà phê nào ra khỏi cái tách đầy ắp mà ông ta cầm trong suốt cuộc thẩm vấn giữa cô và ông ta không. Nhưng cô không nhận thấy.
“Anh có thích chỗ này không?” Anna hỏi khi leo trở lại cái ghế đẩu.
“Ừm.” Harry đưa mắt nhìn quanh. “Không phải gu của anh.”
“Cũng không phải gu của em,” Anna nói rồi vớ lấy cái túi và đứng dậy. “Về nhà em đi.”
“Anh vừa mua cho em một cốc bia rồi.” Harry hất đầu về phía cái cốc sủi bọt.
“Uống một mình thì chán lắm,” cô nhăn mặt nói. “Thư giãn đi nào, Harry. Đi thôi.”
Ngoài trời đã ngớt mưa và bầu không khí lạnh căm, mới được gột rửa có cảm giác thật sảng khoái.
“Anh có nhớ cái lần, cũng vào mùa thu, mình lái xe tới Maridalen không?” Anna hỏi, luồn tay khoác cánh tay anh và bắt đầu bước đi.
“Không,” Harry đáp.
“Đương nhiên là anh vẫn nhớ! Trong cái xe Ford Escort khủng khiếp có cái ghế không gập xuống được của anh ấy.”
Harry mỉm cười giễu cợt.
“Anh đang đỏ mặt kìa,” cô kêu lên sung sướng. “Em chắc chắn anh vẫn còn nhớ là chúng ta đã đỗ lại và đi vào rừng. Với những chiếc lá vàng, cứ như là…” Cô siết cánh tay anh. “Như là cái giường ấy, một cái giường khổng lồ bằng vàng.” Cô bật cười và huých anh một cái. “Sau đó em còn phải giúp anh đẩy cái xe cà tàng đó để nó khởi động được. Em hy vọng là bây giờ anh đã tống khứ nó rồi chứ?”
“Ừm,” Harry nói, “Nó vẫn nằm trong ga ra. Còn phải xem đã.”
“Ôi trời ơi. Nghe anh nói cứ như thể nó là một người bạn thân phải vào viện vì ung bướu gì đó ấy.” Và cô dịu dàng nói thêm, “Lẽ ra anh không nên buông tay nhanh đến thế, Harry ạ.”
Anh không trả lời.
“Đây rồi,” cô nói. “Mà anh cũng không thể quên chuyện đó được, phải không?” Họ dừng lại phía ngoài cánh cửa màu xanh ở phố Sorgenfrigata.
Harry nhẹ nhàng gỡ tay cô ra. “Nghe này, Anna,” anh mào đầu và cố gắng phớt lờ cái lườm đầy đe dọa của cô. “Sáng sớm mai anh phải họp với Đội Hình sự.”
“Em có nói gì đâu,” cô nói, mở cửa ra.
Harry sực nhớ ra chuyện gì đó. Anh thò tay vào túi và đưa cho cô cái phong bì màu vàng. “Ở chỗ cửa hàng khóa.”
“À, cái chìa khóa. Mọi chuyện ổn chứ?”
“Người đứng sau quầy soi thẻ căn cước của anh kỹ lắm. Và anh còn phải ký nhận nữa. Một người kỳ quặc.” Harry liếc nhìn đồng hồ đeo tay và ngáp.
“Họ rất nghiêm cẩn trong việc trao chìa khóa hệ thống!” Anna nói vội. “Nó mở được mọi cánh cửa trong tòa nhà, cửa chính cửa hầm, cửa căn hộ.” Cô bật cười vẻ lo lắng, chiếu lệ. “Phải có đơn của ban quản lý chung cư họ mới làm thêm cái chìa này đấy.”
“Anh hiểu,” Harry nói, nhấp nhỉnh gót chân. Anh hít một hơi để chào tạm biệt cô.
Nhưng cô đã cướp lời. Giọng cô gần như van xin. “Chỉ một tách cà phê thôi, Harry.”
Vẫn cái đèn chùm treo trên trần phía trên cái bàn và những chiếc ghế tựa y nguyên như cũ trong căn phòng khách rộng rãi. Harry nghĩ là tường nhà từng sơn màu trắng tinh hay có lẽ là màu vàng - nhưng anh không chắc lắm. Giờ đây tường được sơn màu xanh lơ khiến căn phòng trông có vẻ nhỏ hơn. Có lẽ Anna muốn thu hẹp bởi không gian. Sống một mình trong một căn hộ ba phòng khách, hai phòng ngủ lớn và cái trần cao tới ba mét rưỡi thì khó mà tránh khỏi cảm thấy trống trải. Harry nhớ rằng Anna đã kể với anh rằng bà của cô cũng từng sống một mình trong căn hộ này, nhưng bà không thường xuyên ở đây, vì bà là một ca sĩ giọng nữ cao nổi tiếng và vi vu khắp thế giới chừng nào bà còn hát được.
Anna vào bếp còn Harry nhìn quanh phòng khách. Căn phòng trống trải, gần như chẳng có đồ đạc gì ngoại trừ một con ngựa gỗ có kích cỡ bằng với giống ngựa lùn Ai Xơ Len đặt giữa phòng trên bốn cái chân gỗ loe với hai cái vòng nhô lên trên lưng. Harry đi tới vuốt ve lớp da màu nâu mềm mại.
“Em tập thể dục dụng cụ đấy à?” Harry hỏi to.
“Ý anh là con ngựa gỗ ấy hả?” Anna hỏi vọng từ trong bếp ra.
“Nó là dành cho đàn ông phải không?”
“Vâng. Anh có chắc là không muốn uống bia không, Harry?”
“Chắc,” anh đáp lớn. “Hỏi thật nhé, tại sao em lại có thứ này ở đây?”
Harry giật thót khi nghe thấy giọng cô cất lên ngay sau lưng anh. “Vì em thích làm những việc mà đàn ông làm.”
Harry quay lại. Cô đã cởi áo len ra và đứng ở ngưỡng cửa. Một tay đặt lên hông, tay kia đặt lên khung cửa. Tới tận phút cuối Harry mới cưỡng lại được sự cám dỗ kéo ánh mắt anh lướt từ trên xuống dưới thân hình cô.
“Em mua ở Câu lạc bộ Gym Oslo đấy. Nó sẽ là một công trình nghệ thuật. Nghệ thuật sắp đặt. Rất giống với tác phẩm ‘Tiếp xúc’, mà em chắc là anh chưa quên.”
“Ý em là cái hộp để trên cái bàn phủ một tấm vải mà em có thể nhét bàn tay mình vào được ấy hả? Và trong đó là cả đống bàn tay giả mà em có thể bắt?”
“Hoặc là vuốt ve. Hoặc tán tỉnh. Hoặc từ chối. Chúng có công cụ đốt nóng trong đó để duy trì nhiệt độ cơ thể và là một trò hết sảy, phải không. Người ta cứ tưởng có ai đó đang nấp dưới gầm bàn. Tới đây em cho anh xem cái này.”
Anh đi theo cô tới căn phòng ở cuối căn hộ, đến đây cô kéo hai cánh cửa trượt ra. rồi cô nắm tay anh kéo vào trong bóng tối với cô. Khi đèn bật sáng, thoạt tiên Harry đứng im nhìn chằm chằm vào cái đèn bàn. Đó là một cái đèn bàn mạ vàng thông thường được làm thành hình một người đàn bà tay cầm cân, tay cầm kiếm. Ba bóng đèn được đặt trên mép ngoài của thanh kiếm, trên cái cân và đầu của người đàn bà, rồi khi Harry quay lại, anh nhìn thấy từng bóng đèn chiếu vào một bức tranh sơn dầu. Hai bức treo trên tường, còn bức thứ ba, rõ rằng là vẫn chưa hoàn tất, nằm trên giá với một bảng màu lem nhem màu nâu vàng, buộc chặt vào góc trái.
“Loại tranh gì vậy?” Harry hỏi.
“Chân dung. Anh không thấy sao?”
“À, ừ. Kia là mắt à?” Anh chỉ. “Còn kia là miệng?”
Anna nghiêng đầu. “Tùy anh hiểu. Có ba người đàn ông.”
“Có ai anh biết không?”
Anna trầm ngâm nhìn Harry hồi lâu rồi mới trả lời. “Không. Em không nghĩ là anh biết người nào, Harry, nhưng anh có thể tìm hiểu họ nếu anh thật lòng muốn.”
Harry ngắm mấy bức tranh kỹ hơn. “Hãy nói cho em xem anh thấy gì.”
“Anh thấy anh chàng hàng xóm có cái xe trượt tuyết có ghế tựa. Anh thấy một người đàn ông đi ra từ phòng sau ở chỗ cửa hàng khóa khi anh rời khỏi đó. Anh còn thấy anh chàng bồi bàn ở quán M. Và cả cái gã dẫn chương trình truyền hình nổi tiếng Per Stale Lønning.”
Cô bật cười. “Anh có biết rằng võng mạc đảo ngược mọi thứ để não anh nhận được hình ảnh phản chiếu qua gương trước không? Nếu anh muốn thấy sự vật đúng như vốn có, anh sẽ phải thấy chúng trong một tấm gương. Rồi anh sẽ thấy những con người khá là khác trong những bức tranh này.” Mắt cô rạng ngời khiến Harry không đành lòng nói rằng võng mạc không đảo ngược mà là lộn ngược hình ảnh. “Đây sẽ là kiệt tác cuối cùng của em, Harry ạ. Đây sẽ là thứ khiến cho em được người đời nhớ tới.”
“Những bức tranh chân dung này ư?”
“Không, đó chỉ là một phần của toàn bộ công trình nghệ thuật. Nó vẫn chưa hoàn tất. Cứ chờ đã.”
“Ừm, nó có tên không?”
“Nemesis,” cô nói khẽ.
Anh nhìn cô dò hỏi và họ nhìn sâu vào mắt nhau. “Lấy tên của nữ thần báo thù.”
Bóng tối phủ lên một nửa khuôn mặt cô. Harry ngoảnh đi. Anh nhìn vậy là đã đủ rồi. Lưng cô uốn cong đi lên như đang khẩn nài một bạn nhảy, chân nọ bắt ra trước chân kia như thể không chắc nên tiến hay nên lùi, ngực phập phồng và cái cần cổ mảnh mai với những mạch máu mà anh tưởng mình có thể nhìn thấy được đang đập giần giật. Anh cảm thấy nóng rực và hơi lả đi. Lúc nãy cô nói gì nhỉ? ‘Lẽ ra anh không nên buông tay nhanh như thế.’ Anh đã làm vậy ư?
“Harry…”
“Anh phải về thôi,” anh đáp.
○○○
Anh kéo cái váy qua đầu cô, cô bật cười và ngã xuống tấm ga trải giường trắng tinh. Cô cởi thắt lưng của anh trong lúc ánh sáng màu ngọc lam, hắt ra qua rừng cây cọ đang đu đưa trên nền bảo vệ màn hình chiếc laptop cứ nhấp nháy trên đám yêu tinh và quỷ quái đang há miệng gầm gừ trên đầu giường chạm trổ. Anna bảo với anh rằng đó là giường của bà cô và nó đã ở đây gần tám mươi năm rồi. Cô cắn nhẹ tai anh và thì thào những điều vớ vẩn nhưng ngọt ngào bằng một thứ ngôn ngữ xa lạ. Rồi cô ngừng thì thầm và vừa cưỡi lên anh vừa la hét, rồi cười, khẩn khoản nài nỉ mạnh thêm nữa và anh ao ước chuyện đó cứ kéo dài mãi không thôi. Anh sắp ra thì cô đột ngột dừng lại, hai tay ôm lấy mặt anh và thì thào: “Là của em mãi mãi nhé?”
“Không đời nào,” anh bật cười và vật cô xuống dưới để anh lên trên. Những con quỷ bằng gỗ nhe răng cười nhạo anh.
“Là của em mãi mãi nhé?”
“Ừ,” anh rên lên và xuất.
Khi tiếng cười im bặt và họ nằm đó, mướt mả mồ hôi, nhưng vẫn quấn chặt lấy nhau trên tấm ga phủ, Anna kể với anh rằng chiếc giường là do một nhà quý tộc người Tây Ban Nha tặng cho bà cô.
“Sau một buổi biểu diễn của bà tại Seville vào năm 1911,” cô nói, hơi nhấc đầu dậy để Harry có thể đặt điếu thuốc lá đã châm vào giữa hai môi cô. “Chiếc giường được chuyển đến Oslo ba tháng sau đó bằng tàu SS Elenora. Tình cờ thế nào mà vị thuyền trưởng người Đan Mạch, Jesper gì gì đó, lại là người tình đầu tiên ân ái với bà trên chiếc giường đó - mặc dù không phải là người tình đầu tiên trong đời bà. Jesper rõ ràng là một người cuồng nhiệt, và theo lời bà cô kể lại thì đó là lý do con ngựa trang trí chiếc giường bị mất đầu. Thuyền trưởng Jesper, trong cơn đê mê, đã cắn đứt lìa cái đầu của nó.”
Anna cười vang còn Harry chỉ cười mỉm. Khi điếu thuốc được hút hết, họ lại làm tình trong tiếng kẽo kẹt và rên rỉ của những tấm gỗ Manila Tây Ban Nha, khiến Harry tưởng như anh đang ở trên một con thuyền không có người cầm lái, nhưng chuyện đó lại chẳng hề quan trọng.
Chuyện đó xảy ra đã lâu lắm rồi, và đó là đêm đầu tiên cũng là đêm cuối cùng anh ngủ trên chiếc giường của bà Anna mà không say rượu.
Harry trằn trọc trên chiếc giường sắt hẹp. Chiếc đồng hồ báo thức kết hợp với đài radio trên kệ đầu giường báo 3 giờ 21 phút. Anh chửi thề một tiếng rồi nhắm mắt lại. Những ý nghĩ của anh chậm chạp trượt về với Anna vào mùa hè đó trên tấm ga trắng tinh của chiếc giường của bà cô. Hồi đó, anh say nhiều hơn tỉnh, nhưng anh vẫn còn nhớ những đêm đó, hồng thắm và tuyệt vời như những tấm bưu thiếp ảnh gợi tình. Thậm chí cả câu nói cuối cùng mà anh thốt ra khi mùa hè trôi qua cũng là một câu cũ rích, nhưng đầy cảm xúc mãnh liệt. “Em xứng đáng có người nào đó tốt hơn anh.”
Hồi đó, anh uống nhiều đến mức mọi thứ đều chỉ về một hướng. Trong một khoảnh khắc tỉnh táo hơn cả, anh đã quyết định sẽ không kéo cô chết chìm cùng mình. Cô đã nguyền rủa anh bằng thứ ngoại ngữ của cô và thề rằng một ngày nào đó cô sẽ làm y như vậy với anh: tước đi của anh cái mà anh yêu quý nhất.
Đó là hồi bảy năm về trước, và mối tình đó chỉ kéo dài sáu tuần. Sau đó, anh chỉ gặp lại cô hai lần. Một lần tại một quán bar, cô đã đi tới chỗ anh, mắt rưng rưng và bảo anh đi chỗ khác, thế là anh đi. Lần khác là tại một cuộc triển lãm khi Harry dẫn em gái đến. Anh đã hứa sẽ gọi cho cô, nhưng lại chẳng bao giờ gọi.
Harry lăn qua để nhìn đồng hồ lần nữa. 3 giờ 22 phút. Anh đã hôn cô. Vào cuối buổi tối. Khi đã an toàn ra khỏi cái cửa lắp kính lượn sóng ngoài căn hộ của cô, anh đã cúi xuống định ôm tạm biệt cô, rồi nó trở thành một nụ hôn. Thoải mái và cảm giác thật tuyệt. Hay ít ra thì cũng là thoải mái. 3 giờ 33 phút. Trời, từ khi nào anh trở nên nhạy cảm đến mức chỉ trao cho tình cũ một nụ hôn tạm biệt mà cũng thấy cắn rứt đến vậy? Harry cố gắng hít thở sâu và đều đặn để tập trung nghĩ tới những ngả thoát có thể có từ phố Bogstadveien qua Industrigata. Ý nghĩ về cô cứ liên tục lẻn vào, rồi bị đẩy bật ra, rồi lại vào tiếp. Anh vẫn ngửi thấy mùi nước hoa của cô. Cảm thấy người cô áp sát vào anh thật êm ái. Sự dai dẳng của lưỡi cô.