Số lần đọc/download: 0 / 7
Cập nhật: 2023-06-14 21:36:06 +0700
Chương 6
V
ới bổn phận của Ethan Bonner, anh được cho là phải yêu thương tất cả mọi người, vậy mà giờ anh lại thấy mình khinh miệt người phụ nữ đang ngồi bên ghế hành khách trong chiếc Camry của anh. Khi anh rời khỏi lối ra vào của bãi chiếu bóng và đi vào con đường cao tốc, anh quan sát thân hình ốm yếu tả tơi cùng đôi má hóp giờ đây đã không còn sự hiện diện của lớp trang điểm dày cộp xưa kia nữa. Những lọn tóc xoăn màu nâu đỏ rối tung hoang dã nay đã không còn chút tương đồng nào với mái tóc óng mượt trêu ngươi cách đây ba năm mà anh vẫn còn nhớ khi ống kính truyền hình đăng chiếu hình ảnh cô ngồi bên dưới bục thuyết giảng di động nổi tiếng của Thánh đường.
Đã một thời vẻ bên ngoài của cô nhắc anh nhớ đến hình ảnh giao thoa giữa Priscilla Presley trong suốt thời kỳ nhạc Elvis thống trị làng Rock ‘n’ Roll và một ca sỹ hát nhạc đồng quê vang bóng một thời. Nhưng thay cho bộ quần áo đính đầy những đồng sequin, lúc này cô lại mặc một chiếc váy bạc thếch mất một chiếc cúc. So với người phụ nữ mà anh vẫn nhớ, cô vừa trông trẻ hơn hẳn nhiều tuổi nhưng nhưng cũng già hơn hàng thập kỷ. Chỉ có vóc dáng nhỏ nhắn, bình thường và vẻ sắc nét của cô là vẫn giữ nguyên như trước.
(Priscilla Presley: vợ Elvis Presley.)
Anh băn khoăn không rõ chính xác chuyện gì đã xảy ra giữa cô và Gabe. Sự oán giận của anh đối với cô càng thêm sâu sắc hơn. Gabe đã phải chịu đựng đủ lắm rồi mà không cần phải chồng chất thêm những rắc rối của cô ta nữa.
Liếc mắt về phía gương chiếu hậu, anh thấy đứa con trai gầy gò của cô ta đang ngồi co ro giữa đống đồ đạc nghèo nàn chất lộn xộn ở ghế sau: một chiếc va ly cũ, hai giỏ đựng đồ giặt là bằng nhựa màu xanh dương đã vỡ tay cầm, một hộp carton được dán dính lại bằng băng dính.
Cảnh tượng ấy làm anh chìm ngập trong cảm giác tức giận hoà lẫn với tội lỗi. Một lần nữa, anh lại rơi vào tâm trạng thối chí. Ngay từ đầu, Người đã biết rằng con không đủ tư cách làm một mục sư, nhưng Người có nghe đâu? Không phải Người. Không phải Vị-Thánh-Biết-Mọi-Thứ. Thế đấy, con hy vọng là Người thấy thỏa mãn rồi.
Một giọng nói nghe chừng rất giống chất giọng của Clint Eastwood vang vọng trong đầu Ethan. Ngừng than vãn đi, đồ ngốc. Con mới chính là kẻ đã cư xử như một thằng khốn cách đây hai ngày khi từ chối giúp đỡ cô ta. Đừng đổ lỗi cho Ta.
(Clinton Eastwood, Jr. là một diễn viên, đạo diễn, nhà sản xuất và nhà soạn nhạc phim người Mỹ. Trong sự nghiệp của mình, Eastwood đã giành được 5 giải Oscar – 2 lần cho giải đạo diễn xuất sắc nhất và 2 lần cho giải phim hay nhất. Ông giành được giải tưởng niệm The Irving G. Thalberg năm 1995.)
Tuyệt! Ngay lúc Ethan đang mong đợi chút đồng cảm từ Marion Cunningham, anh lại đụng phải Eastwood. Với thái độ nhẫn nhịn, anh tự hỏi tại sao mình lại cảm thấy ngạc nhiên.
(Marion Cunningham: nữ chính trong series film Happy Days chiếu trong suốt 10 năm 1974-1984, viết về câu chuyện cặp vợ chồng trung lưu ở thập niên 50. Nhân vật này là biểu trưng cho những người phụ nữ cống hiến toàn thời gian cho nội trợ.)
Ethan hiếm khi bắt được vị Chúa mà anh đang muốn nghe. Ngay lúc này, anh muốn bà Cunningham, Thánh Nữ vĩ đại trong “Happy Days”. Thế mà anh lại vớ phải Eastwood. Vị Chúa Eastwood chính là ứng nghiệm của Kinh Cựu ước. Con làm hỏng bét mọi thứ, đồ hư hỏng, giờ thì con sẽ phải trả giá.
(Old Testament: Kinh Cựu ước: phần đầu của kinh thánh chủ yếu nói về Chúa và người Do Thái.)
Chúa đã nói chuyện với Ethan nhiều năm rồi. Khi anh còn là một đứa trẻ, giọng nói đó đến từ Charlton Heston, đó quả là một trở ngại lớn, vì thật khó khăn cho một cậu thiếu niên khi phải phơi bày cả tâm hồn trước cơn giận của Chúa dưới vóc dáng của một thành viên đảng Cộng hòa. Nhưng khi hiểu biết của Ethan trong nhiều khía cạnh về sức mạnh và sự khôn ngoan của Chúa đã trở nên chín chắn, thì Charlton đã đi vào nơi cất trữ cùng với những nhân vật giả tưởng khác trong thời thơ ấu của anh, và được thay thế bởi hình ảnh của ba nhân vật nổi tiếng, tất cả bọn họ đều bất cân xứng một cách thảm hại khi được trưng bày thành những biểu tượng thiêng liêng thần thánh.
(Charlton Heston: diễn viên Oscar trong bộ phim Ben Hur, từng là nhà đấu tranh dân chủ tự do, sau đó chuyển sang tham gia vào đảng Cộng hoà, mất năm 2008.)
Nếu như anh nghe được những giọng nói, vậy tại sao chúng không đến từ những người cao quý hơn cơ chứ? Albert Schweitzer chẳng hạn? Hay Đức mẹ Teresa? Tại sao nguồn cảm hứng của anh lại không đến từ Martin Luther King hay Mahatma Ghandi? Thật không may, Ethan là sản phẩm của nền văn hóa đương thời, anh lại luôn thích TV và điện ảnh. Vì lẽ đó anh dường như bị mắc kẹt với những biểu tượng giải trí hiện đại hơn.
(*Albert Schweitzer: là một tiến sĩ, bác sĩ, nhà triết học, thần học người Đức, sau mang quốc tịch Pháp. Ông đạt giải Nobel Hoà bình năm 1952 vì đã có công lớn trong việc giúp đỡ người Châu Phi, bất chấp gian khổ, bệnh tật. Ông đã có khoảng 50 năm chữa bệnh cho người dân Gabon, một đất nước nằm ở miền Tây Trung Phi. Khi mất, ông cũng được chôn tại đây.
*Martin Luther King: mục sư da màu nổi tiếng đấu tranh cho tự do bị ám sát năm 1968.
*Mahātmā Gāndhī: là anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân. Trong suốt cuộc đời, ông phản đối tất cả các hình thức khủng bố bạo lực và thay vào đó, chỉ áp dụng những tiêu chuẩn đạo đức tối cao. Nguyên lí bất bạo lực (còn gọi là bất hại) được ông đề xướng với tên Chấp trì chân lí đã ảnh hưởng đến các phong trào đấu tranh bất bạo động trong và ngoài nước cho đến ngày nay, bao gồm phong trào Vận động Quyền công dân tại Hoa Kỳ (American Civil Rights Movement) được dẫn đầu bởi Martin Luther King, Jr.)
“Ở đây lạnh lắm à?” Anh hỏi, cố gắng vượt qua cảm giác thù địch. “Tôi có thể tăng nhiệt điều hoà lên.”
“Thế ổn rồi, Mục sư.”
Vẻ xấc láo của cô làm anh nghiến chặt răng lại, anh thầm rủa xả Gabe đã đẩy anh vào tình huống này. Nhưng trên điện thoại cách đây gần một giờ, giọng anh trai anh nghe có vẻ quá tuyệt vọng khiến Ethan không thể nào từ chối giúp đỡ anh.
Khi Ethan đến bãi chiếu bóng Niềm Kiêu hãnh của Carolina, anh thấy cửa quầy thực phẩm đã khóa còn Rachel và cậu con trai đang ngồi trên con rùa bê tông ở sân chơi. Không thấy dấu hiệu gì của Gabe. Anh giúp họ chất đống hành lý thảm hại đang để ở trên bờ sông lên xe, và giờ anh đang đưa họ đến ngôi nhà của Annie ở trên Núi Heartache.
Rachel liếc nhìn qua anh. “Sao anh lại giúp tôi?”
Anh nhớ cô đã thật nhút nhát, vì thế sự thẳng thắn của cô khiến anh bị dội ngược, giống như cách đây hai ngày. “Gabe nhờ tôi.”
“Hai ngày trước anh ta cũng nhờ anh, nhưng anh đã từ chối.”
Anh không nói gì. Ở một khía cạnh nào đó mà anh hoàn toàn chẳng hề hiểu nổi, anh oán giận người phụ nữ này còn hơn nỗi oán giận anh dành cho G. Dwayne. Chồng cô ta rõ ràng là kẻ lừa đảo, nhưng cô ta còn xảo quyệt hơn thế.
Cô cười với vẻ chế giễu. “Được rồi, Mục sư. Tôi tha thứ cho anh vì chuyện anh ghét cay ghét đắng tôi.”
“Tôi không ghét cô. Tôi không ghét ai cả.” Giọng anh nghe có vẻ nghèn nghẹt và vênh váo.
“Thật cao quý.”
Thái độ khinh thị của cô làm anh nổi giận. Cô có quyền gì để mà ra vẻ chiếu cố sau những gì cả cô lẫn lão chồng của cô đã phá huỷ tan tành để thỏa lòng tham của họ chứ?
Không một vị mục sư nào ở trong Hạt có thể cạnh tranh được với sự phồn vinh của Thánh đường Salvation. Họ không thể có những chiếc áo choàng đính kim cương giả cho dàn hợp xướng, hay máy chiếu laser dùng cho những buổi lễ nguyện. Thánh đường đã tạo ra Las Vegas dưới danh nghĩa Chúa Jesus, và nhiều thành viên của nhà thờ địa phương đã không thể cưỡng lại sự kết hợp giữa vẻ lộng lẫy của một buổi trình diễn với các câu trả lời dễ dãi được đưa ra bởi G. Dwayne Snopes.
Thật không may, khi các thành viên rời bỏ giáo đoàn, họ đã mang theo tiền của họ cùng với số tiền trong các quỹ dành cho việc hỗ trợ xây dựng Hạt tốt đẹp hơn. Chẳng bao lâu, một chương trình phân phát thuốc chữa bệnh trong khu vực đã bị ngưng trệ, sau đó những giờ phân phát thức ăn bị cắt bỏ. Nhưng mất mát lớn nhất chính là khu điều trị y khoa nhỏ của Hạt nằm ở mặt tiền, một công trình chung tay góp sức của các giáo đoàn và cũng là niềm tự hào cho giới tu sĩ địa phương. Họ đã đứng nhìn một cách vô vọng khi thấy tiền của nhà thờ dành cho người nghèo thay vào đó cuối cùng lại rơi vào cái túi không đáy của G. Dwayne Snopes. Và Rachel đóng vai trò rất lớn trong chuyện đó.
Anh nhớ cái ngày anh đã bốc đồng tự giới thiệu mình với cô khi cô vừa ra khỏi ngân hàng. Anh kể cho cô về chuyện khu điều trị đã bị buộc phải đóng cửa và cảm thấy được khích lệ khi trông thấy một vẻ mà anh cho là sự quan tâm chân thành đằng sau đôi mắt chuốt đầy mascara đó.
“Tôi rất tiếc khi nghe về chuyện đó, Mục sư Bonner.”
“Tôi không cố ý đổ lỗi.” Anh nói, “Nhưng Thánh đường Salvation đã lấy đi quá nhiều thành viên từ các giáo đoàn địa phương khiến các nhà thờ đều phải lần hồi từ bỏ từng dự án cao quý của họ.”
Cô trở nên cứng đơ, và anh có thể thấy mình đã đưa cô vào thế thủ. “Anh không thể đổ lỗi những chuyện xảy ra cho Thánh đường.”
Lẽ ra anh nên khéo léo hơn, nhưng đôi ngọc bích lớn trên tai cô bỗng nhiên bắt nắng, anh nghĩ giá chỉ cần có một viên đá đó thôi cũng đủ hỗ trợ duy trì cho khu điều trị tiếp tục hoạt động rồi. “Tôi thừa nhận là tôi muốn thấy Thánh đường tỏ ra có chút trách nhiệm hơn với cộng đồng.”
“Thánh đường đã bơm hàng trăm ngàn đô la vào Hạt này.”
“Vào lĩnh vực kinh doanh, chứ không phải cho từ thiện.”
“Anh chắc hẳn không phải là khán giả thường xuyên, Mục sư Bonner, nếu không thì anh đã thấy Thánh đường đã làm nhiều điều kỳ diệu. Những trại trẻ mồ côi ở khắp châu Phi đang phụ thuộc vào chúng tôi.”
Ethan đã cố gắng điều tra những trại trẻ mồ côi đó cùng với những khoản tài chính khác của Thánh đường, và anh không để người phụ nữ được chăm bẵm nuông chiều phủ đầy nữ trang hào nhoáng cùng đôi giày gót-nhọn-quá-cao này thoát khỏi anh chỉ bằng câu nói đó. “Nói xem, bà Snopes, phải chăng chỉ có tôi là người duy nhất tự hỏi chính xác là đã có bao nhiêu triệu đôla mà chồng cô quyên góp cho trẻ mồ côi thật sự đến được châu Phi?”
Đôi mắt xanh lục của cô trở nên lạnh như đá, và anh thoáng thấy bóng dáng bản tính nóng nảy của cô nàng tóc đỏ. “Anh không thể đổ lỗi cho chồng tôi chỉ vì anh ấy có năng lực và sự sáng tạo để lấp đầy ghế trống vào mỗi sáng Chủ Nhật.”
Anh không thể che giấu cơn giận hơn được nữa. “Tôi không biến buổi nguyện của tôi thành trò giải trí vớ vẩn cho bất cứ người nào.”
Nếu cô ta đáp lại một cách mỉa mai, có lẽ anh đã có thể quên đi buổi gặp mặt đó, nhưng giọng cô mềm đi với một vẻ gần như là thông cảm. “Có thể đó chính là chỗ mà anh sai lầm, Mục sư Bonner. Đó không phải là buổi nguyện của anh. Nó thuộc về Chúa.”
Khi cô quay bước đi, anh buộc phải thừa nhận thực tế đau lòng mà anh đã không muốn đối mặt. Thành công phô trương của Thánh đường chỉ càng tô điểm thêm những hạn chế của chính anh. Dù bài những thuyết giảng của anh rất sâu sắc và chân thành xuất phát từ tận trái tim, nhưng nó không hề gây xúc động. Chưa có thành viên nào trong giáo đoàn của anh nhỏ một giọt nước mắt trước thông điệp đầy nhiệt huyết đó. Anh không thể chữa bệnh được cho người ốm hay giúp một người què bước đi, tường bao nhà thờ của anh cũng chẳng bao giờ bị sập vì đám đông quá lớn, ngay cả trước khi G.Dwayne đến Salvation.
Có lẽ đó là lý do vì sao sự căm ghét anh dành cho Rachel Snopes lại mang tính chất cá nhân đến thế. Cô đã dựng lên một tấm gương và bắt anh đối diện với điều mà anh không muốn thấy – sự thiếu hụt khả năng để trở thành một mục sư thực sự.
Anh rời khỏi đường cao tốc đi vào một con đường hẹp dẫn lên Núi Heartache đến ngôi nhà của Annie, cách gần một dặm từ lối ra vào của bãi chiếu bóng.
Rachel vén một mảng tóc rối ra sau tai. “Tôi rất tiếc về chuyện bà ngoại anh. Annie Glide quả là một người sôi nổi.”
“Cô biết bà à?”
“Thật không may. Bà đã có ác cảm với Dwayne ngay từ đầu, và do bà không thể vượt qua được dàn vệ sĩ để quăng vào mặt ông ta những gì bà nghĩ nên thay vào đó bà đã nói với tôi.”
“Annie là người có quan điểm rất mạnh mẽ.”
“Bà mất khi nào?”
“Khoảng năm tháng trước. Trái tim bà cuối cùng cũng kiệt sức. Bà đã có một cuộc sống tốt đẹp, nhưng chúng tôi nhớ bà.”
“Nhà bà để trống từ lúc đó đến giờ sao?”
“Đến gần đây thôi. Thư ký của tôi, Kristy Brown, đã ở đó từ mấy tuần trước. Hợp đồng thuê nhà cũ kết thúc trước khi căn condo mới của cô ấy được sẵn sàng, thế nên cô ấy tạm thời sống ở đây.”
Rachel cau mày. “Tôi chắc rằng cô ấy không muốn hai người lạ chuyển vào sống cùng.”
“Sẽ chỉ vài đêm thôi.” Anh nhấn mạnh.
Rachel hiểu được ẩn ý trong câu nói của anh, nhưng cô phớt lờ nó. Một vài đêm. Cô cần lâu hơn thế để tìm ra cái hộp Kennedy.
Cô nghĩ tới người phụ nữ chưa biết mặt sắp phải đón nhận một kẻ xa lạ cùng với đứa con nhỏ chuyển đến sống chung trong nhà. Không chỉ là một kẻ xa lạ bất kỳ nào đó, mà lại là công dân tai tiếng nhất trong toàn thị trấn. Đầu cô nhức nhối, và cô kín đáo day mấy đầu ngón tay lên thái dương.
Ethan đánh vòng xe ra xa để tránh một cái rãnh làm vai cô đập vào cánh cửa. Cô liếc nhìn ra ghế sau để đảm bảo Edward không sao và thấy thằng bé đang siết chặt lấy con Horse. Cô nhớ đến cái siết của Bonner lên cô khi anh ta luồn tay vào giữa hai đùi cô.
Sự nhẫn tâm đó của anh ta là cố tình và đầy toan tính, vậy tại sao cô lại không cảm thấy hoảng sợ hơn? Cô đã không còn chắc chắn về bất cứ điều gì nữa, không phải về cảm xúc của mình, thậm chí cũng không phải về sự kết hợp đáng lo ngại giữa nỗi đau và cảm giác ghê tởm bản thân mà cô nghĩ rằng mình đã thấy trong mắt anh ta. Cô lẽ ra phải phát điên sau những gì đã xảy ra, nhưng cảm xúc mạnh mẽ nhất cô có thể cảm thấy vào lúc ấy chỉ là sự kiệt sức.
Họ vòng đến đoạn rẽ cuối, và chiếc xe dừng lại phía trước ngôi nhà lợp mái tôn với một khu vườn um tùm ở một bên và một hàng cây ở bên còn lại. Ngôi nhà rõ ràng là cũ kỹ, nhưng lớp sơn trắng bên ngoài hẳn là còn mới, với đám cửa chớp xanh sẫm sáng bóng và một cột khói bằng đá. Hai bậc thang gỗ dẫn đến một cái cửa vòm nơi một ống gió đang thổi phần phật ở phía góc xa.
Không hề báo trước, mắt Rachel bỗng cay xè. Cái nơi cũ kỹ tiều tụy này với cô dường như mới đúng là định nghĩa về một ngôi nhà. Nó tượng trưng cho sự ổn định, nguồn cội, cho tất cả những gì mà cô muốn dành cho con cô.
Ethan dỡ đồ đạc xuống đặt ở chỗ cửa vòm, sau đó mở khóa cửa trước bằng chiếc chìa khoá của mình và đứng sang một bên để cô có thể bước vào. Cô hít vào một hơi dài. Nắng chiều muộn chảy tràn qua cửa sổ, biến sàn gỗ cũ kỹ thành màu của bơ quả hạch và dát lên ánh vàng trên chiếc lò sưởi bằng đá ấm cúng. Đồ đạc trong nhà đơn giản: những chiếc ghế làm bằng gỗ liễu gai nâu lót gối sặc sỡ hoa văn, một bệ rửa bằng gỗ thông phía trên gắn một ngọn đèn sơn màu bọt biển. Chiếc tủ gỗ thông xưa cổ được dùng như bàn uống cafe, và ai đó đã thả những bông hoa dại vào trong một chiếc lọ nước bằng nhôm mạ kẽm đặt trên nóc tủ. Trông nó thật đẹp.
“Annie hay thu nhặt mấy thứ linh tinh, nhưng bố mẹ và tôi đã dọn gần sạch sau khi bà mất. Chúng tôi giữ nguyên đồ đạc trong nhà phòng khi Gabe muốn chuyển về đây, nhưng chỗ này với anh ấy có quá nhiều kỷ niệm.”
Cô định hỏi kỷ niệm kiểu gì thì anh đã biến mất chỗ ngưỡng cửa dẫn tới nhà bếp ở phía bên trái, rồi xuất hiện trở lại với một chùm chìa khóa. “Gabe bảo đưa cái này cho cô.”
Khi Rachel nhìn trân trối vào chùm chìa khóa, cô nhận ra ý nghĩa của chúng là gì, một dấu hiệu hối lỗi của Gabe. Một lần nữa cô nhớ đến cảnh tượng kinh khủng đã xảy ra giữa họ. Nó như thể anh đã tấn công chính bản thân anh thay vì là cô. Trong thâm tâm, cô rùng mình tự hỏi còn lối đi nào khác anh có thể chọn để thực hiện việc tự hủy hoại chính mình.
Với Edward bám theo sau, cô đi theo Ethan qua nhà bếp, một phòng chứa một chiếc bàn gỗ thông sứt sẹo được vây xung quanh bởi bốn chiếc ghế tựa bằng gỗ sồi có đáy làm bằng mây. Rèm cửa muslin đơn giản buông trên cửa sổ, một chiếc tủ đựng chén tách với cánh cửa bằng thiếc đặt đối diện với một chiếc bếp lò bằng gốm tráng men sứ trắng xuất xứ từ thời kỳ Đại khủng hoảng. Khi cô hít vào làn hương đặc thù của mùi gỗ cũ, của những bữa ăn trải qua hàng mấy thế hệ gia đình, cô chỉ muốn trào nước mắt.
Ethan dẫn họ ra phía cửa sau và đi vòng qua hông nhà đến một chiếc garage đơn cũ kỹ. Một cánh cửa đôi kéo lê trong bụi khi anh kéo nó mở ra. Cô theo anh bước vào trong và thấy một chiếc Ford Escort đuôi cong màu đỏ cũ kỹ không biết có từ thời nào.
“Cái này của chị dâu tôi. Chị ấy có một chiếc xe mới, nhưng chị ấy lại không để ai tống khứ chiếc này đi. Gabe nói cô có thể dùng nó trong vài ngày.”
Rachel nhớ đến người phụ nữ tóc vàng vẻ uyên bác trên bức ảnh của tờ tạp chí People. Đây không phải là loại xe mà cô nghĩ một người như Tiến sỹ Jane Darlington Bonner sẽ lái, nhưng cô sẽ không tranh cãi trước vận may này. Với một cảm giác sững sờ, cô nhận ra mình đã được cho tất cả mọi thứ cô cần: một công việc, một nơi ở, và một phương tiện vận chuyển. Cô nợ Gabe Bonner và cảm giác tội lỗi của anh từng chút một trong những thứ đó.
Cảm giác thực tế là anh cũng có thể túm lấy tất cả những thứ này giật khỏi tay cô một khi tội lỗi của anh nhạt phai chưa bao giờ rời xa cô, và cô biết cô phải hành động nhanh chóng. Bằng cách nào đó, cô phải nhanh chóng đặt tay mình lên chiếc hộp Kennedy.
“Chuyện tôi có thể bỏ trốn cùng chiếc xe và chị dâu anh sẽ không bao giờ còn nhìn thấy nó nữa đã bao giờ xuất hiện trong đầu anh chưa?”
Anh nhìn chiếc Escort tả tơi với vẻ ghê tởm và trao cho cô chùm chìa khóa. “Chúng tôi không thể may mắn đến thế.”
Cô nhìn anh bước đi, rồi sau đó nghe tiếng máy xe nổ. Edward xuất hiện phía sau cô.
“Ông ấy cho chúng ta chiếc xe thật sao?”
“Chúng ta chỉ mượn thôi”. Bất chấp vẻ bề ngoài của nó, cô nghĩ đây quả là chiếc xe đẹp nhất mà cô đã từng thấy.
Edward nhìn về phía căn nhà. Thằng bé cọ bắp chân bằng chiếc giày đế mềm chân bên kia và ngắm nhìn một chú chim xanh bay ra từ một cây mộc lan già cỗi đến đậu trên đỉnh mái nhà. Mắt nó đầy vẻ ao ước. “Chúng ta thật sự ở đây sao?”
Cô nghĩ về người phụ nữ bí ẩn Kristy Brown. “Trong một thời gian thôi. Có một người phụ nữ sống ở đây rồi, và mẹ không chắc cô ấy sẽ thế nào khi có hai chúng ta chuyển vào sống cùng, vì thế chúng ta sẽ phải chờ xem sao đã.”
Edward cau mày. “Mẹ có nghĩ rằng cô ấy ác như ông ta không?”
Không cần phải hỏi ông ta là ai. “Không ai có thể độc ác như ông ta cả.” Cô hôn khẽ vào má thằng bé. “Giờ thì dỡ đồ ra nào.” Tay trong tay, họ băng qua bãi cỏ hướng về phía căn nhà.
Ngoại trừ phòng khách và gian bếp kiểu cổ, ngôi nhà còn có ba phòng ngủ, một trong số đó khá nhỏ chứa một chiếc giường sắt hẹp và một chiếc máy khâu cũ hiệu Singer màu đen. Cô đặt Edward vào đó, dù thằng bé phản đối rằng nó muốn ngủ với cô.
Nhận xét của Bonner về chuyện biến Edward trở thành một thằng nhóc ẻo lả làm cô đau nhói. Anh ta không thể hiểu về căn bệnh của Edward cùng với tác động từ cuộc sống hỗn độn của họ lên con trai cô như thế nào. Dẫu thế, cô biết Edward hãy còn non nớt so với lứa tuổi của nó, và cô hy vọng việc có phòng riêng - ngay cả khi chuyện đó chỉ kéo dài có vài tuần, sẽ giúp thằng bé có thêm một chút tự tin.
Cô chọn một phòng ngủ trống khác cho mình. Đồ đạc trong phòng đơn giản với một chiếc giường gỗ thích, chăn bông tân hôn, một cái tủ hộc làm từ gỗ sồi với những tay kéo bằng gỗ được chạm khắc, và một tấm thảm viền hình bầu dục xơ tước một chút ở phần mép. Edward vào xem cô cất đồ đạc đi.
Cô chỉ mới làm xong thì nghe tiếng cửa trước mở. Cô nhắm mắt một lát để tập hợp lại sức mạnh, sau đó chạm vào cánh tay Edward. “Ở lại đây nhé, con yêu, cho đến khi mẹ tự giới thiệu xong đã.”
Một phụ nữ nhỏ nhắn, trông khá nghiêm nghị đứng ngay phía trong ngưỡng cửa. Cô ta trông lớn hơn Rachel vài tuổi, có thể là ngoài ba mươi. Cô ta ăn mặc giản dị với một chiếc áo cánh màu vàng cài cúc lên tận cổ và chân váy thẳng tuột màu nâu. Cô ta không trang điểm, mái tóc nâu sẫm thẳng đuột dài chỉ quá quai hàm.
Khi Rachel tới gần, cô thấy người phụ nữ không thực sự quê mùa, chỉ là đôi chút buồn tẻ. Cô ta có vóc người nhỏ, bình thường và đôi chân thon thả, nhưng có cái gì đó khắt khe ở cô ta đã che phủ những đặc điểm khác và khiến cô ta trông già hơn so với người sở hữu một làn da mềm mượt như thế.
“Xin chào” Rachel nói. “Đây ắt hẳn là chị Brown.”
“Tôi là Kristy.” Người phụ nữ không hẳn là không thân thiện. Rachel nhận thấy cô ta dè dặt thì đúng hơn.
Rachel nhận thấy lòng bàn tay mình đổ mồ hôi. Khi cô lén lau tay mình vào thân chiếc quần jean, ngón trỏ của cô chợt chạm vào một vết rách. Cô tránh nó ra trước khi cô làm gì đó tổn hại thêm. “Tôi rất xin lỗi về chuyện này. Mục sư Bonner cứ bảo rằng chị sẽ không phiền khi có chúng tôi ở đây, nhưng …”
“Ổn mà.” Khi Kristy bước vào phòng khách, cô ta đặt chiếc túi giấy đang cầm lên chiếc tủ gỗ thông, kế bên lọ nước đựng hoa dại, và đặt chiếc túi xách màu đen trông rất đứng đắn lên một trong những chiếc ghế liễu gai nâu.
“Không phải là ổn. Tôi biết đấy là một sự áp đặt tệ hại, nhưng lúc này tôi dường như không có chỗ nào khác để đi.”
“Tôi hiểu.”
Rachel nhìn cô ta đầy hoài nghi. Kristy Brown không thể hài lòng với viễn cảnh chứa chấp người đàn bà bị căm ghét nhất Salvation, nhưng nét mặt của cô không bộc lộ gì nhiều lắm. “Chị biết tôi là ai, đúng không?”
“Cô là người vợ góa của Dwayne Snopes”. Cô ta vuốt thẳng chiếc chăn đặt trên trường kỷ với một vẻ thành thục tới nỗi Rachel đoán đó là nét đặc trưng trong tất cả những việc mà cô ta làm. Rachel để ý thấy đôi bàn tay nhỏ nhắn và thanh nhã, móng tay gọn gàng hình oval được sơn bóng sạch sẽ.
“Chứa tôi trong nhà sẽ không làm chị được ưa thích ở cộng đồng này đâu.”
“Tôi chỉ cố làm điều đúng đắn.” Ngôn từ của người phụ nữ này mang vẻ cao đạo, và lối nói có chút nào đó cứng nhắc. Tuy vậy, có điều gì đó trong kiểu cách của cô ta khiến chúng có vẻ chân thành.
“Tôi đã lấy một phòng ngủ trống và để con trai tôi ở trong phòng may. Tôi hy vọng sắp xếp thế là ổn. Chúng tôi sẽ cố tránh xa khỏi đường của chị nhiều nhất có thể.”
“Không cần thiết.” Cô ta liếc quanh phòng về phía nhà bếp. “Cậu bé đâu rồi?”
Cô buộc mình phải quay về phía phòng ngủ. “Edward, con ra đây được không? Nó hơi nhút nhát.” Cô hy vọng lời giải thích này có thể miễn được Kristy khỏi phải mong đợi ở thằng bé quá nhiều.
Edward xuất hiện trên ngưỡng cửa. Nó dắt đầu con Horse trong thắt lưng chiếc quần soóc vàng, và dán mắt vào đầu ngón chân như thể nó đã làm điều gì đó sai trái.
“Kristy, đây là con trai tôi Edward. Edward, mẹ muốn con gặp cô Brown.”
“Chào.” Nó không nhìn lên.
Trước nỗi bực tức của Rachel, Kristy chẳng nói gì để làm dịu đi sự nhút nhát của thằng bé mà chỉ đơn giản đứng nhìn nó chằm chặp. Điều này hóa ra còn tệ hơn là cô đã nghĩ. Thêm một người lớn với thái độ thù địch là điều cuối cùng mà Edward cần lúc này.
Edward cuối cùng cũng liếc mắt lên, hiển nhiên là tò mò vì nó không nghe đáp lại.
Miệng Kristy cong lại thành một nụ cười đầy đặn. “Chào Edward. Mục sư Ethan bảo rằng con sẽ ở đây. Cô rất vui được gặp mặt con.”
Edward mỉm cười đáp lại.
Kristy nhấc chiếc túi giấy trên bàn và bước tới chỗ thằng bé. “Khi cô nghe nói là con sẽ ở đây, cô đã mua cho con một thứ. Cô hy vọng là con thích.” Rachel nhìn Kristy khuỵu gối quỳ xuống ngang tầm mắt với Edward.
“Cô mua cho con một món quà sao?” Edward không thể tỏ ra ngạc nhiên hơn.
“Chẳng có gì cao siêu hết. Cô không biết chắc con thích gì.”
Cô ta đưa cậu bé chiếc túi. Nó mở ra và tròn xoe mắt. “Một cuốn sách! Một cuốn sách mới!” Nét mặt nó bỗng tối lại. “Nó thực sự là cho con sao?”
Rachel tưởng chừng tim mình tan vỡ. Đã có quá nhiều điều tệ hại xảy ra trong cuộc sống của Edward đến nỗi thằng bé không thể tin được chuyện tốt đẹp có thể xảy ra.
“Dĩ nhiên là cho con rồi. Đây là cuốn Stellaluna, nó nói về một con dơi con. Con có thích cô đọc cho con nghe không?”
(Stellaluna : Sách cho trẻ em của nhà văn Jannell Cannon viết 1994, về hành trình của một cô bé dơi lạc mẹ sau khi tổ của nó bị tấn công bởi một con cú.)
Edward gật đầu, cả hai người họ cùng ngồi lên ghế trường kỷ và Kristy bắt đầu đọc. Cổ Rachel nghẹn lại trong khi chứng kiến cảnh tượng đó. Thằng bé cắt ngang Kristy bằng mấy câu hỏi, và được cô ta giải đáp thật kiên nhẫn, và khi họ tiếp tục đọc, vẻ giản dị thô kệch của người phụ nữ đó biến mất. Cô ta cười trước những câu huyên thuyên của Edward, ánh mắt ngời sáng, và trông cô ta thật xinh đẹp.
Cả hai đều tiếp tục tán gẫu xuyên suốt bữa tối mà Kristy đã khăng khăng đòi họ phải ăn cùng nhau. Rachel ăn dè sẻn, không muốn lấn phần của Edward dù chỉ là một miếng thịt gà hầm mà thằng bé đang ngấu nghiến. Với một niềm vui sướng thuần khiết, cô nhìn mẩu thức ăn biến mất trong miệng con trai.
Sau bữa tối, Rachel cứ nhất nhất đòi dọn dẹp nhưng Kristy không để cô làm một mình. Trong khi Edward ngồi trên bậc cửa vòm với cuốn sách quý giá của mình, cả hai người phụ nữ làm việc trong sự im lặng đầy ngượng ngập.
Cuối cùng Kristy cũng phá tan sự im lặng đó. “Cô có bao giờ nghĩ đến chuyện đưa Edward đến nhà trẻ chưa? Có một nơi rất tiện nghi ở nhà thờ, với cả trường cho trẻ em nữa.”
Má Rachel đỏ ửng. Edward cần phải được ở cạnh những đứa trẻ khác, và sẽ tốt hơn cho thằng bé rất nhiều khi được tách ra khỏi cô một chút. “Tôi e rằng ngay lúc này tôi không có đủ khả năng chi trả”.
Kristy ngập ngừng. “Sẽ không tốn một xu nào đâu. Có một suất học bổng mà tôi nghĩ thằng bé đạt tiêu chuẩn. ”
“Học bổng ư?”
Kristy có vẻ như tránh ánh mắt của cô. “Để tôi đem thằng bé theo khi tôi đến chỗ làm vào sáng mai. Tôi sẽ thu xếp chuyện này cho.”
Không có học bổng gì cả. Đó là từ thiện, và Rachel muốn từ chối hơn bất cứ điều gì khác. Nhưng cô không có chỗ nuôi lòng kiêu hãnh đối với những việc liên quan đến con trai cô. “Cám ơn chị.” Cô lặng lẽ nói. “Tôi rất cảm kích về điều đó.”
Lòng trắc ẩn hiện lên trong đôi mắt Kristy làm cô cảm thấy vô cùng hổ thẹn.
Đêm hôm đó, sau khi Edward đã ngủ, cô lẻn ra ngoài bằng lối cửa sau và bước xuống những bậc thềm gỗ. Tiếng kẽo kẹt vang lên khi cô bật chiếc đèn pin cất trong hộc đựng găng tay của chiếc Impala mà cô đã nhớ để lấy lại trước khi chiếc xe bị kéo đi. Mặc dù cô mệt mỏi đến mức chân mềm nhũn, nhưng vẫn còn một điều cô cần phải làm trước khi cho phép mình trôi vào giấc ngủ.
Giữ đèn pin soi thấp xuống mặt đất, cô lia nó dọc hàng cây phía sau ngôi nhà cho đến khi cô thấy thứ mà mình đang tìm, một con đường hẹp lượn vòng vào khu rừng. Cô đi về hướng đó, dọn những vật cản ra khỏi đường để cô khỏi vấp dính.
Một nhánh cây quệt vào má cô, rồi tiếng gù của một chú chim đêm vang lên. Vốn được nuôi dạy tại vùng quê, cô thích được ra ngoài vào ban đêm để có thể một mình với cái tĩnh lặng và hương đêm mát lạnh trong lành. Tuy vậy, vào lúc này thì cô chỉ có thể tập trung vào việc bước về phía trước.
Ngôi nhà của Annie Glide nằm trên đỉnh Núi Heartache, cách chưa tới nửa dặm kể từ nơi Rachel đang đi tới, nhưng cô phải dừng lại nghỉ nhiều lần trên đường đi. Cuối cùng, cô cũng mất khoảng gần nửa giờ để đến được khe núi. Khi tới đó, cô đổ người xuống một mỏm đá nhỏ và nhìn xuống phía sườn núi bên kia. Ngay phía dưới chính là ngôi nhà mà cô đã từng sống với G. Dwayne Snopes.
Căn nhà trông có vẻ trầm mặc tọa lạc trong thung lũng phía bên dưới, được xây lên từ những đồng tiền vấy máu và những trò lừa bịp. Lúc này các khung cửa sổ tối đen, ánh trăng soi làm nổi bật hình dáng kiến trúc ngôi nhà nhưng không rõ đến từng chi tiết. Tuy vậy, Rachel không cần có ánh sáng để nhắc cô nhớ rằng nó kinh khủng hay giả dối và quá mức phô trương đến thế nào, cũng như chính Dwayne.
Vẻ kỳ quái sặc sỡ chính là ý tưởng của ông ta về một đồn điền ở miền Nam. Hai cánh cổng sắt trang trí đen ngòm được tô điểm với một đôi bàn tay vàng đang cầu nguyện chặn ở phía cuối đường xe đi, trong khi phía bên ngoài ngôi nhà dựng lên sáu chiếc cột trắng khổng lồ và một chiếc ban công đuợc trang hoàng bằng cách phủ lưới sắt mạ vàng xấu xí. Nội thất bên trong lát đầy đá hoa cương đen như hầm mộ, những chùm đèn treo phô trương hào nhoáng, những thứ phi nghĩa và cờ hoa, gương soi và sự giả tạo, nhưng trên hết là một đài phun nước bằng đá hoa cương trong phòng giải trí sáng đèn màu cùng bức tượng một cô gái Hy Lạp đồng trinh với một bộ ngực của một vũ nữ thoát y. Cô tự hỏi không biết liệu Cal Bonner và vợ anh ta có khiếu thẩm mỹ tử tế hơn để di dời cái đài phun nước đó hay không, nhưng rồi cô lại không thể hình dung bất cứ ai có khiếu thẩm mỹ mà lại đi mua cái ngôi nhà kinh khủng đó ngay từ đầu.
Thung lũng có một đường dốc đứng, con đường mà cô đã đi rất nhiều lần trong suốt bốn năm sống ở nơi đây khi cô trốn thoát được nỗi đàn áp của cuộc hôn nhân bằng những cuốc dạo bộ vào buổi sáng. Phần thiếu kiên nhẫn trong cô buộc cô phải đi xuống con đường dốc đứng đó ngay đêm nay, nhưng cô không liều lĩnh đến mức thế. Không chỉ là cô chưa lại sức, mà cô còn muốn có sự chuẩn bị chu đáo hơn.
Nhanh. Rất nhanh thôi, cô sẽ xuống Núi Heartache và đòi lại thứ thuộc về con trai cô.