Số lần đọc/download: 5076 / 146
Cập nhật: 2015-03-02 12:49:08 +0700
Chương 6
N
hững ngày cuối năm, trời trở lạnh mau. Cái rét giao mùa dường như ông trời cố ý mang đến để tương phản với không khí đang sôi sục đang chuẩn bị tổng khởi nghĩa trong lòng hàng ngàn đảng viên Quốc Dân Đảng. Bao nhiêu mất mát liên tục về mặt nhân sự cũng như vũ khí của Đảng, càng làm Tổng Bộ thấy không còn đường nào khác ngoài một cuộc vùng dậy liều lĩnh theo phương châm “sát thân thành nhân” của cổ nhân xưa.
Hàng loạt tổ đảng bi vỡ đã đành, lại thêm những xưởng chế bom, những cơ sở cất giấu truyền đơn, cũng cứ lộ dần, đặc biệt là trong phạm vi tỉnh Bắc Giang, quê hương của Nguyễn Khắc Nhu và chị em cô Giang. Kế hoạch tổng khởi nghĩa vì vậy không còn là một bí mật đối với sở Liêm Phóng. Chúng chỉ không biết ngày nào mà thôi. Mạng lưới mật thám và tay sai vốn đã dày đặc, nay lại càng giăng bủa sâu rộng hơn, bám sát từng bước chân của đảng viên Quốc Dân Đảng, nhất là quyết bắt cho được Nguyễn Thái Học và các nhân vật chủ chốt.
Giữa tình thế dầu sôi lửa bỏng, một mất một còn ấy, người đau khổ nhất là Lê Hửu Cảnh. Đang là một ủy viên trung ương, sát cánh với Nguyễn Thái Học, ông bị đẩy hẳn ra ngoài, chẳng những không được tham dự bất cứ một buổi họp quan trọng nào, mà còn bị ngờ vực, xa lánh. Chia sẻ với Cảnh, chỉ có vài đồng chí trong nhóm “cải tổ” và thêm một đàn em trẻ, đó là Minh.
Minh lúc này vẫn làm việc ở tòa báo trong nỗi thấp thỏm chờ đợi tai họa ập đến. Căn gác trọ của anh ở Khâm Thiên may mắn chưa nằm trong danh sách bị khám xét. Ông Sửu khập khiễng bên kia đường vẫn là bạn tri kỷ để Minh tâm sự và đôi khi nhờ vả công tác, dù ông không nằm trong đoàn thể. Dòng đời vẫn lặng lẻ trôi, sáng chiều hai buổi Minh vẫn xách cập đi về như một công chức cần mẫn, gác bỏ mọi chuyện nhiêu khê đang diễn ra quanh anh. Nhưng trên thực tế, những lo buồn triền miên làm Minh gầy xọm đi vì mất ngủ. Giống như bao nhiêu đảng viên khác, Minh mang nỗi buồn chung là tình hình nguy biến liên tục của Quốc Dân Đảng. Thêm vào nỗi buồn riêng là hoàn cảnh giằng co của Lê Hửu Cảnh, một đàn anh mà Minh hết lòng nễ phục. Ngoài ra, cái tin Nguyễn Văn Viên bị bắt rồi treo cổ tự tử trong tù cũng làm Minh trăn trở đến cả tháng trời. Với Viên, Minh có khá nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Huống chi hai năm hoạt động trong Thành Bộ, Viên là người lãnh đạo trực tiếp của Minh. Minh cũng là người đầu tiên được Viên trực tíêp kể cho nghe vụ ám sát Réne Bazin và dặn anh phải viết lại câu chuyện này cho đời sau tường tỏ.
Một buổi chiều Minh ở tòa soạn về, tạt ngang sạp hàng của ông Sửu định đưa cho ông tờ báo mới. Thấy ông đang có khách, trả giá mua một cái mũ nồi cũ. Minh đứng tần ngần một chút, toan băng ngang đường leo lên gác thì vui mừng nhận ra người khách ấy chính là Lê Hửu Cảnh. Minh buột miệng kêu lên:
- Ơ! Anh Cảnh! Đi đâu lang thang đến chốn này!
Cảnh ngẫng lên làm bộ ngạc nhiên:
- Minh đấy ư? Tôi vừa ở Ô Chợ Dừa lại thẳng đây! Tôi nhớ láng máng hình như cậu ở quanh đâu đây, phải không?
Minh hiểu ý, khẻ gật đầu:
- Vâng! Em thuê gác trọ bên kia đường!
Thật ra thì Cảnh đã đến căn gác của Minh nhiều lần và hôm nay anh ghé ngang đây cốt để chờ Minh. Minh cũng từng kể qua cho Cảnh biết về hoàn cảnh và tâm sự của ông Sửu, nên Cảnh dù gặp ông lần đầu mà đã thấy như biết ông ấy từ lâu. Tuy vậy, Cảnh vẫn cẩn trọng bởi thời buổi này lòng người thay đổi trắng đen, không biết thế nào mà lường. Có người mới hôm trước còn là đồng chí, hôm sau lại là tay sai cho thực dân, dẫn mật thám đi bắt bạn bè của mình. Bao nhiêu bài học đắng cay của Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng như Đông Dương Cộng Sản Đảng đang diễn ra từng ngày, khiến Cảnh không thể không dè dặt.
Cảnh lúc này không còn làm trong cong xưởng hỏa xa nữa vì sở đã báo cho mật thám biết là Cảnh vắng mặt thường xuyên, không thể không nghi ngờ hành tung của Cảnh. Ông không dám về nữa. Ông phải cải trang, đóng nhiều vai trò khác nhau và thay đổi chỗ ngủ hàng đêm. Nắng gió và cuộc sống thất thường đả làm Cảnh gầy và đen, nhất là ánh mắt lúc nào cũng toát ra nỗi ưu tư.
Hôm qua Cảnh ở Yên Bái về, bỗng nhớ đến Minh, nên hôm nay tìm gặp để hàn huyên cho vơi bớt nỗi sầu đang nặng trĩu trong lòng.
Cảnh trả tiền mũ cho ông Sửu rồi chụp ngay cái nón đen lên đầu, kéo thấp xuống, che gần nữa khuôn mặt. Minh trao cho ông Sửu tờ báo rồi giới thiệu vội vã:
- Anh Cảnh đây là anh họ của tôi! Anh em lâu ngày mới gặp nhau!
Cảnh gật đầu chào ông Sửu, nhưng không nói gì. Ông Sửu lễ phép cúi đầu chào lại. Minh nói thêm với Cảnh:
- Còn ông Sửu đây thì cũng như chỗ người nhà. Anh có cần nhắn gì em thì cứ bảo ông ấy một tiếng! Em nói phòng xa, anh đến tìm em mà không gặp.
Ông Sửu nhìn Minh bằng ánh mắt dịu dàng như thầm nói cám ơn về sự tin tưởng của Minh. Bấy giờ Cảnh mới quay sang nói với ông Sửu:
- Cậu em tôi đây cũng hay nhắc đến ông luôn! Thời buổi này tìm được người tri kỷ không phải là dễ, có phải không ông?
Ông Sửu khách sáo đáp:
- Thưa ông! Quả có như thế ạ! Tôi may mắn được làm quen với thầy Minh. Thầy là nhà báo học rộng hiểu nhiều, thành ra đầu óc tôi cũng vỡ ra được lắm thứ hay!
Minh vỗ vai ông Sửu:
- Không dám! Không dám! Ông nói quá lời!
Rồi Minh nói vài lời giã từ và kéo tay Cảnh băng ngang đường. Anh bảo Cảnh:
- Lên gác ngồi nói chuyện anh nhé! Em đang mong anh mà chả biết tìm anh ở đâu! May quá hôm nay gặp!
Phố chiều không đông lắm, mặc dù là giờ tan sở. Khu này dân cư thưa thớt mà đa số là thành phần lao động chân tay, khiêng thuê vác mướn, buôn thúng bán bưng, nên đâu có giờ giấc cố định.
Trước đề nghị của Minh, Cảnh ngần ngừ không trả lời ngay. Anh cũng muốn lên gác trọ của Minh ngồi nói chuyện cho vắng vẻ. Nhưng lúc này anh như con chim đậu cành mềm, vào nhà ai cũng sợ bị theo dõi rồi vây bắt, thành ra anh đảo mắt nhìn hai bên đường rồi bảo nhỏ Minh:
- Đi chỗ khác tiện hơn là lên gác. Ngộ nhỡ …
Minh hiểu ý gật đầu:
- Vâng. Thế thì đi. Để em xem đi đâu bây giờ? Ừ! Hay là đi ăn cao lâu anh nhé? Phải đấy. Lâu lắm rồi chả có bửa ăn nào cho ra hồn!
Cảnh cười:
- Nhà báo như cậu, tiền đâu mà ăn cao lâu? Nhưng mà tùy cậu. Ngồi chỗ nào nói chuyện. Miễn là không bị theo dõi!
Minh trấn an:
- Anh yên lòng. Hiệu ăn đông khách lắm mà chả có ai chú ý vì toàn là khách ở trong các nhà hát ra. Văn nhân công tử đủ mặt!
Hai người thả bộ dọc theo Phố Khâm Thiên đến một hiệu ăn mới mở gần rạp hát Vĩnh Lạc. Thực khách không đông lắm. Minh đưa Cảnh vào sâu ở góc trong, sát bên cái cửa sổ rộng. Theo thói quen, Cảnh thò đầu ra hẳn ngoài cửa sổ quan sát để đề phòng nếu mật thám ập vào thì ông sẽ nhảy qua đó mà trốn. Cảnh bỏ mũ để thiên hạ khỏi chú ý, nhưng anh ngồi quay mặt vào vách. Minh gọi vài món ăn rồi nhập đề bằng giọng nho nhỏ vừa đủ hai người nghe:
- Ít lâu nay anh đi đâu? Em có ghé chỗ anh làm, nhưng người ta bảo anh nghỉ rồi. Muốn lại nhà tìm anh, nhưng ngại quá! Em thì vẫn còn ở tòa báo. Hàng ngày, bao nhiêu tin tức dồn dập, làm em sốt ruột quá anh ạ!
Cảnh bưng cốc nước trà nóng, xoay xoay trong tay, cúi đầu đáp:
- Tôi vẫn đi lanh quanh, nay chỗ này, mai chỗ khác! … Cậu sốt ruột một, tôi sốt ruột mười! Tôi chả phải kể cậu cũng biết, tôi như người ngồi trên đống lửa! Từ dạo tháng 5 đến bây giờ, sau Hội Nghị Đức Hiệp mà tọi đưa cậu về dự, Tổng Bộ chả còn liên lạc gì với tôi. Tôi biết Tổng Bộ đang chuẩn bị tổng khởi nghĩa, mà tôi chả thấy ai giao công tác gì cả!
Minh nén tiếng thở dài chen vào:
- Em cũng thế! Tổng Bộ ít người biết em đã đành, mà ngay cả Thành Bộ, từ khi anh Viên bị bắt và hy sinh trong tù, em trở thành lạc lõng quá! Tổ đảng chả còn ai hỏi han gì đến em nữa!
Cảnh ngậm ngùi nhận xét:
- Có thể là vì các đồng chí ấy cho rằng cậu theo phe của tôi, nên họ ngại tiết lộ kế hoạch của đảng!
Yên lặng một lúc, Cảnh hỏi:
- Cậu bảo, cậu ngồi ở tòa báo, bao nhiêu tin tức dồn dập, là những tin gì?
Minh chưa kịp trả lời thì nhà hàng mang thức ăn ra. Cảnh đang đói nên vội vàng làm dấu Thánh giá rồi cầm đũa gắp ngay. Chờ bồi bàn đi khỏi, Minh mới nói:
- Biết bao nhiêu tin tức quan trọng mà toàn là tin buồn. Bắt bớ, xử án, kho vũ khí bị phát giác. Tin nào về đến tòa báo cũng làm em đứt ruột!
Cả hai đều im lặng bùi ngùi. Nhưng chỉ một phút sau, Cảnh xòe bàn tay và vui vẻ bảo Minh:
- Cậu ăn đi đã chứ! Cậu để tôi ăn một mình hay sao? Từ nãy đến giờ, cậu chưa động đũa! Làm tôi gắp mãi cũng thấy ngượng!
Minh cười buồn đáp:
- Lâu lắm em mới được mời anh ăn với em một bửa cơm xoàng! Xin anh cứ tự nhiên cho!
Rồi Minh kể:
- Hôm mùng 10 tháng 10, nghĩa là cách nay một tháng, tòa án Nam triều họp ở Vinh, tuyên án tử hình vắng mặt mấy nhân vật cộng sản. Chắc là do sự thúc giục của Pháp …
Cảnh gật đầu ngắt lời:
- Tôi biết. Xử tử hình khiếm diện Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Hồ Tùng Mậu, Trần Văn Cung. Cả Lê Duy Điếm và Tổng Oánh nữa. Tổng Oánh thì tôi quen từ thuở chưa gia nhập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội.
Minh nhấn mạnh:
- Cái mà em muốn nói đây là em vẫn nhớ đề nghị của anh ở hội nghị Đức Hiệp hồi tháng 5. Anh Học, anh Nhu và tổng bộ của mình phải ra nước ngoài giống như Tổng bộ VNTNCMĐCH! Đấy anh xem! Tuyên án tử hình vắng mặt thì cũng như không, chỉ càng làm cho mấy ông ấy được quần chúng chú ý thêm mà thôi! Tiếc là anh Học cứng rắn quá!
Cảnh chớp mắt như sắp khóc, Việt Nam Quốc Dân Đảng là một đảng cách mạng chủ trương bạo động, dùng vũ lực để đánh đổ thực dân Pháp. Cảnh vẫn biết như thế ngay từ buổi đầu khi chưa gia nhập. Nhưng ông vẫn không đồng ý với cách tổ chức quá vội vả của tổng bộ, dường như không tính đến chuyện đường dài. Hy sinh tính mạng cá nhân thì Cảnh không tiếc, như lời thề khi tuyên thệ gia nhập Đảng. Nhưng việc hy sinh đó là nền tảng vững chắc để những đồng chí kế tục tiến lên mà giành lấy thành công thì mới có ý nghĩa. Chứ hy sinh chỉ để gây tíêng vang thì thực là phí phạm lòng yêu nước. Cảnh không buồn vì bị tổng bộ hất hủi mà buồn vì nhìn thấy trước trong tình hình hỗn tạp này, thế nào đảng trưởng Nguyễn Thái Học cũng bị bắt, mà Nguyễn Thái Học bị bắt thì đảng sẽ tan vỡ. Trong tâm thức của người Á Đông, đảng chính là lãnh tụ. Lãnh tụ còn thì đảng còn. Lãnh tụ mất thì đảng cũng sẽ biến theo! Bởi thế, Nguyễn Thái Học không thể coi nhẹ con người của mình như bất cứ đảng viên nào khác.
Minh dè dặt hỏi:
- Anh tính sao bây giờ anh Cảnh? Anh có định ra nước ngoài không? Em nghe nói anh Nghiệp đang gây dựng cơ sở bên Vân Nam …
Cảnh cắt ngang:
- Cậu cũng biết chuyện ấy ư? Việc ấy thì tôi biết khá rõ. Anh Huân cũng có bàn với tôi và lúc đầu tôi cũng có nghĩ đến việc tạm lánh sang Tàu. Nhưng bây giờ tôi quyết định ở lại cùng tham gia tổng khởi nghĩa với anh em!
Minh ngạc nhiên tròn mắt nhìn Cảnh:
- Nhưng có ai dùng anh đâu?
Cảnh nhún vai đáp:
- Mình làm gì được thì cứ làm, đóng góp được gì thì đóng góp! Vì đảng vì dân mà làm. Bất đồng nội bộ chỉ là chuyện thường tình. Huống chí, nếu tôi bỏ đi lúc này thì các đồng chí ở Tổng bộ lại càng nghi hơn!
Nghe câu nói khảng khái, Minh lại càng cảm phục Cảnh. Quả thực mấy tháng vừa qua, Cảnh đã trăn trở đến nát óc, nhiều lần định sang Tàu hay sang Xiêm, nhất là khi ông nhận được mật tin các hoạt động của Nguyễn Thế Nghiệp bên kia biên giới.
Lùi lại 2 năm về trước, khi nhóm Nam Đồng Thư Xã thành hình tại Hà Nội, cử người đi kết giao hào kiệt thì gặp Nguyễn Thế Nghiệp là một nhân vật trí thức đang nung nấu đầu óc cách mạng tại Bắc Ninh. Ông nhận lời tham gia Nam Đồng Thư Xã và khi biến thành Việt Nam Quốc Dân Đảng thì ông có mặt trong tổng bộ lâm thời, nhiệm kỳ đầu tiên, giữ vai trò phó chủ tịch cho Nguyễn Thái Học. Vốn chủ trương cách mạng đường dài, ngay sau đó Nguyễn Thế Nghiệp vào Sài Gòn xuất bản tờ báo tiếng Pháp Revue Économique để làm tiếng nói đấu tranh và tạo vị thế cho mình để gặp gở các nhà trí thức yêu nước khác. Qua tờ báo, Nguyễn Thế Nghiệp bắt liên lạc được với một vài nhân vật chủ chốt trong nhóm Phục Việt, chẳng hạn như Vũ Đình Dy và Quang Minh Nguyễn Văn Ngọc. Nghiệp bàn việc kết họp lại dưới bãng hiệu Quốc Dân Đảng, nhưng chuyện không thành. Nghiệp lại trở ra Hà Nội và khi tổng bộ Quốc Dân Đảng bầu ban chấp hành nhiệm kỳ 3, chia làm 2 ban: Lập pháp và hành pháp thì Nguyễn Thế Nghiệp là chủ tịch bên Hành Pháp trong khi Nguyễn Khắc Nhu phụ trách bên Lập Pháp, có Nguyễn Thái Học làm phụ tá. Đầu năm 1929, sau khi Bazin bị ám sát, mật thám Pháp mở cuộc càn quét, bắt giữ hầu hết các nhân vật trọng yếu của Quốc Dân Đảng, thì Nguyễn Thế Nghiệp cũng nằm trong đám người không may đó. Tháng 7, Hội đồng đề hình xử án tập thể, Nghiệp bị tuyên án 10 năm cấm cố, chuẩn bị lên đường lưu đày vào tháng 8 cùng với 45 đồng chí khác.
Tuy đã tống vào tù được đa số các yếu nhân Quốc Dân Đảng, nhưng mật thám Pháp vẫn chưa hài lòng vì Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu còn thong dong bên ngoài, nghĩa là cái nguy cơ nổi dậy vẫn còn nguyên. Lúc ấy, tên thực dân Brides, xuất thân là công sứ - tức là quan đầu tỉnh về phía chánh quyền Pháp, song hành với tuần phủ về phía Nam triều – vừa thăng làm giám đốc chính trị và hành chánh. Brides được bổ nhiệm đứng đầu “hội đồng đề hình”, tức là chánh án tòa đặc biệt chuyên xử những vụ án chính trị. Với nhiệm vụ mới này, Brides dùng hết nỗ lực để bắt cho bằng được Nguyễn Thái Học. Hắn đã từng ép Trúc Khê Ngô Văn Triện viết thư dụ hàng Nguyễn Thái Học rồi nhờ hai chị em cô Nhu và Uyễn của Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội trao thư cho cô Giang để cô Giang đưa lại cho Nguyễn Thái Học. Chuyện không thành, dẫn đến chuyện ám sát Nhu Uyễn do chính nhóm Cộng Sản ra tay ở Hải Phòng hồi cuối tháng 5. Sau vụ thất bại ấy, Brides lại càng bực bội hơn, đêm ngày không ngơi nghỉ nghĩ kế bắt Nguyễn Thái Học.
Biết được ưu tư sâu xa của Brides, Nguyễn Thế Nghiệp liền nghĩ ra một kế khá bất ngờ. Ông gặp riêng Brides và đề nghị Brides thả ông ra. Ông sẽ thuyết phục cho Nguyễn Thái Học về đầu thú chánh quyền bảo hộ.
Vốn là người giỏi tiếng Pháp, lại từng là chủ tịch ban Hành Pháp của Quốc Dân Đảng – nghĩa là tương đương với chức vụ đảng trưởng – Nguyễn Thế Nghiệp lung lạc được Brides một cách tương đối dễ dàng, vì tin là Nguyễn Thế Nghiệp có vị thế lớn để nói chuyện với Nguyễn Thái Học. Hơn thế nữa, trong cách suy nghĩ của Brides thì việc bắt lại Nguyễn Thế Nghiệp cũng không khó nếu Nghiệp không làm được việc.
Tháng 8 năm 1929, thực dân phát vãng các tù nhân Quốc Dân Đảng đã bị tuyên án tháng trước, lên đường đi Côn Đảo. Nguyễn Thế Nghiệp cũng nằm trong danh sách ấy, nhưng thay vì đày ông đi biệt xứ, thanh tra Brides cấp giấy tờ tùy thân và tiền bạc rồi thả tự do cho Nghiệp để ông bí mật đi gặp đảng trưởng Nguyễn Thái Học.
Ra khỏi tù, dĩ nhiên Nguyễn Thế Nghiệp không tìm Nguyễn Thái Học. Ông lên thẳng Lào Kai, tìm đến đồng chí Nguyễn Kim Ngữ để nhờ ông này đưa sang bên kia biên giới. Nguyễn Kim Ngữ lúc ấy là chi bộ trưởng Lào Kai, người có công kết nạp và thành lập rất đông đảng viên Quốc Dân Đảng từ năm 1928. Lào Kai có đến gần 10 chi bộ Việt Nam Quốc Dân đảng, kể cả những châu bản người thiểu số. Gia đình Nguyễn Kim Ngữ chuyên sống bằng nghề buôn lậu thuốc phiện từ Lào Kai sang bên kia biên giới và ngược lại, cho nên đường đi nước bước Ngữ rất rành. Ngữ giắt Nghiệp sang Côn Minh, thủ phủ của tỉnh Vân Nam. Tại đây, Ngữ lấy một cái tên mới nghe có vẻ Tàu là Trương Nguyên Minh, rồi tức tốc làm quen và vận động kiều bào, kết họp những nhóm cách mạng lẻ tẻ đang có mặt trên đất Trung Hoa. Ba tháng sau, ông thành lập được “Việt Nam Quốc Dân Đảng Vân Nam Đạo Bộ”. Bấy giờ ông mới cho người về Việt Nam thông báo cho Nguyễn Thái Học và Tổng bộ Quốc Dân đảng. Cũng nhờ có lực lượng Nguyễn Thế Nghiệp ở Vân Nam mà sau này khi cuộc tổng khởi nghĩa thất bại, các đồng chí từ quốc nội thoát ra, mới có sẳn cơ sở để tiếp tục.
Giữa lúc Nguyễn Thế Nghiệp gây dựng cơ sở Quốc Dân Đảng tại Vân Nam thì Lê Hửu Cảnh từ Hà Nội lên Yên Bái để gặp cô Giang. Một vài đồng chí trong nhóm “cải tổ” từng bàn với Cảnh về việc trốn qua biên giới gặp Nguyễn Thế Nghiệp vì ai cũng biết ngay từ buổi đầu Nguyễn Thế Nghiệp đã có khuynh hướng ôn hòa, chủ trương đấu tranh đường dài giống như phần đông các nhà văn, nhà báo trong đảng. Nhưng Cảnh suy đi nghĩ lại rồi quyết định không đi. Tổng bộ đã dứt khoát ở lại để đồng lao cộng khổ, chả nhẽ ông lại yếu đuối trốn sang vùng an toàn! Là Hạ sĩ quan Pháp đã giải ngũ, Cảnh đã đứng ra thành lập được một số chi bộ nhà binh tại Hà Nội. Đó là chưa kể một vài xưởng chế tạo bom cũng do ông gầy dựng và huấn luyện. Ông vẫn bí mật gặp gở họ và động viên họ giữ vững tinh thần, chờ lệnh khởi nghĩa của Đảng. Nguyễn Thái Học và Xừ Nhu không tin Cảnh nữa, nhưng không vì thế mà ông bỏ đảng hay tìm cách xa lánh. Ông lên Yên Bái gặp cô Giang lúc này đang làm công tác binh vận, đưa đồn lính Khố Xanh về với Quốc Dân Đảng. Cô mở gian hàng nhỏ bán mía và một vài thứ kẹo bánh lặt vặt chênh chếch cửa đồn lính Khố Xanh để dễ dàng gặp gở anh em binh sĩ trong đồn. Cô vốn nễ Cảnh lớn tuổi, từng là cố vấn cho Nguyễn Thái Học và nhất là từng vun đắp cho cuộc tình của cô với Nguyễn Thái Học, nên mỗi lần gặp Cảnh, cô đều bày tỏ nỗi lòng quí mến sâu xa. Giờ đây, dù biết rõ giữa Cảnh và tổng bộ có chút bất đồng, cô vẫn thản nhiên như thường lệ. Vừa gặp Cảnh, cô rót mời Cảnh bát nước chè rồi ưu tư nói ngay:
- Nguy to rồi anh Cảnh ơi! Mấy tháng nay mà hàng loạt xưởng chế tạo bom của mình ở Bắc Giang bị địch khám phá. Chắc có đứa nào nó tố!
Cảnh ngắt lời:
- Bị địch khám phá đã đành mà đau đớn nhất là xưởng bom nhà ông Trạm tự dưng phát nổ. Có lẽ vì kho chứa nóng quá! Các đồng chí ấy không để ý! Cả ba đồng chí đều bị bắt cả dù đang bị thương nặng! Trường hợp này thì làm gì có ai tố cáo! Cũng chẳng phải vì các đồng chí ấy chế bom bất cẩn, mà chỉ vì chưa có kinh nghiệm!
Cô Giang nhập đề thẳng:
- Vâng! Tôi cũng cho là thế …. Anh Cảnh ạ! Anh từng ở trong nhà binh đã lâu, kinh nghiệm có thừa. Hay là anh chịu khó về Bắc Giang giúp các đồng chí ấy.
Cảnh uống cạn bát nước, phân vân suy nghĩ. Cô Giang lại giục:
- Hay là anh đang bận công tác gì khác thì thôi vậy!
Cảnh thú nhận:
- Không, tôi có bận gì đâu! Nhưng Tổng Bộ không giao nhiệm vụ, tôi gặp các đồng chí ấy thế nào được!
Cô Giang hiểu ra, thở phào bảo Cảnh:
- Để tôi viết cho các đồng chí ấy mấy chữ. Anh cầm đưa cho họ!
Cảnh lắc đầu:
- Cảm ơn chị. Nhưng chị không nên viết gì cả. Nói đúng ra thì tôi không nên mang theo bất cứ giấy tờ gì có nét chữ của chị. Nhỡ chẳng may …
Cô Giang gật đầu:
- Anh nói đúng đấy. Để tôi gửi anh cái lượt làm tin. Anh đưa cho họ, họ biết ngay là của tôi. Anh cứ vào làng Mỹ Điền, hỏi nhà ông Tự. Ông ấy là chú họ của tôi.
Cảnh hài lòng nhận lời:
- Vâng. Sáng mai tôi về Hà Nội thu xếp vài công việc, rồi đi Bắc Giang ngay!
Cảnh ngồi lại trao đổi với cô Giang về kinh nghiệm binh vận mà ông cho là yếu tố sinh tử quyết định trong cuộc tổng khởi nghĩa sắp tới bởi họ có vũ khí trong tay. Ông nán lại Yên Bái một đêm rồi hôm sau quay về Hà Nội.
Ở Hà Nội hai ngày. Cảnh tiếp xúc với một số chi bộ nhà binh do ông thành lập trước đây. Lúc đi lang thang qua Ô Chợ Dừa, Cảnh bổng nhớ đến Minh. Ông đến sạp hàng ông Sửu ngồi vì ông muốn gặp Minh tối nay để sáng mai sẽ lên đường đi Bắc Giang.
Ăn xong bửa cơm, Minh mới hỏi Cảnh:
- Theo anh thì bây giờ em phải làm gì?
Cảnh đắn đo một chút rồi đáp:
- Tôi cũng chả biết khuyên cậu thế nào. Theo nguyên tắc, thì cậu phải sinh hoạt với tổ đảng. Nhưng cậu bảo là tổ đảng chả ngó ngàng gì đến cậu. Cậu cũng không phải là người của Tổng Bộ, thành ra …
Minh cười buồn ngắt lời:
- Thành ra em là đứa con vô thừa nhận!
Minh gọi bồi bàn tính tiền rồi anh em bước ra cửa.
Hai người sánh vai đi bên nhau. Ngang qua một nhà hát cô đầu, cả hai cùng im lặng lắng nghe tiếng ngâm, tiếng phách vọng ra trong khu phố vắng người qua lại:
- Trăm năm ai chẳng bạc đầu
- Mười điếu ai có hay đâu cả mười!
Minh châm điếu thuốc rồi hỏi Cảnh:
- Anh còn ở lại Hà Nội lâu không? Thỉnh thoảng ghé em chơi. Em muốn tìm anh, cũng chả biết tìm ở đâu!
Cảnh đáp nhỏ:
- Mai tôi đi xa rồi. Lên Bắc Giang!
Minh ngạc nhiên hỏi lại:
- Anh sang làm gì bên ấy? Mấy xưởng chế bom của ta bên ấy vừa bị lộ. Chúng nó bắt cả lọat. Anh sang bên ấy lúc này thì nguy hiểm lắm!
Cảnh im lặng, không phân trần. Ông nhớ lại lúc từ giã cô Giang ở Yên Bái, cô tha thiết bảo:
- Anh Cảnh! Em biết anh Học và vài anh ở Tổng Bộ đang buồn anh. Nhưng em hiểu anh và lúc nào em cũng đặt hết tin tưởng ở nơi anh!
Câu nói chân tình ấy làm Cảnh xúc động lên tinh thần vì lấy lại được nghị lực phấn đấu, giống như kẻ cô đơn gặp được bạn đồng hành trên đoạn đường thăm thẳm. Vì vậy, dù biết chuyến đi Bắc Giang có thể gặp nguy hiểm. Cảnh vẫn mạnh dạn lên đường theo yêu cầu của cô Giang.
Tới một con hẽm nhỏ, Cảnh bắt tay từ giã Minh và lầm lũi rẽ vào.
Minh ái ngại đứng trông theo cho đến khi bóng Cảnh khuất hẳn ở một khúc đường cong. Minh tự hỏi: Những người trốn tránh như Cảnh, rồi đây sẽ kéo dài được bao lâu trước khi sa lưới mật thám Pháp? Anh bổng thấy quyết định tổng khởi nghĩa của Tổng Bộ là sáng suốt trong cái thế chẳng đặng đừng hiện nay. Thà đánh một trận lớn rồi có chết cũng vinh quang. Còn hơn cứ nơm nớp chờ đợi tai họa rồi cũng chết dần chết mòn trong nhà tù sau những cực hình tra tấn man rợ của địch!
Chia tay Lê Hửu Cảnh rồi, Minh trở lại cuộc sống đều đặn và buồn tẻ như thường lệ. Ngày hai buổi đến tòa báo, đóng vai một tư chức cần mẫn để tránh sự chú ý của bất cứ ai. Giờ này, Minh bắt đầu ngờ vực lung tung. Ngay cả các đồng nghiệp thân quen trong tòa soạn cũng có thể có người sẳn sàng làm tai mắt cho giặc. Anh nhớ lời dặn dò của Cảnh, giảm bớt mọi giao tiếp và viết lách cũng cẩn trọng hơn. Trong thâm sâu Minh bực bội lắm. Bực bội chính mình đến độ lắm khi thấy xấu hổ. Cái hăng hái, cái can đảm của tuổi trẻ trong Minh dường như cứ nhụt dần. Thời còn đi học, Minh nổi tiếng là một học sinh ngang tàng, dám làm dám chịu. Nay thì chỉ còn là một người thư ký an phận, sáng vác ô đi tối vác về để trả nợ áo cơm.
Một buổi chiều đi làm về trên phố Khâm Thiên. Gần tới hiệu thuốc Bắc Vĩnh An Đường. Minh bỗng giật mình thấy một cô gái bưng chậu nước ra đường. Minh đứng khựng lại, nép vào một gốc cây để nhìn cho rõ, vì anh vừa nhận ra Duyên! Anh dụi mắt, nhìn kỹ lại và quả thực anh không lầm. Cô gái ấy chính là Duyên. Minh tự hỏi: Duyên từ Hải Ninh lên đây làm gì? Sao lại ở trong tiệm thuốc Bắc này? Anh đứng thẳng người, bàn tay phải đặt lên ngực, nghe rõ trái tim mình đập thình thịch. Anh thấy Duyên quay vào nhà cất cái thao rồi lại trở ra ngay. Lần này Duyên bưng mẹt thuốc phơi trên sân gạch vô nhà và không quay ra nữa.
Duyên vấn tóc trần, mặc áo cánh nâu, yếm trắng, quần đen và đi chân đất. Toàn thân vẫn toát ra cái vẻ hiền lành của một cô gái quê còn xa lạ với thị thành. Nét đổi thay duy nhất Minh thấy ở Duyên hôm nay là cô không mặc váy giống như đa số con gái dưới Hải Ninh. Hà Nội vài năm nay đang bắt đầu nhem nhúm những ý tưởng cách mạng về nữ quyền. Tuy vậy, con gái tân thời dám mạnh dạn từ bỏ lối sống cũ, vẫn còn ít ỏi lắm. Chẳng hạn cạo răng trắng là một hành động được coi là rất táo bạo, thường bị xã hội lên án là “me Tây”, nghĩa là lấy chồng lính Pháp. Hoặc thanh niên nam nữ yêu nhau, hẹn hò ở bờ hồ Hoàn Kiếm, cũng rất ít khi xảy ra vì thiên hạ đi ngang sẽ đăm đăm nhìn và lắm khi ngứa mồm bình phẩm vài lời độc ác! Nói chung thì giữa một cô gái quê như Duyên hoặc một tiểu thư con nhà giàu Hà Nội, cái khác biệt chỉ là ăn mặc bề ngoài. Còn nét đoan trang khép nép thì vẫn giống như nhau.
Minh chờ thêm một lúc rồi lặng lẽ bước đi. Cái quá khứ êm đềm ở làng Hải Ninh ùa về rất nhanh trong đầu Minh. Từ khi anh đến ngồi học chữ Nho ở nhà ông giáo Lương cùng với Tân, rồi mấy năm xuống Hà Nội học trường cao đẳng đến khi vào tù và bị đuổi. Suốt quãng thời gian khá dài ấy, gia đình ông giáo Lương và bố mẹ Minh vẫn có ý vun đắp cho cuộc hôn nhân của Minh và Duyên. Nhất là Duyên thì luôn luôn mong đợi cho cái ngày cô được về nâng khăn sửa túi cho Minh. Nhưng thời cuộc nhiễu nhương, Tân mất sớm và Minh tham gia Quốc Dân Đảng, ít khi có dịp về làng. Chuyện tình giữa anh và Duyên vì vậy cũng nhạt dần dù anh chẳng nói ra. Anh biết ông bà Lương thất vọng lắm. Duyên lại càng não nề hơn. Nhưng họ đều là những người tự trọng, không ai nhắc đến việc ấy nữa. Lắm khi nghĩ đến Duyên, Minh cũng cảm thấy nao nao tội nghiệp và anh mong có một lần nào gặp riêng Duyên để nói vài lời ân hận về thái độ lấp lửng của mình.
Hôm nay tình cờ nhìn thấy Duyên ở Hà Nội, trong căn nhà xa lạ nằm ngay trên một con phố gần gác trọ của Minh, anh hiểu ngay Duyên lên đây không phải để đi làm thuê làm mướn, giúp việc cho người ta. Giấy rách phải giữ lấy lề! Đời nào ông bà giáo lại để cho Duyên tha phương cầu thực như vậy! Huống chi so với đa số dân làng Hải Ninh thì gia đình Duyên cũng thuộc vào hàng khá giả, của ăn của để, đâu đến nỗi phải bỏ làng đi kiếm cơm! Minh biết Tân trước đây theo VNTNCMĐCH, từng có lần rũ Minh cùng hoạt động. Rồi anh lại nghe tin tự dưng Hậu biến mất khỏi làng, ai cũng tin cô tự tử, nhưng không thấy xác! Bây giờ đến Duyên thoát ly. Như vậy thì chắc hẳn Duyên cũng ở trong tổ chức của Tân và Hậu. Và như vậy cũng có nghĩa cái hiệu thuốc Bắc Vĩnh An Đường kia chính là một cơ quan của VNTNCMĐCH, đang lột xác trở thành Đông Dương Cộng Sản Đảng. Quanh Minh và rải rác khắp nơi tại thủ đô, có biết bao nhiêu tư gia, bao nhiêu hiệu buôn, ngày ngày sinh hoạt bình thường, chỉ đến khi bị mật thám vào bắt, thì người ta mới biết đó là những địa điểm cách mạng, hoặc Quốc Dân Đảng hoặc Cộng Sản Đảng.
Đã gần hai năm không về Hải Ninh, nghĩa là không nhìn thấy Duyên. Minh chẳng bao giờ ngờ Duyên bây giờ tá túc ngay gần nhà Minh. Anh nghĩ đến biết bao nhiêu nam nữ như Hậu như Duyên và như chính bản thân anh, đang lặng lẽ lao vào cuộc đấu tranh giành độc lập cho xứ sở. Hàng loạt người đang chịu cực hình tra tấn trong nhà ngục. Hàng loạt người khác đang bị lưu đày đi biệt xứ và bao nhiêu người đã nằm xuống như Tân. Bất giác Minh thở dài bước những bước nặng nề trên con phố nắng chiều đang tắt dần.
Sáng hôm sau vừa thức giấc, Minh nhớ ngay đến Duyên. Lúc còn ở Hải Ninh, Minh không chú ý đến Duyên, dù thuở mới lớn anh không hề phản đối việc hôn nhân do hai nhà sắp đặt. Nay gặp lại ở Hà Nội, anh bổng thấy cái tình hàng xóm nảy nở đậm đà hơn gấp bội, theo cái cảm giác “viễn khách tha hương ngộ cố tri”. Vì vậy, từ gác trọ đến tòa báo, lẽ ra chẳng cần đi ngang hiệu thuốc Vĩnh An Đường, nhưng Minh vẫn thả bộ về hướng ấy, mua thêm một đoạn đường, hy vọng gặp Duyên.
Hiệu thuốc Bắc vừa mở cửa, chưa có ai vào mua thuốc hay bắt mạch. Minh ngước nhìn tấm bảng hiệu nhỏ bằng gỗ mộc, đóng bên cạnh cửa ra vào, vừa chữ Tàu vừa chữ ta, vẽ cái tên Vĩnh An Đường rất thô sơ. Phía dưới ghi thêm:”Bắt mạch và bán các loại thuốc cao, đơn, hoàn, tán”. Minh xách cặp đen, mặc Âu phục như thường lệ, thong dong bước vào. Người đàn ông đứng sau quầy đang xếp mấy hủ thuốc cho ngay ngắn. Đó là ông lang Chu chủ nhà mà Minh có nhìn thấy đôi lần mỗi khi đi ngang, nhưng chưa bao giờ chú ý. Ông mặc bộ quần áo ta, giống như bộ pyjama may đơn giản bằng vải nội hóa màu trắng đục, chân đi guốc mộc và hớt tóc ngắn. Kệ thuốc sau lưng ông bày la liệt những hộp, chai, lọ, bình, từ dưới đất lên tới sát trần nhà. Thêm vài hủ rượu ngâm cao hổ cốt đặt trên chiếc bàn nhỏ trong tầm vói của ông. Nhìn tổng quát cửa hàng, người ta có thể đoán đây là một cơ sở làm ăn đang phát đạt.
Thấy Minh, ông ngẩng lên, lễ phép hỏi:
- Chào ông! Ông cần gì ạ?
Minh đã chuẩn bị sẳn, làm bộ ho mấy tiếng và đáp:
- Tôi muốn mua một lạng cam thảo. Mấy hôm nay bị khản cổ!
Vừa nói, Minh vừa liếc sâu vào bên trong, nhưng không thấy ai.
Chủ nhân ân cần nói:
- Vâng! Cam thảo thì hiệu chúng tôi có loại tốt lắm, mới về. Nhưng ông bị khản cổ thì ngoài cam thảo ra, chúng tôi có thuốc tán. Ông chỉ việc khoắng với nước uống, uống độ ba bận là khỏi hẳn! Cam thảo thật ra chỉ để thông đờm mà thôi! Thuốc tán mới chửa được khản tiếng!
Minh vui vẻ câu giờ:
- Vâng. Thế thì xin ông luôn thể!
Chủ nhân quay lại, với tay lấy cái hủ trên kệ, mở nắp lấy một gói trao cho Minh và dặn
- Thứ này dễ uống lắm ông ạ! Ngọt như đường phèn, có chút vị cay bạc hà. Ông chia làm hai lần. Nhớ là phải pha nước ấm!
Chủ nhân đặt gói thuốc trên quầy, trước mặt Minh, rồi cười bảo:
- Cam thảo thì lúc nào cũng có sẳn, nhưng ông chờ tôi một tí. Tôi thái củ mới cho ông. Chả gì ông cũng mở hàng ….
Minh cũng cười lại và lên giọng lớn hơn, hy vọng Duyên ở bên trong nghe thấy mà chạy ra:
- Cảm ơn ông! Tôi mở hàng thì thể nào hôm nay ông cũng đắt khách lắm!
Chủ nhân vừa thái cam thảo vừa gợi chuyện:
- Ông ở gần đây hay chỉ đi qua ….
Minh lại vừa nói vừa nhìn vào trong:
- Thưa tôi ở gần đây ….Cũng không gần lắm, nhưng gọi là gần vì cũng trên con phố Khâm Thiên này! Nhờ trời thương, tôi ít ốm đau, thành thử chả có hân hạnh được ghé thăm hiệu thuốc của ông!
Minh thấy câu giờ như thế cũng đã đủ lắm rồi mà Duyên vẫn không nghe thấy, làm anh khá thất vọng. Hay là Duyên không có trong nhà? Cô đi chợ sớm chăng?
Chủ nhân gói những lát cam thảo mới thái xong vào miếng giấy nhật trình, trao cho Minh, Minh trả tiền rồi cố nấn ná thêm chút nữa. Anh nói:
- Tôi đi làm, tối mới về. Cảm phiền ông, nếu có sẳn nước nóng, xin ông cho một cốc, tôi pha thuốc bột uống ngay bây giờ thì tiện hơn cả!
Chủ nhân vui vẻ đáp:
- Có chứ ạ! Ông tính thế cũng phải! Bây giờ phải uống nửa gói. Tối về uống nốt!
Rồi ông quay vào gọi lớn:
- Ly ơi Ly! Đem phích nước sôi ra đây!
Minh hồi hộp đứng đợi. Anh đoán Ly là tên con ông thầy thuốc. Nhưng anh chờ khá lâu, chả thấy ai bên trong trả lời, cũng không thấy ai ra. Chủ nhân quay đầu vào gọi:
- Ly ơi! Đem phích nước sôi ra đây!
Chờ thêm chút nữa, Minh gợi hỏi:
- Nhà ta vắng vẻ quá ông nhỉ! Chắc các anh chị bận đi làm hay đi học sớm!
Chủ nhân làm như không nghe câu nói của Minh. Ông vừa bước vào phía trong, vừa lẩm bẩm:
- Con bé này nó làm gì trong ấy mà gọi mãi không thấy tăm hời đâu cả!
Minh nghe ông nói xầm xì bên trong. Lại có cả giọng phụ nữ làm anh hồi hộp. Nhưng rồi chỉ có ông chủ quay ra, cầm cái bình thủy, rót nước vào cốc cho Minh. Ông khoắng thuốc và giục Minh uống. Ông bảo:
- Còn nửa gói. Tối về ông uống nốt. Mai mà không thấy giảm thì ông đến đây gặp tôi. Tôi cho liều mạnh hơn!
Nói dứt câu ông mới nhận ra Minh không hề khản tiếng. Giọng nói trong trẻo vẫn bình thường. Minh chào ông quay ra cửa. Ông đứng nhìn theo và chợt lo âu, cố nhớ lại vừa rồi, ông có nói điều gì lỡ lời chăng! Biết đâu Minh chả là tay sai của Pháp đếm thăm dò ông! Ông ưu tư mang cái phích nước vào nhà trong thì Duyên cũng vừa từ dưới bếp đi lên, ông nhẹ nhàng trách:
- Làm gì dưới ấy mà gọi mãi không thấy trả lời?
Duyên không nói gì, đôi mắt vẫn đăm đăm nhìn ra cửa vì nét xúc động chưa tan biến hết. Lúc nãy, cô đang rửa mặt sau nhà thì nghe giọng nói quen quen. Cô ngờ ngợ một chút rồi ném cái khăn vải vào thau nước, đứng dậy, tò mò nép sau cánh cửa trông ra. Duyên sửng sốt suýt kêu lên vì nhận ra Minh, người thanh niên đáng lẽ đã là chồng hay ít ra là vị hôn phu của Duyên. Duyên đứng chết cứng tại chỗ, miệng há ra như gặp ma. Cô vẫn biết Minh đi học rồi làm việc ở Hà Nội, nhưng không ngờ Minh lại ở quanh đây, vì cứ như Minh vừa nói với ông Chu thì nhà Minh cũng nằm trên con phố Khâm Thiên này. Khi ông Chu gọi Duyên mang cái phích nước ra cho Minh pha thuốc, Duyên lúng túng chả biết tính sao, đành cứ đứng yên. Ra gặp Minh thì khác nào tự tố cáo mình thoát ly gia đình lên tá túc ở đây. Huống chi, cô vừa thức dậy, áo quần đầu tóc còn lem luốc quá, gặp Minh làm sao được! Tuy chẳng còn hy vọng sẽ làm vợ Minh, nhưng dù sao, Duyên cũng cần tươm tất đôi chút khi tái ngộ người tình thuở nhỏ! Cô cứ phân vân tự hỏi: Không biết có nên gặp lại Minh hay không, mặc dù trong thâm tâm cô rất muốn gặp bởi lúc này cô cảm thấy cô đơn quá!
Duyên xuống Hà Nội đã gần ba tuần lễ mà chả thấy ai liên lạc giao công tác gì cả. Anh thanh niên kéo xe đón Duyên từ nhà ga về đây, đưa vào hiệu thuốc Bắc của ông Chu rồi mất tăm luôn, không có tin tức gì nữa! Duyên sốt ruột lắm, vì chả biết mình ở đây để làm gì. Hôm đầu, ông Chu lôi Duyên xuống bếp ân cần bảo:
- Chị ở tạm đây. Nay mai sẽ có người đến đón chị đi. Cũng có thể là nhà tôi sẽ đưa chị đi. Nghe bảo là xuống Hải Phòng! Nhưng tôi dặn cái này: Trong lúc chờ đợi, chị ở đây với tôi thì chị là cháu tôi. Cháu gọi bằng cậu. Cháu ở nhà quê ra giúp việc cậu mợ. Nhớ đây! Nhà này khách khứa ra vào luôn. Chị nhớ, kẻo xưng hô lung tung là lộ đấy!
Duyên gật đầu đáp:
- Vâng! Tôi nhớ!
Nhận thấy nhà vắng vẻ quá, Duyên tò mò hỏi:
- Thế chị đâu anh? Đi chợ hở anh?
Ông Chu lắc đầu:
- Nhà tôi đi công tác. Chắc độ vào hôm nữa mới về! Với chị thì tôi nói là đi công tác. Nhưng với người ta thì là đi lấy hàng, đi cất thuốc về bán!
Ngừng một chút, ông Chu thêm:
- Đúng ra thì tôi chả nói. Nhưng chị ở đây thì cần nắm rõ tình hình. Chị thấy mấy cái bao tải dưới gầm giường chứ gì? Xương hổ đấy! Nhà tôi lên mạn ngược, mua xương hổ về nấu cao! Cao hổ cốt ngâm rượu của Vĩnh An Đường bán chạy lắm! Ai ốm dậy cũng đòi mua uống cho lại sức!
Duyên tò mò thêm:
- Thành ra nhà này hiện bây giờ chỉ có mình anh?
Ông Chu cười:
- Vâng. Có mình tôi. Với lại bây giờ thêm chị nữa!
Duyên tiếp tục thăm hỏi vài câu, nhưng ông Chu lờ đi, tránh tiết lộ tông tích gia đình. Duyên hỏi chỉ vì xã giao thôi chứ không vì hiếu kỳ. Nguyên tắc của người hoạt động chống Pháp thời ấy là càng ít nói về gia cảnh càng tốt, bởi đôi khi vô tình làm liên lụy đến người thân. Duyên để ý thấy ông Chu cũng có một thứ tác phong giống như Quảng: Lịch thiệp và bình bị. Chỉ khác một chút là nhìn Quảng, Duyên thấy ở ông, một con người có chiều sâu thao thức hơn, trong khi Chu thì có vẻ là một người nặng nề buôn bán, chú tâm làm giàu. Điều này chắc cũng tốt, vì Duyên đoán nhà thuốc là cơ quan kinh tài cho đoàn thể.
Hơn hai tuần lễ trôi qua, ban ngày thì Duyên không nhớ nhà lắm vì phố xá vui mắt và vì cô cũng vẽ ra nhiều việc để làm. Ngoài chuyện dọn dẹp nhà cửa và đi chợ nấu cơm, Duyên được ông Chu chỉ dẫn thêm việc thái thuốc, phơi thuốc, gói thuốc bột thành từng bao nhỏ hoặc viên thuốc tễ thành những cục bi tròn như hòn bi và bọc vào giấy bóng kính. Những công việc lẻ tẻ này, Duyên thấy quen thuộc và nhàn hạ vì chính Duyên cũng sinh ra trong một gia đình thầy thuốc và thỉnh thoảng cô cũng phụ với cha bưng từng mẹt thuốc ra phơi ngoài sân nắng. Lâu lâu trong lúc thu dọn quầy thuốc cho ông Chu, Duyên có dịp bốc trộm một hai quả táo Tàu là thứ mà Duyên vốn mê từ nhỏ.
Ban ngày thì thế, nhưng mỗi khi đêm về, Duyên thấy cô quạnh và nhớ nhà da diết. Duyên vốn là người nặng tình cảm, không cứng rắn như Hậu, cho nên lắm lúc cô thấy thóai chí muốn bỏ cuộc. Nhưng bỏ làm sao được! Đã tuyên thệ vào tổ chức tức là ngồi trên lưng cọp, chỉ có tiến chứ không thể lùi vì bước xuống sẽ bị cọp vồ, bị chính đoàn thể của mình trừng trị. Đêm đêm nằm trăn trở, cô thấy luyến tiếc những ngày thanh thản ở Hải Ninh và rùng mình nghĩ đến Hậu giờ này đang bị đánh đập trong Hỏa Lò. Đã thế, từ hôm đến ở với ông Chu, chả có người nào liên lạc hỏi han gì Duyên. Duyên chẳng hiểu mình ở đây để làm gì. Vai trò của cô chỉ hoàn toàn là một đứa ở không công cho ông Chu. Huống chi trong nhà chỉ có mình cô với một người đàn ông chung đụng sớm tối, rất bất tiện mà ông Chu xem chừng không đứng đắn như Quảng. Càng ngày, ánh mắt ông nhìn Duyên càng toát ra cái vẻ thèm của lạ!
Một hôm, hai người ngồi ăn chung, Duyên bạo dạn hỏi ông Chu:
- Có tin tức gì không anh? Tôi cứ ở đây mãi thế này hay sao?
Ông Chu đắn đo một chút rồi nhìn Duyên tội nghiệp, giải thích:
- Dạo này tình hình căng lắm. Đường giao liên bị mật thám theo dõi rất sát. Nhiều người của ta đi công tác bằng xe hỏa, vừa xuống đến sân ga là bị bắt. Vụ xử án Quốc Dân Đảng dạo tháng 7 vừa rồi làm ảnh hưởng nặng nề đến các hoạt động của ta. Vì thế, Thành Bộ ra lệnh án binh bất động. Tạm thời ai ở đâu cứ ở đấy! Ngưng mọi di chuyển! Chị chịu khó nhẫn nại một thời gian nữa!
Duyên hiểu ra gật đầu im lặng. Chu tránh không nhắc đến việc phó Bí Thư Lê Tín bị bắt. Ông cũng không nói lên sự kiện liên quan đến in truyền đơn của Đông Dương Cộng Sản Đảng đặt tại nhà Hậu và Kiệt bị phá vỡ. Đây mới là nguyên nhân chính đưa đến chiến dịch truy lùng của mật thám. Nhưng ông sợ Duyên mới thoát ly đã nhục chí nên ông đổ hết cho Quốc Dân Đảng đã bất cẩn gây nên tình trạng bi đát này. Ông không ngờ chính Duyên lại nói:
- Chả phải do vụ xử án Quốc Dân Đảng, thực dân Pháp mới lùng bắt người của ta. Nói chúng thì lúc nào mật thám cũng muốn tiêu diệt hết những đoàn thể cách mạng, dù là Quốc Dân Đảng hay Đông Dương Cộng Sản Đảng!
Im lặng một chút, ông Chu lại thêm:
- Nhà tôi đi đã hai tuần lễ chưa về, tôi cũng đang sốt cả ruột! Bình thường thì chỉ độ một tuần. Chuyến này chả biết tại sao lâu đến thế?
Thật ra hai tiếng “nhà tôi” mà ông Chu vừa nhắc đến, không phải để chỉ người vợ chính thức của ông. Thuở còn bên Hà Đông, ông lập gia đình sớm, ngoài 20 đã có 3 con. Khi các con đã bắt đầu lớn thì ông bỏ nghề làm ruộng, xin ông thầy Tàu cho thụ giáo nghề thuốc Bắc. Ông theo thầy lên vùng biên giới, sang hẳn bên Quảng Châu trau dồi thêm tay nghề. Kiều bào làm ăn bên ấy cũng khá đông, trong đó có nhiều người mượn vùng đất tương đối an toàn của Trung Hoa để hoạt động chống Pháp. Ông Chu lúc này đã giỏi, trở thành thầy thuốc chữa bệnh cho họ. Một trong những bệnh nhân của ông là cô Nguyễn Thị Tịnh, đoàn viên TNCMĐCH, vừa từ Tuyên Quang thoát ly sang, bị bệnh sốt rét rất nặng. Ông Chu tận tụy săn sóc rồi ân tình nảy nở, nên duyên vợ chồng, lờ hẳn bà vợ chính thức với 3 đứa con đang cày sâu cuốc bẫm ở quê nhà! Lấy cô Tịnh, tất nhiên ông Chu hăng hái gia nhập tổ chức cách mạng của cô, nghĩa là tìm được ánh sáng lý tưởng trong tình yêu.
Năm 1927, khi TNCMĐCH bị chính quyền Tưởng Giới Thạch làm khó dễ tại Quảng Châu, phải phân tán đi khắp nơi thì vợ chồng ông Chu được chỉ thị trở về Việt Nam. Nhờ có nghề hốt thuốc, ông gây dựng chút vốn liếng dễ dàng rồi mở hiệu Vĩnh An Đường trên phố Khâm Thiên lúc mảnh đất này còn rẻ mạt vì thưa thớt dân cư. Vợ ông, đồng chí Nguyễn Thị Tịnh, thua ông hơn 10 tuổi, vẫn nhiệt tình tiếp tục con đường hoạt động của mình, làm công tác giao liên hoặc đưa người của đoàn thể đi những nơi cần thiết. Duyên nằm chờ ở nhà Tịnh cũng vì thế. Nay mai, có thể Tịnh sẽ đưa Duyên xuống Hải Phòng hoặc ra tận Hòn Gai, giao cho tổ đảng địa phương.
Nghe ông Chu giải thích tình hình, Duyên nén tiếng thở dài, chấp nhận sống những ngày vô tích sự bên ông. Giữa lúc xuống tinh thần như thế thì Minh xuất hiện. Cả đêm hôm ấy, cô nằm thao thức nhớ đến Minh. Muốn gặp lại nhưng chả biết làm thế nào. Biết Minh ở trọ trên cùng một con đường, nhưng chả nhẽ cứ lang thang ra phố mà tìm. Con đường Khâm Thiên chỉ dài hơn một cây số, cố ý tìm thế nào cũng ra địa chỉ của Minh. Nhưng thời ấy con gái không ra đường một mình, trừ khi gánh hàng đi bán rong hoặc xách giỏ đi chợ. Cần lắm thì cũng phải giắt theo đứa em đứa cháu, chứ đi mình là hạng không đứng đắn. Duyên nghĩ mãi rồi dự tính hôm sau đi chợ, cô sẽ cấp cái thúng đi sớm hơn và thả bộ dọc theo suốt con đường, may ra gặp Minh chăng! Nghĩ được cách ấy, Duyên thấy tạm an tâm đôi chút nhưng lại tự hỏi ngay:
- Thế ngộ nhỡ gặp lại Minh mà Minh lờ đi, không thèm nhận Duyên là người quen thì làm sao!
Câu hỏi ấy làm Duyên choáng váng xấu hổ, bất chợt thở dài não nuột trong đêm tối.
Sáng hôm sau, Duyên dậy sớm, chải đầu vấn khăn và thay áo cánh nâu, định bụng khi ông Chu vừa mở cửa hiệu là cắp thúng ra đi. Ông Chu thấy Duyên hôm nay gọn ghẽ hơn mọi ngày, trố mắt nhìn nhưng không hỏi. Ông uống trà, hút thuốc lào, ăn xong củ khoai luộc rồi đứng dậy ra mở cửa hiệu. Duyên soi gương lại lần nữa rồi từ buồng trong cấp nón bước ra. Cô sửng sốt thấy Minh từ ngoài đường rẽ vào. Cô đứng khựng lại trố mắt nhìn Minh, quên cả chào hỏi. Minh cũng đứng giữa tiệm, không biết phản ứng thế nào. Ông Chu đứng sau quầy nhận ra Minh, người khách đã mở hàng sáng hôm qua, vội niềm nở lên tiếng:
- Uống thuốc của nhà Vĩnh An Đường có đỡ tí nào không ông?
Minh giật mình quay lại, nở nụ cười:
- Đỡ nhiều ông ạ! Tôi trở lại là vì thế. Mới uống có một gói mà cổ thông lắm rồi. Xin ông một gói nữa cho dứt hẳn!
Chủ nhân hân hoan đáp:
- Vâng! Tôi đã bảo mà! Loại thuốc tán ấy là do chính tay tôi chế ra đấy. Không hiệu nào có đâu! …. Ông có cần thêm cam thảo không ạ?
- Cam thảo thì còn. Để thư thư rồi tôi ghé đến xin ông thêm. Nhà tôi cũng gần đây thôi
Vừa lúc ấy, Duyên từ trong bước ra. Cô hồi hộp lắm, tim đập thình thịch và đôi bàn tay lạnh toát, nhưng cố giữ bình tỉnh gật đầu chào Minh như chào một người khách lạ rồi bảo ông Chu:
- Cháu đi chợ đây, cậu ơi!
Ông chú lơ đãng hỏi:
- Đi sớm thế cháu?
Duyên đã chuẩn bị trước, thản nhiên đáp:
- Cháu đi sớm cho mát. Sợ chốc nữa giời nắng to. Với lại cả hai cái chum trong bếp đều hết sạch nước rồi cậu ạ. Cháu đi chợ về còn phải đi gánh nước nữa! … Thôi, cháu đi cậu nhé!
Ông Chu vừa lấy thuốc cho Minh vừa đáp:
- Ừ! Cháu đi đi! Mua cái gì ăn qua loa thôi!
Duyên gật đầu chào Minh rồi bước ra cửa. Cô cố ý dừng lại ngoài sân cho Minh thấy, rồi mới rẽ sang phía tay phải. Trước khi bước đi, Duyên còn quay đầu nhìn Minh một lần nữa, bắt gặp ánh mắt của Minh cũng đang nhìn theo Duyên. Cô đội nón lên và cố tình đi những bước chậm chạp trên con đường phố bắt đầu tấp nập.
Quả nhiên, đúng như Duyên mong đợi: Cô ngoái đầu lại thì thấy Minh cũng đi nhanh về phía cô, làm tim cô đập thình thịch. Duyên đi sát vào một gốc cây, rồi ngồi xuống, tháo một chiếc guốc gõ mạnh trên nên đất, làm như có hạt sỏi vừa vương trong lòng bàn chân cô. Minh đến sau lưng cô và cất tiếng gọi:
- Duyên! Xuống Hà Nội bao giờ thế?
Minh đứng nép vào gốc cây vắng vẻ, đảo mắt nhìn quanh. Duyên vẫn ngồi, nón đội đầu, khẻ đáp lại:
- Em xuống đã hơn hai tuần lễ rồi. Gặp lại anh, em mừng quá! Hóa ra anh cũng ở gần đây!
Phía trước có hai người bộ hành và một bà gánh hàng rong đang tiến đến. Minh vội vã nói:
- Tôi cũng mừng gặp lại Duyên …. Nói chuyện ngoài đường không tiện. Hay là cô lại đằng nhà tôi đi, được không?
Duyên mừng quá vì không ngờ Minh rủ cô lại nhà. Gặp Minh mà Minh gợi chuyện là đủ vui lắm rồi, huống chi Minh còn rủ lại nhà! Cô hỏi:
- Nhà anh ở đâu?
Minh lấm lét nói nhanh:
- Cũng ở con đường này. Đi bộ một lát là đến. Bây giờ tôi đi trước, cô cứ đi theo tôi …
Duyên ngắt lời:
- Vâng! Anh đi đi! Nhưng anh đi chậm thôi, kẻo nhỡ em bị lạc!
Minh toan cất bước thì Duyên lại hỏi một câu khách sao không đúng lúc:
- Thế anh không đi làm ư? Lúc nãy anh bảo với ông Chu là anh đi làm cơ mà!
- Tôi nghỉ một buổi cũng không sao!
- Vậy thì anh về nhà đi. Anh cứ đi tự nhiên, em theo ngay sau lưng!
Minh gật đầu và rảo bước ngay. Đưa Duyên về nhà nói chuyện đã, buổi chiều đến tòa báo cũng không sao.
Về phần Duyên, đến lúc ấy, đi sau lưng Minh cách khoảng vài bước, để đến nhà Minh, cô mới chợt nhận ra là mình quá táo bạo. Táo bạo không những chỉ xét về khía cạnh luân thường đạo lý, nam nữ thọ thọ bất thân, mà hơn thế nữa, gặp riêng Minh tức là cô đã vi phạm nguyên tắc bí mật của người đi làm cách mạng. Ở hòan cảnh của cô, đúng ra phải tránh né mọi giao tiếp, nhất là đối với người quen. Gặp Minh, tức là “lay ông tôi ở bụi này”, việc thoát ly của Duyên làm sao còn nằm trong vòng bí mật được! Vừa đi, cô vừa tự trách mình quá yếu lòng, để cho tình cảm cá nhân che mờ lý tưởng tranh đấu! Nay mai nếu ông Chu hoặc Quảng biết được thì cô không tránh khỏi sự phê bình gay gắt của Đảng.
Nhưng Duyên lại tự an ủi rằng: Cách mạng đâu có cấm Duyên lấy chồng! Minh chính là người đã đính ước với Duyên từ nhỏ qua sự thỏa thuận của đôi bên gia đình. Như vậy, việc cô gặp người chồng tương lai của cô, chẳng có gì là sai trái với lương tâm cũng như đối với đoàn thể! Ở làng thì không có cách nào gặp riêng được. Chỉ có ở nơi đất khách quê người như thế này, Duyên mới có cơ hội gần gũi Minh, lẽ nào lại bỏ qua!
Cô tự bảo lòng: Muốn cho chắc ăn, cô sẽ dặn Minh phải giấu kín buổi hẹn hò này. Và từ nay, nếu Minh có ghé hiệu Vĩnh An Đường mua thuốc Bắc, thì dứt khoát phải coi Duyên như người xa lạ để che mắt ông Chu!
Đến trước cửa căn gát trọ, Minh dừng lại, quay đầu nhìn Duyên làm hiệu. Bên kia đường, ông Sửu cũng đang bày những cái mũ ra, mồm nhai bánh mì ngồm ngòam. Ông mải làm nên không trông thấy Minh. Vả lại, ông biết chắc giờ này Minh đã đi làm nên không ngó qua.
Minh đẩy cánh cửa bước vào rồi cứ để hé cánh cửa để chờ Duyên. Nhìn ra, anh thấy Duyên đứng lại, dáo dác ngó quanh rồi mới lẻn nhanh vào. Minh khép cửa, cài then rồi nói nhỏ:
- Tôi ở trên gác! Lên đi!
Minh đi trước, Duyên theo sau. Những bậc thang bằng gỗ lâu ngày, mối đinh bị hở, kêu lên ken két. Duyên nín thở không nói lời nào. Đời cô chưa bao giờ biết hẹn hò với trai, thành ra cô cứ hồi hộp như sắp đứng tim. Khi hai người đã vào hẳn bên trong căn gác, Minh khép cửa cài then cẩn thận. Duyên bỏ nón ra, đặt cái thúng xuống chân và thở phào như trút gánh nặng ngàn cân đè lên lồng ngực. Cô nhìn quanh căn gát nhỏ của Minh, tuy bừa bộn sách báo nhưng thấy toát ra cái vẻ đầm ấm của một người trí thức mà cô vẫn tưởng tượng trong đầu. Minh kéo ghế mời Duyên ngồi. Cô vẫn chưa hoàn hồn, nỗi xúc động còn tràn ngập trong lòng, không nói được lời nào. Minh cười trấn an và giục:
- Cô ngồi tạm đây! Ngồi nghỉ đi! Có gì đâu mà sợ hãi quá vậy!
Bây giờ Duyên mới gượng cười theo và nói:
- Tại em không ngờ được gặp lại anh! Em cứ nghĩ là chả bao giờ còn gặp lại anh nữa!
Minh bảo:
- Hà Nội tiếng là to nhưng thật sự không to. Lanh quanh rồi cũng gặp nhau!
Vừa nói, Minh vừa xếp những chồng báo, những cuốn sách vứt ngổn ngang trên bàn, trên mặt giường, bỏ vào góc nhà rồi phân trần:
- Tôi chả mấy khi có khách đến chơi, thành ra cứ quăng bừa bãi!
Nói câu ấy, bỗng dưng Minh nhớ đến các đồng chí đã từng đến đây bàn chuyện hoặc ngủ lại chung giường với Minh. Hai người anh nhớ nhất là Nguyễn Văn Viên đã chết trong tù và Lê Hữu Cảnh giờ này đang phiêu bạt ngoài sương gió.
Duyên nhìn khắp lượt căn phòng rồi nhận xét:
- Anh ở đây một mình thì cũng rộng chán!
- Giá chịu khó dọn dẹp thì còn rộng hơn nhiều!
Câu nói của Minh làm Duyên liên tưởng đến những ngày vừa qua của mình: Hết dọn dẹp nhà cửa cho tiệm gạo Thịnh Ký, lại dọn dẹp cho tiệm thuốc Bắc Vĩnh An Đường! Duyên tự nhủ: Mình có thể bình thản ở chung cả ngày lẫn đêm với những người đàn ông xa lạ như Tửu, như Chu, thì tại sao hôm nay gặp riêng Minh vốn là người thân từng đính ước với nhau, mà Duyên lại lo sợ là thế nào?
Ý nghĩ ấy làm Duyên lấy lại được bình tỉnh và thản nhiên nói đùa:
- Hay là từ nay anh thuê em đến dọn dẹp cho anh! Em không tính tiền công đâu!
Minh cũng cười theo:
- Được thế thì còn gì bằng! Cô có tính tiền công, tôi cũng chả có mà trả!
Rồi Minh ngồi xuống mép giường, đối diện với Duyên, nghiêm mặt nói:
- Có một dạo, tôi nghe người ta đồn là Hậu tự tử. Tôi thì biết chắc là cô Hậu đã thoát ly gia đình cũng giống như anh Tân trước đây. Anh Tân không may mất sớm. Nhưng còn cô Hậu thì sao, gia đình có tin tức gì chưa?
Duyên buồn bã gật đầu:
- Thưa có ạ! Chả giấu gì anh, chị em đang bị nhốt ở Hỏa Lò!
Minh thở dài lắc đầu, nhìn Duyên tha thiết:
- Anh Tân, rồi đến cô Hậu, rồi bây giờ lại đến lượt Duyên. Cả ba anh em đều đi, hai bác chắc buồn lắm!
Duyên khẽ gật đầu.
Thấy Duyên u sầu vì câu nói của mình, Minh lựa lời an ủi:
- Cũng may là bên cạnh hai bác còn có thằng Hòan! Mấy năm nay chả gặp, chắc nó lớn lắm rồi. Dễ đến mười lăm mười sáu chứ còn bé bỏng gì nữa! Làng mình, nhiều đứa ít tuổi hơn nó, đã có vợ! Chà lứa của anh Tân với tôi thì hầu hết làm bố rồi, trừ những người xuống Hà Nội học.
Quả nhiên Duyên đổi thái độ, giọng nói vui hơn:
- Vâng!... Thế còn anh, bao giờ anh mới cưới vợ?
Minh gượng cười không đáp. Anh đoán là Duyên muốn gợi lại câu chuyện thuở hai đứa còn nhỏ, hai nhà đã từng đính ước với nhau để Duyên làm vợ Minh và Minh cứ lờ đi cho ngày tháng trôi qua. Chẳng phải Minh chê Duyên nhà quê hoặc Minh vì có người yêu khác ở thị thành. Cái lý do chính khiến Minh không nghĩ nhiều đến chuyện hôn nhân là vì từ khi xuống Hà Nội, anh bị lôi cuốn vào cái không khí sôi sục ngấm ngầm của giới trẻ tân học căm thù thực dân Pháp. Những họat động sôi nổi có khi công khai như bãi khóa, viết bài đăng báo, có khi bí mật giải truyền đơn, vận động bạn bè, làm Minh không còn thì giờ tính đến chuyện riêng tư. Hơn thế nữa, anh nhìn quanh và thấy rõ một điều là mười người đi làm cách mạng chống Pháp thì chín người bị bắt. Bản thân Minh từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cũng đã nếm mùi tù tội hơn nữa năm. Có gia đình rồi thì chỉ thêm vướng bận cho mình hoặc làm liên lụy đến vợ con mà thôi, nhất là khi anh đã chính thức gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng. Anh chỉ không ngờ là chính Duyên cũng lại cùng một chí hướng như anh, dám thoát ly gia đình, mặc dầu không cùng đứng chung một đoàn thể.
Mình bỗng đứng dậy và bảo:
- Chết! Để tôi đun nước pha ấm chè mời cô. Khách đến nhà mà không mời được cốc nước thì thất lễ quá!
Duyên xua tay gạt đi:
- Em chứ ai mà anh bảo là khách! Với lại, ngồi với anh một tí, em phải đi chợ. Đi lâu quá không được. Anh hiểu cho!
Minh ngồi xuống và hỏi thẳng:
- Như vậy là hai chị em cô hoạt động trong TNCMĐCH? Dạo ấy, anh Tân có nói chuện với tôi.
Hỏi cho có chuyện thôi chứ thật ra mười phần Minh đã nắm chắc được chín. Thời buổi này, những người thoát ly chống Pháp, phi là đảng viên Quốc Dân Đảng thì chỉ còn TNCMĐCH mà thôi. Huống chi ngày trước, Tân từng có lần xa gần ngỏ lời rủ Minh cùng tham gia hoạt động chung khi Minh chưa hề nghe đến danh xưng Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cũng giống như cái nhìn của đa số các đồng chí Quốc Dân Đảng, thoạt đầu Minh không hề có ác cảm với TNCMĐCH. Họ cũng là những người chống Pháp tích cực và đòan thể của họ thành hình trước cả Quốc Dân Đảng. Cho nên xét về mục tiêu tối hậu thì họ vẫn là đồng minh của Quốc Dân Đảng. Mãi đến gần đây Minh mới có thái độ dè dặt với họ từ khi nghe Lê Hửu Cảnh thuyết phục, hay nói đúng là từ khi TNCMĐCH cải danh thành Đông Dương Cộng Sản Đảng. Với một người công giáo như Cảnh thì chủ trương vô thần của Cộng Sản là điều không thể dung hợp được, dù họ có nhiệt tình đánh Tây đến đâu đi chăng nữa. Cảnh bảo:
- Nếu đảng Cộng sản nắm được chính quyền trên đất nước ta, thì tai họa có khi còn lớn hơn cả thực dân!
Minh vốn tin phục Cảnh, nên điều gì Cảnh nói, Minh cũng thấy hợp lý. Minh muốn nói điều đó ra cho Duyên nghe, nhưng mới gặp nhau lần đầu, anh thấy chưa tiện. Vả lại, một người đã tham gia đoàn thể, đã tuyên thệ trung thành và thoát ly gia đình để dấn thân như Duyên, thì dễ gì Minh còn thuyết phục nổi!
Duyên ngồi yên không đáp câu hỏi của Minh. Nguyên tắc bí mật của đòan thể, không cho phép cô tiết lộ. Với người trong gia đình còn phải giấu chứ nói chi đến người ngoài. Nhưng cô ngẫm nghĩ một chút rồi chợt nhận ra mình quá vô lý. Nếu đã muốn bảo vệ bí mật hoàn toàn thì ngay cả việc Duyên gặp Minh, đến nhà Minh như thế này là đã vi phạm qui định của đoàn thể rồi. Duyên tự trách mình quá yếu đuối, nặng tình cảm cá nhân. Nếu ông Chu biết được thì thế nào cô cũng bị phê bình một cách nghiêm khắc. Duyên nghĩ: Nếu muốn gặp Minh thường xuyên thì chỉ có cách rủ Minh cùng gia nhập TNCMĐCH với mình. Tìm ra chân lý ấy, Duyên đột ngột gợi ý:
- Em nghe bảo lớp thanh niên trí thức ở Hà Nội phần đông đều tham gia hoạt động chống Pháp. Thuở trước, anh từng bị lý Bân bắt ở Hải Ninh, rồi lại bị đuổi học vì giải truyền đơn. Bây giờ thì sao? Anh thôi không chống Pháp nữa hay sao?
Minh lắc đầu cười nhẹ:
- Bây giờ tôi chả làm gì cả! Ngày hai buổi xách cặp đến toà báo!
Duyên tha thiết thuyết phục:
- Người có chí hướng như anh mà không làm gì thì thật là tiếc quá! Hay là. …. Hay là anh vào đoàn thể của em đi!
- Đoàn thể của cô tức là Đông Dương Cộng Sản Đảng?
- Em thì vẫn cứ quen gọi là Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội!
Minh thấy buồn cười vì anh đang có ý định bảo Duyên bỏ Đảng Cộng Sản thì chính Duyên lại đề nghị anh gia nhập. Anh hỏi:
- Cô không sợ tôi tố cáo với mật thám hay sao mà dám khai ra với tôi?
Duyên nhìn Minh cứng rắn đáp:
- Em biết lòng anh!
- Chưa hẳn đâu! Những việc tôi làm cách đây vài năm chỉ là sự bồng bột hay nói đúng hơn là háo thắng của tuổi trẻ! Bây giờ tôi già đi nhiều rồi! Nhưng thôi, bỏ chuyện ấy đi. Lâu quá mới có dịp gặp riêng cô để hỏi thăm chuyện xóm làng ….
Duyên ngắt lời:
- Vâng! Em xin lỗi anh! Chẳng qua là vì em muốn gặp anh mà chả nghĩ ra cách nào để gặp được, nên đành liều rủ anh vào đoàn thể với em.
Duyên ngừng lại, nhìn quanh căn buồng nhỏ đầm ấm và chợt thấy chuyện cách mạng chẳng còn quan trọng nữa. Cô lãng mạng mơ tưởng được trở thành vợ của Minh, bỏ hết mọi thứ chung quanh để chỉ cùng Minh xây dựng tổ ấm. Cô mạnh dạn gợi chuyện:
- Em xuống Hà Nội đã 3 tuần lễ. Nhưng tiếng là ở Hà Nội mà đố có đi đến đâu! Suốt ngày chỉ ru rú trong nhà! Thành ra quanh quẩn vẫn chỉ biết có mỗi phố Khâm Thiên!
- Chắc là cô ngại ra đường gặp người quen?
- Một phần vì thế. Nhưng cái chính là chả nhẽ em đi lang thang một mình!
Minh nhìn rõ nỗi cô đơn của Duyên tại thành phố xa lạ nên anh tội nghiệp bảo:
- Cô còn ở Hà Nội lâu không? Thư thả rồi tôi đưa cô đi. Cô muốn đi xem chỗ nào? Ra bờ hồ chẳng hạn. Đi với tôi, cô có ngại không?
Duyên cảm động nhìn Minh bày tỏ nỗi lòng biết ơn rồi háo hức nói:
- Thật nhé! Anh đưa em ra bờ hồ anh nhé! Xuống Hà Nội mà không biết đến Hồ Gươm thì quê quá! Em chỉ sợ anh ngại chứ em thì ngại gì!
Minh lắc đầu cười:
- Tôi chả ngại gì cả! Người ta đi dạo đầy bờ hồ, có gì mà ngại! Trai thanh gái lịch, Tây với Ta, đủ cả! Hôm nào cô thấy tiện thì cho tôi biết, tôi tình nguyện làm người hướng đạo, đưa cô đi thăm cảnh Hà Nội!
Duyên chớp mắt nao nao như muốn khóc. Cô run run bảo:
- Anh nói thế thì em mừng lắm! Em biết anh có ngại gì thiên hạ đâu! Em chỉ sợ anh ngại đi với em. Thật lòng em cứ ngỡ là anh chả bao giờ thèm đi bên cạnh con bé nhà quê như em!
Minh manh dạn đáp:
- Cô ở Hải Ninh. Tôi cũng ở Hải Ninh, quen nhau từ thuở còn bé. Nếu bảo cô là nhà quê thì tôi có khác gì đâu! Thôi thế này: Hôm nay là thứ năm. Chủ nhật này cô có muốn đi không? Cô muốn đi thì để tôi thu xếp!
Câu hỏi bất ngờ của Minh làm Duyên suýt reo lên vì mừng rỡ, nhưng sau đó lại đưa Duyên về với thực tế. Cái giây phút bồng bột đi qua rất nhanh, cô nhớ lại vị trí của mình và chợt thở dài. Cô bỏ gia đình xuống đây theo lệnh của đoàn thể, chứ có phải tự ý cô đi chơi đâu mà đòi ngắm cảnh Thành phố! Dù cô có muốn đi với Minh cũng không tìm ra cớ gì để nói dối với ông Chu. Cô đứng dậy, buồn rầu bảo Minh:
- Em cảm ơn anh, nhưng chắc là chả dám hẹn với anh đâu … Thôi bây giờ em xin phép anh em đi chợ kẻo ông Chu ở nhà sốt ruột. Thỉnh thoảng có điều kiện, em lại đến thăm anh, nếu anh cho phép!
Minh cũng đứng dậy tiển chân và bảo:
- Đáng lẽ tôi phải ghé thăm cô mới phải. Nhưng đến đấy thì chả nói chuyện được.
Duyên gật đầu đáp nhỏ:
- Vâng. Đến nhà ông Chu thì không tiện! Vả lại. Cũng chả biết em còn ở đấy đến bao giờ. Được gặp anh hôm nay là em mừng lắm rồi! …. Thôi. Em chào anh, em về!
Minh tháo then cửa, nhoài người ngó ra cầu thang, rồi gật đầu làm hiệu bảo Duyên theo sau anh. Xuống tới mặt đường, anh đẩy cánh cửa gỗ nhỏ, quan sát hai bên rồi mới quay lại bảo Duyên:
- Thôi thế thì cô về nhé! Dịp khác, mời cô lại chơi. Chủ nhật tôi nghỉ cả ngày! Thường thì tôi chả đi đâu!
Duyên coi đó như một lời hẹn hò của Minh nên cô rất xúc động. Cô đội nón lên, lấm lét bước ra rồi vội vã cắm đầu nhập vào dòng người đang qua lại nhộp nhịp trên hè phố. Chờ Duyên đi khá xa. Minh mới hân hoan băng qua đường. Anh lấy làm lạ là bao nhiêu năm nay, anh chả để ý đến Duyên, ngay cả khi anh có dịp về làng. Bây giờ gặp Duyên ở Hà Nội, tự dưng anh thấy gần gũi và lòng anh chợt thấy ấm áp. Có lẽ nó là cái cảm giác tha hương cố tri mà người xưa thường nói đến!
Thấy Minh, ông Sửu đang ngồi khâu cái mũ nỉ, vội đứng dậy nhường ghế:
- Thầy ngồi chơi. Hôm nay thầy không đi làm?
Minh xua tay:
- Ông cứ ngồi đi! Giờ này tòa báo chắc đã nghỉ ăn trưa, tôi tạt vào nói chuyện với ông một tí rồi đến tòa soạn là vừa.
Bên cạnh ông Sửu lúc nào cũng có hai viên gạch xếp chồng lên nhau dùng làm ghế ngồi dành riêng cho Minh. Ông Sửu kéo cái ghế đẩu của mình xích ra một chút. Minh ngồi xuống moi túi lấy ra gói thuốc ra mời ông một điếu.Ông đưa cả hai tay đỡ và nói:
- Tôi xin thầy!
Ông rít hơi thuốc đầu tiên rồi hạ giọng hỏi Minh:
- Chắc có người nhà dưới quê lên thăm nên sáng nay không đi làm?
Minh trố mắt quay đầu nhìn ông và hỏi lại:
- Sao ông biết?
Ông Sửu thản nhiên giải thích:
- Thầy đừng mắng tôi là người hiếu sự. Tôi cũng như đứa gát cổng cho thầy mà thôi!
Minh vôi xua tay ngắt lời:
- Tôi đâu dám trách ông! Tôi chỉ lấy làm lạ là chuyện gì ông cũng biết!
- Nhà thầy ít khi có khách, thành ra ai đến nhà thầy tôi cũng biết! Mẹ của thầy dưới Hải Ninh lên thăm ba lần, rồi cô em họ, cô gì nhỉ?
Minh gật đầu:
- Cái Nhi!
- Vâng cô Nhi con bà dì của thầy. Hôm nay mới thấy người thứ ba, mà tôi nom thấy cách ăn mặc thì biết ngay là mới ở làng ra thành phố.
Minh lắc đầu cười:
- Ông tinh thật! Chả giấu ông được cái gì!
Thật ra thì căn gác trọ của Minh không phải chỉ mới có ba người đàn bà đến thăm như ông Sửu vừa kể. Bà Truyền, mẹ của Minh, cô Nhi, em họ của Minh và hôm nay là Duyên, đều ghé đây vào ban ngày nên ông Sửu mới nhìn thấy. Ông không muốn thấy, ông cũng vẫn thấy, bởi sạp hàng của ông đối diện với căn gác của Minh, chỉ cách một con đường hẹp ngang. Những người khác từng đến với Minh nhiều lần, nhưng ông Sửu không biết vì họ đến ban đêm lúc ông đã dẹp quầy mũ về nghỉ. Các đồng chí của Thành Bộ như nhóm Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân, hoặc từ Tổng Bộ như Lê Hửu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, từng ăn ngủ hội họp, thảo truyền đơn trên căn gác nhà Minh vài lần mà tất nhiên Minh không kể cho ông Sửu nghe.
Ông Sửu rót nước trong phích ra hai cái cốc thủy tinh vàng đục và hỏi:
- Cô ấy chắc là người nhà của thầy?
Minh hơi bực mình vì có cảm tưởng như ông Sửu đi quá đà, lúc nào cũng tò mò tìm hiểu về những người gặp gỡ của Minh. Nhưng anh lại tự giải thích ngay giùm ông Sửu: Người ta có quí mình thì người ta mới lo lắng cho mình! Anh gật đầu:
- Vâng! Cô ấy là vai em họ, mới dưới Hải Ninh lên. Thầy mẹ tôi bảo cô ấy lại đến gặp tôi, nhắn tí việc! Người lạ thì tôi đâu dám cho biết chỗ ở của mình! Thời buổi này, biết tin ai!
Ông Sửu nghiêm giọng đáp:
- Thầy ạ! Tôi là kẻ văn dốt vũ dát, lại bị trời bắt tội, hỏng mất một chân, chả làm được gì cho đại sự nữa. Hèn mọn như tôi mà được thầy chiếu cố cho ngồi nói chuyện ngang hàng với thầy là tôi cảm kích lắm rồi …
Minh vội vàng gạt đi:
- Không dám, sao ông lại nói thế!
- Chả phải tôi khách sao đâu! Tôi nói là để thầy hiểu rằng lúc nào tôi cũng qúi trọng những người như thầy. Và càng quí thầy thì tôi lại càng lo, chỉ sợ chuyện chẳng lành xẩy đến cho thầy. Tôi muốn đền đáp cái ơn tri ngộ mà thầy dành cho tôi, nên lúc nào tôi cũng nhắc nhở thầy, mong thầy đừng giận. Tôi nghiệm ra rằng: Chín mươi phần trăm bắt bớ Quốc Dân Đảng xẩy ra gần hai năm nay, đều là do nội phản cả, chứ chả phải do mật thám có tài điều tra! Thầy nghĩ lại mà xem!
Minh chớp mắt thở dài:
- Vâng! Quả có thế! Ông muốn tôi tránh giao tiếp với người lạ chứ gì?
Ông Sửu nhấn mạnh:
- Ngay cả với người quen thầy ạ. Người quen cũng phải đề phòng!
Minh cười:
- Vậy là tôi phải đề phòng ngay cả ông nữa! Vì ông là người quen!
Nói câu nửa đùa nửa thật ấy, Minh chợt nhớ đến lời của Lê Hửu Cảnh. Theo Cảnh thì rõ ràng Quốc Dân Đảng đang bị vỡ vì nội phản, nhưng cũng có thể thêm bàn tay Đông Dương Cộng Sản Đảng nhúng vào. Cảnh chỉ không biết việc tố giác hoạt động của Quốc Dân Đảng với thực dân Pháp là chủ trương của Tổng bộ đảng Cộng Sản hay chỉ là hành vi riêng lẻ của một số cá nhân đảng viên. Vài lần Cảnh từng nói đến điều này với Nguyễn Thái Học, nhưng lần nào cũng bị đảng trưởng gạt phăng đi vì cho rằng Cảnh nghi oan những người đồng chí hướng. Mới đây, gần đến ngày tổng khởi nghĩa, Cảnh càng bồn chồn nóng ruột, chạy đi tìm cô Giang trên Yên Bái để bày tỏ nỗi lo ngại ấy thì xem chừng cô có vẻ xiêu lòng, đồng ý với Cảnh. Cô ưu tư bảo Cảnh:
- Anh Học thì thẳng thắng lắm. Anh ấy cứ lấy lòng quân tử mà đo bụng kẻ tiểu nhân. Nếu em không trưng được bằng cớ gì cụ thể thì khó mà làm cho anh Học tin.
Cảnh chì chiết:
- Chờ có bằng chứng cụ thể thì mình bị bắt hết rồi còn đâu!
Ngẫm nghĩ một chút, cô Giang nhìn Cảnh tội nghiệp nhắc lại:
- Anh đừng nói gì cả. Anh cứ để cho em. Các anh ở Tổng Bộ đang nghi là người cầm đầu phe chủ hòa. Huống chi anh cũng biết anh ghét Cộng Sản cho nên anh có nói ra, người ta cũng sẽ bảo anh vì thành kiến mà vu oan cho đảng Cộng Sản!
Cảnh khổ sở gật đầu. Anh không muốn nói nhưng cứ phải nói. Không thuyết phục được các đồng chí ở Tổng Bộ thì anh tâm sự với những người thân tín như Minh để dặn dò họ phải đề phòng.
Riêng ông Sửu ngồi một chỗ thì những tin tức ông thu lượm được chỉ cho ông thấy một đìều đau lòng là Quốc Dân Đảng đang bị nội phản quá nhiều. Ông chưa bao giờ nghĩ đến việc Đông Dương Cộng Sản Đảng cũng là thủ phạm góp phần bán đứng Quốc Dân Đảng cho giặc.
Minh vỗ vai ông và nói:
- Dù sao tôi cũng cảm ơn ông. Ông dặn thì tôi phải nghe, vì ông trãi đời hơn tôi rất nhiều!
Dứt lời, Minh uống cạn tách trà và đứng dậy cáo từ, băng qua đường …
Hôm sau, Duyên dậy sớm hơn thường lệ. Cả đêm cô chập chờn thao thức nhớ đến Minh. Đời Minh, đó là lần đầu tiên cô có dịp gặp riêng một người con trai mà cô ấp ủ tình cảm từ lâu. Gặp riêng trong căn phòng vắng, tuy chưa nắm bàn tay nhau, thậm chí chưa nói được một câu tình tứ nào, nhưng Duyên đã thấy xao xuyến như mở ra một chân trời yêu đương rực rỡ làm cô trăn trở không ngủ được. Không ngủ được vì bên cạnh niềm vui bất ngờ là gặp được Minh. Duyên lại thấy xót xa vì nhìn rõ hoàn cảnh éo le bế tắc. Cho dù Minh có thiện cảm đậm đà với Duyên đi chăng nữa rồi cũng chẳng đi đến đâu bởi Duyên đang mang nặng lời thề hiến thân cho đoàn thể, không cách nào bỏ cuộc được!
Nằm lăn qua lăn lại, nghĩ quanh nghĩ quẩn, có lúc Duyên tự trách mình quá mềm yếu. Cô từng là Bí thư chi bộ, giảng bài động viên các đồng chí, thế mà giờ đây lại chùn bước thoái lui chỉ vì một chuyện tình vớ vẩn! Duyên thấy cần phải phấn đấu, quên phứt Minh để quay về với nhiệm vụ. Nhưng nghĩ là một chuyện. Trái tim đang rung động chan hòa, không cách nào Duyên có thể gạt được hình ảnh Minh ra khỏi lòng mình!
Sáng thức dậy, đôi mắt còn cay nhưng Duyên không thấy mệt mỏi, trái lại có một niềm vui sâu kín làm cô nao nức như bắt gặp ánh bình minh chan hòa khởi đầu một ngày nắng đẹp. Cô đun nước pha trà cho ông Chu như thường lệ. Lại nấu thêm một bình thủy nước sôi để sẳn ông dùng cả ngày. Rồi cô ra sân trước chẻ mớ củi, trải đều ra phơi. Thời gian trôi quá chậm, cô vào dọn dẹp nhà bếp một lúc, nắng mới bắt đầu xuyên qua cửa sổ. Mọi việc xong xuối, cô đi tắm, thay quần áo và xách giỏ đi chợ. Dĩ nhiên cô đi vòng, tốn thêm khoảng nửa giờ để có dịp đi ngang qua căn gác của Minh, hy vọng Minh có nhà và kéo cô vào ngồi nói chuyện. Đêm hôm qua, cô đã tính đi tính lại và thấy không có cách nào gặp được Minh, ngoại trừ mỗi ngày đi chợ, ghé vào chốc lát cho đỡ nhớ. Nhưng Duyên đảo tới đảo lui ba lần, cánh cửa dẫn lên cầu thang và cửa sổ trên gác đều khép kín vì Minh đã đi làm. Biết trước như thế mà Duyên vẫn thở dài buồn bã, lầm lũi quay lại chợ.
Những ngày kế tiếp vẫn như thế. Cô đến tìm Minh không gặp, mà Minh cũng chẳng thèm ghé vào nhà thuốc Vĩnh An Đường lần nào nữa.
Sáng chủ nhật, Duyên hồi hộp lắm. Cô nhớ lời Minh dặn lúc chia tay: Chủ nhật Minh ở nhà không đi đâu. Cô lo thu dọn mọi công việc cho ông Chu rồi đội nón xách giỏ ra đi. Ông Chu đứng sau quầy thuốc nhìn theo và dặn một câu mà ông đã nói đến chục lần:
- Đi nhanh nhanh lên. Đừng có la cà lâu ở ngoài chợ, ngộ nhỡ có ai quen nom thấy! Mua bó rau hoặc mớ cá, ăn tạm được rồi!
Duyên không trả lời. Cô nhận thấy gần đây ông Chu có những đổi thay không che giấu được. Tuần lễ đầu tiên, ông rất lịch sự với Duyên, một điều chị, hai điều chị, giữ đúng tác phong đồng chí cư xử với nhau. Tuần thứ hai ông bắt đầu chuyển hướng, cố tình tỏ ra gần gũi thân mật với Duyên. Có lẽ cái khung cảnh vắng vẻ chỉ có hai người dưới một mái nhà, đã tạo điều kiện cho ông bịến chất. Đêm đêm Duyên nằm trên cái chõng tre kê ở một góc bếp. Có đêm đã khuya lắm, cô thấy ông Chu bưng đèn vào, tưởng Duyên đã ngủ say, đứng lặng nhìn cô rất lâu làm cô hồi hộp lo sợ muốn đứng tim. Nhiều tối, Duyên đã thu dọn và tắm gội xong, sắp lên giường nằm thì ông cứ lân la nói chuyện vớ vẩn không cần thiết, mục đích chỉ để kéo dài thì giờ ngồi bên Duyên. Duyên nhìn rõ âm mưu của ông.Ông chưa làm gì cả. Nhưng rõ ràng lòng ông đã bùng lên những ham muốn xác thịt. Nếu Duyên ở đây thêm một thời gian nữa mà vợ ông vẫn vắng nhà thì thể nào ông cũng tiến xa hơn vì khó có thể kìm hãm được. Khổ nhất cho Duyên là nhà này không có buồng tắm.Mảng sân sau, chỗ rửa rau, rửa bát cũng chính là nơi mọi người đứng tắm bên cạnh lu nước. Duyên cứ phải chờ trời tối hẳn, rồi lấy chiếc chiếu buộc lên làm màn che cái cửa ăn thông từ nhà bếp ra sân sau cho kín đáo. Dù vậy, đứng xối nước, cô vẫn thấy tông hốc khó chịu lắm, nhất là cô luôn e ngại ông Chu đứng trong bếp nhìn qua kẻ vách. Đoán được tâm trạng của ông, Duyên cũng không nói chuyện với ông nhiều như mấy hôm đầu nữa. Chẳng những Duyên không muốn ông hiểu lầm là cô có thiện cảm với ông, mà còn cố ý tỏ ra lạnh lùng để ông phải dừng lại.
Bước ra thềm, Duyên thấy hối hận vì hôm giã từ Hải Ninh, chỉ mang theo ba bộ quần áo cũ, toàn màu nâu đậm để dễ lăn lóc trên đường cách mạng. Có ngờ đâu bây giờ cần hẹn hò với Minh thì chả nó bộ nào coi được!
Đến trước nhà Minh, cô bước chậm hẳn lại, ngước mắt nhìn lên gác, vui mừng thấy cánh cửa sổ đã mở toang. Cô đi đi lại lại hai ba lần, nhưng chẳng thấy Minh ra. Cô làm bộ ngồi xuống ngay bên vỉa hè, tháo chiếc guốc mộc, xoay qua xoay lại làm như quay guốc sắp bị đứt, cần phải kiểm tra lại. Vẫn chả thấy Minh đâu. Cô đánh liều bước lại gõ nhẹ vào cánh cổng. Bên trong vẫn im lìm. Thất vọng quá toan bỏ về thì may quá Minh từ bên quầy mũ của ông Sửu chạy sang. Duyên thở phào mừng rỡ, khẻ gật đầu chào. Minh không nói gì, chỉ chớp mắt ra hiệu rồi đi thẳng lại cổng, đẩy nhanh cánh cửa và lẻn vào. Anh nhìn sang bên kia đường và yên tâm thấy ông Sửu không chú ý theo dõi. Duyên bước nhanh theo sau Minh, cùng leo lên gác. Hai người vào nhà khép cửa lại. Minh nói cho có chuyện:
- Mới sáng sớm, vừa đẩy cửa sổ ra thì ông Sửu bên kia đường vẫy tay gọi sang, đãi bát bún riêu. Từ chối mãi không được!
Duyên hơi ngạc nhiên. Cô cứ nghĩ người học thức như Minh thì chả khi nào lại ngồi chung với giới lao động bình dân như ông Sửu. Tuy vậy, cô không nói ra điều ấy. Cô bỏ nón, ngồi xuống mép giường và đặt cái giỏ mây bên cạnh. Cô để ý thấy nhà Minh hôm nay thu dọn gọn ghẽ hơn. Nghĩa là những tờ báo, những cuốn sách được đặt chồng lên nhau và đẩy sát vào vách. Cô hỏi:
- Hôm nay chủ nhật, anh không đi đâu?
Minh đã nấu sẳn ấm trà, rót ra mời Duyên và đáp:
- Tại tôi đoán trước là cô sẽ ghé thăm, thành ra ở nhà để chờ!
Duyên cảm động nói nhỏ:
- Em cảm ơn anh!
Nhân tiện, Duyên thêm:
- Hôm qua em cũng đi ngang qua đây, cả hôm kia nữa, nhưng anh không có ở nhà! Hôm nay em cũng cứ sợ là không gặp anh!
Minh kêu lên:
- Thế à! Tiếc quá! Hai hôm nay nếu biết là cô đến thì tôi đã ở nhà chờ! Công việc của tôi có bắt buộc phải lại tòa báo đâu!
Điều này thì Minh nói thật. Anh chỉ cần viết bài nộp cho chủ báo là xong nhiệm vụ. Sở dĩ gần đây, anh luôn luôn cố gắng hiện diện tại tòa soạn mỗi ngày là để tránh sự ngờ vực của đồng nghiệp. Họ đều là người thân, gặp nhau tay bắt mặt mừng nhưng Minh chẳng dám tin ai trong giai đoạn vàng thau lẫn lộn này. Họ chưa biết Minh là đảng viên Quốc Dân đảng, cho nên cái tông tích ấy anh cần phải giữ kín tối đa.
Duyên nói:
- Em cũng biết là ngày thường anh phải đi làm. Nhưng em cứ đi qua đây cầu may thôi! Vì đàng nào em cũng phải đi chợ!
Minh biết là Duyên nặng tình với mình lắm. Anh hỏi:
- Thế hôm nay cô có muốn đi ra bờ hồ không? Tôi đưa cô đi. Cả ngày hôm nay, cô muốn đi đâu cũng được!
Duyên nén tiếng thở dài:
- Em ghé thăm anh một tí rồi phải về ngay chứ làm sao đi được! Chả có cớ gì để nói với người ta! Gặp anh như thế này là đã vi phạm qui định rồi!
Minh chép miệng than:
- Phiền nhỉ! Thế công tác của cô bây giờ là làm gì? Người ta gọi cô xuống đây để nấu cơm thôi hay sao?
Duyên ngượng ngùng khai hết cho Minh nghe:
- Em còn bực hơn anh ấy chứ! Chả là thế này. Nhà thuốc Vĩnh An Đường chỉ là cái trạm giao liên thôi. Em đến đây một hai ngày rồi sẽ có người đưa đi chỗ khác. Nghe nói là Hải Phòng hay Hòn Gai gì đó. Đi làm công tác vô sản hóa trong giới thợ thuyền. Nhưng xuống đến đây thì bất ngờ tình hình khó khăn vì bị mật thám theo dõi. Thành ra họ nói với em là nán lại chờ ở hiệu thuốc Bắc. Chả biết đến bao giờ!
Minh cười chen vào:
- Thành ra bỗng dưng hiệu thuốc Vĩnh An Đường có người đi chợ thổi cơm!
Duyên cũng cười theo:
- Nhưng cũng nhờ thế mà em gặp được anh!
Minh bưng tách trà trao cho Duyên và bảo:
- Cứ như cô thì không khéo nay mai cô sẽ không còn ở đây nữa. Chừng ấy biết bao giờ mới gặp lại cô!
Duyên đỡ cốc nước, miệng nói “Em xin anh!” rồi buồn rầu cúi xuống bảo:
- Đêm qua nằm mãi chả ngủ được, em cũng nghĩ như anh. Nhưng em tự an ủi, em xuống Hà Nội chả có ai quen biết, gặp được anh như thế này cũng quí lắm rồi. Chuyện mai sau biết thế nào mà lường! Không khéo rồi em lại gặp chị Hậu em trong Hỏa Lò cũng chưa biết chừng …. À! Lâu nay hình như anh không về Hải Ninh? Hay là anh về mà không cho em biết!
- Vâng! Lâu rồi tôi không có về. Mẹ tôi có xuống tận đây thăm tôi hai lần. Mẹ tôi bảo lão lý Bân được lệnh theo dõi tôi, thành ra khuyên tôi đừng về! … Cô uống nước đi kẻo nguội!
Duyên đưa tách nước trà lên nhấp từng ngụm nhỏ. Minh nhắc lại:
- Vậy là cô không đi xem cảnh Hà Nội được! Tiếc nhỉ!
Duyên đứng dậy, khom người đặt tách nước trên bàn trước mặt Minh và nói:
- Thôi, em phải đi chợ. Nắng lên rồi. Em phải đi để kịp về thổi bửa trưa. Em xin phép anh!
Cô cúi xuống xach giỏ rồi cầm nón bước ra. Minh vội vàng ra trước, chạy xuống cầu thang đứng chờ Duyên. Anh đẩy cánh cửa nhìn hai bên theo thói quen, rồi quay lại bảo Duyên:
- Tiếc quá cô chả ngồi lâu được! Đành chờ đến chủ nhật sau vậy!
Duyên gật đầu, đội nón lên. Cô nhìn Minh tha thiết rồi bước nhanh ra đường.
Gần trưa, Duyên ở chợ về, đang ngồi lặt rau đay ở sân sau thì một người đàn bà tuổi khoảng ngòai ba mươi, gánh đôi quang gánh đi thẳng từ ngoài cửa chính vào tận bếp. Duyên ngẫng lên ngơ ngác nhìn nhưng chưa kịp hỏi thì ông Chu tất tả chạy vào và nói:
- Nhà về đấy ư? Sao chuyến này đi lâu thế? Tôi đợi sốt cả ruột!
Hóa ra đó là Tịnh vợ ông Chu, vắng nhà từ hôm Duyên đến đây. Tịnh đặt quang gánh, cầm nón quạt mồ hôi lia lịa. Chị không đáp lời chồng mà chỉ đăm đăm nhìn Duyên, Duyên buông bó rau vào rổ, đứng dậy, cúi đầu chào:
- Em chào chị!
Ông Chu giải thích với vợ:
- Các anh ấy gửi ở đây để chờ nhận công tác!
Sát tường có cái lu nước lớn chứa nước mưa, Tịnh bước lại, cầm cái gáo dừa múc nước uống ừng ực. Đi bộ từ nhà ga về đây, mồ hôi loang loáng trên mặt, dính bết vào hai bên tóc mai và đẫm ướt lưng áo. Chị buông cái gáo và hỏi:
- Lâu chưa? Mấy hôm rồi?
Ông Chu đưa cái khăn vải cho vợ lau mặt và đáp:
- Từ hôm nhà vừa đi!
Duyên chen vào:
- Thưa, ba tuần rồi!
Tịnh khẽ kêu lên kinh ngạc:
- Ba tuần rồi, lâu thế cơ à!
Cùng với câu nói ngắn ngủn ấy, Tịnh đăm đăm nhìn Duyên dò xét. Duyên tuy là cô gái quê, nhưng trẻ trung và mặn mà, đến ở nhà chị đã ba tuần lễ chỉ có chồng chị bên cạnh ngày đêm. Tịnh thoáng thấy lo lắng vì ngờ vực. Chồng Tịnh, ông lang Chu, vốn không phải là người đứng đắn, bằng chứng là đã từng bỏ vợ con để lấy Tịnh. Huống chi, ông Chu cũng chẳng phải là người có nhiệt tình cách mạng đích thực. Chỉ vì lấy Tịnh mà ông tham gia và nhận làm giao liên cho đoàn thể. Nhà thuốc Vĩnh An Đường là nơi tiếp nhận các đồng chí thoát ly để chờ bố trí công tác. Nhưng từ trước đến nay, mới chỉ có bốn người mà toàn là đàn ông. Mà bốn người ấy chỉ ngủ qua một hai đêm rồi đi ngay. Duyên là phụ nữ đầu tiên đến ở đây, lại kéo dài đến ba tuần lễ trong lúc Tịnh vắng nhà! Biết đâu, trong lúc nửa đêm về sáng, thằng chồng của Tịnh chả mò mẫm vào giường của Duyên!
Trong hòan cảnh trốn tránh như thế này, dù Duyên có bị ông Chu làm càn thì cô cũng đành cắn răng im lặng chớ chả nhẽ chạy đi kêu đội xếp để tự tố cáo lạy ông tôi ở bụi này
Ông Chu chưa kịp lên tiếng giải thích thêm về trường hợp của Duyên thì phải bỏ lên nhà vì có khách vào mua thuốc. Duyên tiếp tục ngồi xuống lặt rau. Tịnh đứng nhìn một chút rồi cũng kéo cái ghế thấp lại ngồi bên cạnh Duyên và gợi chuyện:
- Cô nấu gì đấy?
- Em nấu bát canh rau ngót với tôm nõn.
- Thế à! Tôi cũng đang thèm ăn canh rau ngót. Anh Tự với anh Cảnh cũng thích ăn canh rau ngót lắm. Lần nào ghé đây cũng đòi ăn cho bằng được! Cứ bảo ăn vào mát ruột!
Tịnh ngừng lại vì chợt nhớ ra là không nên tên những đồng chí lãnh đạo Thành Bộ. Duyên có biết Ngô Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh là ai đâu mà đề cập đến họ. Tịnh đổi đề tài:
- Quên chưa hỏi, cô tên gì?
- Em là Ly. Vũ Thị Ly.
- Thế có ai liên lạc, giao công tác gì chưa?
- Thưa chưa. Em chờ sốt cả ruột. Anh Chu bảo, đường dây giao liên bị mật thám theo dõi, tạm thời phải ngưng mọi hoạt động. Ai ở đâu, tạm thời cứ ở đấy!
Tịnh gật đầu nhất trí:
- Đúng đấy cô ạ! Đáng lẽ tôi về từ tuần trước kia. Mấy lần mua vé xe hỏa rồi, lại phải bỏ. Có hôm tôi ra ga, leo lên tàu rồi, lại phải leo xuống!
- Sao thế hở chị?
- Thấy có đứa khả nghi nó theo dõi, là mình phải tìm cách nào tháo thân ngay. Cũng có khi mình đóan nhầm, nhưng cẩn tắc vô áy náy! Tôi để ý thấy mật thám nó không bắt mình ở ga lớn. Nó chờ mình xuống ga nhỏ dọc đường nó mới bắt. Trường hợp anh Túc với chị Nghiêm đều như thế cả. Mật thám nó theo từ Ga Hàng Cỏ. Nó có biết chắc là người của mình nhưng nó chờ dọc đường mới bắt!
Rồi nhân tiện, Tịnh giảng cho Duyên những kinh nghiệm công tác của mình trong mấy năm qua, bao nhiêu lần thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Duyên ngồi yên lắng nghe, nghĩ đến Hậu trong Hỏa Lò, rồi lại miên man nghĩ đến chính mình, chả biết mai này trên đường cách mạng có thoát được màng lưới của mật thám hay không?
Hai chị em đang nói chuyện thì ông Chu từ nhà ngoài bước vào, lấy những gói hàng từ hai cái thúng của vợ, chất lên giường. Đó là những bao thuốc Bắc gói trong giấy báo, cùng với vài xấp vải, thêm ít khoai lang, đậu phọng chưa bốc vỏ. Nói chung, những thứ ấy chỉ để che mắt mật thám, làm như Tịnh thật tình đi buôn bán mà thôi.
Ông Chu mở một gói thuốc Bắc và quay sang hỏi vợ:
- Bao giờ nhà lại đi?
Sẳn mối ngờ vực trong lòng, Tịnh gắt nhẹ:
- Vừa mới về đến nhà, ngồi chưa nóng đít lại hỏi bao giờ đi!
Duyên mĩm cười không nói gì. Thấy Tịnh về, Duyên mừng lắm vì từ nay không phải sống một mình với ông Chu. Nhưng Duyên lại giật mình lo ngại. Nếu Tịnh giành lấy công việc đi chợ hằng ngày, thì Duyên không còn cơ hội nào để gặp Minh nữa!
Tịnh phủi tay đứng dậy và bảo:
- Cô ở nhà nấu cơm nhé! Tôi phải chạy đi một tí!
Dứt lời, Tịnh cầm nón bước nhanh ra cửa.
Ông Chu buông gói thuốc chạy nhanh theo vợ, gọi giật lại và hỏi:
- Nhà đi đâu đấy?
Tịnh đứng lại trong khung cửa, gắt nhẹ:
- Đi gặp người ta chứ còn đi đâu!
Ông Chu hiểu hai tiếng “người ta” tức là các đồng chí lãnh đạo Thành Bộ Hà Nội mà Tịnh có nhiệm vụ báo cáo tình hình ở biên giới. Nhưng ông Chu lại kéo hẳn vợ vào sau quầy thuốc và gắt lại:
- Chỉ được cái nhanh nhảu đoảng! Cơ quan đang bị theo dõi, không đến đấy được nữa. Anh Lê Tiến bị bắt rồi! Thành Bộ tạm thời mỗi người trốn một nơi, đến đấy là chui đầu vào rọ ư!
Tịnh lặng người đứng yên, ông Chu giục:
- Thôi. Vào nhà tắm đi, rồi ăm cơm!
Tịnh vẫn đứng yên, tay buông rơi cái nón xuống chân. Khá lâu chị mới run run hỏi lại:
- Anh Lê Tiến bị bắt rồi ư? Bị bắt ở đâu?
Cùng với câu hỏi não nuột ấy, chị nhớ lại những lần Lê Tiến cùng các đồng chí ở Tổng Bộ kéo lại đây ăn cơm và sôi nổi bàn chuyện hoạt động. Nhớ nhất là cái dạo Tiến công tác ở biên giới, sang Quảng Châu gặp Tịnh đang bị sốt rét nặng. Tiến nấu cháo cho Tịnh ăn mấy hôm liền trước khi Tiến trở về Hà Nội. Tiến thua Tịnh vài tuổi, có nụ cười và ánh mắt hiền hòa nhất trong đám những người cách mạng mà Tịnh từng giao tiếp. Cho nên cái tin Tiến bị bắt không khỏi làm Tịnh bàng hoàng trong khoảnh khắc. Bàng hoàng vì thương Tiến đã đành, mà còn vì sợ Tiến khai ra địa chỉ nhà thuốc Vĩnh An Đường, làm liên lụy luôn đến vợ chồng Tịnh. Tịnh nhắc lại:
- Có biết bị bắt ở đâu không?
- Nghe nói ở ngõ Lò Rèn!
Tịnh lại sửng sốt kêu lên lần nữa:
- Chết! Ngõ Lò Rèn ư? Thế thì ông Mão, ông Kiệt chắc cũng bị bắt cả rồi!
Chu yên lặng gật đầu. Nhà ông chính là trạm giao liên từng nhận Kiệt và Mão từ thôn quê thoát ly xuống đây – giống như Duyên hiện nay – tá túc ở nhà Tịnh cả tuần lễ trước khi bố trí về cơ quan in truyền đơn ở Ngõ Lò Rèn. Những cơ quan, những địa điểm hoạt động của đảng viên, thường thì chỉ có các đồng chí ở Thành Bộ được quyền biết. Riêng Tịnh vì là nhân vật giao liên nồng cốt, thường đưa người theo sự bố trí của Thành Bộ, nên Tịnh cũng nắm được một vài địa chỉ trong nội thành.
Tịnh thở dài cầm nón quay vào bếp. Duyên đã nhặt xong rổ rau, đang múc nước ra chậu để rửa. Thấy Tịnh, Duyên ngẩng đầu lên bảo:
- So với anh Chu, chị trẻ quá! Em thật không ngờ! Em cứ tưởng chị phải … lớn hơn nhiều! Hóa ra nom chị chỉ mới …. ngoài hai mươi!
Nghe lời khen mà Tịnh đoán là thật lòng, Tịnh bổng thấy có thiện cảm ngay với Duyên. Chị vui vẻ kéo khúc củi trong bếp ra, ngồi xuống nói chuyện với Duyên. Tịnh hãnh diện kể:
- Trẻ gì nữa cô ơi! Hơn ba mươi rồi! Ông bà mình có câu “gái ba mươi tuổi đã toan về già” cơ mà! Với lại, dầm mưa giãi nắng như tôi, trẻ thế nào được mà trẻ! Cô tính xem, ngủ bờ ngủ bụi, lắm khi phải trốn chui trốn nhủi, có đêm thức trắng không chợp mắt, giữ được mạng sống, không để lọt vào tay giặc là may rồi, chứ còn nói gì đến nhan sắc
Duyên gật đầu cảm phục:
- Chị giỏi thật! Giỏi mà gan dạ! Em phục chị lắm!
- Cảm ơn cô! Tôi bị sốt rét ngã nước mất hai năm, da cứ vàng bủng đi, nom sợ lắm. May mà có thuốc của anh Chu nên bây giờ mới dứt hẳn!
- Vâng. Nom chị hồng hào như thế này, ai mà biết được đã có thời chị bị sốt rét!
Tịnh rất hài lòng về lời khen kín đáo của Duyên. Chị đổi đề tài:
- Cô ở đây cả mấy tuần lễ, chắc cũng sốt ruột lắm, phải không? Trường hợp của cô là lâu nhất đấy. Những ngừờ khác chỉ ghé đây một hai hôm, nhịều lắm là một tuần lễ!
- Vâng! Anh Chu cũng bảo thế!
Duyên vừa dứt câu thì trên nhà có khách vào. Nghe tiếng nói chuyện giọng đàn ông quen quen. Tịnh đứng dậy khom người nhìn lên và nhận ra người khách ấy chính là một đồng chí đến gặp Chu để đưa tin tức. Duyên cũng đứng dậy tò mò trông lên và trố mắt theo dõi dù khoảng cách khá xa, không nghe rõ câu chuyện. Duyên chỉ nhận ra đó là anh chàng kéo xe cách đây ba tuần lễ đã đón cô từ nhà ga về đây. Tịnh bảo Duyên:
- Cô cứ làm việc đi, để tôi chạy lên xem!
Tịnh vào hẳn trong quầy, đứng sát bên chồng. Anh thanh niên kéo xe bỏ nón vải, tay cầm lọ thuốc y như một khách hàng đang nài trả giá. Anh nhìn ra cửa và khi biết chắc không có ai chung quanh, anh hạ giọng nói nhỏ:
- Anh chị bảo chị Ly sửa soạn đi Hải Phòng. Sáng mai tôi đem xe lại đón, kịp chuyến tàu hỏa sớm.
Ông Chu hỏi lại:
- Nhà tôi cần phải đưa chị ấy đi không? Nhà tôi vừa mới về …
Anh kéo xe lắc đầu:
- Không cần. Chị cứ ở nhà. Chị Ly đi một mình được rồi. Đảng bộ Hải Phòng sẽ bố trí người đón chị ấy ở sân ga.
Dứt lời, anh cầm nón úp lên đầu và quay ra. Chờ anh kéo xe đi khỏi. Tịnh quay xuống nhà, vui vẻ bảo Duyên:
- Cô có công tác rồi. Mừng cho cô, sáng mai đi Hải Phòng.
Duyên giật mình, nghĩ ngay đến Minh, sửng sốt kêu lên:
- Sáng mai hở chị?
- Ừ! Sáng mai sẽ có người đến tận đây đưa cô ra ga xe hỏa. Đến Hải Phòng sẽ có người đón ở dưới ấy!
Duyên vừa nhóm bếp, lặng người ngồi yên nhìn ngọn lửa bập bùng trước mắt. Cô nhớ lại những ngày mới đến đây, cô chỉ nóng lòng muốn đi công tác, bất cứ công tác gì, bởi thời gian chờ đợi làm Duyên mệt mỏi chịu không được. Nhưng rồi Duyên lại gặp Minh. Tự dưng cô thấy lưu luyến Hà Nội, chẳng muốn đi đâu nữa. Thôi thì cứ ở đây đóng vai người làm mướn không công cho ông Chu, miễn là mỗi chủ nhật đến ngồi với Minh là hạnh phúc lắm rồi. Hóa ra trời không chiều lòng người. Mới nối lại chút tình xưa đã vội chia ly. Duyên nao nao buồn muốn trào nước mắt. Ngẫm nghĩ một chút, Duyên mạnh dạn bảo Tịnh:
- Mai đi rồi ạ! Chị có vội gì không? Không thì chị nom hộ em nồi cơm. Em chạy ra chợ một tí!
Tịnh đang lấy quần áo, định đi tắm. Chị ngừng tay hỏi lại:
- Mua bán gì mà ra chợ? Đi công tác, đừng có khuân vác nhiều cho nặng!
- Không! Em chỉ mua vài thứ lặt vặt thôi.
Tịnh vắt cái quần đen và cái áo cánh nâu lên giây phơi, tiến lại sau lưng Duyên, ngồi xuống và bảo:
- Ừ! Cô để đấy cho tôi. Cô đi đi! Nhớ là đi đường xa, càng nhẹ nhàng càng tiện. Không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái đâu! Tôi đã có lần lên xe hỏa, ngồi được một lúc rồi, lại phải giả vờ đi giải rồi bỏ trốn vì thấy có hai thằng khả nghi ngồi cùng toa với tôi. Tôi đoán là mật thám, nên phải tìm cách thoát thân. Hành lý tôi quăng hết cả lại
Duyên hững hờ đáp:
- Thế à chị! Em chả mang gì nhiều đâu! Có mấy bộ quần áo thôi!
Rồi Duyên đứng dậy, lấy nón đi thẳng ra cửa, không nói với ông Chu lời nào. Cô bước thật nhanh tới nhà Minh, mặc dù trong lòng không hy vọng gì gặp được Minh. Cô hồi hộp cắm đầu đi như chạy, không thèm nhìn phố xa hai bên.
Đến trước nhà Minh, Duyên ngước lên và mừng thầm vì thấy cửa sổ vẫn mở. Cô trông sang bên kia đường. Ông Sửu ngồi một mình đang cặm cụi khâu mũ. Cô mạnh dạn tiến lại, đẩy cánh cổng gỗ và leo cầu thang lên gác. Cô gõ mấy tiếng nhè nhẹ rồi nghe giọng của Minh hỏi vọng ra:
- Ai đấy?
Duyên hồi hộp ghé sát miệng vào cánh cửa và đáp:
- Em đây, anh Minh! Mở cửa cho em với!
Minh đang cởi trần ngồi viết bài, vội mặc áo, tiến lại tháo then cửa. Khi cánh cửa mở hẳn ra, anh sửng sốt thấy Duyên, vội kéo cô vào hẳn bên trong và đóng cửa lại. Anh ngơ ngác chưa nói được lời gì thì Duyên đã vội vàng bỏ nón và run run bảo:
- Em lại chào anh. Mai em đi rồi!
Vừa nói, Duyên vừa uể oải ngồi xuống mép giường. Minh kéo cái ghế lại gần hơn, ngồi đối diện Duyên và hỏi:
- Mai đi rồi ư? Đi đâu?
Duyên thở mạnh, giọng bùi ngùi:
- Chả cần biết là đi đâu! Chỉ cần biết là em đi rồi thì không biết có còn gặp anh được nữa hay không! Thành thử em mới đánh liều chạy lại đây!
Nói được có bấy nhiêu, Duyên thấy nghẹn ngào trong cổ, đôi mắt chớp nhanh như sắp khóc. Minh kéo cái ghế lại gần hơn chút nữa rồi xúc động nắm lấy bàn tay Duyên đang đặt trên đùi. Minh tưởng vậy là đã đi quá xa rồi, không ngờ Duyên rút bàn tay ra và bất ngờ ôm choàng lấy Minh, ghì thật chặt và ngả đầu trên vai Minh. Minh đứng dậy, kéo Duyên đứng lên theo. Anh nhè nhẹ lôi Duyên nằm xuống chiếc giường nhỏ trải manh chiếu cói đã sờn nát từng mảng khá lớn. Duyên mềm người buông xuôi. Hai người nằm nghiêng, quay mặt vào nhau. Duyên vừa cảm động vừa xấu hổ, hai mắt cứ nhắm nghiền lại. Minh thấy rõ toàn thân Duyên đang run rẩy trong tay anh. Lâu lắm, Duyên mới thủ thỉ:
- Sáng mai em đi sớm! Em cứ tiếc là mới gặp anh thì phải xa anh!
Minh mủi lòng nói:
- Thôi. Không nhắc đến việc ấy nữa!
- Vâng. Không nhắc đến nữa. Cả tuần nay em cảm động lắm. Đêm nằm, em nhớ anh không tài nào ngủ được! Anh đã cho em được những ngày hạnh phúc! Dù mai này ở đâu, làm gì, suốt đời em sẽ không quên được ngày hôm nay!
Bàn tay Minh xoa nhè nhẹ trên lưng Duyên qua lớp vải thô. Anh hỏi một câu thừa thãi:
- Hoãn lại, đừng đi vội, được không?
- Làm thế nào hoãn lại được. Lấy cớ gì mà hoãn?
Minh thọc hẳn tay vào hai lớp vải áo của Duyên. Anh thấy Duyên rùng mình nổi da gà khi tay anh đưa từ thắt lưng cô lên gần tới cổ. Rồi Minh nằm lùi xuống, úp mặt vào ngực Duyên. Duyên vẫn không có phản ứng gì và Minh cũng không tiến xa hơn nữa. Hai người cứ ôm ghì nhau một lúc, rồi Duyên buông ra và buồn bả ngồi dậy:
- Thôi, em phải về. Đi lâu quá không được!
Minh ngơ ngác hỏi:
- Ô hay! Mới lại đây có một tí mà đã đòi về!
Duyên lau nước mắt, nghiêm mặt nói:
- Em có muốn về đâu! Em muốn ở bên anh suốt đời, nhưng không được. Thôi thì đành vậy!
Minh cũng ngồi lên, thòng hai chân xuống sàn. Duyên cắn mạnh vào vai Minh và cầm nón lên:
- Thôi, em đi anh nhé!
Minh vẫn ngồi trên giường, giằng cái nón trong tay Duyên, quăng sang bên cạnh. Rồi hai tay anh nắm hai bàn tay Duyên, kéo cô xuống. Giọng anh tha thiết:
- Ở lại với anh một tí nữa! Biết bao giờ mới gặp lại!
Duyên xuôi theo, nằm úp trên người của Minh. Duyên bảo:
- Em đi vài hôm, chắc anh quên em ngay chứ gì! Đàn ông các anh có biết thương nhớ là gì đâu!
Nói dứt câu, Duyên trườn xuống, nằm nghiêng quay mặt về phía Minh. Minh quàng tay ôm lấy lưng Duyên, bàn tay từ từ đưa xuống đặt trên mông Duyên. Trước giờ chia ly, anh thấy cần phải nói với Duyên những lời nồng nàn vì biết chắc chuyện hai người sẽ không đi đến đâu. Anh bảo:
- Nếu em sợ anh là kẻ xa mặt cách lòng thì tốt nhất là em đừng đi. Cứ ở lại đây với anh
Duyên cảm động trào nước mắt:
- Được thế thì còn gì bằng! Em chỉ xin hứa với anh một điều rằng: Từ hôm nay, em xem như em đã có chồng. Nếu trời không cho em làm vợ anh, thì chả bao giờ em lấy ai nữa!
Minh biết đó là những lời chân tình xuất phát từ tâm khảm của Duyên làm anh, tuy không yêu Duyên lắm, mà vẫn thấy cảm động. Anh bảo:
- Anh hiểu lòng em rồi! Thôi thì đành phó thác cho định mệnh vậy!
Rồi hai người cùng im lặng. Một lúc sau, Duyên cương quyết vùng dậy giã từ. Minh lại níu kéo:
- Đàng nào sáng mai cũng đi rồi, ở luôn đây với anh đến tối. Về làm gì cơ chứ?
Duyên trố mắt nhìn:
- Ơ hay! Rồi ăn nói làm thế nào với người ta! Em bảo với chị Chu là em chạy ra chợ một tí rồi về ngay! Từ nãy đến giờ cũng lâu lắm rồi!
Minh chả bịết nói làm sao, đành bùi ngùi đưa Duyên xuống tận chân thang và ân cần dặn:
- Dù đi đâu, làm gì, cũng phải hết sức cẩn thận. Em cố gắng giữ gìn, mai kia thế nào mình cũng có ngày gặp lại nhau!
Duyên gật đầu, đội nón lên và đẩy cửa bước ra ngoài.
*******************
Những ngày cuối năm 1929, Tỉnh Đảng Bộ Quốc Dân Đảng Bắc Giang phải đối phó với một cơn khủng hoảng nặng nề. Khởi đầu là do xưởng chế bom tại nhà đồng chí Lương Văn Trạm ở làng Mỹ Điền bị phát nổ, chẳng những gây thiệt hại cho nhân mạng cho ba đảng viên đang cặm cụi tai chỗ, mà ngay sau đó, hàng loạt người quen vẫn thường lui tới nhà đồng chí Trạm đều bị theo dõi và sa lưới mật thám. Bắc Giang, cách Hà Nội hơn 50 cây số, là quê hương của Nguyễn Khắc Nhu, của chị em cô Bắc cô Giang, cho nên khí thế cách mạng lúc nào cũng chan hòa trong quần chúng. Đó là một trong những cái nôi chủ yếu đang vội vã chuẩn bị sản xuất vũ khí và in ấn truyền đơn cho ngày tổng khởi nghĩa gần kề.
Khi màng lưới mật thám cùng với hương lý địa phương rầm rộ bủa vây Bắc Giang thì Xừ Nhu đang ở Sơn Tây cùng với Nguyễn Thái Học. Cô Giang đang làm công tác binh vận trên Yên Bái. Còn Phó Đức Chính thì đang có mặt ở nhà Nguyễn Tiến, tức Lý Cả, bên làng Võng La, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, chờ gặp Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu để thảo kế hoạch cụ thể cho ngày trọng đại sắp tới. Phú Thọ cách Sơn Tây chỉ có con sông Đà. Làng Võng La nằm sát bờ sông, đại đa số dân chúng và ngay cả các hương chức trong làng đều là cơ sở nuôi dưỡng lực lượng chống Pháp, triệt để ủng hộ Quốc Dân Đảng. Vì vậy, Nguyễn Thái Học mới hẹn với Phó Đức Chính và Nguyễn Khắc Nhu họp mặt tại vùng an toàn này.
Hôm ấy, từ Sơn Tây, Xừ Nhu và Nguyễn Thái Học đón chuyến đò ngang qua sông. Họ đi chung một con thuyền, nhưng làm như không biết nhau để tránh chuyện bất trắc. Nguyễn Thái Học mặc quần áo nâu, đầu đội nón lá, đi chân đất, gánh hai thúng củ nâu xuống thuyền. Từ sau vụ Bazin, bị hồi đồng đề hình tuyên án khiếm diện, Nguyễn Thái Học bôn ba nay đây mai đó, liên tục cải trang, đóng đủ các vai trò từ trí thức đến lao động để qua mắt các trạm kiểm soát. Ở Bắc Ninh, có lần sau buổi họp bị lính khố xanh bao vây, ông điềm nhiên thay áo dài khăn đống, cắp cặp che ô, tự xưng là nho sinh Huyện cử xuống làm biên bản. Đám lính hòan toàn không ngờ vực. Ông lợi dụng lúc chúng không để ý, tìm đường tắt trốn ra khỏi làng. Hôm khác, ở Hải Dương, ông ngủ tại nhà một nông dân, bị mật báo, đích thân quan Huyện Kim Thành dẫn lính cơ xuống bắt. Ông thay quần áo nhà quê, đầu đội nón lá, vác cuốc ra làm việc chung với nông dân. Lính tráng hò hét sục sạo quanh nhà. Ông ung dung đi ngay trước mặt mà chúng không biết. Lần khác, ở Hải Phòng, chính ông làm người kéo xe cho đồng chí Nguyễn Văn Chấn vào thành phố. Bao nhiêu lần ông thoát hiểm trong đường tơ kẻ tóc nhờ sự bình tỉnh, gan dạ và ứng xử vô cùng nhạy bén. Có khi ông giả làm nhà sư đi khất thực. Có lúc ông làm thợ đóng cối len lỏi từ làng này sang làng khác. Bản tính tự tin lắm khi đến độ liều lĩnh, giúp ông hoạt động đắc lực cho đảng, nhưng cũng làm nhiều đồng chí khác lên ruột. Lê Hửu Cảnh thường lên tiếng trách ông:
- Vận mệnh của đãng, tính mệnh của hàng nghìn đồng chí nằm trong tay anh. Mong anh đừng khinh xuất!
Nói chung, ai cũng lo cho ông và cho đảng. Nhưng ông lại có lý luận khác. Ông thường nhắc đi nhắc lại:
- Lãnh đạo không thể cứ ngồi yên một chỗ mà chỉ tay năm ngón! Chúng ta làm cách mạng chứ chúng ta không nắm chính quyền. Nắm chính quyền thì có thể ra lệnh. Làm cách mạng thì phải đồng lao cộng khổ với quần chúng!
Ý nghĩ ấy luôn luôn dẫn giắt hành động của ông, khiến ông miệt mài lên đường, lao vào những chỗ hiểm nguy mà không đắn đo. Phải nói thêm rằng, Nguyễn Thái Học nhiều phen thoát nạn cũng vì được quần chúng hết lòng đùm bọc. Thậm chí trong trường hợp nguy kịch bủa vây tứ phía, có những người yêu nước thầm lặng còn sẳn sàng đóng vai Nguyễn Thái Học giả, hy sinh thay thế cho đảng trưởng.
Hôm nay, trên chuyến đò ngang, Nguyễn Thái Học giả làm người đi bán củ nâu vì nghề này đang rất thịnh lúc bấy giờ ở bất kỳ thôm xóm nào.
Nguyễn Khắc Nhu thì mặc áo the thâm, cắp tráp đen, giả làm thầy lang, vừa đi bắt mạch bốc thuốc, vừa xem bói cho thiên hạ. Qua sông, đặt chân lên bờ Võng La là yên lòng rồi vì làng này nằm trong vòng tay che chở của quần chúng.
Bước vào nhà Nguyễn Tiến, Xứ Nhu xăm xăm đi thẳng lên hè. Phó Đức Chính đang đứng chờ sẳn, đưa mắt nhìn ra đường, ở đó có những thanh niên chia nhau canh gác, vừa là thông tin vừa là bảo vệ cho cách yếu nhân của đảng. Xứ Nhu theo Phó Đức Chính vào nhà. Chủ nhân Nguyễn Tiến đang ngồi hút thuốc lào trên sập gụ, vội đứng dậy bước xuống đón:
- Quan bác đi đường có vất vả lắm không? Chúng em chờ sốt cả ruột!
Xứ Nhu đặt cái tráp trên bàn và cười thoải mái:
- Cảm ơn ông Cả hỏi thăm. Nhờ giời, êm xuôi cả! Anh Học cùng đi một chuyến đò với tôi. Nhưng lúc lên bờ tôi bảo anh ấy chậm lại một tí, để tôi dò đường trước. Chắc cũng sắp đến nơi!
Phó Đức Chính rót nước chè vào bát và góp tiếng:
- Cẩn thận như thế là phải! Tuần trước ở Hải Phòng, ông Tùng với ông Ngọc cùng đi công tác trên một chuyến xe hỏa. Ngồi chung một toa, nhưng người đầu này người đầu kia. Không ngờ mật thám theo dõi và nhận diện được ông Tùng. Chúng bắt trói ngay trên xe. Lúc chúng dẫn đồng chí Tùng đi ngang qua trước mặt ông Ngọc, đồng chí Tùng lờ đi làm như không quen biết. Nhờ thế mà ông Ngọc mới thoát!
Nghe nhắc đến việc đồng chí của mình bị bắt. Xứ Nhu buồn vời vợi. Cả ngày chỉ toàn là hung tin đến dồn dập. Ông toan lên tiếng thì Phó Đức Chính nhìn ông nói đùa:
- Bác Xứ đóng vai thầy bói mà chưa bói cho tôi một quẻ nào. Hay là nhân tiện đây, bác thử gieo thử một quẻ xem vận hạn tôi lành dữ thế nào!
Xứ Nhu cũng vui vẻ cười theo:
- Tôi gieo quẻ thì quẻ nào cũng thấy mình giết được giặc Tây! Ấy vậy mà thực tế thì mình chưa làm gì được nó, nó lại cứ giết hại người của mình! Thành ra tóm lại chả nên xem bói nữa!
Xứ Nhu lên ngồi xếp bằng trên sập gụ, đỡ tách nước chè từ tay Phó Đức Chính và hỏi:
- Chú sang đây lâu chưa?
Phó Đức Chính kéo cái điếu bát lại trước mặt, vừa vê thuốc lào vừa đáp:
- Thưa. Em ở đây đã hai hôm. Anh Lý Cả với em cứ lóng ngóng mãi, chỉ sợ anh với anh Học gặp chuyện bất trắc dọc đường!
Lý Cả tức Nguyễn Tiến chen vào:
- Vâng. Quả có thế. Ngày nào chúng em cũng bắt tụi nó ra đón ở bến Chài. Hôm qua, anh Chính giả vờ ngồi câu cá cả ngày ở ngoài ấy để chờ Quan Bác và anh Học.
Phó Đức Chính cười phụ họa:
- Ngồi câu cá cả ngày mà chả được con cá nào!
Xứ Nhu cảm động nhìn người đồng chí đáng tuổi em út mình:
- Đi câu kiểu Lã Vọng thì làm gì có cá!
Phó Đức Chính cười nhũn nhặn:
- Anh cứ nói thế chứ em làm sao sánh được với ông Khương Tử Nha ngày xưa! Vả lại, Lã Vọng xưa ngày rộng tháng dài, ngồi câu trên sông Vị đến 70 tuổi mới được vua đến đón về giao quyền cao chức trọng. Anh em mình làm gì có thì giờ như thế! Tình hình dầu sôi lửa bỏng, biến đổi từng ngày. Hôm nay còn gặp nhau, biết sao ngày mai thế nào!
Lý Cả cắt ngang:
- Ấy chết! Chớ có nói gở! Nó vận vào người!
Phó Đức Chính lắc đầu:
- Tôi chả tin! Gở với may cái gì, làm cách mạng thì chuyện bắt bớ là thường. Đã biết trước như thế cơ mà!
Phó Đức Chính gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng ngay từ buổi đầu mới thành hình năm 1928. Lúc đó ông đã tốt nghiệp trừơng cao đẳng công chánh, là công chức của chính phủ Đông Dương Việt Miên Lào, làm việc tại Savanakhet. Sau vụ Bazin, hàng loạt nhân sự chủ chốt của đảng bị bắt và đưa ra hội đồng đề hình. Phó Đức Chính cũng nằm trong đó, nhưng vì là công chức, lại không có bằng chứng cụ thể dính dáng đến vụ ám sát Bazin, nên ông chỉ bị hai năm tù treo và bãi chức. Từ đó, ông thừơng đi sát bên cạnh Nguyễn Thái Học cùng với Lê Hửu Cảnh. Tính tình ông hợp với Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu hơn là Lê Hửu Cảnh, bởi ông nóng nảy, chủ trương bạo động chớp nhoáng trong khi Cảnh tuy cũng gan dạ nhưng thường suy tính đường dài.
Giờ này thì Lê Hửu Cảnh không còn gần gũi bên cạnh đảng trưởng nữa. Phó Đức Chính trở thành cánh tay mặt, trực tiếp thảo kế hoạch tấn công trong ngày tổng khởi nghĩa sắp tới. Ký Con Đặng Trần Nghiệp cũng thường đi với đảng trưởng, nhưng từ mấy tháng nay anh phải gấp rút lo công việc chế bom ở Hà Nội.
Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính đang nói chuyện về tình hình mấy kho thuốc nổ bên Bắc Giang thì có người đàn ông gánh hai thúng củ nâu từ ngòai cổng xồng xộc tiến vào. Chủ nhà không nhận ra Nguyễn Thái Học, nhưng Xứ Nhu vui vẻ bảo Phó Đức Chính:
- Thôi! Anh Học đến kia kìa. Chờ anh ấy vào ta bàn luôn thể!
Nguyễn Tiến và Phó Đức Chính cùng ra hẳn ngoài hiên đứng đón, Nguyễn Thái Học đặt quang gánh trên thềm, tháo cái nón lá quạt mồ hôi phành phạch. Ông vốn là người tầm thước, đầy đặn. Thế mà mấy tháng nay lưu lạc trốn tránh, ăn ngủ bất thường làm mặt ông hốc hác thấy rõ. Hàm răng bẩm sinh đã bị hô, giờ đây càng đưa ra nhiều hơn vì má hóp sâu xuống. Chủ nhà mời ly trà nóng, nhưng đảng trưởng xua tay bảo:
- Uống cái này thì chả bõ khát! Để tôi ra hè làm gáo nước mưa!
Dứt lời, ông xăm xăm bước lại đầu nhà, lấy gáo dừa múc nước trong vại, ngửa cổ tu ừng ực. Ở thôn quê thì nhà nào cũng có những cái chum chứa nước mưa, nhất là những nhà lợp ngói, đặt máng xối cho chảy xuống để lấy nước nấu quanh năm. (Cha Ngạn này, nhà ngói, nhà lá gì mà không hứng nước mưa. Có khi nước mưa nhà lá còn ngon hơn nhà ngói nữa. Vì sao, nhà lá có mùi vị quê hương hơn!!). Đã khát rồi, Nguyễn Thái Học quay lên nhà, bắt đầu cuộc họp kín với Xứ Nhu và Phó Đức Chính. Lý Cả chờ Nguyễn Thái Học hút xong điếu thuốc rồi ân cần bảo:
- Quan bác đi tắm một cái cho mát nhé! Để em bảo nó lấy bộ quần áo của em, quan bác mặc tạm! Mồ hôi mồ kê nhễ nhại thế kia thì khó chịu lắm!
Nguyễn Tiến vẫn có cái lối nói chuyện thân tình như vậy với người trong đảng, mặc dầu lúc ngồi ghế lý trưởng, ông cũng ra oai trước mặt quần chúng y như bao nhiêu viên chức khác. Với những người lớn tuổi hơn như Xứ Nhu, hoặc ngay cả những người ít tuổi hơn nhưng được trọng vọng như Nguyễn Thái Học, ông đều gọi là quan bác, hai tiếng mà ông học được từ khi bắt đầu đi coi hát ả đào.
Nguyễn Thái Học cười xòa:
- Anh Cả cứ vẽ làm gì! Mặc thế này, ngộ nhỡ có phải chạy cũng tiện!
Thực sự thì nhiều hôm Nguyễn Thái Học mặc đến hai ba lớp áo màu khác nhau. Nếu nghi ngờ bị mật thám theo dõi, ông sẽ chạy vào một chỗ vắng, cởi lớp áo ngoài, để chúng khỏi nhận diện. Có khi ông gắn râu, đội nón, đeo kính râm hoặc kính cận. Nói chúng là thiên biến vạn hóa, mới có thể bôn ba hoạt động cách mạng khắp Bắc Kỳ. Ông chủ trương gần gũi đảng viên, cho nên hầu như chi bộ nào ông cũng có ghé thăm, ăn chung, ngủ chung với anh em để động viên tinh thần.
Ngồi trên sập gụ, Nguyễn Thái Học xoay người ngó ra cửa sổ, quan sát mảnh vườn rau. Những gốc mít cổ thụ, những cây bưởi um tùm, tỏa bóng mát quanh năm cho căn nhà xây lợp ngói. Cơ ngơi khá đồ sộ này là do công lao gây dựng của Nguyễn Tiến một phần và một phần nhờ thừa hưởng bổng lộc của cụ thân sinh vốn là một bá hộ giàu có nhất nhì làng Võng La.
Nguyễn Thái Học quay sang bảo Xứ Nhu và Phó Đức Chính:
- Mình bắt đầu đi thôi!
Nguyễn Tiến hiểu ý, gật đầu bảo mọi người:
- Thôi thế các bác cứ ở yên trong này. Để em ra cổng xem chúng nó canh gát như thế nào. Có động tĩnh gì thì các bác cứ phóng ra ngõ sau, có đến mấy lối nhỏ dẫn ra cánh đồng làng. Những anh em đang cuốc đất làm cỏ phía sau nhà, đều là người của mình cả!
Dứt lời, Tiến bước nhanh ra sân.
Trên sập gụ, ba người ngồi xếp bằng chụm đầu vào nhau, mặt ai cũng đăm chiêu nghiêm trọng. Phó Đức Chính cầm cái xe điếu, vạch những đường tưởng tượng trên mặt divan như người vẽ bản đồ chỉ đường. Ông trình bày kế hoạch tổng khởi nghĩa mà ông đã suy tính kỹ lưỡng từ mấy hôm nay, chỉ chờ gặp Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu để xin ý kiến. Chính đang hăng say thuyết giảng thì Lý Cả từ ngoài sân chạy vào hân hoan báo tin:
- Đồng chí tham mưu trưởng binh vụ đến!
Trái với nét vui mừng của chủ nhà, Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu cùng giật mình đưa mắt nhìn nhau. Rồi ngay sau đó, lập tức cả ba đều ngó ra sân.
Tham mưu trưởng binh vụ mà Lý Cả vừa nhắc đến là đồng chí Phạm Thành Dương, hạ sĩ quan không quân của Pháp mà người ta thường gọi là Đội Dương, hiện là trưởng ban Binh Vụ của Quốc Dân Đảng, thay thế đồng chí Trần Văn Môn đã bị mật thám bắt. Dương gia nhập Quốc Dân Đảng từ năm 1928, do Vũ Đình Phú, một đảng viên ở Hải Dương giới thiệu. Lúc ấy Dương đang theo học lớp hạ sĩ quan tại đồn Thông, Sơn Tây. Vì chủ trương cách mạng bạo động, nên Nguyễn Thái Học thấy sự đóng góp của nhà binh là tối quan trọng. Bởi vậy, ông đích thân đến gặp Phạm Thành Dương để vận động và mời tham gia Quốc Dân Đảng. Dương cảm động nhận lời đảng trưởng. Tổng Bộ giao trọng trách lớn cho Dương bởi cấp bậc “Đội tàu bay” của Dương được chỉ huy một số binh sĩ thuộc hạ. Quả nhiên Phạm Thành Dương không làm Tổng Bộ thất vọng. Ông tuyên truyền và kết nạp được một số khá đông binh lính khi ông về phục vụ tại phi trường Bạch Mai, Hà Nội. Ngoài nhiệt tình cách mạng, Dương còn được anh em nễ nang vì trình độ học vấn khá cao. Dương từng học trường Bưởi, trường y khoa trước khi đăng tên đi lính không quân. Tất nhiên theo qui chế thời ấy thì người Việt chỉ được theo học lớp hạ sĩ quan mà thôi. Vì thế, cấp bậc của Dương được kể là cao lắm rồi!
Nhưng có một điều mà Nguyễn Thái Học và Tổng Bộ không ngờ là lòng dạ của Dương đã thay đổi từ cuối năm 1929. Cả Vũ Đình Phú, cái người giới thiệu Dương cho Nguyễn Thái Học cũng đã phản bội đảng, làm tay sai cho Pháp!
Khởi đầu, động cơ thúc đẩy Dương từ bỏ Quốc Dân đảng xuất phát từ áp lực của thân phụ Dương, tức thầy giáo Phạm Huy Du dạy trường tiểu học Hàm Long. Khi biết tin con là đảng viên Quốc Dân Đảng, Du rùng mình sợ hãi, sợ cho con và sợ cho mình. Vội chạy đi báo ngay cho xếp của mình là Léonet, giám đốc nha tiểu học Pháp Việt, để nhờ ông này đưa tin cho mật thám biết. Mặt khác, giáo Du gọi Dương về, nghiêm khắc mắng:
- Mày mở mắt ra mà xem, từ đầu năm cho đến bây giờ, bao nhiêu đứa theo hội kín Quốc Dân đảng đều vào tù tuốt! Mày có chịu nổi đòn sang-ta hay không? Rồi còn liên lụy đến cả tao, đến cả anh em vợ con mày nữa! Tao là công chức nhà nước bảo hộ, mày mặc áo nhà binh, chả gì cũng đến chức đội! Ăn cây nào rào cây nấy! Sao lại giở trò làm giặc là thế nào? Liệu hồn thì bỏ ngay, tao giắt ra đầu thú để tránh hậu họa cho cả nhà!
Dương lúc đầu còn phân vân vì có lời thề với đảng. Nhưng giáo Du cứ thúc giục mãi làm Dương cũng nhụt chí. Giữa lúc đang giằng co thì một hôm, do lời đề nghị của chánh sở mật thám Amoux, phủ toàn quyền gửi giấy mời cha con Phạm Thành Dương lên trình diện. Dương hãi lắm, nhưng không ngờ đích thân toàn quyền Pasquier long trọng trao tấm huy chương cao quý của chánh quyền bảo hộ cho Phạm Huy Du, kèm với một hàm tước khá lớn, vốn chỉ dành cho những công bộc hết lòng phục vụ nhà nước bảo hộ Đại Pháp. Pasquier lại gia ân cho Phạm Thành Dương 1000 ngoại phí mỗi tháng. Bổng lộc trọng hậu ấy làm cho Phạm Thành Dương không thể quay lại với Quốc Dân đảng được nữa. Hai cha con hoan hỉ đón nhận, gập mình bái tạ và hứa sẽ xứng đáng đền đáp lại công ơn mưa móc của Phủ Toàn Quyền. Pasquier bảo Dương:
- Bỏ đảng giặc là đáng khen. Nhưng hợp tác với chính quyền bảo hộ để bắt cho bằng được Nguyễn Thái Học thì công lao của hai cha con mới thật sự là to lớn!
Từ đó, hai cha con Phạm Thành Dương nhận lời làm tai mắt chỉ điểm cho sở liêm phóng, giống như Vũ Đình Phú, người đã tiến cử Dương với Nguyễn Thái Học, cũng đã làm tay sai cho mật thám Pháp từ cả năm nay. Thế là Dương đã đổi lời thề trung thành với đảng thành lời thề trung thành với giặc!
Ngày 7 tháng 12 năm 1929, Vũ Đình Phú do được tin Nguyễn Thái Học sẽ về họp tại Võng La liền chạy đi báo tin cho mật thám và đề nghị việc này chỉ có thể giao cho Phạm Thành Dương, vì lúc này Dương chưa lộ mặt phản bội. Sở mật thám khen là diệu kế, cơ hội bằng vàng để bắt Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu. Bàn bạc xong, Phú phóng về tìm Dương và bảo:
- Đây là cơ hội ngàn năm một thuở để anh lập công với ngài Tòan Quyền. Tôi đã báo cáo cho sở mật thám biết. Sở sẽ cử thanh tra Riner dẫn quân đến Võng La bao vây làng Võng La. Anh có nhiệm vụ phải đến nhà trước, cầm chân Nguyễn Thái Học ở nhà Lý Cả. Chờ Riner đưa lính ập vào bắt! Giờ này, bọn Quốc Dân Đảng chưa đứa nào biết anh đã bỏ chúng nó. Chưa đứa nào nghi ngờ gì cả, anh gặp chúng nó rất dễ. Nhưng tôi dặn anh cái này: Võng La cả làng đều theo giặc, ba phía có người canh gác. Chỉ có phía bờ sông là bỏ ngõ. Anh là lính mật thám cứ theo ngõ ấy mà vào nhà Lý Cả. Thể nào phen này cũng xong việc lớn! Anh mà bắt được Nguyễn Thái Học thì bổng lộc cha con anh không biết thế nào mà kể!
Phạm Thành Dương mừng lắm, gọi thêm một gã mật thám người Việt cho mặc đồ nhà binh đi kèm để lên tinh thần. Dương đi trước, Riner dẫn lính theo sau, tất cả đều đổ ra bờ sông tiến vào làng Võng La, huyện Thanh Thủy.
Vào nhà Lý Cả, Dương cố giữ vẻ điềm tỉnh. Các toán canh gác đều không chặn hỏi vì ai cũng tưởng Dương vẫn còn là nhân vật chủ yếu của đảng.
Trong nhà, Phó Đức Chính hỏi Nguyễn Thái Học:
- Anh gọi ông Dương đến đây ư?
Đảng trưởng vừa trả lời vừa đưa mắt nhìn Xứ Nhu dò hỏi:
- Không! Gọi đồng chí ấy đến làm gì?
Xứ Nhu cũng lắc đầu:
- Từ lâu rồi, tôi cũng chả liên lạc với đồng chí ấy!
Phó Đức Chính ngơ ngác hỏi:
- Anh em mình hẹn nhau ở đây, không có ai biết, tại sao đội Dương lại biết mình ở đây nhỉ?
Xứ Nhu hạ giọng chen vào:
- Mà đội Dương lại đem theo cả người lạ nữa! Như thế thì phải đề phòng!
Xứ Nhu dứt câu thì đội Dương cũng vừa tới thềm, dựng xe đạp, bước vào cửa, gật đầu kính cẩn chào và giới thiệu người quân nhân lạ mặt:
- Thưa các anh. Đây là một đồng chí trong lực lượng cách mạng, tôi mới kết nạp. Từ nay anh sẽ là người bảo vệ, đi bên cạnh tôi.
Phải nói rằng, trong số những kẻ bỏ đảng làm tay sai cho giặc thì Phạm Thành Dương là đứa táo bạo nhất. Những kẻ khác thì chỉ dám giấu mặt chỉ điểm, cung cấp tin tức cho mật thám. Còn đội Dương thì ngang nhiên dẫn mật thám đến bắt đồng chí cũ của mình như trường hợp hôm nay. Sở dĩ Dương làm thế là vì món tiền ngoại bổng ngàn đồng hàng tháng và nhất là vì món tiền thưởng mà Amoux hứa sẽ ban cho Dương nếu mật thám bắt được các lãnh tụ Quốc Dân đảng. Dương vốn mê cờ bạc, nợ nần thường xuyên chồng chất. Dạo ấy, Dương đang học trường thuốc, túng tiền bỏ sang Vientien làm thư ký cho tòa Khâm Sứ bên Lào. Vì tung tay quá trớn, Dương lại trốn nợ, bỏ về Hà Nội và đang lính không quân, thường gọi là lính tàu bay ở Bạch Mai. Nhờ học lực khá, Dương được cất nhắc cho đi học lớp hạ sĩ quan ở Sơn Tây. Thời ấy, qui chế sĩ quan chỉ dành cho người Pháp. Quân nhân Việt Nam lên đến chức Đội, tương đương với trung sĩ sau này, là cao cấp nhất rồi!
Hôm nay Phạm Thành Dương đến gặp Nguyễn Thái Học ở Võng La – giống như môn đồ Juda hai ngàn năm trước, ước hẹn với người Do Thái gặp Chúa Giêsu sau bửa tiệc ly, để Juda ra ám hiệu cho người Do Thái bắt Chúa – Dương cố ăn nói tự nhiên, nhưng không giấu được nét lúng túng nhất là ánh mắt chứa đầy lo lắng. Gã thanh niên mặc quân phục cũng lấm lét nhìn quanh xem có người phục sẳn trong hai căn buồng bên không.
Xừ Nhu kéo Phó Đức Chính đứng dậy, sang ngồi cùng băng với Nguyễn Thái Học để nhường cho Dương và đàn em ngồi đối diện. Nguyễn Thái Học điềm tỉnh hỏi:
- Tình hình các chi bộ quân nhân trong phạm vi lãnh đạo của đồng chí dạo này ra sao? Có biểu hiện xuống tinh thần hay giao động tí nào không?
Dương mạnh dạn đáp:
- Thưa anh tốt cả! Tinh thần cách mạng cao lắm. Chỉ chờ lệnh của Tổng Bộ là nhất loạt đứng lên! Xưởng chế bom ở ấp Thái Hà cũng đã sản xuất được 700 quả, hiện đang chôn ở Gò Điện Khí. Khi Tổng Bộ ban lệnh chiếm phi trường Bạch Mai, lực lượng cách mạng sẽ có sẳn bom mà dùng!
Phó Đức Chính chen vào:
- Đồng chí cần thường xuyên đi sát anh em, nuôi dưỡng ý chí quật khởi của anh em. Nhà binh thì lúc nào cũng nóng nảy, nhưng có khi lại chóng nguội. Đồng chí dặn anh em phải cẩn thận kẻo sơ hở là chết cả nút đấy!
Dương nhũn nhặn đáp:
- Vâng. Trách nhiệm của tôi thì lúc nào cũng phải lo! Tổng Bộ đã quyết định ngày tổng khởi nghĩa chưa? Phía binh vụ chúng tôi cần biết trước để định liệu cho chắc ăn!
Câu hỏi của Dương càng làm cho Nguyễn Thái Học nghi ngờ. Ông đáp:
- Tình hình này chắc phải hủy bỏ kế hoạch tổng khởi nghĩa, rút vào bí mật! Có gì thì Tổng Bộ sẽ thông báo ngay cho đồng chí!
Xứ Nhu ngồi giữa, tay bưng tách trà, nhưng mắt cứ đăm đăm theo dõi hai người đối diện. Mười phần, ông đã tin chắc chắn mười phần, hai kẻ ngồi trước mặt ông không còn là đồng chí mà kẻ thù, kẻ thù cực kỳ nguy hiểm bởi đã nắm biết được khá nhiều bí mật của Tổng Bộ. Bên tai Xứ Nhu, tiếng nói chuyện vẫn vang lên, nhưng ông không nghe thấy gì cả. Ông đang lo âu, tìm cách ứng xử, bởi ông biết rõ Dương và gã đàn em đều có súng ngắn giấu trong áo. Còn phía ông, cả ba người đều tay không, chống sao nổi súng đạn nếu chẳng may Phạm Thành Dương ra tay.
Phạm Thành Dương vừa đàm đạo với đảng trưởng, vừa nóng lòng nhìn ra sân. Gã thanh niên bên cạnh cũng sốt ruột nhìn đồng hồ hai ba lần. Cử chí ấy cùng với sắc diện xanh xám của Dương cho Xứ Nhu biết chắc Dương đã hẹn với mật thám, kéo lực lượng đến vây nhà. Ông liền đưa bàn tay bấm vào đùi Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính rồi hỏi thẳng Phạm Thành Dương:
- Ai báo cho đồng chí biết Tổng Bộ hôm nay họp ở đây?
Dương đã chuẩn bị sẳn từ dọc đường nên nói ngay:
- Thưa cả tuần nay tôi vẫn có ý định báo cáo tình hình binh vụ lên Tỉnh Bộ, nhưng không liên lạc được. May quá, hôm kia tôi gặp Ký Con ở Hà Nội. Tôi hỏi thăm. Đồng chí ấy bảo tôi lên đây!
Nguyễn Thái Học trừng mắt nhìn thẳng vào đôi mắt Đội Dương, khiến gã sợ hãi cúi xuống. Ông nghiêm khắc bảo Dương:
- Đồng chí Nghiệp cũng không biết chúng tôi ở đây!
Biết đã bị bại lộ, Đội Dương tái mặt, run rẩy thò tay vào trong áo. Gã thanh niên bên cạnh cũng đứng bật dậy. Xứ Nhu cấp tốc phản ứng. Ông co chân đạp mạnh cái bàn về phía kẻ thù làm cả hai ngã ngửa ra nền nhà. Ông quay sang bảo Nguyễn Thái Học:
- Chạy đi! Thằng này phản đảng rồi!
Ba người xô ghế bỏ chạy. Xứ Nhu phóng ra cửa chính, Nguyễn Thái Học lao vào buồng rồi nhảy qua cửa sổ. Phó Đức Chính vì vướng cái băng ghế, chưa kịp tẩu thoát thì bị đội Dương bắn một phát vào ngực. Ông ngã lăn ra, nằm im không nhúc nhích. Đội Dương tưởng ông chết rồi nên bỏ ông nằm đó để đuổi theo Xứ Nhu. Còn gã đàn em thì rượt theo Nguyễn Thái Học, bắn mấy phát sau lưng ông, nhưng đều trúng vào thân cây mít sau nhà.
Ngoài cổng, Lý Cả và anh em canh gát nghe súng nổ vội kéo vào tiếp cứu. Họ đỡ Phó Đức Chính dậy, dìu ông đi nhanh ra hông nhà, băng bó tạm thời rồi giấu kín trong đống rơm, vì biết chắc lực lượng mật thám tiếp viện sắp kéo đến. Chính cố nhịn đau, bảo mọi người:
- Thằng đội tàu bay Phạm Thành Dương phản đảng! Thế nào mật thám cũng đến đây. Các anh em chia nhau đi bảo vệ anh Học và Xứ Nhu, đưa hai anh ấy ra khỏi làng càng nhanh càng tốt. Đi đi! Nhanh lên! Mặc kệ tôi!
Họ vâng lệnh, khiêng Chính đặt vào chỗ kín đáo nhất, giữa hai đống rơm khổng lồ, phủ đầy rơm che kín toàn thân Chính rồi phân tán đi tìm Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu. Nhưng họ không tìm thấy ai, bởi Xứ Nhu len lỏi băng ngang vườn nhà người ta và lần ra được bến sông. Ở đó có những con thuyền của đồng bào yêu nước đang chờ sẳn để đưa ông đi.
Trong khi Xứ Nhu chạy ra hướng bờ sông thì Nguyễn Thái Học được hai thanh niên dẫn về phía cánh đồng làng. Họ chia tay Nguyễn Thái Học dưới khóm tre già và dặn:
- Anh cứ men theo con đường này, chỉ một quãng nữa là sang làng khác!
Nguyễn Thái Học nói cám ơn rồi lầm lũi bước đi trên con lộ đất chạy ngoằn ngoèo sát lũy tre bao bọc Võng La. Sau lưng đã nghe văng vẳng những tiếng hò hét, tiếng bước chân chạy dồn dập và dăm ba tiếng súng thị oai của lực lượng mật thám từ trong làng vọng ra. Một ông già đang dập đất, thấy Nguyễn Thái Học đi ngang, vội vác vồ chạy vào và lôi Nguyễn Thái Học vô hẳn dưới bóng mát của bụi tre rậm rạp. Ông không biết Nguyễn Thái Học là ai, nhưng đoán là người đang bị săn đuổi bởi kinh nghiệm bắt bớ đã từng xảy ra nhiều lần trong mấy năm gần đây. Ông bảo:
- Cậu cởi quần áo ra. Lấy quần áo của tôi mà mặc! Nhanh lên! Chúng nó sắp đuổi đến bây giờ!
Miệng nói, tay thoăn thoắt cởi nút áo rồi tụt luôn cái quần đen bạc, đưa cho Nguyễn Thái Học. Rồi ông để mình trần, vận quần đùi rách, ngồi ngay trên bờ cỏ, lấy ấm tích trà và điếu cày ra, thản nhiên như đang nghỉ giải lao. Nguyễn Thái Học mặc bộ quần áo của ông lão xong, quay lại nhìn ông cụ gật đầu nói:
- Cám ơn cụ có lòng!
- Cậu làm việc nước, đánh đuổi giặc Tây, tôi phải cảm ơn cậu mới đúng. Tôi già cả, vô dụng mất rồi! Tôi chỉ biết cầu Trời khấn Phật che chở cho những người như cậu!
Nguyễn Thái Học nhìn ông cụ, gật đầu như nói cảm ơn lần nữa rồi đội nón lên, vác vồ ra dập đất thay cho ông lão. Vừa đập, ông vừa lui dần về phía bờ ruộng xa xa và rút hẳn khỏi địa phận làng Võng La. Ông ghé nhà một đồng chí, cải trang làm lái buôn trâu để xuôi dần xuống phía Nam sang Hải Phòng.
Khi Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu đã đi khỏi Võng La rồi, lực lượng mật thám của Riner mới từ mé sông đổ bộ lên, tiến vào nhà Nguyễn Tiến. Phạm Thành Dương chạy ra báo cáo tình hình, Riner dậm chân mắng:
- Thế là lại hỏng việc rồi! Chúng bay có súng trong tay mà ba đứa chúng nó ngồi ngay trước mặt, tại sao không bắn được đứa nào!
Dương bực mình đáp:
- Nhưng tôi đã hẹn với xếp là tôi chỉ cầm chân chúng nó độ mười lăm phút, rồi xếp phải xông vào bắt. Tại sao xếp đến trễ như thế?
Riner quay lại nhìn gã đàn em người Việt đứng bên cạnh và phân trần:
- Tại cái thằng phải gió này này. Nó dẫn đường mà chính nó đi lạc! Từ bờ sông đến đây chỉ có một đoạn đường thật ngắn, mà nó cứ đưa tao đi lanh quanh mãi! Không khéo mày thông đồng với giặc cũng chưa biết chừng!
Gã đàn em tái mặt. Nhưng chưa kịp lên tiếng cải chính thì Riner đã ra lệnh triệu tập tất cả dân làng cả ngày hôm ấy. Hương lý, tuần phiên chạy đôn chạy đáo hò hét khắp hang cùng ngõ hẽm, ra cả cánh đồng lôi cổ những nông dân ngoài ấy về tập họp tại sân nhà Lý Cả. Giữa những tiếng khóc tiếng than của vợ con Nguyễn Tiến và họ hàng, một thằng mật thám lấy bá súng trường, đập liên tiếp vào mặt, vào bụng Nguyễn Tiến và nghiến răng bảo:
- Thằng Học với thằng Nhu đâu? Không bắt được hai đứa chúng nó thì mày ốm đòn!
Dĩ nhiên chúng không bắt được Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Riner uất ức chỉ thị đàn em trói nguyên gia đình ông bá hộ, thân phụ cùng với anh em của Lý Cả, Lý Hai, giải hết về nhà giam Phú Thọ để khai thác! Riêng Phó Đức Chính được các đồng chí địa phương cứu chữa tận tình rồi đưa ông ra khỏi làng. Viên đạn vẫn nằm yên trong lồng ngực cho đến ngày ông ngửa mặt nhìn lưỡi dao máy chém chặt đầu ông trên Yên Bái sau cuộc khởi nghĩa thất bại!
Trên đường sang làng Mỹ Xá, Phủ Nam Sách, Tỉnh Hải Dương, Nguyễn Thái Học vô cùng uất ức. Ông không ngờ Phạm Thành Dương lại phản bội trắng trợn đến như vậy. Chính ông đã kết nạp nó, đề nghị Tổng Bộ giao chức vụ lớn cho nó, hóa ra ông dùng lầm người! Rồi đây, chỉ nay mai, tai họa sẽ ập đến giây chuyền bởi Dương biết quá nhiều bí mật của đảng. Vì vậy, vừa đến một đồng chí ở Mỹ Xá, Nguyễn Thái Học lập tức cho người liên lạc về Hà Nội, báo cho các tổ đảng, các xưởng chế bom, các cơ sở in truyền đơn và đảng kỳ, phải ngưng hoạt động và di chuyển ngay, bởi tất cả những điểm ấy, Phạm Thành Dương đã biết hết. Cẩn thận như thế mà vẫn không kịp. Cuối tháng 12, Dương đưa mật thám đến xưởng chế bom ở căn nhà số 7b, ngõ Vĩnh Hồ, phố Đại La. Tuy không bắt được ai, nhưng chúng tịch thu toàn bộ vũ khí của đảng. Rồi Dương lại dẫn chúng đến Gò Điện Khí ấp Thái Hà, đào được 700 quả bom chôn sẳn ở đó để tấn công phi trường Bạch Mai. Tệ hơn nữa là chính những chi bộ binh đoàn mà Dương đã gầy dựng trong đơn vị, giờ này Dương bán đứng hết cho Pháp. Người thì bị bắt, kẻ bị lột lon và đày đi xa. Dương lại chỉ điểm cho Tây đến vây bặt Ủy ban Quân Chính tỉnh Hải Phòng, giữa lúc đảng bộ đang họp, không ai chạy thoát. Rồi để lập công lĩnh tiền thưởng, Dương đi xa hơn nữa, cho mật thám biết một tin cực kỳ quan trọng: Quốc Dân Đảng sắp sửa Tổng Khởi Nghĩa, lật đổ chính quyền bảo hộ!
Trước sự phá hoại thảm khốc của Phạm Thành Dương, Tổng Bộ phải cấp tốc lập tòa án cách mạng do Xứ Nhu ngồi ghế chánh thẩm. Ông tuyên án tử hình hai cha con: Phạm Huy Du và Phạm Thành Dương, giao cho Ký Con thi hành. Ký Con Đặng Trần Nghiệp lúc ấy đang quán bận lo việc chế bom tại Hà Nội. Tổng Bộ dự trù khi tổng khởi nghĩa tại các tỉnh thì Ký Con sẽ tung ra các toán đặc nhiệm ném bom gây rối tại Hà Nội để làm nghi binh, cho nên trọng trách của Ký Con lúc này quá nặng nề. Nhận chỉ thị của Xứ Nhu, Ký Con liền giao việc xử tử Phạm Huy Du cho Nguyễn Văn Nho, em ruột của Nguyễn Thái Học, năm ấy mới 17 tuổi. Còn Phạm Thành Dương thì được ủy cho Nguyễn Xuân Huân vốn là tay xạ thủ có kinh nghiệm. Huân nhận lời ngay bởi Huân thuộc nhóm ôn hòa của Lê Hữu Cảnh, đang sợ bị Tổng Bộ nghi ngờ. Huân và Nho gặp nhau bàn kế hoạch rồi hăng hái lên đường vào ngày giáp Tết.
Tháng 12 năm 1929 và tháng giêng năm 1930 có thể coi là thời kỳ đen tối nhất của cách mạng. Nhờ sự chỉ điểm của Phạm Thành Dương, nhất là bản tin tổng khởi nghĩa, mật thám tung toàn lực lượng khám xét và bắt bớ khắp các tỉnh miền Bắc. Những mất mát lớn lao liên tục ấy, làm tổng bộ càng quyết tâm phải tổng khởi nghĩa, bởi chẳng còn lựa chọn nào khác. Ngày 26 tháng 1 năm 1930, Nguyễn Thái Học lại từ Bắc Ninh quay về làng Võng La, Phú Thọ, họp hội nghị khẩn cấp do tình thế đòi hỏi. Mật thám Pháp sau hơn một tháng càn quét Võng La, bắt đi hàng loạt nhân sự cũng như cảm tình viên của đảng, tin chắc tinh thần cách mạng nơi đây đã bị xóa tan, nên lơ là không ngó đến nữa. Nắm được tâm lý ấy của địch, Tổng Bộ mới quyết định quay về đây. Chỉ có 20 đại biểu, nhưng tất cả đều đồng thanh quyết chiến, Nguyễn Thái Học rưng rưng phát biểu:
- Cuộc đời là cả một canh bạc. Gặp canh bạc đen, người ta có thể thua sạch vốn! Gặp thời thế không chiều mình, đảng chúng ta có thể tiêu hao hết lực lượng. Bao nhiêu anh em đang chết lạnh lùng mòn mỏi trong các nhà giam. Chúng ta thà quyết một trận tử chiến. Nếu có chết đi thì cũng để lại cái gương phấn đấu hy sinh cho người sau nối bước!
Một đại biểu hăng hái nói lớn:
- Chúng ta đã ở vào cái thế cưỡi cọp, không thể lùi lại được nữa! Nhưng chúng ta không thua! Đề nghị đảng trưởng ban lệnh tổng khởi nghĩa!
Tất cả đều nhất trí, Nguyễn Thái Học yêu cầu biểu quyết. Mọi cánh tay đều giơ phắt lên không một chút dè dặt.
Thế là hội nghị phân công cụ thể, bố trí lực lượng tấn công các đồn binh Pháp cùng cách nhân vật chỉ huy mỗi vùng. Về ngày giờ tổng khởi nghĩa thì tổng bộ sẽ thông báo sau.
Sau hội nghị, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính lại phân tán đi các nơi và hẹn gặp lại ở làng Mỹ Xá, tĩnh Hải Dương để định ngày cử sự.
Những ngày kề cận tổng khởi nghĩa, Nguyễn Thái Học tạm ẩn cư ở một ngôi chùa trên núi Yên Tử, Bắc Giang. Tại đây từ thế kỷ thứ 13, vua Trần Nhân Tông đã bỏ triều đình đi tu và lập ra phái Thiền Tôn còn gọi là Trúc Lâm. Cảnh chùa hết sức trang nghiêm hùng vĩ và thanh khiết. Nhưng Nguyễn Thái Học chẳng còn bụng dạ nào mà ngắm cảnh. Hơn hai năm bôn ba vất vả, lần đầu tiên Nguyễn Thái Học cảm thấy hết sức chán chường về hành vi của những kẻ bội phản. Phạm Thành Dương là vết thương nhức nhối, đau đớn nhất, chẳng những đưa bao nhiêu đồng chí vào tù mà còn làm hỏng hết kế hoạch tấn công nội thành của đảng. Từ sụ uất hận Phạm Thành Dương,ông đâm ra nghi ngờ lây cho những kẻ đã từng đi lính cho Tây, trong đó có Lê Hửu Cảnh, một cánh tay đắc lực trước đây của Tổng Bộ. Vì thế, ông bàn với Xứ Nhu rồi cho gọi riêng Ký Con rồi chỉ thị cho Ký Con thủ tiêu Lê Hửu Cảnh cùng Nguyễn Đôn Lâm cho chắc ăn! Xứ Nhu đồng ý nơi đảng trưởng về quyết định này vì Xứ Nhu cũng sợ Cảnh trở mặt như Phạm Thành Dương. Ông nghĩ: Cảnh đã một thời đi lính một, sang tận Pháp, thì biết đâu gần đây chẳng bị Pháp mua chuộc giống như Phạm Thành Dương. Cái ấn tượng xấu về Cảnh vốn đã in sâu trong đầu Xứ Nhu ngay từ hội nghị Đưc Hiệp, khi Cảnh bọ coi là đứng đầu phe ôn hòa, gồm người mà Tổng Bộ thường gọi là “nhóm cải tổ”. Khuynh hướng này thật ra lúc đầu chiếm đa số. Đó là cánh nhà văn, nhà báo, chủ trương tính chuyện đường dài, nâng cao dân trí quần chúng trước khi bước sang giai đoạn tổng nổi dậy lật đổ thực dân Pháp. Nhưng phe này bị bắt gần hết sau vụ ám sát Bazin nên nhóm Lê Hửu Cảnh trở thành thất thế vì thiểu số, chỉ còn Lê Hửu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, Nguyễn Đôn Lâm, Lê Tiến Sự và Nguyễn Tiến Lữ. Nguyễn Thế Nghiệp cũng có thể xếp chung vào khuynh hướng, nhưng Nghiệp hiện đã sang Vân Nam và đã thành lập được một đạo quân hải ngoại, sẳn sàng tăng viện cho quốc nội khi hửu sự.
Mặc dầu có lệnh của Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, nhưng Ký Con không nở xuống tay hạ thủ Lê Hửu Cảnh. Một phần vì Ký Con hiểu tấm lòng của Cảnh. Lại thêm cô Giang lúc nào cũng tin tưởng lập trường của Cảnh và hễ cón dịp, đều ca ngợi Cảnh trước mặt Ký Con, cho nên Ký Con mới lờ đi, không quan tâm đến Cảnh nữa. Chỉ có Nguyễn Đôn Lâm thì bị Cai Hồng bắn một phát vào bả vai để cảnh cáo!
Trên núi Yên Tử, một buổi chiều se lạnh tàn đông, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính bàn đi tính lại rồi quyết định đêm mùng 10 tháng 2 năm 1930 tức 12 tháng giêng năm Canh Ngọ là giờ lịch sử của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Hôm ấy có cả Ký Con Đặng Trần Nghiệp cũng được đảng trưởng gọi lên giao công tác. Bốn người ngồi sau thảm cỏ phía sau chùa, dưới bóng mát của một tàn cây cổ thụ, giữa triền dốc thoai thoải trông xuống thung lủng. Trong chùa, tiếng tụng kinh gõ mõ vẫn vang ra đều đặn. Hai nhà sư trẻ lảng vản canh gát phía cổng chính, cầm chổi quét sân và giả vờ chăm sóc những luống hoa. Nguyễn Thái Học nắm tay Xứ Nhu và Phó Đức Chính rưng rưng bảo:
- Đã đến giờ chúng ta phải chia tay để làm việc lớn, đem cái chết đền nợ nước! Chốc nữa họp xong, nhờ anh Nhu lên ngay Phú Thọ, Yên Bái, thông báo cho các đơn vị trên ấy. Anh Chính thì sang Đoài rồi báo ngay cho các đồng chí ở vùng Hải Dương, Kiến An, truyền miệng lệnh tổng khởi nghĩa của Tổng Bộ. Nhớ là đêm mùng 10 rạng 11 tháng này!
Phó Đức Chính đăm chiêu hỏi:
- Còn Hà Nội thì sao? Anh về Hà Nội hay ở lại đây?
Nguyễn Thái Học đáp:
- Như đã phân công, tôi phụ trách Bắc Ninh, Đáp Cầu, Phả Lại!
Phó Đức Chính nhắc lại:
- Thế còn Hà Nội? Không làm gì ở Hà Nội thì không gây được tiếng vang!
Nhắc đến Hà Nội, Nguyễn Thái Học quay sang nhìn Ký Con và chợt thở dài như sắp khóc. Ông đưa bàn tay sờ những sợi râu mọc lởm chởm dưới cằm, lan lên cả hai bên má. Bạn bè, người thân từng chung sống hoặc giao tiếp với Nguyễn Thái Học những năm ông còn ngồi ở ghế trường sư phạm hay cao đẳng thương mại, giờ này nếu gặp lại, chắc sẽ phải giật mình kinh hãi vì không thể nhận ra ông được nữa. Nguyễn Thái Học của cách mạng phong trần ngày nay, chẳng còn dấu vết gì của Nguyễn Thái Học thư sinh thuở trước, cái thuở mà bằng hửu ai cũng nể nang cái tính gan lì của chàng sinh viên hay đùa nghịch một cách hồn nhiên. Mới có mấy năm mà tưởng chừng như đã xa xăm lắm! Nam Đồng Thư Xã rồi khach sạn Việt Nam,những buổi họp mặt đồng chí, ai cũng tranh nhau phát biểu một cách dân chủ. Tấm lòng yêu nước của mỗi người như dàn trải trên trang giấy trắng. Tất cả đều xa hẳn rồi, không bao giờ còn trở lại được nữa
Nghe nhắc đến Hà Nội, Nguyễn Thái Học nao nao nhớ lại biết bao nhiêu kỷ niệm từ lúc còn thuê chung căn gác trọ với Hồ Văn Mịch ở phố Đổ Hữu Vị. Người bạn hiên ngang của trường cao đẳng thương mại, hăng say vận động thành lập chi đoàn học sinh, giờ này đang bị lưu đày ngoài Côn Đảo cùng với bao nhiêu đồng chí trong giới trí thức Hà Thành. Mịch lại vốn yếu sức, lại nhuốm bệnh lao phổi, chẳng biết có ngày còn quay về đất liền nữa hay không?
Nguyễn Thái Học cầm một nhánh cây khô nhỏ như chiếc đũa, vạch xuống đất và ngậm ngùi nói:
- Cái kế hoạch ban đầu của chúng ta là đặt trọng tâm vào Hà Nội. Có thể nói, lấy được Hà Nội là lấy được cả nước, cả Đông Dương. Đánh chiếm Hà Nội thì lập tức ta sẽ huy động tòan thể đồng bào kéo nhau ra chật đường chật phố để ủng hộ quân cách mạng, tạo khí thế làm rung chuyển nước Pháp, áp lực Pháp phải trả độc lập cho nước ta. Chính vì thế mà ta ra sức tuyên truyền vận động trong giới nhà binh, đặc biệt là các cấp chỉ huy người Việt ở nội thành. Đồng chí Trần Văn Môn đã đóng góp bao nhiêu công lao cho đảng. Chỉ riêng phi trường Bạch Mai, đồng chí Môn đã kết nạp đến 22 đảng viên, đều là cai, đội. Rồi các trại lính khố xanh, đồn thủy, ta có đến 200 đảng viên nòng cốt đều là các cấp chỉ huy, sẽ vận động thuộc cấp quay súng lại, bắn vào quân thù. Các xưởng chế bom ở nội thành cũng đã chế được hơn một nghìn quả, chỉ chờ Tổng Bộ ban lệnh tổng khởi nghĩa!
Ngừng lại một chút cho bớt xúc động, đảng trưởng lại tiếp:
- Đùng một cái, đồng chí Môn bị bắt, ta cho Phạm Thành Dương lên thay. Thật là trời không chiều lòng người: Ai có ngờ đâu cha con thằng Dương phản đảng bán nước! Bao nhiêu chi bộ của ta bị nó tố giác, bật gốc hết. Các đồng chí nhà binh, người thì bị bắt, nguời bị lột lon tống đi xa! Các kho vũ khí cũng bị Dương chỉ điểm cho mật thám Pháp đến tịch thu hết!
Nguyễn Thái Học ngừng nói vì quá xúc động. Xứ Nhu chen vào:
- Vậy là ở Hà Nội kể như ta tay trắng!
Nguyễn Thái Học không đáp, ông quay sang Ký Con:
- Bản án hai cha con đội Dương thi hành chưa?
Ký Con đáp:
- Thưa anh. Cách đây một tuần, chú Nho và anh Huân đã bắn chết giáo Du rồi. Bắn ngay ở trước cửa nhà giáo Du ở ngõ Hồng Phúc. Nhưng riêng đội Dương thì chưa hạ thủ được vì dạo này nó trốn biệt! Hôm đám ma bố nó, nó cũng không dám về đưa ma! Tôi cho người điều tra thì hình như từ sau vụ Võng La, nó được đưa hẳn sang làm thanh tra cho sở Mật Thám Bắc Việt!
Xứ Nhu nói:
- Tội thằng ấy to lắm! Có thể tha cả nước, nhưng riêng thằng ấy thì không thể tha được! Để nó sống thì nó sẽ làm hại biết bao nhiêu người yêu nước!
Nguyễn Thái Học gật đầu hỏi Ký Con:
- Lê Hửu Cảnh thì sao?
Ký Con đã chuẩn bị trước nên đáp ngay:
- Tôi đã cho người theo dõi, nhưng chưa thuận tiện!
Phó Đức Chính giờ này vẫn đau nhói trong ngực vì viên đạn của Phạm Thành Dương vẫn đang nằm trong đó.Ông góp ý với Ký Con:
- Thằng Đội Dương cần phải trừng trị trước vì để đó ngày nào là còn nguy hại cho đảng ngày ấy. Nó đã dám công khai rút súng bắn anh Học, anh Nhu và tôi. Gần đây, nó đích thân dẫn mật thám đi bắt người và vũ khí của ta. Để nó ngang nhiên như thế mà mình không trừng trị thì uy tín của đảng sứt mẻ nhiều lắm!
Ký Con gật đầu:
- Vâng. Em biết! Không xử tử nó thì các đồng chí bị nó hại sẽ trách Tổng Bộ!
Chính lại thêm:
- Còn Cảnh. Tuy Tổng Bộ có nghi ngờ Cảnh vì chủ trương trung lập của Cảnh. Nhưng từ hội nghị Đức Hiệp đến bây giờ là hơn nửa năm, chưa có dấu hiệu gì là Cảnh phản bội, làm tay sai cho Tây!
Vừa nói, Phó Đức Chính vừa đưa mắt nhìn Nguyễn Thái Học dò xét phản ứng. Nhưng đảng trưởng không nói gì. Xứ Nhu cũng im lặng. Chính nói thêm:
- Dạo ấy Tổng Bộ cũng nghi ngờ cả Nguyễn Xuân Huân, vì Huân đứng trong phe của Cảnh. Nhưng mới đây, chính Huân đã cùng với chú Nho xử bắn giáo Du, bố đội Dương
Nhu trầm ngâm nói:
- Trước mắt, phải xử án Đội Dương đã. Vì nó vẫn tiếp tục dẫn mật thám đi bắt người của ta. Đảng ta trắng tay ở Hà Nội cũng vì nó!
Nguyễn Thái Học nén tiếng thở dài, đặt bàn tay lên vai Ký Con và tha thiết bảo:
- Đúng như anh Nhu vừa nói. Lực lượng cách mạng của chúng ta ở Hà Nội kể như không còn gì nữa. Tôi giao Hà Nội cho đồng chí. Đêm tổng khởi nghĩa, đồng chí điều động đội quân cảm tử ném bom những địa điểm quang trọng trong nội thành để làm nghi binh và cầm chân quân giặc trong thành. Để chúng nó đừng đem quân đi tiếp viện những nơi khác!
Ký Con khẳng khái nhận lệnh:
- Vâng. Hà Nội giờ này thật ra chỉ còn Đòan Ám Sát là chưa bị sứt mẻ. Chúng em đã có kế hoạch cả rồi. Tổng Bộ cứ tin ở chúng em! Chúng em sẽ tiếp chiến đến chết mới thôi!
Xứ Nhu cảm động nhìn Ký Con:
- Lúc nào Tổng Bộ cũng tin tưởng ở cậu. Cậu là người dũng cảm và trung kiên! Đảng viên ai cũng như cậu thì thằng Tây cút khỏi xứ này rồi!
Ký Con lại hỏi:
- Tổng Bộ đã liên lạc với đạo quân của anh Nghiệp bên Vân Nam chưa ạ? Em nghe bảo lực lượng của anh Nghiệp bên ấy đông đảo lắm. Anh ấy mà kéo quân về kịp thì anh em mình bên này lên tinh thần lắm!
Nguyễn Thái Học gật đầu:
- Xong cả rồi! Thế nào anh Nghiệp cũng về!
Thế là bốn người chia tay xuống núi. Ai cũng cảm thấy hôm nay có thể là buổi họp mặt cuối cùng!
Ba hôm sau, Nguyễn Thái Học đến Đáp Cầu, đặt bộ chỉ huy tại nhà một đồng chí trọng tuổi. Đáp Cầu và Phả Lại là hai căn cứ quân sự quan trọng của Bắc Ninh, nơi đây Việt Nam Quốc Dân Đảng đã thành lập được các đội vũ trang cách mạng khá hùng hậu. Nhưng kề ngày khởi nghĩa thì Phạm Thành Dương cho mật thám đến bắt hết, thành ra giờ này, khi Nguyễn Thái Học về điều động thì chẳng còn tay súng nào. Ông đành phải trang bị gấp vũ khí cho các đảng viên dân sự liều mình tử chiến. Nguyễn Thái Học nhớ lại, ngay từ hội nghị Đức Hiệp hồi tháng 5 năm 1929, sau khi đại hội biểu quyết Tổng khởi nghĩa, ông đã phân vân bàn với Xứ Nhu và Phó Đức Chính về vai trò của Phạm Thành Dương. Ông nói:
- Chỉ nên cho đội Dương phụ trách binh đoàn ở Hà Nội mà thôi. Không nên cho ông ấy biết hết lực lượng của ta ở các binh đoàn khác. Ngộ nhỡ ….
Xứ Nhu ngắt lời:
- Cái ấy cũng khó, bởi Tổng Bộ đã giao cho Đội Dương nắm trưởng ban Binh Vụ của đảng thì tất nhiên ông ấy có quyền và có bổn phận phải nắm vững tình hình lực lượng vũ trang của đảng. Anh không nghe các đồng chí trung ủy vẫn gọi Dương là Tham Mưu Trưởng đấy ư? Tham Mưu Trưởng thì phải nắm mọi kế hoạch quân sự chứ!
Nguyễn Thái Học đăm chiêu ngồi yên.Ông nhớ đến công lao gây dựng của Trần Văn Môn mà chả hiểu tại sao ông thấy Đội Dương không đáng tin cậy như Đội Môn. Ông cứ lo có ngày Dương sẽ thay đổi, hoặc vì tâm địa phản trắc hoặc vì hòan cảnh đưa đẩy. Mà Dương phản bội thì lực lượng quân sự của Quốc Dân Đảng kể như tan tành hết!
Giờ này thì mọi ưu tư của Nguyễn Thái Học đã thành sự thật. Đội Dương đã quét gần hết tiềm năng quân sự của đảng, chẳng phải riêng gì thủ đô mà trên khắp cả lãnh thổ miền Bắc. Nguyễn Thái Học về đây, làm nhiệm vụ chỉ huy binh đoàn Đáp Cầu và Phả Lại, nhưng có còn binh đoàn nào nữa đâu mà điều động! Thôi thì tình thế éo le, đành nương theo mà hành sự. Ông tức tốc cho người đi Hải Dương và Bắc Ninh, ước hẹn với các đảng viên dân sự ở Lương Tài, Gia Bình và Nam Sách, hẹn ngày 12 tháng 2, tấn công một điểm chỉ huy duy nhất là căn cứ của Pháp ở Đáp Cầu. Súng đạn, bom nội hóa, gậy gộc, dáo mác, có cái gì xài tạm cái ấy, miễn là tỏ được dũng khí của người cách mạng hiến thân cho độc lập của xứ sở! Than ôi! Thân làm cách mạng sắt máu mà giờ này đẩy ra mặt trận toàn những đảng viên vốn chỉ là thư ký,giáo học, thương gia với thợ thuyền thì kết quả đã biết trước rồi!
Hôm sau, Nguyễn Thái Học đang họp với chi bộ Đáp Cầu thì cô Giang đột ngột xuất hiện. Đôi nhân tình gặp nhau nhưng chẳng còn bụng dạ nào để nói chuyện yêu đương trong giờ phút dầu sôi lửa bỏng này. Cô đã nhận được lệnh tổng khởi nghĩa và cô được phân công sẽ có mặt ở sân ga Yên Bái để đón các đồng chí từ vùng xuôi xuống trước ngày nổ súng. Trong khi chờ đợi, còn gần một tuần nữa, cô vẫn làm công tác liên lạc với Tổng Bộ, đồng thời cùng chi bộ phụ nữ chuyển vũ khí bằng đường hỏa xa từ Hà Nội và Phú Thọ lên Yên Bái. Chi bộ phụ nữ do cô Bắc thành lập, gồm 15 người, chủ yếu là tuyên truyền, giao liên. Rất đắc lực trong thời gian gần đây vì ít bị mật thám chú ý.
Một buổi chiều, cách đây 3 hôm, cô Giang đang nhận vũ khí ở nhà một đồng chí ở Phú Thọ thì bất ngờ nghe tiếng chó sủa ngoài ngõ. Trông ra, thấy Lê Hữu Cảnh đang bước vào sân nhà. Chủ nhà giật mình ái ngại, định giấu mấy khẩu súng ngắn và lựu đạn xuống gầm giường, nhưng cô Giang chặn lại và quả quyết nói:
- Anh Cảnh chớ ai mà sợ! Tôi bảo đảm cho anh Cảnh!
Chủ nhân lưỡng lự đáp:
- Tôi cũng biết anh Cảnh là người của Tổng Bộ trước đây. Nhưng anh Học đã có lời cảnh cáo!
Cô Giang gắt:
- Mặc kệ anh Học! Anh cứ tin tôi!
Chủ nhà im lặng đứng chờ trong buồng. Cô Giang thì bước hẳn ra hè. Cảnh xăm xăm bước lên hiên, tháo mũ làm quạt. Mồ hôi nhễ nhại trên mặt và đẫm ướt hết lưng áo. Cảnh mặc Âu phục, sơ mi trắng đục, quần ka-ki vàng, đầu đội nón trắng, tay xách cập da đen, trông y như thầy thông thầy phán ở tòa sứ hay dinh toàn quyền!
Cô Giang hỏi ngay:
- Anh ở đâu lại đây? Đã biết tin gì chưa?
Cảnh bước hẳn vô traong nhà, nét mặt đăm chiêu, bắt tay chủ nhân. Đó là đồng chí Tộ trước cũng đi lính cho Tây một thời gian ngắn, bị thương giải ngũ về làng, gia nhập Quốc Dân Đảng phụ trách huấn luyện quân sự cho anh em cách mạng ở Phú Thọ. Gặp Cảnh, Tộ dè dặt chào:
- Anh Cảnh! Lâu quá mới gặp!
Cảnh khẽ nhếch mép cười rồi trả lời cô Giang:
- Tin gì là tin gì? Lệnh Tổng Khởi Nghĩa phải không? Tôi biết rồi cho nên mới chạy đi tìm chị. Định lên tận Yên Bái, nhưng may quá hôm qua gặp chị Bắc, tôi mới biết chị ở đây!
Chủ nhà bưng cho Cảnh cốc nước, rồi ông đứng bên cạnh không tham gia câu chuyện. Cảnh uống cạn ly nước, đặt xuống bàn. Anh moi trong túi áo ra một tờ giấy, chữ viết tay, in thạch, có những chỗ màu mực chưa khô, bị nhòe vì thấm ướt. Cảnh mở ra đặt trên bàn, xòe bàn tay đập vào tờ giấy và run run nói:
- Chị đọc đi! Truyền đơn của Đông Dương cộng sản đảng thả khắp nơi, báo cho mọi người biết là Quốc Dân Đảng sắp khởi nghĩa khắp các tỉnh Bắc Kỳ! Chúng nó đâm sau lưng mình!
Cô Giang sửng sốt chộp tờ giấy, trố mắt hỏi lại:
- Anh bảo sao? Cộng Sản tố cáo mình khởi nghĩa ư? Lẽ nào lại thế? Họ đang đánh Tây với mình mà!
Chủ nhà tò mò lại bên cô Giang, ghé mắt nhìn. Cảnh gắt:
- Chị ngây thơ quá! Tin người quá! Chị đọc đi!
Cô Giang lại sốt ruột hỏi:
- Anh có chắc là Cộng Sản giải truyền đơn này không?
Cảnh nhấn mạnh:
- Tôi có bằng cớ! Chính tôi bắt gặp! Tôi biết cái đứa giải truyền đơn!
Cô Giang sửng sờ đứng lặng một chút rồi nói:
- Thế thì tôi phải đi ngay. Anh cho tôi tờ truyền đơn này. Tôi đi tìm anh Học, báo cho anh ây biết!
Cảnh cay đắng:
- Anh Học thì lúc nào cũng tin rằng Cộng Sản là đồng minh! Tôi đã cảnh cáo mãi mà anh ấy không nghe tôi.
Cô Giang không biết nói gì hơn. Cô nhớ lại quả thực có lần ở Vĩnh Yên trong bửa cơm đạm bạc dọc đường, Cảnh đã nói với Nguyễn Thái Học:
- Rồi anh xem. Sẽ có ngày mình phải đánh cả Tây lẫn Cộng Sản!
Vốn tin phục Cảnh, giờ đây cô càng thấy Cảnh có tầm nhìn rất xa. Cảnh dịu giọng bảo:
- Chị đi gặp anh Học, chớ có nói là tôi đưa cho chị tờ truyền đơn này. Tôi dám cả quyết với chị phía Cộng sản cố ý hại chúng ta, thông báo công khai cho Tây biết kế hoạch của ta. Chị gặp anh Học, chị phải nói là chính chị có bằng chứng. Đừng có nhắc đến tên tôi vì anh Học và anh Nhu không tin tôi!
Cô Giang gật đầu:
- Tôi biết. Anh chả phải dặn.
Rồi cô lấy nón, lấy giỏ, chuẩn bị lên đường sang Đáp Cầu gặp Nguyễn Thái Học. Cô ưu tư hỏi Cảnh:
- Anh định đi đâu bây giờ?
Cảnh nghĩ đến căn gác trọ của Minh, bùi ngùi nói:
- Có lẽ tôi sẽ quay về Hà Nội. Gần đến ngày khởi nghĩa rồi. Tổng Bộ không giao công tác cho tôi, thì chắc là ngày ấy tôi sẽ ở Hà Nội, phụ một tay với đội quân cảm tử của Ký Con!
Cô Giang nhìn Cảnh thương cảm. Điều này thì cô đã biết rồi, bởi Cảnh có bàn với cô cách đây ít lâu trên Yên Bái. Cô lại còn biết cả việc Cảnh phải trốn khỏi Hà Nội cả tháng nay vì bị Phạm Thành Dương tố cáo chung với các binh đoàn Quốc Dân Đảng thuộc chi bộ nhà binh.
Cô Giang bảo:
- Hà Nội bây giờ nguy hiểm lắm. Mật thám đang càn quét. Anh phải hết sức cẩn thận!
Cảnh cay đắng tiếp lời:
- Cũng may, thằng đội Dương ra mặt công khai phản đảng, cõng rắng cắn gà nhà. Chứ nếu không thì những vụ bắt bớ gần đây, Tổng Bộ sẽ nghi cho tôi tố cáo!
Cô Giang chợp mắt nói:
- Thôi. Anh bỏ chuyện ấy đi. Tôi hiểu anh. Nhiều đồng chí hiểu anh. Chúng ta cùng vì nước, vì đảng. Anh đừng buồn!
Cảnh nguôi ngoai phần nào, hạ giọng nói:
- Chị gặp anh Học, nói với anh ấy là phải tìm đủ mọi cách giết ngay thằng đội Dương đi. Nó còn sống ngày nào thì đảng còn vỡ ngày ấy!
Cô Giang ngắt lời:
- Bố đội Dương là giáo Du bị xử tử rồi. Cả giáo Phú, thông đồng với bố con đội Dương, cũng bị trừng trị rồi!
Cảnh xua tay:
- Hai lão già ấy không quan trọng. Thằng đội Dương mới cần phải trừ ngay! Nó không giấu mặt nữa. Nó công khai giắt mật thám đi bắt người của mình. Tôi mà tình cờ gặp nó ở đâu tôi cũng liều mạng với nó!
Cô Giang nhét khẩu súng vào đáy giỏ, phủ tờ báo lên trên rồi đặt vào giỏ hai nải chuối, mấy bó ngang và một chục oản, y như người đang trên đường đi lễ chùa. Cô chào chủ nhà, chào Cảnh rồi thoăn thoắt bước ra sân. Cảnh cũng chào chủ nhà rồi chạy theo cô Giang, anh dặn thêm:
- Quên! Tôi cho chị cái số nhà này,ở ấp Thái Hà. Chỉ một mình chị biết thôi. Chị nhớ giấu kín hộ tôi. Vạn bất đắc dĩ, hễ chị có việc cần tìm tôi thì chị đến đấy.
Cảnh đọc địa chỉ, cô Giang nhẩm lại vài lần, rồi bảo:
- Tôi nhớ rồi! Thôi, anh đi bằng an!
Ra tới cổng, hai người chia tay nhau trên con đường làng, mỗi ngừời đi về một hướng
Ở Đáp Cầu, Nguyễn Thái Học đang kiểm điểm lại nhân sự để ban lệnh hành quân trong đêm khởi nghĩa, thì hai đại biểu phụ trách Hải Dương và Kiến An hộc tốc tìm đến khẩn khoản xin hoãn lại thêm bốn ngày. Nghĩa là thay vì 11 tháng 2, xin đổi lại 15/2 để kịp tập trung lực lượng.
- Tổng Bộ thông cảm cho chúng tôi. Lệnh tổng khởi nghĩa mãi đến hôm kia mới nhận được. Anh em thì phân tán mỏng, mỗi người ẩn núp một nơi, không thể nào triệu tập về ngay một chỗ được. Xin cho chúng tôi thêm 4 hôm nữa mới tập họp được.
Nguyễn Thái Học hết sức bối rối vì lệnh đã ban rồi, những nơi khác đã nhận được. Việc liên lạc lúc này quá khó khăn, thay đổi ngày giờ chắc chắn sẽ gặp trở ngại cho nhiều địa phương. Tuy nhiên, vì các đồng chí Hải Dương, Hải Phòng và Kiến An cứ nằn nì mãi, đảng trưởng đành phải nghe theo. Ông tức tốc sai người đi thông báo các nơi, nói rõ hoãn ngày tổng tấn công.
Phó Đức Chính lúc ấy đang ở làng Nam An, huyện Tùng Thiện tỉnh Sơn Tây, nhận được lệnh mới, vội cho người đi thâu đêm sang Sơn Dương gặp Nguyễn Khắc Nhu.
Ở lại Đáp Cầu, Nguyễn Thái Học như ngồi trên đống lửa. Lưới mật thám trùng trùng điệp điệp khắp nơi, giao liên đi lại quá khó khăn, chẳng biết lệnh hoãn khởi nghĩa có đến mỗi đơn vị được không? Giữa lúc đang nôn nao như thế thì cô Giang tìm đến. Cô rút trong cạp quần tờ truyền đơn đưa cho Nguyễn Thái Học và bảo:
- Đông Dương Cộng Sản Đảng đang rãi truyền đơn khắp nơi, báo tin mình sắp khởi nghĩa …
Nguyễn Thái Học trợn mắt, đập bàn quát to:
- Tôi không tin! Vì có thể nào anh em cộng sản làm như thế được!
Cô Giang vừa mệt mỏi vừa bực bội trước thái độ cả tin của người yêu. Cô nén tiếng thở dài, bùi ngùi bảo:
- Em vội lắm, không có nhiều thì giờ! Em đi suốt đêm về đây báo tin này cho anh biết hòng nhắc anh đề phòng. Bây giờ em phải ngược lên Yên Bái ngay. Đồng chí Thanh Giang đang chờ em ở sân ga. Thôi, anh lo công việc của anh đi! Em cứ nhớ lời em hôm nay: Đây là truyền đơn của phía Cộng Sản, gián tiếp thông báo cho Tây biết mình sắp khởi nghĩa! Việc lớn không thành cũng chỉ vì mình bị bán đứng!
Nguyễn Thái Học vò mảnh giấy ném vào góc nhà và bảo:
- Dạo này cô nói chuyện giống luận điệu của Lê Hửu Cảnh quá! Ông ấy lúc nào cũng thì Cộng Sản, hở một tí là tìm cách đặt điều cho người ta!
Cô Giang thấy nghẹn trong cổ nhưng cố giằng lại để khỏi lớn tiếng với đảng trưởng, nhất là bên cạnh hai người còn có ba đồng chí nữa đang lặng thinh theo dõi. Với cô, Cảnh lúc nào cũng là một đàn anh dũng cảm và tư cách. Huống chi Cảnh là người đầu tiên mạnh dạn đề nghị Tổng Bộ tác hợp cho cô và Nguyễn Thái Học trở thành vợ chồng chính thức.
Đời cô sẽ chẳng bao giờ quên được cái buổi chiều mùa hạ năm ngóai ở đền Hùng, sau chuyến công tác đường dài ở Phú Thọ về miền xuôi. Nguyễn Thái Học mệt quá, ngồi tựa gốc cây, ngủ thiếp đi. Cô ngồi bên cạnh quạt cho người yêu, vì trời tối dần, từng đàn muổi trong các khóm cây xông ta bay vo ve liên tục. Nguyễn Thái Học được trời xếp đặt cho cái lợi điểm là rất dễ ngủ, ngồi đâu cũng ngủ được, dù đầu óc đang vô cùng vướng bận. Nhờ dễ ngủ nên tinh thần ông rất minh mẫn. Mệt đến đâu, chỉ cần nhắm mắt mười lăm phút hay nữa giờ, ông trở nên tỉnh táo như thường.
Nhìn cô Giang ngồi quạt cho Nguyễn Thái Học dưới gốc cây đa cổ thụ bên cạnh đền Hùng, Lê Hửu Cảnh cảm động, nhè nhẹ lùi bước, trở lại chỗ Phó Đức Chính và Ký Con đang nằm nói chuyện. Chính hỏi Cảnh:
- Sao không gọi anh Học vào ngủ? Khuya quá rồi. Mai còn lên đường sớm!
Cảnh nhoài người nằm xuống bên cạnh Ký Con và đáp:
- Hai cậu ra mà xem! Nhìn cảnh tượng ấy, nỡ nào mình phá đám!
Rồi Cảnh nêu lên ý kiến xin Tổng Bộ đứng ra công nhận hai người nên duyên. Ký Con bảo:
- Anh Học có vợ rồi mà!
Cảnh nói:
- Có rồi! Ai chả biết! Nhưng mà người vợ do ông bà thân sinh cưới cho Học lúc còn nhỏ ở nhà quê. Học đã viết thư xin ly hôn rồi! Với lại, tình vợ chồng mà có thêm tình đồng chí thì càng dễ hoạt động hơn!
Phó Đức Chính và Ký Con cũng đồng ý. Chính chỉ nhắc:
- Việc này cũng phải xin ý kiến bác Nhu!
Cảnh gật đầu:
- Đành là thế rồi! Nhưng anh Nhu thì chắc cũng sẽ nhất trí thôi!
Cảnh nói đúng. Xứ Nhu thì bao giờ cũng ủng hộ cho cô Giang. Ba chị em cô Bắc, Giang và Tình chính là đoàn viên của Nguyễn Khắc Nhu ở phủ Lạng Thương trước khi đoàn thể này sát nhập vào VNQDĐ. Cả ba đều là niềm hãnh diện của Xứ Nhu bởi nhiệt tình công tác có thừa. Họ là những nữ đảng viên của Quốc Dân Đảng, trái với điều lệ ban đầu của đảng là chỉ thu nhận đàn ông.
Hôm sau, Cảnh gặp riêng cô Giang và cho biết ý định của Cảnh, đã được sự tán thành của Phó Đức Chính và Ký Con Đặng Trần Nghiệp. Cô Giang cảm động lắm, rủ Nguyễn Thái Học vào thấp hương trước bàn thờ tổ và long trọng thề chỉ lấy nhau sau khi cách mạng đã thành công! Thoáng thấy khẩu súng lục của Nguyễn Thái Học giấu trong áo khoác, cô xin đảng trưởng cấp cho cô một khẩu. Nguyễn Thái Học cười bảo:
- Em làm công tác tuyên truyền và liên lạc, đeo súng làm gì cho vướng víu!
Cô Giang nghiêm nghị đáp:
- Trước bàn thờ Tổ, em xin thề, nếu chẳng may anh có mệnh hệ nào thì em cũng sẽ tự tử chết theo anh!
Nguyễn Thái Học tuy xúc động vì tấm lòng của cô Giang nhưng thấy không vui khi nghe người yêu thốt ra những lời tuyệt vọng ấy.
Từ ngày đó, cô Giang lúc nào cũng coi Lê Hửu Cảnh như người anh đỡ đầu của mình. Cô tin Lê Hửu Cảnh như tin Nguyễn Thái Học. Chuyện gì cô cũng bàn với Cảnh, mặc dầu từ sau hội nghị Đức Hiệp, Cảnh đã bị Tổng Bộ gạt hẳn ra ngoài vì Cảnh chủ trương hoãn cuộc tổng khởi nghĩa. Các đồng chí trung ương cũng có nhiều người hiểu tâm sự Cảnh, nhưng thấy Tổng Bộ đã tỏ thái độ, họ đành phải nghe theo và tránh giao tiếp với Cảnh. Nói chung, “nhóm cải tổ” của Cảnh chỉ còn Nguyễn Xuân Huân là được đắc dụng vì Huân có tài bắn súng mà Ký Con Đặng Trần Nghiệp tin tưởng.
Về phần Lê Hửu Cảnh,lắm khi nằm suy nghĩ sau bao nhiêu biến động thực tế liên tiếp xẩy đến với Quốc Dân Đảng, ông lật qua lật lại vấn đề và thấy quyết định của Nguyễn Thái Học cùng Tổng Bộ phát động cuộc tổng khởi nghĩa là có lý, bởi chẳng còn con đường nào khác. Cứ ngồi mà chờ bị bắt thì còn khổ hơn trăm nghìn lần. Nếu phải trách cứ từ đầu thì người đáng bị phê bình nhất là Nguyễn Văn Viên đã không nhìn xa, đã không tuân lệnh Tổng Bộ tự ý gây nên vụ ám sát René Bazin làm cái cớ cho thực dân Pháp tiêu diệt Quốc Dân Đảng. Quyết định tổng khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học thật ra chỉ là chuyện chẳng đừng khi ở vào cái thế không lùi được nữa mà thôi! Cảnh suy đi nghĩ lại thấy mình cũng cạn nghĩ khi phát biểu ở hội nghị, chống lại Nguyễn Thái Học để giờ đây bị nhiều đồng chí xa lánh vì ngờ vực! Có hôm buồn quá, Cảnh mò sang Ninh Bình. Bộ bên ấy gồm khá đông người công giáo. Linh mục Phạm Bá Nha, cùng gia nhập đảng một thời với Cảnh, kiên nhẫn nghe Cảnh phân tích rồi bảo:
- Anh khuyên Nguyễn Thái Học sang Tàu. Anh Học không nghe, thế thì phải khen anh ấy quả cảm chứ sao lại trách. Sang Tàu là con đường dễ đi. Ở lại đánh Tây mới là con đường chông gai! Âu cũng là Chúa quan phòng để anh Học vác Thánh Giá nặng vì dân tộc!
Câu nói của cha Nha càng làm Cảnh ân hận. May mà còn có cô Giang hiểu thấu tấm lòng và luôn luôn tham khảo ý kiến với Cảnh, giúp ông vơi đi phần nào mặc cảm. Dĩ nhiên trước mặt Nguyễn Thái Học, cô Giang thường tế nhị tránh nhắc đến tên Lê Hửu Cảnh, bởi chính Cảnh cũng dăn cô như vậy. Khi người ta đã có thành kiến trong đầu rồi thì rất khó gột rửa! Cô không nhắc, nhưng Nguyễn Thái Học vẫn đóan là Lê Hửu Cảnh đưa tờ truyền đơn này cho cô vì Cảnh là người đạo gốc, tự căn bản đã thù chủ nghĩa Cộng Sản.
Nguyễn Thái Học bảo cô Giang:
- Biết đâu thủ phạm rải truyền đơn chả là thằng đội Dương!
Một đồng chí lớn tuổi đứng bên cạnh cay đắng chen vào:
- Mà có cần gì đội Dương hay Cộng Sản phải rải truyền đơn! Đội Dương đã tâu hết với quan thầy của nó về quyết định tổng khởi nghĩa của mình rồi cơ mà! Đội Duơng dám ngang nhiên rút súng bắn anh Học với anh Nhu thì nó còn sợ gì mà không ra mặt làm chó săn tay sai cho Tây!
Nguyễn Thái Học gật đầu ngậm ngùi bảo cô Giang:
- Việc đã đến nước này thì chỉ còn một đường tiến mà thôi! Em trở lại Yên Bái, lo công việc trên ấy …
Nguyễn Thái Học đang nói dang dở thì ba đồng chí địa phương bấm nhau, cùng bỏ ra ngoài để dành giây phút cho cô Giang gặp riêng người yêu. Nhưng đảng trưởng vẩy tay gọi họ trở lại và tha thiết nói tiếp:
- Làm cách mạng bạo động thì chủ yếu trông vào lực lượng quân sự. Nhưng không may cho chúng ta là bao nhiêu công lao gầy dựng các binh đoàn ở Hà Nội, Đồng Thủy, phi trường Bạch Mai, thậm chí Đáp Cầu, Phả Lại, đều bị đội Dương nội phản tố cáo hết cho giặc. Thành ra bây giờ chỉ còn trông vào Yên Bái. Hy vọng Yên Bái sẽ tạo được chiến công lớn!
Ba đồng chí bên cạnh Nguyễn Thái Học cùng hồi hộp chờ đợi câu trả lời của cô Giang. Cô tỉ mỉ báo cáo:
- Vâng. Cho đến giờ này thì tình hình trên ấy vẫn tốt đẹp. Tinh thần chiến đấu của quân cách mạng rất cao. Em đã hẹn với đồng chí Thanh Giang, ngày mai có mặt ở sân ga. Trong hai ngày, ngày mai và ngày kia sẽ đón khoảng 300 đồng chí từ dưới Phú Thọ lên. Vũ khí thì chi bộ phụ nữ do chị Bắc lãnh đạo, đã chuyển lên đầy đủ rồi! Tất cả sẽ gặp nhau ở rừng sơn, nhận vũ khí trước khi xuất quân đúng ngày giờ Tổng Bộ đã ấn định!
Nguyễn Thái Học thở phào kết luận:
- Như thế là Tổng Bộ có thể an tâm về mặt trận Yên Bái.
Cô Giang gật đầu rồi chào mọi người bước ra. Một đồng chí đưa mắt nhìn Nguyễn Thái Học rồi dè dặt đề nghị với cô:
- Chị ngủ lại đây đêm nay rồi sáng mai hẵng lên đường! Giời sắp tối rồi! Mùa này thì giời tối nhanh lắm!
Nhưng cô cương quyết đáp:
- Tôi phải đi ngay mới kịp!
Cô cô gắng nở nụ cười mặc dù lệ đã nhòa trong hai khóe mắt. Nguyễn Thái Học đứng trong khung cửa trông ra, vừa ái ngại, vừa cảm phục sự dấn thân của người tình. Gặp nhau hôm nay, biết đâu chẳng là lần cuối cùng vì chỉ còn vài ngày nữa là tổng khởi nghĩa! Ba đồng chí đứng sau lưng Nguyễn Thái Học, cũng mang cùng một tâm trạng như đảng trưởng. Một người trông theo cô Giang tất tả bước ra đường, buột miệng than
- Nam nhi như chúng mình, đã mấy ai sánh được với chị ấy!
Cả bọn đều im lặng, cùng đồng ý với nhận xét ấy!
Càng gần đến ngày trọng đại, việc liên lạc càng trở nên khó khăn bội phần, bởi địch đã nắm gần rõ hết mọi toan tính của Quốc Dân Đảng do nội tuyến cung cấp. Đồn binh, trại lính, phi trường, trạm canh, trung tâm huấn luyện, trên toàn cõi Bắc Kỳ đều được tăng cường phòng thủ cẩn mật. Nhân viên chính quyền cũng như binh sĩ phục vụ cho các đơn vị Pháp, bất cứ ai có dấu hiệu khả nghi là Pháp bắt nhốt ngay, biệt giam một chỗ để khỏi tiếp xúc với người thân.
Trong tình hình căng thẳng ấy, thông tin giữa các lực lượng cách mạng gần như tê liệt hẳn. Thậm chí Tổng Bộ đã rời ngày khởi nghĩa, đổi ngày 10 thành 15 tháng 2, theo yêu cầu tha thiết của Hải Phòng và Kiến An, nhưng nhiều nơi không hề biết, vẫn cứ theo chỉ thị cũ. Không hề biết là vì không liên lạc được, hoặc người đưa tin dọc đường bị bắt. Đến ngay cô Giang ở Yên Bái cũng chẳng nhận được lệnh rời ngày. Mà dù cho nhận được lệnh này thì Yên Bái cũng không thể nào rời được nữa, vì 300 đồng chí dân sự từ dưới Phú Thọ đã kéo lên, tập trung trong rừng sơn, và nhất là vì các đồng chí quân nhân trong đồn Yên Bái nhận làm nội ứng cho cách mạng, đã chuẩn bị sẳn, càng để lâu càng dễ bị lộ.
Chẳng phải chỉ riêng Yên Bái không nhận được lệnh hoãn ngày, mà ngay cả Nguyễn Khắc Nhu ở Hưng Hóa, Ký Con ở Hà Nội, cùng nhiều nơi khác trên đất Bắc cũng không biết gì, cứ khai hỏa vào đêm mùng 10 rạng 11 tháng 2 như lệnh cũ đã ban hành. Sơn Tây nổ súng đêm 12, Kiến An tấn công đêm 13, Vĩnh Bảo đêm 15. Chỗ nào cũng gặp trở ngại, ngoại trừ Yên Bái đoạt được chút thắng lợi, lúc đầu nhờ lòng dũng cảm và quyết tâm của các quân nhân trong đồn. Bộ tham mưu gồm có 5 sĩ quan: Quản Cần, Cai Thịnh, Cai Nguyên, Cai Thuyết và Cai Hoằng, trong đó có Cai Hoằng tức đồng chí Ngô Hải Hoằng đáng ghi công đầu trong trận đánh lịch sử này. Ông là ngọn đuốc dẫn đường, là ngọn lửa khích lệ đồng đội, là tấm gương hy sinh cao cả về đởm lược cũng như lòng trung thành với đảng ngay cả sau khi bị giặc bắt. Một mình ông tả xung hữu đột bắn chết 6 quân nhân Pháp, trong đó có đại úy đồn trưởng Jourdain. Ông ngồi tù một tháng, ung dung chờ lên máy chém cùng với đồng đội là Cai Thuyết và hai nông dân từ Phú Thọ tham dự trận đánh. Tất cả đều tỏ ra thanh thản, hãnh diện với công tác đãng giao phó. Bốn người ấy: Đặng Văn Lương, Đặng Văn Tiệp, Nguyễn Thành Thiếp và Ngô Hải Hoằng là bốn chiến sĩ lên máy chém Yên Bái đợt đầu tiên trong vụ án Quốc Dân Đảng năm 1930. Hôm ấy là mùng 8 tháng 3, lúc trời còn mờ hơi sương!
Riêng đảng trưởng Nguyễn Thái Học, trực tiếp chỉ huy mặt trận Đáp Cầu và Phả Lại, muốn đánh một trận quyết liệt rồi chết giữa sa trường cũng cam. Nhưng trời chẳng chiều lòng người. Ngày 12 tháng 2, các đồng chí từ Bắc Ninh và Hải Dương kéo nhau đến điềm tập trung như đã ước hẹn thì không thấy Nguyễn Thái Học đâu! Là vì đảng trưởng đã ra lệnh rời ngày khởi sự mà các đồng chí không nhận được lệnh! Vắng mặt đảng trưởng, mọi người thất vọng, phân tán trở về! Khi anh em kéo đến, Nguyễn Thái Học không biết. Lúc được tin thì lực lượng phân tán gần hết. Từ làng Hưng Thăng, Nguyễn Thái Học bàn với các đồng chí còn lại, có hết bao nhiêu thì dốc hết ra đánh vào đồn binh Đáp Cầu để hỗ trợ những nơi khác đã nổi dậy. Nhưng chưa kịp xuất quân thì giám binh Hải Dương cho lính đến bao vây bất thần. Rất may, Nguyễn Thái Học được dân làng bảo vệ qua sông, chỉ chút xíu nữa là sa vào tay quân thù.
Cuộc khởi nghĩa non yểu làm Việt Nam Quốc Dân Đảng vốn đã trong tình trạng nguy ngập, lại càng thê lương hơn. Ngoài hàng loạt những chiến sĩ bị chết và bị bắt. Tổng Bộ mất thêm một số nhân sự đầu não hết sức quan trọng.
Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy tấn công phủ lỵ Lâm Thao, trúng đạn ở chân, không chạy được, bị địch bắt. Ông tự tử ba lần mới chết ở tuổi 47.
Phó Đức Chính được phân công chỉ huy đánh thành Sơn Tây. Nhưng định mệnh cũng lại quá nghiệt ngã đối với ông. Một ngày trước khi khởi nghĩa, kho vũ khí tồn trữ ở làng Quang Hút bị mật báo, giặc đem quân đến tịch thu hết, lực lượng cách mạng đành phải hoãn lại để bàn tính kế hoạch khác. Phó Đức Chính đang lay hoay suy nghĩ thì đồng chí Thanh Giang tức Nguyễn Văn Khôi cùng Cai Tần từ Yên Bái chạy về, định họp lực với Phó Đức Chính để tấn công Sơn Tây. Không còn vũ khí, cả nhóm đang bàn thảo tại nhà đồng chí Quản Trạng ở huyện Tùng Thiện thì bị nội phản: Gã giáo viên tiểu học vì tư thù với chủ nhà, chạy đi báo cho Tây biết. Phó Đức Chính bị bắt ở tuổi 22, Thanh Giang Nguyễn Văn Khôi cũng sa lưới trong dịp này.
Lương Ngọc Tốn, trưởng ban ám sát của đảng, sát cánh với Ký Con. Trên đường sang Bắc Ninh để tìm Nguyễn Thái Học sau đêm khởi nghĩa. Tốn bị cảnh sát Pháp cản lại. Anh rút súng bắn tên đội xếp rồi bỏ chạy bến đò Thanh Trì. Công nhân lò bát thấy Tốn chạy trước, đội xếp đuổi sau lưng, lại tưởng Tốn là quân trộm cắp, nên hùa vào bắt Tốn, đem nạp cho thực dân.
Cùng với hàng trăm đồng chí dũng cảm khác bị sa lưới, nhân sự của Tổng Bộ bước vào một khúc quanh đen tối nhất sau hơn hai năm dựng bảng hiệu Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Những ngày kế tiếp, Nguyễn Thái Học thường ẩn núp ở vùng Lương Tài, tức Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, là nơi mà dân chúng hết lòng che chở cho quân cách mạng. Bên cạnh Nguyễn Thái Học giờ này không còn Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính, chỉ có Sư Trạch là bạn đồng hành. Trong những đêm khuya vắng lặng, giấc ngủ chập chờn, Nguyễn Thái Học nghĩ đến những đồng chí tri kỷ nay đã nằm xuống hoặc phân tán khắp nơi, thấy mình hình như mất hẳn hai cánh tay, bơ vơ đến độ có lúc thấy hoản loạn tâm trí! Ông ôn lại bao nhiêu kỷ niệm, từ buổi đầu nô nức ở Nam Đồng Thư Xã với những bằng hửu đầy tâm huyết sát cánh bên nhau. Nhượng Tống với dáng dấp văn nhân, kiến thức uyên bác. Hồ Văn Mịch gầy gò xanh xao vì chứng lao phổi. Rồi còn biết bao nhiêu nhà văn, nhà báo khác, những người bạn ở trường cao đẳng, giờ đang nằm trong Hỏa Lò hoặc đã ra Côn Đảo. Nam Đồng Thư Xã và Khách Sạn Việt Nam đóng cửa rồi, ông lang thang nay đây mai đó trên toàn cõi Bắc Kỳ, bên cạnh lúc nào cũng có Xứ Nhu lớn tuổi, trầm tĩnh. Lê Hửu Cảnh trung niên gan dạ. Phó Đức Chính và Ký Con, tuổi mới ngoài hai mươi nhưng suy tính chuyện gì cũng sâu xa. Cô Nguyễn Thị Giang đảm đang, quyền biến. Tất cả bây giờ như bầy chim vỡ tổ vì bị săn đuổi.
Ông thấy trách nhiệm của mình lớn quá, ông đã đưa bao nhiêu đồng chí vào vòng ngục hình, bao nhiêu người trốn tránh vất vưởng và nhất là bao nhiêu người khác đã ngã gục. Bất giác ông thở dài và ứa nước mắt trong đêm. Những dằn vặt ray rứt như thế làm ông không ngủ được, dù ông vốn là người dễ ngủ!
Các đồng chí lưu vong nghe tin dữ từ quốc nội, vội cử Đoàn Kiểm Điểm về gặp Nguyễn Thái Học để hối thúc ông xuất ngoại. Nhưng dĩ nhiên ông không nghe. Ông buốt nhói nghĩ đến các đồng chí đã hy sinh, lại càng đau đớn xé gan khi thấy thực dân Pháp dội bom làng Cổ Am, giết hại nông dân và tàn phá hết nhà cửa của người vô tội. Đây là lần đầu tiên Pháp dùng máy bay bắn phá xóm làng, nhằm mục đích tiêu diệt tàn quân cách mạng và nhất là để trả thù cho tên tay sai Hoàng Gia Mô, tri huyện Vĩnh Bảo bị lực lượng Quốc Dân Đảng xử tử hôm 15 tháng 2. Hoàng Gia Mô là cháu nội Hoàng Trọng Phu, tổng đốc Hà Đông, khét tiếng là gia nô đắc lực của Pháp. Quân cách mạng do Trần Quang Diệu chỉ huy, đã bắt trói, tuyên án và xử Hoàng Gia Mô bằng một phát súng trường.
Thống sứ Bắc kỳ René Robin, sau khi xin ý kiến toàn quyền Pasquier đã ra lệnh cho phóng pháo cơ ném 57 trái bom xuống nhằm bình địa làng Cổ Am để trừng phạt và hăm dọa. Trong thông tư gửi các công sứ đứng đầu tỉnh toàn cõi Bắc Kỳ, Robin cảnh cáo:
“Nếu làng nào còn chứa chấp bọn khởi nghĩa, thì cũng sẽ bị ném bom ngay như làng Cổ Am chứ không thể tha thứ được”.
Nhóm Lê Hửu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân cùng các đồng chí trước đây bị coi là trung lập, không được tham gia công tác khởi nghĩa, nay dò được tin Nguyễn Thái Học đang có mặt tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, vội vàng lẩn lút đi thâu đêm tìm gặp đảng trưởng. Riêng Nguyễn Đôn Lâm vì vết thương ở vai chưa lành, nên đành tìm nơi kín đáo, ẩn mình buộc thuốc.
Riêng Cảnh, mấy hôm liền không ăn không ngủ được. Ông ghé căn gác trọ của Minh, nằm chờ một đêm lắng nghe tin tức. Rồi khi biết chắc mọi trận đánh đều bất lợi cho đảng. Cảnh tức tốc tìm đường sang Bắc Ninh vì đóan chắc Nguyễn Thái Học đang ở đó. Cảnh cũng hy vọng gặp cả cô Giang. Nhưng thật ra thì cô Giang đã chạy về Bắc Giang từ sau đêm tấn công Yên Bái.
Nhìn thấy Cảnh, Nguyễn Thái Học nhớ ngay đến cô Giang vẫn thường thẳng thắng bênh vực lập trường của Cảnh. Giờ này thì ông đã biết Cảnh là người trung thành với đảng. Cũng may Ký Con vì mến tài Cảnh, không nỡ hạ thủ, chứ không thì đảng đã mất đi một nhân tài.
Hôm ấy, tất cả gặp nhau trên con đò đậu ở bến Kênh Vàng. Vừa lên thuyền, nhìn nét mặt hốc hác của Nguyễn Thái Học, Cảnh quên hết mọi bất hòa trong mấy tháng qua, tha thiết nói:
- Anh phải ra nước ngòai ngay, không chần chờ được nữa!
Nguyễn Thái Học lắc đầu cười buồn. Cảnh nhấn mạnh:
- Dạo trước, tôi khuyên anh đi, anh không đi vì muốn một lần thử lửa với giặc. Bây giờ tình hình đã đến lúc tuyệt vọng, anh phải đi, không còn lý do nào để ở lại!
Nguyễn Thái Học mệt mỏi đáp:
- Bao nhiêu đồng chí đã ngã xuống. Bao nhiêu dân lành đã vì đảng mà chết oan, tôi phải ở lại để chết chung với anh em! Anh Nhu đã chết, anh Chính đã bị bắt. Tôi nỡ nào tìm nơi an toàn mà sống!
Cảnh chì chiết:
- Bao nhiêu đồng chí đã chết? Bao nhiêu dân lành khác thác oan! Chính vì vậy mà anh phải xuất ngoại. Xuất ngoại để sống. Anh có sống thì mới báo thù cho các đồng chí!
Nguyễn Thái Học hai ba lần nhắc lại:
- Không thể được! Không thể được!
Lê Hửu Cảnh cố nén cơn giận, ôn tồn giải thích:
- Anh Học, anh phải nghĩ đến đường dài. Kế hoạch đường dài của mình bây giờ là anh phải qua bên kia biên giới, thành lập tổng bộ bên ấy. Ta đã có sẳn lực lượng của anh Nghiệp và chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Hoa yểm trợ. Chúng tôi ở lại trong nước, họp nhau cải tổ lại đảng, tạm thời rút vào bí mật tối đa để chờ thời cơ. Giữa tổng bộ bên ấy và quốc nội, sẽ có đường giây liên lạc chặt chẽ để quốc nội nhận chỉ thị từ tổng bộ. Anh phải nhớ rằng, anh còn thì đảng còn. Anh mất thì đảng tan rã. Nhất là các đồng chí đang bị giam cầm, ngày đêm trông ngóng ra ngoài. Nếu chẳng may anh bị bắt, họ sẽ như rắn mất đầu. Chừng ấy, họ sẽ phải ngả theo Đông Dương Cộng Sản Đảng hết. Vì chẳng còn một chỗ dựa nào để đánh Tây!
Nguyễn Thái Học cảm động nhìn Cảnh, lòng dân lên nỗi ân hận vì trước đây đã ngờ vực Cảnh thay lòng đổi dạ. Suýt nữa thì tổng bộ giết oan một đảng viên trung thành. Ông đưa mắt nhìn khắp lượt. Nhiều đồng chí gật đầu tán đồng ý kiến của Cảnh. Nguyễn Xuân Huân cũng nhắc lại:
- Chủ trương của đồng chí Cảnh là chủ trương có suy nghĩ sâu sắc. Anh nên nghe lời đồng chí ấy! Anh ở lại, nếu chẳng may anh bị bắt thì muôn đời không trả được mối thù cho các đồng chí đã nằm xuống!
Nguyễn Thái Học xúc động bảo:
- Tôi cảm ơn các đồng chí, cảm ơn anh Cảnh. Nhưng ý tôi đã quyết! Chủ trương của tôi ngay từ buổi đầu là ở lại, chấp nhận gian khổ với đồng chí và đồng bào. Nếu có chết, cũng chết bên cạnh đồng chí của mình!
Cảnh không biết nói gì hơn, ngậm ngùi như muốn khóc. Ông quay nhìn ta giòng sông. Các đồng chí khác cũng đành im lặng. Một lúc sau, Cảnh hạ giọng bảo Nguyễn Thái Học:
- Từ hôm ấy đến nay, chả có tin gì của cô Giang!
Có người lên tiếng:
- Nghe nói chị ấy đang ở bên Bắc Giang! Chưa bị bắt là may rồi!
Sư Trạch thay mặt Nguyễn Thái Học kết luận:
- Bây giờ chúng ta chia tay. Không nên tập trung lâu một chỗ. Sáng mai gặp nhau ở nhà đồng chí Tuyên, làng Trụ Thôn.
Thế là hôm sau và ba ngày kế tiếp, Nguyễn Thái Học chủ tọa hội nghị khẩn cấp bàn về việc cải tổ đảng tại nhà Nguyễn Văn Tuyên, có Lê Hửu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, Sư Trạch, Phạm Văn Phổ và vài đồng chí khác từ các nơi khác đến. Đoàn Kiểm Điểm thì đã bỏ về Trung Hoa để báo cáo tình hình cho các đồng chí bên ấy. Thời gian này, Nguyễn Thế Nghiệp đã gây dựng xong lực lượng Quốc Dân Đảng hải ngoại, đặt tên là Vân Nam đệ nhất đạo bộ, nghĩa là vẫn thống thuộc tổng bộ trong nước. Để dễ hoạt động, Nguyễn Thế Nghiệp thay tên đổi họ, lấy bí danh là Trương Nguyên Minh nghe có vẻ Tàu hơn. Ông được bầu làm chi bộ trưởng, phát triển đảng viên rất nhanh trong cộng đồng người Việt ly hương luôn nhớ về đất nước. Ông dùng Vân Nam Đạo Bộ làm nền tảng để đón Nguyễn Thái Học sang, xây dựng lại tổng bộ sau cuộc khởi nghĩa thất bại. Nhưng rất tiếc là đảng trưởng dứt khoát không đi. Đoàn Kiểm Điểm phải trở về tay không!
Ngày 19 tháng 2, nghĩa là chưa đầy mười hôm sau tổng khởi nghĩa, hội nghị bế mạc. Các đồng chí bịn rịn chia tay, ai cũng linh cảm thấy hiểm nguy đang rình rập tứ phía. Cảnh rưng rưng bảo Nguyễn Thái Học:
- Chả nói anh cũng biết. Sở liêm phóng đã cho in ra hàng vạn tấm hình của anh, kèm với hàng triệu truyền đơn, rải khắp nơi. Chỗ nào cũng thấy hình anh. Bến đò, nhà ga, đình làng, sân chùa, cổng chợ, nhà giây thép, cổng làng, trường học, điếm canh, không bỏ sót chỗ nào. Anh dứt khoát không chịu sang Tàu, tôi không bàn đến nữa! Nhưng anh phải hết sức cẩn thận, thay hình đổi dạng, băng rừng vượt suối mà đi. Chúng nó treo giải thưởng 5 nghìn đồng cho ai bắt được hoặc giết được anh! Năm nghìn đồng to lắm! Thế nào chả có đứa nổi lòng tham! Thời buổi này chả biết tin ai, tôi chỉ xin nhắc bao nhiêu cho anh thôi!
Nguyễn Thái Học xiết chặc bàn tay Cảnh và run run nói:
- Cảm ơn đồng chí, đồng chí cũng cần bảo trọng!
Cảnh hỏi:
- Anh định đi đâu bây giờ?
Su Trạch đáp thay:
- Tôi đưa anh Học về chùa Đáp Khê bên Hải Dương. Chùa nhà!
Cảnh là một người Công giáo từ thuở nhỏ từng học trong chủng viện với ý định đi tu làm linh mục, cho nên dù sao đối với một nhà sư Phật giáo, ông cũng cảm thấy có một khoảng cách nào đó khiến ông không dám thân thiện bởi Cảnh không hiểu rõ hệ thống tu hành bên Phật giáo. Đã thế, nhiều người quen thiêu dệt lại gọi Sư Trạch là thầy cúng hoặc thầy pháp có nhiều bùa phép không tưởng, nên Cảnh lại càng dè dặt. Thực chất thì ông chỉ là một nhà sư theo phái Mật Tông thờ Phật Tổ và thờ thiền sư Từ Đạo Hạnh. Ông trụ trì ở chùa Đáp Khê bên Hải Dương. Quốc Dân Đảng từ bản chất đã muốn kết họp mọi thành phần dân tộc vào cuộc cách mạng chống Pháp, nên không phân biệt tôn giáo. Thậm chí đồng chí Nguyễn Ngọc Sơn đã từng vào Nam đã tính chuyện liên kết với đạo Cao Đài lúc đó đang phát triển ồ ạt, nhưng không thành. Ở miền Bắc thì khá nhiều chùa trở thành cứ điểm của Quốc Dân Đảng, trong đó có chùa Đáp Khê mà Sư Trạch tu trì. Ông có ý chí cương nghị, võ nghệ cao cường nên đã rời chùa để đảm trách việc bảo vệ cho đảng trưởng Nguyễn Thái Học.
Cảnh cúi đầu chào Sư Trạch và nói:
- Có đồng chí đi bên cạnh anh Học, chúng tôi thấy yên lòng! À … Quên cái này nữa. Thằng thống sứ Robin vừa bổ nhiệm Vi Văn Định, tổng đốc Thái Bình, lo việc lùng bắt lực lượng của chúng ta. Nó gọi là “tiểu trừ tàn quân Quốc Dân Đảng”! Vi Văn Định thì các đồng chí biết rồi! Nó còn ác hơn cả quan thầy của nó nữa! … Thôi. Xin các anh bảo trọng!
Rồi Cảnh làm dấu Thánh Giá và kéo tay Nguyễn Xuân Huân đi nhanh ra cổng, trở về Hà Nội. Huân vốn là tri kỷ của Cảnh từ thuở trước hội nghị Đức Hiệp. Tuy không tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa, nhưng Huân là tay thiện xạ, sử dụng nhuần nhuyễn súng lục, nên được tổng bộ thường giao cho công tác thanh tóan nhưng kẻ phản bội, chẳng hạn như giáo Phú, giáo Du trước đây.
Cảnh và Huân đi rồi, Nguyễn Thái Học cùng Sư Trạch và ba đồng chí nữa cũng vội vàng thu xếp lên đường. Cả nhóm mặc quần áo phu mỏ, vai mang đãy vải, giấu súng lục trong cạp quần. Đồng chí Phạm Văn Phổ ngăn lại và đề nghị:
- Không nên đi đường bộ, nguy hiểm lắm! Suốt từ bến đò Kênh Vàng đến hết địa phận Mỹ Lộc, dọc bờ sông đều có người của ta, tội gì không đi thuyền có anh em bảo vệ!
Nguyễn Thái Học bảo:
- Đi thuyền rềnh ràng mất thì giờ lắm! Ta tìm đường len lỏi xuyên rừng mà đi. Mặc quần áo này thì ai mà để ý!
Thấy đảng trưởng đã quyết, Phổ đành níu tay từ giã, dặn dò vài câu rồi đứng nhìn theo năm đồng chí lủi thủi ra cổng.
Qua một đêm lặn lội mệt mỏi, ngủ vài tiếng đồng hồ ở dọc đường, sáng 20 tháng 2, đoàn người lại lên đường lúc trời còn mờ hơi sương. Quả đúng như Cảnh nói, chỗ nào Nguyễn Thái Học cũng thấy hình mình dán trên gốc cây, vách tường, kèm theo món tiền thưởng hấp dẫn.
Khoảng hơn 8 giờ sáng, đoàn người đến địa phận Chi Ngãi, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nhưng họ không vào làng, vì Chí Ngãi có đồn lính Khố Xanh. Họ đi vòng xuyên qua ấp Cổ Vịt, vùng đất mà tên thực dân Clébert đang khai thác nông trại, có lính khố xanh và tuần phiên canh gát thường trực. Mặt trời vừa lên, không gian đầu xuân còn se lạnh, 5 gã tuần phu vừa thức giấc đang ngồi ăn sáng trong điếm canh. Thấy người lạ mặt xuất hiện trong ấp, đám tuần phu đứng bật dậy, tri hô bắt đứng lại. Mặc dù thân rã rời vì thiếu ăn thiếu ngủ mấy tháng nay, Nguyễn Thái Học vẫn cứng rắn bảo Sư Trạch:
- Không thể đứng lại cho chúng nó khám được! Sẽ lộ tông tích ngay! Cứ cấm đầu đi rồi có gì thì bỏ chạy! Chắc chúng nó chỉ dọa thôi!
Sư Trạch và 3 đồng chí đồng ý, rảo bước theo Nguyễn Thái Học. Một trong ba đồng chí là Ký Diến quay mặt về phía điếm canh, nói lớn:
- Chúng tôi là phu mỏ, đi làm sớm. Xin các bác làm phúc cho nhờ đường qua ấp vì sợ không kịp giờ. Đội ơn các bác lắm!
Đã xuống nước như vậy mà đám tuần phu vẫn không bỏ cuộc. Chúng lao ra, đuổi theo
- Đứng lại cái đã! Ai cho phép chúng mày qua ấp! Đứng lại để chúng ông khám cái đã
Nguyễn Thái Học nhìn khu vườn trước mặt nói:
- Mình chạy bừa vào trong kia! Đừng để chúng nó khám xét lôi thôi!
Rồi ông bảo Sư Trạch:
- Quăng lại một quả lựu đạn cho chúng nó sợ, không dám đuổi theo! Ném xa xa, đừng để cho chúng nó bị thương! Mình dọa thôi!
Sư Trạch làm theo lời đảng trưởng. Nhưng không ngờ bọn tuần phu có súng! Chúng bắn theo vài phát và hét lên:
- Đứng lại! Đứng lại! Không ông bắn chết!
- Tất cả đứng lại, bắn bỏ mẹ bây giờ!
Nguyễn Thái Học vừa chạy vừa rút súng lục. Sư Trạch giục:
- Các anh chạy trước, để tôi chặn chúng nó!
Sư Trạch vừa dứt câu thì mấy phát súng nổ vang, đạn bay vèo tới. Cả Nguyễn Thái Học và Sư Trạch đều bị thương, đạn ghim vào bắp chân, ngã quị xuống. Bọn tuần phu xông lại, năm đứa vây quanh. Hai mũi súng dí xuống. Phần vì bị thương, phần quá mệt mỏi, Nguyễn Thái Học không còn nghĩ đến chuyện chống cự nữa. Ông chỉ nói nhanh với ba đồng chí cùng đi với ông là Diên, Kính và Tuyên:
- Ba anh chưa bị thương, liệu tìm cách thoát thân đi!
Rồi ông buông xuôi, quăng súng!
Anh hùng mạt lộ! Lũ tuần phu xông vào bắt trói. Khi biết đó là Nguyễn Thái Học, một trong năm gã tuần phu hốt hoảng kêu lên:
- Thôi chết rồi! Tôi bắt nhầm người rồi! Làm thế nào bây giờ!
Tất cả đều đã muộn. Vì gã thực dân Clébert, chủ ấp, ngay từ khi nghe tiếng tri hô, tiếng súng nổ, đã nai nịt chạy ra và đang tiến đến bên cạnh Nguyễn Thái Học. Gã trố mắt kinh ngạc một cách hớn hở, ra lệnh trói Nguyễn Thái Học và Sư Trạch thật kỹ rồi bỏ vào thúng, sai tuần phu khiêng lên đồn Chi Ngãi. Đích thân Clébert cầm súng áp giải phía sau!
Clébert không thể ngờ được rằng cái người từng làm rúng động chính quyền bảo hộ trên toàn cõi Bắc Kỳ hơn 2 năm nay, giờ này lại nằm trong tay hắn! Đúng là hoạnh tài bất ngờ, tin vui bất chợt, làm hắn chỉ chú tâm đến Nguyễn Thái Học vừa bị hắn trói thật chặt, đặt trong thúng mây, khiêng nộp đồn lính. Nhờ vậy, ba đồng chí cùng đi với Nguyễn Thái Học là Ký Diến, Chánh Kính và Chánh Tuyên lợi dụng lúc bọn tuần phu sơ hở, đã nhớ lời dặn của Nguyễn Thái Học, bỏ chạy lao vào rừng Kiếp Bạc. Clébert bắn theo mấy phát nhưng không trúng. Hắn cũng chẳng bận tâm sai thủ hạ đuổi theo, vì cái người tù nhân vĩ đại là Nguyễn Thái Học đang nằm trong tay hắn mới thật là quan trọng, không thể để lọt lưới một lần nữa.
Ba đồng chí ngủ tạm trong rừng rồi hôm sau bơi qua sông Luống để trở về Gia Bình. Ra đến giữa sông thì Chánh Tuyên quay lại bảo hai bạn:
- Anh Học bị bắt! Đại sự đã hỏng rồi! Tôi cũng chẳng thiết sống làm gì nữa! Thôi, vĩnh biệt hai anh!
Rồi ông buông xuôi, tự trầm dưới đáy sông!