Tôi luôn cố gắng làm những gì tôi chưa biết và nhờ đó, tôi có thể làm được những điều tưởng như ngoài khả năng của mình.

Pablo Picasso

 
 
 
 
 
Tác giả: Lauren Weisberger
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: hoang viet
Số chương: 23
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1403 / 21
Cập nhật: 2016-03-24 21:06:25 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2: Một Con Ngựa Đau, Cả Tàu Bỏ Cỏ
rooke bước vào hành lang khoa sản ở Trung tâm Y tế Langone thuộc Đại học New York và kéo rèm che lại. Tám bệnh nhân đã xong, còn ba bệnh nhân nữa phải kiểm tra. Cô lướt nhanh qua những bệnh án còn lại: một cô bé vị thành niên có bầu, một phụ nữ có thai bị tiểu đường trong thời kỳ thai nghén, và một phụ nữ lần đầu làm mẹ đang vất vả cố cho bú hai đứa trẻ sinh đôi mới sinh bú. Cô nhìn đồng hồ và nhẩm tính: nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ như dự kiến thì cô có thể ra về đúng giờ đã định.
“Chị Alter à?” Giọng bệnh nhân của cô cất lên từ sau tấm rèm.
Brooke bước trở vào trong
“Gì thế, Alisha?” Brooke quấn cho chiếc áo blu trắng của mình chặt quanh ngực và tự hỏi làm sao mà người phụ nữ này lại không run lẩy bẩy trong chiếc váy mỏng như giấy của bệnh viện.
Alisha vặn vẹo đôi tay, nhìn chăm chăm vào vạt áo bệnh nhân của mình và nói, “Chị nhớ là chị đã bảo rằng dùng các loại vitamin trước khi sinh quan trọng đến mức nào không? Đại loại thế, cho dù là từ đầu đến giờ em đã không dùng?”
Brooke gật đầu. “Chị biết chẳng thể thấy mặt tốt của bệnh cúm nặng,” cô vừa nói vừa đi tới giường của cô gái, “nhưng ít nhất chứng bệnh đó cũng đưa em vào đây và cho chúng ta cơ hội khiến em bắt đầu dùng các loại vitamin và thảo luận kế hoạch cho những ngày còn lại trong thai kỳ của em.”
“Ờ, vậy về việc đó thì... thế có, ừm, đại loại là chị có mẫu thuốc miễn phí nào có thể cho em dùng thử không?” Alisha tránh nhìn vào mắt cô.
“Ồ, chị nghĩ việc đó không thành vấn đề,” Brooke trả lời, mỉm cười trấn an bệnh nhân nhưng tự giận mình vì đã bỏ qua không hỏi xem Alisha có thể trả nổi tiền mua thuốc không. “Xem nào, em còn mười sáu tuần nữa... Chị sẽ để đủ liều dùng cho em ở phòng y tá, được không?”
Alisha có vẻ yên tâm. “Cảm ơn,” cô khẽ nói.
Brooke siết chặt cánh tay cô gái rồi bước ra ngoài tấm rèm. Sau khi lấy vitamin cho Alisha, cô đi như chạy về căn phòng nghỉ ảm đạm của các bác sĩ dinh dưỡng ở tầng năm, một khối lập phương không cửa sổ với một chiếc bàn mica bốn chỗ ngồi, một tủ lạnh mini và một bức tường đặt những ngăn tủ khóa. Nếu vội thì cô có thể ngốn một bữa qua loa và một tách cà phê mà vẫn có thể về kịp giờ hẹn ca khám tiếp theo. Thở phào vì thấy căn buồng không có ai và bình cà phê đầy ắp, Brooke kéo một hộp nhựa đựng những miếng táo cắt sẵn từ ngăn tủ của mình ra rồi bắt đầu phết những gói nhỏ bơ lạc chiết xuất hoàn toàn tự nhiên lên đó. Đúng lúc cô đang nhồm nhoàm đầy miệng thì chuông điện thoại di động của cô reo.
“Mọi việc ổn cả chứ ạ?” cô hỏi mà không chào. Giọng cô nghèn nghẹt vì thức ăn.
Mẹ cô ngập ngừng. “Tất nhiên rồi, con yêu. Sao lại không ổn được?”
“Là vì, mẹ à, ở đây bận lắm, và mẹ biết là con không thích nói chuyện khi làm việc rồi đây.” Đường dây làm lãng đi mất nửa cuối câu nói của cô.
“Gì thế? Mẹ không nghe được con.”
Brooke thở dài. “Không có gì đâu, mẹ đừng bận tâm. Có việc gì thế ạ?” Cô mường tượng ra mẹ mình mặc quần kaki và đi đôi giày bệt hiệu Naturalizer đặc trưng, những thứ mà bà đã vận suốt cả cuộc đời, đang đi tới đi lui trong phòng bếp tại căn hộ của bà ở Philadelphia. Mặc dù đã lấp đầy ngày tháng của mình bằng một loạt những câu lạc bộ sách, câu lạc bộ sân khấu và những công việc tình nguyện khác, nhưng dường như mẹ cô vẫn có thừa thãi thời gian, mà phần lớn là dành cho việc gọi điện hỏi con cái xem tại sao họ không gọi cho bà. Tuy rằng mẹ cô hưởng thời gian hưu trí là điều hay, nhưng trước đó khi còn đi dạy học từ bảy giờ sáng đến ba giờ chiều hằng ngày thì bà đỡ ngầy ngà với Brooke hơn nhiều.
“Chờ một phút thôi nhé...” Giọng mẹ cô chìm xuống và trong giây lát giọng Oprah trước đó vẫn đang vọng đến át cả giọng bà cũng đột ngột im bặt. “Được rồi đây.”
“Chà, mẹ tắt cả Oprah (1) đi cơ à. Hẳn là việc quan trọng lắm đây.”
“Chị ấy lại đang phỏng vấn Jennifer Aniston lần nữa. Mẹ không thể nghe thêm được nữa. Cô ta đã quên Brad rồi. Cô ta thích thú vì sắp sang tuổi bốn mươi gì gì đó. Cô ta chưa bao giờ thấy vui như thế. Biết rồi, khổ lắm. Tại sao chúng ta cứ phải nói mãi về chuyện đó thế?”
Brooke phì cười. “Nghe này, mẹ ơi, con gọi lại ẹ tối nay được không? Con chỉ có mười lăm phút nghỉ giữa giờ thôi.”
“Được chứ, con yêu à. Lúc đó nhắc mẹ kể với con về anh trai con nhé.”
“Có chuyện gì không hay với Randy ạ?”
“Làm gì có gì không hay với Randy... cuối cùng thì cũng có cái gì đó hay với nó ấy chứ. Nhưng mẹ biết là con đang bận, thôi để nói sau vậy.”
“Kìa mẹ...”
“Mẹ thật vô ý khi gọi cho con giữa ca trực. Thậm chí mẹ không...”
Brooke thở dài đánh sượt và cười thầm. “Mẹ muốn con van xin mẹ đấy à?”
“Con yêu ơi, nếu đã không đúng lúc tức là không đúng lúc. Hãy nói chuyện này khi con có nhiều thời gian hơn.”
“Thôi được, mẹ ạ. Con van mẹ hãy kể cho con về Randy. Đúng hơn là nài nỉ đấy. Hãy kể cho con xem có chuyện gì với anh ấy thế. Đi mẹ.”
“Được rồi, nếu con cứ khăng khăng muốn vậy... thì đây, mẹ sẽ kể cho con. Randy và Michelle đang có thai. Đó, là con buộc mẹ phải nói ra đấy nhé. ”
“Họ đang cái gì?”
“Có thai, con yêu ạ. Sắp có con. Chị Michelle mới ở giai đoạn đầu – mới có bảy tuần, mẹ nghĩ thế - mà bác sĩ của chúng nó nói rằng mọi cái có vẻ đều ổn. Có tuyệt không cơ chứ?”
Brooke lại nghe tiếng vô tuyến vọng đến từ đầu dây đằng kia, lần này khẽ hơn, nhưng cô vẫn nghe được tiếng cười không lẫn vào đâu được của Oprah.
“Tuyệt á?” Brooke vừa hỏi vừa đặt con dao nhựa xuống. “Con không chắc đó là từ ngữ con định dùng. Họ vừa mới hẹn hò được sáu tháng thôi mà. Họ còn chưa kết hôn. Thậm chí họ còn chưa chung sống với nhau.”
“Con trở nên đoan trang như thế từ khi nào vậy, con yêu của mẹ?” bà Green vừa hỏi vừa tặc lưỡi. “Nếu con có nói với mẹ rằng đứa con gái ba mươi tuổi, lịch sự, được học hành tử tế của mẹ lại là một người cổ hủ như vậy thì mẹ cũng chẳng thể tin vào điều đó được.”
“Mẹ à, con không chắc từ ‘cổ hủ’ là chính xác để chỉ những người cố gắng hạn chế sinh con cái trong những mối quan hệ tiền hôn nhân đâu nhé.”
“Ôi, Brooke, hãy bớt căng thẳng đi một chút. Không phải ai cũng có thể - hoặc nên - kết hôn khi hai mươi lăm tuổi. Randy ba mươi tám và Michelle gần bốn mươi rồi. Có thật con nghĩ rằng thời này vẫn còn có người quan tâm đến mấy thứ giấy tờ hôn thú vớ vẩn đó không đấy? Bây giờ tất cả chúng ta đều phải biết quá rõ rằng điều đó hầu như chẳng nghĩa lý gì nữa.”
Đầu óc Brooke xoay quanh một loạt ý nghĩ: vụ ly dị của cha mẹ cô gần mười năm trước đây, khi cha bỏ mẹ để đi theo cô y tá của trường trung học nơi họ cùng dạy học; cái cách mà mẹ ấn cô ngồi xuống sau khi cô đính hôn với Julian và nói vói cô rằng phụ nữ ngày nay có thể hoàn toàn hạnh phúc mà không cần kết hôn; nỗi niềm mong mỏi thiết tha của mẹ cô rằng Brooke nên chờ đến khi cô có sự nghiệp vững vàng rồi hãy bắt đầu cuộc sống gia đình. Thật thú vị khi thấy dường như Randy hành động theo những đường lối chỉ đạo khác hẳn.
“Con có biết mẹ thấy buồn cười nhất là gì không?” mẹ cô hỏi không bỏ lỡ lấy một giây. “Ý nghĩ rằng có thể, chỉ là có thể thôi nhé, cha con và Cynthia cũng sẽ có một đứa con. Con thấy đấy, xét ra thì cô ta hãy còn trẻ thế. Vậy thì con sẽ có một người anh trai và một ông bố đang chờ sinh con. Thật đấy, Brooke, có bao nhiêu cô gái có thể nói thế được nhỉ?”
“Mẹ...”
“Nghiêm túc mà nói, con yêu ạ, con không nghĩ khá là trớ trêu sao - ờ, mẹ không chắc từ ‘trớ trêu’ là thích hợp, nhưng chuyện này thật trùng hợp một cách ngẫu nhiên - khi vợ của cha con còn trẻ hơn Michelle một tuổi.”
“Mẹ. Xin mẹ thôi đi. Mẹ biết thừa rằng bố và Cynthia không định có con cái gì cả - bố sắp sáu mươi lăm tuổi rổi, vì Chúa, và dì ấy thậm chí còn không muốn...” Brooke ngừng lời, cười thầm và lắc đầu. “Mẹ biết không, có thể mẹ nói đúng đấy, bố và Cynthia sẽ theo cái mốt đó. Rồi Randy và bố có thể sẽ bị trói buộc với thời gian biểu bú mớm và thay tã. Thế mới hay chứ.”
Cô chờ mẹ phản ứng như mong đợi, và cô không phải thất vọng.
Mẹ cô khịt mũi. “Thôi nào. Hồi hai con còn ẵm ngửa, con người ấy đến gần nhất với một chiếc tã là khi ông ấy xem quảng cáo tã Pampers. Đàn ông không thay đổi đâu, Brooke à. Cha con sẽ chẳng bao giờ động tay động chân làm gì với đứa trẻ đó cho đến khi nó đủ tuổi bộc lộ quan điểm chính trị. Nhưng mẹ nghĩ anh trai con thì còn hi vọng.”
“Vâng, thì cứ hi vọng là thế. Tối nay con sẽ gọi cho anh ấy để chúc mừng, nhưng con phải…”
“Đừng!” bà Green kêu thất thanh. “Mẹ con mình chưa hề nói chuyện này đấy nhé. Mẹ đã hứa là sẽ không kể với con, vậy con hãy làm ra vẻ ngạc nhiên khi anh con gọi cho con đi.”
Brooke thở dài và cười. “Mẹ ơi, mẹ mới đáng tín cậy làm sao! Thế nghĩa là mẹ cũng kể cho Randy mọi chuyện mặc dù con đã nói dứt khoát với mẹ rằng đó là bí mật phải không?”
“Tất nhiên là không. Chỉ chuyện gì hay mẹ mới nói với nó thôi.”
“Cảm ơn mẹ.”
“Mẹ yêu con, cưng à. Và nhớ phải giữ bí mật chuyện này đấy nhẹ.”
“Con hứa. Mẹ hãy tin lời con đi.”
Brooke cúp máy và nhìn đồng hồ: năm giờ kém năm. Chỉ còn bốn phút là đến ca khám tư vấn sắp tới của cô. Cô biết rằng mình không nên gọi điện ngay lúc đó, nhưng quả thật cô không thể đợi được.
Ngay khi vừa bấm số, cô sực nhớ ra rằng Randy có thể ở lại trường sau giờ học để huấn luyện đội bóng đá nam, nhưng anh nhấc máy ngay hồi chuông đầu tiên. “Kìa, Brookie. Có chuyện gì thế?”
“Có chuyện gì với em á? Chả có cái quái gì hết. Có chuyện gì với anh thì đúng hơn.”
“Chúa ơi. Anh chỉ vừa mới bảo mẹ khoảng tám phút trước, và mẹ đã thề là sẽ để anh tự kể với em cơ đấy.”
“Thế à, thì em cũng đã thề rằng em sẽ không nói với anh là mẹ nói với em, thôi kệ. Chúc mừng, anh cả ơi!”
“Cảm ơn. bọn anh đều khá hào hứng. Cũng hơi hoảng – điều đó xảy ra nhanh hơn dự kiến của cả hai đứa bọn anh nhiều - nhưng mà vui lắm.”
Brooke cảm thấy mình nín thở. “Anh nói ‘nhanh hơn’ là sao? Anh đã trù tính trước chuyện này hả?”
Randy cười to. Cô nghe thấy anh nói, “Chờ tôi một phút,” với ai đó ở đầu dây đằng kia, chắc là với một học sinh, và rồi anh nói, “Ừ, cô ấy ngưng thuốc ngừa thai tháng trước. Bác sĩ nói rằng phải mất ít nhất vài tháng để chu kỳ của cô ấy trở lại bình thường rồi mới có thể nói rằng liệu có khả năng mang thai được hay không do tuổi tác của cô ấy. Bọn anh không hề nghĩ rằng nó lại xảy ra ngay tức thì...”
Thật kỳ cục khi nghe anh trai cô - một người tự nhận mình là trai độc thân, trang hoàng nhà mình bằng những chiếc cúp bóng đá cũ và dành nhiều diện tích cho bàn bi-a hơn là cho căn bếp - nói về chu kỳ kinh nguyệt và thuốc ngừa thai và những ý kiến của bác sĩ. Đặc biệt là khi mọi lời dự đoán đều dồn về phía Brooke và Julian là những ứng cử viên nặng ký nhất có thể đưa ra một tuyên bố quan trọng...
“Chà. Em biết nói gì thêm nữa? Hết sảy.” Đó quả thật là tất cả những gì cô có thể nói; cô những lo rằng Randy có thể nghe thấy giọng cô nghèn nghẹn và sẽ hiểu sai đi.
Cô mừng cho Randy đến nỗi cô cảm thấy nghẹn ngào trong cổ. Tất nhiên, anh đã xoay xở để tự chăm sóc mình rất tốt, và anh luôn có vẻ khá hạnh phúc, nhưng Brooke cứ lo rằng anh quá cô đơn. Anh sống ở vùng ngoại ô, xung quanh là các gia đình, và tất cả bạn bè thời đại học của anh đã có con cái từ đời nào rồi. Cô và Randy chưa thật gần gũi đủ để tâm sự những chuyện này, nhưng cô đã luôn băn khoăn không hiểu anh có thích sống như thế không, anh có hạnh phúc với cuộc sống độc thân của mình không. Giờ đây khi thấy sự hào hứng của anh khẳng định chắc chắn rằng anh hẳn đã mong mỏi điều này biết bao, cô nghĩ mình muốn khóc.
“Ừ, khá là tuyệt. Em có tưởng tượng được cảnh anh dạy thằng bé cách ném bóng không? Anh sẽ kiếm cho nó một quả bóng cỡ nhỏ bằng da lợn ngay khi bắt đầu - không phải loại Nerf vớ vẩn cho con anh đâu nhé - và khi tay nó đủ to, nó sẽ sẵn sàng cho những trận đấu đích thực.”
Brooke bật cười. “Rõ là anh chưa nghĩ đến khả năng dễ thấy rằng anh có thể có một đứa con gái, hử?”
“Có ba cô giáo ở trường đang mang thai, và cả ba người bọn họ đều sẽ sinh con trai,” anh nói.
“Hay thật. Nhưng anh cũng biết rằng dù anh cùng chung một môi trường công tác với họ thì đứa con tương lai của anh và của họ không bị luật pháp hoặc y học bắt buộc phải mang cùng một giới tính, phải không nào?”
“Anh không chắc lắm về điều đó...”
Cô lại cười. “Thế thì hai anh chị sẽ hỏi cho biết chứ? Hay là quá sớm để đặt ra câu hỏi đó? Em thật chẳng hiểu mấy thứ đó vận hành ra sao.”
“À. Vì anh biết chắc như đinh đóng cột là bọn anh sẽ có con trai nên anh thực sự không thấy cần thiết phải hỏi, mà Michelle lại muốn được bất ngờ. Thế nên bọn anh sẽ đợi.”
“Ồ, vui thật. Khi nào thì đến kỳ sinh em bé?”
“Hai mươi lăm tháng Mười. Một bé con mùa lễ Halloween. Anh cho rằng đó là điềm may.”
“Em cũng nghĩ thế,” Brooke nói. “Ngay bây giờ em sẽ đánh dấu ngày này trên lịch. Ngày hai mươi lăm tháng Mười: em sẽ lên chức cô.”
“Này Brookie, thế hai em thì sao? Có anh em họ gần tuổi mình cũng khá hay đấy chứ. Có cơ may nào không?”
Cô biết rằng quả thật không dễ gì đối với Randy khi hỏi một câu riêng tư thế này nên cô cố nén không chặn họng anh, nhưng anh đã động đến nỗi đau. Khi cô và Julian lấy nhau, cô hai mươi lăm và anh hai mươi bảy tuổi, cô cứ nghĩ rằng khoảng chừng sinh nhật lần thứ ba mươi của cô họ sẽ có con. Nhưng giờ họ đã đến tuổi này, đã qua cái mốc đó mà thậm chí còn khuya mới bắt đầu thử. Cô đề cập đến chuyện này với Julian một vài lần, một cách ngẫu nhiên để không tạo quá nhiều áp lực cho cả đôi bên, nhưng anh đã hờ hững y như câu trả lời của anh vậy. Rằng thì, “một ngày nào đó” một đứa con có thể sẽ là điều tuyệt vời, nhưng hiện tại họ đang hành động đúng đắn khi tập trung vào sự nghiệp. Vì vậy cho dù cô muốn có một đứa con - thực ra là không muốn gì hơn thế, đặc biệt là lúc này đây, khi nghe tin mừng của Randy - cô vẫn áp dụng chiến thuật của Julian.
“Ồ, tất nhiên là sẽ có ngày,” cô trả lời, cố gắng để giọng nghe bình thường, hoàn toàn ngược lại với cảm xúc thật của cô. “Nhưng hiện giờ không đúng lúc đối với bọn em. Tập trung cho công việc, anh biết đấy.”
“Hẳn rồi,” Randy nói, và Brooke băn khoăn liệu anh có biết sự thật không. “Các em nên làm những gì thích hợp với mình.”
“Vâng, vậy thì... anh này, em xin lỗi phải chạy đi nhưng giờ nghỉ của em đã hết và em trễ ca khám tư vấn rồi đây.”
“Không sao, Brookie. Cảm ơn em đã gọi điện. Và lòng nhiệt tình của em nữa.”
“Anh trêu em đấy à? Cảm ơn anh về tin vui sửng sốt ấy nhé. Anh làm em vui cả ngày - à, cả tháng đấy. Chúc mừng thêm một lần nữa nhé, anh Randy. Em cực kỳ mừng cho anh chị! Tối nay em sẽ gọi cho Michelle để chúc mừng sau nhé, được không?”
Họ cúp máy và Brooke bắt đầu quãng đường dài quay về tầng năm. Vẫn còn mang tâm trạng hồ nghi, cô không ngừng lắc lắc đầu trong lúc đi. Trông cô hẳn là giống một người điên, nhưng trạng thái đó trong bệnh viện chẳng làm ai để ý. Randy. Một người cha!
Brooke những muốn gọi điện kể với Julian tin này, nhưng lúc trước giọng anh nghe đã căng thẳng, vả lại thật ra chẳng còn chút thời gian nào trước ca tư vấn của cô nữa. Một bác sĩ dinh dưỡng đang nghỉ phép và hàng loạt ca sinh đổ đến đông không thể hiểu được vào sáng hôm đó - gần gấp đôi bình thường - thành thử ngày làm việc của cô cứ như đang chạy với tốc độ tên lửa. Thế cũng hay: càng hoạt động nhiều cô càng ít phải đắm mình trong trạng thái mệt lử. Với lại, cô thấy vừa thích thú vừa như được thử thách khi họ bị dồn việc như vậy, và mặc dù ca cẩm với Julian và mẹ nhưng cô thầm yêu thích điều này: tất cả những bệnh nhân thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội, mỗi người đến bệnh viện vì những nguyên nhân hoàn toàn khác biệt nhưng đều cần một ai đó điều chỉnh chế độ ăn uống cho hợp với thể trạng riêng của mình.
Chất caffein tác động như dự kiến, và Brooke xử lý ba ca hẹn cuối cùng của mình một cách nhanh chóng và hiệu quả. Cô vừa mới thay áo blu bằng quần jean và áo len dài tay xong thì Rebecca, một đồng nghiệp đang ở trong phòng nghỉ, báo với cô rằng sếp muốn gặp cô.
“Bây giờ á?” Brooke hỏi lại mà lo rằng buổi tối của mình sắp tan thành mây khói.
Những ngày thứ Ba và thứ Năm là bất khả xâm phạm: chỉ những ngày đó trong tuần cô mới không phải rời bệnh viện đến khu phố trên làm thêm, với cương vị một bác sĩ dinh dưỡng tư vấn cho Học viện Huntley, một trong những trường nữ sinh tư thục tốt nhất ở Khu Thượng Đông. Cha mẹ của một nữ sinh trường Huntley qua đời ở tuổi hai mươi vì chứng chán ăn trầm trọng đã thành lập một quỹ ở trường dành ột chương trình thử nghiệm, chương trình này tài trợ ột bác sĩ dinh dưỡng túc trực tại trường hai mươi giờ mỗi tuần để tư vấn cho các cô gái cách ăn uống lành mạnh và nhận thức về hình thể. Brooke là người thứ hai làm việc trong chương trình mới mẻ này, và mặc dù thoạt đầu cô nhận vị trí này chỉ vì đó là một phương kế phụ thêm thu nhập của cô và Julian, nhưng càng ngày cô càng thấy gắn bó hơn với các thiếu nữ ở đây. Hiển nhiên, nỗi tức giận, sự phiền phức, nỗi ám ảnh không bao giờ dứt về thức ăn có những lúc làm cô nản lòng, nhưng cô luôn cố gắng tự nhủ rằng ấy là do những bệnh nhân trẻ này không biết rõ đấy thôi. Một lợi ích nữa là công việc này cho cô việc với thanh thiếu niên nhiều hơn, thứ kinh nghiệm mà cô còn thiếu.
Vì vậy những ngày thứ Ba và thứ Năm hằng tuần cô chỉ làm việc ở bệnh viện, từ chín giờ sáng đến sáu giờ chiều. Ba ngày còn lại trong tuần lịch làm việc của cô đẩy lên sớm hơn cho phù hợp với công việc phụ: cô làm việc tại Đại học New York từ bảy giờ sáng đến ba giờ chiều và sau đó đi tàu đến bến xe buýt chạy xuyên thành phố để đến trường Huntley ở khu phố trên, nơi cô gặp các sinh viên - và thỉnh thoảng cả cha mẹ họ nữa - cho đến gần bảy giờ tối. Dù cô có cố tự bắt mình đi ngủ sớm đến thế nào, và bất chấp lượng cà phê cô uống khi thức dậy có nhiều đến mấy đi chăng nữa, thì cô vẫn triền miên cảm thấy kiệt sức. Cách sống với công việc đúp này thật oải, nhưng cô dự tính rằng cô chỉ cần một năm làm việc nữa thôi là có đủ tiêu chuẩn và kinh nghiệm để mở phòng tư vấn về dinh dưỡng trước và sau khi sinh của riêng cô, điều mà cô đã mơ ước kể từ ngày đầu tiên vào đại học và cũng chính là điều mà kể từ ngày đó cô đã phải chăm chỉ làm lụng để đạt được.
Rebecca gật đầu vẻ thông cảm. “Bà ấy hỏi chị có thể ghé qua chỗ bà ấy trước khi về không.”
Brooke nhanh chóng thu xếp vật dụng của mình rồi quay lại tầng năm.
“Margaret?” cô vừa gọi vừa gõ cửa văn phòng. “Rebecca nói là bà cần gặp tôi?”
“Vào đi, vào đi,” sếp của cô vừa nói vừa sắp xếp một số giấy tờ trên bàn làm việc. “Xin lỗi vì giữ cô lại muộn, nhưng tôi nghĩ rằng người ta luôn có thời gian dành cho những tin vui.”
Brooke thả mình xuống chiếc ghế đối diện với Margaret và chờ đợi.
“Thế này nhé, chúng tôi đã kiểm xong bản đánh giá của các bệnh nhân, và tôi rất vui mừng báo cho cô biết rằng trong tất cả các chuyên gia dinh dưỡng thì cô nhận được điểm cao nhất.”
“Tôi á?” Brooke hỏi mà hầu như không tin rằng cô trong bảy người.
“Còn chưa hết đâu.” Margaret lơ đãng quệt thỏi son dưỡng ChapStick, mim mím cặp môi, rồi quay lại nhìn chăm chăm lên giấy tờ của bà. “Chín mươi mốt phần trăm bệnh nhân đánh giá chất lượng tư vấn của cô là ‘xuất sắc’, và chín phần trăm còn lại đánh giá ‘tốt’. Ở mục tiếp theo là mục đánh giá nhân viên tốt nhất thì cô được tám mươi hai phần trăm xếp hạng ‘xuất sắc’.”
“Ôi chà,” Brooke nói, và dù nhận thấy mình phải cố gắng khiêm nhường một chút nhưng cô không làm sao ngưng được nụ cười. “Tin tuyệt quá. Tôi rất mừng được nghe tin này.”
“Thì chúng tôi cũng mừng như cô, Brooke ạ. Chúng tôi rất hài lòng, và tôi mong cô biết rằng thành tích của cô không bị làm ngơ đâu. Cô vẫn sẽ được phân ca ở phòng Điều trị Tích cực, nhưng từ tuần tới chúng tôi sẽ thay thế tất cả các ca trực tâm lý của cô bằng các ca sơ sinh. Tôi cho rằng cô thấy cách phân công như thế ổn thỏa cả đấy chứ?”
“Vâng, vâng. Tôi thấy tuyệt lắm!” Brooke trả lời.
“Như cô biết đấy, xét về thâm niên thì cô chỉ đứng thứ ba, nhưng không ai có trình độ và kinh nghiệm bằng cô cả. Tôi nghĩ phân công đó cực kỳ phù hợp với cô.”
Brooke không thể kìm được nụ cười rạng rỡ. Rốt cuộc thì một năm cao học nghiên cứu thêm về dinh dưỡng cho trẻ em, thanh thiếu niên và trẻ sơ sinh, cộng với thời kỳ làm bác sĩ thực tập đúp mà cô lựa chọn - cả hai đều thuộc nhi khoa - đã được đền đáp.
“Margaret, tôi không biết cảm ơn bà sao cho đủ vì tất cả những điều này. Đó chính là tin vui nhất từ trước đến nay.”
Sếp của cô cười lớn. “Chúc một buổi tối tốt lành. Hẹn mai gặp lại cô.”
Khi Brooke đi bộ tới ga tàu điện ngầm, cô thầm cảm ơn vừa vì được thăng tiến nửa vời vừa rồi, mà điều này còn hay hơn, cô không phải thăng tiến thực sự.
Cô xuống tàu ở bến Quảng trường Thời Đại, nhanh chóng len lỏi tìm lối giữa đám đông dưới bến tàu điện ngầm rồi thong thả nhô lên mặt đường từ cầu thang phố 43 mà cô thường đi, là lối gần nhất tới căn hộ của hai vợ chồng cô và cho phép cô tránh được cảnh chen chúc của đám đông mà cô sẽ đụng phải nếu đi theo lối phố 42. Không ngày nào mà cô không nhớ đến căn hộ cũ của họ ở Brooklyn - cô yêu hầu hết mọi thứ ở khu Brooklyn Heights và ghét hầu như tất thảy mọi thứ ở Midtown West - nhưng dù sao cô cũng phải thừa nhận rằng ở khu này hai vợ chồng đi lại bằng phương tiện giao thông công cộng đỡ tệ hơn.
Cô ngạc nhiên khi Walter, con chó tam thể và đốm một bên mắt giống Tây Ban Nha, không sủa khi cô tra chìa vào ổ khóa cửa căn hộ. Nó cũng không phi đến mừng cô.
“Walter Alter! Mày đâu rồi?” Cô bập bập môi gọi và chờ đợi. Tiếng đàn vẳng ra từ chỗ nào đó trong căn hộ.
“Bọn anh đang ở trong phòng khách,” Julian trả lời. Câu trả lời của anh bị tiếng sủa ăng ẳng cuống cuồng của Walter ngắt quãng.
Brooke buông túi ngay khi vừa bước vào, đá đôi giày ra khỏi chân, và nhận thấy căn bếp sạch hơn trông thấy so với lúc cô rời khỏi đó.
“Kìa! Em không nghĩ là tối nay anh về nhà sớm,” cô nói trong lúc ngồi xuống đi văng bên cạnh Julian. Cô ghé sang để hôn anh nhưng Walter chặn lại liếm lên miệng cô trước.
“Ưm, cảm ơn Walter nhé. Tao cảm thấy mình được chào đón rất nồng nhiệt.”
Julian tắt tiếng vô tuyến rồi quay lại đối diện với cô. “Anh cũng thích liếm mặt em đấy, em biết không. Lưỡi anh hẳn là không thể cạnh tranh với lưỡi một con Tây Ban Nha được, nhưng này, anh muốn thử.” Anh cười toác, và Brooke ngạc nhiên vì thậm chí sau chừng ấy năm trời cô vẫn cảm thấy nao nao mỗi khi anh cười kiểu đó.
“Phải nói là điều đó cám dỗ đấy.” Cô tránh Walter và xoay xở để hôn lên miệng Julian bây giờ vẫn còn hơi rượu. “Lúc trước giọng anh có vẻ căng thẳng, em đã nghĩ rằng anh sẽ về nhà muộn hơn rất nhiều cơ đấy. Mọi việc ổn không anh?”
Anh đứng dậy đi vào bếp, rồi quay trở lại đưa cho Brooke ly rượu thứ hai đã rót đầy. “Mọi việc ổn cả. Chiều nay khi chúng mình cúp máy, anh nhận ra rằng có đến cả tuần nay chúng mình chưa ở bên nhau một tối nào. Anh về đây để sửa chữa khuyết điểm đó.”
“Anh á? Thật không?” Nhiều ngày nay cô cũng đã nghĩ như vậy nhưng không muốn phàn nàn khi Julian đang ở vào thời điểm then chốt trong quá trình ra đĩa.
Anh gật đầu. “Anh nhớ em, Rook à.”
Cô choàng tay qua cổ anh và hôn anh lần nữa. “Em cũng nhớ anh. Em rất mừng vì anh về nhà sớm. Anh có muốn chạy ra ngoài ăn mì không?”
Để tiết kiệm tiền, cô và Julian đã có quy ước nấu ăn ở nhà càng thường xuyên càng tốt, nhưng cả hai cũng nhất trí rằng quán cóc bán mì ở góc phố không được tính là đi ăn tiệm.
“Em có phản đối nếu mình ở nhà không? Anh đã mong chờ tối nay sẽ có một buổi tối êm đềm với em đấy.” Anh nhấp một ngụm rượu nữa.
“Được chứ, thế cũng hay. Em sẽ giao kèo với anh...”
“Ồ không, lại thế nữa rồi...”
“Em sẽ đổ mồ hôi sôi nước mắt bên bếp nóng để nấu cho anh một bữa ngon lành bổ dưỡng nếu anh đồng ý xoa bóp chân và lưng cho em ba mươi phút.”
“ ‘Đổ mổ hôi sôi nước mắt bên bếp nóng’ á? Em có thể làm món gà xào trong hai phút. Giao kèo này thật chả công bằng gì sất.”
Brooke nhún vai. “Được thôi. Có ngũ cốc trong chạn ấy, nhưng hình như nhà mình hết sữa rồi. Lúc nào anh cũng có thể tự làm ít bỏng ngô cho anh được mà.”
Julian quay về phía Walter và nói, “Mày không biết mày sướng đến mức nào đâu, cậu nhỏ ạ. Cô ấy không bắt mày phải làm việc để đổi lấy thức ăn.”
“Giá đã tăng lên ba mươi phút rồi đấy nhé.”
“Thì đã nói là ba mươi phút rồi còn gì,” Julian rên rẩm.
“Lúc trước tổng cộng là ba mươi phút. Còn bây giờ là ba mươi phút làm chân và ba mươi phút nữa làm lưng.”
Julian giả bộ cân nhắc điều này. “Bốn mươi lăm phút thì anh sẽ...”
“Cứ cố kỳ kèo là chỉ làm tăng thêm tổng lượng thời gian đấy nhé.”
Anh giơ cả hai bàn tay lên. “Anh e là chả có giao kèo gì hết.”
“Thật không?” cô hỏi. “Anh sẽ tự mình lo liệu bữa tối nay chăng?” cô vừa hỏi tiếp vừa cười tươi hơn hớn. Julian là một đối tác bình đẳng trong việc dọn dẹp lau chùi, trả tiền các hóa đơn và chăm sóc con chó, nhưng trong bếp thì anh vô dụng và anh cũng biết thế.
“Thực ra thì anh đang tự đây. Anh sẽ lo liệu cho cả hai chúng ta, thật đấy. Tối nay anh đã nấu bữa tối cho em rồi.”
“Anh đã cái gì?”
“Em nghe thấy anh nói rồi đấy.” Đâu đó trong bếp tiếng thiết bị hẹn giờ bắt đầu kêu bíp bíp. “Và bữa tối đã sẵn sàng trong lúc chúng mình mải nói chuyện. Mời quý khách ngồi,” anh nhái giọng Anh quốc đúng điệu.
“Em ngồi rồi đây,” cô vừa nói vừa ngả người trên đi văng và gác chân lên bàn nước.
“À, phải rồi,” Julian hồ hởi nói vọng ra từ căn bếp mini của họ. “Anh thấy là em đã tìm được đường đến phòng ăn trang trọng rồi. Chuẩn đấy!”
“Em có giúp gì được không?”
Tay đeo đôi găng dùng để lấy thức ăn từ lò nóng, Julian trở lại bê theo món ăn đựng trong chiếc đĩa thủy tinh chịu nhiệt. “Món ziti nướng [2] cho người anh yêu...” Anh đang định đặt chiếc đĩa nóng thẳng xuống mặt bàn gỗ trần thì Brooke la toáng và nhảy bổ lên đi lấy cái lót nồi. Julian bắt đầu dùng thìa xúc món pasta đang bốc hơi ra dĩa.
Brooke chỉ có thể dán mắt nhìn. “Có phải đây là cách để anh nói với em rằng anh vẫn đang ngoại tình với một cô khác suốt từ khi chúng mình cưới đến giờ và anh muốn được em tha thứ không?” cô hỏi.
Julian cười toét miệng. “Đừng nói nữa mà ăn đi.”
Cô ngồi xuống tự lấy ình một ít xa lát trong lúc Julian xúc món ziti vào đĩa của cô. “Anh yêu ơi, món này trông ngon tuyệt. Anh học nấu ở đâu vậy? Và tại sao tối tối anh lại không nấu món này?”
Anh nhìn cô với nụ cười bẽn lẽn. “Có lẽ hôm nay anh đã mua món ziti này ở hiệu và chỉ cho vào lò làm nóng lên thôi. Khả năng đó là hoàn toàn có thể. Nhưng món này được mua và hâm nóng bằng tình yêu.”
Brooke nâng ly rượu của mình lên và chờ Julian cụng ly. “Tuyệt vời,” cô nói thật lòng. “Tuyệt không thể tưởng được, trên cả tuyệt vời.”
Trong lúc họ ăn, Brooke kể với anh chuyện Randy và Michelle, và cô mừng khi thấy anh vui đến thế, thậm chí đến mức đề xuất rằng họ sẽ lái xe đến Pennsylvania trông hộ đứa cháu chưa biết là trai hay gái đó. Julian cập nhật thông tin cho cô về kế hoạch của hãng Sony lúc này khi đĩa nhạc đã sắp hoàn thành và nói với cô về người quản lý mới mà anh đã thuê theo lời giới thiệu từ người đại diện của anh.
“Có vẻ gã là người giỏi nhất trong số những người giỏi. Gã có tiếng là hơi quá xông xáo, nhưng anh nghĩ đó chính là tố chất mà ta muốn ở một người quản lý.”
“Thế lúc phỏng vấn thì anh thấy anh ta thế nào?”
Julian ngẫm nghĩ về điều này. “Anh không chắc dùng từ ‘phỏng vấn’ là chính xác. Phải nói là gã trình bày tổng thể kế hoạch của gã cho anh thì đúng hơn. Gã nói rằng lúc này chúng ta đang ở bước ngoặt quan trọng, và rằng giờ là lúc bắt đầu ‘lên kế hoạch hành động để đạt kết quả cao nhất’.”
“Chà, em nóng lòng muốn gặp anh ta quá,” Brooke nói.
“Ừ, chắc thái độ của gã hơi có vẻ mẹ mìn theo kiểu Hollywood - em biết đấy, nơi mà ta cảm thấy như ai ai cũng lươn lẹo để làm lợi ình - nhưng anh thích sự tự tin của gã.”
Julian dốc nốt rượu trong chai ra đều hai ly rồi ngồi lại vào ghế của anh. “Mọi việc ở bệnh viện thế nào? Ngày hôm nay có căng lắm không?”
“Khá căng, nhưng anh đoán được không? Qua đánh giá của bệnh nhân về toàn bộ nhân viên thì em được xếp hạng cao nhất đấy, và họ sẽ phân thêm cho em một số ca bệnh nhi nữa.” Cô nhấp thêm hớp rượu nữa từ ly của mình; cũng đáng để trả giá bằng cơn đau đầu vào buổi sáng ngày mai.
Julian cười tươi hơn hớn. “Tin này hay tuyệt, Rook à. Chả bất ngờ tí nào nhưng thật tuyệt. Anh rất tự hào về em.” Anh nhoài người qua bàn hôn cô.
Brooke rửa bát, sau đó ngâm mình trong bồn tắm trong lúc Julian làm nốt một vài việc trên trang web mới mà anh thiết kế cho riêng mình, rồi họ trở lại đi văng với nhau, cả hai đều vận quần pyjama vải flannel và áo phông. Julian đắp chiếc khăn phủ lên chân cả hai rồi chộp lấy điều khiển.
“Phim nhé?” anh hỏi.
Cô liếc nhìn đồng hồ trên đầu thu kỹ thuật số: mười giờ mười lăm. “Em nghĩ là bây giờ quá muộn để bắt đầu xem trọn một bộ phim, hay xem Grey’s [3]?”
Anh nhìn cô với vẻ mặt kinh hãi. “Không đùa đấy chứ? Em có thể bắt anh xem cái đó sau khi anh đã nấu bữa tối phục vụ em mà không thấy lương tâm cắn rứt ư?”
Cô mỉm cười và lắc đầu. “Em không chắc nấu là từ không gian lận đâu nhé, nhưng anh nói phải đấy. Tối nay quyền lựa chọn là của anh.”
Julian lướt qua danh sách trên đầu thu kỹ thuật số rồi bấm vào một tập phim hình sự truyền hình mới ra. “Lại đây em, anh sẽ xoa bóp chân cho em trong khi chúng mình xem phim.”
Brooke lật người sang để có thể đặt chân lên lòng anh. Cô suýt rên lên vì khoan khoái. Trên màn hình, các thanh tra đang khám nghiệm một xác chết bị chặt khúc được phỏng đoán là của một gái điếm nằm trong một bãi rác ở ngoại ô Vegas, và Julian xem chăm chú. Cô không thích loại phim án mạng kiểu bí hiểm với máy móc kỹ thuật cao như Julian - anh có thể xem họ tìm ra những kẻ sát nhân bằng các kỹ thuật quét, lade và lần theo dấu vết kiểu đó suốt đêm - nhưng tối nay thì cô không phản đối. Cô hạnh phúc khi ngồi lặng lẽ bên chồng và đắm mình vào cái cảm giác tuyệt vời khi anh xoa bóp chân cô.
“Em yêu anh,” cô nói trong lúc ngả đầu vào tay ghế và nhắm mắt lại.
“Anh cũng yêu em, Brooke ạ. Giờ thì yên lặng cho anh xem phim nào.”
Nhưng cô đã trôi vào giấc ngủ.
o O o
Cô chỉ vừa mới mặc xong quần áo thì Julian bước vào phòng ngủ của họ. Mặc dù hôm đó là Chủ nhật nhưng trông anh có vẻ bồn chồn.
“Chúng mình phải đi ngay không thì muộn mất,” anh vừa nói vừa chộp lấy đôi giày đế mềm từ trong tủ quần áo chung của họ. “Em biết là mẹ anh thích sự chậm trễ đến mức nào rồi đấy.
“Em biết mà, em sắp xong rồi đây,” cô nói, cố lờ đi sự thật là cô vẫn đang toát mồ hôi vì chạy thể dục ba dặm suốt một tiếng đồng hồ trước đó. Brooke nối bước Julian ra khỏi phòng ngủ, đón lấy chiếc áo khoác dạ mà anh đưa cho cô, và theo anh xuống dưới đường.
“Anh vẫn chẳng hiểu tại sao bố em và Cynthia đến thành phố hôm nay,” Julian nói trong lúc họ đi như chạy từ nhà đến ga tàu điện ngầm Quảng trường Thời Đại.
“Hôm nay là kỷ niệm ngày cưới của họ mà,” Brooke nhún vai đáp. Sáng mùa đông mà thế này thì thật là lạnh khác thường, và cô thèm đến chết một cốc trà nóng từ tiệm tạp phẩm Tây Ban Nha góc phố, nhưng họ chẳng còn dư lấy một giây.
“Và thế là họ quyết định đến đây à? Vào một ngày tháng Ba giá buốt như thế này ư?”
Brooke thở dài. “Em cho rằng còn thú vị hơn ở Philly.[4] Hình như Cynthia chưa bao giờ xem phim Vua sư tử và bố em nghĩ rằng đó là một cái cớ hay để đến thăm chúng mình. Em mừng vì anh sẽ có cơ hội báo tin trực tiếp cho họ...”
Cô liếc nhìn Julian và thấy anh cười, chỉ hơi tủm tỉm. Anh nên tự hào về bản thân, cô tự nhủ. Anh vừa mới nhận được một trong những tin vui nhất về sự nghiệp của mình, và anh xứng đáng với điều đó.
“Ừ, phải đấy, anh nghĩ mình có thể yên tâm mà nói rằng bố mẹ anh sẽ không được háo hức nhiệt tình cho lắm, nhưng em thì có lẽ sẽ hiểu,” anh nói.
“Bố em đã kể với tất cả những ai muốn nghe rằng anh có tài sáng tác bài hát như Bob Dylan và có giọng hát có thể làm họ phát khóc,” cô cười lớn. “Bố sẽ sướng rơn, chắc chắn đấy.”
Julian siết tay cô. Có thể cảm nhận rõ ràng sự phấn khích của anh.
Brooke nở một nụ cười yếu ớt khi họ chuyển sang tàu số 6.
“Em sao thế?” Julian hỏi.
“À, không sao đâu anh. Em hân hoan quá đỗi vì anh sẽ báo tin vui cho họ. Có điều em hơi hoảng vì phải đối phó với sự bất tiện khi bố mẹ cả hai bên cùng ngồi trong một phòng thôi.”
“Em nghĩ điều này sẽ tệ đến thế thật à? Cứ làm như là trước đây họ chưa từng gặp nhau bao giờ ấy.”
Brooke thở dài. “Em biết thế, nhưng họ mới chỉ gặp nhau ở chỗ đông người: ngày cưới của chúng mình này, những ngày nghỉ lễ nữa. Chưa bao giờ gặp riêng nhau thế này cả. Bố em thì chỉ muốn nói chuyện về mùa biểu diễn tới ban nhạc Eagles sẽ làm ăn ra sao mà thôi. Cynthia thì háo hức đi xem Vua sư tử, trời đất, và nghĩ rằng chuyến thăm thú thành phố này sẽ không đời nào trọn vẹn nếu không ăn trưa ở Phòng Trà Nga. Rồi còn bố mẹ anh nữa chứ: họ là những người New York gốc khắc nghiệt và dễ sợ nhất mà em từng gặp, những người tin chắc rằng NFL [5] là một tổ chức phi lợi nhuận của Pháp, những người mà từ những năm sáu mươi đến giờ chưa đi xem ca nhạc, và là những người sẽ không ăn bất kỳ món gì nếu món đó không do đầu bếp nổi tiếng nấu. Anh hãy nói em nghe: thế các bậc phụ huynh sẽ nói chuyện gì với nhau đây?”
Julian bóp nhẹ nơi gáy cô. “Đó chỉ là một bữa ăn nhẹ thôi mà, em yêu. Một chút cà phê, vài chiếc bánh vòng, rồi chúng mình thoát ngay. Anh chắc rằng mọi việc sẽ đâu vào đấy cả thôi.”
“Ừ, phải rồi, trong lúc bố em và Cynthia ba hoa không ngớt miệng theo cái kiểu hớn hở phấn khích không kìm được của họ thì bố mẹ anh ngồi ngây ra như tượng mà ngấm ngầm phán xét họ ư? Nghe có vẻ như một sáng Chủ nhật tươi hồng đấy nhỉ.”
“Cynthia có thể nói chuyện gẫu về nghề nghiệp với bố mẹ anh được đấy chứ,” Julian ngoan ngoãn gợi ý. Nhưng vẻ mặt anh như muốn nói, Anh còn chẳng tin được điều đó nữa là, và Brooke bật cười.
“Hãy bảo em là anh không định nói thế đi!” cô vừa nói vừa cười dữ hơn đến chảy cả nước mắt. Họ ngoi lên ở góc giao giữa phố 72 và đại lộ Lexington rồi bắt đầu đi bộ tới đại lộ Công Viên.
“Ờ thì, thật thế mà.”
“Anh đáng yêu quá đấy, anh biết không?” Brooke vừa hỏi vừa ngả sang hôn lên má anh. “Cynthia là y tá ở trường trung học. Dì ấy phòng ngừa bệnh viêm họng do liên cầu khuẩn và phát thuốc giảm đau Motrin trị chuột rút. Dì ấy chẳng biết tí gì về việc Botox hoặc Restylane có được chỉ định để đặc trị vết nhăn sâu khi cười hay không. Em không dám chắc kinh nghiệm nghề nghiệp của họ có điểm gì chung.”
Julian giả bộ phật ý. “Hình như em quên mất rằng mẹ cũng được liệt vào hàng các bác sĩ chuyên cắt tĩnh mạch dãn giỏi nhất nước,” anh nhe răng cười. “Em biết điều đó đáng nể đến mức nào đấy.”
“Vâng, tất nhiên rồi. Đáng nể lắm chứ.”
“Thôi được, anh hiểu ý em rồi. Nhưng bố anh có thể nói chuyện với bất kỳ ai. Em biết tính ông dễ chịu thế nào rồi đấy. Ông sẽ làm Cynthia quý ông à xem.”
“Ông là người rất thú vị.” Brooke nhất trí. Cô nắm lấy tay anh khi họ đến gần tòa nhà của gia đình Alter. “Nhưng ông ấy là một chuyên gia làm nở ngực nổi tiếng thế giới. Cũng là tự nhiên khi một người phụ nữ cho rằng ông đang săm soi cỡ ngực mình và cho rằng bộ ngực ấy quá nhỏ.”
“Brooke, thật vớ vẩn. Thế em cho rằng tất cả các bác sĩ nha khoa em gặp ở những chỗ giao tế đều nhìn chằm chằm vào răng lợi em ư?”
“Đúng thế.”
“Và tất cả các bác sĩ tâm lý em gặp trong một bữa tiệc đều phân tích tâm lý em?”
“Hiển nhiên rồi, trăm phần trăm luôn. Còn nghi ngờ gì nữa.”
“Thế thì lố bịch quá.”
“Cha anh khám, xử lý và đánh giá ngực phụ nữ tám giờ đồng hồ mỗi ngày. Em không cho rằng ông là người đồi trụy, nhưng bản năng của ông là săm soi người ta. Phụ nữ có thể cảm thấy thế, đó là những gì em muốn nói.”
“Chà, vấn đề này làm nảy sinh câu hỏi hiển nhiên đấy.”
“Thế á?” cô vừa hỏi vừa nhìn đồng hồ của mình khi mái hiên nhà hiện ra trước mắt họ
“Em có cảm giác như ông đang săm soi ngực em khi ông nhìn em à?” Julian tội nghiệp có vẻ bị ức chế khi đề cập đến điều ấy đến nỗi Brooke những muốn ôm lấy anh.
“Không, anh yêu, tất nhiên là không rồi,” cô thì thầm trong lúc tựa sát vào và ghì chặt tay anh. “Chí ít là đến nay thì chưa. Ông biết người biết ta, và ông biết rằng ông sẽ không bao giờ chạm tay vào ngực em, và em nghĩ rằng rốt cuộc ông đã thôi quan tâm đến điều đó.”
“Ngực em hoàn hảo, Brooke. Hoàn hảo tuyệt đối,” Julian thốt lên mà không nghĩ ngợi gì.
“Em biết. Chính vì thế mà cha anh đã đề xuất làm lại chúng với giá gốc khi chúng mình đính hôn ấy.”
“Ông đề xuất cho cộng sự của ông làm, và không phải vì ông nghĩ em cần cái đó…”
“Hờ, thế thì vì anh nghĩ em cần cái đó ư?” Brooke biết rằng hoàn toàn không phải vì thế - họ đã nói đến điều đó cả trăm lần và cô hiểu rằng bác sĩ Alter chỉ đơn thuần chào mời dịch vụ của ông như một người thợ may chào mời một bộ trang phục may đo giá ưu đãi mà thôi - nhưng toàn bộ câu chuyện này vẫn làm cô bức xúc.
“Brooke...”
“Xin lỗi. Chỉ vì em đói quá mà. Vừa đói lại vừa lo.”
“Việc đó chẳng quá tệ như em tiên liệu đâu.”
Người gác cổng đập tay và vỗ lưng Julian để chào anh. Tận đến khi anh ta đưa họ vào thang máy và họ bắt đầu vọt lên tầng tám thì Brooke mới nhận ra rằng cô không mang gì đến đây cả.
“Chắc mình phải chạy ngược ra mua bánh trái hoặc hoa hoét gì đó anh ạ,” Brooke vừa nói vừa khẩn thiết giật tay Julian.
“Thôi nào, Rook, chẳng thành vấn đề đâu. Họ là bố mẹ anh. Thực ra bố mẹ chẳng để ý đâu.”
“Ớ ờ. Nếu anh tin là mẹ anh không để ý những lần chúng mình đến tay không thì anh thật là hoang tưởng.”
“Chúng mình mang thân đến rồi còn gì. Đó là vấn đề chính yếu.”
“Được thôi. Anh cứ đi mà tự nhủ như thế nhé.”
Julian gõ cửa và cánh cửa mở ra. Tươi cười chào đón họ ở lối vào là Carmen, người vú em kiêm quản gia của gia đình Alter từ ba mươi năm nay. Trong một lần đầu gối tay ấp khi hai người yêu nhau chưa lâu, Julian thú nhận với Brooke rằng anh gọi Carmen là “Mẹ” tận đến lúc lên năm tuổi vì anh chẳng biết gọi bằng từ gì hơn. Carmen lập tức ôm lấy Julian.
“Con của vú khỏe không?” bà hỏi anh sau khi nhoẻn cười với Brooke và hôn lên má cô. “Vợ con có cho con ăn no không?”
Brooke siết chặt tay Carmen, ngạc nhiên tự hỏi hàng ngàn lần rằng sao Carmen lại không thể là mẹ của Julian, và nói, “Carmen, trông anh ấy có vẻ gì là chết đói không ạ? Có tối cháu còn phải giật nĩa khỏi tay anh ấy đấy.”
“Thế mới là cậu bé của tôi chứ,” bà nói và tự hào nhìn anh.
Một giọng nói lảnh lót vọng từ phòng khách chính ra hành lang. “Carmen yêu quý, hãy để bọn trẻ vào đây đi. Và đừng quên cắt cuống trước khi cắm hoa vào bình đầy. Chiếc bình Michael Aram [6] mới ấy nhé.”
Carmen nhìn quanh xem có hoa không nhưng Brooke chỉ chìa hai bàn tay trắng ra. Cô quay qua Julian và trao cho anh một cái nhìn đầy ngụ ý.
“Đừng có nói điều đó đấy,” Julian lẩm bẩm.
“Được thôi. Vì yêu anh nên em sẽ không nói rằng em đã bảo anh thế mà.”
Julian dẫn cô vào phòng khách chính - Brooke những mong rằng tất cả bọn họ sẽ bỏ qua phòng khách và đi thẳng vào phần ăn uống - và trông thấy cả hai cặp phụ huynh đang ngồi đối diện nhau trên những chiếc đi văng thấp giống hệt nhau kiểu cách rất thời trang.
“Brooke, Julian.” Mẹ anh mỉm cười nhưng không đứng lên. “Chúng ta rất mừng vì các con đã đến được với chúng ta.”
Brooke lập tức suy luận rằng câu nói đó là sự công kích vào việc họ đến trễ. “Rất xin lỗi vì chúng con trễ giờ, mẹ Elizabeth. Tàu điện ngầm rất…”
“Được rồi, chí ít thì các con cũng đã đến,” bác sĩ Alter nói, hai tay ông khum khum kiểu cách quanh ly nước cam đầy, y hệt cái cách mà cô tưởng tượng ông nâng niu những bộ ngực mà ông khám vậy.
“Kìa Brookie! Julian! Có gì mới không, các con?” Cha của Brooke đứng phắt lên ôm lấy cả đôi trong vòng ôm rộng. Rõ ràng là ông đang cư xử hơi cường điệu để cứu vãn tình thế cho gia đình Alter, nhưng thực lòng Brooke không thể trách ông được.
“Chào bố,” cô vừa nói vừa ôm ông. Rồi cô đi về phía Cynthia, chị ta đang bị kẹt trên đi văng giữa bọn họ, và trao cho chị một cái ôm lóng ngóng nửa đứng nửa ngồi. “Chào dì Cynthia. Rất vui được gặp dì.”
“Ôi, dì cũng vậy, Brooke ạ. Chúng ta rất háo hức đến đây! Cha con và dì đang nói dở câu chuyện rằng khó mà nhớ được lần cuối cùng chúng ta đến New York là từ bao giờ.”
Đến tận lúc đó Brooke mới nhìn rõ diện mạo Cynthia. Chị mặc bộ vest đỏ rực như xe cứu hỏa, chắc hẳn bằng chất liệu polyester, với áo kiểu màu trắng và đôi giày da đế bệt màu đen, một chuỗi hạt ngọc trai giả ba sợi quấn quanh cổ chị, và trên đỉnh của tổng thể bộ cánh đó là kiểu đầu bới cao xoăn tít xịt keo. Trông chị như thể đang truyền tải hình ảnh của Hillary Clinton tại lễ đọc diễn văn trước Quốc hội của tổng thống, quyết tâm nổi bật giữa biển người mặc lê tối màu. Brooke biết rằng chị chỉ cố gắng cho hợp với quan niệm của chị về cách ăn mặc của một phụ nữ Manhattan khá giả, nhưng toan tính của chị hỏng bét, đặc biệt là giữa những người lịch lãm nhà Alter, trong căn hộ đậm chất Á Đông này. Mẹ của Julian - dù hơn Cynthia đến hai mươi tuổi - trong chiếc quần jean màu sẫm bó khít và tấm khăn cashmere nhẹ như lông hồng choàng qua áo thụng chất co dãn không tay trông như trẻ hơn chị cả chục tuổi. Bà đi một đôi giày bệt kiểu ba lê thanh lịch với logo Chanel kín đáo và trang sức đi kèm chỉ gồm một lắc tay vàng và một chiếc nhẫn kim cương lớn. Làn da rám nắng của bà rạng rỡ với lớp trang điểm nhẹ nhàng, và tóc bà xõa xuống đến ngang lưng. Brooke lập tức cảm thấy mình có lỗi: cô biết chắc hẳn Cynthia phải cảm thấy bị đe dọa đến mức nào - xét cho cùng thì Brooke cũng luôn có cảm giác hệt như vậy mỗi khi có mặt mẹ chồng cô - nhưng cô còn bẽ mặt nữa vì cô đã đánh giá tình thế quá thấp. Thậm chí cả cha cô cũng có vẻ lúng túng khi nhận thấy chiếc quần kaki và cà vạt của ông lạc lõng bên cạnh chiếc áo polo ngắn tay của ông Alter.
“Julian, con yêu, mẹ biết là con muốn một ly cocktail Bloody. Brooke, con có thích một ly mimosa không?” Elizabeth Alter hỏi. Đó là một câu hỏi thông thường nhưng, giống như hầu hết những câu người phụ nữ này thường hỏi, nó gợi lên cảm giác như cài bẫy.
“Nói thật là con thích một ly Bloody Mary ạ.”
“Chắc thế rồi.” Bà mẹ của Julian mím môi lại tỏ vẻ chê bai ra mặt. Cho đến tận giờ, Brooke vẫn không chắc rằng mẹ chồng cô ghét cô vì những lý do có liên quan tới Julian và việc Brooke khuyến khích tham vọng âm nhạc của anh, hay vì bà ta thấy cô là kẻ rất chướng tai gai mắt.
Họ không còn lựa chọn nào khác ngoài cách ngồi vào hai chiếc ghế còn trống - cả hai đều có lưng tựa thẳng đứng bằng gỗ và không êm ái chút nào - hai chiếc ghế này đặt đối diện nhau nhưng bị lèn vào giữa hai chiếc đi văng. Cảm thấy khó xử và bất lực, Brooke cố nhanh nhảu khơi chuyện.
“Dạ, vài tuần qua bố mẹ thế nào ạ?” cô hỏi ông bà Alter và cười với Carmen khi đón ly Bloody Mary cao, đặc sền sệt được điểm bằng một lát chanh và nhánh cần tây trên miệng. Cô cố nén để không uống một hơi cạn hết ly. “Vẫn bận như mọi khi phải không ạ?”
“Ờ, tôi không thể tưởng tượng làm sao mà hai ông bà có thể duy trì lịch làm việc kiểu đó được!” Cynthia tiếp lời, có phần hơi lớn tiếng. “Brooke đã kể với tôi rằng có biết bao nhiêu, ờ, hoạt động mà ông bà phải tiến hành mỗi ngày, và như thế, đủ để làm bất kỳ ai kiệt sức. Tôi ấy à, chỉ cần một đợt viêm họng bùng phát là tôi quỵ ngay, nhưng hai ông bà kìa! Trời ạ, hẳn phải phát rồ lên mất.”
Elizabeth Alter nở nụ cười tươi và rất mực hạ cố. “Vâng, thì chúng tôi xoay xở để luôn bận rộn mà. Nhưng chuyện này chán ngắt phải không! Tôi muốn nghe xem bọn trẻ sống ra sao kia. Brooke? Julian?”
Cynthia thụt vào ghế ngồi, xẹp như con gián và bẽ bàng. Người phụ nữ tội nghiệp đó đang đi qua bãi mìn mà chị không thể tự mình tìm đường xuyên qua được. Chị vô thức đưa tay lau trán và đột nhiên có vẻ rất mệt mỏi. “Vâng, phải rồi. Hai cô cậu dạo này thế nào?”
Brooke biết rằng đừng để lộ bất kỳ chi tiết nào về công việc của cô thì hơn. Mặc dù mẹ chồng cô chính là người giới thiệu cho Brooke vào phỏng vấn ở trường Huntley nhưng bà chỉ làm thế sau khi đã phải cam lòng chấp nhận rằng Brooke không hề cân nhắc việc công tác trong các tạp chí, ngành thời trang, các nhà đấu giá, hoặc quan hệ công chúng. Nếu chỉ đơn giản là Brooke phải dùng cái bằng cao học chuyên ngành dinh dưỡng đó thì bà không thể hiểu được tại sao chí ít cô không làm một nhà tư vấn cho tạp chí Vogue hoặc làm nhà tư vấn riêng cho số đông bè bạn của bà ở Khu Thượng Đông; bất kỳ cái gì, thực thế, cũng còn ít nhiều danh giá hơn, như bà nói, “một phòng cấp cứu dơ dáy với những kẻ vô gia cư và say xỉn.”
Julian quá hiểu chuyện nên đã xen vào cứu nguy cho cô. “À, thực ra thì con có một thông báo nho nhỏ,” anh vừa nói vừa húng hắng.
Dù Brooke mừng cho Julian đến mức không kìm lòng nổi nhưng bỗng nhiên một nỗi kinh hoàng dấy lên trong cô. Cô thấy mình đang cầu trời để anh đừng có kể với họ về buổi biểu diễn ra mắt đó, vì chắc chắn anh sẽ thất vọng với phản ứng của họ và cô ghét phải thấy anh trải qua điều đó. Không ai có thể làm cô bộc lộ bản năng che chở như cha mẹ Julian cả; chỉ nghĩ về những điều họ có thể nói ra thôi cũng làm cho Brooke muốn giấu anh đi và kéo anh về thẳng nhà, nơi anh được che chở khỏi sự xấu tính của họ, và tệ hơn nữa là sự thờ ơ của họ.
Mọi người chờ một chút để Carmen bưng một bình nước nho ép mới đến rồi quay lại chăm chú vào Julian.
“Con, ờ, vừa mới nghe tin từ Leo, người quản lý mới của con, rằng hãng Sony muốn giới thiệu con ra mắt khán giả trong tuần này. Chính xác là ngày thứ Năm.”
Có một khoảng lặng khi tất cả mọi người chờ đợi ai đó nói trước, rồi cha của Brooke là người đầu tiên lên tiếng. “Ôi, có lẽ cha chẳng biết chính xác biểu diễn ra mắt là thế nào, nhưng nghe có vẻ như là tin vui. Chúc mừng con, con trai!” ông vừa nói vừa nghiêng qua Cynthia để vỗ vào lưng Julian.
Bác sĩ Alter, dường như bực tức vì từ “con trai”, cau có nhìn vào tách cà phê của mình rồi quay sang Julian. “Sao con không giải thích xem điều đó có nghĩa gì cho những kẻ ngoại đạo chúng ta được biết?” ông hỏi.
“Phải rồi, điều đó có nghĩa là rốt cuộc cũng có ai đó nghe nhạc của con phải không?” bà mẹ Julian vừa hỏi vừa co chân vào kiểu cách hệt như một cô gái trẻ và mỉm cười với con trai mình. Mọi người ý tứ phớt lờ cái cách bà nhấn mạnh vào từ “rốt cuộc” - tất cả mọi người trừ Julian, mặt anh in hằn nét tổn thương, và Brooke, người chứng kiến điều đó.
Sau chừng ấy năm chắc chắn Brooke đã quen nghe cha mẹ Julian nói những điều tồi tệ, nhưng cô không vì thế mà bớt căm ghét họ. Khi cô và Julian mới hẹn hò, anh đã dần dần thổ lộ rằng cha mẹ anh rất chê trách anh và cách sống mà anh lựa chọn. Trong lễ đính hôn của hai người, cô bắt gặp vẻ bất bình của họ đối với chiếc nhẫn đính hôn bằng vàng trơn mà Julian khăng khăng một mực tặng cô thay vì một trong những “của báu gia truyền của dòng họ Alter” mà mẹ anh đã ép. Thậm chí khi Brooke và Julian nhân nhượng tổ chức hôn lễ tại dinh thự gia đình Alter ở Hamptons, cha mẹ anh đã phát hoảng khi cặp uyên ương cả quyết rằng lễ cưới sẽ không lớn, không ồn ào và không mời đông khách. Sau khi họ cưới và trong những năm tiếp theo, khi những người nhà Alter cư xử tự nhiên hơn trước mặt cô, vào vô số những bữa tối, bữa nhẹ và những kỳ nghỉ, cô thấy họ mới cay độc làm sao.
“À, về cơ bản thì điều đó có nghĩa là họ nhận thấy album sắp hoàn thành và ở chừng mực nào đó thì họ thực sự thích album của con. Họ sẽ thu xếp một buổi ra mắt những người trong ngành, đại loại là giới thiệu con với những người đó trong một buổi biểu diễn cá nhân, và rồi họ sẽ đánh giá phản ứng.” Julian, người thường vẫn quá khiêm tốn đến mức thậm chí không muốn nói với Brooke khi anh có một ngày thành công ở phòng thu, lúc này không thể kìm được nụ cười tự hào tươi rói. Cô những muốn hôn anh ngay tại trận.
“Có lẽ tôi chẳng hiểu gì mấy về ngành âm nhạc, nhưng nghe có vẻ là cả một sự tán thưởng và khích lệ lớn lao từ phía họ,” cha Brooke nói và nâng cao chiếc ly.
Julian không giấu được nụ cười. “Đúng thế ạ,” anh vừa nói vừa cười toác. “Chắc chắn đó là viễn cảnh hay nhất lúc này. Và con hi vọng…”
Anh dừng lại vì chuông điện thoại bắt đầu reo và mẹ anh ngay lập tức bắt đầu nhìn quanh tìm máy con cầm tay. “Ồ, cái điện thoại phải gió đâu rồi nhỉ? Chắc hẳn là L’Olivier (7) gọi điện xác nhận thời gian cho ngày mai. Con ơi, hãy dừng chút xíu. Nếu không đặt ngay thì mẹ sẽ không có hoa cho bữa tiệc tối mai mất.” Nói xong, bà đứng lên khỏi đi văng và biến vào trong bếp.
“Các con cũng biết mẹ các con với đám hoa hoét của bà ấy rồi đây,” bác sĩ Alter nói. Ông nhấp cà phê, chẳng hiểu ông có nghe thấy thông báo của Julian hay không nữa. “Tối mai chúng ta mời nhà Bennet và nhà Kamen đến ăn tối, thành thử bà ấy đang rối lên với việc chuẩn bị. Chúa ơi, mọi người sẽ tưởng quyết định chọn món nhồi hay món om là vấn đề an ninh quốc gia cơ đấy. Lại còn hoa nữa chứ! Chắc bà ấy đã mất đứt nửa buổi chiều cuối tuần trước với cái đám hoa fegela đó, mà đến giờ bà ấy vẫn còn lăn tăn. Tôi đã nói với bà ấy cả ngàn lần rằng: ai buồn quan tâm đến hoa với hoét kia chứ; chẳng ai nhận thấy nữa ấy. Ngày nay ai cũng vung tiền vào những đám cưới hoang phí và chi hàng chục ngàn đô la vào những núi phong lan hoặc cái khỉ gió gì đang mốt, mà nào có ai liếc nhìn đến những của nợ ấy bao giờ? Thật là đại lãng phí, nếu mọi người muốn biết ý kiến của tôi. Tiêu tiền vào rượu ngon nhắm tốt - đó mới là cái mà người ta hưởng thụ thực sự chứ.” Ông nhấp một ngụm nữa, nhướng mắt nhìn quanh phòng. “Nào, chúng ta đang nói về cái gì nhỉ?”
Cynthia tế nhị xen vào làm dịu bớt giây phút căng thẳng. “Ôi, đó chính là một trong những tin hay nhất mà bao nhiêu lâu nay chúng ta mới được nghe phải không nào!” Chị nói với lòng nhiệt tình hơi thái quá. Cha Brooke hăng hái gật đầu. “Chính xác thì buổi biểu diễn ra mắt sẽ được tổ chức ở đâu nhỉ? Bao nhiêu người được mời? Cậu đã quyết định sẽ biểu diễn bài gì chưa?” Cynthia giội những câu hỏi như mưa xuống đầu anh và chỉ duy có lần này là Brooke không cảm thấy khó chịu với sự cật vấn đó. Đó chính là những câu hỏi mà cha mẹ Julian nên đặt ra nhưng họ sẽ không bao giờ hỏi, và Julian rành là rất khoái khi nhận được sự quan tâm như vậy.
“Buổi biểu diễn sẽ được tổ chức ở một thính phòng nhỏ thân mật trong trung tâm thành phố, và đại diện của con nói rằng họ đang mời khoảng năm mươi người trong ngành - những người ký hợp đồng biểu diễn với bên truyền hình và phát thanh, những người điều hành trong lĩnh vực âm nhạc, một số người từ M, đại loại là thế. Hầu như chắc chắn là sự kiện này sẽ không mang lại điều gì quá to tát cả, nhưng nó là dấu hiệu tốt cho thấy hãng thích album của con.”
“Hiếm khi họ làm việc này cho các nghệ sĩ mới trình làng của họ,” Brooke tự hào nói. “Julian thực ra đã quá khiêm tốn - sự kiện đó hết sảy đấy ạ.”
“Ờ thì ít nhất cái đó cũng là một tin mừng,” mẹ anh tuyên bố lúc trở lại ngồi lên đi văng.
Julian mím miệng và hai bàn tay anh nắm chặt lại phía bên sườn. “Mẹ à, từ nhiều tháng nay họ đã giúp đỡ và khuyến khích quá trình hình thành album rồi. Ờ thì ban đầu những nhà điều hành cấp cao đã chủ trương tập trung giới thiệu một tay ghi ta hơn, nhưng suốt từ đó đến nay họ thật tuyệt vời. Vậy nên con không hiểu tại sao mẹ lại phải nói theo cái kiểu đó.”
Elizabeth Alter nhìn con trai và có vẻ thoáng bối rối. “Ôi, con yêu, mẹ đang nói về L’Olivier đấy chứ. Tin mừng là họ có đủ hoa thủy vu mà mẹ muốn, và nhà thiết kế mẹ thích nhất cũng rảnh để đến đây cắm hoa. Đừng có hơi tí thì động lòng thế chứ.”
Cha Brooke liếc cô với cái nhìn như muốn hỏi, Người đàn bà này là thế nào đây? Brooke nhún vai. Cũng như Julian, cô đã thừa nhận một điều rằng cha mẹ anh không bao giờ thay đổi. Chính vì vậy mà cô ủng hộ anh một trăm phần trăm khi anh từ chối lời họ đề nghị mua cho cặp vợ chồng mới cưới một căn hộ ở gần căn hộ của họ tại Khu Thượng Đông. Chính vì vậy, cô thà làm hai việc một lúc còn hơn nhận khoản “trợ cấp” mà có lần họ đã gợi ý, vì cô biết những sợi dây ràng buộc đi kèm theo nó.
Vào lúc Carmen báo rằng bữa ăn nhẹ đã sẵn sàng, Julian trở nên hoàn toàn trầm lặng và đờ đẫn - như rùa thụt vào mai, Brooke luôn gọi thái độ này của anh như thế - còn Cynthia thì có vẻ nhăn nhúm và mệt lử trong bộ vest polyester của chị. Ngay cả cha Brooke, người vẫn can đảm tìm cách tiếp tục câu chuyện chung chung (“Các vị có nghĩ là năm nay chúng ta đang trải qua một mùa đông khắc nghiệt không?” và “William, ông mê bóng chày à? Đội Yanks (8) dường như là một lựa chọn hiển nhiên, nhưng tôi biết l không nhất thiết lựa chọn đội bóng từ quê hương của họ...”) cũng chào thua. Trong những tình huống, bình thường thì Brooke lẽ ra đã cảm thấy có trách nhiệm với sự khổ tâm của mọi người - xét cho cùng, họ tập trung ở đây chỉ vì cô và Julian, phải không? – nhưng hôm nay cô mặc kệ. Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ - cô nghĩ, rồi xin phép đi vào phòng vệ sinh, dù thực ra cô chỉ lượn qua đó để vào bếp.
“Ngoài đó sao rồi, cháu yêu?” Carmen hỏi trong lúc múc mứt mơ vào chiếc bát bằng bạc ròng.
Brooke giơ cao ly Bloody Mary đã cạn của mình với vẻ van vỉ.
“Tệ thế cơ à?” Carmen cười và chỉ cho Brooke lấy chai vodka từ tủ lạnh trong lúc bà chuẩn bị nước cà chua ép và nước xốt hạt tiêu Tabasco. “Cha mẹ cháu chèo chống ra sao? Cynthia có vẻ là một phụ nữ dễ chịu thật đấy.”
“À vâng, dì ấy dễ thương ạ. Họ là những người trưởng thành rồi và tự họ chọn cái chuyến thăm viếng dở hơi này. Chính Julian mới là người cháu lo kia.”
“Chẳng có gì mà cậu ấy chưa chứng kiến cả đâu, cháu yêu. Không ai đối phó với họ giỏi hơn đâu.”
Brooke thở dài. “Cháu biết thế. Nhưng sau đó anh ấy phiền muộn lâu lắm.”
Carmen cắm một nhánh cần tây vào ly Bloody Mary rồi đưa cho Brooke. “Tăng lực,” bà tuyên bố, và hôn lên trán Brooke. “Giờ thì quay lại đằng ấy mà bảo vệ người đàn ông của cháu đi.”
Phần ăn chính không đến nỗi tệ như lúc uống cocktail. Mẹ Julian cơn cớ một chút vì món bánh cuộn phủ sô cô la (mặc dù những người khác ai cũng thích món bánh Carmen làm nhưng Elizabeth lại nghĩ rằng chúng quá thừa chất béo để mà ăn trong bữa chính), và bác sĩ Alter biến vào thư phòng của ông một lúc, nhưng nhờ thế mà không ai trong hai vợ chồng họ làm bẽ mặt con trai mình quá một tiếng đồng hồ. Màn chào tạm biệt may mắn không gặp trục trặc gì, nhưng lúc cô và Julian giúp cha cô và Cynthia ngồi vào taxi, cô thấy Julian trông xa vắng và buồn bã.
“Anh có sao không, anh yêu? Bố em và Cynthia quá phấn khích. Và em khó mà có thể...”
“Anh không muốn nói về chuyện ấy, được không em?”
Họ lặng lẽ đi trong ít phút.
“Này anh, mình còn rỗi nốt đến cuối ngày hôm nay. Tuyệt đối chẳng phải làm gì. Nhân tiện mình đang ở đây, anh có muốn ghé thăm một viện bảo tàng không?” Brooke vừa hỏi vừa nắm tay anh và giật nhẹ cánh tay anh trong lúc họ đi về phía ga tàu điện ngầm.
“Không, anh không muốn chen vào các đám đông trong ngày Chủ nhật.”
Cô nghĩ một lát. “Từ lâu anh vẫn thích xem phim 3D IMAX (9). Em không phiền nếu đi xem cùng anh đâu,” cô nói dối. Những lúc vô vọng lại cần những giải pháp liều lĩnh.
“Anh không sao đâu, Brooke à. Thật là anh không sao mà,” Julian lặng lẽ nói rồi kéo chiếc khăn len quàng lên cổ. Cô biết lúc này chính anh là người nói dối.
“Em mời Nola đến buổi biểu diễn ra mắt của anh được chứ? Buổi diễn nghe có vẻ thật đình đám, anh biết đấy Nola khó mà bỏ qua bất kỳ cơ hội nào ở những chỗ đình đám.”
“Chắc là được thôi - Leo nói rằng buổi diễn sẽ có quy mô rất nhỏ, và anh đã mời Trent rồi. Đợt luân chuyển này cậu ấy chỉ còn ở New York vài tuần nữa thôi, mà từ đó đến nay cậu ấy cứ làm việc như điên vậy. Anh nghĩ cậu ấy có quyền đi chơi một tối.”
Họ nói thêm về buổi diễn ra mắt, và họ bàn xem anh sẽ mặc gì, biểu diễn những bài hát nào, và theo thứ tự ra sao. Cô mừng vì có thể gợi cho anh bộc bạch tâm sự, và lúc họ về đến nhà thì Julian hầu như đã trở lại là chính mình.
“Em đã nói với anh rằng em tự hào về anh đến mức nào chưa nhỉ?” Brooke hỏi khi họ bước vào thang máy riêng, cả hai rõ ràng đều thấy nhẹ lòng khi về đến nhà.
“Rồi,” Julian nói với một nụ cười nhẹ.
“Thế thì vào nhà đi, anh yêu,” Brooke vừa nói vừa kéo tay anh đi dọc hành lang. “Em nghĩ giờ là lúc em cho anh thấy đấy.”
Chú thích
(1) Tức ‘Oprah Wingrey Show’, chương trình trò chuyện trên truyền hình nổi tiếng của Mỹ. Người dẫn Oprah Wingrey (1954) là một nữ diễn viên, đạo diễn và nhà từ thiện.
(2) Ziti nướng: món mì ziti (một loại mì ống pasta dạng xoắn thừng) luộc, trộn thịt bò, hành và nước xốt spaghetti, phủ bơ, pho mát, kem sữa... rồi bỏ nướng.
[3] Grey’s Anatomy: một bộ phim truyền hình dài tập về ngành y.
[4] Philly: thành phố Philadelphia, bang Pennsylvania, Hoa Kỳ.
[5] NFL (viết tắt của The National Football League): Liên đoàn Bóng Bầu dục Quốc gia của Mỹ.
[6] Michael Aram: một nghệ sĩ gốc Mỹ nổi tiếng hiện đang sống và làm việc tại New Delhi, Ấn Độ. Ông tạo hình các tác phẩm nghệ thuật bằng kim loại theo phương pháp thủ công truyền thống của Ấn Độ. Các đồ tạo tác của ông từ những bộ đồ ăn đến các vật dụng đồ đạc trong nhà được trưng bày và bán tại các gallery và các cửa hàng chuyên biệt trên khắp thế giới.
(7) L’Olivier: hãng hoa tươi nổi tiếng ở New York.
(8) Yanks: tên gọi tắt của đội bóng chày New York Yankees.
(9) IMAX: một dạng phim ảnh động có khả năng ghi chiếu hình với kích thước và độ phai giải lớn hơn nhiều so với các hệ phim thông thường.
Đêm Qua Anh Ở Đâu? Đêm Qua Anh Ở Đâu? - Lauren Weisberger Đêm Qua Anh Ở Đâu?