Những người vĩ đại không những phải biết chớp lấy cơ hội mà còn phải biết tạo ra cơ hội.

C.C. Colton

 
 
 
 
 
Tác giả: Tạ Tỵ
Thể loại: Tùy Bút
Số chương: 6
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: /
Cập nhật: 2025-11-08 19:49:05 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương IV Về Xuôi
húng tôi mang đồ xuống Hội Trường mới được xây cất. Nó khá rộng, có bậc xây bằng gạch như một hí viện. Phía sau, cũng có phông màn tử tế, vừa dùng làm chỗ hội họp, vừa làm nơi hội diễn Văn nghệ.
Khi chúng tôi bước vô, gian phòng đã đông người, những người chuyển trại. Hội trường tối mò, không ai nhìn rõ ai. Dưới ánh đèn pin, tôi nhận thấy có mặt tên đại uý Phó Giám thị. Tên này cho lệnh tập họp để hắn nói chuyện. Chúng tôi đứng lố nhố, nên không thể đoán rõ chừng bao nhiêu người? Tên Phó Giám thị này thích đọc thơ Tố Hữu, coi Tố Hữu như thần thánh! Sau khi tập họp xong, hắn nói:
- Theo lệnh trên, hôm nay các anh được chuyển trại. Sự việc này rất tốt và thuận lợi! Các anh sẽ về miền xuôi. Nhưng ngay lúc này, tôi không thể xác định cho các anh biết, nó thuộc vùng nào. Sớm muộn gì sẽ biết thôi. Bữa nay, chúng ta cũng cần phải nói thật với nhau một điều.
Đến đây, hắn dừng lại như đắn đo, rồi tiếp:
-...Cái điều đó cũng bình thường, vì theo luật lệ của cơ quan chúng tôi, các anh sẽ bị còng tay trong suốt thời gian di chuyển.
Tuy không nhìn rõ nhau, để xem sắc mặt, nhưng suy ta ra người, khi nghe thấy bị còng, tức là xích tay. Vậy nhục quá, trong lòng tôi như bị một sợi gân siết chặt làm đau đớn toàn bộ cảm giác.
Sau vài phút im lặng, bên cạnh tôi, chợt nổi lên tiếng thì thầm. Một giọng tuy nhỏ, nhưng chứa chất đầy uất hận:
- Tiên sư cha tụi Công An. Đồ khốn nạn! Khi còng mình thì nó nói thật, còn các chuyện khác đều nói dối cả sao?
Một giọng khác:
- Thôi, cậu chửi làm gì cho tốn sức. Cái nghề của tụi nó như vậy mà! Cậu đừng bao giờ quên, đây là một cuộc trả thù, tuy máu không đổ, nhưng vô cùng dã man, tàn nhẫn!
Tiếng nói trôi đến tai tôi như những mũi kim nhọn xuyên vào da thịt. Tuy không phân biệt hai người đối thoại là ai, nhưng ít nhất, cũng chứng tỏ sự phẫn nộ ngấm ngầm tận đáy lòng mọi người cải tạo nào còn chút lương tri, còn thấy được sự ác độc của Cộng Sản đối với kẻ thù đã thất thế! Nhưng tôi tin, muốn nói gì, có uất hận ra sao, thì bạo lực bao giờ cũng thắng, nhất là bạo lực được xử dụng trong môi trường này. Cộng Sản đã làm chúng tôi sống dở, chết dở, biến chúng tôi thành lũ ma đói, ma khát, thành những xác chết chưa chôn, sau những năm tháng dài gian khổ, dưới uy quyền của chúng! Do vậy, nếu hôm nay, chúng có xử dụng thêm một hình thức đoạ đày nào nữa, cũng vậy thôi! Chúng thường quy tội chúng tôi là phạm nhân chiến tranh, là “phản Cách Mạng” và danh từ Cải Tạo nếu nhìn bề ngoài, có vẻ tốt đẹp hơn hai chữ Nhà Tù. Nhưng một khi đã sống trong nó, thì nó còn khắc nghiệt, tàn bạo hơn bất cứ loại nhà tù nào trên thế giới! Ngày vào thì có, ngày ra chỉ có Trời mới biết! Chúng tôi đã “nín thở” trên 3 năm mà chưa “qua sông” được.
Bóng tối vẫn bao trùm hội trường. Những ánh đèn pin lập loè đây đó. Cái không khí ma quái, nửa thực, nửa hư làm xáo trộn nhận thức. Một tiếng hô to lôi tôi ra khỏi suy nghĩ:
- Yêu cầu các anh mở tư trang để điểm nghiệm!
Cả hội trường nhốn nháo. Màn khám đồ tái diễn. Lại mở ra xếp lại, lần lưng, nắn túi. Xong được cho ăn cơm với canh rau muống. Mỗi người còn được phát một vắt cơm và miếng thịt heo. Lần chuyển trại nào cũng được phát chừng ấy! Sợ di chuyển bị đói, tôi cố nuốt chén cơm chan canh rau muống nấu muối để dằn bụng. Ai ngờ chén cơm này đã làm khổ tôi suốt mấy trăm cây số đường dài.
Trời mờ sáng. Cảnh vật đã hiện ra trước tầm nhìn. Tất cả những khuôn mặt đều ẩn giấu nỗi lo ngại., nhưng không hoàn toàn thất vọng vì dù sao, không nơi nào có thể khổ hơn ở đây. Đói khát và lao động quá sức làm con người mòn mỏi dần dần, sức chịu đựng lâu ngày trở nên chai đá. Ngay bây giờ có đem ra pháp trường xử bắn, chắc chắn chúng tôi không còn sợ sệt, lại còn cảm ơn, cho đó là sự giải thoát mầu nhiệm.
Nhưng không, nếu muốn, Cộng Sản đã giết rồi chứ đời nào chúng còn để “cái của nợ” này sống lây lất tới bây giờ và còn nữa! Cái nham hiểm của Cộng Sản ở chỗ đó. Giết, sợ mang tiếng đối với quốc tế và gây căm phẫn trong lòng dân chúng miền Nam, dù Cộng Sản cũng chẳng ưa thích gì miền Nam đã từng chống đối họ suốt mấy chục năm.
Tên Công An vũ trang giải tù cho lệnh mọi người mang đồ ra cổng. Tôi nhìn lần cuối toàn thể khu vực Trại Cải tạo Trung Ương số 1. Giờ này, toàn trại chưa mở “chuồng” ngoài toán phụ trách bếp. Chiếc sân rộng vắng hoe, những chiếc lá vàng rơi đầy, tao nên hoang vắng, sự hoang vắng ghê sợ của trại Tập Trung, có lẽ, kiên cố nhất của miền Bắc. Ở hai bên sân, hai khu riêng biệt. Những bức tường cao, nhẵn thín quây chặt từng khu, mầu vôi trắng quét lâu ngày, mưa nắng làm loang lổ. Một khu nằm sát mặt sân, còn khu kia ở trên cao, phải leo dăm bẩy bậc thang xây gạch. Ở bên lề, có những cây cao, tàn lá trải rộng. Hàng cây này có lẽ được trồng từ hồi mới lập trại, nên chúng cao ngất. Tôi nhìn từ chiếc cổng chính tới cuối sân, khu nhà bếp, nơi có vài bóng người qua lại.
Gần đấy, căn nhà khám bệnh, nơi đã cho tôi nhiều ấn tượng căm phẫn, hận thù. Những người bệnh đến khám nơi đây, trừ toán nhà bếp thường đem cho tụi nó bánh mì, khoai sắn nên được đối đối xử tử tế, còn lại đều được đánh giá như những kẻ ăn xin, những kẻ được ban ơn!
Căn nhà Hội Trường to lớn làm bằng cây rừng và tre nứa, có chỗ xây gạch do công lao khó nhọc của mấy trăm tù lao động khổ sai, suốt mấy tháng mới tạo dựng lên. Tôi chợt nghĩ đến những ngày gió mưa rét mướt trong mùa đông vừa qua, từng đoàn người lam lũ đi vào rừng lấy gỗ đường kính 3 tấc, dài 5-7 thước, họ vừa khiêng, vừa té lên té xuống trên những con dốc trơn trượt, tự nhiên lòng tôi dâng lên mối xúc động. Giờ này, chắc anh em toàn trại đã thức hết, nhưng chưa được ra. Chỉ riêng chúng tôi, những kẻ được coi như “nguy hiểm cho chế độ” dù đang bị giam giữ, vì chuyển trại, nên mới được nhìn cái cảnh tượng đặc biệt của nhà tù số 1, trong buổi sớm mai.
Những tên Công An quản giáo và vũ trang đi lại rộn ràng như cần giải quyết những vấn đề cấp bách. Thôi, giã từ nhé, những gì trong thời gian qua, đã tạo cho ta bao nhiêu kỷ niệm, dù vui hay buồn. Giã từ những ngày đói rét, xin ăn nhục nhã. Giã từ chỗ ngồi quen thuộc mỗi sáng, mỗi chiều chờ đi lao động. Giã từ căn “chuồng” ta đã sống, đã ngủ, đã gặp những ác mộng mỗi đêm. Giã từ anh em thân, người sơ!
Tiếng động cơ xe hơi đã nổ ngoài cổng. Tên Kỳ giục chúng tôi mang đồ ra xe. Bây giờ trời đã sáng rõ. Tôi nhìn số anh em đông đảo, khiêng vác khệ nệ giành nhau ra trước. Tôi nghĩ, có lẽ do truyền thống, luôn luôn tranh giành, cái gì cũng muốn được hơn người, ngay cả chuyện còng tay, hình như sợ, nếu chìa tay muộn sẽ hết còng.
Tôi, người sau cùng bước ra khỏi cổng, chiếc cổng được xây cất thật kiên cố, với hai cánh bằng sắt dầy, mỗi lần mở kêu ken két nghe rùng mình. Khi đến nơi, tôi nhìn thấy hai chiếc xe vận tải màu xanh đậu lù lù trước mặt và chiếc xe Jeep kiểu Liên Xô đậu gần đấy. Những tên Công An vũ trang đông nghẹt, đứng đầy xung quanh xe và trên mô đất cao. Những khẩu AK cũ rích do Bộ đội thải ra, phát lại cho Công An dùng. Dưới chế độ Cộng Sản, Công An là lực lượng chuyên về nội trị. Họ được Nhà Nước ban phát rất nhiều quyền hành vì sự ổn định chính trị trong nước có hay không đều do sự hoạt động tích cực hay trì trệ của guồng máy Công An. Bộ đội chỉ chuyên đánh trận. Do đó, nghe nói luôn luôn có sự va chạm quyền lực giữa hai khối vũ trang này.
Tất cả anh em đã lên xe, chỉ còn tôi và Liêm đứng dưới. Liêm, người bạn tù chưa hề quen biết, trông hiền lành nhẫn nhục. Chúng tôi quăng gói đồ lên xe. Lòng xe chật cứng. Anh em đều bị còng tay, hai người một. Mỗi xe chứa 26 người cùng tư trang. Chiếc xe lần này không giống các chuyến xe đã đưa chúng tôi chuyển trại lần trước. Nó có hàng chấn song bằng gỗ vuông 3 phân, ngăn cách giữa chúng tôi và tên Công An vũ trang ngồi sát tấm chắn hậu. Một cánh cửa nhỏ có khoá và sợi xích sắt buông lòng thòng. Chiếc ghế đẩu kê ngay lối đi, dành cho Công An áp tải.
Chiếc còng số 8, chúng tôi thường gọi đùa là “Seiko ết” được mở ra, úp chụp lấy hai cổ tay. Tên Công An ấn còng. Một tiếng “cách” khô khan, làm rùng mình. Chiếc còng quá cũ đã sét rỉ và thô sơ vì là đồ nội hoá. Từ ngày bố mẹ sinh ra tới hôm nay, 16-7-78, tôi mới biết còng tay là cái gì. Nó vướng vất khó chịu vô cùng. Nó xác định, tôi là người tù chính cống. Tuy không nặng bao nhiêu, nhưng nó lại có sức làm ai đeo nó cảm thấy nhục nhã, hổ thẹn và hình như nó có sức nặng ngàn cân trong mỗi suy nghĩ, mỗi hành động. Nếu Liêm làm một cử động gì bằng cái tay bị còng, bắt buộc tôi phải làm theo như vậy, trái lại Liêm cũng thế. Do đó, từ lúc bị còng, chúng tôi ít khi xử dụng cánh tay bị còng, chỉ dùng “cánh tay tự do” còn lại để giải quyết những gì cần tới!
Sự thực, tụi Công An cũng quá nguyên tắc. Làm sao chúng tôi có thể trốn được khi chiếc xe được quây kín như vậy. Mui xe không che bằng chiếc bạt vải như mọi lần, mà được thực hiện bằng loại tre cật đan kín, kẹp lá nón ở giữa nên rất chắc. Hơn nữa, có hai tên Công An vũ trang nồi trước và sau, có hàng chấn song gỗ ngăn cách, trốn cách nào? Chúng tôi đang ở giữa mảnh đất Xã Hội Chủ Nghĩa, làm sao lọt qua được màng lưới an ninh của địa phương mà chúng tôi không thuộc địa hình? Họ áp dụng luật lệ này, nhằm mục đích áp đảo tinh thần nhiều hơn.
Từ lòng xe, qua chấn song gỗ ngăn cách, cửa đã khoá chặt, thấy tên Kỳ đứng dưới, tôi muốn nhổ vào mặt nó bãi nước miếng. Tôi ghét nó không phải vì bị mất chiếc Zippo, nhưng vì nó đối xử tàn ác với anh em tôi trong thời gian vừa qua và còn sau này nữa. Cơn giận qua đi cùng với tiếng xe rồ máy. Hai chiếc nối đuôi nhau chạy. Chiếc xe Jeep theo sau.
Mặt trời đã lên, giữa một vùng đầy mây trôi nổi bềnh bồng. Từng vệt nắng trải dài trên những quả đồi trà làm mầu xanh nổi bật giữa mầu đất đỏ au. Chiếc xe lăn qua “hiện trường” nơi tôi đã đổ bao nhiêu giọt mồ hôi trong mùa nắng, nơi tôi đã gánh chịu bao nhiêu cực nhọc trong mùa đông, mưa phùn gió bấc. Tôi nhìn bãi đất trâu dẫm bây giờ đầy nước như chiếc hồ nhỏ. Nhìn những quả đất cao nghệu được che bằng những tấm liếp cũ nát, tôi vẫn rùng mình! Tôi cố tìm xem “quả đất” mà tôi đã dẫm hôm qua nằm ở đâu. Nó vẫn có đó, nằm im lìm bên cạnh đống gạch vụn ngổn ngang. “Hiện trường” vắng ngắt vì không có lao động. Chiếc lò gạch và ngói đang hoạt động, lửa cháy rực từ miệng lò đỏ hồng, nhìn đẹp mắt!
Thôi, giã từ nhé, dù ngày mai đây, ta ở nơi góc biển chân trời nào, ta không bao giờ quên mi, quên những bước chân rã rời, đã qua lại trên những lối mòn đó, quên những lùm cây, nhánh cỏ, quên những quả đồi trà đã ghi lại trong ta nhiều đắng cay, tủi nhục! Quên làm sao được những ngày dài đói khổ, bụng đói như cào, chân vẫn đạp đất lạnh giá, thèm từng điếu thuốc lào, từng củ khoai, khúc sắn thèm đi! Giã từ, giã từ nhé!....
Chiếc xe tăng dần tốc độ. Trại nữ tù im lìm sau con đường đất nhỏ dần tới cổng. Không bóng người qua lại. Trại này bằng lá, nên trông không dữ dằn như Trại Cải Tạo Trung Ương số 1. Tuy chẳng có chút liên hệ nào, nhưng tiện đây, ta cũng gửi lại lời chào và cầu chúc cho tất cả gặp nhiều may mắn, nhất là cô gái đã vì tình yêu, mỗi ngày mất một chiếc bánh mì luộc và cô gái cũng vì yêu trái với đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước, đang kéo lê những ngày buồn vô thời hạn trong lúc men tình rạo rực trong mỗi tế bào tuổi trẻ...
Chiếc xe đi lọt thỏm trong vùng hẻo lánh, xung quanh toàn núi rừng cao ngất. Ngoài tiếng máy, không còn tiếng động nào khác. Tôi nhìn thấy một dòng suối khá lớn đang chảy song song với con đường. Những cành lá rủ xuống nước với những cụm hoa rừng làm cảnh vật tăng phần quyến rũ. Nhưng tất cả đều thoáng hiện, thoáng mất theo tốc độ. Chiếc xe Jeep cứ lẽo đẽo theo sau, tuy sức nó có thể vượt qua hai chiếc xe lớn dễ dàng! Tên sĩ quan Công An, đeo súng ngắn, đầu trần, gió thổi tóc hắn rối tung. Phía sau có ba tên Công An ngồi, súng AK dựng đứng. Vì ngồi sát chiếc chấn song gỗ như chiếc cũi nên tôi nhìn rõ hết. Xe chạy vòng vèo khi lên khi xuống, toàn đi quanh sườn núi, không qua một thị trấn nào. Có lẽ đây là con đường chiến lược làm từ thuở kháng chiến chống Pháp, nên nó không chạy song song với quốc lộ. Nhiều chỗ núi cao, mặt trời chưa chiếu xuống được, trông âm u như đang di chuyển trong đường hầm. Phong cảnh thay đổi luôn luôn khi sáng, khi tối, có nơi cây cối xanh um, mầu lá khác biệt, tạo nên cảnh trí vô cùng linh động. Các độ mầu đậm, nhạt xen kẽ, đan kết với nhau làm cho mầu xanh trở thành một tấm thảm biến ảo khôn lường, có khi sâu, có khi nông, tưởng có thể sờ mó, cầm giữ được. Nhưng cũng có những đoạn đường trơ vơ vách đá sừng sững, nặng nề khô khan, nhìn mãi mỏi mắt. “Thiên nhiên là một ông thầy”, câu nói của nhà danh hoạ Corot quả đúng trong hoàn cảnh này!
Tên Công An vũ trang chắc không chịu được sự lên xuống, vòng vèo của đường rừng núi, hơn nữa lại ngồi phía cuối xe nên nôn thốc tháo từng chặp. Mặt mũi nó xanh lè như tầu lá. Con đường từ Nghĩa Lộ lên Lào Cai đẹp ra sao, tôi không được biết, vì độc dược đã làm tôi hôn mê, nhưng tôi chắc cũng không hơn gì con đường này vì đường núi rừng nào cũng vậy cả.
Mấy tiếng sau, đoàn xe rời khỏi vùng rừng núi. Phong cảnh hai bên đã thoáng. Những dẫy đồi thấp nhấp nhô, khô cằn, phơi mình dưới mầu trời bàng bạc sắp đổ mưa. Dẫy Hoàng Liên Sơn đã mờ nhạt sau lớp cây phía xa xa. Đã mấy năm, tôi sống ở dưới chân nó, trong những chỗ khuất nẻo và gánh chịu nhiều đắng cay, tủi nhục, nhưng nó có biết gì? Và hiện nay, còn biết bao nhiêu anh em của tôi còn đang sống, hàng ngày lê những bước chân đọa đầy ngay trong lòng nó, nhưng chính nó là bức trường thành đã a tòng với Cộng Sản để giam giữ chúng tôi trong một môi trường quá ư khắc nghiệt!
Hôm nay, mỗi phút, tôi xa rời nó, vì xe càng chạy, trước mặt tôi trải dài một vùng chân trời rộng lớn. Cơn mưa đã bắt đầu rớt xuống. Những hạt mưa không to nhưng rơi đều làm mặt đường nhớt nhát, dễ trơn trượt. Nhưng chẳng vì thế, đoàn xe hạ tốc lực, nó vẫn lao nhanh dưới lớp mưa. Cảnh vật bị xoá mờ, dẫy Hoàng Liên Sơn chìm khuất sau màn nước dầy đặc. Nhưng cơn mưa không kéo dài, chừng nửa tiếng sau trời lại nắng, nhưng cái nắng rất yếu vì bị những tảng mây khổng lồ ngăn chặn.
Đến gần trưa, xe đỗ lại cho làm nhu cầu vệ sinh! Chiếc khóa cửa được mở. Vì ngồi ngoài, tôi và Liêm xuống trước. Tay vướng còng nên rất khó cử động, chúng tôi bảo nhau cùng nhẩy một lượt, chứ kẻ xuống trước, người sau, còng nó siết vào tay chịu gì nổi? Một, hai, ba chúng tôi cùng nhẩy. Mọi người đều làm vậy. Tôi thấy chột bụng, muốn đi cầu, Liêm phải đi theo. Tuy không muốn, nhưng Liêm cũng ngồi xuống như tôi. Chẳng hiểu sao, hôm nay bụng dạ tôi tự nhiên bê bối quá. Phân đi chẳng bao nhiêu nhưng bụng đau quặn liên hồi, cứ mót mà không sao đi được. Để Liêm chờ lâu quá, không tiện, tôi đứng dậy bước ra khỏi lùm cây. Từng cặp một, anh em người đi tiêu, kẻ đi tiểu, lần lượt ra khỏi bãi đất. Một tên Công An tiến đến phía chúng tôi, bảo:
- Các anh được nghỉ tại đây nửa tiếng để ăn trưa. Ăn xong đi thẳng, không ngừng ở đâu nữa.
Mọi người lục tục lên xe. Lần leo có vẻ khó hơn lần xuống vì chỉ lên được từng người. Nhưng hoàn cảnh nào tù cũng tìm cách cho mình đỡ khổ, nên mọi người vẫn leo lên thoải mái bằng cách người nọ kéo kẻ kia. Anh em lục tục mở cơm vắt ra ăn. Có người đã ăn hết trong lúc xe chưa di chuyển. Tôi thấy mệt và đau bụng không muốn ăn. Biết rằng nếu không ăn kịp, cơm vắt tùu tối qua có nhồi miếng thịt mỡ sẽ hư, nên tôi biếu một anh bạn còn đói. Liêm mở gói cơm, cho tay vấu từng miếng đút vào miệng. Chắc Liêm cố ăn cho dạ dày đầy chứ chẳng ngon lành gì, vì hắn nhai hoài, mãi chưa nuốt. Cuối cùng Liêm cũng chỉ ăn hết nửa vắt cơm, nửa vắt còn lại, anh đem cho!
Vài người dân đi qua, dừng lại nhìn chúng tôi bằng con mắt tò mò.
Đoàn xe lại chuyển bánh. Một tên Công An vũ trang khác thay thế, ngồi vào ghế sau khi khoá cửa ngăn cách. Muốn quên cơn đau, tôi hỏi Liêm:
- Vì sao ông đi cải tạo. Trông ông không thuộc diện quân đội.
- Tôi là Hội Đồng tỉnh Quảng Ngãi, bị đưa ra đây từ cuối năm 76.
- Ông qua nhiều trại chưa?
- Không, từ ngày ra, ở luôn tới hôm nay.
- Sao tôi không gặp ông đi lao động bao giờ?
- Tôi ở Đội chẻ tre, làm mành mành xuất khẩu, do đó khỏi đi lao động xa.
- A, tôi biết. Làm công việc đó nhàn nhưng buồn chết.
- Ở tù, mình đâu có quyền chọn lựa?
- Đúng.
Như vậy, tội của Liêm cũng nặng lắm. Tội làm “Ông Hội Đồng” ở nơi sinh quán của thủ tướng Phạm văn Đồng, ít nhiều gì Liêm cũng đóng góp công lao của mình trong vấn đề chống Cộng, mà chống tích cực nên mới được bầu vào Hội đồng Tỉnh. Nhưng, bên cạnh tôi, Liêm - một người rất hiền lành, ăn nói nhỏ nhẹ, có tinh thần chịu đựng, chẳng thấy anh phàn nàn gì về chiếc tay bị còng. Không như tôi, lầm rầm chửi rủa Cộng Sản!
Có tiếng “kéo pháo” ở sau lưng. Khói thuốc tỏa ra hương thơm quyến rũ. Tôi quay lại. A, Phùng, người bạn tù làm chung ở hiện trường gạch ngói, tuy khác Đội. Tôi ngỏ ý xin bi thuốc. Phùng vui vẻ nhồi thuốc vào nõ, xong đưa tôi. Chiếc điếu cầy xinh xinh bé bằng cổ tay đứa nhỏ, ngắn chừng 2 tấc, chúng tôi thường gọi “điếu lao động” hay “điếu mini”. Nó bé gọn, dễ mang, bỏ trong túi áo cũng được. Hút tuy không ngon bằng điếu lớn, nhưng lúc này có nó cũng đỡ. Đưa điếu lên môi, Phùng châm lửa bằng mẩu giấy, dí vô. Tôi kéo một hơi dài. Từ sớm chưa hút điếu nào nên khói thuốc làm tôi ngây ngất, nghiêng ngã trong lòng xe chật chội.
Sau khi hả cơn say, bụng tôi lại đau âm ỉ. Tôi xin tên Công An vũ trang cho dừng xe để đi cầu. Nó không trả lời, cứ ngồi trơ như pho tượng. Chiếc xe vẫn chạy bon bon trên con lộ trải nhựa, hai bên đồng ruộng trải dài xa tắp. Sau bí quá, chịu không nổi, tôi lấy chiếc bao nylon, đi vô đó, xong luồn tay qua chấn song, vứt xuống đường. Tên Công An nhìn thấy, chẳng nói gì. Vừa đi xong, chừng 15 phút lại mót, bụng đau như có sợi dây cước siết chặt. Tôi lại tìm bao nylon làm y như lần trước. Đi chừng vài bận, bao nylon hết, giấy chùi cũng không còn. Tôi chẳng biết giải quyết ra sao nếu tình trạng này không sớm chấm dứt. Nhưng cơn đau khi có khi không, khó chịu vô cùng. Tôi lấy tấm nylon, vẫn dùng thay áo mưa, trải ở phía dưới, rồi tụt quần sẵn, để khi cần cứ đi vào đó.
Mùi phân xông lên khó chịu, nhưng Liêm không nói gì, anh còn tỏ vẻ thương xót. Tôi chợt nghĩ đến chén canh rau muống sáng nay, được bón toàn bằng phân người. Có lẽ trong đêm tối, toán nhà bếp rửa dối, cơ thể tôi yếu nên bị nhiễm trùng. Tên Công An thỉnh thoảng liếc nhìn. Mắt tôi hoa lên, người mệt rã rời. Phùng mời thuốc, tôi cũng không muốn hút nữa, chỉ mong chóng tới nơi để xin thuốc uống. Có thể anh em có thuốc, nhưng làm sao lấy trong hoàn cảnh này? Vì đau và mệt quá nên tôi không còn muốn nhìn phong cảnh dọc đường. Phía sau, một công-voa của bộ đội bóp còi đòi qua mặt, nhưng đoàn xe chở tù nhất định không nhường. Chờ đến quãng rộng, chiếc xe bộ đội phóng qua thật lẹ. Vài phút sau tự nhiên chiếc xe chở chúng tôi từ từ dừng lại. Những tiếng kêu oai oái từ đầu xe vọng lại. Tên Công An vũ trang nhẩy xuống đất nhìn. Phía sau, những chiếc áo xanh chạy đến, có người cầm cây sắt vung cao, xông tới đập tên Công An vũ trang. Tên này trúng một cây, chạy mất. Tôi nhìn khẩu trung liên đặt trên nóc ca-bin chiếc Molotova đậu sát chiếc xe chở chúng tôi. Có một tên đang ghì báng súng quay qua quay lại như sẵn sàng nhả đạn. Bộ Đội đánh Công An! Có tiếng nói khẽ trong xe. Nhưng rồi, chẳng biết họ giải quyết với nhau ra sao, sau cũng êm. Tên Công An vũ trang bị đánh một cây gậy lại leo lên xe, nó đưa tay lên vai xoa xoa, có vẻ đau đớn. Chờ đòn công-voa đi hết với những tiếng reo hò chế giễu, hai chiếc xe chở chúng tôi lại lăn bánh. Tôi vẫn ở trong tình trạng bê bối, ngồi ngay trên bãi phân của mình.
Đoàn xe qua Việt Trì, rồi Vĩnh Yên. Đến đây, đoàn xe dừng lại. Những tên Công An xuống xe đến một quán hàng mua nước ngọt uống. Mỗi đứa cầm một chai ngửa cổ tu cạn, xong lại lên đường. Mặt trời chỉ còn cách chân trời khỏang ba con sào. Đoàn xe hình như xả hết tốc lực. Tôi nghe tiếng gió thổi vù vù. Cảnh vật hai bên lùi nhanh trước mặt. Tôi thầm nghĩ chắc họ đưa mình về giam ở Hỏa Lò Hà-nội. Nhà giam này tôi biết. Nó nằm gần Toà Án, rộng cả một khu phố, xung quanh có tường đá bao bọc và những dây điện giăng kín trên cao. Chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Vì lý do nào, 48 viên độc dược không kết thúc đời tôi từ năm ngoái, bây giờ xương thịt đã nát tan dưới lòng đất nơi xó rừng nào đó, đâu còn gánh chịu thêm những cảnh khốn khó này?
Tôi cứ “đi” vào tấm nylon từng chút một, bụng vẫn đau như xé. Liêm ngồi bên chịu đựng. Chiếc tay bị còng mỏi rã rời vì không cử động. Tôi nhắm mắt thiêm thiếp, ngả đầu vào vai Liêm.
Tôi mở choàng mắt khi có tiếng nói: Gia Lâm. Trước mặt một dẫy phố cũ kỹ như hồi nhỏ tôi đã nhìn thấy nó. Sau mấy chục năm “Độc Lập - Tự Do” vẫn không có gì thay đổi. Những căn nhà thấp, khấp khểnh chạy dài hai bên lề phố đưa dần lên cao để vào cầu Long Biên. Một vài cô gái cưỡi xe đạp, chiếc nón lá úp chụp che gần kín khuôn mặt, không nhìn rõ đẹp hay xấu, chỉ nhìn thấy dòng tóc cắt ngắn đen dầy hoặc tết đuôi sam lắc lư theo vòng chân đạp. Vài chiếc xe hơi kiểu mới, bên trong toàn ngoại kiều, chắc thuộc các cơ quan ngoại giao.
Con đường Gia Lâm ngắn nên đoàn xe chạy trong ít phút đã qua. Tôi đinh ninh xe sẽ qua cầu Long Biên để vào Hà-nội. Nhưng không! Khi đến đầu dốc, đoàn xe quẹo trái đi theo con đê sông Hồng, mùa này nước còn cạn, trơ những dải cát vàng chạy dài phía bên kia đê. Mặt đê khá rộng đủ cho hai xe vận tải tránh nhau. Chiếc Jeep lúc này chạy bon bon phía trước. Hai chiếc vận tải chạy sau giữ đúng cự ly, khoảng cách an toàn. Xe chạy qua đền Ghềnh, một ngôi đền cổ. Khi xưa học trường Mỹ Thuật đã nhiều lần tôi vẽ vì ngôi đền có lối kiến trúc khá đẹp và cầu kỳ. Tôi không hiểu vì sao họ lại đưa chúng tôi đi theo con đê xuôi xuống phía dưới. Có lẽ, nơi đây mới thiết lập trại tù mới? Nếu được giam giữ ở vùng này thì quá tốt vì xung quanh toàn đồng ruộng, nước lành, ít sợ ốm đau. Bụng tôi vẫn đau quặn từng chặp. Tôi vẫn cởi truồng một nửa, để sẵn sàng “đáp ứng theo nhu cầu”.
Đoàn xe đang ngon trớn bỗng dừng lại. Tôi nghe có tiếng cãi lộn phía trước.
- Các anh tưởng Công An muốn làm gì cũng được sao? Xe các anh lấn đường không cho xe khác chạy là thế nào? Các anh - Công An, chúng tôi - công nhân viên của Nhà Nước, hơn gì nhau?
Tiếng cãi qua lại một lúc, rồi đoàn xe từ từ lăn bánh. Khi đi ngang qua chiếc xe chở đầy cỏ, tôi nhìn thấy một anh mặc bộ đồ xanh công nhân, khuy áo ngực mở toang để lộ một mảng thịt nở nang, sắc mặt đỏ bừng vì giận. Tôi nghe rõ tiếng chửi theo:
- Địt mẹ tụi Công An, chuyên ăn hiếp người!...
Anh ta vừa chửi vừa chống tay vào hông như thách thức! Nhưng đoàn xe vẫn đi, tên Công An vũ trang ngồi sát chúng tôi, chắc nghe rõ và nhìn thấy dáng điệu của anh kia, nhưng nó làm như không nghe, không thấy. Chắc chiếc gậy sắt do tên bộ đội nào đó đánh trúng, chưa hết đau!...
Bên kia đê, thành phố Hà-nội! Những mái nhà thấp thoáng cao, thấp thỉnh thoảng lại hiện ra rồi biến mất. Đoàn xe cứ chạy vòng vèo theo con đê. Những xóm làng dưới chân đê, nằm im lìm sau lũy tre xanh mướt. Vài con trâu đứng, nằm đây đó, chiếc mồm đung đưa nhai lại. Xe chạy vào khoảng 10 cây số, tính từ đầu phố Gia Lâm, bỗng bỏ con đê đi xuống bãi mía rộng mênh mông, men theo con đường nhỏ vừa đủ chỗ cho một chiếc xe di chuyển. Chạy chừng 2 cây số nữa, đoàn xe dừng lại. Mấy đứa trẻ từ trong chiếc quán nhỏ chạy ra bán nước vối đựng trong chiếc ấm sắt, tay cầm vài cái bát. Tôi nhìn vào chiếc quán nghèo nàn, có bày vài nải chuối, vài lọ kẹo, bánh bình dân và mấy cái bát dùng uống trà tươi. Mấy tên Công An vào quán uống nước, ăn chuối. Những người đàn bà nhà quê gồng gánh tất tưởi đi vội vàng, nhịp đòn gánh nhún nhẩy theo từng bước chân. Tôi nhìn, thầm nghĩ, không hiểu sao họ gánh nhẹ nhàng, mình gánh lại quá vất vả? Một anh bạn ngồi sát ca-bin ghé mắt nhìn ra ngoài nói:
- Sắp qua phà!
Nghe vậy, tôi nghĩ ngay đến bến phà chiến lược qua sông Hồng trong thời gian Mỹ ném bom Hà-nội. Họ không muốn đưa chúng tôi đi qua Hà-nội, sợ gợi sự tò mò của nhân dân thành phố hay vì lý do nào đó, nên dùng lối này tuy xa, nhưng tránh được những gì Cộng Sản không muốn.
Xe nổ máy, xuống phà. Những vòng bánh lăn từ từ xuống mé sông. Sau khi 3 chiếc xe nằm yên trong lòng chiếc phà khá rộng, dân chúng mới được xuống. Nào xe đạp, nào gánh gồng, nào người ào ào tràn vào lòng phà, chật ních. Có một bà tóc hoa râm đứng cạnh chiếc xe. Bà nhìn vô, thấy chúng tôi bị còng, không hiểu sao, mắt bà rưng rưng ngấn lệ. Sợ tên Công An vũ trang nhìn thấy, bà quay mặt đi. Tôi cảm thấy đôi vai nhỏ rung rung như không nén được cảm xúc. Tôi chắc bà có con cháu hoặc họ hàng thân thuộc cũng “được cải tạo” ở một trại nào đó, ở trong Nam, ngoài Bắc?
Chiếc phà nổ máy, tách bến. Mấy người phu phà cầm những chiếc sào dài, chống xuống nước đẩy phà ra khỏi chỗ cạn để giúp thêm cho sức máy. Mầu nước phù sa đục ngầu, chảy lững lờ cuốn theo nó nhiều rác rến và những khúc gỗ mục. Chiếc phà chạy chừng15 phút đã tới bến. Mọi người xô nhau lên trước. Tiếng máy xe nổi bùm bụp rồi rú to khi rời khỏi lòng phà, leo lên con dốc thoai thoải. Đoàn xe chạy ngược lên, theo con đê. Tôi chẳng hiểu ra sao, đành chờ xem nó đưa đến đâu?
Phong cảnh sông Hồng buổi chiều nay, tôi nhìn vẫn vậy. Khúc sông bên lở, bên bồi, chỗ rộng, chỗ hẹp uốn lượn nhịp nhàng tạo nên sư hài hòa thoải mái. Vài con thuyền nhỏ trôi lững lờ, xuôi ngược. Cây cầu Long Biên nổi bật từng nhịp giữa buổi hoàng hôn, sắc mây hòa hoàng im sững kéo dài trên nền trời như bức cổ họa.
Xe chạy qua cửa ô Đống Mác, tức đã tới cửa ngõ phía Đông Nam Hà-nội, rồi qua nhà Bác Cổ, xong quẹo ngang, xuyên thành phố. Tôi đang ở giữa phố phường Hà-nội. Lần thứ nhất, tôi được nhìn Hà-nội đang đắm chìm trong giấc ngủ, trên toa chở trâu bò, qua ô cửa nhỏ. Lần này tôi gặp Hà-nội trong lòng xe chật hẹp, tay bị còng, đi ỉa chảy suốt mấy trăm cây số đường dài. Ôi, Hà-nội, những phố phường này đối với tôi quá quen thuộc vì tôi đã sinh ra ở đó, tuy khai sinh ghi quê cha ở Hà Đông. Từng thước đường, từng gốc cây, từng góc phố, chỗ nào, nơi nào đối với tôi cũng in dấu chân kỷ niệm. Hà-nội đối với tôi trong những năm xa cách như một hình ảnh vô cùng thiêng liêng, vô cùng thương mến. Nhưng chiều nay, tôi gặp lại Hà-nội lần thứ hai, sau hơn 20 năm xa cách, nó khốn khổ và vô cùng tủi nhục! Tôi, tên tù chính trị đang bị giải đến một nhà tù nào đó chưa biết! Có thể Hỏa Lò, có thể nơi nào khác! Cho đến phút này, tôi không ân hận gì vì đã có mặt trong hàng ngũ miền Nam, cầm súng chống lại miền Bắc Cộng Sản. Sau 5 năm kháng chiến, tôi đã bỏ hàng ngũ của họ, quay về Thành cũng không ngoài mục đích đó, tôi không thể gánh chịu, ép mình dưới chế độ độc tài Đảng trị! Tôi yêu mến Tự Do, vì có Tự Do con người mới phát triển, miễn đừng lợi dụng như một số người đã dùng nó như một lợi khí đấu tranh cho quyền lợi riêng rẽ, làm nó sụp đổ! Nghĩ đến Tự Do, tôi nhớ lại buổi sinh hoạt chính trị tại Nghĩa Lộ, tên Phó Trại đã nói rất ngay tình:
- Ở đây, dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, chúng tôi, mọi người đều có Tự do, muốn làm gì cũng được, đi đâu cũng được, miễn là phải xin phép!
Nói xong, nó không cười!
Cái “Tự Do phải xin phép” đó, xin lỗi, tôi cương quyết từ chối! Chỗ nào, nơi nào cũng có khẩu hiệu: Vì hạnh phúc của nhân dân, chúng ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiếng vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa! Đã hơn 3 năm chiến thắng rồi đó, chưa thấy tiến lên chút nào và 3 cuộc Cách Mạng đề ra cũng chìm xuồng luôn! Chắc cái chế độ tàn bạo này nó đang tiến dần dần, tiến lảo đảo, rồi ngã luôn xuống hố!...
Đoàn xe chạy vòng phố nọ qua phố kia. Có lúc, tôi thoáng nhìn thấy chiếc xe điện cũ kỹ vừa chạy vừa gõ chuông leng keng. Hình ảnh chậm tiến này còn tồn tại giữa một Thủ Đô thường tự hào là tiến bộ, quả thực mỉa mai! Bỗng chiếc xe dừng lại ở đầu phố, phía sau cơ quan Công An Trung Ương. Chúng tôi hồi hộp đợi chờ. Chừng 1 tiếng đồng hồ sau, xe lại rồ máy. Nó chạy ra đại lộ Trần Hưng Đạo. Chiếc nhà ga cũ kỹ khi trước, đã được sửa chữa lại bề mặt, trông đồ sộ và hiện đại. Đó là hình ảnh đổi thay đầu tiên, tôi nhìn thấy sau hơn 20 năm cách biệt, còn khu đấu xảo có Viện Bảo Tàng Maurice Long vẫn vậy. Nhưng tất cả hình như đều bé bỏng trước mắt tôi. Có lẽ, trong thời gian qua, tôi đã được sống, được nhìn nhiều thành phố quá rộng lớn, nên bây giờ gặp lại Hà-nội thấy nó quá nhỏ so với cả Saigon! Đoàn xe đi về phía ga rồi quẹo trái, chạy theo quốc lộ 1, đường Nam Bộ. Khi xe đi qua khỏi nhà ga một đoạn, tôi nhìn thấy ngôi trường Mỹ Thuật, ngày xưa tôi đã theo học 6 năm. Bây giờ nó ủ rủ, nhỏ xíu trước mắt tôi. Kiến trúc cũ kỹ, dù cho nó có chiều dài cả khu phố, căn buồng học của tôi, mấy chục năm trước có chiếc cửa sổ nhìn ra dẫy chuồng ngựa, những con ngựa giống Mông Cổ của quân đội Nhật Bản trong thời gian, chúng chiếm đóng Hà-nội và cả Việt Nam. Đoàn xe cứ chạy, nhưng hình ảnh ngôi trường cũ và kỷ niệm a vào làm tâm hồn tôi nhức nhối.
Cơn đau bụng đã dịu nhưng chưa hết. Đoàn xe qua ngã tư Khâm Thiên. Tôi cố nhìn xem có vết tích điêu tàn nào do bom Mỹ để lại, nhưng không thấy. Xe chạy qua công viên Thống Nhất, một công viên mới được xây dựng để làm nơi giải trí cho dân chúng, và cũng để làm đẹp thêm thành phố. Tôi không nhìn thấy gì ngoài chiếc cổng và những lùm cây, cùng vài ba bóng người qua lại bên trong. Hình ảnh thứ hai, Hà-nội có đổi thay trước mắt tôi. Thế là hết! Tôi nghe nói, cũng có nhiều thay đổi khác ở trong lòng Hà-nội, nhưng vì hoàn cảnh tôi chưa có dịp thấy. Thôi, chờ dịp khác...
Đoàn xe đã ra khỏi Hà-nội, đang chạy song song với đường xe hỏa, qua Kim-Liên, nhà thương Cống Vọng, noi đây có đổ nát vì bom Mỹ. Những vết tích chiến tranh chưa được hàn gắn, trông thê thảm, nhất là trong khuôn viên Bệnh Viện!
Trời bắt đầu tắt nắng. Đoàn xe chạy hết tốc lực. Trên quốc lộ 1, bây giờ có hàng cây cao làm mát mắt, chứ không trơ trụi như trước. Bóng tối thả xuống dần dần. Trên con lộ đất dẫn vào xóm làng xa xa, có những thanh niên, thanh nữ nhởn nhơ đi hóng mát. Đúng cảnh thanh bình!
Xe chạy đến tối mới tới chiếc bến nhỏ. Một dòng nước phẳng lừ trải dài im vắng. Cây cầu nổi giăng ngang từ bờ này qua bên kia. Chiếc xe đâm thẳng vô dẫy núi, bỏ lại tỉnh Phủ Lý (nay là Hà Nam Ninh), phía sau. Con đường này đã gợi rất nhiều kỷ niệm, vì trong tuổi niên thiếu, tôi đã qua lại nhiều lần. Đây, vùng Chiné, có sông, có núi, có nhiều cảnh đẹp, nhưng nước rất độc, dễ bị sốt rét, nhất là Ba Sao, Đầm Đùn! Không còn hồ nghi gì nữa, chúng tôi sẽ bị giam giữ tại vùng núi Chiné, nơi đó, nghe nói có một trại giam kiên cố, chuyên giam tù chính trị, như Trại Cải Tạo Trung Uơng số 1 tại Lào Cai vậy.
Trời tối hẳn. Tôi không nhìn rõ cảnh vật bên ngoài. Xe chạy trên con đường xấu, nhiều ổ gà. Chúng tôi cứ lắc lư theo chiếc xe nghiêng ngã. Tuy mệt vì đi cầu suốt ngay, tôi cố kéo quần lên, dùng bàn tay còn lại túm tấm nylon chờ dịp vứt của nợ ra ngoài xa. Tôi nhắm mãi chưa thấy chỗ thuận tiện, chiếc xe đã đi vô chiếc cổng lớn, lố nhố Công An. Hoảng qua, tôi vứt bừa tấm nylon qua ô cũi, mặc nó muốn rơi vào đâu cũng đuọc, trời đang tối mà! Tấm nylon được quăng mạnh ra ngoài. Tôi nghe rõ, tiếng kéo lê trên mặt đất, chắc cứt đái tung tóe vung vãi. Tôi nghĩ bụng, kệ cha nó, cho tụi Công An dọn, cũng có lúc mình phải làm khổ tụi nó chứ? Vừa nghĩ tới đó, xe dừng lại bất tử, tôi ngã người vào Liêm làm anh đổ theo!
Tên Công An vũ trang nhẩy xuống, mở chốt tấm chắn lên. Chúng tôi chờ chừng 5 phút, một tên khác leo lên mở khóa cũi. A, bấy giờ tôi hiểu, vì sao tên Công An vũ trang không mở cửa cho tôi xuống đi cầu và cũng không trả lời được hay không, vì nó không giữ chìa khóa, cũng không có quyền ra lệnh cho xe ngừng theo ý muốn.
Chiếc cửa con được mở, tôi và Liêm chuẩn bị xuống. Lúc này trời tối, thành xe lại quá cao, chúng tôi nhẩy không đều, nên cả hai ngã sấp xuống nền đất, chiếc còng cứa vào cổ tay. Khi dậy được, thấy đau, tôi nhìn thấy một dòng máu rỉ ra như vết mực. Đồ vật được quăng xuống chất thành đống. Anh em chọn lựa vứt tung, biến cái “đống” thành một “vũng” đồ. Mọi người chờ mở còng. Tên Công An giữ chìa khóa, xoay mãi, chiếc còng của chúng tôi không chịu mở. Tra hết chìa này đến chìa khác, vẫn trơ trơ. Sau, nó bỏ mặc hai đứa tôi đứng đó, đi mở các chiếc còng khác. Tất cả đã mở xong, chỉ còn lại chiếc của chúng tôi. Chỗ cổ tay bị còng cứa chảy máu, mồ hôi rịn vào làm xót vô cùng. Tôi nghiến răng chịu đựng. Hết đi ỉa chảy, bây giờ lại hóc còng, cái số tôi thực khốn nạn! Anh em đã mang đồ vô chiếc ngõ sâu, giống hệt chiếc ngõ ở Lào Cai, chỉ có khác ở đây không phải leo, nó nằm ngang mặt sân. Một tên Công An đề nghị, dừng cưa sắt để cắt còng. Nhưng tên giữ chìa không chịu, nó cứ thử đi, thử lại. Một xâu chìa khóa mấy chục chiếc, mỗi cái nó thử trung bình mất 1 phút, do đó, thời gian chịu đựng của chúng tôi kéo dài. Nhưng sau chừng nửa tiếng, chiếc còng cũng mở. Thì ra nó khô dầu! Tôi và Liêm, hai kẻ vào sau cùng. Anh em đã ngồi dài trước cửa “chuồng” như hệt ở Lào Cai. Theo lệnh của một tên Công An hãy còn trẻ, mọi người vào “chuồng”. Sự tranh giành chỗ ngủ lại diễn ra như hồi ở Lào Cai. Vì vào muộn, tôi và Liêm đành phải leo lên “lầu”. Lầu không có thang, chỉ có những miếng gỗ đóng vào chiếc cột làm bậc lên xuống. Sau khi xếp đồ, dọn sơ chỗ ngủ, tôi lần xuống, ra sân tìm nuớc rửa ráy vì cả ngày đái ỉa tùm lum bẩn thỉu chịu gì nổi?
Vì trời tối, chẳng biết chỗ nào có nước, tôi đi vòng ra mé sau, thấy có một đường nước lấp lánh dưới ánh đèn. Tôi tụt nhanh quần, té nước rửa. Có lẽ, vì nhịn đói nên bớt đau bụng và hết đi cầu. Làm sạch sẽ xong, tôi lại leo lên lầu. Tay chân rả rời, leo từng nấc mệt mỏi. Đêm đó, tôi không buông mùng, lăn ra ngủ, một giấc ngủ mỏi mệt.
Sáng hôm sau, tỉnh dậy, mặt trời đã chiếu vô chỗ nằm. Liêm cho biết, đêm qua tôi trăn trở suốt sáng. Đầu nhức như búa bổ, lại hâm hấp sốt, tôi hỏi xin thuốc, Phùng cho mấy viên Aspirin, tôi cảm ơn không dùng, vì cả ngày qua chẳng ăn uống gì, nay uống Aspirin vào nó cồn cào chịu không nổi! Thôi đành chịu trận. Tôi lần xuống, để rửa mặt đánh răng, lúc đó mới biết có một giếng nước trong vắt ở sát chỗ chúng tôi ngồi tập họp tối qua. Sau đó, vòng ra phía sau đi tiểu, tôi mới hay vũng nước hồi hôm mình rửa ráy là đường mương, rêu xanh nổi lều bều trên mặt! Sợ quá, tôi đi lại chiếc giếng, gầu nuớc, mang ra chỗ khuất cởi quần rửa lại!...
Phần ăn sáng ở đây, đặc biệt phát cho mỗi người mới đến một ổ bánh mì nướng. Thường ra chỉ được 1/4. Ổ bánh mềm xìu như chiếc giẻ rách. Vì còn bệnh, tôi chỉ nhấm nháp một chút, xong cất đi.
Đến 9 giờ, có lệnh điểm nghiệm. Mọi người bày tư trang của mình kín chiếc sân, trước Buồng. Một khuôn viên trồng hoa, hình chữ nhật, ở giữa có hòn non bộ khá đẹp, đứng sững trong chiếc bể bầu dục có thả cá vàng!... Cảnh trí y hệt Lào Cai, cái lối kiến trúc đặc biệt của nhà tù Cộng Sản!
Cả 10 tên Công An đi vô, chưa bao giờ tôi thấy việc điểm nghiệm có nhiều Công An tham dự như ở đây. Nó khám kiểu này khó lòng giấu đưọc cái gì! Nhưng sự thực, qua bao nhiêu cuộc điểm nghiệm, mọi người chúng tôi cũng chẳng còn gì để giấu, ngoài vài thứ lặt vặt như con dao nhỏ dùng để cắt bánh, cái kéo để hớt tóc v.v... Nếu còn càng tốt, bị thu, sẽ tìm cách khác. Riêng tôi, chẳng có gì đáng ngại, nên để khám tha hồ. Những ai nhiều lon hộp đều bị thu, chỉ được giữ một chiếc. Lon gô vứt cả đống, tù hình sự vô nhặt quăng vào “xe cải tiến”‘ kéo đi đâu chăng biết! “Xe cải tiến” mới nghe, tưởng ghê gớm lắm, có máy móc gì, ai ngờ nó là cái xe bò thứ nhỏ, làm toàn bằng sắt, kéo nặng chết cha!
Buổi sáng, điểm nghiệm. Buổi chiều, khai báo. Đó là những “khâu” bắt buộc mà người tù phải qua ở mỗi trại giam. Sau đó, học tập nội quy, ở đây còn thêm mục “Nếp sống văn hóa mới”, gồm 20 điều cấm kỵ!
- Đù mẹ, cứ làm như văn minh lắm, trong khi còn nói ngọng, người cầy thay trâu, ăn uống đói khát, lúc nào cũng khắc phục.
Một tiếng chửi cất lên khi anh ta nhìn thấy những điều răn cấm, viết trong tấm bảng ghi: Nếp Sống Văn Hóa Mới.
Chúng tôi được nghỉ ngơi, để làm thủ tục nhập trại, khai báo, học tập nội quy trong một tuần lễ.Tôi đã đi khám bệnh và được phát thuốc. Bệnh tuy khỏi, nhưng từ ngày tự tử không chết, sức đề kháng trong cơ thể hình như suy nhưọc hẳn đi, mỗi lần đau ốm rất khó lại sức! Tôi cứ vật vờ như con bệnh giả vờ. Mỗi bữa, chỉ ăn được nửa ổ bánh mì với muối, phần còn lại, tôi biếu anh bạn, đã cùng tôi đạp đất chung ở Lào Cai. Anh này có biệt tài kể chuyện Tam Quốc, Thủy Hử, làm quên đi những giờ phút cực nhọc, bụng đói, cật rét!!...
Tên Công An, cán bộ Buồng, trẻ măng nhưng vô cùng hách dịch. Nét mặt lúc nào cũng lạnh lùng, vì nó có quyền hạn lớn, muốn cho ai ở nhà làm việc nhẹ, hay đi lao động tùy ý. Nó có quyền khám xét bất cứ lúc nào. Nó có thể tùy yêu, ghét mà xử trí với mỗi tù nhân, ngay vấn đề nghỉ bệnh cũng phải trình diện nó. Việc phân công ở trại này có hơi khác với Lào Cai. Ở đây, Công An Buồng chỉ lo đôn đốc cho tù đi lao động, đề phòng cưa chấn song ban đêm trốn trại, hoặc nghỉ lao động không có phép. Còn lao động do tên Công An khác phụ trách. Tên này có nhiệm vụ đốc xuất tù lao động cho đạt chỉ tiêu do Ban Giám Thị đề ra và tên Công An vũ trang có trách nhiệm giữ tù trong giờ lao động. Như vậy mỗi người tù chịu 3 hệ thông kiểm soát gắt gao, rất khó trốn!
Trước giờ lao động, điểm số. Giữa giờ lao động, trước khi về trại, lại điểm số. Cứ như vậy ngày này qua ngày khác, lâu dần nó biến người tù thành cái máy!
Ngày đầu, chúng tôi đi lao động cũng ngồi xếp hàng theo Đội như ở Lào Cai. Một tên Công An đứng trong chiếc “chuồng cu” xây bằng gạch, có chiếc cửa tò vò như chiếc cửa mua vé ciné, gọi từng Đội đi lao động. Cái “chuồng cu” này nhằm mục đich tránh mưa, nắng. Chúng tôi đứng lên khi Đội được gọi. Tất cả nón, mũ đều bỏ xuống cầm tay, tới khi nào qua khỏi chiếc “chuồng cu” mới được mang lại. Ra khỏi chiếc cổng sắt, hai tên Công An, một quản giáo lao động, một vũ trang, đi theo ngay. Tên Công An quản giáo lao động, trông có vẻ cao ráo, mặt mũi sáng sủa, ăn nói khá tử tế, không hiểu sao lại vào nghề Công An? Còn tên vũ trang trông quê mùa, mặt lầm lầm như chó ăn vụng bột. Nhưng cũng như ở Lào Cai, các tên vũ trang được thay luôn, không ở Đội nào lâu.
Chúng tôi được dẫn tới chân quả núi thấp để làm “Trạc”. “Trạc” là một loại đá non, dễ cuốc. Khi cuốc nó rơi lả tả như cát, có to, có nhỏ. Toán nào cuốc, chuyên cuốc; xong toán cào, vun lại; đến toán chuyển, xúc đổ vào những chiếc “vá” đan bằng tre, chuyển lên mặt đường đổ thành đống, cho Đội khác chuyên chở đến nơi xây cất thêm nhà tù. Loại “Trạc” này được rây qua tấm lưới nhuyễn, đem trộn với vôi thành chất vữa, xây nhà rất chắc. Nó như một loại xi-măng non!
Phần ăn sáng, mỗi người được lãnh 50gr bột mì, đem ra bãi nấu. Anh em cử hai người chuyên nấu bột và nấu nước uống. Nấu bột xong, chia đều cho 52 chiếc gô để sẵn. Mỗi người được 3/4 gô hồ loãng, phần ăn sáng. Vừa làm, anh em vừa ngoái cổ nhìn xem thùng hồ đã chín chưa.? Ai cùng đói như điên. Khi anh nấu hồ giơ một ngón tay lên trời làm hiệu, Đội trưởng nhìn thấy, xin quản giáo lao động cho nghỉ giải lao, ăn sáng, uống nước. Tên nào tử tế cho ngay, tên nào “hắc ám” nhìn đồng hồ, nếu chưa tới 9 giờ, chưa được, phải làm đúng giờ, mới được nghỉ! Chao ôi! thân tù, thân tội. Làm quần quật ngày 8 tiếng, dãi nắng dầm mưa, mỗi ngày chỉ được ăn 2 ổ bánh mì to bằng cổ tay đứa bé và mỗi sáng được húp 3/4 gô nước hồ loãng, sao sống nổi? Do đó, da nguời nào cũng xanh lét, kể cả người khỏe mạnh nhất. Những gói quà từ Lào Cai mang xuống, dùng lâu cũng hết, nên ngoài khẩu phần được cấp phát, anh em chẳng có gì ăn thêm. Ở đây, nếu có tiền, có thể mua được bánh trái, tuy bị cấm, do những toán đi làm ở sát khu dân mang về, hoặc tù hình sự bán. Nhưng tụi tôi mới đến, lấy đâu ra tiền? Còn mấy chục bạc gửi từ Yên Bái, bây giờ làm sao lấy ra, tuy số tiền gửi đã được chuyển tới đây, trên giấy tờ!
Chúng tôi cứ sống như vậy từ ngày này qua ngay khác, khi làm “Trạc”, khi sửa đường, đào mương. Vì sức yếu, tên Công An lao động lại thích vẽ, khi xem lý lịch biết tôi có chuyên môn, nên hắn cho nghỉ lao động, mỗi ngày tôi ngồi trong lùm cây khuất, vẽ cho hắn bằng bút chì trên giấy học trò, cảnh “Thạch Sanh bắn đại bàng”, lẵng hoa, phong cảnh doanh trại v.v.... Nhưng công việc này cũng chỉ kéo dài được ít lâu vì thay quản giáo lao động. Tôi lại trở về với đống “Trạc” và chiếc cuốc.
Cái nóng của miền xuôi cũng ghê gớm, không thua gì miền núi. Những ngày nắng đổ lửa, mỗi trưa đi lao động tôi phải ấp chiếc khăn uớt lên đầu cho đỡ nóng. Chỉ trong ít phút, chiếc khăn đã khô, nhưng quần áo lại ướt đẫm mồ hôi. Trời mấy bữa nay đổ mưa luôn. Những cơn mưa cuối mùa hạ càng dữ dội nhiều khi mưa to, gió lớn do từng cơn bão gây ra. Những cơn bão trước đây đã qua đi, chưa cơn nào lớn, nhưng theo đài sáng nay báo, có cơn bão số 9 sẽ đi qua vùng này với gió cấp 10, như vậy khá lớn.
Buổi chiều nay, chúng tôi sửa soạn đi lao động, trời bỗng vần vũ, những đám mây đen bay vùn vụt trên vòm cao, gió thổi vật vã lay động hàng cây bên sườn núi. Mọi người đều khấn: lậy trời mưa xuống cho chúng con được nghỉ lao động! Mỗi lần trời vần vũ, tù thường cầu xin như vậy. Nếu mưa thật, tù nói: “Ông trời của chúng ta!”. Nếu không, tù nói: “Ông trời của Việt cộng!”. Nhưng thực ra, ông trời không của ai cả. Chuyện mưa nắng do sự luân chuyển của trời đất từng mùa đã có hàng tỷ năm trước, chứ phải đâu vì có con người mói có ông trời làm ra mưa, nắng?
Những khối mây đen đuổi nhau tới tấp, vẫn chưa mưa. Tiếng kẻng lao động đã gõ. Anh em uể oải, đội nón, mang gô ra sân tập họp lao động!
Chiếc sân tập họp, chiều nay mát hẳn vì không có nắng. Từng Đội một, lại đứng lên theo tiếng gọi, đi ra khỏi cổng. Khi Đội tôi đi đến chỗ làm, gió thổi tung bụi cát, bay mù trời. Cây cối trên núi chao chát như lũ say. Tên quản giáo lao động cho lệnh làm việc. Những nhát cuốc lại bổ vào sườn núi, bột đá rơi lả tả. Chúng tôi lao động giữa cơn gió thổi hung cuồng. Những chiếc nón bay đi xa, bị cuốn hút vào cơn lốc. Mưa bắt đầu rơi, anh em nhốn nháo, kẻ lấy áo mưa, người đi nhặt nón. Mọi người đợi cho tiếng kẻng “gom tù” như những lần có mưa trước. Nhưng chờ mãi không thấy, nên vẫn phải làm việc dưới mưa, tuy chưa to, cũng đủ ướt. Tên quản giáo và tên vũ trang đang ngồi trong chiếc chòi nhỏ, cười nói hô hố! Cơn mưa từ đầu núi kéo xuống trông rất rõ. Vừa lúc ấy, tiếng kẻng khua vang. Mọi người, áo mưa bọc kín, quần xắn tới bẹn, chuẩn bị đi về. Tên vũ trang cẩn thận, bắt xếp hàng điểm số trước khi cho cất bước, trong lúc anh em muốn về ngay để tránh mưa gió!
Lớp mưa dầy đặc quất ào ạt theo chiều gió. Mọi người không còn giữ được đội hình, đi lung tung, mạnh ai nấy bước. Đến cổng trại lại chờ, vì có nhiều Đội đã tới trước. Nước mưa thấm qua khe áo luồn vô người lành lạnh. Khi Đội tôi được cho vào, anh em đã ướt như chuột, kể cả những ai có áo mưa loại tốt.
Vào đến “chuồng”, anh em líu ríu thay đồ để tránh cảm vì theo lời các “tu-bíp”, nếu để thấm mưa, sẽ mất nhiều calori, do đó, dễ bệnh. Trời tối âm u, mưa gió tơi bời, trông như sắp tối, nhưng sự thực hãy còn sớm! Anh em lại quây quần “kéo pháo” chờ ổ bánh. Mưa mỗi lúc, một nặng hạt. Gió thổi làm rụng hết những bông hoa trong vườn cảnh, một vài cây bị gãy gục. Có lẽ đây, trận bão to nhất trong năm mà địa phương gánh chịu.
Tôi ngồi thu lu, hút thuốc lào vặt, nhìn gió mưa đi qua cửa sổ để nhớ lại cơn mưa rừng ở Nghĩa Lộ và dòng suối hung hãn đã cuốn trôi căn lều trú ẩn, rồi nhìn vết còng cứa đứt nơi cổ tay nay đã thành sẹo. Mỗi lần nhìn, mỗi lần uất hận!...
Ổ bánh mì mềm xèo đã trôi vào bụng từ lúc nào, sao chẳng cảm thấy gì? Nếu trời không mưa, có thể ra vào nhìn ngắm cho khuây khỏa, chứ ngồi suông thế này, cơn đói càng hành hạ. Tôi ăn đã biết ngon, luôn luôn cảm thấy đói, chứng tỏ sức khỏe điều hòa, nhưng lấy gì ăn, cái đó mới quan trọng! Khi còn bị giam ở các trại do “cối xanh” quản lý, ít nhiều gì cũng còn quơ quào được củ khoai, khúc sắn vô miệng. Chứ ở đây, tuyệt nhiên không! Chẳng có ai “cải thiện” được gì, do đó, mọi người cùng đói, chỉ riêng toán làm bếp no. Chắc chắn như vậy. Tôi nghe nói, luật ở đây, toán làm bếp được ăn kỳ no tại chỗ, cấm không được mang về “chuồng”. Trước khi về, mỗi tối, mọi người đều phải để cho tên Công An hậu cần khám túi, lần lưng. Nhưng đó, chỉ là sự đề phòng vô ích. Vì nếu có bánh đem cho bạn bè, họ cho từ ban ngày làm sao kiểm soát, dù có lệnh cấm không ai được vào bếp, nhưng không cấm nhà bếp ra ngoài! Họ có một ngàn lẻ cách cho nhau, như ở Lào Cai, Đ. đã cho tôi.
Tối nay, mọi người đều đi ngủ sớm vì mưa gió chả biết làm gì. Cơn mưa cứ đều đều trải dài như vậy, không có sấm sét, đúng 7 ngày đêm mới tạnh. Chúng tôi được nghỉ lao động đúng một tuần lễ, ai cũng ca tụng ông trời tốt bụng!
Sớm nay, trời trong xanh, không một gợn mây. Từ phương Đông mặt trời đỏ như chậu máu lơ lửng treo cao trên đầu ngọn núi. Cái màu đỏ chói chang, nhìn nhức mắt, nhưng nó lại có giá trị tuyệt dối cho muôn loài. Người ta có thể chịu đụng được cả tháng nắng nhưng chỉ mưa một tuần đã thấy nản. Lao động ai cũng sợ, ở nhà lại chán, đằng nào cũng chết. Nhưng theo tôi, thà lao động tuy vất vả nhưng ít nhất thời gian cũng qua mau, ít làm mình suy nghĩ. Sụ suy nghĩ, làm hao mòn thể xác và tinh thần dễ suy sụp!
Các Đội lại “ra quân” ngồi kín chiếc sân rộng. Tên Thịnh mang quân hàm thiếu úy lại đứng thu hình sau chiếc cửa tò vò, gọi Đội đi làm. Tên này là một trong những “hung thần” của trại Nam Hà. Nó đểu cáng, ba que, ác độc vô cùng. Nó không nhân nhượng cho ai, dù vô tình phạm lỗi. Dưới nó, còn tên Lực, Trung sĩ, cũng ác ôn không kém. Ai bị nó khám, đừng hòng giấu diếm. Nó bóp cả “chim”, bảo rằng: - “chim của các anh cũng biết ăn đường, uống sữa!”. Hai tên đó, chuyên giữ phòng trục, gọi tù đi lao động và cho tù nhập trại. Chúng, điển hình cho chế độ Cộng Sản!
Tiếng gọi hách dịch vang lên, các Đội lại tuần tự đứng lên cầm nón, mũ trong tay, đi ra khỏi trại!
Buổi nay, chúng tôi không làm công tác như thường lệ, mà đi vác đá. Từ trên cao, tôi nhìn cả một vùng nước trắng xóa, chỉ còn chừa lại vài mái nhà cao và những rặng cây nhô lên khỏi mặt nước, sau 7 ngay đêm mưa liên tục. Tụi Công An, một số được điều đi cứu lụt, cơn lụt trầm trọng làm hư hại tất cả hoa mầu trong vùng nếu không kịp thời đối phó! Quang cảnh trại hôm nay có không khí nhộn nhip khác thường. Đội sửa đường, đội vác đá, đội dọn dẹp những nơi đổ nát. Tất cả đều làm việc theo nhu cầu sau cơn bão. Trời hôm nay, nắng rất đẹp. Mầu xanh cẩm thạch trong suốt như tấm thủy tinh trải suốt chiều rộng không gian. Tôi vác những viên đá lớn, nặng khoảng 10 kilô trên vai di chuyển khoảng 100 thước, xong quẳng xuống, người khác sẽ mang đi một khoảng xa tương tự, rồi người khác lại mang đi. Cứ thế, chúng tôi làm dây chuyền từ chỗ có đá vào đến cổng trại để xây thêm 2 nhà tù mới. Hai khu này kiến trúc y như các khu đã có. Ở đây chỉ khác Lào Cai, các cửa ngỏ đều không có, vì thiếu cây, nên chúng tôi chỉ phải khóa có một lần cửa mỗi tối. Nhưng không vì thế, ai muốn đi đâu cũng được, sau khi mở khóa. Nội quy cấm liên hệ, giữa buồng này, buồng khác, nếu có, chỉ lén lút. Có một chiều, tên cán bộ Buồng đã trói một “Đại úy tù” vào cây cột phơi đồ vì anh này bị bắt quả tang liên hệ. Cửa “chuồng” đã khóa, trời sắp tối. Từ trong “chuồng” chúng tôi còn thấy anh bị trói, đứng ủ rủ nơi cây cột. Hai cánh tay bị trói ghì vào cột bằng một sợi dây thừng! Trước khi trói, anh còn bị loi mấy cú đấm vào người, vào mặt. Buổi tối, muỗi nhiều, chắc chúng đốt dữ, nên anh cựa quậy liên hồi. Ở trong này, dù thương anh lắm, nhưng chẳng có cách nào cứu anh. Cứ đứng chịu trận như vậy cho tới kẻng ngủ, anh được tên Công An cởi trói đưa về buồng anh ở.
Toàn khu Ba Sao, Đầm Đùn có 3 trại: A,B và C.
Trại A, nơi tôi đang ở, tưong đối rộng rãi, khang trang. Từ xa nhìn, nó giống như một dẫy khách sạn treo lơ lửng bên suờn núi. Nhưng ở gần, nó đúng là nhà tù với đầy đủ những tiêu chuẩn dành riêng cho trại giam chứa trên dưới 2,000 người.
Trại B, nằm sâu trong triền núi Chiné, lọt thỏm giữa một thung lung nhỏ, xung quanh núi cao bao bọc. Trại B, bé hơn Trại A, chứa chừng 500 tù. Đặc biệt, trại B còn có một căn nhà dành riêng để biệt giam, nếu vi phạm kỷ luật. Hình phạt tùy theo nặng nhẹ, nhưng nặng nhất là “kiên giam”, cùm một chân. Kiên giam, hình phạt man rợ! Mỗi ngày tù kiên giam chỉ được mở cùm một lần để làm vệ sinh cá nhân, cơm ăn chỉ có muối và đựng trong bịch nylon, nếu ai biết trước mang theo được, còn không thì ăn cơm ngay trong lòng tay. Mỗi căn, giam 2 người, cấm không được nói chuyện. Giống như ở cachot vậy. Xung quanh kín mít, chỉ có những lỗ thông hơi nhỏ trên cao. Thỉnh thoảng tên Công An gác nhà giam, buồn tay buồn chân lại mở còng, gọi ra đấm đá bất kể ngày đêm. Những ai trốn trại, hoặc chống đối lao động đều bị phạt kiên giam!
Trai C, ở ngay trên con lộ dẫn đến trại A. Nó nằm khuất nẻo trong một khu có lũy tre bao bọc, có đụn rơm, nhà cửa. Ở ngoài nhìn vào, giống hệt xóm dân thường, nhưng đích thực là nhà tù. Trại này, cách xa trại A khoảng 3 cây số, giam giữ khoảng 700 tù.
Như vậy toàn khu Ba Sao trong vùng núi Chiné giam giữ trên dưới 3,000 tù. Tất cả 3 khu đặt dưới quyền kiểm soát của Ban Giám Thị, do tên trung tá Hà Mạnh Xuyên làm thủ trưởng, với tên đại úy Huy phó trại, chúng tôi thường gọi là “Hoàng tử lưng gù”, vì lưng hắn u lên như lưng con bò rừng. Tên Huy, rất khôn ngoan, đúng là “con cáo già Công An”. Mỗi khi ban chút ân huệ nào cho tù, hắn xuất hiện với nụ cười hoan hỉ. Khi cần trừng phạt, hắn lánh mặt, để đàn em thi hành, do đó, tù không oán! Ở bên dưới, còn rất nhiều tên khác, mỗi tên lo phần vụ riêng, nhưng tên phụ trách an ninh, quả là tên ác ôn có hạng. Nó như con chó săn, luôn luôn sục sạo chỗ nay chỗ khác, dò hỏi mọi người, nó đặt “ăng ten” ở mỗi buồng. Một buổi, tôi nghỉ bệnh, nó dò hỏi:
- Sao anh không đi lao động?
- Tôi bệnh!
- Bệnh gì?
- Sốt rét!
- Sốt rét, sao anh không năm nghỉ, lại ngồi đây?
- Tôi không muốn nằm, vì nằm bệnh thêm. Tôi vừa qua cơn sốt!
Nó nhìn tôi chằm chặp hỏi thêm:
- Tên anh là gì?
- Tên Tỵ!
- A, tôi có nghe, anh vẽ giỏi, làm thơ, viết văn hay lắm, hả?
- Tôi đâu biết gì, cán bộ!
- Này, anh đừng có giấu tôi, không được đâu! Tôi hỏi thật anh câu này nhé!
Nói xong, nó nhìn chăm chăm vào tôi như tìm phản ứng.
- Cán bộ cứ hỏi?
- Anh có biết trong buồng này có ai buôn bán, đổi chác gì không? Có ai đánh bạc, uống rượu không?
- Tôi chắc không có!
- Anh không thành khẩn rồì!
- Tôi thấy sao trả lời vậy. Nếu cần, cán bộ nên hỏi Buồng trưởng.
Thấy tôi trả lôi ậm ừ nó bỏ đi. Nhưng sau nay, nó tìm cách hạ nhục tôi như tên Kỳ ở Lào Cai vậy.
Vác đá từ sớm đến trưa, mỏi và mệt lắm, tôi rã rời tay chân. Mồ hôi chảy uớt đẫm áo. Tôi dùng chiếc nón lá quạt liên hồi cho tan cơn nóng nực!
Tiếng kẻng tan tầm khua vang, Đội xếp hàng điểm số, trở về. Cầm ổ bánh mì trong tay, tôi đưa lên miệng. Ăn không quá 5 phút, xong uống nửa gô nước, mong bột bánh nở ra trong bụng, cho đỡ đói. Buổi trưa lại điểm số. Anh em ai ngồi chỗ đó, tên Công An đi một vòng đếm. Đếm xong, nó khóa cửa và sẽ mở lại trước giờ lao động buổi chiều. Cứ như vậy, đời tù, mở và đóng khóa mỗi ngày 4 lần. Nhưng lần mở quan trọng nhất, vẫn là buổi sáng. Nếu sáng nào mở khóa, có hai tên cùng đến, sáng đó thế nào cũng có chuyện, hoặc chiếc chốt cửa bị tháo ra, mang theo cả chiếc khóa, cũng vậy. Sau này ở lâu, do kinh nghiệm, tôi biết và đoán được những sự việc báo trước đó!Nhưng biết để mà biết, chẳng làm gì hơn được vì mỗi quyết định đều ở ngoài tầm tay.
Sau tuần lễ vác đá, chúng tôi lại quay về công tác làm ‘Trạc”. Tổ tôi, bữa nay được phân công phát quang suờn núi, lấy chỗ cuốc “trạc” vì nơi đang lấy, đã gặp đá cứng, không ra ”trạc”. Tôi vừa làm, vừa nhìn ra vũng nước rộng. Mực nước đã rút nhiều, để lộ những nếp nhà cũ kỹ và thấy cả con lộ nhỏ khúc nổi, khúc chìm. Những chiếc thuyền thúng bơi qua, bơi lại để lưới cá, vì theo kinh nghiệm, sau mỗi cơn lụt, cá về nhiều hơn. Dẫy “núi răng cưa” in lên nền trời như miếng bìa cắt vụng. Tôi nghe nói, chẳng con thú nào thích sống ở vùng “núi răng cưa” vì không có mồi, cây cối cũng không cao.
Chiều qua, tù hình sự vừa bắt được một con trăn to bằng bắp đùi, dài cả chục thước, khi nó đang nuốt một con dê đực, trại nuôi thả rong trên sườn núi. Mỗi chiều, vào khoảng 4 giờ, tên tù hình sự tự giác chăn dê đi vòng vòng gọi: Dê ơi! về đi! Tiếng gọi âm vang vách đá, đàn dê nghe tiếng gọi, lục tục trở về. Tụi Công An chở con trăn và con dê đã chết, trên ca-pô xe Jeep. Con trăn bị đánh dập đầu, nằm cuộn tròn, chiếc đuôi còn thòng dài chấm đất. Con dê nằm sóng soài trên mình con trăn, hai chiếc sừng nhọn hoắt, râu ria xồm xoàm. Tôi không hiểu tại sao, con dê to với hai chiếc sừng nhọn sắc như vậy mà con trăn có thể nuốt được con mồi? Việc quấn chết, dễ hiểu, nhưng nuốt, quả thực khó hiểu. Nhưng đó là việc của Thượng đế, khi sinh ra muôn loai, đã ban phát cho mỗi giống dù to hay nhỏ, một khả năng để tự vệ, để săn mồi, cũng như để tiêu thụ những gì thích hợp với cơ thể để sinh tồn!
Những nhát dao chém liên tiếp, cây cỏ nằm rạp xuống. Mùi lá tươi ngai ngái đưa lên mũi, làm tôi nhớ đến buổi phát quang ở Yên Bái. 3/4 gô nước hồ đã tiêu sau bãi tiểu. Lại đói như điên. Giữa lúc ây, từ phía dưới, tôi nghe tiếng gọi:
- Ông Tỵ ơi! sắp có thăm nuôi đó!
Tôi ngừng tay, nhìn xuống. Mấy anh đang khom người đẩy chiếc xe cải tiến chở đầy “trạc” lên dốc.
Tôi hỏi vọng xuống
- Bạn không nói đùa đấy chứ?
- Em gái ông đến thăm!
Tôi bỏ dao chạy nhanh xuống. Sao lúc đó, tôi cảm thấy khỏe thế, bước phăng phăng từ dốc núi cao xuôi dần tới mặt lộ. Anh em đang làm dừng tay nhìn, như nhìn một kẻ điên. Khi xuống tới mặt đường, tôi ngó lên con dốc, không thấy gì. Thất vọng, tôi toan quay lại. Bỗng từ đầu dốc nhô lên một bóng người đàn bà, theo sau, người đàn ông dắt chiếc xe đạp, trên xe chở một gói lớn. Tôi mở to mắt! Đúng em gái tôi, với cái dáng người ấy, tầm cao ấy, không thể nhầm được. Tên quản giáo lao động, từ trong chòi nhìn ra quát:
- Anh kia,” nàm” gì đứng đấy, đi “nào” động ngay! - Tên này nói ngọng.
Tôi bẽn lẻn đi lên, nhưng không đi mau, cố tình bước thật chậm, chờ nhìn lại cho rõ. Thời gian sao dài thế, có mấy bước chân, mãi không tới! Tôi đang nóng ruột, hai bóng người đã đi ngang. Tôi gọi:
- Cô Hạnh!
Người đàn bà ghé nón, ngước mắt nhìn lên, cười:
- Anh, em đây! Chờ chúng em vào trình giấy tờ nhé!
Nói xong, em tôi giơ tay vẫy, người đàn ông đi sau là em rể? Đã mấy chục năm xa cách, bây giờ gặp lại nhau trong hoàn cảnh khốn khó này. Không hiểu sao, mắt tôi bỗng mờ đi, tuy lúc này trời đang nắng dữ dội! Anh em ai cũng mừng cho tôi sắp được no ít bữa. Tôi, người thứ hai được thăm nuôi ở trại nay sau Thiện, Tổ trưởng. Từ lúc đó, tôi không còn thiết lao động, chỉ mong chóng tới giờ tan tầm. Tôi tìm một lùm cây, khuất tầm mắt của mọi người, ngồi thu lu suy nghĩ! Trong đầu tôi, hiện lên hình ảnh gia đình nào bố mẹ, anh em, từ ngày xa xưa khi còn trẻ thơ. Tôi đã sống và lớn lên nhờ gia đình đùm bọc, anh em che chở. Tôi, đứa con hư hỏng, không làm ăn gì để giúp đỡ bố mẹ, anh em, chỉ lo học làm nghệ sĩ! Lúc tuổi tôi còn ăn học, bố mẹ đã già, do đó, các anh lớn phải đi làm để gánh vác. Tôi có hai người anh đã bị Cộng Sản sát hại: một anh, trong thời gian kháng chiến chống Pháp, và anh kia vào năm 1958. Cả hai đều chết, trong lúc bị giam cầm tại Trại Cải Tạo, nay đến lượt tôi, cũng đang bị cải tạo không có ngày về! Người đàn bà đến thăm là em gái thứ 7. Cô lập gia đình sau khi chia đôi đất nước. Do đó, đây là lần thứ nhất, tôi gặp người em rể! Tôi chẳng hiểu vì đâu họ tìm ra tôi ở địa điểm này? Trại cấm không được tiết lộ địa điểm cải tạo trong thư từ, dù nói xa xôi, nếu trại biết, sẽ nghiêm trị. Hồi gần đầy, tụi Công An mới cho phép các Buồng trưởng, Đội trưởng, Đội phó và những ai phục vụ tại “nhà Văn Hóa” mới được gửi thư về nhà, báo địa điểm thăm nuôi. Tất cả độ vài chục người, trong số gần 2,000 tù!
Tiếng kẻng tan tầm như đẩy tôi ra khỏi suy nghĩ.
Tôi xuống núi từng bước dài để tập họp điểm số. Trên con lộ, các Đội đi dài dài, áo quần lem luốc ướt đẫm mồ hôi. Vế đến trại, không nhìn thấy hai em tôi đâu. Chắc họ được nghỉ tại căn “nhà chờ” bên hông trái. Chiều nay tôi sẽ được thăm nuôi.
Buổi trưa, nằm không ngủ được chút nào. Cánh cửa ”chuồng” đã khóa. Tôi ngồi hút thuốc lào vặt, ruột nóng như chiếc hỏa lò đầy than hồng. Nhưng cái gì tới, sẽ tới. Tiếng kẻng khua vang. Tôi nhảy xuống đứng chờ ngay nơi cửa, đợi tên Công An mở chốt, nhào ra đầu tiên. Tôi quên cả đói mệt, chỉ mong gặp em gái, để biết chuyện gia đình trong Nam, ngoài Bắc.
Tiếng kéo chốt đánh rầm. Cửa mở toang. Tôi nhào ra, tên Công An Buồng tỏ vẻ kinh ngạc.
- Anh kia, đi đâu vội thế?
- Dạ, đi ra!
Nó nhìn tôi một lát rồi thôi. Tôi ra giếng gầu nước rửa mặt mũi, tay chân vì không muốn cho các em tôi thấy mình nhơm nhếch, dù ở hoàn cảnh tù tội!
Giờ lao động đã đến. Tên Công An trực thay vì gọi các Đội đi làm như thường lệ, gọi tên tôi trước, được ở nhà thăm nuôi! Gần 2,000 khuôn mặt quay về phía tôi. Tôi đứng dậy, ra khỏi hàng, quay về “chuồng!” Sau khi các Đội đi lao động hết, tôi được tên Công An Buồng đưa đến căn nhà cạnh phòng Trực. Khi tôi đến, hai em tôi đã ngồi nghiêm chỉnh trước tên Công An đeo quân hàm Trung úy, mặt tím bầm như miếng thịt trâu
Vừa nhìn thấy, em gái tôi đã đứng lên, ôm lấy tôi òa khóc. Tôi không muốn, quả tình không muốn nhỏ lệ trong hoàn cảnh này, nhưng trước những giọt nước mắt của em gái, tôi cầm lòng không được! Cơn xúc động qua đi, em gái tôi cười, nụ cười buồn bã!
- Ô, anh già và gầy quá! Sao, có ốm đau gì không?
- Không, anh chẳng ốm đau gì!
Tôi không có cách nào nói thực cho em tôi nghe tất cả những gì đang giấu trong lòng tôi, vì tên Công An lúc nào cũng nhìn và theo dõi từng lời nói, từng cử chỉ. Người em rể luôn luôn nói theo đúng chính sách nhà nước “chờ ngày được cứu xét, sớm được sum họp với chị và các cháu”. Giá ở hoàn cảnh khác, chắc chắn người em rể không bao giờ dám nói với tôi những lời đó, nhưng lúc này vì có sự hiện diện của tên Công An, nên phải nói, để tỏ ra mình cũng thông suốt đường lối!..
Chúng tôi chưa nói được với nhau nhiều, tên Công An đã bảo hết giờ. Em gái tôi nói vội: năm ngoái, hai vợ chồng có lên Yên Bái tìm, nhưng tôi đã chuyển trại. Tất cả những đồ thăm nuôi này do vợ con tôi thực hiện. Một số do họ hàng quen thuộc cho. Trước khi về, em gái tôi móc túi, lôi ra 40đ dúi vào tay! Tên Công An nhìn thấy:
- Chị không được đưa tiền cho anh ấy! Nếu muốn, phải “đăng ký” qua chúng tôi, khi cần, chúng tôi sẽ trả lại!
Em tôi bẽn bẻn xin lỗi, rồi gửi số tiền đó cho tên Công An. Nó cầm số tiền đút ngay vào túi, không biên nhận gì cả. Sau khi hai em tôi ra khỏi, tôi đứng ngay nơi cửa ngó theo. Họ vừa đi vừa ngoái lại đưa tay vẫy vẫy. Ánh nắng đã ngả dài trên chiếc sân rộng. Hai cánh cửa sắt to đóng kín. Tên Công An vũ trang, đứng trên chòi gác nhìn xuống với con mắt lạnh lùng. Chờ cho hai em đi khuất sau hàng cây ven lộ, tôi quay vô. Tên Công An lạnh lùng nói:
- Bây giờ, khám đồ!
Tụi này chuyên môn dùng thủ đoạn, dù chuyện nhỏ nhất! Lúc còn các em tôi, nó không khám, làm như cho nhận hết, nay nó khám, làm sao tôi dám phản đối?
Tất cả mọi gói đều được mở. Nào đường, nào bánh bích quy in theo khuôn con gà, con vịt, con heo, loại bánh nhà quê dành cho con nít. Nào thuốc lào, kẹo do Hà-nội sản xuất, 1 lọ thịt heo kho khô, 1 nải chuối, 3 cái bánh chưng, mỗi cái bằng lòng bàn tay và 1 gói café. Nó khám rất kỹ, bánh chưng bi cắt làm đôi xem có “nhân” không? Nó tưởng ở giữa có cái nhân chăng?
Sau khi khám, không tìm ra gì ngoài 10 bao diêm, nó cho nhận 2, tịch thu 8!
Tôi gom lại cho vào chiếc bị cói mang về. Trước khi vô cổng tôi phải đứng nghiêm, báo cáo với tên Công An trên vọng gác:
- Thưa cán bộ, cho phép vào trại.
Sau khi nói xong, phải đứng chờ, khi nào nó nói: “cho vào!” mới được đi. Tôi cho tay đẩy mạnh cánh cửa sắt. Khi khoảng rộng vừa đủ, tôi lách người vào. Thế là xong! Tôi đi nhanh về khu mình ở!
Anh em đi lao động hết, chỉ còn vài người làm vệ sinh ở nhà. Tôi mang đồ đi thẳng vào nhà ăn. Những quả chuối đã rời khỏi cuống, vài quả đã nát ngướu. Tôi chẳng cần thu xếp gì, ngồi ngay xuống đất bóc bánh chưng đã được cắt đôi, đưa vào miệng nhai ngấu nghiến. Tôi ăn một hơi hết cả 3 chiếc bánh chưng với những quả chuối dập. Ăn xong, vẫn còn thèm. Tôi ngồi liếm những hạt gạo nếp còn dính ở lá, kỳ hết mới thôi! Cũng may, tôi ăn một mình không ai thấy. Tôi nghĩ, nếu hai em tôi nhìn thấy cảnh này, không biết họ nghĩ sao? Vì quá thèm đường, tôi cầm cả túi, dốc vào miệng. Từ lâu lắm, buổi chiều nay tôi mới cảm thấy được no một bữa, còn biết bao nhiêu anh em khác đã và đang bị đói triền miên! Nhưng với số quà này, chắc cũng chẳng được bao lâu. Tôi tự nhủ, sau bữa ăn “hoang phí” này, sẽ tằn tiện, vì lần thăm nuôi sau, nếu có, phải chờ 3 tháng nữa.
Buổi chiều, anh em đi lao động về, đều mừng tôi.
Tôi mở gói kẹo, mời những ai đã giúp đỡ tôi trong lúc đói khát và vài người bạn tốt trong tù. Ở đây rất nhiều chuột. Một anh bạn, đã chuẩn bị trước một chiếc thùng sắt tây đựng quà, nhưng quà chưa tới, cho tôi mượn đỡ. Tôi bỏ tất cả vô, đậy nắp lại. Thùng quà phải để ở nhà ăn, không được mang về buồng. Từ đó, mỗi buổi tối tôi thủ một gói bánh bích quy con gà, con vịt, mang vào “chuồng” ăn thêm cho “ấm bụng!”
Tin đồn sắp có biên chế được tung ra! Anh em bàn tán mỗi ngày, nhưng chuyện đó chưa xảy đến! Vì lo nghĩ nhiều chuyện khác, nên cũng quên đi. Đùng một cái, tin biên chế thành sự thực. Một buổi trưa, các Đội xếp hàng đi lao động như thường lệ, tên Thịnh đứng sau chiếc cửa tò vò trong “chuồng chim”, nói:
- Chiều nay, khỏi lao động. Các anh được “biên chế” lại, cần chú ý nghe tên mình thuộc Buồng nào, Đội nào, để sau đây cứ thế thi hành. Đây là việc “biên chế” toàn trại, do đó, mất rất nhiều thì giờ, sau khi nghe xong, phải thi hành ngay mới kịp! Các anh nghe rõ chứ?
Tên Thịnh gọi qua chiếc loa cầm tay chạy bằng pin, như loại các cán bộ Tâm Lý Chiến thường dùng trong các công tác vận động quần chúng!
- Tiên sư tụi nó, lại đểu cáng! Nếu mất nhiều thời giờ, sao không cho mình làm từ sáng? Nó sợ mất nửa ngày công lao động của tù!
Một tiếng chửi cất lên trong hàng! Tôi quay nhìn thấy Thạch, Tổ trưởng.
Chiếc loa phóng ra từng tên, số Đội và số Buồng.
Đây công việc cho tên tù vào rổ xóc, rồi bốc ra từng nắm, nhằm mục đích để tù không có hoàn cảnh và thời gian cấu kết, âm mưu chuyện gì đó không có lợi cho Cộng Sản. Việc gọi tên, được thực hiện cả 2 tiếng đồng hồ. Sau đó, anh em ùa về như đàn ong vỡ tổ. Buồng nào, buồng ấy loạn cả lên. Tất cả đều vội vàng, nhồi nhét vào bao, chuyển ra sân để đến nơi ở mới. Có người, sau khi thu xếp xong, để đó đi xem nơi ở mới, lúc quay về, mất gói đựng đồ ăn, kêu như cha chết!
Tôi bị chuyển đến căn buồng ngay cổng trại. Mỗi Buồng gồm 2 Đội, làm hai công việc khác nhau, tùy theo quyết định của Ban Giám Thị mỗi ngày. Trời bắt đầu vào mùa lạnh. Những cơn gió đầu mùa đã thổi từng cơn dào dạt mỗi sáng, mỗi chiều. Mọi người đã mang áo lạnh đi lao động. Con nước đã rút từ lâu, để lộ những bờ đất ngang dọc, đan kín một vùng rộng lớn. Đội tôi phải đi vớt cỏ ruộng.
Buổi sớm nay mưa gió tơi bời, những cơn mưa không đủ lớn, để có thể nghỉ lao động. Gió thổi vun vút, chúng tôi đi dưới cơn mưa. Những chiếc áo tơi đủ kiểu được khoác lên người. Từ trại đi đến ruộng cũng khá xa, khoảng 2 cây số. Đường đi phải men theo sườn núi rồi xuống con dốc, đi theo con đê nhỏ dẫn đến khu làm ruộng. Công tác này, không phải một Đội, mà nhiều Đội. Mỗi Đội làm một việc. Đội rắc vôi, Đội sửa bờ, Đội khai mương, bắc cầu, Đội làm cỏ. Ở giữa ruộng, có chòi gác cao. Một tên Công An vũ trang đứng trên đó nhìn bao quát toàn khu.
Tên Công Ạn quản giáo xua chúng tôi xuống ruộng kéo cỏ. Buối sáng trời mưa gió lạnh giá, chúng tôi xắn quần tới bẹn. Vài người cởi quần dài, mặc xà-lỏn lội xuống. Có người hụt hố, nuớc ngập tới ngực. Những chiếc hố sâu do sự lấy đất đắp bờ. Chỗ nông, nước quá đầu gối. Tôi vừa cho chân xuống đã thấy 2, 3 con đỉa đói đang đo nước tiến đến. Nhìn thấy chúng, tôi bước nhanh để tránh. Nhưng dù cẩn thận đến đâu, buổi sáng hôm đó, tôi cũng bị 3 con hút máu, khi lên đến bờ, mới biết vì máu chảy ròng ròng. Theo kinh nghiệm, tôi xé chút lá nón áp vào chỗ máu chảy, tự nhiên máu ngưng liền. Hay thật, người nông đân Việt Nam có nhiều cách trị đỉa. Thuở nhỏ, tôi về quê, thấy gã lực điền, mỗi khi đi cầy, thường mang theo ống tre nhỏ, đựng vôi trộn với bồ hóng bếp để trị đỉa. Mỗi lần đỉa bám, họ cầm chiếc que cắm sẵn trong ống tre, gạt nhẹ, đỉa nhả ra ngay. Trong trường hợp lội ít, có thể dùng nước miếng thoa vô, đỉa cũng nhả, nếu không, gỡ ra còn khó! Trên rừng có vắt, dưới nước có đỉa, quả trời sinh ra những loai này quá vô ích, cũng như ruồi muỗi vậy!
Chúng tôi làm công tác kéo cỏ thì ít, bắt cua, ốc thì nhiều. Mỗi buổi, người nào cũng mang về đầy nhóc hai túi ốc, cua. Có buổi, khi về đến cổng, chờ được vô trại. Nhưng chờ mãi chua thấy gọi, trong khi các Đội khác tuy về sau lại được vô trước. Chúng tôi biết ngay có sự chẳng lành. Tên hung thần Lực tiến đến:
- Đội 15, đứng dậy. Mỗi người, đứng cách nhau 1 thước.
Mọi người đứng lên, mặt buồn xo. Những túi cua, ốc được vứt ra xa từ trức, vì biết thế nào cũng bị khám. Mọi người đều dang ra đứng nghiêm chỉnh. Một anh, đứng trước mặt tôi, có túi cua, ốc con để nguyên trong chiếc mũ vải. Tôi tin, thế nào anh cũng bị tịch thu, còn bị viết kiểm điểm nữa. Nhưng anh quả tài tình, tên Lực khám kỹ như vậy, anh ta phớt tỉnh cứ đưa lên, hạ xuống chiếc mũ, khiến tên Lực không để ý, thế là thoát. Mọi người đều bị thu hết, nếu chưa vứt kịp.
Sau khi khám xong, tên Lực còn xỉ vả một hồi, mới cho vô trại. Về đến buồng, tôi hỏi anh, sao tài thế? Anh cười cười:
- Có gì đâu Bố, tụi nó cũng có 2 mắt, 2 tay, 2 chân như mình. Ai lanh người ấy được! Con chỉ nhờ lanh, qua mặt được tụi nó!
Ngày tháng phai đi. Mùa lạnh đích thực đã về với nhưng cơn mưa phùn lê thê kéo dài theo gió Bấc. Chúng tôi đã được gửi thư có phiếu quà từ 2 tháng trước, nay quà thấp thoáng tới. Vì thiếu thốn quá, lại lao động khổ sai lâu ngày, không còn sức chịu nổi, nên ngã bệnh rất nhiều. Phần đông, trông như những xác ma. Có lẽ, tụi Cộng Sản nhìn rõ, nếu không cho thăm nuôi, sớm muộn gì tù cũng chết 1/3, 1/3 ngất ngư, còn 1/3 gồm những người còn có sức chịu đụng thêm một thời gian ngắn, rồi cũng quỵ. Cứ ăn bánh mì nướng, bánh mì luộc với muối thì không sao sống nổi. Do đó, họ quyết định cho viết thư về gia đình nói rõ địa điểm giam và báo cho gia đình biết, thể thức thăm nuôi. Nhưng từ ngày viết, đến lúc gia đình nhận được thư, lo sửa soạn xin phép địa phương, đến lúc thăm nuôi được, ít nhất cũng nửa năm! Thư đi, mỗi tháng được gửi một lần nhưng thư nhận mỗi năm may ra được 2 lần. Do đó những gì cần nói, hay cần biết về gia đình đều mất hết thời gian tính. Vấn đề này nằm trong phương cách kềm chế tù của Cộng Sản.
Còn gần 1 tháng nữa đến Tết. Chuyến thăm nuôi của em gái tôi qua đã lâu. Tôi lại quay về với ổ bánh mì chấm muối, đôi khi có phát cá khô, nhưng con cá nhỏ xíu, ở miền Nam dùng làm phân bón.
Một sáng, tên Công An buồng vô mở cửa “chuồng”. Khi vừa mở khóa, rút luôn chiếc then sắt cầm trong tay. Chờ mọi người ra sân hết, nó nói:
- Các anh sửa soạn, mang tư trang ra sân điểm nghiệm.
Ai nấy quên cả việc đánh răng, rửa mặt vội vàng thu xếp đồ đạc mang ra sân. Buồng trưởng Cường nguyên là cựu Chuẩn Úy biệt phái qua Bộ Giáo Dục, giáo sư Toán, bị bắt đưa ra đây vì ở trong mặt trận Phục Quốc. Anh rất trẻ, tính tình hòa nhà, có thái độ rõ ràng với Cộng Sản, nhìn tôi nói:
- Tụi “chèo” lại giở trò gì rồi, anh cẩn thận!
Ở đây, tù thường gọi tụi Công An là “chèo” vì ngụ ý khinh khi, coi thường. Tụi nó chỉ là những tên nhà quê đóng tuồng, không có giá trị gì, tuy bộ môn hát chèo là một nghệ thuật cổ truyền của Dân Tộc.
Một buổi, có tên Công An hỏi người tù:
- Tại sao các anh lại gọi tôi là “chèo”?
Anh kia trả lời cho xong:
- Chúng tôi gọi cán bộ là “chèo”, nhằm đề cao đó. Con thuyền Cách Mạng hôm nay đạt tới bến vinh quang, nhờ có nhiều người “chèo lái” giỏi, mà Công An là những tay “chèo” chính, chuyên lo về nội trị mà!
Chăng biết lời giải thích đó có làm tụi Công An hết thắc mắc không, chỉ biết từ đó chúng không hỏi thêm nữa!
Anh em cứ ngồi chờ hơn 1 tiếng đồng hồ, không thấy tên Công An nào vào khám đồ. Trời lất phất mưa. Bỗng tên Công An buồng từ ngoài xồng xộc bước vô nói:
- Các anh thu đồ lại, ra sân lớn chờ lệnh!
Tuy không ai có thì giờ nói với ai, nhưng mọi người đều đoán, sẽ chuyển Trại.
Chiếc sân lớn đã kín người và hành trang. Không khí hôm nay hoàn toàn khác biệt với những buổi tập họp hàng ngày. Rất nhiều Công An vũ trang đứng lố nhố ngay nơi cổng Trại. Tên Huy, phó Giám Thị, hai tay khoanh sau lưng, đi đi, lại lại trước “chuồng cu”. Tên Thịnh đứng sẵn bên trong tay cầm chiếc loa:
- Các anh im lặng! im lặng!
Tiếng ồn ào im bặt.
- Hôm nay có một số anh chuyển Trại. Tôi đọc tên anh nào, anh đó đứng dậy mang đồ ra khỏi cổng. Nghe rõ cả chưa?
- Chưa rõ, yêu cầu nói lại!
Đúng, chiếc loa yếu pin, nên chỉ người nào ngồi gần nghe, còn ở xa không rõ!
Tên Thịnh thử loa, nhưng nó vẫn rè rè, sau tên Huy cho lệnh đi lấy chiếc khác. Chiếc loa mới được mang đến.
- A lô, A lô, các anh nghe rõ không?
- Rõ!
Trên 1,000 cái miệng cùng há ra, tạo nên âm thanh vang động!
- Bây giờ, tôi bắt đầu gọị!
Không khí im phăng phắc. Sau mỗi tiếng gọi, một người đứng dậy vác đồ lên vai len lách đi ra phía cổng. Cuộc gọi tên đến trưa mới dứt. Số người đi, chừng nửa trại. Những ai còn ở lại cũng được biên chế qua buồng khác. Tôi được biên chế qua buồng kế bên.
Vào xế trưa, có mấy trăm người tù trại C và B chuyển tới. Đây là “biên chế Liên trại”
Chúng tôi sống luôn luôn bị đe dọa bởi những bất trắc. Ngày Tết gần kề. Đây là cái Tết thứ tư tôi đang sống trong tù. Tôi gặp lại Tài, người bạn trẻ đã chặt dùm tôi mấy cây dang khi còn ở Yên Bái. Có Tài, đời tù cũng vui lên một chút, vì có người tâm sự. Tài hãy còn trẻ nhưng rất kín đáo. Những gì chúng tôi nói với nhau như nói với chính mình. Tài lúc này làm ở Đội mộc, chuyên đóng mái nhà tù, những nhà tù đang làm thêm, hoặc làm nhà cho tụi Công An ngoài trại.
Tết nào cũng vậy, tù được phát bánh chưng, kẹo bánh, thuốc lá. Nhưng mỗi cái Tết qua đi, hình như tặng vật được thu gọn lại. Chiếc bánh chưng mỏng như chiếc bánh xu xê, chỉ có gạo đậu, không thịt. Kẹo, bánh, thuốc lá, mỗi thứ một chút cho có lệ.
Tết, mưa gió tơi bời. Mưa phùn và gió bấc làm mọi người ngại đi, chỉ muốn ngồi một chỗ. Ở đây không nhiều trò chơi như ở Lào Cai, cũng chẳng có bích báo. Ngày Tết tù đuợc nghỉ lao động từ hôm 25, trừ Đội làm ruộng, phải cấy lúa cho xong trước Tết.
Từ ngày biên chế, qua buồng khác, tôi làm công tác đào kinh. Con kinh dài khoảng 3 cây số, được thực hiện nhằm mục đích “thủy lợi”, có thể lấy hoặc tháo nước tùy theo nhu cầu canh tác. Nơi đào kinh, là vũng sình lầy, nước đen ngòm, đỉa cả đống. Mùa lạnh, ngâm chân suốt ngày, sao chịu nổi? Vì sức yếu, tôi xin làm trên khô. Tên Công An quản giáo lao động nhất định bắt xuống. Nó nói:
- Nếu anh không xuống lao động, tôi đấm vỡ mặt anh ra.
Tôi trả lời:
- Đấm, là quyền của cán bộ! Tôi sức yếu, đang ốm làm sao ngâm chân cả ngày dưới nước, tôi làm trên khô!
- Quăng anh ấy xuống nước!
Một tên Công An đứng gần đó nói. Tôi cứ đứng trơ trơ, sau chẳng đấm, cũng chẳng quăng, họ cho tôi đi theo Đội khác xây cất kho dụng cụ. Công việc này làm mấy hôm xong. Nó bảo tôi giặt áo quần. Công việc này nhục lắm, nhưng còn hơn ngâm chân dưới nuớc đầy đỉa, tôi cũng đành nhận. Bộ quần áo vàng nó thay ra, nhìn thấy đã ghét, đã căm thù, làm sao có thể giặt? Tôi đem dúng nước vò sơ, rồi vắt lên cây phơi! Vài lần như vậy, nó chê tôi giặt bẩn, bắt xuống bùn đào kinh. Lúc này tôi nghĩ thà đào kinh, bị đỉa cắn, còn hơn kéo dài sự nhục nhã. Từ hôm đó, hai chân tôi ngâm nước giữa mùa đông, mưa gió như cắt ruột, các kẽ chân bị nước ăn lở loét, sưng vù!
Mấy hôm nghỉ trước Tết, tôi cố gắng bôi thuốc, nhưng không đỡ chút nào. Khi ngứa gãi sướng lắm, nhưng gãi xong, đau như chết!
Đêm qua, lúc Giao Thừa, cũng như trên Lào Cai, tụi Công An mũ mảng đàng hoàng vô chúc Tết tù. Buồng trưởng lại đáp lễ. Thêm một lần giả dối!
Sáng nay mồng 1, trước khi ra “chuồng”, anh em lại chúc nhau, những câu như những năm trước, nghe nản quá! Tôi qua thăm “tu-bíp” Nhâm, để uống café như đã hẹn trước. Trại có 5, 6 “tu-bíp”. Từ sáng, mỗi vị khoác áo bờ-lu trắng, đứng ở đầu “nhà văn hóa” giữa sân, như những tên lơ xe, đón khách! Xin chớ hiểu lầm, mấy ông “tu-bíp” này, có giá lắm. Các ông có quyền cho nghỉ hay không, tùy theo bệnh và số bệnh của mỗi buồng. Họ cho nghỉ theo tỷ lệ. Tôi có đi khám vài lần. Sau khi bệnh nhân tự khai bệnh, và nhìn sổ bệnh mỗi sáng, các ông tùy nghi quyết định.
- Anh đau gì? À, đau bụng đi cầu, anh ra góc kia cố “rặn” một tí, đưa lại đây tôi xem!
- A, anh bị sốt rét. Cứ đi lao động, trưa về lãnh thuốc.
- Còn anh này sao? Đau chân hả, đưa coi! Có gì đâu, đi lao động! Anh kia nữa, bệnh gì? Ho hả? Nhẹ mà, đi lao động. Còn anh này, nghỉ mấy hôm rồi, chịu khó đi lao động, hôm nay đến phiên người khác.
Cứ như vậy, các ông “tu-bíp” nói, như đọc bài học thuộc lòng! Người bệnh thật, người bệnh giả. Có người quá mệt, muốn nghỉ một hôm, nói thẳng:
- Nói thật với Bác sĩ, hôm nay khai bệnh không ngoài mục đích muốn nghỉ lao động một bữa, mong Bác sĩ thông cảm!
- A, ô kê nghỉ! Cứ thành thực như anh, chúng tôi dễ làm việc!
Buổi sáng nào cũng vậy, mỗi “tu-bíp” phụ trách vai buồng, thỉnh thoảng lại thay vị trí để đỡ “bắt bồ”. Nhâm, tương đối, một “tu-bíp”, biết điều và đứng đắn. Khi mới đến đây, Nhâm có ở chung buồng với tôi. Ngoài ra, còn ông “tu-bíp” già Trương Như Quýnh, anh ruột Trương Như Tảng, một đảng viên Cộng Sản, Bộ Trưởng Tư Pháp trong thời gian đầu Cách Mạng của Mặt Trận Giải Phóng trá hình, bất mãn phản Đảng, nên “tu-bíp” Quýnh chịu ảnh hưởng lây, cho đến nay vẫn còn bị giam trong khi các “tu-bíp” khác được tha về gần hết. Quýnh có vợ đầm, nói tiếng Pháp như Tây, nay lại cầu mong được về để ăn mắm cá lóc với mẹ già trên 80 tuổi. Còn các “tu-bíp” khác như Võ Tam Anh và Mã Thanh Phong, anh này liều một cây. Hồi còn bị giam ở trong Nam, khi chữa bệnh cho một nữ cán bộ, không hiểu anh tán tỉnh thế nào mà xơi được tên “phún” đó.Tụi nó biết, đưa ra Bắc, tuy cấp anh nhỏ, đáng lẽ được ở lại trong Nam. Tôi nghe anh em nói lại như vậy.
Trong số các “tu-bíp” tại Trại Nam Hà, có tên Diễn là đểu cáng nhất. Nó nạt nộ anh em, chuyên môn làm khó dễ mỗi khi tù khám bệnh. Một bữa, vợ nó đến thăm nuôi, vô tình gặp anh em lao động nơi mé lộ hỏi:
- Chị đi thăm nuôi ai vậy?
- Tôi là vợ Bác sĩ Diễn.
Tất cả anh em đều ồ lên:
- A, chị là vợ thằng khốn nạn đó hả? Chị nên mang quà về, thằng đó không xứng đáng làm người.
Người vợ quá ngượng, cúi gầm mặt lùi lủi đi vô nhà thăm nuôi. Tên Diễn cũng được tụi Công An ban đặc ân cho 24 tiếng để giải quyết sinh lý trong căn nhà hạnh phúc!
Nhưng anh “tu bíp” tốt nhất phải nói là Trần văn Chơn, em ruột Cựu Bô Trưởng Y Tế miền Nam Trần văn Lữ Y. Chơn một bác sĩ có nhiều tinh thần bác ái, thương mến anh em cùng chung cảnh ngộ. Khi trước, anh phục vụ trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Anh được tha vào giữa năm 1980 cùng một số bác sĩ và anh em khác.
Tôi đến, Nhâm đã ngồi chờ trước phin café. Mùi café bốc lên thơm ngát. Chúng tôi không chúc nhau câu nào chỉ nói chuyện vui. Tôi đột nhiên mang câu chuyện tự tử bằng 48 viên độc dược, tại sao không chết? Tôi nói dối với Nhâm, đó là trường hợp của người bạn ở Lào Cai. Nhâm cho biết, nếu anh kia chỉ uống 1 trong 2 thứ đó, chắc chắn chết, vì uống cả hai thì chúng hóa giải nhau, do đó thoát. Qua lời Nhâm, tôi biết ngay Lan chết vì chỉ uống có Chloroquine!
Chúng tôi uống Café, hút thuốc Tam Đảo, nói chuyện về y học và nghệ thuật. Nhâm có một kiến thức khá rộng về chuyên môn cũng như nghệ thuật. Anh vào tù vì chức Thượng Nghị Sĩ trong Ủy Ban Quốc Phòng.
Mấy ngày Tết mưa gió dầm dề. Ai cũng ngồi thu lu một chỗ, uống nước, hút thuốc lào vặt. Có một sòng bài xập xám được tổ chức ngay trong “chuồng”, anh em sát phạt nhau đến nơi! Tôi không hiểu sao họ lại có tiền và có nhiều tiền là đằng khác. Có lẽ, vì mua qua bán lại dần dà có vốn. Một dạo, thỉnh thoảng tù được ăn cơm, có người nhịn, mang cơm đi bán, mỗi phần 3 đồng, bánh mì luộc 2 đồng một chiếc. Với số tiền ấy họ làm ăn lâu dần, góp lại.
Hôm Tết, chiếc “bánh chưng thăm nuôi” được bán với giá 20 đồng. (tức 10,000 đồng tiền cũ).
Thường thường mỗi chiều, tôi và Tài ngồi trên một tảng đá trong sân, nhìn lên dẫy núi răng cưa, sương che mù mịt. Chúng tôi nhắc đến những ngày đã qua và những ngày sắp tới trong tù. Cả hai chúng tôi không ai nghĩ đến chuyện được tha. Tôi và Tài không ở chung buồng, thỉnh thoảng qua lại, nhưng luôn luôn cảnh giác vì sợ bị bắt trói vì liên hệ!
Mấy ngày Tết qua đi rất nhanh. Ngày mai, mồng 4 lại đi lao động. Mưa rét làm con người dễ trở nên lười biếng. Nhưng dù thích hay không, mọi người sáng nay nghe tiếng kẻng đều phải sửa soạn. Những bộ quần áo lao động được mặc vào, trông lem luốc, vá chằng vá đụp. Hồi trong Tết, nhiều người nhận được quà 5 kí, vì có bồi dưỡng, trông cũng phần nào đỡ thê thảm! Tuy vậy, nhìn chung, đa số vẫn hốc hác. Tướng Huỳnh văn Cao, ngày ngày đẩy xe “trạc”, tuy nhiên, cũng chưa đến nổi nào. Vị tưóng này, có một thời là con cưng của ông Ngô Đình Diệm và cũng là vị Tổng Cục Trưởng đầu tiên của ngành Chiến Tranh Chính Trị. Sau này vì hoàn cảnh, ông rời bỏ quân đội đi làm chính trị. Đôi lúc, tôi và tướng Cao ngồi nói chuyện, nhưng ông vốn kín đáo, khó hiểu. Tôi nghe nói, có một lần ông cũng như tôi, dùng độc dược, nhưng cũng không dứt được nợ đời. Tôi hỏi, ông chi cười!
Ngay mồng 6 Tết, tôi được gọi thăm nuôi. Em gái tôi lại đến. Lần này, anh em tôi gặp nhau ở căn nhà thăm nuôi mới được xây cất gần nơi làm “trạc”. Lần này tôi được em tôi mang cho mấy chiếc bánh chưng lớn, cùng nhiều thứ khác, trong đó có mấy chiếc bánh lá, là loại bánh đặc biệt của miền Bắc, làm bằng bột lọc, nhân đậu xanh có miếng mỡ nhỏ và hạt tiêu thơm phức.
Thèm quá, tôi bóc một chiếc đưa vô miệng. Tên Công An phụ trách thăm nuôi, nhìn tôi nói:
- Này, anh quên nội quy thăm nuôi rồi sao?
Tôi bỏ vội chiếc bánh xuống. Các em tôi, nhìn thương hại. Em gái tôi nói nhỏ cho nghe về chuyện gia đình tôi ở trong Nam với những khó khăn mà vợ con tôi đang gánh chịu dưới chế độ Cộng Sản. Đứa con trai lớn, Trung Úy Không Quân, học tập ở Phuóc Long đã vượt trại, do mẹ và vợ nó tổ chức cướp tù. Nó đang trốn và tìm đường vượt biên. Em tôi vừa nói vừa liếc nhìn tên Công An đang ngồi ở chiếc bàn gần đấy. Em tôi hỏi, tôi đã lấy lại được 40 đồng chưa? Tôi nói, tuy khộng lấy ra được nhưng đã đăng ký hết vào việc mua phở và thịt heo do trại bán.
Nói đến phở, hồi trong năm, trại có tổ chức bán phở trâu cho tù, mỗi bát giá 1 đồng, được trừ vào số tiền gửi thăm nuôi. Mỗi nồi 10 bát tức là 10đ/1nồi... Có anh đăng ký mua tới 20 bát, tức 2 nồi, ăn liền một hơi hết 17 bát. Anh tên Thanh, em ruột tướng Đổ Cao Trí. Tôi cũng mua 10 bát phở trâu, nhưng tuy đói, ăn hết sức chỉ hết 7 bát! Bát đây là chén ăn cơm chứ không phải tô đựng canh.
Trại còn tổ chức bán thịt heo, giá 20 đ/một kí, nhưng sau này giá tới 45đ/một kí vì đồng tiền mỗi lúc mỗi xuống giá! Chúng tôi tính ra, mỗi lần bán phở, Ban Giám Thị lời cả mấy triệu tiền cũ. Gần 2,000 tù, mỗi người trung bình 5 bát, mỗi bát lời 50 xu, trên dưới 10,000 bát phở, có mấy triệu như chơi....
Lần nay anh em tôi được nói chuyện 2 giờ, theo quy định. Bây giờ cửa thăm nuôi đã mở rộng, chắc Cộng Sản nghĩ mình không nuôi nổi tù, cho gia đình tù nuôi đỡ. Có nhiều loại tù được hưởng ân huệ từ 24 giờ đến 72 giờ, nếu có vợ đến thăm nuôi. Anh nào được 24 giờ mừng húm, mặt mày phởn phơ sau một đêm “ăn nằm” trong “căn nhà hạnh phúc”, có hai chiếc gối thêu đôi chim đang mớm nhau với mầu chỉ sặc sỡ. Tôi chưa có hân hạnh bước chân vào căn nhà hạnh phúc đó bao giờ, nghe anh em nói lại như vậy. Nhưng không phải ai cũng vui vẻ đón mừng đặc ân do tụi Công An ban phát. Có người đã can đảm từ chối ân huệ. Đó là Đội trưởng Ngân, cựu Trung Tá Hạm Trưởng. Anh đã cương quyết từ chối, trước sự ngạc nhiên của tên Huy, Phó Giám thị và truớc sự năn nỉ của người vợ hiền thương chồng.
- Anh cứ ở lại với em và con một đêm. Em đã “uống thuốc” rồi!
- Không, không! anh nhất định từ chối ân huệ này, dù anh thương em lắm! Anh không muốn hưởng chút hạnh phúc do kẻ thù ban phát. Chúng ta không phải những con vật, chúng ta là người, dù là người thua trận, đang bị trừng trị trong trại cải tạo. Em hãy cố gắng chịu đựng chẳng những hôm nay, cả mai sau nữa. Khi kẻ thù vì một lý do nào đó tha anh, anh cũng sẽ đi vào mật khu chiến đấu, hoặc đi ngoại quốc, chứ anh không thể sống một ngày chung đụng với tụi Cộng Sản!
Nói xong anh đi về “chuồng” ngủ với anh em! Anh không giấu diếm gì, nói với tôi như vậy! Sáng hôm sau, anh được ra thăm nuôi, cho đủ 24 tiếng. Anh dùng thì giờ để viết thư cho mẹ, cho anh em với những lời giã biệt! Nghe anh em cùng ở chung với Ngân, từ các trại tù ở Hoàng Liên Sơn mấy năm trước, cũng có lúc anh tin vào chính sách 3 năm của Đảng và Nhà Nước, cố gắng “học tập tốt, lao động tốt”, nhưng sau 3 năm, thấy Cộng Sản không giữ lời hứa, từ đó, anh thay đổi thái độ.
Lần thăm nuôi này, em gái tôi không khóc. Chúng tôi nói được nhiều chuyện, tuy chưa hết, nhưng hơn lần trước nhiều. Chúng tôi nắm tay nhau trước khi từ biệt. Tôi có lén đem theo được bức thư gửi về cho vợ con. Em gái tôi cho biết, vợ tôi muốn ra thăm, nhưng Công An địa phương không cấp giấy phép! Trước khi chia tay, chúng tôi nhìn nhau như cố thu hút tất cả những nét thân yêu vào trong tâm khảm!
Một mình tôi phải mang hai túi đồ thăm nuôi nặng chừng 30 kí, kể cả mấy chiếc bánh chưng và túi gạo. Khi vào đến nhà trực, tôi phải trình khám. Lần này tên Lực khám đồ. Nó mở tung từng gói, cắt đôi mỗi chiếc bánh chưng, cho dao vào lọ thịt kho khoắng. Sau khi khám đồ xong, nó lần lưng, nắn túi, sờ “chim”, không chừa chỗ nào. Khám xong nó cho mang vô trại! Cũng như lần trước, tôi phải xin phép tên Công An vũ trang gác trên chòi cao, trước khi vào. Bên trong cánh cửa sắt, đã có vài anh em chờ sẵn mang dùm vô buồng.
Tuy đã mùng 6, nhưng hương vị Tết hình như chưa phai vì trời vẫn lạnh, cái lạnh khan, không mưa không nắng chỉ có gió thổi dào dạt trên các lùm cây bên sườn núi. Tôi mời anh em, những người có mặt, ăn bánh lá và bánh chưng với mứt bí cho vui.
Được thăm nuôi, tôi lại có thể no được một thời gian ngắn. Lúc này bột mì đã hết, trại cho ăn bo bo, loại bo bo vỏ, rất khó ăn, ăn bao nhiêu đi cầu bấy nhiêu, có thăm nuôi cũng đỡ phần nào. Vì có thăm nuôi, nên trại cho đun nấu, nhưng cấm không được đun nấu trong buồng. Tuy vậy tù vẫn tìm mọi cách để đun bằng những bao và chiếu nylon trong chiếc lon đục thủng làm lò.
Mỗi buổi tập họp đi lao động, trước khi ra khỏi cổng, một tấm tranh bích họa đập vào mắt, về một tên Trung Cộng bị đánh một gậy, ôm đầu chạy, có dòng chữ “Bài học thứ nhất cho quân bành trướng”. Tôi nghĩ, chính vì tên bành trướng nay, chúng tôi được đưa về từ miền biên giới suối độc rừng thiêng về miền xuôi, khi tên đó đánh luôn 7 tỉnh, san phẳng Lạng Sơn - một tỉnh địa đầu cách Ải Nam Quan không xa và phá luôn nhà máy gang thép Thái Nguyên! Trại mới tiếp nhận thêm một số mấy trăm người tù nữa từ biên giới đưa về mang cấp bậc từ Thiếu Tá trở xuống!
Trong số này, tôi gặp lại Quân, một sĩ quan trẻ trên tầu Sông Hương. Vừa nhìn thấy tôi, Quân cười hì hì:
- Con đâu ngờ lại còn gặp bố ở đây!
- Tôi cũng vậy! Sao, từ ngày ở bến Sáu Kho cậu đi đâu?
- Con đi nhiều trại lắm, thuộc Hà Bắc. Cứ luẩn quẩn trong các thung lũng miền biên giới, nào leo núi vác cây, chặt dang, làm nhà, đắp đường, việc nào cũng khổ sai, lại đói dài dài, bố ơi!
- Đói, ai không? Chủ trương của Cộng Sản như vậy mà! Chúng nó đầy đọa để trả thù lúc trước mình đã làm tụi nó khổ trong mấy chục năm, cậu không nhớ sao?
- Nhớ chứ bố, nhưng con nghĩ, cái gì qua, cho qua luôn, nhớ làm gì cho mệt!
- Cậu ngây thơ bỏ cha, vì thế nên bây giờ mình vẫn bị tụi nó đánh lừa từ việc nhỏ đến lớn!!
- A, tụi con mới bị nó đánh lừa xong đó bố! Khi chuyển trại từ trong rừng ra, không có phương tiện, tụi nó tập họp bảo: “Các anh được tha, nay chuyển về nơi làm lễ phóng thích, nhưng lúc này trại không có phương tiện, các anh chịu khó đi bộ vậy”.
Hơn 100 con người hoan hỉ reo hò, vội vàng thu xếp hành trang lên đường. Tụi nó chỉ có 4 tên cảnh vệ võ trang áp tải. Chúng con đi 5 ngày. Ngày đầu ai nấy còn sức, mang vác còn được. Mấy ngày sau vứt hết, vì nghĩ mình sắp được tha, cần gì giữ đồ nhiều. Ngày đi, đêm ngủ vạ vật, ăn lương khô, uống nước suối. Nhưng ai nấy đều hồ hỡi, quên cả mệt mỏi chỉ mong cho chóng đến nơi làm lễ phóng thích. Khi tới nơi, một trại tù mới, anh em vỡ lẻ, bị đánh lừa, nhưng đã muộn! Mùng mền đã vứt hết ở dọc đường, nay chẳng còn gì dùng. 4 tên cảnh vệ võ trang áp tải chuồn đâu mất, chỉ có tụi cối xanh lạ hoắc. Anh em hỏi, chúng nó trả lời, không biết! Nghe vậy đành nhìn nhau dở khóc, dở cười, tức như điên, không ai dám chửi công khai. Cũng may, lúc này đang mùa nóng, và nhờ có anh em ở trại trước, giúp đỡ, cho ngủ chung mùng, nên cũng đỡ khổ! Ở được mấy tháng, lại chuyển xuống đây, rồi chẳng biết ngày mai đi đâu nữa? Bố ở đây lâu chưa? dễ chịu không?
- Được trên 1 năm rồi! Trại tù nào cũng vậy, có gì đâu mà dễ chịu! Chỉ có khác, đây thuộc Công An nên tụi nó giữ tù chặt lắm! Lúc di chuyển, cậu có bị còng tay không?
- Không, vì tụi “cối xanh” không có còng. Chúng con được đi tầu hỏa từ ga Ấm Thượng, Phú Thọ. Chán quá, biết đến bao giờ mới thoát khỏi cảnh này?
- Muộn rồi, cậu! Nhưng chưa hẳn tuyệt vọng!
Quân ở khác buồng, khác Đội, nên ít khi gặp, nhưng mỗi lần nghĩ tới chuyện này, tôi tưởng như có Quân bên cạnh.
Để tiêu diệt giai cấp Tiểu Tư Sản và những giai cấp đối lập khác, Hồ Chí Minh đề ra khẩu hiệu: “Trồng cây 10 năm, trồng người 100 năm!” Nếu ta quan niệm, mỗi thế hệ là 20 năm, phải mất 5 thế hệ mới có thể gây dựng được những con người trung kiên với chế độ Cộng Sản. Một khi chế độ này có mặt, coi như Việt Nam chẳng bao giờ thoát khỏi sự kềm kẹp dưới chế độ Cộng Sẩn độc tài! Ngày nào cũng vậy, tôi cứ phải nhìn, cũng như phải đọc 4 tiêu chuẩn cải tạo viết trên bức tường đối diện. Những dòng chữ lừa bịp, dối trá như:
“Thành thực khai báo, tố cáo đồng bọn!
Học tập tốt, lao động tốt.
Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước.
Không được tồn trữ sách báo khiêu dâm và đồi trụy.
Không nói tiếng nước ngoài v.v....”
Đó, đại khái nội dung 4 tiêu chuẩn Cải Tạo như vậy. Ở đâu cũng ngần ấy chữ lập đi, lập lại!
Một buổi sáng, chia phần ăn sáng, tự nhiên nghe có tiếng đấm đá thùm thụp ngay bên canh. Tôi quay người nhìn, thấy hai người đang ôm nhau lăn lộn dưới đất. Người nằm trên thoi liên tục xuống kẻ nằm dưới. Cũng may trời còn lạnh, mặc nhiều áo, nếu không, với những cú loi đó, chắc kẻ nằm dưới ăn đòn đau. Anh em xúm lại can, kéo anh nằm trên ra, nhưng trước khi buông, anh còn cố loi thêm vài cú nữa! Anh nằm dưới cũng không vừa, bàn tay cứ tới tấp đưa lên, thoi vào mặt anh nằm trên. Khi hai người đứng lên, mặt mũi đều tím bầm, đầu tóc bù xù, áo quần tơi tả. Tôi biết một anh là trung tá Dù, anh kia cùng cấp ở Thủy Quân Lục Chiến. Anh Dù chỉ vào mặt anh Thủy Quân Lục Chiến chửi:
- Đù mẹ mày, chuyên chia ăn gian, đến phần của mày là “ém”! Tao để ý nhiều lần rồi!
Anh kia không kém.
- Đù cha mày. Phiên mày chia, mày cũng làm vậy, tao biết, không thèm nói đó. Trưa nay, lao động về, tao với mày tử chiến.
- Đù mẹ, nói phải giữ lời. Trưa nay!
Tôi nhìn hai chiếc chén “tàu thủy” nằm tênh hênh trên nền đất. Mỗi cái chứa trong lòng nó 2/3 bo bo, loại có vỏ. Trong lòng tôi quặn đau, vì không ngờ chỉ hơn kém vài chục hạt bo bo, xẩy ra cảnh uýnh lộn! Tuy chuyện cá nhân, nhưng cũng làm thương tổn rất nhiều đến tinh thần đoàn kết giữa anh em đang sống trong một khung cảnh cần đoàn kết hơn bao giờ hết!
Buổi trưa, sau khi ăn xong, cửa chuồng khóa, do đó, hai anh không thực hiện được lời thách thức!Ai cũng tưởng chuyện đó qua đi. Nào ngờ, sáng chủ nhật, hai anh vẫn quyết đấu tới khi có kẻ thắng, người bại!
Sáng nay, trời hanh nắng. Sau khi anh em ăn sáng xong, ai có quà thăm nuôi lui cui cải thiện trong những chiếc lò nhỏ, ai không có, ngồi nói chuyện tầm phào cho qua cơn đói! Ở một góc sân, hai anh đã đứng thế thủ đang gườm gườm nhìn nhau bằng con mắt thù hận
Không ai nói câu nào, anh trung tá Dù tấn công trước, có lẽ do tinh thần xung phong nơi trận mạc đã quen, lòng hiếu thắng lấn áp cả lương tri. Anh cố gắng hạ đối phương đo ván bằng những cú đấm, đá liên tục. Anh kia tuy nhỏ con hơn, nhưng né đòn rất hay. Bao nhiêu cú đấm đá như sấm sét chỉ là những đòn gió không trúng. Còn anh Thủy Quân Lục Chiến loi cú nào đích đáng cú ấy. Khi đánh quyền Anh, mỗi hiệp có 3 phút, mà hai anh đấm đá liên tục cả nửa tiếng vẫn chưa chịu nghỉ. Anh em đứng quây xung quanh xem, như xem cuộc chọi gà. Đấm đá mãi, mệt quá, anh nào mặt mũi cũng xanh lét, đường quyền đã lảo đảo. Sau cùng, tự ý nghỉ chơi, như vậy huề! Từ đó, hai anh đã biết sức nhau, nên không dùng võ lực, nhưng cũng chẳng bao giờ nói chuyện với nhau nữa. Họ sẽ giận nhau suốt cuộc đời!
Buồng số 8, nơi tôi ở cũ, đêm qua có chuyện lộn xộn. Nghe đâu anh em trùm mền đánh “ăng ten”. Tin đồn loan truyền rất nhanh trong khu vực lao động.
Cũng vì chuyện đó, Buồng trưởng kiêm Đội trưởng Cường đả bị bắt giam, vì có trách nhiệm trong vụ lộn xộn này. Tụi Công An nghi, chính anh đã tổ chức, nếu không, anh cũng che chở cho công việc đánh người. Cường bị phạt kiên giam tới khi nào trại tìm ra thủ phạm hoặc chính anh tố cáo. Nhưng chẳng bao giờ tụi Công An tìm ra thủ phạm, cũng như thà bị kiên giam chứ không đời nào Cường chịu tiết lộ tên tuổi người đánh “ăng-ten”! Trong những ngày gần đây, chuyện gì xẩy ra ở trong buồng 8, tụi Công An đều biết. Do đó, phải có người báo cáo. Anh em để tâm tìm, dò xét xem ai có lòng dạ khốn nạn, bán sống anh em? Sau khi tìm ra, chờ tối, sau kẻng ngủ, trùm mền “đánh hội chợ”. Tên bị đánh, hôm sau được chuyển qua buồng khác, và cũng từ đây, đời hắn tàn, không ai thèm nói chuyện. Hắn ngồi đâu, anh em lánh chỗ khác. Hắn bị khinh bỉ và được coi như “hủi”.
Vấn đề đánh “ăng ten” do một nhóm anh em trẻ, cấp bậc từ Đại Úy trở xuống và những người, tuy không thuộc diện quân nhân nhưng “có lòng”, phát động. Phần đông, họ thuộc Đội 20, một Đội nổi tiếng “ba gai” gọi Công An bằng mày như gọi bạn! Một buổi, tôi lao động bên cạnh Đội 20, có tên nữ Công An đi qua, một anh trong đội 20, vỗ vai tên Công An quản giáo lao động đứng gần:
- Ê mày, con đó trông được đấy chứ?
Nói xong, anh phá ra cười, cả Đội cười theo, làm cô gái ngượng quá bỏ chạy! Lao động khi nào muốn nghỉ cứ nghỉ, nghỉ bao lâu tùy ý, họ gọi là “xù”. Danh từ này bây giờ được phổ biến trong các Trại Tỵ Nạn khi đồng bào bị phái đoàn nào đó từ chối: bị đóng mộc xù rồi! Nó xuất xứ từ trong nhà tù Cải Tạo. Đội 20 tượng trưng cho tinh thần bất khuất của Quân Lực Cộng Hòa. Họ sáng tác những ca khúc quật khởi, chống Cộng triệt để. Họ chống đối ra mặt. Anh em trong Đội rất đoàn kết, thương yêu nhau. Tuy nhiên không phải Đội 20 gồm toàn những người có tinh thần như thế cả. Có vài người đứng tuổi, tuy không muốn, cũng vẫn phải theo vì thuộc thiểu số. Họ cũng gánh chịu, hậu quả do những người trẻ tuổi chủ động.
Cường, Đội trưởng, được anh em quý vì luôn luôn đứng về phía anh em dù ở trường hợp hoàn cảnh nào. Một chiều, không hiểu có chuyện gì, một tên Công An đánh tù, người kia đánh lại. Tên Công An kêu mấy tên khác vào để bắt anh kia mang đi. Cường nhìn thấy, phát động anh em la hét rầm trời:
- Cán bộ đánh tù, anh em ơi, cán bộ đánh tù!
Hàng trăm cái miệng kêu lên như vậy, tụi Công An sợ to chuyện, thả anh kia ra!
Có sáng chủ nhât, anh em đi đánh “ăng ten” tại buồng “Bò Lục”. Tuy cấp lớn, nhưng nhiều vị bê bối, sợ sệt tụi Công An quá đáng, làm tụi nó khinh khi chung. Ba người tiến vô, một anh chỉ về phía có người ngồi phơi nắng trên chiếc ghế đẩu ngoài sân. Anh kia nhận diện xong, lừng lững đi vô, tiến đến phía người ngồi trên chiếc ghế, đưa tay túm lấy ngực áo hỏi:
- Mày làm “ăng-ten” hả?
Người kia chưa kịp trả lời, đã ăn mấy loi vào mặt. Đánh xong, buông tay, người kia ngã lăn xuống đất. Ba người lừng lững đi ra trước những con mắt vừa sợ, vừa ngạc nhiên của các vị Đại Tá đứng quanh đó. Nhưng đến chiều, biết đánh lầm, thay vì đánh ông anh, lại nhè đánh người em vì hai anh em giống nhau như đúc. Người đánh đến tận nơi xin lỗi, nhưng người bị đánh không chịu, cứ làm đơn thưa Ban Giám Thị. Nhưng họ cũng chịu, vì không có bằng chúng để bắt. Đối với Cộng Sản khi nào bị bắt tại trận, lúc đó hãy hay, còn không, cứ chối dài dài, chẳng sao. Nhưng cũng từ đó, Đội 20 bị theo dõi rất sát.
Ngoài vấn đề đánh “ăng-ten”, Đội 20 còn lo bảo vệ quyền lợi của anh em về vấn đế ăn uống. Nếu ai thông đồng lấy bánh, cơm, bo bo hoặc rau ra khỏi nhà bếp bị thấy, cũng ăn đòn. Do đó, vấn đề thất thoát cũng đỡ. Còn chuyện buôn bán, đổi chác cũng được Đội 20 kiểm soát, cho ăn lời với mức độ vừa phải. Ví dụ một hột vịt mua 80 xu, chỉ được bán cao nhất 1 đồng. Rau dưa cũng vậy. Chính họ cũng mua về, để bán lại với mức lời ấn định. Ở buồng tôi, cũng có anh gia nhập vào phong trào đó. Anh tên Khang, hạ sĩ I, người nhái. Anh còn trẻ, có sức mạnh, bị bắt vì hoạt động Phục Quốc. Năm ngoái, anh đã cưa chấn song sắt toan vượt nguc nhưng không thoát, bị kiên giam 3 tháng. Một chiều, khi anh em ngồi chờ vào “chuồng”, Khang đứng dậy nói:
- Thưa quý bác, quý anh, tôi xin phép được nói vài lời. Lúc này, ở đây không còn Đại Tá, Trung Tá, Thiếu Tá gì ráo trọi. Tôi, Hạ Sĩ I đây, nhưng được anh em tín nhiệm, cử ra để gìn giữ và bảo vệ quyền lợi chung. Buổi trưa nay, tôi có bắt gặp một anh trong buồng ta, thông đồng với nhà bếp mang về trái bí để ăn riêng. Tôi yêu cầu anh đó tự giác bỏ ra và xin lỗi anh em, nếu không, tôi bắt buộc phải thi hành kỹ luật, tức dùng bạo lực.
Một anh đứng dậy nhận lỗi. Đó là một sĩ quan lái F5 đã nhiều lần Bắc tiến! Anh có vẻ ngượng, nhưng anh em không có thái độ gì về chuyện này, vì nghĩ một trái bí có đáng gì cho mấy ngàn người ăn, trong khi tụi Công An hậu cần nuốt cả ngàn trái bí, chẳng thấy ai nói!
Tin vợ Cường ra thăm nuôi chồng không được gặp, đồn rầm Trại. Người đàn bà ấy cương quyết đòi tụi Công An phải cho gặp chồng, nếu không chị sẽ quay về Hà-nội thưa tại Bộ Nội Vụ, vì chị ra thăm chồng có giấy phép của Hà-nội. Nếu không được nữa, chị sẽ ở lại đây, tuyệt thực đến chết. Chị đã nhịn ăn 24 giờ. Tụi giám thị, sau những cân nhắc, quyết định tha Cường, sau 6 tháng kiên giam, cùm 1 chân. Khi được thả ra, anh không đi đưọc, phải có 2 người dìu. Nước da anh xanh mướt như tầu lá chuối non, vì thiếu ánh nắng. Tụi Công An còn ban ơn cho anh được hưởng 24 tiếng trong “căn nhà hạnh phúc”!...
Mọi người đều phục chị Cường, người đàn bà can đảm và có lòng thương chồng tuyệt đối..
Hôm nay, nghỉ bệnh ở nhà, buổi chiều tôi đến thăm Cường. Nhìn thấy tôi, Cương reo lên:
- A, anh, ở trong nhà kỷ luật, anh em vẫn thường nhắc đến anh. Độ này trông anh khá nhiều!
Tôi cảm ơn và hỏi Cường về những ngày gian khổ. Cường cười:
- Chúng em ở trong ấy vẫn vui. Tối nào em cũng chiếu phim.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Phim đâu mà chiếu, chiếu cách nào?
- Chiếu đây, là kể lại những chuyện phim cũ đã xem, để giải trí. Vì mỗi phòng cách nhau có bức tường thấp nên nói gì đều nghe được, cũng như mỗi ngày, em vẫn nói chuyện được với các anh em Trại B, lao động gần đấy. Do dó, tuy bị biệt giam, nhưng mọi tin tức em đều biết, cả chuyện đánh lầm!
- Bây giờ cậu được tha hẳn chưa?
- Tụi nó tha rồi, lại còn cho về Đội 20!
- Nó còn cho làm Đội trưởng nữa thôi?
- Không, lúc này là đội viên, như anh vậy. Mai em đi lao động cho chóng khỏe, vì thiếu nắng người yếu lắm.
- Sao không nghỉ thêm ít bữa?
- Ở nhà chán lắm, tụi Công An ra vô sùng sục, khó nói chuyện!
Tôi đi về, Cương tập tểnh đưa tôi ra tới thềm.
Đây là căn buồng, tôi đã ở một thời gian. Có anh Trung Tá mất một giò, suốt ngày chống nạng đi lộc cộc và nhà văn Trọng Bình, đã từng viết chung với tôi trong Tạp chí Thế Kỷ vào những năm 1951 -1952 - 1953 tại Hà-nội, do Bùi Xuân Uyên chủ trương. Bây giờ anh đã quá già, lại nghễnh ngãng nặng, mỗi lần nói chuyện với anh phải hét lên, do đó, ít khi tôi nói, nhất là chuyện tâm tình. Anh bị đi cải tạo vì hoạt động đảng phái. Anh có hai người con trai cũng đi cải tạo như anh, nhưng ở trong Nam. Hiện ở Saigon, anh có hai đứa con gái nhỏ, chả biết chúng làm gì để sống? Có lúc buồn quá, anh nói với tôi:
- Lúc còn trẻ hăng say hoạt động, có bao nhiêu tiền đều cùng các “đồng chi” tiêu chung, có bao nhiêu sức khỏe đem dâng cho Đảng. Nay đã già bị tù tội, gia đình khánh kiệt, chả thấy ai hỏi đến, buồn ghê!
Anh nói câu nào, tôi đều nghe rõ, còn tôi nói, anh không nghe, do đó, tôi chỉ ngồi im.
Còn người nữa, chắc chẳng bao giờ tôi quên. Đó là một ông già người miền Nam, khi trước làm Hội Đồng Xã, nay bị đi cải tạo, suốt ngày mồm ngậm điếu thuôc rê, dù cháy dù không, đầu quấn khăn rằn ri, lẩm bẩm như tụng kinh từ sáng sớm tới giờ ngủ. Ông đã rụng hết răng, nên nhai bằng lợi. Mỗi lẫn ăn bo bo, ông không nhai mà nuốt. Trông thật tội nghiệp!
Một nhân vật nữa, hãy còn trẻ. Thiếu Úy ngành cảnh sát, có tài ăn cắp. Ai để cái gì ăn được ở đâu, hắn đều biết, chỉ cần 5 phút, lấy ra khỏi túi đồ. Đi lao động thì thôi, khi ở nhà, nằm dài, chụp chiếc mũ vải lên mặt, mắt lim dim dò xét chung quanh. Một hôm bị bắt quả tang, ăn cả chục cú đấm. Nó ôm mặt khóc rưng rức. Quả thực, hắn quá thiếu, không quà, không thăm nuôi, sức trẻ làm sao chịu đựng nổi với cơn đói triền miên từ ngày cải tạo đến nay.
Ở trong tù, không mấy ngày, không có chuyện, dù vui, dù buồn, do đó, đời sống trong tù không kém phần sống động, nếu chịu quan sát.
Từ cuối năm 1979, việc thăm nuôi dồn dập, không ngày nào không có. Hôm trước đây, vừa xẩy ra cuộc đấu súng giữa Công An và thương phế binh Cộng Sản ở “ngã ba Tâm Thần”. Tụi thương phế binh thường đón đường những người đi thăm nuôi để xin tiền hoặc cướp bóc. Có hôm, tụi nó nói với một người thăm nuôi:
- Tại sao, chị lại tiếp tế cho những thằng Ngụy quân đó. Chúng nó có tội đối với Tổ quốc không đáng hưởng. Người đáng hưởng là chúng tôi đây!
Nói xong, tụi nó cướp đồ rồi cười hô hố. Người đi thăm nuôi mất của, trình Công An. Ban Giám Thị Trại cho Công An vũ trang đến can thiệp. Thế là súng nổ. Một em bé cùng đi với mẹ thăm nuôi bố ở trại B bị trúng đạn chết! Câu chuyện này làm anh em tức giận, nhưng cọp ở trong chuồng, có tức cũng đành chịu.
Nhờ thăm nuôi, nên có nhiều tin đồn, tin nào cũng “hồ hỡi”. Buổi tối, khi sắp đến giờ kẻng ngủ, anh bạn nằm kế bên, nói nhỏ: ·
- Ông ơi, ông có biết tụi Mỹ nó chuộc tù chưa? Mỗi người 20,000 Mỹ kim! Tụi mình sẽ được đưa thẳng xuống Hạm Đội 7, qua Mỹ luôn!
- Ai nói vậy?
- Tin thăm nuôi!
Tôi không dám phản đối, sợ anh bạn thất vọng, nên nín thinh. Lại có tối, anh thầm thì bên tai:
- Ông ơi, ngủ gì sớm vậy, có tin hay lắm!
- Ông nói nghe!
- Tin ông Kỳ qua Bắc Kinh hội với Sihanúc, thành lập Mặt Trận Liên Minh chống Cộng, sẽ đánh chiếm lại Căm Bốt và miền Nam.!
- Ai nói vậy?
- Thăm nuôi!
- Thôi đi ông, nguồn tin thăm nuôi, toàn ba xạo. Nghe nói, ông Kỳ đang đánh tennis ở Cali, đang uống rượu và khiêu vũ ở Night Club mà, tôi chưa thấy tin nào đúng cả.
Tuy nói vậy, trong thâm tâm tôi cũng cảm ơn những nguồn tin thăm nuôi đó, dù đúng, dù sai, nó cũng cho những người tù khổ sai vô thời hạn, chút hy vọng để sống nốt chuỗi ngày vô định, khỏi mang niềm tuyệt vọng!
Thỉnh thoảng, tôi có gặp Duy Lam. Bây giờ anh không đi lao động, ở nhà làm bếp. Anh cùng khóa Thủ Đức với tôi. Khi còn lao động kéo xe “trạc” đã có lần chứng kiến anh chửi Công An, khi thấy tên này nặng lời với người bạn tù.
- Tại sao cán bộ lai sỉ nhục một người già như vậy?
Tên Công An sừng sộ:
- Tôi nói gì, anh bảo là sỉ nhục?
- Cán bộ nói: “đồ con chó!”, không phải sỉ nhục sao?
- Tôi không nói anh
- Cán bộ không nói tôi, nhưng nói bạn tôi cũng vậy!
Tên Công An trợn mắt.
- Tôi nói, đồ con chó, đã sao chưa?
- À, bây giờ tôi mới biết, Xã Hội Chủ Nghĩa đều xài danh từ như vậy cả.
Nói xong Duy Lam quay người nhổ bãi nuớc miếng xuống đất. Tên Công An là quản giáo lao động Đội của Lam, tôi biết, từ nay, Lam sẽ bị theo dõi và làm khó.
Buổi sáng nay, chủ nhật Lam sang thăm tôi.
Chúng tôi ngồi nói chuyện tầm phào. Duy Lam, nhà văn trẻ nhất, cũng là nhà văn cuối cùng được kết nạp vào nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Là cháu của nhà văn Nhất Linh, nên chịu ảnh hưởng chính trị của nhóm Tự Lực do Nhất Linh làm lãnh tụ. Cùng là Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhưng thuộc hệ phái riêng, không cùng chung hệ phái với Vũ Hồng Khanh. Nhà lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng này, đã có một thời gian bị giam giữ tại đây cũng như Bác sĩ Hoàng Cơ Bình. Nay các vị đó đã được tha về! Lam là anh ruột nhà văn Thế Uyên, một cây bút trẻ viết rất sâu sắc, nhưng dưới chế độ này, chắc gì còn có cơ hội để phô diễn tài năng? Thường thường Duy Lam hay nói với tôi về chính trị nhiều hơn văn học. Duy Lam thường chủ quan khi phân tách tình hình thế giới với những dữ kiện không tưởng. Anh thuờng đánh giá kẻ thù rất thấp và luôn luôn tin tưởng có cơ hội làm lại những gì đã đổ vỡ. Duy Lam rất thích mấy câu thơ:
Lũ chúng ta, bầy kình ngư mắc cạn
Chờ chết khô vì thiếu sóng đại dương
Chúng ta đi trên vạn nỗi buồn
Của thương nhớ từng mô hình dĩ vãng
Xa vắng vợ con, chia lìa bè bạn
Quê hương tan nát, đã mấy thu rồi?
Hỡi anh em, bè bạn, chúng ta ơi!
Cùng đứng lên, phá tan vùng Địa Ngục....!
Mây câu này, trích trong một bài thơ dài, tôi làm trong tù. Vấn đề làm thơ trong tù cũng khó khăn lắm. Phải làm và sửa thơ trong đầu, không cần giấy mực! Tôi đã nói với Thế Hoài nhiều lần, đừng có chép thơ trên giấy, cố gắng học làm thơ trong đầu, nhớ lấy, khi nào được tha, sẽ chép ra không muộn, chứ nếu ghi lại, nó khám bất ngờ bắt được, lôi thôi lắm. Y như rằng, Thế Hoài bị khám “đột xuất” vì có “ăng-ten” báo cáo. Tụi Công An tìm ra tập thơ. Đến sáng thứ hai, trước khi gọi các Đội đi lao động, tên Thịnh tuyên án trước trại: Thế Hoài bị cúp gửi thư và thăm nuôi 6 tháng vì tội “làm thơ chống chế độ”. Khi gặp, tôi trách, sao không nghe lời! Thế Hoài đáp:
- Trí nhớ quá kém, thuộc không nổi, thôi đành chịu vậy!
Khi còn ở Long Giao, Suối Máu, tôi làm thơ cũng chép ra giấy, sau thấy nó khám kỹ quá, phải làm thơ và nhớ trong đầu, vì thế, nên thoát. Các bài thơ làm ở Long Giao, Suối Máu được Thu Hy, người mê thơ, chép lại, lúc được tha vào năm 1978, anh mang về, trao lại cho Lê, người bạn rất thân của tôi cất giữ. Khi tôi được tha, Lê đã trả lại. Tất cả, hơn 10 bài. Nếu không có Thu Hy, chắc mười mấy bài thơ đó đành quên, vì có bài dài gần 100 câu, thơ tự do!
Đang ngồi nói chuyện, tên Hồng, cán bộ Buồng đến. Nó nhìn chúng tôi chầm chầm. Không hiểu sao nó rất ác cảm với tôi. Mỗi lần tôi có quà, nó khám rất kỹ. Nó lấy của tôi 50đ trong đáy chiếc keo nhựa đựng mắm ruốc, do vợ tôi dấu gửi trong đó. Nó còn lấy cả chiếc phin café mới toanh, đá lửa, quẹt máy trong gói đồ. Sau đó, nó còn bắt tôi ký giấy nhận đã khuyến khích gia đình gửi tiền trong quà. Nhưng tôi biết, nó làm cho có hình thức vậy thôi, chứ chắc chắn 50 đồng ấy đã chôn chặt trong đáy túi nó, tức 2 tháng lương! Không phải một lần, lần nào khám cùng như vây. Nó là một trong những thằng Công An ác ôn tại trại Nam Hà, sau tên Thịnh và Lực. Hôm qua có mấy anh cùng buồng nhận được quà lần đầu tiên. Nó phát giác, phiếu gửi quà giả, nó tịch thu liền, cho lệnh mang xuống nhà bếp nấu cùng với những gói quà có phiếu giả khác. Mấy anh kia nói như van xin, nó cũng không cho, dù một gói nhỏ. Báo hại, buổi chiều đó, cả trại phải ăn bữa chè, ngọt lẫn mặn, nào đường, nào mắm ruốc, tôm khô, lạp xưởng, hầm bà lằng! Những anh bị mất quà, mặt như chiếc mền rách. Một buổi, không hiểu sao, nó tâm sụ với hai tên tù chuyên ở nhà làm vệ sinh và đổ thùng phân.
- Tôi nghe mẹ tôi nói lại, khi còn con gái, nhà nghèo, phải đi ở đợ cho một điạ chủ. Tên địa chủ này đã hãm hiếp mẹ tôi, sinh ra tôi. Tôi sinh ra đời trong chiếc chuồng trâu, đúng vào ngày 19-8-1945, ngày Cách Mạng nổi lên cướp chính quyền. Đến năm cải cách ruộng đất, tên địa chủ bị đấu tố chết. Mẹ tôi cũng chết trong cuộc oanh tạc của B52 ở khu phố Khâm Thiên. Đến tuổi nghĩa vụ, tôi xin vào ngành Công An phục vụ tới hôm nay.
Câu chuyện này chẳng biết đúng hay sai, nhưng chỉ biết nó ghét tù miền Nam lắm, đặc biệt là tôi. Có lẽ tôi giống tên địa chủ đã hãm hiếp mẹ nó khi trước chăng?
- Các anh ngồi làm gì đây?
Duy Lam trả lời:
- Tôi làm nhà bếp, hôm nay phiên nghỉ, sang thăm anh bạn đau!
- Anh xin phép ai chưa?
- Chưa!
Tên Hồng quát:
- Về ngay, còn anh kia, liệu hồn!
Nhưng nó cũng không làm khó được bao lâu, mấy hôm sau, tôi biên chế qua buồng khác.
Vấn đề biên chế xẩy ra luôn, nên anh em coi như chuyện thường. “Chuồng” nào cũng là “chuồng”, lao động nào chẳng là khổ sai! Chúng tôi chuyển qua buồng mới, gặp một số anh em mới! Công tác vẫn đào kinh ngày 8 tiếng, với chỉ tiêu rất nặng. Trời nắng như đổ lửa, chúng tôi mỗi người phải đào 1 thước khối đất. Kẻ xắn, người chuyền đất lên bờ đắp thành một con đê cao 4 thước, mặt đê rộng 5 thước, chân đê 8 thước. Tên Thắng, Công An quản giáo mới, cũng thuộc loại hắc ám. Nó bắt anh em làm đúng chỉ tiêu, nếu chưa xong, làm tới xong mới được về. Chúng tôi bàn nhau làm từ từ bao giờ xong cũng được. Do đó, Đội tôi lao động đến tối mới được về. Cũng vì thế, tên Công An quản lý lao động và tên Công An vũ trang cãi lộn. Tên vũ trang lo giữ tù, mong hết giờ đi về, còn ra Ba Sao chơi,. Nếu tù chưa về, nó phải chờ, tức lắm. Chiều hôm sau nghe kẻng tan tầm, nó xuống bãi cho lệnh tù đi về, dù chưa đạt chỉ tiêu. Tên Thắng không biết sao hơn đành nghe theo, vì thấy tên vũ trang cầm ngang cây AK như sẵn sàng nổ súng, nếu lệnh nó ra không ai thi hành.
Vì trời quá nắng, giữa cánh đồng trống, chúng tôi làm những chiếc lều, cắm 4 cành cây làm cột, trên phủ miếng nylon thường dùng thay áo mưa làm mái. Nhưng nylon bắt nắng, ngồi dưới, nóng không chịu được, nhất là buổi trưa, vì lúc này chúng tôi làm thông tầm. Vài người đi cắt cỏ để che, thấy tốt, ai nấy làm theo. Chỉ trong thời gian ngắn, hai bên bờ kinh đầy chòi. Mỗi lần nghỉ giải lao, anh em ngồi lì trong lều không chịu ra lao động, hoặc ra muộn, ngại nắng và đỉa. Cứ như vậy kéo dài được ít lâu! Cho đến một buổi sáng thứ hai, khi ra tới nơi, cả khu chỉ còn lại đống tro đen kịt. Tụi Công An đã đốt hết để tù khỏi núp, tránh né lao động.
Năm nay trại thường phải đón tiếp khách ngọai quốc đến thăm. Có khi, thành phần thuộc hội Tranh đấu Nhân Quyền Quốc Tế, có khi các thành viên của hội Ân Xá Quốc Tế, có khi phái đoàn báo chí thuộc các nước “Cộng Sản anh em!”. Mỗi lần như vậy, Ban Giám Thị lại đưa tù đi trốn dưới chân núi. Tù bệnh được đưa vào Trại tù hình sự ở cách đó khoảng 1 cây số, chờ khi nào phái đoàn đi khỏi, mới được về. Những ngày đó, bộ mặt Trại khác hẳn. Khu Đại Tá được trải chiếu mới, rộng rãi, ngăn nắp. Các quần áo “xi-vin” của tù được mang phơi đầy sân, bao nhiêu quần áo rách phải đem cất hết. Ngoài chiếc vườn hoa và hòn non bộ, những năm trước nghe nói, trại còn mua những chiếc lồng chim hoàng yến treo lơ lửng nhằm đánh lừa sự quan sát của khách viếng thăm trại tù.
Căn buồng giam 100 người, nay chỉ bày có 50 cái mền, 50 cái chiếu mới, trông rất rộng rãi. Lại còn một toán chơi bóng chuyền, người nào cũng béo tốt khỏe mạnh, đánh bóng huỳnh huych, ai bảo tù thiếu ăn và bị áp chế? Nếu phái đoàn thăm vào buổi trưa, họ còn được ăn uống đàng hoàng. Cơm canh 4 món, có đồ tráng miệng như ở nhà. 4 người 1 bàn, rất lịch sự! Còn một toán, ăn mặc đàng hoàng ngồi đọc sách tại “nhà văn hóa” với các kệ sách sạch sẽ, sơn xanh, đỏ tùm lum, có cả mấy lọ hoa tươi tốt cho tăng phần mỹ thuật. Thêm vào đó, còn có một ban nhạc với kèn trống, tân cổ giao duyên, hát hỏng ầm ĩ. Đó là tụi “cò mồi”. Ban Giám Thị dùng họ cho việc lừa bịp này. Ngoài ra, còn có những con “cò mồi” khác được huấn luyện trước, để trả lời những câu hỏi của phái đoàn. Tụi Cộng Sản có thông dịch riêng. Tù nếu được hỏi, phải trả lời bằng tiếng Việt, dù có biết tiếng Pháp hoặc Anh... Nơi bệnh xá, mỗi bệnh nhân 1 giường, trên chiếc kệ đầu giường có để một hộp sữa, lọ đường. Người bệnh nào cũng hồng hào, các tù bệnh thiệt đã được giấu đi. Khi khách ra về, đường, sữa được thu lại, bệnh nhân lại nằm trơ trên chiếc giường gỗ, mỗi bữa nhận 1 chén cơm trắng với muối. Trại có gần 2,000 tù, khi được hỏi, tụi Công An đã trắng trợn trả lời, hiện tại chỉ còn giam giữ hơn 200 người, thuộc loại lính mũ xanh, mũ đỏ, có nhiều nợ máu với nhân dân, rất khó cải tạo, do dó, cần một thời gian nữa, rồi sẽ tha hết. Khách chỉ có quyền đi thăm nơi nào chúng cho đi, nhưng vì cảnh giác, tụi Công An bắt tất cả những buồng khác có đồ đạc, quà bánh để ở ngoài hiên, hoặc trong nhà ăn, cùng quần áo đang phơi, phải mang hết vô buồng khóa cửa lại, coi như buồng bỏ trống, không người ở.
Nhà nhạc học Trần văn Khê đã có lần đến thăm trại tù này. Ông cùng đi với một số người. Tôi không rõ họ thuộc phái đoàn nào? Chẳng biết ông Khê nghĩ gì, khi chính những người đang bị giam giữ tại đây, đã từng chiến đấu, để cho ông trở về quê nhà thăm lại gia đình ông một cách an toàn trong những năm còn chinh chiến. Nhưng nhục nhã hơn cả, có lẽ, là lần thăm Trại của đoàn hát cải lương từ miền Nam ra Bắc trình diễn. Khi ghé qua Phủ Lý, tụi Công An mời vô hát giải trí cho Ban Giám Thị và tụi Công An toàn trại, làm anh em tù từ Đại Tá đều phải đi trốn cả ngày dưới chân núi. Các nam nghệ sĩ khi trước, đa số thuộc lính của ngành Chiến Tranh Chính Trị và các nữ nghệ sĩ phần đông cũng ăn lương dân chính của ngành ấy.
Thời tiết đã thay đổi, mùa nắng đã qua với những ngày và đêm dài đổ lửa. Không những ở nơi không có bóng mát, mà còn nóng từ trong nhà nóng ra, cái gì cũng nóng. Chiếc sàn xi-măng tôi ngủ mỗi tối cũng nóng. Ở đây, không phải nằm đất, mà nằm trên bệ xi-măng xây dài như chiếc giường tập thể. Chỗ ngủ của mỗi người rộng khoảng 6 tấc. Vì chỗ nằm quá hẹp nên tối nào cũng có tiếng to, nhỏ về sự lấn qua, lấn lại giữa người nọ kẻ kia về chỗ ngủ. Căn buồng, trên nguyên tắc chỉ chứa khoảng 50 người, nay nó phải chứa một con số gấp đôi, có khi hơn nữa, nên phải lót thêm ván bắc qua 2 đầu sàn gác, chỉ để hở vài khoảng nhỏ thông hơi. Mùa nắng mỗi khi vào buồng, hơi người xông lên nồng nặc, mùi mồ hôi quyện với khói thuốc tạo nên mùi khó ngửi. Xung quanh vách tường toàn máu rệp, khi còn mới mầu máu đỏ tươi, lâu ngày thâm xịt. Rệp rất nhiều, giết không xuể, mỗi sáng, mang mùng ra sân, bắt ít nhất cả mấy chục con lớn nhỏ. Không phải một sáng mà sáng nào cũng vậy. Tường mới quét vôi chưa đầy một tháng, màu vôi đã biến mất, trên mặt tường toàn những vệt máu kéo dài, trông gớm ghiếc. Chỗ nào có tù thì có rệp. Cái định luật ấy hầu như bất di dịch. Nơi nào mới xây cất chưa có, nhưng chỉ ít lâu sau, rệp đầy. Mỗi sáng chủ nhật, anh em đều bắt rệp, nhưng vô ích vì không có cách nào có thể giết được hết những con rệp chúi trong khe cột và vách tường, trừ phi đốt trọn căn nhà. Có anh chăm giết rệp, ngay nào cùng tảo thanh mùng, mền, chiếu v.v.... nhưng không hiểu sao tối nào anh cũng bị rệp đốt tơi bời? Một buổi vô tình anh mở chiếc hộp nhỏ để đầu giường, đựng những thứ lặt vặt và thư từ, anh bỗng giật mình vì bên trong chiếc hộp rệp bu kín. Đủ các loại rệp: ông bà, cha mẹ, anh em, con cháu nhà rệp, trú ẩn an toàn trong chiếc hộp từ bao lâu rồi không hay, nên tuy chăm sóc các thứ kia, không ngờ rệp mỗi đêm bò từ chiếc hộp để ở đầu giường ra đốt!
Thấy vậy, tôi sợ quá, vội mang chiếc gối nhỏ mở dây ra coi. Trời đất ơi! cả gia tộc nhà rệp bâu kín ở hai đầu chiếc gối có phần đông hơn chiếc hộp của anh bạn tù. Sợ quá, tôi đành vứt luôn chiếc gối vào lò lửa để trả thù! Rệp, một đại họa đối với tù. Ban ngày lao động mệt nhọc, tối lại khó ngủ vì rệp đốt. Do đó, sức khỏe hao mòn!....
Mùa mưa năm nay, tương đối ít. Cả những trận bão liên tiếp thổi tới miền Bắc Việt Nam cùng vừa phải, gió cấp 7 cấp 8 là cùng, nên không gây thiệt hại nhiều. Cánh đồng năm ngoái trắng xóa nước, mùa mưa năm nay chưa ngập bờ, chứng tỏ mực nước không cao. Con đê “thủy lợi”, do cả ngàn người lao động mỗi ngày, quá nửa năm nay, cũng chưa dài bao nhiêu, khoảng trên 1 cây số là cùng. Mỗi ngày đều có người đi đo số khối đất được đắp lên để xem khả năng tiến triễn. Nhưng kết quả cũng chẳng lấy gì khả quan. Tù cứ ì ạch làm cho qua ngày, đến đâu hay đến đó!
Vấn đề thăm nuôi năm nay tương đối tấp nập, nhung không phải ai cũng có. Còn rất nhiều anh em chưa được thăm nuôi, ngay cả gói quà 5 kí cũng không. Do đó, vẫn còn nhiều người đói! Mỗi phần bo bo giá từ 1đ50 tới 2đ tùy theo ngày. Trong buồng tôi, có anh ăn bo bo rất giỏi, có thể ăn hết 3 phần bo bo một cách ngon lành! Vì quá đói, con người thường có ảo tuởng, nghĩ mình có thể làm được những gì mà thực tế sức người không thực hiện nổi. Tối hôm trước trong buồng, có cuộc thi ăn bo bo. Người ăn không mất gì cả, miễn ăn hết 3 phần bo bo vỏ trong khoảng thời gian từ lúc kẻng gõ vô “chuồng” tới giờ kẻng ngủ, độ 2 tiếng. Nếu ăn hết trong khoảng thời gian ước hẹn đó, người ăn được cuộc, ăn no mà khỏi phải trả tiền. Nếu thua, chỉ phải trả tiền 2 phần bo bo thôi! Người ăn thi, vốn không to lớn lắm, nhưng tin vào sức ăn của mình, nên nhận cuộc. Anh là một, trong những người chưa có thăm nuôi, hay quà 5kí.
Khi đã vô “chuồng” hết, cuộc thi ăn bắt đầu. 3 phần bo bo được bầy trước mắt với chén muối trắng. Anh ngồi xếp chân bằng tròn, trông như vị tu sĩ nhập thiền. Anh bắt đầu ăn từ từ, vừa ăn vừa cười nói. Hai hàm răng nhai liên tục, nuốt ngon lành từng muỗng bo bo đầy tràn. Xung quanh, anh em cổ vũ trong đó có cả người bỏ tiền ra mua bo bo đánh cuộc. Sự thực, đây chỉ là trò giải trí cho vui vì ai cũng tin, anh nhận cuộc sẽ ăn ngon lành 3 phần bo bo, như đã từng ăn. Thời gian qua lạnh lùng. Chiếc lon đựng bo bo vơi dần, vơi dần. Mọi người có mặt chăm chú theo dõi. Lon thứ nhất đã hết, lon thứ hai cũng vơi quá nửa. Hàm răng nhai đều đều làm ai nấy có cảm tưởng như anh còn đói lắm. Lon thứ hai hết, qua lon thứ ba, lon chót của cuộc thi. Những muỗng bo bo cứ được xúc từ từ đưa lên miệng. Cho mãi đến lúc này, anh mới uống chút nước. Có tiếng nói thì thầm:
- Bỏ cha, bữa nay uống nước, chắc ngán rồi!
Nhưng không, anh vẫn nhai đều và tủm tỉm cười như thách đố, để mọi người tin mình đủ sức ăn lon thứ ba, nếu cần, có thể ăn lon thứ tư.
Lon bo bo cuối đã vơi già nửa. Đây, những miếng cuối cùng của cuộc thi. Sự thắng bại chỉ còn trong vòng mười lăm phút. Mọi người đều nghĩ, anh sẽ ăn hết trước giờ kẻng ngủ nhiều. Đây cũng là một kỷ lục ăn bo bo nhanh. Nhưng không, tự nhiên anh trợn trừng mắt, mặt đỏ ửng như tắt thở, nằm lăn quay ra chiếu, tay chân xuội lơ, trong lúc lon bo bo còn chừng 1/5.
Mọi người sợ quá, vực dậy, người xoa bụng kẻ bóp tay chân, nhưng anh vẫn nằm như xác chết. Có tiếng nói:
- Khều ngón tay vô miệng, móc cho mửa bo bo ra!
Một người làm theo. Khi ngón tay vừa rút, anh ói hết một phần bo bo còn nguyên hạt ra khỏi miệng, rồi lại nằm vật xuống chiếu, trong lúc tiếng kẻng báo ngủ từ ngoài vọng vào! Như vậy, anh thua cuộc.
Từ bữa đó, anh sợ bo bo, tuy không phải trả ngay tiền thua cuộc. Người thắng cho anh mắc nợ!
Bo bo là loại lương thực rất khó tiêu hoá. Ăn nó bao nhiêu đi cầu bấy nhiêu. Do đó, khi nào ăn bo bo, anh em nói ngay câu: nhà cầu là bạn ta! Người nào răng tốt, ăn vô còn tiêu hoá phần nào. Ai già nua mất răng, coi như nhịn đói!
Đời sống trong tù, chỉ miếng ăn là quan trọng. Ai có đều lo “thủ” vì sợ lúc hết, vì lý do nào đó, gia đình chưa kịp thăm nuôi hay gửi quà, sẽ đói. Vì vậy, nên có những anh em ở lâu ngày với nhau, hay cùng đơn vị lúc trước, kết thành nhóm vài ba người ăn chung, với mục đích tương trợ, ai có quà trước nuôi trước, ai có sau nuôi sau! Nhưng cũng có vài nhóm tan rã sau thời gian ngắn ngủi thử thách. Những người được thăm nuôi nhiều và đều, có một “tà loọc” để sai bảo, hầu hạ. Người “tà loọc” không kể cấp bậc cũ, miễn được ăn theo người có của, cho đỡ đói. “Tà loọc” có nhiệm vụ đun nấu, rửa chén bát lấy nước, kiếm củi! Thường thường “tà loọc” là người có sức khoẻ, có tinh thần nhẫn nhục, nếu không, chắc chịu đói!
Tối nay, ông bạn ngủ kế bên lại thì thầm bên tai:
- Ông ơi, nghe đồn có một số sắp được tha.
- Ai nói vậy?
- Tên “chèo” Buồng 5. Tên ấy thương tù lắm, thỉnh thoảng nó tiết lộ những tin xác thực như tin biên chế kỳ trước đó, ông nhớ không?
Tôi trả lời gay gắt:
- Ông là chúa hay tin, chèo là gì? là Công An! Công An là gì? là lừa dối để đưa người vào tù. Ông ngây thơ bỏ mẹ, cái gì cũng tin!
- Ô, ông tin hay không tùy, sao lại mắng tôi nhỉ? Nếu mai mốt có tên được về, ông có mắng tôi không?
- Ông quên rồì sao? Mấy tháng trước có tên Công An do Bộ Nội Vụ cử đến đây để thuyết trình về vấn đề Kampuchia đó! Nó nói, vì sao ta phải đánh Pol Pot, Ieng Sary và vì sao ta phải ủng hộ Heng Samrin, vì sao thanh niên ta phải hy sinh tại mặt trận này, mặt trận nọ bên Căm Bốt? Sau cùng nó nói rõ: nếu anh nào được tha về, anh đó trúng số độc đắc! Ông nhớ lại chưa? Tôi chẳng bao giờ tin, có thể trúng số độc đắc, vì cuộc xổ số đó chẳng bao giờ mở!
- Ông bi quan bỏ cha! Nói chuyện với ông chán gớm! Thôi đi ngủ!
Hôm nay trời rất đẹp, không nắng không mưa. Gió thổi miên man từ sóm, từng cơn gió dạt dào thổi rạp những hàng cây nghiêng nghiêng bên vách núi. Nước trong như lọc. Mặt nước lô xô theo chiều gió. Tôi vừa lao động, vừa nhìn cảnh vật trong một ngày rất đẹp ít khi có, báo hiệu mùa thu đã về. Mùa thu đất Bắc, mùa đẹp nhất trong năm, mùa của thi nhân và của những người yêu nhau. Tôi đã sống suốt tuổi hoa niên ở miền Bắc, nên mùa thu đối với tôi rất nhiều kỷ niệm. Suốt mấy năm bị giam cầm tại miền Bắc, tôi chưa thấy một ngày đẹp như hôm nay. Tôi nghĩ, giá không bị tù, nếu mình còn trẻ, lại có một người yêu xinh xinh, nắm tay nhau đi chơi suốt ngày trên những lối mòn có hoa, có lá, có gió thổi dào dạt như thế này, cuộc đời quả thần tiên.
Chúng tôi sẽ hái hoa rừng, bọc đầy vạt áo, đi đuổi bắt những cánh buớm vàng bay lượn đó đây. Khi nào mệt, ngồi trên một phiến đá ngả đầu vào nhau để nghe hơi thở, nghe nhịp đập của trái tim đang rộn ràng theo tiếng gọi của Thần Tình Ái!
- Ê, anh kia, sao không “nao” động, đứng nhìn gì vậy!
Tiếng nói của tên Công An quản giáo lao động lôi tôi ra khỏi dòng mộng. Hai chân tôi ngâm dưới nước lâu nên tê dại. Anh em thông cảm với sức khỏe của tôi nên làm giúp. Như tỉnh cơn mê, tôi lại đưa tay đón những tảng đất sét trơn trợt, nặng chĩu chuyền tay cho anh bên cạnh. Mỗi ngày chúng tôi chuyển trung bình 1,200 cục đất, nặng tối thiểu 5 kí, trên một đường dây dài khoảng 100 thước! Nhưng mọi ngày, tôi chỉ đứng và chuyển được 300 lần là phải lên bờ tìm chỗ nằm nghỉ mệt!
Chiều nay, trước khi về, tên Công An lao động tập họp toàn Đội để phổ biến lệnh của Ban Giám Thị ấn định lại mức ăn thành 3 hạng: A, B và C. Hạng A ăn18 kí, hạng B giữ nguyên mức cũ 15 kí, hạng C 12 kí.
Vấn đề chia mức ăn nhằm bảo đảm chỉ tiêu lao động. Ai làm nhiều ăn nhiều, làm ít ăn ít! Nhưng vì tinh thần “đồng tù” anh em yêu cầu giữ nguyên mức ăn đồng đều, vì người khỏe giúp người yếu, không ai phàn nàn gì! Nhưng tên Công An không chịu, buộc mọi ngươì phải đề cử tùy theo khả năng lao động. Sau đó, anh em phải đề cử hai người ăn hạng A, như vậy phải có hai người ăn hạng C để lấy 6 kí bù cho hai người ăn hạng A. Tôi xung phong ăn hạng C, còn một người nữa, chưa ai chịu, vì với 12 kí kể cả phần ăn sáng, sao đủ sống? Thấy không ai có ý kiến, tên Công An chỉ định luôn một anh bị nó trù, ăn hạng C. Thế là xong! Các Đội khác sinh hoạt na ná như vậy để chia mức ăn!
Từ hôm sau, có 3 hạng cơm: 18,15 và 12 kí. Phần ăn của hạng B vẫn vậy, nhưng hạng A nhiều hẳn lên và hạng C trông thật thê thảm, mỗi bữa có già một chén bo bo. Tôi ăn yếu, không sao, chứ anh kia quả tội nghiệp! Có nhiều Đội, vì tinh thần tương trợ, đổ chung phần A và C chia lại, nhưng Đội tôi thì không, ai có nấy hưởng. Những vấn đề này, mỗi tháng đều đánh giá lại, có người C lại lên B, có người B tụt xuống!
Chừng 2 tháng sau, toàn trại đều ăn sụt xuống đồng loạt 12 kí. Mọi người đều chưng hửng. Những người ăn khỏe, lo lắng ra mặt. Bây giờ mọi người mới biết đó là “đòn” của Cộng Sản, muốn bớt khẩu phần, sợ tù phản đối, nên tạo ra hoàn cảnh để dễ hạ mức ăn vì cho rằng, tù lao động như vậy chỉ đáng ăn 12 kí mỗi tháng. Nhưng 12 kí đây, không phải 12 kí toàn cơm mà kể cả bo bo, bắp, sắn khô đều như nhau. Trên lý thuyết 3 cân sắn bằng 1 cân gạo, nhưng ở đây không phân biệt gì, cân nào cũng là cân cả!
Buồng tôi, hôm nay nhận thêm một số tù mới được chuyển đến, trong đó, có một người gãy tay còn bó bột. Anh ta và người bạn nằm kế tôi. Anh gãy tay mang cấp Thiếu Tá, anh kia Đại Úy, Cựu Quận Trưởng miền Trung. Họ đều còn trẻ. Buổi tối, tôi hỏi lý do gãy tay. Anh cho biết:
- Chúng tôi trốn trại, lúc gần qua biên giới lạc nhau, quay lại tìm, bị chó đánh hơi thấy, tụi Công An biết, quay lại, bảo ra hàng. Chúng tôi nhất định không ra, nên chúng bắn. Tôi bị một viên vào cánh tay, đã hơn một tháng nay, chưa khỏi. Xương chưa liền, nhưng may, thịt không thối!
- Hai bạn trốn từ đâu?
- Ở một trại gần biên giới, Hà Bắc. Chúng tôi sở dĩ dám trốn qua biên giới Trung Cộng vì biết tụi nó đã đánh nhau. Chúng tôi chuẩn bị kỹ lắm, đã nghiên cứu địa hình cả mấy tháng trước. Đã tích lũy đầy đủ đồ ăn, thuốc men. Khi bị bắt chúng tôi còn đủ lương thục để sống cả tuần lễ nữa. Chúng tôi đánh lừa tên Công An quản giáo để nó khỏi nghi ngờ trong những ngày sắp trốn trại. Chúng tôi đã tìm được chỗ giấu lương khô và thuốc men ngay tại hiện trường lao động. Anh Nghị bạn tôi đây, Đội trưởng, nên được Công An tin, do đó cũng dễ phần nào. Buổi chiều, hôm chúng tôi dự định trốn, may quá trời mua. Nương theo cơn mưa mù mịt, chúng tôi vượt qua bên kia đồi, nơi có nhiều cây rậm rạp, rồi cứ thế len lách, cố leo qua khỏi quả đồi này trước khi tên Công An quản giáo phát giác. Mưa mỗi lúc một lớn, chúng tôi tin có Thượng đế phù hộ, nên trời mới đổ cơn mưa to và dai như vậy. Chúng tôi mang theo được cả áo jacket để mặc, vì hôm trước chúng tôi khai bệnh, nhưng không nghỉ, cứ đi lao động mặc cả jacket dù trời nóng. Chính vì thế, chúng tôi khỏi sợ lạnh ban đêm giữa núi rừng. Khi vuợt quả đồi, trời vẫn mưa như trút nước, sấm sét rầm trời. Vì thấy chưa tối, chúng tôi bảo nhau cố leo qua con đồi trúc trước mặt, cho chắc ăn. Khi leo tới đỉnh đồi, nhìn xuống, mới biết nó nằm gần con lộ lớn, xe hơi chạy được. Chúng tôi bàn nhau, chỗ này không yên vì gần lộ quá, định vượt qua ngọn đồi này nữa, nhưng sau khi cố gắng leo qua hai quả đồi, đã thấm mệt! Suy tính hồi lâu, chúng tôi chui vào giữa lùm trúc dầy đặc, tạm nghỉ một đêm, mai xét! Cơn mưa ngớt hạt, trời hơi sáng trở lại! Vắt bám đầy người, chúng tôi gỡ hết con này, con khác lại đeo, sau chán quá, bỏ mặc!
Trời sập tối. Cơn mưa hoàn toàn dứt hạt. Chúng tôi không thấy đói, chỉ khát, nhưng cố cầm cự không dám uống nhiều chỉ nhấp nhấp cho đỡ khô miệng, khi nào gặp suối sẽ hay. Vào khoảng 9 giờ tối, chúng tôi nghe tiếng động cơ từ xa vọng lại, biết tụi nó tìm bắt. Tiếng xe gần dần và ánh đèn pha chiếu thẳng vào ngọn đồi trước mặt. Bỗng tiếng xe dừng ngay dưới chân đồi, chúng tôi nín thở, quên cả vắt cắn, cố gắng đừng tạo nên tiếng động. Lời nói chuyện qua lại từ duới vọng lên, nghe rất rõ:
- Tụi nó chưa ra khỏi nơi này đâu, các đồng chi rọi đèn cố tìm, sẽ bắt được.
- Tụi nó không dám núp ở đây, đồng chí, gần đường quá, sợ mình bắt, tụi nó đều là sĩ quan mà.
Tuy nói vậy, nhưng chúng cũng sục sạo tìm kiếm những bụi trúc mé dưới chân đồi. Ánh đèn pin nhấp nhoáng, quét vào chỗ nghi ngờ. Cũng may, sau con mưa, đồi trơn trợt lại nhiều vắt, nên chúng ngại. Sau chừng 1 giờ lùng kiếm, tiếng máy xe lại nổ, rồi xa dần! Thế là thoát! Nhưng chúng tôi không đám ngồi ở đấy lâu. Chờ đến đêm, chúng tôi lần xuống đường, để từ đó nhắm hướng di chuyển.
Chúng tôi xuống một thung lũng nhỏ, rồi men theo chân núi, tìm chỗ trú, chờ đêm mai sẽ vượt qua ngọn núi trước mặt, sang phía bên kia.
Đúng như dự đoán, đêm hôm sau, chúng tôi vượt qua ngọn núi, tương đối cũng dễ leo. Qua đến bên kia, lại thung lũng. Chúng tôi vượt qua trong đêm tối, tới quả núi khác. Lại cố vượt vì thấy hãy còn thì giờ. Cứ như vậy một đêm chúng tôi vượt được hai quả núi và một thung lũng cỏ gianh khá rộng. Nếu tính theo đường chim bay, một đêm chúng tôi đã vuợt được chừng 5 cây số. Nhưng ở đây, hoàn toàn an ninh. Tôi lấy đầy nước vào 2 chiếc bi-đông, do dòng nước chảy từ khe núi! Những cây chuối rừng, tàu lá to xanh mướt với những nải chuối vàng tươi trông rất đẹp, nhưng ăn không được vì trong chứa toàn hột. Nếu ăn được, chim và khỉ đã ăn trước rồi! Cứ vậy, ngày nghỉ đêm đi, không dám đốt lửa dù ban ngày. Sau 6 ngày đêm như vậy, chúng tôi có đi qua vài cái bản nhỏ của người dân miền núi trồng đầy bắp, tuy thèm chết được mà không dám lấy, sợ bị bắt uổng công! Cũng may, mấy hôm leo trèo vất vả, ăn uống kham khổ như vậy, chúng tôi vẫn khỏe mạnh. Để đề phòng tụi Công An biên phòng phát giác, chúng tôi di chuyển với khoảng cách an toàn. Đến trưa ngày thứ 7, tôi đã đứng bên con suối rất rộng, nước reo ầm âm. Từ bên này, có thể nhìn thấy mầu áo chàm, và những chiếc nón sơn, to vành, thấp thoáng phía bên kia. Tôi biết, mình đã đến biên giới Việt Hoa. Tôi, núp trong một bụi cây rậm chờ Nghị. Chờ mãi đến chiều không thấy! Ngại quá, tôi quay lại tìm, vì nơi đây tương đối xa khu người ở. Tôi đang đi men theo rặng vầu, bỗng nghe tiếng chó sủa phía dưới. Nhịp tim tự nhiên đập mạnh, cả người nổi gai ốc. Cơn sợ từ đâu xâm nhập làm bủn rủn tay chân. Nhưng tôi cố di chuyển thật nhanh đến nơi có tiếng chó. Tôi mong đây chỉ là loại chó giữ nhà, không đáng sợ. Tiếng chó nghe gần lại. Tôi trèo lên một cành cây, ngó xuống! Tôi thấy Nghị tay cầm cành lá quất lũ chó đang xông vô cắn. Lũ chó rất khôn, tuy nhỏ con, loại chó miền núi, con trước, con sau tấn công từng đợt, quây tròn Nghị vào giữa. Thấy nguy, tôi vội tụt xuống, bẻ một cành cây, cầm chặt trong tay. Lúc đó, trời đã ngả về chiều. Vì quá vội và xúc cảm, tôi bị té mấy lần, đầu gối đau tê. Những bước chân đã bắt đầu nặng nhọc. Khi gần tới nơi, 2 trong số 5 con chó chồm lại phía tôi, sủa inh ỏi. Tôi quơ cành cây vụt lia lịa, nhưng giống chó này tránh né rất tài tình, tôi toàn vụt vào không khí. Trời sập tối. Đàn chó vẫn không buông tha. Lúc này, tôi và Nghị đã ở bên nhau. Chúng tôi đâu lưng nhau, vừa cầm cự cùng lũ chó, vừa lùi dần vào mé rừng, đề phòng nếu có chuyện gì, lẩn cho dễ. Chừng nửa tiếng sau, nghe tiếng người suỵt chó. Tôi cũng tưởng đó chỉ là người dân miền Thượng gọi chó về. Ai ngờ, nghe tiếng “suyt, suỵt” chúng còn cắn hăng hơn. Có tiếng hô:
- Ai, trong đó ra ngay! Nếu không tôi bắn!
Tiếng kéo cơ bẩm lách cách..
Chết cha! Tụi Công An biên phòng. Loại chó này thuộc loại chuyên môn đã được huấn luyện chuyên săn đuổi kẻ lạ. Do đó, tụi nó mới cắn dai và khôn ngoan như vậy! Tuy nghe tiếng gọi, nhưng chúng tôi cố thủ, không ra. Sau 2 lần gọi nữa, nó bắn 1 băng AK vào bụi. Nghị không sao. Tôi trúng 1 viên vào tay. Lúc này đàn chó ào vô cắn lung tung. Lại có tiếng suỵt ngắn, đàn chó đang hung hản như vậy bỗng ngưng cắn. 3 tên Công An biên phòng chiếu đèn pin, chĩa súng đi thẳng vào chỗ chúng tôi núp, chúng tôi đành ngồi yên không kháng cự.
Thấy tay tôi máu chảy quá nhiều tụi nó lục túi đồ, xé chiếc áo lót của tôi buộc tạm vết thương rồi trói tay dắt đi. Đàn chó chạy vờn xung quanh ngoe nguẩy đuôi như vui mừng đã chu toàn nhiệm vụ! Chúng tôi bước theo sau ánh đèn pin, leo trèo lên xuống. Chừng nửa đêm đến căn nhà sàn nằm vắt vẻo bên suờn núi. Một tên Công An biên phòng nói tiếng địa phương với chủ nhà ở mé hiên. Lát sau chúng tôi được ăn cơm với mắm và khô nai. Ăn xong, chúng cho tụi tôi nằm ngủ, tay vẫn trói, có tên Công An ngồi gác.
Hôm sau, họ thẩm vấn sơ qua rồi giải chúng tôi trao trả cho trại, trên một chiếc xe đi công tác qua đấy.
- Khi về trại, có bị đánh không?
- Không, nhưng bị cùm và bị thẩm vấn liên miên. Bi bỏ đói khát mấy tháng liền. Nếu không nhờ có cuộc chiến tranh biên giới, làm sao chúng tôi được chuyển về đây?
Tôi nhìn cánh tay bó bột cứng ngắc đặt trên ngực. Khuôn mặt xanh xao, gầy guộc như khúc gỗ đẻo. Anh Nghị trông khá hơn vì không bị thương. Tôi nói cho hai anh nghe về sinh hoạt của trại và những gì các anh cần đề phòng đối với tụi Công An, cán bộ Buồng cũng như lao động! Đêm hôm đó giấc ngủ đến với chúng tôi hơi muộn!
Tên Công An lao động Đội tôi quả là một tên hắc ám, rất lưu manh, nó hay khám xét “đột xuất” tù để lấy tiền nếu tìm thấy. Nó bắt cởi hết áo quần, tự tay nó lần mò từng chút để kiếm. Nhiều người mất tiền bất ngờ vì bị khám cái kiểu này. Có một anh, trong giờ nghỉ giải lao, mở ví lấy ảnh vợ con ra coi. Nó nhìn thấy:
- Ê, anh Tửu, đưa chiếc ví cho tôi coi.
Anh này riu ríu đưa. Nó moi móc lôi ra được 20đ tiền Ngân. Nó tịch thu luôn còn bắt anh Tửu làm kiểm điểm. Anh này không phải tay vừa, làm kiểm điểm thành 2 bản: 1 đưa cho nó, 1 đưa thẳng cho Ban Giám Thị qua tên Công An Buồng với mục đích để thông báo lên “trên” nó có lấy của anh một khoản tiền, dù muốn ỉm đi cũng không được!
- Đù mẹ, ông mất tiền, mày cũng không tiêu được. Đéo đứa nào tiêu được, thế là huề!
Buổi trưa nay, trước khi hết giờ lao động, tên Thắng kêu Tổ trưởng Tổ 3, đến căn lều của nó để khám xét. Sau khi khám, thấy không có gì, nó hỏi:
- Tại sao lại nấu nướng trong giờ lao động?
Chẳng biết anh kia trả lời ra sao, nó bắt đứng nghiêm, đầu không nón, dưới ánh mặt trời giữa trưa, suốt 2 tiếng đồng hồ. Anh này, nguyên Trung đoàn Trưởng ở miệt Hậu Giang. Anh đứng như cây cột trồng trơ vơ giữa một bãi bùn đất nhơm nhếch. Tuy trời đã vào thu, mồ hôi vẫn thấm qua vải áo làm thành một khoảng lớn. Không biết xưa kia, khi còn tại chức, anh có phạt người lính nào dưới quyền như vậy không? Anh này thực xui, chưa hề có thăm nuôi, mấy bữa trước vì không dằn được thèm muốn, anh đã dùng chiếc que có buộc mẩu dây kẽm một đầu, lợi dụng đêm khuya, anh khều một bao đồ để ngoài hiên, lấy trộm bịch đường. Chẳng may người có của, thiếu úy Dù, bắt được. Nhưng anh này rất tốt, từng du học tại Pháp hồi nhỏ, tình nguyện vào binh chủng Dù để uýnh Cộng Sản, đã thông cảm, không làm khó dễ nên câu chuyện cũng êm, dù Buồng trưởng đã đưa vấn đề ra tên Công An Buồng để giải quyết. Tội nghiệp hơn nữa, mỗi lần có quà về, anh đều chắp tay lên ngực khấn: Lạy trời, cho con được một gói! Nhưng chẳng có gói nào ông trời dành cho anh! Nghe nói, anh có mấy vợ, nên lúc này chả vợ nào chịu gửi quà, thăm nuôi! Trường hợp này không hiếm trong Cải Tạo! Có anh Thiếu Tá, 3 vợ, vợ nào cũng làm nhà giáo. Anh vẫn tự phong cho mình chức Bộ Trưởng Giáo Dục. Một bữa, tôi hỏi đùa:
- Cậu làm cách nào có nhiều vợ vậy?
Anh ta cười:
- Em chỉ nhờ nói dối!
Anh này chẳng có thăm nuôi cũng như quà, nhưng nhờ có sức khỏe anh làm “tà loọc” cho một anh Trung Tá, đủ no!
Cả trại mấy bữa nay đồn rầm về câu chuyện tình của Ánh, nghe giống hệt tiểu thuyết. Ánh, con trai duy nhất của nhà văn Hoàng Đạo. Ánh trông hiền lành, khá bảnh trai. Cách đây mấy bữa, anh được gọi thăm nuôi. Sau khi thăm nuôi về, anh xách một túi nhỏ, có vài kí gạo, mấy chiếc bánh chưng và một chiếc áo bông. Anh em xúm lại hỏi, ai thăm mà có ít đồ vậy? Ánh cười, nói:
- Đây, một cán bộ cao cấp, cũng là đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam cho!
Anh em trố mắt, nghĩ rằng Anh đã tìm được “gốc” để che chở, chắc sớm được về. Nhưng Ánh tiếp:
- Tôi có quen biết gì đâu? Hắn nói mới vô Nam thăm vợ tôi, vì khi còn nhỏ, hắn đã yêu vợ tôi. Nhưng từ ngày nàng có chồng, hắn đành ôm mối tình tuyệt vọng. Sau này, hắn được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Việt Nam và được cử đi học tại Liên Xô. Trước khi đi, hắn được Đảng chọn cho một cô vợ quê mùa, nhưng cũng là Đảng viên, đã đạt nhiều thành tích Cách Mạng! Tuy không yêu người nữ Đảng viên ấy, nhưng trước kỷ luật của Đảng, hắn đành tuân theo, trong thâm tâm vẫn mang hình ảnh người con gái cùng phố. Mối tình đó, hắn ấp ủ trong tim mấy chục năm rồi. Đến nay giải phóng miền Nam, từ Liên Xô nghe tin, hắn muốn trở về nước ngay, nhưng chương trình học chưa xong, phải chờ mấy năm sau. Về đến Việt Nam, nghe tin vợ tôi còn ở lại, chưa di tản qua Mỹ, hắn vội vào tìm và đã gặp vợ tôi mỗi ngày.
Nói đến đây, có lẽ tức qua, anh văng tục:
- Đù má nó, trong lúc mình đang ở tù, nó lại đến thăm vợ mình mỗi ngày, để nhắc nhở kỷ niệm, thế là cái đếch gì? Đéo ai cần nó đến? Sau một tuần lễ, hắn ra lại Hà-nội, tìm đến nhà người yêu cũ của tôi, trước cũng ở cùng phố. Cô gái ấy tôi yêu trước khi lấy vợ, sao hắn cũng biết? Hắn đến nhà cô ta, cố xin một kỷ vật. Nàng nghèo quá, vì mấy chục năm sống dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, con cái đầy đàn, lấy gì cho? Nàng đành gửi tặng tôi chiếc áo bông cũ.
Nói đến đây, anh giơ cao chiếc áo bông dài, bạc phếch.
- Hắn còn nói: Tôi biết, khi còn nhỏ anh và K. yêu nhau, nhưng gia đình cản trở, chứ không tại hai người. K. đến nay vẫn yêu anh, cũng như tôi vẫn yêu X. vậy! X. là tên vợ tôi, các ông nghe có lọt tai không?
Tuy nói vậy nhưng sáng hôm sau đi lao động, trời chớm lạnh, Ánh mặc chiếc áo bông dài đàn bà xúng xính, trông chả ra làm sao cả!
Câu chuyện đến đây chưa hết, hơn tháng sau, tên Đảng viên đến thăm Ánh lần nữa, lại mang cho Ánh dăm ký gạo, cùng vài thứ lặt vặt khác. Hắn cho biết mới ở trong Nam ra sau chuyến công tác. Vợ Ánh vẫn khỏe mạnh, đang sửa soạn ra thăm nuôi! Lần này, khi trở vô trại mặt Ánh đỏ gay như chưa qua cơn tức giận.
Buổi trưa qua, tên cán bộ Buồng mang xấp thư vô, đưa cho Buồng trưởng gọi từng tên để phát. Từ đầu năm đến bây giờ gần hết tháng 9, mới được phát một lần thư. Sau khi mở ra xem, có cái đề từ tháng 1, tháng 2. Cái sớm nhất cũng đề tháng 5. Chúng tôi nghe nói tất cả thư từ gửi cho tù đều phải qua hệ thống kiểm duyệt gắt gao từ Hà-nội. 10 thư gửi đi, may ra nhận được 1, 2. Do đó, những gì cần biết, đều mất hết thời gian tính! Trong Buồng tôi có anh Trúc, Hạ Sĩ I trước ở Biệt khu Thủ Đô. Sau ngày đứt phim ít lâu, tham gia vào tổ chức chống Cộng, chưa hoạt động, đã bị bắt. Anh được đưa từ Sài Gon ra thẳng đây từ đầu năm 1976. Anh nghèo lăm, phải bán phiếu quà bằng 1/2 kí lô đường. Khi nào nhận quà, anh giao hết cho người đã mua phiếu, vì gói quà tuy mang tên anh, nhưng thục tế, được thực hiện do người khác. Người mua, sau khi nhận quà, sẽ trao cho anh số đường như ước hẹn. Nhưng không hiểu sao, người mua lại tiếc, lằng nhằng không chịu trả, thế là một cuộc uýnh lộn xẩy ra. Kẻ u đầu, người sứt trán, sau ít phút quần thảo! Trúc cũng nhận được một thư nhà. Đọc xong, anh buồn xo! Buổi chiều, khi tên Bảo, Công An vô buồng soát người trốn lao động, tự nhiên Trúc khóc rống lên. Bảo hỏi:
- Sao, có gì anh Trúc khóc?
- Cán bộ thấy không? Khi trước, dù chỉ là lính, tôi nuôi nổi mẹ già, vợ và 3 con. Con tôi ăn học đàng hoàng. Nay dưới thời Cách Mạng, tôi đi tù, vợ tôi làm không đủ sống, các con tôi đi đẩy xe bò từ 4 giờ sáng. Mẹ già không ai nuôi, nhà cửa lại bị cháy ra tro bụi cả rồi!
Vừa khóc, vừa nói, thật thảm thương. Tên Bảo an ủi:
- Này anh Trúc, dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, không phải chỉ có gia đình anh như vậy đâu. Ngay ở miền Bắc này, cũng không thiếu gì trường hợp như vậy. Thôi, nín đi!
Nhưng Trúc vẫn khóc không dứt! Sở dĩ Trúc được nghỉ lao động từ mấy tháng nay vì bị té ở hiện trường, trẹo khớp xương hông. Chính thực bệnh chẳng có gì, nhưng dễ đóng kịch, do đó, được nghỉ dài hạn. Trúc cứ tập tểnh suốt ngày ra vô. Thông cảm với hoàn cảnh Trúc, anh em mỗi người giúp vài đồng làm vốn buôn bán lia chia, để kiếm lời có tiền gửi về cho vợ con! Kể cũng lạ, trường hợp này hiếm có, vì trong giai đoạn này, người ở ngoài nuôi tù, chứ tù làm cách nào nuôi người ở ngoài? Sự việc này cũng giống như hồi chưa được thăm nuôi, tù gầy ốm, người thăm nuôi mập mạp, nhưng sau vài lần đi lại, từ Nam ra Bắc, từ Bắc vô Nam, người đi thăm nuôi gầy rạc, tù được nuôi, lần hồi mập lại!
Hồi gần đây, ngày nào trại cũng bán rau tươi, do tên tù hình sự phụ trách. Nó bận áo vét-tông, đi giầy da, mồm ngậm “thuốc có cán”, trông ra dáng phong lưu. Sự buôn bán này chính thực, điều động bởi vợ viên trung tá Trưởng Trại nhằm kiếm lời. Tôi đang mua rau bỗng có tên Công An hạch hỏi:
- Ai cho anh mang rau vào trại bán?
Tên tù hình sự đủng đỉnh trả lời:
- Ông ơi! con bán cho “Bà” đấy! Các tỉnh biên giới vui lắm đó, ông ạ!
Nói xong nó cười mỉa mai! Tên Công An giận tím mặt, nhưng chẳng dám làm gì! Cách đó ít lâu, một hôm, tôi nhìn thấy tên tù hình sự này, chân đi đất, mặt mày ngơ ngác, khăn gói đi vào nhà tù hình sự như các bạn nó, chứ không còn nghênh ngang bận áo vét-tông, đi giầy cồm cộp, mồm ngậm “thuốc có cán”, vênh váo như mọi hôm!
Ỏ trại lúc này có phong trào buôn bán, đổi chác, ai có dư muốn bán, ai thiếu muốn mua, thứ gì cũng có.
Mỗi buổi trua, một anh, trước là công chức cao cấp ở Bộ Thông Tin, lén đi liên hệ các buồng để mời mua hoặc bán. Nào gạo, mì ăn liền, bột ngọt, xà- bông, thuốc tây v.v... Bao giờ anh ta cũng có câu chào mở đầu:
- Bonjour mes amis, comment allez vous? Aujourd’ hui nous avons des médicaments, du riz, 1 paquet 100gr de Glutamate Monosodium et nous avons aussi du tabac Laotien “3 no 8”. Et, alors, mes amis, voulez vous acheter quelque chose? Aha, Aha! Chào các Bạn, mạnh khoẻ cả chứ? Hôm nay chúng tôi có thuốc tây, gạo, bột ngọt và chúng tôi cũng có thuốc lào “3 số 8”. Vậy, các bạn, có ai muốn mua thứ gì không? )
Cứ như vậy, trưa nào anh cũng đi khắp 16, 17 buồng để buôn bán lia chia, kiếm lời. Nghe đồn, anh đã có một số vốn khá lớn. Trúc cũng vào nghề buôn bán lia chia với số vốn $10. Nhưng nhờ anh em thương, mua giúp, nào trứng, nào rau, hành tỏi, ớt, chỉ trong vòng 2 tháng sau, số vốn của anh đã lên tới bạc trăm.
Buồng nào cũng có người buôn bán, đổi chác. Chính vì thế, nên quân bình được nhu cầu đời sống của tù. Nhưng không phải ai cũng làm được như vậy. Có người buôn thua, bán lổ, thiếu nợ tùm lum! Khi trại cho thăm nuôi, vấn đề đun nấu được đặt ra. Trại cho lấy củi 2 ngày trong tuần: buổi trưa thứ Ba và thứ Sáu. Lần đầu, mỗi Đội, tụi Công An cho 4 người gánh củi. Lâu dần rút lại còn 2, rồi 1. Một người không được gánh mà phải vác. Khi vác, phải vác một mạch từ cổng trại vô đến buồng mình ở, không được rơi vãi, nếu bị đứt dây hoặc vác không nổi, bỏ xuống nghỉ, bị tịch thu. Khi bị thu như vậy, anh em gọi là “thua”. Cũng vì lý do đó, anh em phải chọn những người thật khỏe để lo vác củi. Mỗi Đội trung bình 50 người, mỗi người lấy 5 kí củi, thành 250 kí. Như vậy một người phải vác trung bình 2 tạ rưỡi củi, từ cổng trại đến buồng, dài ngắn tùy theo nơi ở, nhưng xa nhất khoảng 300 thước.
Lao động đã mệt, nay lại vác nặng và cồng kềnh như vậy, nhiều anh té quỵ ngay bước chân thứ nhất qua cổng, như vậy “thua”. Cái hoạt cảnh này làm cười ra nước mắt, cứ diễn ra như một sỉ nhục định kỳ, mồi tuần 2 1ần.
Vấn đề thăm nuôi vẫn điều hòa và những tin đồn vẫn phấn khởi. Thời gian thăm nuôi vẫn tùy theo trường hợp được Ban Giám Thị ban phát đặc ân, nhưng thường thường là 2 tiếng. Có người vợ đi từ Nam ra Bắc chỉ mang theo 1 lon gạo, muợn nồi nấu cơm. Hai vợ chồng ăn với nhau một bữa, rồi anh lại vào tù, em lủi thủi trở về bằng dòng nước mắt tủi hờn! Có người ra thăm chồng mang theo đứa con nhỏ. Trong lúc hai vợ chồng đang to nhỏ những lời nhớ thương đằm thắm, qua những giọt lệ ngắn dài, bỗng đứa bé nắm tay bố nói: “Bố ơi, ở nhà mẹ đẻ em bé xinh lắm!” Anh bố bất chợt nghe câu đó, sững người, nhìn hết vợ đến con một lúc, rồi bỏ về trại, không mang theo quà thăm nưôi. Chị vợ ôm mặt khóc ngất! Trong khi đó, người chồng mới của chị, đang ngồi chờ trong chiếc xe vận tải, tay cầm chiếc mũ két giơ ra ngoài, để tù lao động gần đấy muốn gửi “thư chui”, cứ bỏ vô, anh mang về Nam gửi dùm. Sở dĩ chuyện này vỡ lở, cũng do các bà đi thăm nuôi nói lại.!
Chiều nay, tôi lại được gọi thăm nuôi. Vợ tôi cùng hai em và người anh ruột đến thăm. Cũng hôm đó, có vợ của Ánh và gia đình Đại Tá Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Dù bị bắt tại mặt trận Hạ Lào năm 1971. Chị Ánh năm nay chừng ngoài 40, khá xinh đẹp. Tôi nghĩ bụng tên Cộng Sản mê chị cũng có lý lắm. Ánh giới thiệu vợ với tôi, khi tôi đang đứng nói chuyện với Đại Tá Thọ. Chị Ánh cười, nụ cười hồn nhiên, đôi môi đỏ hồng mầu mận chín. Hàm răng đều trắng muốt lấp lánh qua ánh sáng. Chị quả thực vừa có duyên, vừa đẹp. Tôi chỉ dám nghĩ đến như vậy. Vợ tôi kéo tôi đến chiếc bàn để nói chuyện gia đình. Tên Công An ngồi ở chiếc bàn kê gần đấy. Căn phòng thăm nuôi hôm nay đầy người. Vợ chồng tôi đưa nhau đến nơi đầu bàn, còn vừa hai chỗ để dễ nói chuyện. Sau hơn 4 năm xa cách, vợ chồng nhìn nhau bằng những con mắt tràn ngập xót thương. Chúng tôi đã quá tuổi để có thể làm những cử chỉ vồ vập nhằm thổ lộ nỗi nhớ thương như những người còn trẻ. Vợ tôi đưa chiếc khăn nhỏ lên lau nước mắt. Anh và các em tôi cũng vậy. Tôi nói:
- Chúng ta không có nhiều thì giờ để khóc. Hãy nói chuyện nhà đi. Có những gì thay đổi sau 4 năm “đổi đời “?
Vợ tôi, nói nhỏ cho nghe tất cả những gì đã xẩy ra. Sở dĩ đến hôm nay mới ra thăm được vì tụi Công An quận không chịu cấp giấy phép, sau phải mất $300 mới có đó. Tụi nó cứ chê mình thối nát, tham nhũng, nay nó bằng trăm! Chúng tôi vừa nói, vừa coi chừng tên Công An phụ trách thăm nuôi! Vợ tôi còn lo cho đứa con gái út vượt biên, hiện nó đang ở Pulau Bidong, thằng con trai trốn trại vượt biên, bị bắt, nhưng nó lại trốn thoát lần nữa!
Thời gian qua đi rất mau, chưa nói hết chuyện, tên Công An nhắc: hết giờ! Vợ chồng, anh em tôi, nắm chặt tay nhau, chẳng muốn rời. Đại Tá Thọ và Ánh cũng chia tay với gia đình họ. Tôi và Ánh xếp đồ vào chiếc xe “cải tiến”, chiếc xe bò nhỏ, làm toàn bằng sắt, kéo rất nặng, kêu lọc cọc trên mặt lộ đá. Tôi có ấn tượng như nó đang nghiến nát từng mảnh đời của mỗi chúng tôi xuyên qua những ý nghĩ thầm kín của mỗi người gói trọn trong đáy sâu lòng mình không hề than thở! Đêm hôm ấy, tôi mất ngủ! Một đêm trắng trôi qua với những hình ảnh thoáng hiện, thoáng mất trong đầu. Bây giờ tôi nằm đây, trong cái nhà tù này, bốn bề quây kín bằng những bức tường đá, những chiếc chấn song sắt, mầu vôi trắng không còn nữa, nó biến thành 4 bức tường máu rệp, thâm xịt. Vợ tôi và anh em tôi, giờ này đang thức hay ngủ nơi căn nhà thăm nuôi, cách xa tôi khoảng trên 1 cây số. Tôi ngồi dậy, nhìn qua chấn song. Ánh trăng bên ngoài sáng lắm, tuy không nhìn thấy trăng, chỉ có làn ánh sáng dịu dàng tỏa xuống nơi chiếc sân rộng, làm lòng tôi dịu xuống. Cái hoàn cảnh khốn khổ này, tôi đang gánh chịu cùng hàng trăm ngàn người tù và 25 triệu đồng bào miền Nam, cũng chỉ vì sự quyết định lầm lỡ của một vài người, và cũng vì tham vọng của một số người khác. Tụi Cộng Sản thường cho chúng tôi, thuở trước được hưởng “đặc quyền, đặc lợi”. Nhưng Cộng Sản nói vậy là vơ đũa cả nắm, chứ đâu phải hễ sĩ quan là được hưởng đặc quyền, đặc lợi? Trong Quân đội Miền Nam, sự thực có nhiều Hạ Sĩ Quan và binh sĩ, có uy quyền hơn sĩ quan nếu họ có “gốc lớn”!
Tôi thầm tiếc mấy ngàn cuốn sách đã bị “hiến” trong đợt đánh văn hóa đồi trụy. Còn những “tin thăm nuôi” đều không đúng, vợ tôi khẳng định! Anh em hồi chiều có hỏi, vì không muốn để anh em tuyệt vọng, tôi chỉ cười không xác nhận, cũng chẳng phủ nhận.
Sáng hôm sau, tôi được nghỉ lao động, như mọi lần thăm nuôi, để thu xếp quà bánh. Theo lệnh chung, tất cả quà phải để ở ngoài, không được mang vô “chuồng”. Cũng vì để ở ngoài, nên sáng nào cũng có anh em kêu mất đồ, do tụi Công An đi tuần lấy cắp. Thường chúng chỉ lấy sữa và bánh. Lon sữa và giấy bao, vứt ngay dưới chân tường. Dù thùng có khóa hay không cũng vậy! Ban đêm, tù nào được ra? Chắc tụi Công An cũng đói lắm, nên một buổi lao động, trong lúc giải lao, tên thiếu úy Quản giáo đã than thở:
- Các anh không biết đấy chứ? Được hai chữ “anh hùng”, nhưng đói bỏ mẹ! Các anh đói còn có gia đình thăm nuôi, chúng tôi, đói đành chịu! Muốn may một chiếc sơ-mi phải để dành 5 tháng, không dám tiêu phí đồng nào. Muốn mời anh em bữa cơm, phải để đành tiêu chuẩn cả tháng! Sung sướng nỗi gì đâu mà ham! Tôi chỉ mong “các ông nhà nước” nghĩ lại cho dân nhờ. Chứ kéo dài, chắc chết quá!
Tôi ngạc nhiên, khi thấy một cấp sĩ quan Công An lại nói với tôi bằng luận điệu mất lập trường như vậy? Nhưng càng ở lâu, tiếp xúc nhiều, mới biết tụi Công An trừ một số trung kiên cuồng tín, còn phần đông, tuy không nói ra, nhưng tinh thần đã chao đảo, nếu có cơ hội, sẵn sàng bỏ Đảng và Nhà Nước, để mưu cầu quyền lợi riêng của cá nhân!
Quanh quẩn mùa lạnh lại tới! Mùa lạnh nay, mùa thứ tư tôi gánh chịu tai miền Bắc, và là mùa thứ hai tại trại Nam Hà. Gió thổi hun hút, đêm nằm đã đắp mền, đi làm phải mặc áo ấm! Lao động vẫn đều đều, thỉnh thoảng lại đi trốn khi có “khách” tới thăm trại. Cái gì mãi cũng thành quen, ngay cả chuyện điểm nghiệm. Các Đội đi làm về, bị khám đã đành, có Đội vừa ra khỏi trại bị gọi đứng lại, chờ. Khi các Đội đi hết, Đội đứng lại, được lệnh, mỗi người đứng cách nhau 1 thước, để múa điệu “phượng hoàng”. Ngoài việc xù đầu, há mồm, lần lưng, móc túi như thường lệ, mọi người còn phải tụt quần, chổng mông cho tụi Công An nhòm xem có gì dấu nơi hậu môn không? Mỗi lần khám đột xuất như vậy thế nào cũng có người mất thư, mất tiền, lúc về còn phải làm kiểm điểm! Anh em đi làm, thường mang theo thư, để nhỡ khi gặp bà con thăm nuôi là gửi chui. Sau này tụi Công An có nhận gửi thư chui, lđ/1lá. Nhưng thư chỉ gửi đi, chứ nhận thì không! Sự khám xét nghiêm ngặt như thế, không hiểu sao, anh em trong Buồng, vẫn có rượu uống! Rượu trong tù quý lắm. Có chút “nước mắt quê hương” để tiêu sầu giải buồn cũng đỡ khổ. Chiều ngày 24-12, lúc đi làm về, tụi Công An trực khám rất kỹ. Đêm nay Noël, tụi nó tăng cường an ninh, đầy Công An vũ trang. Nhưng không phải Đội nào cũng bị khám, chỉ riêng những Đội có tên trong “sổ đen” thôi! Chiều hôm đó tất cả mọi bi-đông và lon gô thuộc Đội tôi, đều phải mở nắp, đổ hết nước. Mọi người đi qua mặt tên Công An phải dốc ngưọc lên, chứng tỏ không có gì bên trong. Khám như vậy quá kỹ, làm sao lọt được. Nhưng sự thực rượu không đi qua ngả đó, nó được chính Công An đưa vô cho tù uống, lẽ dĩ nhiên giá đắt. Đêm Giáng Sinh, vị Linh Mục cũng tổ chức thánh lễ. Tiếng cầu kinh lầm rầm, âm u trong kích thước không gian tù ngục, nghe nó buồn thảm lam sao! Trong thời gian làm lễ, có người canh gác, phòng khi tụi vũ trang đi tuần, thì báo động kịp thời, lúc đó buổi thánh lễ trở thành cuộc nói chuyện vui.
- Ê, sao giờ này mấy anh chưa ngủ? kẻng lâu rồi!
- Dạ, đi ngủ ngay đây, cán bô!
Tuy nói vậy, nhưng anh nào vẫn ngồi chỗ đó, chờ tụi nó đi khỏi, lại sinh hoạt như cũ. Đêm Noël trong trại tù Nam Hà làm tôi nhớ đến đêm Noël tại Suối Máu. Cha và con chiên bị đuổi bắt, chạy như vịt.
Tinh thần anh em nói chung đã khá hơn những năm đầu vì thấy thời gian ấn định 3 năm đã trôi qua lâu mà ánh sáng cuối đường hầm chưa bật! Anh em đã đoàn kết và dám chống trả với áp bức của những tên Công An ác ôn. Khi cần, anh em đã biết bảo nhau cùng “xù”. Một bữa, có một anh, không hiểu sao bị tên Công An lao động trói. Anh em toàn Đội phản đối bằng cách “xù” không làm việc. Tên nay tức quá, tập họp lại nói:
- Anh nào chống đối lao động ra khỏi hàng!
Không ai nhúc nhích. Nó tiếp:
- Anh nào chịu lao động, ra khỏi hàng!
Cũng không ai nhúc nhích. Nó không biết giải quyết làm sao, cứ đứng la lối. Vừa lúc ấy, có Công An “cấp cao” đi qua, hỏi chuyện gì? Đội trưởng nói nguyên do. Tên Công An nghe xong, giải thích, không nên lãn công như thế, vi phạm nội quy, chống đối chính sách, đường lối của Đảng và Nhà Nước, làm vậy nguy hiểm. Có gì nên trình “Trên” để giải quyết.
Nói xong, nó đến mở dây cho anh bị trói! Hôm sau, tên Công An quản lý lao động bị thay thế! Nhưng vẫn có những tên tù khốn nạn, cho đến phút này, vẫn chưa chịu mở mắt, như tên Cang. Hắn, mang cấp Thiếu Tá, giải ngũ từ lâu, đi làm cho hãng ESSO, hắn đi tù vì can tội vượt biên. Hắn dám mở miệng nói với tên Công An Buồng những câu như:
- Thưa cán bộ, nếu được sự khoan hồng của Đảng và Nhà Nước tha cho về sinh sống với vợ con. Khi qua Hà-nội, thế nào tôi cũng xin phép, để được đến tận “Lăng Bác” tạ tội, vì sau mấy chục năm làm tay sai cho Mỹ Ngụy, đã gây nhiều thiệt hại cho Cách Mạng, cho nhân dân. Đáng tội chết lắm, nay được tha xin đến tạ tội, cầu mong “Bác” tha thứ!
Khi lao động, nếu cần, hắn thọc tay vào hố phân moi lên chứ không cần vá! Chính vì có những tên tù thiếu nhân cách như vậy, nên tụi Cộng Sản mới khinh chung cả lũ. Thục tế, tên Cang có sợ Cộng Sản thật hay không, chỉ riêng hắn biết, nhưng dù sao những lời nói và hành động đó quả thực không đẹp đối với một con người, dù con người thua trận!
Mùa lạnh đá thực sự biểu dương uy quyền của mình bằng những ngày và đêm dài mưa gió triền miên. Mưa làm cho đường lầy lội, trơn trợt. Nơi hiện trường bùn đất bẩn thỉu, nhưng mưa không đủ lớn để nghỉ. Một loại mưa làm đẹp cảnh vật. Gió thổi như tạt vào da thịt từng xô nước đá. Nắng khổ đàng nắng, mưa khổ đàng mưa. “Nắng không ưa, mưa không chịu” ở cảnh ngộ này quá đúng!
Lao động khổ sai, hơn 4 năm rồi, còn bao lâu nữa? Sức người có hạn, nên nhiều anh em phải chuyển ra Mễ, một trại gần Phủ Lý chuyên nhốt tù bệnh nặng, ngoài khả năng chữa trị của Bệnh xá Nam Hà! Tù có đủ mọi loại bệnh, nặng có, nhẹ có. Nhưng dù nặng, dù nhẹ cũng phải có thuốc chữa, thuốc ở đây lại hiếm như vàng.
Căn buồng tôi ở, sát ngay bệnh xá, từ trên lầu, có thể nhìn sang dễ dàng. Tên tù hình sự ở đây cũng là một y tá, can tội buôn chui thuốc tây bị tù, nhưng các “tu-bíp” cứ nhất định gọi là bác sĩ. Nó nuôi một con khướu trong chiếc lồng treo nơi hiên Bệnh xá. Chẳng biết con khưóu bị nhốt từ bao giờ, thỉnh thoảng nó cất tiếng hót lảnh lót, réo rắt, quyến rũ! Mỗi trưa, có con khướu mái, mồm ngậm con mồi, chờ đến khi cửa “chuồng” Bệnh xá khóa, nó mới bay tới mớm cho con khướu trống. Trưa nào cũng vậy, tôi quan sát cả tuần, và mỗi chiều, con khướu mái đậu trên nóc nhà tù, đối diện với chiếc lồng khướu. Nó nhìn bằng con mắt buồn bã về phía “người tình”. Qua hình ảnh đó, tôi thầm nghĩ đến nhiều người đàn bà miền Nam trong giai đoạn này, cũng cùng cảnh ngộ với con khướu, tuy không được ở gần, nhưng tình cảm luôn luôn hướng về người chồng đang lâm vòng tù tội. Nhưng cũng có người, nhân dịp này phụ rẫy chồng con, đi theo tiếng gọi của vật dục, thỏa mãn thú tính. Loại đàn bà thứ nhì này, không bằng súc vật!
Trong buồng tôi, có 4 anh, nuôi 4 con chim khác nhau. Một con sáo, 1 con chích chòe, 1 con chào mào và l con cuốc.
Con cuốc được nuôi trong chiếc lon ghi-gô, có châm lỗ ở hai đầu, nó được đặt tên: Anh hùng Phạm Tuân phi hành gia, đi dép lốp lên tàu vũ trụ! theo thơ của Tố Hữu. Cuốc là loại chịm lủi rất nhanh, nếu buộc không kỹ, nó thoát được, rất khó bắt lại. Nó vừa biết bay vừa biết bơi, đôi giò cao lênh khênh như hai chiếc “cà kheo”. Hàng ngày nó theo chủ đi lao động.
Còn 3 con chim kia thì con sáo và con chào mào rất thân nhau. Mỗi lần con chào mào bay lượn như chiếc trực thăng để săn mồi, khi săn được mồi, thường nhường cho con sáo ăn. Vì bị cắt cánh, nên sáo không bay cao và xa đươc, nhưng nó rất khôn ngoan. Một hôm có anh tù loay hoay đang thái miếng thịt vừa mua đươc, nó lỏn từ phía sau đớp một miếng xong chạy. Anh kia cầm que đuổi cùng sân, cả giờ vẫn không sao lấy lại được, đành mất. Mỗi buổi trưa, nó chờ có ai phơi mùng bắt rệp, nó mổ rệp ăn ngon lành. Mỗi chiều anh em ngồi chờ điểm số vô “chuồng”, nó cũng đứng chờ. Khi tù vào, nó nhẩy theo, chui vô chiếc lồng đã để ngỏ cửa sẵn. Nếu tù chưa vô, đố ai bắt được nó vô lồng! Còn con chích chòe, mỗi tối lại tự nhẩy lên khuôn cửa sổ trên cao, đậu trên chiếc chấn song, sáng nào cũng hót líu lo, như báo thức mọi người.
Nhưng một buổi, con chào mào đang đậu trên bờ tường cao, một anh ở buồng khác nhìn thấy, tưởng chim trời, cho một gậy, chết tốt. Nếu chim trời thực, làm sao anh kia đập được nó? Con cuốc cũng sút dây lủi mất. Con sáo cánh mọc đã dài, bay luôn. Con chích chòe cũng vậy! Không biết có nên tin dị đoan không, từ ngày mất 4 con chim đó, buồng tôi luôn luôn gặp chuyện không may, hết chuyện này đến chuyện nọ. Nào khám xét bắt bớ lung tung, anh em trong buồng cãi lộn! Nhưng một khi đã sống dưới Đáy Địa Ngục rồi, chuyện gì xẩy ra cũng vậy thôi! Tù sướng ở chỗ đó, khi ở ngoài, còn sợ, khi đã bị tù, hết sợ, vì không còn hình phạt nào nặng hơn tù khổ sai không án!
Mấy bữa nay, chúng tôi được biết tin tức Thế Giới Tự Do qua chiếc radio. Lẽ dĩ nhiên, phải có sự thông đồng của tên Công An nào đó, cũng vì quyền lợi riêng tư, nó hành động! Lúc trước, khi chưa có đài, anh em đều nghe “tin thăm nuôi”, nay mỗi tối nghe 3 đài: Trung Cộng,BBC và VOA nên mọi tin tức đều xác thực, nhất là những tin về vượt biên, bao nhiêu người được cứu sống ở giữa biển Đông! Mỗi tối thứ Năm, được nghe Tuần Báo Á Châu nói về Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản. Từ lúc ấy, anh em mới hết tin Mỹ mua tù và tin thăm nuôi cũng mất hết giá trị, trừ tin trong nước. Cũng vì chiếc Radio, mỗi sáng, các phòng cử người đến buồng tôi để nghe nói lại các tin tức đêm qua, xong về phổ biến cho toàn buồng trong giờ nào thuận tiện nhất. Mỗi buổi sáng, chiếc sân trước buồng tôi đông đảo, nhộn nhịp như các buổi họp báo của Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị tại Saigon lúc trước, nói về tin tức chiến sự cho các phóng viên trong nước và quốc tế nghe. Tôi nghĩ thầm, cứ thế này kéo dài, tụi Công An họa là mù và điếc hết, mới không biết! Nhưng đúng, tụi nó mù và điếc thật, trong thời gian này. Một hôm, tên hung thần Thịnh gọi một anh trong Đội tôi lên phòng trực. Tưởng chuyện radio, anh này đã chuẩn bị mọi câu trả lời để tránh né. Nhưng không, lúc trở về mặt mày tươi rói. Anh nói cho biết, bữa nay tên Thịnh nói năng tử tế, yêu cầu anh mua dùm cặp gà, vì vợ con nó đang ốm đau, không tiền mua thuốc. Anh cười, chửi:
- Đù má nó, ngày thường hách xì-xằng thế, sao bữa nay nó nói với mình ngọt như mía lùi. Nào “anh thông cảm”, nào “vì nhiệm vụ”, chứ nó đâu muốn thế! Cái miệng lưỡi Công An ghê thật!
- Rồi ông có mua không?
- Dĩ nhiên phải mua rồi. Cặp gà gầy trơ xương, già khằn, phải trả 150 đồng, có đau không? Nhưng nhờ thế, che chở được cái radio đấy!
Trời mấy bữa nay lạnh khan. Trần mây thấp, nặng chĩu hơi nước, nhưng không mưa, chỉ có gió. Tôi nhìn lên lưng chừng núi, nhiều thân cây trụi lá trông như bộ xương khô. Mầu lá úa vàng lốm đốm đó đây như những miếng vá vụng giữa mầu xanh trùng điệp.
Bữa nay chúng tôi phải làm công tác chữa kho, gần khu tụi Công An vũ trang ở. Một đứa con gái, ngồi ngay bậc cửa vén quần gãi đùi, chiếc đùi no tròn, trắng muốt như chiếc ngà voi. Nó đưa mắt nhìn tù, con mắt lá răm nhỏ tí teo, như khiêu khích. Tôi chẳng biết nó muốn gì trong cái nhìn ấy, chỉ biết, nó cho tay kéo ống quần xuống, đứng lên đi vào, trước những con mắt thèm thuồng của lũ tù đói da thịt lâu ngày.
Tù kể cũng lạ. Khi đói chỉ nghĩ đến ăn, ngoài vấn đề ăn không còn tha thiết thứ gì kể cả đàn bà. Nhưng nay, sau thời gian được thăm nuôi, tương đối no đủ, nên đêm đêm đã bắt đầu nói đến đàn bà và những chuyện dâm dật!
Chiều qua, tù được nghỉ lao động để điều chỉnh hồ sơ. Nữ Công An, tên Liên, ngồi nơi bàn với chồng hồ sơ cao nghệu. Trông cũng dễ coi, ngực nở nang, cô mặc chiếc áo cánh, cổ may khá rộng. Từng người được gọi lên.
- Anh sanh ở đâu, năm nào, có biết bị tội gì không?
- Dạ, không?
- Tội vượt biên! Còn anh này, biết tội gì không?
- Không!
- Tội phản Cách Mạng!
- Tôi đâu có theo đâu mà phản? Tù cãi lại.
- Chống lại tức phản đó.
Tên nữ Công An gườm gườm nhìn vào anh đứng gần đó.
- Còn anh này đứng lui ra!
Anh kia cười cười thụt lui mấy bước, trong khi tên nữ Công An cho tay kéo cái cổ áo! Hành động ấy, tuy chả đáng gì, nhưng chứng tỏ vấn đề đàn bà bây giờ đã bắt đầu trở thành một ám ảnh. Ngoài đàn bà, đánh bạc! Họ sát phạt nhau mỗi tối, có khi đánh suốt sáng, mỗi đêm thứ bẩy. Có một số, hình như đã quên hoàn cảnh đích thục của mình giữa cuộc sống nhục nhã, kềm chế này! Chỉ tội nghiệp cho gia đình họ, chắt bóp dành dụm lấy tiền thăm nuôi chồng con, nay chính họ lại đang phụ rẫy cái tình thương vô biên đó, bằng cách nướng hết vào sự đỏ đen. Có anh thua đến nổi bán cả gói mì cuối cùng của chuyến thăm nuôi mới đây!
Không khí trại tự nhiên sôi động hẳn vì mới có sự hiện diện của đoàn tài tử ngành Điện Ảnh từ Hà-nội về, để thực hiện một cuốn phim của ngành Công An, mang tựa đề: Tình và Tội. Các tài tử nam và nữ, đi lượn lờ mỗi ngày, trong vòng đai Trại. Tù nhìn no mắt và có dịp so sánh với các tài tử miền Nam trước đây. Nữ tài tử chính, cũng khá xinh đẹp, dáng người dong dỏng, tầm thước.
Một buổi tối, từ trên “lầu tù”, tôi nhìn sang bệnh xá, nơi đó, tối nay được thực hiện một đoạn phim quan trọng. Nữ tài tử chính, trong vai nữ y tá, có nhiệm vụ cứu chữa cho một anh can tội giết người, cũng là người tình, bằng các thứ lá cây trồng ngay trong vườn Bệnh xá, phần nhiều, loại lá “sống đời”!
Các ngọn đèn pha bật sáng rực. Đạo diễn, kiểm soát lại lần cuối trước khi cho lệnh quay.
- Nay, sao bữa nay, ngực cô lại lép, so với lần quay trước? Tìm cái gì nâng cao lên chứ?
Nữ tài tử vơ vội mấy chiếc khăn treo gần đấy độn vô.
- Chưa đủ, thêm nữa!
Cô lại tìm quanh quẩn vài miếng vải nhồi vào.
- Chuẩn bị, quay!
Đạo diễn vừa hô xong, bỗng nữ tài tử hét to:
- Cục lương khô của em vừa để đây đâu rồi?
Nói xong, cô đứng dậy tìm. Mặt mày ngơ ngác, trước ánh đèn pha sáng rực hơn ban ngày. Tôi nghĩ, giá đoạn phim này, cần phải tập để đóng, chắc khó mà sống động như cảnh nữ tài tử đi tìm cục lương khô bồi dưỡng vừa qua. Mấy năm trước, chúng tôi cũng đã được phát những cục lương khô trên chiếc tầu Sông Hương khi chuyển ra miền Bắc quả thực, nó chẳng ngon lành gì. Điều này chứng tỏ, các tài tử miền Bắc có một đời sống vật chất không mấy khích lệ, dù đã được đãi ngộ hơn những người làm công tác khác! Tôi nghĩ đến miền Nam trước đây, phương tiện dư thừa, mà chẳng làm nên việc gì đáng giá, để đóng góp cho Việt Nam những giá trị cao thuộc bộ môn điện ảnh! Chỉ toàn phim thương mại, rẻ tiền!
Buổi tối đó, họ làm việc tới 2 giờ sáng!
Ngày Tết gần đến, anh em ai cũng nhắc nhở, Tết này phải làm gì cho khác những Tết trước. Mọi người bàn luận rất tự nhiên, coi như chuyện thường ở ngoài đời, chứ không phải trong tù. Trúc cầm bó tỏi, đi chào bán:
- Tỏi giống đây, mua ngay kẻo hết, để dành mấy bữa nấu Tết, mua không ra, lấy gì cải thiện? Mại vô, mại vô!
Trúc vừa nói, vừa lấy tay chùi bồ hóng bám bẩn đen xung quanh bó tỏi. Tôi hỏi:
- Tỏi gi, đen thui vậy?
- Bố ơi! tỏi giống đó, sáng nay tên Công An vũ trang thường đi với Đội mình lúc trước, cần tiền quá, phải bán cả tỏi giống. Nay bố xem, mỗi củ to bằng 2 củ thường, lại chắc nữa! Một đồng, 2 củ, bố mua đi!
Tôi cầm 2 củ tỏi trong tay, móc cặp quần, trả Trúc 1 đồng. Tiền, không ai có quyền giữ. Muốn giữ phải khéo giấu, nếu bị khám đột xuất sẽ mất! Sự giấu tiền có nhiều cách, nhưng cũng may rủi. Chẳng hạn có anh giấu trong thùng vôi nhà cầu, trong cuộc khám xét bất ngờ, tưởng chắc, ai ngờ nó cũng tìm ra, tịch thu. Có người buộc vào nùi giẻ vứt lăn lóc ngay miệng cống lại chẳng sao. Nhưng muốn giấu sao thì giấu, thế nào cũng bị vỡ một lần, nếu không chịu tìm ra lối mới! Tụi Công An tinh lắm, chúng được học rất kỹ về cách khám tù, nên giấu gì, cũng chỉ ít lâu sau là bật mí. Có anh cho vào lòng điếu cầy, hút ro ro vẫn bị xét thấy. Nhưng sự thực tù vẫn có ngàn lẻ cách giấu tiền, chẳng may lắm, mới bi lộ! Tôi, tuy có giấu tiền trong người, nhưng không bao giờ để quá 5 đồng!
Trại có phát hành loại “tiền bìa” dùng để mua những gì do Trại bán, nhưng chẳng ai muốn giữ vì đó là tiền giả, anh em thường gọi là tiền âm phủ. Nói cho đúng, đời sống của tụi Công An, lực lượng chính, lo về nội trị, trừ một số cấp cao, có cương vị, có môi trường để tham ô, còn chung chung, đều nghèo đói. Do đó, tuy ngoài mặt làm ra vẻ không cần, luôn luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng hy sinh cho Đảng cả tính mệnh lẫn tài sản, nhưng xét ra cũng chỉ bề ngoài, chứ họ cũng là người, cũng biết thèm muốn tất cả những gì con người hằng mơ ước, như chiếc xe đạp “ngoại”, cái đài tốt, cái đồng hồ 12 cột đèn, 3 bơi chèo, 2 cửa sổ, 2 ống khói, không người lái hiệu Seiko và chiếc bút Parker. Nhưng tất cả 4 thứ nói trên, phần nhiều, chúng chỉ có đồng hồ, loại đồng hồ cũ rích. Tụi Công An rất mê đồng hồ Seiko và Orient của Nhật.
Từ ngày chiếm được miền Nam, các thanh niên miền Bắc chịu ảnh hưởng cách ăn mặc của miền Nam. Nào quần “jin” (Jean) quần “bò” (Cow boy), nào áo ống, dép đế cao, giầy mũi tròn, mũi vuông, nên ai cũng đua đòi để có. Thậm chí, ngay bộ quần áo vàng đồng phục, có tên Công An cũng cắt may theo kiểu quần “bò”. Quần nào không có túi sau, được mua với giá cao. Có tên Công An lao động đã năn nỉ tù, có quần “bò” hay “jin” bán rẻ, để nó mang ra Phủ Lý bán lại kiếm lời! Có tên vợ đẻ không tiền mua tã lót cho con, đã nhờ tù mua giúp 1 kilô trà Bắc Thái. Trà Bắc Thái là loại trà ngon của miền Bắc, mọi người dân không ai được mang quá 100gr, chỉ riêng tụi Công An có quyền mang 1 kilô. Giá chính thức khoảng 30 đ, giá tự do 100 đ mỗi kí. Nói, không ai tin, nhưng chuyện có thật, như nữ Công An tên Nguyệt, giữ tiền thăm nuôi của tù, túng quá tiêu bừa, đến khi cần thanh toán, năn nỉ tù mua dùm con heo.
- Các anh mua dùm Nguyệt nhé! Con heo tốt lắm, Nguyệt bán cho các anh rẻ hơn người ta đấy!
Gớm, sao lúc này nó nói nghe ngoan thế, chả bù lúc không cần, nó coi tù như những tên hủi!
Xưa, khi chưa có dip chung đụng với thành phần hạ từng cơ sở của Cộng Sản, cả Công An lẫn Bộ Đội, tưởng tụi nó trung kiên, sống chết vì Đảng, cho Đảng, nay đụng chạm nhiều mới biết, tất cả đều là bề mặt. Tụi nó cũng tham ô, tư lợi, nhưng kín đáo. Trước đồng tiền, chúng nó cũng mềm yếu như ai. Do đó, tù mới có cơ hội mua chuộc để được hưởng phần nào thoải mái trong lao động cũng như lia chia mua bán linh tinh.
Mỗi sáng đi lao động, tôi thường gặp một tên tù hình sự tự giác mập lùn trông thô kệch, quê mùa mời mua bánh mì luộc, hoặc khoai, sắn. Nó được giữ chuồng heo, tôi chắc nó cũng ăn bớt phần của heo như tôi hồi nào ở Nghĩa Lộ, nên mới có bánh dư để bán. Nhưng đã 2 ngày, tôi không gặp nó. Tôi hỏi người tù nổi tiếng chuyện gì cũng biết:
- Ông ơi, sao mấy bữa nay không thấy thằng tù mập, bán bánh mì đâu nhỉ?
Anh bạn nhìn tôi ngạc nhiên:
- Thế ông chưa biết thật sao?
- Chuyện gì đâu mà biết?
- Cha mẹ ơi! thế mà cũng đòi đi tù!
Rồi anh dằn giọng:
- Thưa Bố, nó lại vào tù rồi ạ!
- Sao thế?
- Tối chủ nhật vừa rồi, Trại tổ chức chiếu ciné cho Ban Giám Thị coi. Vì là tự giác, nó cũng được coi. Ngồi gần một nữ Công An có bộ ngực đồ sộ quá. Chắc nhịn lâu ngày, chịu không nổi, nó liều, cho tay bóp vú. Cô kia kêu lên, thế là nó lại vào nằm chung với các bạn nó, sau một hồi ăn đấm đá. Hết tự giác!
Qua câu chuyện, vừa đi tôi vừa ngẫm nghĩ, thì ra con người trước dục vọng ái tình, không còn kể chi đến nguy hiểm, cũng như nó bị 30 năm tù, can tội giết vợ, chỉ tại đêm tân hôn, vợ nó nhất định không cho “động phòng” vì quá sợ cái “búa”!
Hằng đêm, ngoài chiếc radio, trong buồng còn một anh có giọng khá tốt. Mỗi tối, anh rống lên như con heo bị thọc huyết. Nhưng có anh cũng vui, không khí trong “chuồng” đỡ phần tẻ nhạt. Có một tối, đang “hét” nhạc vàng, bị Công An dọa phạt kiên giam. Sợ quá, từ đó không dám hát khuya. Tên thủ trưởng Hà Mạnh Xuyên vẫn mở máy cassette nghe nhạc vàng rầm rầm mỗi sáng, nơi khu nhà nó ở. Tiếng hát của Lệ Thu, Thanh Thúy, Thái Thanh, Khánh Ly vẫn nức nở nghẹn ngào, ngân dài giữa cảnh núi rừng ảm đạm, giữa không khí ngột ngạt của trại tù đói khổ. Nhưng nó nghe thì được, tù hát tụi nó cấm, đó là cái quyền kẻ mạnh. Nhạc vàng có nhiều ca khúc hay, nhưng cũng chỉ hát để nghe chơi cho khuây khỏa. Nó ướt át lê thê làm não lòng, đã buồn lại buồn hơn, đã chán lại chán hơn. Nó chẳng mang một ý nghĩ nào thiết thực cho đời sống trong tù, cần một khích động, một cổ võ để giữ vững ý chí đấu tranh, cuộc đấu tranh tuy âm thầm nhưng cần phải có như các ca khúc của Vũ Hồng, thuộc Đội 20 sáng tác, mang nội dung trầm hùng, tạo nên xúc cảm mạnh, mỗi lần cất giọng.
Này em, anh không quên đâu những ngày tù tội
Này em, anh không quên đâu những ngày tăm tối
Anh chết hôm nay, cho ngày mai em ngửng mặt
Anh chết hôm nay, ngày mai Tổ Quốc vinh quang.
Mỗi lần tiếng hát cất lên, tự nhiên máu trong người như xốn xang, có cảm tưởng như mình sống lại cái thuở nào hào hùng, bất khuất!...
Tết đã đến. Năm nay, tù được nghỉ từ ngày 26 tháng chạp. Trong những ngày nghỉ trước Tết, ngoài chuyện tắm giặt, anh em dùng thì giờ thừa thải để viết “thư chui” về thăm gia đình. Như thường lệ, trại lại cho tù một chiếc bánh chưng và ngày Tết được ăn cơm trắng với thịt heo, thịt trâu, dưa hành, nước chấm v.v... Vì quá quen thuộc, nên chẳng ai hy vọng có thể khá hơn. Năm vừa qua, trên thực tế, trại có thả về vài người trước Tết. Vài người đó, theo như tin đồn, toàn những người có thân nhân làm việc, hoặc theo Cộng Sản từ lâu. Có người, bố là “liệt sĩ”! Hôm đọc danh sách, có trên 100 người được tha chung cho toàn khu. Riêng trại Nam Hà, có chừng hơn 10 mạng, đúng là những người trúng số! Nhưng thà có, còn hơn không. Tên Huy, phó trại nhấn mạnh, rồi tuần tự mọi người sẽ đến lượt. Nhưng con số trên dưới 2,000 tù, mỗi lần thả trên 10 người, tính ra nếu sống hết kiếp này, đầu thai kiếp khác, lại ở tù từ lúc mới lọt lòng cho đến năm 60 tuổi, họa may mới tới lượt mình! Vì quá thất vọng, nên chẳng ai cần chú ý đến sự được tha hay không? Cái đời tù tội khốn nạn thật đấy, nhưng nó không hoàn toàn vô ích, nếu con người còn có tinh thần đấu tranh, coi đây chỉ là nơi rèn luyện ý chí, chờ ngày quật khởi. Nhưng nó cũng hoàn toàn vô ích, nếu con người sống buông xuôi, cam phận, chỉ mong đến ngày được tha, trở về sum họp với vợ con, sống nốt quảng đời thừa, như con vật chỉ ăn rồi ngủ, làm ái tình cho khuây khỏa! Nếu quả đúng như vậy họ chỉ là những xác chết chưa chôn, thì dù ở tù hay thả ra, họ cũng chẳng giúp gì cho gia đình, xã hội và Tổ Quốc! Số người này không hiếm trong những nhà tù mà tôi đã trải qua. Có vào tù ở chung đụng với nhau, mới biết cái lý do thua đã quá rõ ràng, không thể chối cãi! Càng cấp lớn càng hèn, càng sợ sệt! Nếu họ có hành động hèn hạ, khúm núm trước mặt những tên Công An và Bộ đội, nếu chỉ nhằm mục đích mưu cầu tư lợi cũng không sao, miễn họ đừng bán xác anh em là được! Tôi biết con người không phải thần thánh. Vì muốn tránh kéo dài sự ô nhục, nên tôi mới quyết tâm dùng 48 viên độc dược mong tìm giải thoát nhưng định mệnh không cho. Chiều nay, chiều cuối năm, tôi tự kiểm điểm những gì mình đã nói, đã làm trong hơn 4 năm tù đày gian khổ. Nếu sống trong tù, anh không khôn ngoan để tự cứu, thì chính anh tự hủy diệt đời sống một cách vô ích. Còn anh, nếu khôn ngoan quá, chỉ nghĩ tới mình, tạo ra những “cái nhân” không tốt, thế nào cũng lãnh hậu quả không hay. Thân sẽ bại, danh sẽ liệt. Kể cả Tướng Tá! Vì sự phán xét sẽ không thuộc về thế hệ họ, mà thuộc về thế hệ tương lai, khi nhìn về quá khứ để tìm hiểu!
Năm nay, anh em ăn Tết khá hơn những năm trước nhiều, chẳng phải vì nhờ Trại nuôi, mà đích thực gia đình vợ con đã cung cấp, đã hy sinh hết cho người ở tù. Khi trước, một mình họ vào sinh ra tử, nuôi gia đình, nay họ thất thế, gia đình nuôi lại. Có lần, tôi thấy những em bé 14, 15 tuổi cũng tay xách, nách mang ra thăm bố vì mẹ đang bị bạo bệnh. Tôi thấy có người vợ trẻ măng, tay ôm gói nhỏ ra thăm chồng. Có những bà mẹ già chống gậy đến thăm nuôi con. Nhưng cảnh thăm nuôi làm tôi cảm động nhất vẫn là cảnh người vợ quá nghèo ra thăm chồng chỉ mời nhau ăn 1 lon gạo rồi về và trường hợp em gái và em rể của nhà thơ Thế Hoài, khi được phép ra thăm anh, sau hạn phạt, mang được đôi vịt, khi qua phà, loay hoay thế nào để đôi vịt nhảy xuống sông bơi mất! Còn nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh, mỗi lần nhận được quà lại mang bán đi, lấy tiền gửi trả về cho vợ con vì anh cho rằng ăn uống trong tù như vậy đủ rồi!
Mỗi người, một hoàn cảnh, dù vui, dù buồn, đã tạo nên cái không khí rất đặc biệt của tù chính trị, khác hẳn với tù hình sự. Tù hình sự sống bê bối lắm, có “tù trưởng” tức tay anh chị trong tù, do Công An cho phép dùng tù trị tù. Một mình nó nằm 2 chiếu, trong khi các tù khác được 2/3 chiếu là nhiều. Mùa nóng đàn em thay phiên nhau quạt cho nó ngủ, mùa rét nhường mền. Ai có thăm nuôi, phải đưa nó khám, sau khi Công An đã khám. Thứ gì ngon nó lấy. Nếu không, người có quà đừng hòng ăn. Nó đánh nhừ tử. Tôi đã chứng kiến “tù trưởng” đánh đàn em chết ngất. Tên Công An phải vào can thiệp chỉ vì tên này có nhận quà thăm nuôi lại đem gửi ở đồn canh, không đưa vô buồng. Tù hình sự mỗi lần nói với Công An đều phải “Bẩm ông” và xưng “con” chứ không như chúng tôi, gọi Công An cũng bình thường, đôi khi còn nói cạnh khóe “chèo nọ, chèo kia” nữa! Có lần, mấy năm trước, một sĩ quan xưng “em” với tên bộ đội, bị anh em xỉ vả quá, từ đó không ai dám nói. Các trại khác thì tôi không biết thế nào!
Cộng Sản tổ chức rất nhiều trại giam ở các miền Bắc lẫn miền Nam. Những người bị đưa ra Bắc thuộc loại A, tức loại nguy hiểm! Trong loại A lại chia thành 2 loại: tối nguy hiểm và nguy hiểm! Có lẽ, tôi thuộc loại tối nguy hiểm, nên từ khi ra Bắc có đợt di chuyển nào, bao giờ cũng có tên trong đợt đầu. Nhưng xét cho cùng, cũng vậy thôi, nguy hiểm hay không, đều tù như nhau, có khác gì?
Mấy tối nay, anh em nghe đài, có nói đến vài bài ca của những nghệ sĩ sáng tác bên trời Mỹ. Anh em vô cùng xúc động khi nghe thấy tiếng hát của Khánh Ly, Lệ Thu và Nguyệt Ánh, một nữ nghệ sĩ mới xuất hiện với những ca khúc chống Cộng. Nhưng hình như tất cả vẫn toát ra cái dư âm buồn bã, lê thê, làm yếu lòng người. Ở đây, chúng tôi cần luồng gió mới, cần tin tưởng mới, niềm vui mới để hy vọng! Những ca khúc trữ tình pha chút chống Cộng ấy, chưa đáp ứng đúng hoài vọng của những người tù chính trị, đang muốn có sự chuyển biến đích thực ở mỗi tâm hồn tỵ nạn hướng về Việt Nam đau khổ! Không phải chúng tôi đòi hỏi phải có những hành khúc với nhịp kèn, tiếng trống dồn dập, oai hùng, nhưng chúng tôi muốn những ca khúc trong giai đoạn này phải mang trong nó một sức sống, một tình cảm phong phú của Dân Tộc. Qua đài này, chúng tôi có được nghe ca khúc của Phạm Duy, thế mà khi bị giam ở Suối Máu, tôi có nghe nói, anh đã chết, khi đang trình diễn như trường hợp nhà đại kich sĩ Pháp Molière. Cũng như tin nhà thơ Cao Tiêu bị tai nạn xe hơi, trở thành phế nhân với chiếc xe lăn. Hôm nay, chúng tôi những kẻ chiến bại bị giam cầm, nhưng bên ngoài còn có bao nhiêu lực lượng đang chiến đấu về chính trị cũng như quân sự nhằm chống kẻ thù chung của Dân Tộc, họ cần và phải được nghe, được biết những gì có ích cho tinh thần đấu tranh tích cực giữa họ và địch, một kẻ thù đang ở thế thượng phong. Lúc này, chúng tôi mới nghĩ đến điều đó, quả quá muộn! Có lẽ vì thua trận, vì đã chịu đựng gian khổ tù đầy, nên mới có được suy nghĩ như vậy chăng?
Trong bối cảnh thê thảm của trại tù khổ sai không án, Cộng Sản vẫn coi việc không đưa chúng tôi ra tòa để xét xử là một hành động nhân đạo, vì nếu đưa ra tòa bị kêu án, cái án đó sẽ ảnh hưởng lâu dài đến đời con cháu sau này. Đó chỉ là ngụy biện, để che lấp dã tâm của họ muốn đầy ải chúng tôi đến chết trong ô nhục không ai hay biết, không một dư âm, như đã có bao nhiêu người nằm xuống trong hơn 4 năm nay, nơi ven rừng, khe suối!
Chiếc radio không giúp cho đời sống vui hơn, vì tin tức phần nhiều không hồ hởi. Nền kinh tế Việt Nam có suy sụp, nhân dân có đói khổ, mùa màng có thất thu do thiên tai, nhưng nền chính trị của Cộng Sản Việt Nam vẫn vững. Họ xâm chiếm Kampuchia mà cả Trung Cộng lẫn 5 nước ASEAN chẳng làm gì được! Chỉ phản đối suông, không nước nào dám dùng võ lực để giải quyết. Quân đội Cộng Sản Việt Nam, chịu đựng được đói khổ lâu dài, có tinh thần chiến đấu bền bĩ, coi như vô địch, vì có Đảng Cộng Sản Việt Nam ở bên cạnh luôn kềm kẹp và thúc đẩy, kết hợp thành sức mạnh phi thường, ai chống lại nó sẽ chết, sẽ bị nghiền nát duới chế đố độc tài! Khẩu súng tạo nên chính quyền, đồng thời tạo nên bạo lực! 9 năm đánh Pháp và thắn ở trận Điện Biên Phủ, nay, sau hơn 20 năm chinh chiến với miền Nam và Mỹ cùng 5 nước Đồng Minh vẫn chiến thắng, tuy sự chiến thắng này chỉ là tình cờ của lịch sử. Tôi nhớ một tên đại úy ở Nghĩa Lộ hỏi:
- Anh thấy chiến thắng ngày 30-4 của chúng tôi có xứng đáng không?
Tôi thẳng thắn trả lời:
- Không xúng đáng, vì miền Nam không chấp nhận giao chiến. Nếu năm 1972, quân Cách Mạng thắng còn có lý do, vì có giao tranh ác liệt cả 4 vùng quân sự. Ngày 30-4, chỉ là cơ may của Cách Mạng.
Tên đại úy trợn mắt:
- Chúng tôi thắng rõ ràng. Các anh thua chạy dài dài. Chạy từ Tổng Thống, Thủ Tướng đến Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng chạy đi. 1 triệu mốt quân tan rã như bọt xà-phòng, anh còn ngụy biện làm gì?
Nói xong, nó bỏ đi!
Cái thời tiết miền Băc lạ lắm, mùa nào ra mùa ấy. Do đó trong mấy ngày áp Tết, trời lất phất mưa, làm cảnh vật có một sắc thái vô cùng quyến rủ. Đàn sếu soải cánh bay ngang nền trời ẩm đục giống hệt như bức tranh thủy mặc do nhà danh họa Trung Hoa nào đó phóng bút. Tôi ngồi trên chiếc bệ đá chạy vòng theo chân tường, nhìn bâng khuâng lên đầu các ngọn núi răng cưa, qua lớp kẽm gai giăng trên đầu tường. Những lớp kẽm gai ở đây quá mong manh nếu so với Suối Máu, nhưng nó cũng làm nhức mắt mỗi lần nhìn. Nó tượng trưng cho sự giam cầm, tủi nhục. Cái Tết này, cái Tết thứ năm trong tù, rồi đây còn bao nhiêu cái Tết nữa?
Tôi biết, sau dẫy núi răng cưa đang giăng dài nhấp nhô trước mặt kia, có một rừng mơ, mỗi độ Xuân về hoa nở bạt ngàn. Gần đấy có cơ sở nấu rượu quốc doanh. Thỉnh thoảng chúng tôi được mua bã mơ, tụi Công An gọi là ô mai, 1 đồng/kí. Sự thật, bao nhiêu tinh chất của trái mơ đã rã hết thành chất rượu, đây chỉ còn bã, nhưng dù sao, đối với tù vẫn ngon vì nó chua chua, ngọt ngọt. Khi ăn xong, đập hột lấy nhân như nhân trám, ăn với cơm bùi như đậu phộng.
Tết này, trong buồng, có anh nhờ mua được chai rượu mơ. Mầu rượu vàng nhạt sóng sánh trông đẹp mắt. Đây là loại rượu khai vị chỉ dùng uống chơi chứ không để nhậu. Anh nói, sáng mồng 1 Tết, sẽ khui ra mời tôi một chén. Tôi không thích loại rượu ngọt, bất cứ loại gì. Một là uống rượu mạnh, hai là uống nước lọc, chứ tôi không chịu nổi cái loại rượu nhờ nhợ, nửa rượu, nửa nước ngọt. Nhưng lúc này đang ở tù lại được uống men, quý rồi. Không phải ai có tiền đều mua được rượu! Cũng khó lắm! Phải bắt bồ với Công An hoặc tù hình sự tự giác, nhờ mua hộ, chắc chắn phải đắt hơn giá chính thức nhiều. Anh bạn giấu chai rượu mơ kỹ lắm, nếu Công An Buồng bắt gặp sẽ mất, lại còn bị làm kiểm điểm phiền phức!
Bữa nay đã 30 Tết. Trời không mưa. Trần mây hình như cao hơn mọi hôm. Mầu núi xanh biếc, một mầu xanh như nhung, thật êm ái dịu dàng, nhìn mát mắt. Trong khuôn viên trồng hoa, những đóa hồng nhung đã bắt đầu nở tung cánh, tỏa hương thơm ngát. Khi trước, tôi biết có người nghiện mùi hương hoa hồng, nên dù đắt đến đâu, lúc nào trong phòng ngủ của họ cũng có vài bông hông Đàlạt to bằng chiếc dĩa. Nhưng những đóa hồng nở trong khuôn viên nhà tù quá mỉa mai, không đúng chỗ!
Anh em, người chạy đi, kẻ chạy lại lăng xăng vì mỗi người đều phải chuẩn bị cái Tết cho riêng mình. Năm nay, nhờ thăm nuôi, anh em no, nên có thể tính chuyện mời mọc nhau, hoặc đóng góp vào tổ chức chung như họp khóa, họp binh chủng, đơn vị v.v... Chỗ nào cũng thì thầm, to nhỏ, dặn dò! Tôi chợt nghĩ đến, trong “chuồng” tôi ở, có một anh cách đây ít tháng được thăm nuôi. Vì nhịn đói lâu ngày, nên khi có, anh ăn ngày, ăn đêm. Lúc nào miệng cùng thấy nhai. Chừng nửa tháng sau, anh mập hẳn ra, như trái banh bơm căng. Nhưng khi ăn hết quà, ít lâu sau, thân xác anh lại xẹp xuống nhăn nhúm như quả táo tàu khô! Tôi vốn thích cô đơn, để suy nghĩ, nên chẳng có mấy bạn bè. Cái nhịp sống xô bồ không thích hợp với tôi, dù rằng nó cũng làm con người quên đi được phần nào thực tại!
Ngày 30, vô cùng nhộn nhịp. Nào chia bánh, chia quà do trại phát: vài gói mứt kẹo dành cho con nít nhà quê, vài chiếc bánh qui cứng như đá, cắn gẫy răng, vài điếu thuốc lá hạng bét, hút khói khét lẹt. Nhưng dù vậy, nếu người phụ trách chia không đều là có chuyện.
Bữa cơm chiều 30 Tết, một số bạn thân thiết nhau, ăn ngoài sân. Đây chẳng phải lần thứ nhất, việc này thường thấy sau mỗi lần thăm nuôi, mời qua, mời lại, nhất là mời những ai chưa có thăm nuôi, hoặc chưa có quà.
Chiều nay trời gió đủ lạnh. Cái lạnh gây cho mình nỗi nhớ bâng khuâng. Sau một thời gian dài chịu đựng, tâm hồn con người hình như cũng cằn cỗi, nên sự rung cảm không còn sôi nổi, thắm thiết như những năm đầu. Nhớ nhà, nhớ vợ con, có đấy, nhưng là cái nhớ thoang thoảng bàng bạc như nhớ một hình ảnh đẹp thoáng còn, thoáng mất. Tôi ngồi đây, nhìn cảnh vật, nhìn anh em. Cảnh vật thì luôn luôn như vậy dù mưa, dù nắng, dù nóng, dù lạnh, nhưng anh em quả đã đổi thay! Họ không còn ủ rũ, chán đời nữa, họ đã lấy lại phần nào cái khí thế của những chiến sĩ đã từng vào sinh ra tử, coi cái chết nhẹ tưa lông hồng. Chính Cộng Sản đã tạo cho họ cái khí thế này. Họ không còn tin và sợ Cộng Sản như những năm tháng đầu cải tạo. Họ đã bắt đầu đoàn kết và chống đối kẻ thù. Giả thử nếu bây giờ họ được cầm súng trở lại chiến đấu, chắc chắn họ chiến đấu với một tinh thần mới, một nổ lực mới, quyết sống chết với quân thù, không lùi bước trước trở ngại nào. Tất cả như đã thấm đòn. Lúc này họ coi như thời gian dưỡng thương, chờ ngày quật khởi. Có anh phi công lái F5 đã nói:
- Nếu ngày nào tôi được ngồi lái trên chiếc tàu bay ra trận tuyến, chắc chắn mỗi “pass” một trái bom hoặc một trái rốc-kết, lao thẳng xuống đầu Cộng Sản, chứ không như trước, ném ào ào để bay về căn cứ, trúng hay không mặc kệ!
Nghe xong, tôi vỗ vai anh:
- Tôi biết, bạn hối hận lắm, tuy hơi muộn. Binh chủng Không Quân lúc trước được mọi người tôn vinh là quân chủng hào hoa, nên mới có câu:
Hào hoa là lính không quân.
Có một chiếc quần, anh cũng bán đi!...
Khi cuộc chiến tiếp diễn ác liệt mỗi ngày, các anh đánh bài, khiêu vũ và đĩ điếm. Các anh tự cho mình cái quyền như vậy, vì mỗi lần cất cánh, mỗi lần, ký giấy ước hẹn với tử thần! Có nhiều anh đến giờ bay hành quân ham đánh bài, có lẽ ham ăn, hoặc đang thua, nhờ người khác bay dùm. Người bay dùm cũng cất cánh, nhưng chỉ nhấp nháy đã “landing” vì bom đạn được trút cả chùm vào đâu không biết?...
Anh bạn phi công gục mặt xuống đầu gối như tránh xúc động!
Đây là cái Tết thứ nhất mà chúng tôi được thời tiết ưu đãi!... Vòm trời như thếp bạc, không nắng, không mưa. Hình như mọi người đang sống dưới chiếc mái che vĩ đại. Mầu sắc rực rỡ tươi sáng hẳn lên. Tất cả, như có chiếc đũa thần làm thay đổi sắc diện.
Giao Thừa năm nay, tụi Công An cũng vô Buồng chúc Tết, nhưng tụi nó mặc đồ vàng làm việc, chứ không “mũ cao, áo dài” như những Giao Thừa trước. Câu chúc khách sáo, giả dối, cả hai bên đều biết, vẫn phải nghe một cách nghiêm chỉnh. Biết đến bao giờ, mới khỏi nghe, khỏi thấy cảnh tượng này? Có tiếng pháo nổ xa xa âm vang vào vách núi dội lại! Anh em năm nay ít chúc Tết nhau, nói chuyện như ngày thường, vì không muốn giả dối thêm nữa! Sau khi tụi Công An chúc Tết tù xong đi ra, anh bạn có chai rượu mơ, mời tôi lưng bát nhỏ. Tôi cảm ơn, đưa lên môi, dốc cạn, chất rượu ngon ngọt thơm mùi mơ chín và chất men làm tôi cảm thấy lâng lâng, sau 4 năm rưỡi chưa hề được nhấp ngụm nào. Ở đây, ăn uống đều bằng chén, không có ly. Chiếc chén, chiếc “gô”, chiếc muỗng là biểu tượng thân thiết người tù. Nhất là chiếc “gô”, luôn luôn đeo sát từ nhà tới hiện trường lao động. Khi sáng chế ra chiếc lon nhôm để đựng sữa bột Guigoz, chắc nhà sáng chế không ngờ chiếc lon đó lại hữu ích cho những người tù trong giai đoạn này như vậy! Nào đựng, nào nấu, nào uống, nào ăn cũng chỉ bằng chiếc “gô”. Còn chiếc muỗng, chẳng những thay cho đôi đũa ăn, mà còn thay đũa bếp xào nấu đủ thứ, cán được mài sắc dùng thay dao. Chiếc chén tuy cần, nhưng thuộc hàng thứ yếu.
Bữa cơm buổi trưa ngày mồng 1, có thịt heo, thịt trâu, dưa hành như các Tết trước. Binh chủng Dù ăn Tết họp mặt ngay tại sân buồng tôi, họ ngồi xếp hai hàng dài dưới đất. Thức ăn do anh em đóng góp, mỗi người một thứ, tạo cho bữa ăn họp mặt đầu năm thêm phong phú. Tôi thấy Đại Tá Thọ cùng nhiều sĩ quan Dù khác, những người ít nhiều gì trong quá khứ, đã gây cho Cộng Sản những khó khăn về quân sự. Tuy ở tù, nhưng các sĩ quan Dù đối với nhau vẫn kính trọng qua cấp bậc chứ không như nhiều binh chủng khác. Sân nào cũng đông người ăn uống, nào khóa Thủ Đức, Đàlạt, nào Thiết Giáp, Truyền Tin, Pháo Binh vv... Mỗi thực khách đều mang theo chiếc muỗng và chiếc chén sắt tráng men do Trại phát thường được gọi la “chén Nam Hà” để phân biệt với “chén Tàu Thủy” được phát trên tầu Sông Hương trên đường ra Bắc.
Trong ngày Tết, không có bóng tên Công An nào, trừ vọng gác. Chắc họ muốn cho tù được tự do đôi chút trong 3 ngày Tết. Nếu họ có mặt, không ngăn cấm thì không giữ được nội quy, uy tín của Trại, nhưng nếu khép tù vào kỷ luật cứng rắn trong dịp Tết, sợ phản ứng không thuận lợi. Họ đã nghiên cúu kỹ lắm trước khi quyết định, vì Cộng Sản không bao giờ làm việc tùy hứng! Ngày mồng 1 qua đi trong không khí thoải mái. Trong buồng tôi ở có làm lễ theo nghi thức Phật giáo do một Đại Đức phụ trách. Và ở nơi khác, vị Linh Mục cũng làm lễ theo nghi thức Công giáo cho những ai có đạo. Như vậy, vui vẻ cả, tuy sự làm lễ cũng phải cảnh giác, đề phòng tụi Công An xô vào bất tử!
Mỗi lần tiếng hát cất lên, tự nhiên máu trong người như xốn xang, có cảm tưởng như mình sống lại cái thuở nào hào hùng, bất khuất!...
Buối tối, sau khi đóng cửa “chuồng”, tôi nằm khểnh gửi hồn về miền Nam để tưởng nhớ những mùa xuân đầm ấm đã qua. Bỗng có tiếng gọi từ trên lầu:
- Bố ơi! Đài BBC vừa nhắc tên bố vì bố có viết về nhà văn Lãng Nhân, trong một tập sách nào đó. Tội nghiệp chưa, Bố đang ngồi tù đây, ở ngoài chỉ nhắc suông, chẳng cho chút quà bánh gì để an ủi!
Tôi không nói gì, vì nói cũng vô ích, làm sao anh em có thể hiểu được, sự nhắc nhở của chiếc Đài Quốc Tế này cũng là niềm an ủi cho những ai làm công tác văn học tại Việt Nam. Lát sau, tôi lại phải nghe tiếng chửi thề:
- Đù mẹ, các ông ở Mỹ, các ông ăn sung mặc suớng, các ông lợi dụng sự họp khóa, họp đơn vị để có dịp “enioy”, chứ các ông có tranh đấu gì cho anh em đã bị giam cầm từ mấy năm nay, đang chết dở, sống dở, chẳng ai thèm nhắc đến. Các ông ăn độn toàn bí tết, uống toàn Whisky, Napoléon, Courvoisier, làm đéo gì các ông chẳng muốn họp hành. Tướng Tá như con “xê”...!
Tiếng nói phẫn uất, đúng là tiếng của Đĩnh, một sĩ quan thuộc Lực Lượng Đặc Biệt.
- Thôi ông, đầu năm, đã văng tục tùm lum, xui chết! Để mấy bữa nữa, ông muốn nói “tiếng Đức, tiếng Y Pha Nho, tùy ý! Sao có tin gì hồ hởi không?
- Ngày Tết, toàn chương trình “vui chơi ca hát”. Cái điệu nầy, tụi mình nằm đây còn lâu, 10 năm, 20 năm như chơi.
Nhưng rồi mọi chuyện cũng qua. Sòng bài được mở màn, anh em lại sát phạt nhau qua những nước “tố”. Nơi kia lại thì thào chuyện trai gái, chỗ nọ hát xướng lăng nhăng. Tôi ngủ lúc nào không hay.
Khi tỉnh dậy, trời còn tối như mực, dân đánh bài vẫn mê mải, mặt mày phờ phạc dưới ánh đèn đỏ quạch giữa 4 búc tường máu rệp!.....
Hôm nay mùng 2 Tết, trời vẫn đẹp như hôm qua. Gió thổi làm hàng cây trên núi chao chát. Không hiểu sao cứ mỗi khi nhìn thấy mầu trời như hôm nay, trong lòng tôi lại buồn buồn, hối tiếc bâng khuâng!....
Tôi đang uống trà ở góc sân thì Tấn chuyên ở nhà xếp mùng mền theo quy định và đổ phân, đến gần nói:
- Bố ơi! bữa nay, tụi con tổ chức ngâm thơ, anh em mời bố ngồi chủ tọa.
A, ngâm thơ! Tôi biết anh Dương Tử có làm được mấy trăm câu thơ lục bát, tả cảnh cải tạo từ ngày ở Long Giao đến hôm nay và còn tiếp tục nếu anh còn đi tù. Tôi cũng đã được anh đọc cho nghe ít đoạn. Nói chung, có nhiều đoạn khá hay và cảm động, tả đúng những gì đã xẩy ra trong các trại cải tạo bằng thơ. Vì thơ lục bát dễ thuộc, nên tuy dài, anh không phải chép ra giấy, nhờ đó khỏi lo khám xét điểm nghiệm!
Căn buồng đông nghẹt người, ngoài sân cũng vậy. Anh Dương Tử sau vài lời giải tích rồi cất giọng đọc mấy trăm câu thơ, mất gần 2 tiếng đồng hồ. Tiếng vỗ tay ào ào tán thưởng. Ngâm thơ chống Cộng xong, chúng tôi ngồi uống café. Trong khi đó, ở các buồng khác tổ chức ca hát, những ca khúc do anh em sáng tác, có nội dung chống Cộng quyết liệt! Trong khi hát, “ban tổ chức” cũng sắp xếp người canh phòng, báo động!
Ba ngày Tết qua đi rất mau, nhưng năm nay, ngày tốt nhằm mồng 6, nên Trại quyết định sẽ phát động lao động toàn trại vào ngày đó. Anh em đều vui, vì được nghỉ thêm 2 ngày. Ai cũng tưởng Cộng Sản không tin ngày tốt, xấu, nào ngờ, họ cũng mê tín dị đoan như thường. Tụi Công An thích coi chỉ tay, tin Tử Vi. Nếu anh nào có hai nghề đó, chắc nhàn, suốt buổi xem chỉ tay và đoán Tử Vi, khỏi lao động!
Đời tù tiếp tục gặm nhấm từng ngày buồn nản, như con chuột gặm chiếc thùng gỗ dầy, mong đục thủng để xơi đồ đựng trong đó. Bữa nay, chủ nhật, khoảng mồng 10 Tết, tên Công An phụ trách an ninh Trại, từ cổng lửng thửng đi vô hỏi Đội trưởng:
- Này, mấy ngày Tết vừa qua, các anh tổ chức ngâm thơ, hát hay quá nhỉ, lại nghe cả Đài nữa?
Đội trưởng cố giữ bình tỉnh:
- Dạ, đúng, trong mấy ngày Tết, anh em có ngâm thơ và hát những bài Cách Mạng cho vui. Còn Đài, hôm trước Tết, cán bộ Thắng có nhờ sửa chiếc Đài hư. Sửa xong phải nghe thử chứ, cán bộ!
- Á, anh nói dễ nghe nỉ? Các anh ngâm thơ và hát những bài ca chống Cộng và nghe đài BBC, đài đế quốc! Anh đừng nói loanh quanh!
Đội trưởng cười cười:
- Cán bộ hay nói đùa làm! Nếu chúng tôi nghe đài, chắc cán bộ biết ngay, làm sao giấu được! Đâu có dám, cán bộ!
- Các anh không nghe, sao sáng nào tôi vào trại cũng nghe thấy những tin tức đúng như đài BBC vừa loan tối qua? Sao lạ thế nhỉ?
- Dạ, cái đó, tôi không biết. Mời cán bộ hút thuốc.
Đội trưởng móc bao Pall Mall đỏ chói ra mời.
Tên Công An từ chối. Sở dĩ nơi đây có thuốc lá Pall Mall hút, do quà từ ngoại quốc gửi thẳng cho người thân trong tù. Giá tiền lúc ấy mỗi bao 18 đồng, mỗi điếu lẻ là 1 đồng. Câu chuyện ca hát và chiếc Radio cũng qua đi vì chắc tên Công An an ninh có được báo cáo như vậy, nhưng trong dịp Tết, không ai trốn trại là được!
Nói đến quà từ ngoại quốc gửi thẳng cho tù, tụi Công An thường moi trước. Có gói mất một phần, có gói một nửa, đôi khi cả gói. Người nhận lúc mở ra, chỉ có toàn quần áo cũ và giẻ rách, đành khóc thét, mang nội vụ ra thưa Ban Giám Thị. Tụi nó nói, sẽ làm biên bản khiếu nại với cơ quan nhận quà ở phi trường Gia Lâm. Nhưng chờ bao nhiêu năm mới có kết quả? Do đo, mới nảy sinh ra chuyện buôn bán quà. Người mua, coi như mua số, khi có phiếu báo quà, người nhận bán đứt phiếu. Người mua trả tiền theo sự thỏa thuận. Lúc mở gói quà có nhiều ăn nhiều, có ít ăn ít. Nếu không có gì đành chịu lỗ.
Sinh hoạt của Trại, thêm mục mới: Cầu cơ! Người nhiệt thành nhất, anh Đại Úy ngành Cảnh Sát. Mỗi sáng, anh đều loan truyền đi những tin tức cầu cơ: Ông Diệm về, nói ra sao? Nữ nghệ sĩ Thanh Nga về nói gì? Cụ Nguyễn Trãi, cụ Phan Đình Phùng phán sao? Thôi tùm lum, tà la, chẳng biết xét đoán ra sao? Có điều lạ, những bài thơ cầu cơ có khi dài cả mấy chục câu, làm đúng luật bằng trắc, mà người cầu cơ hoàn toàn không biết tí gì về thơ! Cái đó, cũng gây nên thắc mắc, khó giải đoán hư, thực.
Từ đầu mùa rét vừa qua, tôi bị bệnh thấp khớp, các đầu khớp xuong đều sưng to, mỗi lần cử động khó khăn, đau đớn. Tôi đi khai bệnh hằng ngày. Thấy phiền quá vì các ông “tu-bíp” mỗi lần cho nghỉ như ban một ân huệ, thật đáng ghét, nên tôi xin với tên Công An Buồng cho làm việc nhẹ! Tên Công An này tương đối biết điều, cho tôi ở nhà quét sân, tưới vườn hồng, tuy công tác này đã có người làm: một tù già bị bệnh “hernie”, ruột phòi ra cả đống và một tù ho lao, thêm tôi là 3 người. Mỗi sáng, chúng tôi làm trong một giờ, chiều nửa giờ. Nhưng ít bữa sau, tên Công An đã cho phép tôi ở nhà, bị điều đi lao động. Theo kế hoạch nhà nước, mọi cán bộ đều phải góp công sản xuất vì cả nước đang bị thiếu lương thực do mất mùa liên tiếp đã mấy năm. Bây giờ 1 tên Công An coi 2 buồng. Tên Bảo, mới đến, đuổi tôi đi lao động, lấy lý do lúc này quá thừa người làm việc nhẹ! Tôi nhất định không đi, cứ ngồi lì ở giữa sân. Tên Bảo đứng trên thềm cao, hỏi:
- Bây giờ, anh muốn gì?
- Tôi muốn viên AK!
Tôi trả lời dứt khoát như vậy vì lúc này đã chán quá, không thiết gì nữa!
Nó đứng nhìn tôi một lúc rồi nói:
- Anh mặc quần áo, theo tôi lên Ban Giám Thị.
Tôi đứng dậy đi vô nhà mặc thêm chiếc áo ấm, quay ra, tên Công An đã đi đâu mất. Tôi cứ ngồi ngoài sân cho đến trưa, rồi đến chiều. Khi gặp, nó chẳng nói gì. Tôi lại cầm chổi quét. Ở nhà cũng chẳng vui gì, nếu có sức khỏe, nên đi lao động! Việc nào cũng có cái nhục của nó.
Tên Bảo đặc biệt sợ tù cưa chấn song. Sáng và chiều, nó kiểm soát kỹ các cửa sổ, dưới nhà, trên lầu và cả cầu tiêu. Tên này ít nói, thuộc loại thâm hiểm. Nó khám đồ cũng rất kỹ, khó lòng qua mặt, chỉ thua tên Lực và tên Hồng một chút.
Vì buồn quá, chẳng biết làm gì cho hết giờ, anh em làm việc nhẹ ở nhà phát động phong trào kể chuyện chưởng của Kim Dung. Người kể nhớ từng chi tiết, hình như đã học thuộc lòng. Trong khi kể, họ được mời ăn bánh, uống nước trà. Từ Anh Hùng Xạ Điêu, Cô Gái Đồ Long, Tiếu Ngạo Giang Hồ, Lục Mạch Thần Kiếmv.v... được kể vanh vách, khi lên bổng lúc xuống trầm, nghe rất quyến rủ. Mỗi truyện, nếu kể liên tục chừng 1 tuần lễ mới hết. Nhưng đời sống trong tù với những ngày dài vô tận, vấn đề thời gian không đáng kể mà sợ nhất là khi kể hết chuyện rồi, lấy gì nói nữa?..
Tin đồn Nhơn trốn trại, lan nhanh như dòng điện. Anh em đi lao động chưa về, ở nhà đã biết. Tôi mong anh em chóng về để được nghe chi tiết. Những nghi vấn được đặt ra, làm sao Nhơn trốn được, ai đưa đi trốn, giữa một địa hình hoàn toàn bất lợi cho đương sự? Trước đây, tôi nghe nói, Nhơn có mối tình với một nữ Công An bị sa thải vì mang bầu với một chàng trai ngoài ngành Công An. Cô ta sau khi sinh nở, tứ cố vô thân, phải đi kiếm củi bán để sinh sống. Nhơn vì có sức khỏe, được Đội giao cho nhiệm vụ lấy củi đun nước mỗi ngày. Nhơn lại có giong hát khá truyền cảm, mặt mày coi được, nên dễ gây thiện cảm với phái nữ. Khu vực kiếm củi, ngay sườn núi trước mặt, cây cối um tùm, khi đã vô sâu khó ai nhìn thấy. Cô gái cũng kiếm củi ở đây. Nhơn thường chặt củi dùm, bó lại, cô chỉ việc mang về bán, mỗi bó 1-2 đồng để sống qua ngày. Chính vì thế, mối tình nảy nở giữa một anh tù miền Nam và cô Công An bị sa thải, mỗi ngày một gắn bó. Sau khi lấy củi xong, họ ngồi nói chuyện đến hết buổi, dưới tàn cây rậm rạp, trong khe núi, ít ai để ý. Có lẽ do đấy, vấn đề trốn trại và kế hoạch, được thảo luận tại địa điểm này. Nhơn, chính là người đã trốn trại cùng một người nữa, đêm 30 Tết tại Lào Cai không thoát, ngồi nhậu bánh chưng tại nhà ăn, chờ Công An đến bắt. Nay, lần thứ hai, Nhơn trốn trại, không biết ra sao? Ai cùng cầu mong cho Nhơn thoát, chứ bị bắt lại, nó đánh và cùm lâu lắm! Tôi nhớ chiều qua khi lao động về, Nhơn còn nói giởn:
- Mau lên anh em, tình hình mỏng như lá lúa rồi, không còn kịp nữa!
Câu này vốn dùng để nói đến chuyện Trung Cộng đánh Việt Nam ở biên giới! May ra nhờ chuyện này, tù được giải cứu chăng? Ai ngờ, câu đó, Nhơn nói với chính mình.
Chúng tôi đang ngồi bàn tán, tên Công An phụ trách an ninh đi vô cùng tên Bảo, cho lệnh Tấn, người giữ kho, mở cửa lấy quần áo của Nhơn gửi trong đó. Túi đồ của Nhơn gồm vài chiếc quần áo cũ được mang ra ngoài, tên an ninh cầm mang đi, cho chó berger ngửi để tìm hơi. Nhưng tới lúc anh em đi lao động về, tụi nó vẫn chưa tìm ra Nhơn, dù đã huy động tất cả phương tiện chuyên môn để lùng kiếm. Tôi hỏi Đĩnh:
- Nhơn trốn rồi sao?
- Ừa ông ơi, nó trốn giỏi qua, chỉ có 2 tiếng đồng hồ, giờ nghỉ trưa, hắn đã vọt được, hay thật! Lúc điểm số nghỉ lao động còn có hắn, lúc điểm số đi làm, thấy mất. Tên Công An vũ trang lo đái ra quần. Nhơn trốn được, may cho hắn rồi, anh em ở lại sắp bị nó siết đây. Nhưng kệ cha nó. Tôi cũng đã từng trốn trại nên rất thông cảm. Bao giờ có cơ hội, tôi trốn nữa!
Buổi chiều, hai người nằm kế Nhơn bị gọi lên Ban Trực thẩm vấn. Bao giờ cũng vậy, nó nghĩ người trốn trại thế nào cũng bàn bạc với những người nằm kế nhưng sự thực, Nhơn không nói với ai, làm sao dám nói trong hoàn cảnh này? Tin Nhơn trốn làm bàng hoàng và cũng là đề tài bàn tán trong tất cả mọi buồng!
Nhơn trốn đã được gần 24 tiếng, vẫn chưa tìm ra tung tích. Một anh hồi chánh cũng bị giam từ sau ngày 30-4-75 ở buồng bên sang chơi. Cả buồng ít ai dám nói chuyện vì sợ anh làm “ăng-ten”. Tụi Công An hay dùng cái lối gài người kiểu này để lấy tin tức. Cũng như cách đây 2 tuần, tự nhiên nó ấn một anh tù buồng khác sang buồng chúng tôi, làm anh em lên ruột. Mấy đêm liền không dám nghe đài. Sau điều tra, mới biết, anh vừa đến là Trung Tá, ngành Cảnh Sát, có quá khứ đứng đắn, lúc ấy, anh em mới dám nói năng thoải mái, chiếc Radio mới hoạt động lại! Anh này cũng hay lắm, biết anh em nghi mình, cứ làm như không biết, chẳng chơi, chẳng nói chuyện với ai. Đi lao động về nằm khoèo một chỗ, mặc ai làm gì thì làm.
Sáng nay người tù hồi chánh sang chơi, tôi cứ để anh nói, không có ý kiến gì, vì ở tù làm sao biết được?
- Năm ngoái, con trốn trại không thoát, bị bắt lại, mới ghê gớm! Con ngâm mình dưới nước cả một đêm, không dám thò đầu, mồm ngậm cộng rau muống để thở. Sau thấy không thể thoát được vì chó sục quá, 2 con béc-giê to bằng con bê cứ chạy vòng quanh bờ suốt đêm, con phải nhô lên. Mấy ông ấy chờ sẵn, xô đến túm cổ lôi khỏi mặt nước, rồi để mặc cho 2 con chó nhẩy chồm cắn cổ. Sợ quá, con cho tay ôm chặt lấy đầu, nó đớp một miếng vào tai rồi dùng sức ấn con ngã lăn xuống đất. Cái giống chó khôn thật. Sau khi con ngã xuống đất, chúng nó gầm gừ, dẫm chân lên người như giữ cho khỏi chạy, chứ không cắn nữa. Này bố xem, vết sẹo răng chó còn đây!
Anh vạch cổ áo cho tôi xem 4 vết răng đã thành sẹo, anh phải mang và nhớ suốt đời cũng như vết sẹo do chiếc còng đã cứ vào cổ tay tôi vậy!
Anh kể tiếp:
- Mấy ông Công An đứng cười một lúc, xong đuổi chó dang xa, rồi bắt đầu cuộc đấm đá tơi bời. Hai con chó đứng thè lưỡi đỏ lòm nhìn con người đánh con người! Đánh bằng tay chân chắc chưa đã, các ông dùng báng AK thúc vào ngực, vào sườn liên tục. Rồi con ngất đi. Hôm sau tỉnh dậy người đau ê ẩm, một chân bị cùm, xung quanh chẳng có ai! Con biết từ phút này đời mình tàn. Con bị biệt giam 6 tháng mới được tha, cho ở buồng bên đó.
Tôi mời anh hút thuốc, uống nước. Anh trạc 30 tuổi, hồi chánh tại Bình Long năm 1972. Trước khi Việt Cộng vô Saigon anh trốn không thoát vì bị tố cáo.
Cái trại Nam Hà độ này gặp nhiều chuyện lôi thôi qua. Việc Nhơn trốn trại, tới hôm nay được trên hai tháng rồi, vẫn chưa tìm ra tin túc. Ban Giám Thị đã “điều” Công An về tận quê quán của Nhơn ở miền Trung để theo dõi, gửi cả người vào Nam để nhận diện mà chẳng đi đến đâu. Để trấn áp tù, tụi Cộng Sản đưa ra tin, Nhơn sắp bị giải từ Saigon ra đây để chịu hình phạt, Nhơn đang bị giam ở Khám Chí Hòa v.v...
Riêng tôi cho rằng, trong vòng 48 tiếng đầu, nếu không tìm được, chẳng bao giờ tìm ra, nhất là Nhơn, một sĩ quan bi Biệt Kích, có thừa kinh nghiệm để trốn, một khi ra khỏi tầm súng của Công An.
Sau tin Nhơn thì đến tin tên cán bộ Buồng 7 bị bắt quả tang đang ngủ với một nữ Công An, cũng là đề tài cho anh em diễu cợt cả mấy ngày.
Cái trại này đến hồi mạt, cán bộ ngủ với nhau lung tung. Một cô lăng nhăng với cả đám Công An bị mang bầu chả biết với tên nào. Cô thú thực với tên Huy, phó Trại, tên này bàn mưu, dụ một tên Công An chưa vợ, thường lui tới nhà cô, phải tìm cách cho tên này vào buồng riêng của cô mùi mẩn, lúc đó sẽ bố trí bắt quả tang. Như vậy tên này phải cưới, nếu không, Ban Giám Thị sẽ áp dụng kỷ luật. Kế hoạch đã thành công, tên Công An lấy vợ được luôn cái bầu, than thở rùm trời! Chuyện này do tụi Công An quản giáo lao động, nói lại cho tù nghe. Hóa ra, nằm trong chăn mới biết chăn có rận thật.
Tối nay, anh em nói về Đội 20 mới bị đưa vào Trại C, cách đây ít bữa, mỗi tối đều hát những bài ca chống Cộng. Người hát bị bắt giam. Anh em toàn trại phản đối, lãn công không đi lao động cứ ngồi lì ở giữa sân. Tên Xuyên và tên Huy phải vào tận nơi để dàn xếp, cho lệnh thả người hát ra. Nhưng thả ra không phải tụi nó thua, đích thực, chúng nó đang hoạch tính mưu kế trả thù!
Sau ngày Nhơn trốn trại, anh em làm lao động hai buổi, không thông tầm nữa. Như vậy, sự kiểm soát sẽ dễ dàng hơn, tù không có thời giờ rảnh ở “hiện trường” để mưu tính trốn trại. Nó điểm số gắt hơn, không cho phép ai vắng mặt, muốn đi đâu phải xin với tên Công An vũ trang trước, nếu nó thuận mới được đi. Bây giờ, sau vụ lản công của Trại C, Ban Giám Thị áp dụng biện pháp các Đội đi lao động tập họp ngay trong sân buồng mình, thay vì ở sân lớn như thường lệ. Như vậy có cái lợi, tù không thể bàn tán và thông đồng với nhau tạo nên sức mạnh khó dẹp. Phải nhận, tụi Cộng Sản có đủ mưu lược để trị tù. Chúng rất nhạy cảm trong vấn đề xử lý tùy thuộc mỗi trường hợp, mỗi hoàn cảnh.
Một chiều, hai chiếc xe chở Đội 20 từ Trại C đi ra, hướng thẳng Phủ Lý. Mọi người đều đoán, họ được đi một trại khác, có lẽ thuộc vùng Thanh Nghệ Tĩnh. Khi gặp anh em lao động giữa đường, họ hò hét rầm trời, chúc anh em ở lại nhiều may mắn, giữ vững tinh thần. Tên Huy, trong buổi sinh hoạt mới đây, cho biết:
- Đội 20 không thể làm vậy được đâu, chúng tôi đã trình “Trên” để xin chỉ thị. Chắc chắn Đội 20 sẽ bị thi hành kỷ luật tối đa! Lúc ấy nghĩ lại, đã muộn! Tôi sợ đến khi đó, các anh ấy lại xin chúng tôi khoan hồng!
Nói xong, nó cười, nụ cười vừa nham hiểm vừa ngạo mạn.
Chính nhờ tinh thần của Đội 20, nên anh em lớn tuổi cấp cao, có muốn hèn cũng ngượng! Vấn đề “ăng-ten” bớt nhiều, tụi “cò mồi” vẫn có. Tụi này, sự thực chẳng làm hại ai, họ chỉ mưu cầu tư lợi, được ở nhà, khỏi đi lao động dãi nắng dầm mưa, mỗi lần có “khách” lại được ăn uống thỏa thuê! Nhưng họ cũng bị anh em khinh và dùng tiếng “cò mồi” như lời chửi!
Tin đồn sắp có đợt được tha lại rì rầm loan đi. Anh em ai cũng hồi hộp đợi chờ, biết đâu mình chẳng trúng số? Hồi tháng 6 vừa qua, Cộng Sản thả một số Đại Tá, trong đó có Đại Tá Thọ, đã được Cộng Sản đánh giá là “tiến bộ” mỗi lần nhắc tới. Có lẽ, cửa hầm bắt đầu mở. Những ai có anh em, họ hàng là Đảng viên hoặc liệt sĩ đều hy vọng. Còn những ai tự xét thuộc thành phần phản động từ đầu đến chân, xin đừng mơ ước!
Tin đồn, đôi khi là sự thực. Sau buổi chiều đi lao động về, những người có tên được tha đều phải thu xếp tư trang xuống ngủ tại bệnh xá, cấm không được giao thiệp với ai. Tuy ngủ ở bệnh xá, họ vẫn bị khóa cửa như thường. Buồng tôi, có ba người được tha. Toàn những anh có thân nhân, Đảng viên kỳ cựu của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhưng nhờ vào sự tha nhỏ giọt này, người còn lại cũng đỡ phần tuyệt vọng. Thỉnh thoảng Cộng Sản mở hé cho tù nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm xong lại đóng kín. Kiểu tha này như trò chơi ú tim òa của trẻ con, nhưng có tác động tâm lý rất mạnh.
Những người được tha sáng hôm sau, tập họp nơi “nhà văn hóa” để viết cảm tưởng. Lẽ dĩ nhiên, những lời lẽ viết trong đó đều ca tụng công đức của chế độ, chế độ “siêu việt, sáng tạo”‘, trong vòng 30 năm đã đánh thắng hai đại cường quốc của thế giới!
Sau đợt tha đó, công việc của Trại lại quay đều một nhịp. Con đê thủy lợi, vẫn đào, vẫn đắp, chẳng biết đến bao giờ mới hoàn thành?
Bữa nay, nghe Đĩnh nói, Đội đã thay công tác, bắt đầu kiến tạo con đường chạy vòng quanh núi. Con đường được thực hiện với mục đích để tuần phòng ngày đêm giữ an ninh cho Trại, bằng xe hơi. Ngày nào con đường này hoàn tất, ngày đó, việc trốn trại có mòi khó khăn hơn. Ở nhà, nghe tiếng mìn nổ phá núi liên tục. Nhưng Ban Giám Thị muốn gì thì muốn, với lề lối làm việc của tù như vậy, phải mất nhiều năm, con lộ đó mới xử dụng được. Ở thời đại này, không ai dùng tay chân để kiến tạo nữa. Nhưng ở đây, dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, tay chân vẫn được dùng để thay máy móc!
Tôi bị đau cả tuần lễ không bớt. Suốt 7 ngày, chỉ uống vài ngụm nước cháo. Thuốc lào không hút nổi, chứng tỏ tôi bệnh nặng! Tôi cứ nằm li bì cả ngày lẫn đêm, người nóng như lò than, có khi lại lạnh toát như nước đá. Thuốc uống vào nôn ra. Tôi đi khám bệnh. “Tu-bíp” Quýnh cho vài viên thuốc nội hóa. Tôi sợ bị thương hàn nên mua ít viên tyfomycin uống, cũng không thấy bớt. Đúng lúc đó, lại có “khách” đến thăm trại. Khách lần này thuộc loại “bự” nên tụi Công An tổ chức giấu tù kỹ lắm. Tất cả tù lao động được đưa sâu vào sau dẫy núi gần rừng mơ. Còn tù bệnh được đưa đến trại tù hình sự từ mờ sáng. Không được để thứ gì ở ngoài sân, từ một ca nước nhỏ tới mảnh giẻ rách. Tất cả đều cho vô buồng khóa cửa, coi như nhà kho, không người ở. Tụi “cò mồi” lại hoạt động, nào đánh volley, nào đọc sách báo, nào chơi nhạc, nào ca hát. Cứ làm như sống dưới Thiên Đường hạ giới!
Tôi bá cổ hai anh bạn tù để lết theo, vào khu tù hình sự. Đến nơi, tôi vẫn nằm mê man với cơn sốt hầm hập. Bỗng có bàn tay lay mạnh.
- Bố, bố!
Tôi mở mắt tưởng có chuyện gì, hỏi:
- Cái gì vậy?
Một tên tù hình sự cười nham nhở.
- Bố bán cho con cái áo này đi, 10d nhá!
Tuy mệt, nhưng không dằn được cơn giận, tôi quát:
- Đừng có điên, cút đi! Áo người ta đang mặc, lại đòi mua!
Nó vẫn nhe răng, hàm răng cải mả nhơm nhếch:
- Chắc bố bệnh, nên khó tính, thôi, con trả bố thêm 2 kí gạo nữa, như vậy cũng ra 13 đồng rồi! Bố chịu chứ?
Tôi không trả lời, cứ nhắm mắt như ngủ. Chiếc áo bằng vải kaki mầu xanh công nhân, trong có lót bông, dùng được cả hai mùa, nóng cũng như lạnh. Áo này do Hanội sản xuất giá 100đ của bà già vợ gửi cho, khi còn ở Nghĩa Lộ, nay nó trả 13 đồng, làm như tôi ngu lắm! Vừa nghĩ tới đây, bỗng nghe tiếng kêu:
- Đôi dép mới của tôi để đây đâu rôi?
Tôi hé mắt nhìn, thấy một anh đang loay hoay tìm dép, nhưng làm sao tìm nổi, vì đây toàn những tay tổ ăn cắp ở chợ Đồng Xuân, bến ô-tô và nhà ga, chẳng may bị sa lưới!... Khi về, anh bạn chịu khó đi chân đất vậy! Hơi khó đi một chút vì đường trải đá lổn nhổn. Qua kinh nghiệm nhiều người nói, mỗi lần đến đây, tôi tụt dép kê dưới đầu làm gối, cho chắc ăn. Bữa nọ, cũng đi trốn “khách”, một anh bị rút luôn cây bút máy, để ở túi áo trong có gài nắp. Lúc về đến trại mới hay!
Ai cũng tưởng sống dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, mọi người đều phải làm ăn lương thiện, ai ngờ, số người phạm pháp còn nhiều hơn cả Saigon về các tội trộm cắp, hiếp dâm, đâm chém, buôn lậu. Chỗ nào cũng thấy trại tù. Tôi cũng chẳng hiểu vì sao, họ luôn luôn giam giữ chúng tôi gần nơi nhốt tù hình sự?
Nói cho đúng, tù hình sự nể chúng tôi lắm vì họ biết chúng tôi không thuộc thành phần của họ. Tù hình sự đói, đói hơn chúng tôi nhiều. Thời gian gần đây, tù chính trị còn có thăm nuôi, chỉ riêng họ, vì thuộc thành phần hư hỏng của gia đình cũng như xã hội, nên chẳng mấy khi được thăm nuôi, tiếp tế. Do đó, phần đông đều gầy guộc. Họ đói đủ thứ, cả cơm lẫn thuốc. Mỗi lần chúng tôi đến đây trốn, họ bu lại xin thuốc lào, thuốc lá, nhưng lấy thuốc đâu mà cho khắp lượt, nên họ phải nhặt dưới đất những bã thuốc, vê lại, hút đỡ cơn ghiền.
Sau lần đi trốn, chừng hai ngày, một buổi sáng vừa thức dậy, khi cửa “chuồng” chưa mở, từ trong nhìn ra tôi thấy một đống Công An đứng lổn nhổn ngoài sân. Tên Thịnh, tay cầm xâu chìa khóa lúc lắc, đang gườm gườm nhìn vào “chuồng” như dò xét. Khi nó năn nỉ tù mua dùm đôi gà, nét mặt nó có dữ dằn như lúc này không? Tôi đoán chuyện gì sắp xẩy ra! Tuy chưa khỏi bệnh, nhưng đã ăn được chút cháo, người mệt rã rời! Cũng nhờ sự săn sóc tận tình của Tấn và Hùng, hai người bạn tù trẻ, nên tôi chỉ nằm một chỗ, mọi việc đã có họ lo chu đáo. Trong khoảng thời gian này, tôi mang ơn hai người đó.
Tiếng mở khóa sáng nay nghe có vẻ quyết liệt, từ lối kéo chốt, tới lối mở cửa. Mấy tên Công An vũ trang đứng ở mỗi góc sân và nơi cửa ngõ. Chúng tôi xếp hàng hai đi ra, tay cầm khăn mặt, bàn chải đánh răng như mọi sáng. Khi đã ra hết, chờ lệnh tan hàng như mọi hôm mà không thấy. Tên Thịnh lạnh lùng ra lệnh:
- Các anh, xếp hàng tư ngồi ngay giữa sân, không ai được đánh răng, rửa mặt gì hết!
Tất cả ngồi chồm hỗm, mặt mày ngơ ngác. Mọi người đều nghĩ ngay đến chiếc Radio. Chắc chắn phen này sẽ chết, vì nó còn nằm trong buồng, chưa kip mang ra giấu như mọi hôm, trước giờ lao dộng. Toán Công An tràn vô buồng. Ở ngoài, tên Thịnh nói:.
- Hôm nay, điểm nghiệm buồng. Khi chúng tôi khám đến chỗ ngủ của anh nào, anh ấy vào, khi khám xong, trở ra phải ngồi trên nền cao kia. Cấm không được di chuyển từ nơi này qua nơi khác, nếu không có phép. Các anh nghe rõ chứ?
- Rõ!
Cuộc điểm nghiệm bắt đầu. Hai người nằm sát cửa được gọi vô trước. Tôi đoán thế nào tụi nó cũng lục xét tư trang, chiếu mền cũng như tất cả những gì anh em có, rất kỹ chứ không lơ là như những lần trước, vì mục đích của tụi nó là tìm chiếc Radio. Chừng nửa giờ sau, hai người đó ra, đi thẳng lên bệ đất cao ngồi xuống, có tên Công An vũ trang coi chừng. Hai anh đưa mắt nhìn về phía chúng tôi hình như muốn nói bằng mắt điều gì, nhưng không ai đoán được tín hiệu đó. Tiếp đến hai người khác vô, khám xong ra, hai người khác vô tiếp.
Ánh nắng đã lên cao. Quá mệt, tôi nằm ngay trên nền đá, mắt nhắm lại. Hùng, ngồi cạnh tôi, đứng dậy nói với tên Thịnh:
- Thưa cán bộ, anh này bệnh nặng, xin cán bộ cho phép vô buồng nằm!
Tên Thịnh đi vào hội ý với mấy tên khác, lúc trở ra, bằng lòng cho tôi vô, nằm trên chiếc võng của Hùng mắc ngay bên chiếc cửa sổ đầu buồng. Tôi nằm trên võng hé mắt nhìn tụi Công An khám anh em. Quả nó khám kỹ thật, không bỏ sót một vật gì, chăc chắn thế nào cũng tìm ra chiếc Radio, như vậy, thế nào cũng có người chịu trách nhiệm và cả “chuồng” chịu ảnh hưởng lây. Ai nấy đều phập phồng lo sợ! Cái lối đi ở giữa, xếp đầy đồ mỗi tối mang vô, sáng mang ra, tụi Công An chưa sờ tới. Chúng chỉ khám chỗ ngủ cùng tất cả những gì để trên đó và khám người. Đã có anh bị mất tiền.
- Ai cho anh giữ tiền Ngân? A, 60 đồng. Tên gì? Thôi cho anh ra.
Anh mất tiền lùi lũi đi ra, mặt như đưa đám. Cuộc khám xét dần dần đến chỗ tôi nằm. Tôi phải xuống võng lần tới chỗ ngủ để chúng khám.
Tên Công An an ninh nhìn thấy tôi, nó nhe răng cười:
- À, anh nay làm thơ, viết văn, vẽ hay lắm, yêu cầu các đồng chí, khám thật kỹ cho tôi!
Hai tên Công An vũ trang nghe lệnh, khám rất kỹ. Không một thứ gì, nó không lần không mò. Nhưng chúng nó chẳng tìm thấy gì, vì có mấy đồng Ngân tôi đã vo tròn quăng xuống rãnh nước ngoài sân từ trước. Tên an ninh lại cho lệnh:
- Các đồng chí khám người, bắt anh ta cởi hết áo quần ra!
Tôi biết tên này muốn trả thù tôi vụ bữa trước, tôi không chịu cung cấp những tin nó cần biết. Nhân dịp này nó muốn làm nhục tôi như tên Kỹ đã vì chiếc Zippo, hạ nhục tôi ở Lào Cai. Tôi đang bệnh lại cởi trần truồng ra khám quá lâu, nên muốn xỉu. Cũng chẳng thấy gì, tên vũ trang bảo tôi mặc quần áo vô.
Cuộc khám xét tiếp tục đến trưa mới xong, cả trên lầu, dưới nhà, chỉ còn lại những thùng đồ để ở lối đi.
Tên Thịnh ra cửa, cho lệnh:
- Anh nào có đồ để ở lối đi, vào nhận để khám.
Một số người ùa vô. Chính nhờ dịp này, chiếc Radio đang ở trong tình trạng nguy cấp được chuyển đến chỗ an toàn. Câu chuyện xảy ra ngoài sức tưởng tượng. Trong khi đang khám, một anh có nhiệm vụ cất radio mỗi sáng, đã được khám xong ngồi trên bệ cao, anh xin đi đái. Tên vũ trang cho đi. Khi đi ngang chỗ anh em ngồi, đến miệng cống, anh vừa đái vừa nói khẽ với anh sĩ quan Dù, chỗ cất chiếc Radio. Khi nghe tên Thịnh cho lệnh, anh này ào đến, nhưng thấy Công An nhiều quá, sợ lộ, lại đi ra. Anh Hạ Sĩ I ngồi kế bên đứng dậy, lừng lững đi vô, bất ngờ đưa ngay cái thùng có giấu chiếc radio lên chỗ đã khám, xong đi ra như không có chuyện gì,. Nhờ sự gan dạ ấy, chiếc radio thoát nạn!
Sau cuộc khám xét bất ngờ từ 7 giờ sáng tới 1 giờ trưa, tụi Công An tịch thu được trên 1,000đ tiền Ngân. Cũng trong thời gian ấy tụi Công An còn khám xét 3 buồng nữa. Các buồng không bị khám, bi nhốt trong “chuồng” chờ khám xong, mới được mở cửa. Sau cuộc khám quá lâu, anh em ai cũng bơ phờ mệt mỏi! Những tên Công An không tham dự vào cuộc khám xét biết chuyện, đều đinh ninh thế nào cũng tìm ra chiếc Radio và kẻ trách nhiệm sẽ bị còng tay dẫn đi. Ngày hôm sau, Trại phạt biệt giam Đội trưởng về tội buôn bán lia chia. Đó là lý do giả tạo, nhằm bắt giữ. Sự thực, anh này không phải chủ chốt. Sau đó một tuần, tên Công An Bảo cho lệnh lấy hết đồ tư trang của Đội trưởng mang đi. Cũng kể từ ngày đó, anh em không ai còn gặp Đội trưởng đội 15 đâu nữa
Vì tình hình không thuận lợi, tụi Công An bắt đầu để ý. Chắc thế nào cũng bị khám bất tử, nên bữa nọ, anh em đã quyết định hy sinh đập vỡ chiếc Radio đang dùng vứt mỗi nơi một mảnh để phi tang. Tưởng vậy là xong, sau vì nhu cầu tin tức, anh em lại đồng lòng thuê cái khác, chứ không mua nữa. Tiền thuê do sự đóng góp mỗi người một chút. Thấy cuộc khám xét không đạt được kết quả, tên Công An cho thuê mừng quá, vội chuyển chiếc Radio ra khỏi vòng đai Trại, ngay trưa hôm đó. Tên Công An cho thuê Radio, mất ăn ngủ mấy ngày đêm sau vụ khám xét đột xuất. Bí mật của chiếc Radio, người viết xin giữ kín. Câu chuyện kể trên, bỏ bớt nhiều chi tiết, không nêu danh tánh vì còn một số anh em liên hệ hiện đang bị giam giữ. Chỉ biết, sở dĩ tụi nó biết được vì anh em quá chủ quan, khinh địch, mỗi sáng họp các “chuồng” để phổ biến tin tức ào ào, làm sao không lộ?
Lúc trước, mình thua trận, một phần cũng vì để lọt những bí mật quân sự. Báo chí loan những hàng tít lớn, hấp dẫn để câu độc giả! Ai cũng vỗ ngực tự cho mình thạo tin! Nếu bây giờ, vì một phép lạ nào đó, Quốc Cộng lại uýnh nhau, có lẽ, Quốc Gia sẽ thua lần nữa vì thiếu ý thức bảo mật, phòng gian!
Từ ngày đó, hoàn toàn không còn tin tức quốc ngoại. Anh em lại đoán mò như lũ thầy bói mù sờ voi qua tin tức thăm nuôi!
Thiện, Tổ trưởng của tôi, đi phép về Saigon hơn 1 tháng vừa trở về Trại. Đây, người tù đặc biệt. Cá nhân anh, mang “tội nặng với chế độ”, nhưng ông già và các em anh lại có nhiều công trạng với Cách Mạng. Ông già anh, đã từng nuôi và che chở cho Phạm Hùng trong thời hoạt động bí mật mấy chục năm trước. Phạm Hùng hiện là Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ trong chính quyền Cộng Sản, Ủy Viên Trung Ương Đảng. Những ngày đầu Cách Mạng, Phạm Hùng chỉ huy tất cả các cơ sở chính phủ miền Nam ngụy tạo. Thiện có 2 người em rể, một người là Chánh văn phòng, người kia là Bí Thư của Phạm Hùng. Do sự vận động và bảo lãnh của hai tên này, Thiện được đi phép về làm đám tang ông già mới mất.
Khi vô Trại, anh có mang rất nhiều quà và tiền, do gia đình anh em cải tạo quen biết gửi. Anh bị khám sơ sài vì tụi Công An biết anh có liên hệ lớn với Bộ Nội Vụ. Tên Công An an ninh hỏi:
- Tại sao gia đình anh “nàm nớn” trong chính quyền Cách Mạng mà không khai?
Anh trả lời:
- Gia đình khác, tôi khác. Mỗi người một chí hướng, ai làm nấy chịu. Tôi không khai vì không muốn cầu xin ân huệ.
Thiện đã nói như vậy khi anh đến thăm tôi sáng hôm sau, cũng như ở Lào Cai, anh đã nói: “bắt và giết Cách Mạng nhiều quá, không nhớ hết! “
Tôi hỏi Thiện:
- Tại sao không lợi dụng thời gian nay vọt luôn.
Thiện trả lời:
- Trốn cũng được, nhưng sợ liên lụy đến hai đứa em rể.
Anh cũng cho biết, vợ và hai con anh đã vuợt biển từ năm 1978 đến nay vẫn chưa có tin tức, chẳng biết ra sao? Tuy không nói ra, sợ Thiện buồn, nhưng tôi tin với thời gian lâu vậy, vợ con anh chắc đã nằm lại dưới lòng Đai Dương! Thiện còn cho biết qua về hiện trạng của Thành phố Sàigon rất buồn nản, không còn nhộn nhịp như xưa. Các đường phố vắng hoe, toàn xe đạp. Các triệu phú đều ngồi ở vỉa hè bán lạc-soong. Các sĩ quan trẻ được tha về sớm, phần nhiều làm nghề lái xe ôm, đạp xích lô hay chạy mánh thuốc tây. Hầu hết, dân Saigon lúc này đều sống do những gói quà từ ngoại quốc gửi về. Công An chỗ nào cũng có, nhất là tên Công An khu vực, luôn luôn kiềm chế các gia đình ở trong “ô” do nó phụ trách! Vấn đề vượt biên cũng khó khăn lắm, không dễ như mình tưởng. Nhưng Sàigòn vẫn bình yên dưới sự cai trị của Cộng Sản từ tháng 5-75 đến nay, chưa có chuyện gì trọng đại xẩy ra. Phong trào Phục Quốc lai rai, hoạt động chưa hiệu quả bao nhiêu. Trong một tháng anh ở Saigon không nghe thấy tiếng súng, hoặc nhặt được một tờ truyền đon chống Cộng nào. Dân chúng Saigon tuy không ưa Cộng Sản nhưng cũng buông trôi vì hoàn cảnh không cho phép đấu tranh như dưới thời ông Diệm, ông Thiệu. Các nhà thờ và chùa vẫn hoạt động, chỉ khác, bây giờ có những “linh mục và đại đức Quốc doanh”. Nói tóm lại, Sàigòn vẫn còn đó, nhưng không khí sinh hoạt của Sàigòn đã mất từ lâu. Sàigon đang biến hình dưới vòng quay của lịch sử!
Ngày tháng qua đi, tiết trời đã vào thu từ lúc nào. Tôi ngồì nơi thềm đá, nhìn lên sườn núi, mầu vàng đã che lấp mầu xanh, tạo cho cảnh vật một nỗi buồn hiu hắt. Những cơn gió hiu hiu thổi liên tục làm cây cối không lúc nào đứng yên, ngã nghiêng run rẩy! Ở tù lâu, đôi khi tạo cho mình cảm giác, nó là đời sống đích thực, ngoài nó, không còn gì! Anh bạn tù nằm kế bên, tối nay lại thì thầm:
- Ông ơi, sắp có một số chuyển trại đó!
Tôi ậm ừ cho anh bằng lòng. Lần này tôi không hỏi xuất xứ, nhưng chỉ mấy hôm sau, tin đó trở thành sự thật.
Một sáng, anh em sửa soạn đi lao động, được lệnh ra sân lớn tập họp. Danh sách chuyển trại được phổ biến, đặc biệt chuyển vô Nam. Tên Huy nói:
- Lần chuyển trại này, Đảng và Nhà Nước tạo điều kiện cho các anh sống gần gia đình, chờ ngày được tha. Ai có tên trong danh sách chuyển trại nên mừng vì ngày về sắp tới. Các anh sắp được gặp môi trường quen thuộc, xa rời mùa lạnh đất Bắc!
Đi song song với danh sách chuyển trại là danh sách biên chế. Tất cả đều xáo trộn. Những người chuyển trại tập trung trong 4 buồng, anh em gọi là “giàn phóng”. Tài, người bạn trẻ đi chuyến này. Chúng tôi nấu chè, tiễn nhau. Họ ở trại gần 1 tuần mới chuyển, trong buổi sáng, mưa tầm tã, hình như ông trời cảm thông với nỗi chia ly nên nhỏ lệ. Tất cả những người chuyển trại đều phải còng tay khi lên tầu hỏa từ ga Bình Lục, gần Phủ Lý. Hôm sau, chúng tôi nghe tụi Công An vũ trang áp tải nói lại như vậy!
Trại A chừng 200 người, Trại B và Trại C 300 người nữa, tổng cộng 500 người đi vô Nam trong đợt đầu và rồi đây sẽ còn những đợt kế tiếp!
Từ ngày có chuyến vô Nam, cũng từ đó, anh em sống trong tình trạng phập phồng, chưa biết lúc nào, mình có tên, nên mọi thứ đều được tính toán để lên đường ”vượt Trường Sơn” cho gọn ghẽ. Qua kinh nghiệm chuyến vừa rồi, anh em phải vứt đi rất nhiều thứ tại ga Bình Lục vì mỗi người chỉ được mang một số kilô vừa đủ.
Nào mì ăn liền, nào gạo được bán đi tới tấp. Giá gạo lúc nay rẻ bằng nửa giá gạo Ba Sao. Mọi thứ đều xuống giá. Các tay buôn tha hồ thao túng. Tụi Công An cũng mua gạo của tù để bán lại kiếm lời. Nhưng sau khi bán rồi, mấy tháng sau vẫn chưa có lệnh chuyển trại, giá đồ ăn lại lên dần và đắt hơn khi chưa chuyển trại. Vì mọi người đã tới tấp gửi thư chui về gia đình bảo đừng ra thăm nuôi nữa, sắp vô Nam. Thị trường thực phẩm mỗi ngày một giá. Thật chẳng ai ngờ, ở giữa trại tù còn có thị trường chọ đen, chợ đỏ!
Một bữa trời đổ lạnh, cái lạnh ghê người do mưa gió tạo nên. Tôi ngồi trong “chuồng” buồn bã nhìn ra ngoài. Một bạn tù làm tại “nhà văn hóa” đi vô, ngoắc tay, ngỏ ý muốn nói với tôi chuyện gì quan trọng. Tôi chạy ra, anh nói nhỏ:
- Bác có khả năng “về” chuyến này đó. Tôi vô tình, vừa được nhìn thấy có tên bác trong danh sách đề nghị tha vì quá già yếu!
Tuy không tin, nhưng tôi cũng cảm ơn người bạn tù, rồi quên đi, vì tự nghĩ, làm sao Cộng Sản lại có thể tha tôi, “một tên cực kỳ phản động, điên cuồng chống phá Cách Mạng” như đã đăng tải trên mặt báo chí miền Bắc cũng như miền Nam mỗi lần nhắc đến tên? Chế Lan Viên khi vào Sàigòn, nói chuyện về văn hóa với anh em văn nghệ sĩ miền Nam sau ngày chiếm đóng đã vu cho tôi, dùng văn nghệ để làm chính trị! Bài nói chuyện này được đăng tải trên tờ Văn Nghệ, cơ quan phổ biến Văn Học Nghệ Thuật của miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, tôi được đọc khi còn ở Nghĩa Lộ. Với thành kiến đó, làm sao tôi có thể được tha một cách dễ dàng?
Nhưng những gì không ngờ nhất, có khi lại xảy ra, và tôi đã được gọi tên để tha, trong buổi sáng đầu mùa đông thứ 5 trong nhà tù miền Bắc. Hùng từ ngoài cổng chạy vô:
- Bố sửa sọạn đi về, con nghe rõ tên và năm sinh, không sai đâu!
Tôi sững người, tưởng như trong giấc mơ. Hùng đứng bên cứ thúc giục tôi sửa soạn gấp, nhưng lúc này làm sao tôi còn đủ bình tĩnh để thu xếp. Tôi nhờ Hùng và Tấn, hai người bạn trẻ, giúp tôi xếp đặt hành trang, còn tôi cứ đứng như khúc gỗ. Không hiểu sao, hai giòng lệ tự nhiên chảy dạt dào tưởng như mình đã chết được hồi sinh! Tên Bảo, cán bộ Buồng, ngồi chồm hỗm trên chiếc bệ cao nói lè nhè:
- Anh có muốn về không? còn đứng đấy! Chỉ có 15 phút để sửa soạn thôi đó!
Lời nói như đưa tôi ra khỏi cơn mơ. Tôi chạy đến phía Hùng và Tấn để cùng thu xếp cho mau. Số lượng lương thực thăm nuôi, tôi tặng lại hai người bạn trẻ. Giờ này anh em đã đi lao động hết. Tôi nắm tay từ giã vài người bệnh ở nhà, ai cũng chúc tôi mọi sự may mắn. Hùng mang dùm tôi hành trang ra ngoài. Tên Thịnh đã chờ sẵn để điểm nghiệm, nhưng lúc này tôi chẳng còn gì để khám lâu. Hùng, nắm chặt tay tôi lần cuối, trước khi tôi băng qua chiếc cổng sắt lớn. Vừa đi, tôi vừa quay lại nhìn, Hùng cứ đứng ôm cánh cửa sắt nhìn theo!
Ra tới nhà trực, chúng tôi hơn 10 người, lại được gọi tên lần nữa, để xác nhận quê quán, địa chỉ. Lát sau, một chiếc xe vận tải dừng nơi mé đường. Tên Công An có nhiệm vụ lo thủ tục trả tự do cho chúng tôi đã ngồi sẵn trên ca-bin. Nó cho lệnh tất cả lên xe.
Trước khi xe chạy, tôi quay lại nhìn lần chót nơi đã giam giữ tôi gần 3 năm trời với nhiều kỷ niệm buồn. Từ nay, tôi khỏi phải nghe mỗi ngày 14 lần kẻng gõ từ sáng sớm tới giờ ngủ. Ôi, tiếng kẻng chát chúa, mỗi lần đánh lên, như đánh vào giữa trái tim, làm nhức nhối, buốt tê từng sợi thần kinh cảm giác.
Xe chạy qua nhà thăm nuôi, tôi nhớ đến những lần thăm nuôi đã qua. Biết bao nhiêu chuyện vui cũng như chuyện buồn đã xảy ra trong kích thước hạn hẹp này. Tất cả như một cuốn phim quay chầm chậm, những hình ảnh nổi bật trong mỗi suy nghĩ, làm hồn tôi bâng khuâng. Bao nhiêu trạng huống khốn khó, bao nhiêu tình cảm cả vui tươi lẫn buồn thảm đã diễn ra trong mỗi lần gặp mặt. Nào người mẹ già mắt nhòe lệ ôm chặt đứa con đang trong vòng tù tội bằng đôi tay run rẩy. Nào người vợ hiền, khuôn mặt phờ phạc, đôi mắt thâm quầng qua nhiều đêm mất ngủ vì nhớ thương chồng, đang úp mặt vào lòng bàn tay, trong giây phút gặp gỡ thứ nhất giữa mình và người chồng thương yêu đã mấy năm xa cách. Nào những đứa trẻ thơ ôm chặt lấy người cha như không có cách nào gỡ bỏ. Tất cả đang quay cuồng trong tiềm thức tôi làm choáng váng. Từ trên khoang xe, tôi nhìn xuống chân núi, anh em tôi đó, đã cùng tôi gánh chịu bao nỗi nhục nhằn trong những năm tháng dài cải tạo từ miền Nam ra miền Bắc. Họ vẫn có và còn đó, vẫn chân lấm tay bùn đang lao động khổ sai dưới con đê thủy lợi và trên các dốc núi cheo leo!... Biết đến bao giờ họ mới vượt thoát được giai đoạn khốn khổ này? Tôi nhìn thấy những cánh tay đưa lên vẫy vẫy để thay lời từ biệt.
Chiếc xe đã leo qua con dốc, chạy khuất sau triền núi. Từ phút đó, giữa tôi và những người ở lại không còn thấy nhau. Xe chạy chừng 3 cây số, quẹo vô Trại C đón thêm người được tha. Đây, lần thứ nhất, tôi nhìn thấy trại C. Ở ngoài nhìn vào, nó như một xóm làng hiền hòa, có bụi tre, đụn rơm, gốc chuối, có nhà ngói, cây mít. Nhưng sau những vật đó là trại giam với những dẫy nhà dài ẩn khuất đó đây. Tôi nghe nói, có những căn nhà ở dưới trũng sâu, mỗi mùa nước lại bị ngập lụt, nước dâng lên tới chỗ nằm. Phân người và phân súc vật dâng theo làm cho những căn nhà đó trở thành dẫy nhà cầu hôi thối!
Những người được tha đã đứng chờ sẵn ở sân với hành trang. Tên Công An đứng gần đó, làm hiệu cho xe dừng lại. Tôi nhìn thấy thấp thoáng sau những khuôn cửa, nhiều khuôn mặt ngơ ngác ngó chúng tôi như thèm ước. Tấm chắn hậu được hạ xuống, số người được tha ào lên. Có người nóng nẩy leo lên phía thành xe, hình như họ sợ, nếu không lên kịp xe chạy, sẽ để họ ở lại! Tôi gặp lại Lâm, Hải Quân Trung Tá cũng ra Bắc trên tầu Sông Hương, người đã xác định đúng vị trí di hành của con tầu. Anh được tha vì lý do sức khỏe. Tuy còn trẻ, nhưng bị bệnh đau ruột, vừa trải qua cuộc giải phẩu tại Bệnh viện Phủ Lý, suýt chết! Tất cả hơn 20 người cùng chuyến, chúng tôi nhìn nhau hỉ hả vì vừa thoát qua một tai nạn vô cùng khủng khiếp.
Chiếc xe đưa chúng tôi tới trại Mễ ngay tỉnh Phủ Lý để chờ làm thủ tục như lăn tay, trả tiền và đồng hồ nếu có, sau cùng ký giấy ra Trại.
Trại Mễ, trại tù bệnh. Nơi đây xưa kia là trường tiểu học, nay vì nhu cầu, tụi Công An sửa lại, dùng làm chỗ giam tù bệnh, cả chính trị, lẫn hình sự. Ở đây, tôi được nhìn thấy nhiều bộ xương biết đi. Họ đi tha thẩn, nhặt từng cọng rau cho vào mồm nhai ngấu nghiến và họ ăn tất cả những thứ gì có thể ăn được, vương vãi trên mặt đất hay dưới đường mương. Họ nhặt bã thuốc lào và những mẩu thuốc lá thừa để hút cho qua cơn ghiền.
Họ là những người tù hình sự can tội ăn cắp, ăn trộm. Những người bị giam ở đây không một ai can án dưới 3 lần, kể cả những người ít tuổi nhất. Họ là những con ma đói khát, sống vật vờ chờ ngày chết. Đến giờ lãnh cơm, họ leo lên tường thò chiếc đầu trọc lóc, hai hố mắt trũng sâu, nhe hàm răng vàng khè, như chiếc sọ người biết cử động, lơ láo nhìn chúng tôi để xin ăn. Khu vực giam họ, bị khóa chặt, cách biệt với nơi giam tù chính trị. Những cánh tay khẳng khiu, đen đúa, bẩn thỉu, chìa ra để đón nhận bất cứ cái gì đưa tới.
- Ông ơi, con đói quá, nếu ăn thừa, ông cho con, đừng đổ đi, tội nghiệp!
- Ông ơi, cho con xin một bi thuốc lào đi, thèm quá rồi, không chịu nổi! Nếu không, ông hút thừa cho con cái bã nhé!
- Ông ơi, nhặt dùm con mẩu thuốc lá ở chân tường kia kìa. Ông nhặt dùm con đi, con cảm ơn ông nhiều!
Đó, mỗi ngày tôi đều nghe thấy những lời kêu xin nhu vậy. Cầm lòng không được, tôi móc túi rút điếu thuốc đưa cho một tên tù trẻ. Vừa lúc đó, người Đội trưởng hình sự đi tới nói:
- Anh đừng cho tụi nó làm gì, anh đừng nghĩ rằng, như vậy nó biết ơn anh đâu. Trong trường hợp nếu có thể lấy được của anh cái gì, là nó lấy luôn đó.
Giữa lúc ấy, từ phía bên trong có tiếng kêu la dữ dội. Tôi hỏi người Đội trưởng.
- Chuyện gì vậy?
- Chúng nó đang thanh toán nhau.
- Anh là Đội trưởng sao không vào can thiệp nhỡ nó đánh chết nhau thì sao?
Người Đội trưởng cười:
- Chuyện đó thường quá, ngày nào cũng xẩy ra!
Nhưng tiếng la hét mỗi lúc một to, bên trong có nhiều tiếng động. Người Đội trưởng rút chìa khóa ra, mở cửa khu giam. Lát sau tôi thấy anh nắm ngực áo một tên tù hình sự khá to lớn, tay kia anh loi vào người nó huỳnh huỵch, trước những con mắt lơ láo của những tên tù khác vây quanh. Sau khi khóa cửa, anh đưa tên tù đến một nơi nào chẳng biết. Bên trong nhà giam yên lặng, những bộ xương biết đi lại đứng lởn vởn trong chiếc sân nhỏ. Đúng là cảnh Địa Ngục trần gian.
Tôi được biết, Đội 20 cũng đang bị kiên giam nơi đây, trong một khu riêng, không ai được ra vào tiếp xúc, trừ người Đội trưởng tù hình sự, có nhiệm vụ mang cơm nước hàng ngày. Tôi nhờ anh cho gửi lời thăm và mong anh em giữ vững tinh thần. Tôi đứng ngoài nhìn vào khu biệt giam, lòng bùi ngùi, thương cảm. Dẫy nhà biệt giam chỉ có lỗ thông hơi trên cao, trông im lìm hiu quạnh! Người Đội trưởng cho tôi biết, tất cả đều bị cùm một chân, mỗi ngày được bỏ cùm chừng 1 tiếng để làm vệ sinh cá nhân và đi lại quanh buồng để tránh bệnh tê liệt. Tất cả tự do đều bị hạn chế, không được thăm nuôi, không được viết thư. Nhưng chẳng vì thế tinh thần anh em xuống thấp, vẫn sống vui vẻ và hát những bài ca chống Cộng suốt ngày. Khi được tin tôi có mặt ở nơi này, chờ làm thủ tục tha về, tất cả đều reo mừng la hét.
Người Đội trưởng sợ quá, phải năn nỉ mọi người chớ làm như vậy, nếu “ông Công An vũ trang” biết được, khổ cả tôi lẫn các anh. Cường gửi lời chúc mừng tôi và nhắc đừng bao giờ quên anh em! Dù Cường chẳng dặn, tôi cũng không bao giờ quên những ngày tù tội gian khổ, quên những người đã và đang sống dưới Đáy Địa Ngục nhất là Đội 20, với tinh thần kiên cường bất khuất đã đám trực diện chống lại bạo lực ngay trong nhà tù nổi tiếng khắc nghiệt nhất thế giới. Tôi cũng không quên nơi đây Huy và Cát cùng nhiều anh em khác đã trút hơi thở cuối cùng, giã từ kiếp tù đầy!
Tôi ở lại trại Mễ đúng 1 tuần để chờ chuyến tàu. Trong suốt 7 ngày, ngày nào tôi cùng nhìn vào khu biệt giam vắng vẻ, đang cầm giữ trong nó 29 linh hồn cao cả, nhân danh hàng trăm ngàn các cấp trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và dân sự, hiện còn bị giam giữ khắp giải quê hượng, để nói cho Cộng Sản biết không bao giờ họ có thể áp đặt toàn vẹn chế độ độc tài vô sản chuyên chính trên mảnh đất Việt Nam mãi mãi.
Một ngày nào đó, chế độ Cộng Sản sẽ sụp đổ theo luật đào thải và cũng theo ý muốn của toàn dân Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, cùng góp sức đấu tranh xây dựng lại Việt Nam với tinh thần yêu chuộng Tự Do, Công Bằng, Bác Ái.
Khởi viết ngày 25-9-82
viết xong ngaằy 15-12-82
tại trại Ty Nạn Sungei Besi (Malaysia)
TẠ TỴ
Đáy Địa Ngục Đáy Địa Ngục - Tạ Tỵ