There is always, always, always something to be thankful for.

Unknown

 
 
 
 
 
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Cuckoo's Calling
Dịch giả: Hồ Thị Như Mai
Biên tập: new wind
Upload bìa: new wind
Số chương: 8
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3213 / 103
Cập nhật: 2015-11-04 19:05:47 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6: Phần Bốn
ptimumgue est, ut volgv dixere, aliena insania frui.
Sự đời đã tỏ xưa nay
Người khôn phải biết dùng tay kẻ khờ.
- Pliny the Elder, i###Historia Naturalis
1
Sáng sớm thứ Năm Strike đến Hội sinh viên Đại học London để tắm rửa và mặc quần áo tươm tất hơn thường lệ trước khi đi gặp Guy Somé tại studio riêng. Từ trang web của Guy Somé, hắn biết tay này rất khoái mấy thứ như quần áo cao bồi mặc ngoài bằng da đã sờn, cà vạt bằng lưới thép và băng quấn đầu màu đen trông như cắt ra từ những chiếc mũ quả dưa cũ. Biết vậy và cũng hơi muốn trêu ngươi, hắn cố tình ăn mặc thật chỉn chu. Hắn chọn bộ complet màu xanh đậm mặc hôm đến nhà hàng Cipriani.
Studio của Guy Somé là một nhà kho cũ từ thế kỷ mười chín, nằm bên bờ bắc sông Thames. Mặt nước sông lấp lánh làm Strike chói mắt khi hắn đi tìm lối vào vì không có biển chỉ dẫn gì cả. Bên ngoài nhà kho không hề có lấy một cái bảng hiệu.
Cuối cùng hắn tìm ra một cái chuông cửa lắp kín đáo, cũng không có tên tuổi dán kèm. Hắn bấm chuông, cửa mở tự động từ bên trong. Hành lang trống trải, thông thoáng, có điều hòa mát lạnh. Có tiếng leng keng lách cách. Trước mắt hắn hiện ra một cô gái tóc đỏ như cà chua, mặc đồ đen từ đầu đến chân, tay đeo rất nhiều vòng bạc xủng xoảng.
“Ô,” Cô ta thốt lên khi thấy Strike.
“Tôi có hẹn với ông Somé lúc mười giờ,” hắn nói, “Cormoran Strike.”
“Ô,” cô ta thốt lên lần nữa. “Ô kê.”
Cô ta biến mất, cũng với âm thanh leng keng đó. Trong khi chờ đợi Strike gọi cho Rochelle Onifade. Kể từ hôm gặp Rochelle mỗi ngày hắn đều gọi khoảng mười lần. Vẫn không ai nghe máy.
Một phút sau, một người đàn ông da đen nhỏ bé đột ngột xuất hiện, bước về phía Strike. Ông ta mang giày lót cao su, đi đứng nhẹ nhàng như mèo. Khi đi ông ta lắc hông hơi quá, phần thân trên lẫn hai cánh tay gần như bất động, trừ hai bờ vai đung đưa.
Guy Somé thấp hơn Strike dễ cũng đến ba tấc và chừng như chỉ có khoảng một phần trăm mỡ của hắn. Ông ta mặc áo thun ôm sát màu đen, phía trước ngực áo có hàng trăm cái khuy bạc nhỏ xíu tạo thành gương mặt Elvis Presley kiểu ba chiều, trông như một món đồ chơi tạo hình từ bản đinh. Lạ lùng hơn nữa, dưới lớp áo Lycra bó sát đó là sáu múi bụng rõ rệt. Somé mặc quần jean bó màu xám, có sọc nhỏ màu sẫm mờ mờ, mang giày thể thao màu đen hình như làm từ da bóng lẫn da lộn.
Gương mặt Guy Somé tương phản lạ lùng với thân hình gọn gàng chắc nịch. Mặt ông ta đầy những đường cong có phần thái quá: hai mắt lồi ra như mắt cá ở hai bên đầu. Hai gò má như cặp táo tròn, căng bóng và khuôn miệng rộng hình thoi với cặp môi rất dày. Đầu của Somé gần như một quả cầu nhỏ tròn trịa. Trông ông ta giống một bức tượng gỗ mun, tác phẩm của một anh nghệ nhân lành nghề, một hôm đâm chán nên buồn tay đục gõ thành biếm họa.
Ông ta đưa bàn tay ra, cổ tay hơi uốn lại.
“À, cũng có chút giống Jonny đó chứ,” ông ta lên tiếng, nhìn thẳng vào mặt Strike. Ông ta nói eo éo, có âm hưởng giọng người phía Đông thành phố. “Nhưng dữ dằn hơn.”
Strike bắt tay ông ta. Ngón tay ông ta coi vậy mà siết rất chặt. Cô gái tóc đỏ cũng vừa leng keng quay lại.
“Một tiếng tới tôi bận rồi, không nhận cuộc gọi nào cả nhé Trudie,” Somé dặn dò cô ta. “Đem ít trà bánh lên luôn cưng.”
Ông ta quay người điệu đàng, mời Strike đi theo.
Hai người đi dọc theo hành lang sơn trắng, qua một cánh cửa mở sẵn. Một người đàn bà châu Á mũi tẹt khoảng cỡ tuổi trung niên đang khoát tấm vải mỏng dát vàng lên người hình nộm. Bà ta nhìn Strike chằm chằm qua lớp vải. Căn phòng quanh chỗ bà ta đứng bật đèn sáng trưng như phòng phẫu thuật, đầy những chiếc bàn cắt vải với vô số vải vóc chồng lên nhau. Trên tường dán rất nhiều các bản vẽ nháp, ảnh chụp và ghi chú. Một người đàn bà tóc vàng nhỏ nhắn xuất hiện. Strike thấy y như bà ta đang mặc trên người một đoạn gạc băng vết thương khổng lồ màu đen. Bà ta nhìn Strike, cũng kiểu lạnh lùng, ngây ngô như cô Trudie tóc đỏ lúc nãy. Strike thấy trong không gian này mình thật to lớn và lông lá, cứ như thể hắn là con voi ma mút xù xì đang tìm cách trà trộn vào bầy khỉ mũ nhỏ nhắn.
Hắn theo chân nhà thiết kế đang oai vệ đi về phía cuối hành lang, lên cầu thang xoắn ốc bằng thép và cao su. Trên đó là một khu văn phòng rộng lớn, sơn trắng, hình chữ nhật. Tường bên phải là cửa gương lớn chạy từ trần đến sàn, nhìn ra sông Thames và bờ nam rất hoành tráng. Những bức tường trắng còn lại đều có treo ảnh. Strike để ý đến ngay tấm ảnh dài chừng ba mét phóng lớn từ tác phẩm “Thiên thần mắc đọa” tai tiếng, treo trên bức tường đối diện bàn làm việc của Somé. Nhìn kỹ hơn hắn nhận ra kiểu ảnh hơi khác so với tấm hình đã được đăng khắp thế giới. Trong tấm ảnh này, Lula cười rũ rượi, hất đầu về phía sau. Cần cổ thẳng tắp nổi bật trên mớ tóc dài xộc xệch vì cười, để lộ nhũ hoa sẫm màu. Ciara Porter vẫn ngước nhìn Lula, gương mặt vẻ như sắp cười, dường như chỉ vừa kịp hiểu vì sao Lula cười. Cũng như trong tấm hình đã quá nổi tiếng, người xem lập tức bị Lula cuốn hút.
Lula có ở khắp nơi trong căn phòng. Ở bên trái, cô ta đứng chung với một nhóm người mẫu khác, mặc áo lót trong suốt bảy màu cầu vồng. Xa hơn một chút là một tấm chụp nghiêng, trên môi và mí mắt dán vàng lá. Phải chăng Lula luôn biết điều khiển gương mặt mình trước ống kính, để cảm xúc luôn được thể hiện một cách tuyệt mỹ? Hay gương mặt đó chỉ là một bề mặt trong veo, phản chiếu tự nhiên những cảm xúc của cô?
“Kê đít xuống đâu cũng được.” Somé lên tiếng, ngồi phịch xuống chiếc ghế đằng sau bàn làm việc bằng gỗ sẫm màu và thép, trên mặt bàn đầy những bản vẽ. Strike kéo ra một chiếc ghế làm bằng một dải nhựa dẻo trong uốn éo. Trên bàn còn có một áo thun in hình Công nương Diana, màu mè như kiểu thánh mẫu Mexico. Chiếc áo đính đầy thủy tinh và hạt cườm, thêm một trái tim đỏ chót bằng vải satin bóng có thêu hình vương miện đặt lệch.
“Anh thích không?” Somé hỏi khi thấy Strike đang nhìn chiếc áo.
“Ồ thích chứ.” Strike nói dối.
“Bán sạch hết, dân Công giáo gửi thư chửi rủa nào là bất kính với lại khiếm nhã, Joe Mancura mặc một cái như vậy trong show Jools Holland. Tôi đang nghĩ làm thêm một mẫu tay dài mặc mủa đông với hình Hoàng tử William kiểu Chúa Jeus. Hay là làm Hoàng tử Harry, cho ở truồng cầm khẩu AK47 che chỗ súng ống? Anh thấy sao?”
Strike mỉm cười cho phải phép. Somé bắt chéo chân, chỉnh tư thế điệu hơn mức cần thiết rồi lại lên tiếng, giọng màu mè kẻ cả:
“Vậy ra ông Kế toán nghĩ là Cuckoo bị giết? Tôi luôn gọi Lula là ‘Cuckoo’ ấy mà,” ông ta giải thích không cần thiết.
“Đúng vậy, nhưng John Bristow là luật sư.”
“Tôi biết, nhưng Cuckoo và tôi luôn gọi ông ta là ông Kế toán. Thực ra là tôi gọi, thỉ thoảng Cuckoo mới hùa theo, nếu đang bực ổng. Ông ta suốt ngày xía mũi vào phần trăm lời lãi của Cuckoo, làm gì với ai cũng bòn tới từng xu. Chắc lão trả thù lao cho anh cũng bèo lắm?”
“Thực ra ông ấy trả gấp đôi.”
“Ồ vậy sao. Chắc giờ có tiền của Cuckoo nữa nên hào phóng hơn được một chút.”
Somé cắn móng tay, nhìn ông ta Strike tự nhưng nhớ đến Kieran Kolovas-Jones. Hai người này có vóc dáng khá giống nhau, nhỏ con nhưng cân đối.
“Thôi được, nói vậy cũng hơi ác mồm,” Somé lên tiếng, bỏ tay ra khỏi miệng. “Tôi chưa bao giờ ưa nổi John Bristow. Ông ta lúc nào cũng kè kè đi theo Cuckoo. Người đâu chán bỏ mẹ. Giống như bóng kín vậy đó, làm bộ hoài. Anh nghe ông ta ca nguyên bài về bà mẹ chưa? Đã gặp bà bạn gái của ổng chưa? Nói không ngoa, đàn bà gì mà như đeo nguyên bộ râu.”
Somé bức xúc tuôn ra một tràng miệt thị rồi tạm tốp lại để mở ngăn kéo thiết kế ẩn dưới bàn, rút ra một gói thuốc lá bạc hà. Strike để ý thấy Somé cắn móng tay còn cụt ngủn.
“Gia đình vậy đó hỏi sao Cuckoo khỏi khùng khùng như vậy được. Tôi hay nói với nó, ‘Bỏ quách họ đi, cưng ơi, bỏ đi rồi mới sống tiếp được.’ Nhưng nó không bỏ. Cuckoo là vậy đó, cứ lo mấy chuyện phí công vô ích.”
Ông ta mời Strike một điếu thuốc trắng muốt, tay thám tử từ chối. Somé bật quẹt Zippo có khắc hình để đốt thuốc, rồi vừa đóng bập nắp lại, vừa nói:
“Phải chi lúc đó tôi nghĩ ra chuyện đi thuê thám tử tư. Trước giờ chưa hề mảy may nghĩ tới nữa mà. Tôi mừng là có người đứng ra thuê. Kkhông thể tin con bé tự tử. Bác sĩ tâm lý nói là tôi vẫn đang tự dối mình. Hiện giờ tôi phải làm tâm lý trị liệu một tuần hai lần, chẳng ăn thua nước mẹ gì. Nếu uống Valium mà vẫn làm việc được, chắc tôi cũng chơi cả đống như phu nhân Bristow. Một tuần sau vụ của Cuckoo tôi có thử qua nhưng nốc vô là dật dờ cả buổi. Nhưng chắc nhờ vậy mới chịu được hết đám tang.”
Lại tiếng leng keng lách cách báo hiệu Trudie đang tới gần. Cô ta đi lên cầu thang, dần dần ló ra trước mắt hai người. Trudie đặt lên bàn một cái khay bằng gỗ sơn mài đen đựng hai ly uống trà kiểu Nga có viền chạm bạc. Trong ly là một thứ nước màu xanh tái bốc khói với vài lá bạc hà héo thả nổi. Trên khay còn có một đĩa bánh quy mỏng dính, trông như làm bằng than đá. Strike rầu rĩ nhớ lại món bánh nhân thịt, khoai tây nghiền và tách trà sữa màu gỗ gụ ở quán Phoenix.
“Cảm ơn Trudie. Cưng tiện tay lấy luôn giùm cái gạt tàn.”
Cô gái ngập ngừng, như sắp phản đối.
“Đi đi,” Somé cằn nhằn. “Ở đây tôi là sếp, nếu muốn tôi đốt hết cái nhà này cho coi. Tháo cục pin ra khỏi mấy cái máy báo động đi. Nhưng mà đem gạt tàn lên đây trước đã.”
“Tuần trước máy báo cháy kêu ầm ĩ, rồi vòi nước tự động mở tứ tung dưới nhà.” Somé giải thích. “Vậy nên bây giờ mấy tay tài trợ cấm tụi tôi hút thuốc trong nhà. Cấm cái đít.”
Ông ta rít một hơi sâu rồi phả khói thuốc ra đằng mũi.
“Anh không hỏi han gì hả? Hay anh chỉ ngồi đó làm mặt ngầu tới khi nào có người chịu nhận tội?”
“Thì hỏi vậy.” Strike nói, rút ra cây sổ và cây viết. “Khi Lula chết anh còn đang ở nước ngoài phải không?”
“Tôi mới vừa về nước vài tiếng trước đó.” Ngón tay của Somé đặt trên điếu thuốc khẽ giật nhẹ. “Trước đó tôi ở Tokyo, suốt tám ngày hầu như không ngủ chút nào. Về tới phi trường Heathrow lúc mười rưỡi tối, bị lệch múi giờ, oải thấy ông bà ông vãi. Tôi không ngủ trên máy bay được. Lỡ máy bay có rơi thì còn biết.”
“Anh đi từ sân bay về bằng xe gì?”
“Taxi tại chỗ. Elsa quên không thuê xe riêng cho tôi. Đáng ra phải có tài xế chờ sẵn để đón chớ.”
“Elsa là ai vậy?”
“Là con bé thư ký sau đó bị tôi đuổi thẳng vì tội quên thuê xe. Tôi rất ghét phải đi tìm taxi vào giờ đó.”
“Anh sống một mình hả?
“Không. Tới nửa đêm tôi đã nằm trong chăn với Viktor và Rolf rồi. Hai đứa đó là mèo tôi nuôi,” Ông ta nói thêm, nhếch mép cười. “Tôi uống một viên Ambien, ngủ vài tiếng rồi tỉnh dậy khoảng hồi năm giờ sáng. Tôi bật kênh Sky News lên, một cha đội mũ lông cừu gớm ghiếc, đứng giữa tuyết ngay trước nhà Cuckoo nói là nó đã chết. Dòng tin chạy trên màn hình cũng ghi vậy.”
Somé rít thêm một hơi thuốc sâu, làn khói trắng bay ra khi ông ta mở miệng.
“Tôi sốc muốn chết theo luôn. Tôi tưởng mình vẫn còn ngủ, hay thức dậy ở một chiều không gian khác hay gì đó… Tôi bắt đầu gọi điện lung tung… Ciara, Bryony… máy ai cũng bận. Vừa gọi tôi vừa nhìn màn hình, hi vọng là họ sẽ báo tin có sự nhầm lẫn nào đó, rằng người vừa chết không phải là Cuckoo. Tôi thầm cầu nguyện người đó là cái con nhỏ bụi đời. Rochelle.”
Ông ta dừng lại, như thể đợi Strike bình luận. Hắn vừa cắm cúi ghi chép, vừa hỏi:
“Anh biết Rochelle à?”
“Có biết. Cuckoo mang nó vào đây một lần. Cái thứ la liếm.”
“Tại sao anh nói vậy?”
“Nó hận Cuckoo. Ganh ghét muốn nổ mắt mà. Tôi biết rõ, dù Cuckoo không nhận ra. Nó chơi với Cuckoo để kiếm chác chứ quan tâm gì chuyện Cuckoo còn sống hay đã chết. Cũng may cho nó, vì hóa ra…
"Vậy là tôi cứ ngồi đó coi tin tức, càng coi thì càng biết chắc không có sự nhầm lẫn nào cả. Tôi muốn quỵ ngã.”
Mấy ngón tay của ông ta run nhè nhẹ trên điếu thuốc trắng như tuyết đang hút dở.
“Họ nói là hàng xóm có nghe tiếng cãi nhau, nên ngay lập tức tôi nghĩ là Duffield. Tôi nghĩ hẳn Duffield đã xô Cuckoo qua cửa sổ. Lúc đó tôi sẵn sàng nói toạc cho đám lợn háo tin biết Duffield là thằng khốn như thế nào. Tôi sẵn sàng ra tòa làm chứng bản chất khốn nạn của nó. Và nếu bây giờ tàn thuốc rơi xuống đây,” ông ta nói tiếp, giọng điệu vẫn y chang không đổi. “Tôi sẽ đuổi thẳng cổ con đĩ con kia.”
Cứ như thể vừa nghe thấy ông ta nói gì, ngay lúc đó, tiếng bước chân dồn dập của Trudie mỗi lúc một lớn hơn. Cô ta bước vào phòng, thở hổn hển, tay nắm chặt cái gạt tàn thủy tinh nặng trịch.
“Cảm ơn cưng,” Somé nói, khẽ vẫy tàn thuốc khi cô ta vừa đặt gạt tàn xuống bàn rồi gấp gáp đi xuống cầu thang.
“Tại sao anh nghĩ là Duffield?” Strike hỏi khi đã chắc Trudie không thể nghe được.
“Cuckoo còn có thể mở cửa cho ai khác vào nhà lúc hai giờ sáng được?”
“Anh có biết rõ Duffield không?”
“Kha khá, một thằng vô tích sự.” Somé cầm ly trà bạc hà lên. “Tại sao đàn bà cứ đâm đầu vào những thằng như vậy? Cuckoo cũng vậy… nó không hề ngu ngốc chút nào, trái lại nó rất sắc sảo – vậy nó thấy gì ở cái thằng Evan Duffield đó? Để tôi nói anh nghe,” ông ta nói tiếp, không cần Strike trả lời. “Ba cái thứ thi sĩ quèn đau khổ nhảm nhí, nỗi đau tâm hồn cứt khô gì đó, rồi mấy trò thiên-tài-khổ-tâm-không-buồn-tắm-rửa. Thằng ranh, súc miệng cho sạch rồi hẵng mở ra. Cứ làm như mình là thi hào Byron cái quái gì.”
Ông ta đặt ly trà xuống, bàn tay trái đỡ lấy khuỷu tay phải, giữ vững cánh tay và tiếp tục rít thuốc thật sâu.
“Không thằng nào chịu nổi cái thứ như Duffield. Chỉ có bọn đàn bà. Một kiểu bản năng làm mẹ méo mó gì đó.”
“Anh nghĩ Duffield có thể ra tay giết Lula hay sao?”
“Tất nhiên là tôi nghĩ vậy,” Somé nói, thờ ơ. “Tất nhiên là nó ra tay được. Ai cũng có phần con, ai cũng sẵn chút máu giết người, thì tại sao Duffield lại là ngoại lệ? Thằng đó đầu óc như một đứa mười hai tuổi hỗn xược. Tôi có thể tưởng tượng ra hắn giận dữ, làm um sùm và rồi…”
Somé làm động tác xô một cú thật lực bằng cánh tay không cầm thuốc.
“Có lần tôi thấy nó chửi mắng con bé. Ngay tại tiệc sau show của tôi hồi năm ngoái. Tôi tới giữa hai người, nói có có ngon thì chơi thằng này. Tôi chỉ là một thằng bóng quèn,” Somé nói, hai gò má tròn trĩnh đanh lại, “nhưng lúc nào tôi cũng sẵn sàng tẩn cho thằng chó đó một trận. Hôm đi đám tang nó cũng khốn kiếp lắm.”
“Thật vậy sao?”
“Ừ. Lảo đảo đi quanh, phê thuốc trắng mắt. Không biết phép tắc cái quái gì. Hôm đó tôi cũng phải uống thuốc an thần, nếu không tôi đã tới nói hết vào mặt hắn. Còn giả vờ đau khổ nữa, cái thứ đạo đức giả.”
“Anh không bao giờ nghĩ là Lula tự tử?”
Cặp mắt lồi lạ lùng của Somé nhìn xoáy vào Strike.
“Không bao giờ. Duffield nói khi đó hắn đang đi mua thuốc, có đội mũ hóa trang chó sói. Bằng chứng ngoại phạm cái quỷ quái gì vậy? Mong là anh có kiểm tra kỹ lại cái thằng này. Đừng bị choáng ngợp trước nó, như đám cảnh sát.”
Strike nhớ lại nhận xét của Wardle về Duffield.
“Tôi nghĩ cảnh sát cũng không thấy Duffield choáng ngợp gì.”
“Hóa ra gu của họ cũng không đến nỗi tệ như tôi tưởng.” Somé đáp.
“Tại sao anh lại chắc chắn Lula không thể tự tử? Chẳng phải cô ấy từng bị bệnh tâm thần sao?”
“Đúng vậy, nhưng tụi tôi có hứa với nhau một chuyện, giống như Marilyn Monroe và Montgomery Clift. Tụi tôi thề là nếu đứa nào nghĩ tới chuyện tự tử thì phải gọi cho đứa kia. Nên chắc chắn nó đã gọi tôi, nếu nó định tự tử thật.”
“Lần cuối cùng anh nói chuyện với Lula là khi nào?”
“Nó gọi cho tôi hôm thứ Tư, khi tôi còn ở Tokyo,” Somé đáp. “Con nhỏ ngớ ngẩn, không nhớ đó với đây lệch nhau tới tám giờ. Tôi đã tắt chuông điện thoại nên lúc nó gọi hồi hai giờ sáng tôi không cầm máy, nhưng nó để lại tin nhắn, hoàn toàn không có vẻ gì là sắp nhảy lầu cả. Anh nghe này.”
Ông ta lại mở ngăn kéo bàn, lấy điện thoại ra, nhấn vài nút rồi đưa cho Strike.
Giọng Lula Landry vang lên thật gần, sống động, hơi khàn khàn ngay bên tai Strike. Cô ta cố tình giả giọng đân phía Đông thành phố để trêu Somé.
“Phẻ hông cưng ơi? Có chuyện này muốn nói, không chắc là cưng nghe xong sẽ thích nhưng mà là chuyện lớn thiệt. Em vui quá, chỉ muốn nói cho ai đó nghe. Khi nào được thì gọi ngay cho em. Ô kê, gọi liền nha,” cô ta kết thúc tin nhắn, giả vờ hôn vào điện thoại “muah muah”.
Strike trả điện thoại lại cho Somé.
“Vậy anh có gọi lại cho cô ấy không? Anh có biết chuyện lớn đó là chuyện gì không?”
“Không,” Somé dụi điếu thuốc, ngay lập tức rút ra thêm một điếu nữa. “Bọn Nhật xếp lịch họp liên tiếp, cứ mỗi khi tôi vừa định gọi thì lại kẹt vụ giờ giấc. Dù sao thì… nói thực với anh, có lẽ tôi biết nó sắp nói gì, tôi chẳng vui vẻ gì cả. Chắc nó có bầu.”
Somé gục gặc, điếu thuốc cắn trong miệng. Rồi ông ta lấy điếu thuốc ra và nói:
“Ừ đó, tôi nghĩ chắc Lula có bầu mẹ nó rồi.”
“Của Duffield?”
“Khi đó tôi vẫn mong là không phải vậy. Tôi chẳng biết vụ hai đứa nó quay lại với nhau. Cuckoo không dám quay lại với thằng đó nếu tôi vẫn còn ở Anh, vậy là nó đợi tôi đi Nhật, con nhỏ láo toét. Nó biết tôi ghét thằng kia nên không muốn làm phật ý tôi. Tụi tui như người trong nhà vậy.”
“Tại sao anh nghĩ là Lula có thai?”
“Nghe giọng nó. Anh nghe rồi đó – nó có vả rất phấn khích… Tôi ngờ ngợ vậy. Cuckoo hay làm những việc như vậy, rồi nghĩ là tôi cũng sẽ vui như nó, mặc kệ công việc, mặc kệ tôi với dòng hàng phụ kiện mới…”
“Có phải là hợp đồng năm triệu bảng mà anh cô ấy nói với tôi không?”
“Đúng vậy, tôi đoán lão Kế toán bắt nó phải đòi càng nhiều càng tốt,” Somé đáp, vẻ rất giận dữ. “Cuckoo không phải là người thích bòn tôi từng xu như vậy. Nó thừa biết vụ này sẽ rất hoành tráng, sẽ đưa nó lên một đẳng cấp mới nếu nó làm cho tôi. Đâu phải chuyện tiền bạc không. Hình ảnh của nó luôn đi liền với mấy thứ tôi làm. Nó chỉ thực sự nổi tiếng sau khi chụp cho Vogue một kiểu mặc áo đầm Jagged của tôi. Cuckoo mê đồ của tôi. Nó cũng khoái tôi. Nhưng đời là vậy. Cứ leo lên được một chút thì thiên hạ bắt đầu xúm vào tâng bốc, vậy là quên luôn ai đưa mình lên. Rồi tự dưng chỉ có tiền và tiền.”
“Nhưng ắt hẳn anh nghĩ cô ấy xứng đáng, mới chấp nhận trả năm triệu bảng?”
“Ừ thì vậy, nhưng tôi thiết kế nguyên loạt đó cho riêng nó, nên chẳng có gì hay ho nếu phải tranh thủ chụp ảnh để né vụ bầu bí. Và tôi cũng có thể tưởng tượng ra sau đó Cuckoo sẽ hành xử ngớ ngẩn ra sao. Nó sẽ bỏ hết vì không muốn xa con. Nó là kiểu người vậy đó, luôn đi tìm người khác để thương, luôn muốn có một gia đình riêng. Mấy người nhà Bristow phá đời nó hoàn toàn. Họ xin nó về như mua món đồ chơi mới cho Yvette, mụ đàn bà đáng sợ nhất thế gian.”
“Đáng sợ như thế nào?”
“Ích kỷ. Bịnh hoạn. Không muốn Cuckoo đi khỏi tầm mắt, sợ nó chết như cái đứa trước đó. Phu nhân Bristow thường đến dự tất cả các show, rất vướng chân vướng cẳng, cho tới khi phát bịnh mới chịu thôi. Rồi thêm ông cậu coi Lula như rác, cho tới khi nó kiếm được bộn tiền mới bày đặt nể nang. Đám người nhà Bristow chỉ biết có tiền.”
“Gia đình đó vốn giàu có, không phải vậy sao?”
“Alec Bristow chẳng để lại bao nhiêu, theo nghĩa đen. Thực tình chẳng có của cải gì ghê gớm. Không như ông già của anh đâu. Nhưng tại sao,” Somé tự nhiên đổi hướng câu chuyện, “con trai của Jonny Rokeby lại đi làm thám tử tư?”
“Việc ai người đó làm,” Strike đáp. “Nói tiếp về nhà Bristow đi.”
Somé không có vẻ gì là bực bội với cách nói chuyện không hề nhún nhường của Strike, dường như còn thích là đằng khác, có lẽ vì hiếm ai dám nói vậy với ông ta.
“Tôi chỉ nhớ Cuckoo kể là gia sản của Alec Bristow chủ yếu là cổ phiếu trong công ty cũ, mà công ty Albris thì từ hồi khủng hoảng đã te tua xơ mướp. Công ty quèn, có phải như Apple apiếc gì. Hồi chưa đầy hai mươi tuổi Cuckoo đã kiếm được nhiều tiền hơn cả đám đó.”
“Tấm kia,” Strike lên tiếng, chỉ tay về phía tấm hình “Thiên thần mắc đọa” khổng lồ ngay sau lưng Somé, “nằm trong hợp đồng năm triệu bảng phải không?”
“Đúng vậy,” Somé đáp. “Bốn cái túi xách đó mở đầu cho chiến dịch quảng cáo. Cái Cuckoo đang cầm trong tay là “Cashile”. Tôi đặt tên châu Phi cho tất cả mấy cái túi đó, cũng vì Cuckoo. Nó rất mê châu Phi. Nó đào đâu ra được một bà mẹ đĩ điếm, nói rằng cha nó là người châu Phi. Vậy là Cuckoo mê mệt luôn, chưa gì đã nói chuyện đi học ở đó, rồi đi làm tình nguyện… mà không hề nghĩ là con đĩ già kia có khi từng ngủ với khoảng năm mươi thằng đen Caribe cũng có. Châu Phi gì. Con mụ đó chỉ nói cho Cuckoo sướng tai.”
“Vậy anh quyết định vẫn tiếp tục dùng tấm hình đó trong chiến dịch quảng cáo sắp tới, ngay cả khi Lula vừa mới…”
“Báo biếc khốn nạn. Tấm hình đó là để tưởng niệm nó!” Somé lớn tiếng. “Đó là tấm hình đẹp nhất của nó từ trước đến giờ. Tôi dùng tấm hình để tưởng nhớ Cuckoo, để nhớ đến hai đứa tụi tôi. Cuckoo là nàng thơ của tôi. Nếu mấy thằng khốn đó không hiểu nổi thì kệ chúng nó, vậy thôi. Báo chí ở cái xứ này chẳng ra cái quái gì. Cứ tưởng ai cũng rác rưởi như mình.”
“Hôm trước khi Lula chết có người gởi cho cô ấy mấy cái túi xách…”
“Đúng rồi, là của tôi đó. Tôi gởi mỗi kiểu một cái.” Somé vừa nói vừa chỉ về phía tấm hình bằng đầu thuốc lá. “Tôi cũng luôn tiện gởi cho Deeby Macc vài thứ.”
“Ông ta đặt hàng hả, hay…?”
“Của chùa, cưng à.” Somé dài giọng. “Làm ăn phải vậy. Vài cái áo thun dày liền mũ thiết kế riêng và mấy thứ phụ kiện. Cứ cho sao siếc khoác vào thì không trật được.”
“Ông ta có mặc mấy thứ đó không?”
“Tôi không biết,” giọng Somé trầm xuống. “Ngay hôm sau đã phải nghĩ nhiều chuyện khác.”
“Tôi có xem một đoạn phim của Deeby Macc trên YouTube. Ông ta mặc một cái áo có đính khuy như cái này,” Strike nói, chỉ tay vào ngực Somé. “Có hình nắm đấm.”
“Đúng rồi, tôi có gởi cái áo đó với vài thứ khác. Chắc người ta chuyển lại. Một cái có hình nắm đấm, một cái có hình súng ngắn, đằng sau lưng in lời bài hát.”
“Lula có nói với anh chuyện Deeby Macc sắp dọn vào đó không?”
“Có chứ. Nó cũng rất vui, nhưng đáng ra phải vui hơn nữa kia. Tôi cứ nói với nó, cưng à, nếu mà ông ta viết đến ba bài hát về tôi, thì tôi sẽ lột sạch đồ đứng chờ sẵn trong nhà.” Somé phả ra hai vệt khói dài từ lỗ mũi, liếc ngang qua Strike. “Tôi khoái mấy tay to con, dữ dằn vậy,” ông ta nói. “Nhưng Cuckoo thì không. Thì cứ nhìn cái thằng bồ của nó đó. Tôi cứ nói, cưng suốt ngày đi tìm gốc gác, thôi thì kiếm quách một anh đen tử tế cho xong. Deeby chẳng hạn, quá hợp, không phải vậy sao?”
“Show mùa rồi của tôi cho nó đi trên nền nhạc bài Butterface Girl của Deeby. ‘Con kia có là gì / Liệu mà tìm gương soi / Kiếm cái nào nói thiệt / Cưng bớt xoắn đi ha / Cưng cóc phải Lula.’ Duffield rất ghét chuyện đó.”
Somé im lặng một lát, tiếp tục hút thuốc, mắt vẫn dán vào tấm hình trên tường. Strike hỏi:
“Nhà anh ở đâu? Gần đây không?” mặc dù hắn đã biết trước câu trả lời.
“Không, tôi ở phố Charles, Kensington,” Somé đáp. “Dọn qua đó hồi năm ngoái. Rất xa Hackney nhưng mà phải dọn thôi. Ồn ào quá. Tôi lớn lên ở Hackney,” ông ta giải thích, “hồi đó tên thiệt khi chưa tiếng tăm gì là Kevin Owusu. Tôi đổi tên khi bỏ nhà đi. Giống anh vậy.”
“Tôi chưa bao giờ mang họ Rokeby cả,” Strike vừa nói vừa lật một trang sổ. “Bố mẹ tôi không cưới xin gì.”
“Vụ đó ai cũng biết cưng à,” Somé nói, nhìn đểu một cái. “Năm ngoái tôi soạn đồ cho ông già anh chụp một tấm cho tạp chí Rolling Stone: complet bó sát và mũ quả dưa vỡ. Anh có hay gặp ông ta không?”
“Không,” Strike ngắn gọn.
“Không à, chắc vì hai người mà đứng chung thì Jonny trông còn già ác nữa?” Somé nói, cười khanh khách. Ông ta loay hoay xoay trở trên chiếc ghế, đốt thêm một điếu nữa, ngậm giữa môi và nheo mắt nhìn Strike qua làn khói thuốc bạc hà.
“Tại sao lại nói chuyện đời tôi nhỉ? Người ta có hay kể lể chuyện đời họ mỗi khi anh rút cuốn sổ đó ra không?”
“Thi thoảng.”
“Anh không muốn uống trà hả? Tôi chẳng trách gì anh. Tôi chẳng biết tại sao lại uống cái thứ dở hơi này. Ông già tôi chắc lên cơn đau tim nếu hỏi xin một tách trà mà bị đưa thứ này.”
“Gia đình anh còn ở Hackney không?”
“Không biết,” Somé nói. “Tôi không nói chuyện với họ. Tôi dạy Lula cái gì thì thực hành y như vậy, thấy chưa?”
“Anh nghĩ vì sao mà Lula đổi họ vậy?”
“Vì nó rất ghét gia đình nó, cũng như tôi vậy. Nó chẳng muốn dính gì tới họ nữa.”
“Vậy tại sao lại đi lấy họ của ông cậu Tony?”
“Ông đó không nổi tiếng. Lula Landry nghe cũng hay. Deeby làm sao viết được bài Double L U B Mine[1] nếu nó vẫn tên Lula Bristow?”
[1. Hai chữ L, em thuộc về tôi.]
“Phố Charles cũng khá gần Kentigern Gardens nhỉ?”
“Đi bộ hai mươi phút. Tôi muốn Cuckoo dọn vô ở chung với tôi khi nó nói không chịu được chỗ cũ nữa, nhưng nó không đồng ý, mà chọn cái nhà tù năm sao đó, chỉ để trốn đám báo chí. Chính tụi nó đẩy Cuckoo vào cái nhà đó. Tụi nó cũng có trách nhiệm trong vụ này.”
Strike nhớ lại lời Deeby Macc: Chính báo giới chết giẫm đã xô cô ta ra cửa sổ.
“Nó có dẫn tôi đến xem nhà. Khu Mayfair, toàn là dân Nga và dân Ả Rập giàu sụ với cả mấy thằng chó đẻ như Freddie Bestigui. Tôi có nói, cưng ơi, không sống ở đây được đâu, nhìn đâu cũng thấy đá cẩm thạch, ở xứ này mà xài đá thì quê lắm… còn sống mà chui vô lăng làm gì…”
Ông ta ngập ngừng một lúc, rồi nói tiếp:
“Mấy tháng trước đó Cuckoo gặp nhiều chuyện rất đau đầu. Một thằng rình mò cứ tới ba giờ sáng là bỏ thư vào nhà nó, mỗi lần có tiếng động thùng thư là Cuckoo lại tỉnh dậy. Thằng đó hăm dọa đủ điều, làm Cuckoo rất sợ hãi. Rồi nó chia tay thằng Duffield, vậy là bọn nhà báo suốt ngày chờ chực quanh đó. Cuckoo phát hiện ra đến điện thoại của nó cũng bị nghe lén. Rồi tới chuyện đi tìm con đĩ già mẹ ruột đó. Nhiều thứ cùng lúc quá. Nó muốn tránh xa hết, muốn được yên ổn. Tôi đã bảo nó dọn vô ở với tôi, vậy mà nó đi mua cái lăng chết tiệt đó.”
“Nó mua chỗ đó vì thấy giống như cái pháo đài, giờ nào cũng có bảo vệ. Nó cứ tưởng là sẽ được an toàn, không ai đụng tới nó nữa.”
“Nhưng ngay từ đầu nó đã không ưa gì chỗ mới. Tôi biết mà. Nó bị cô lập, ở xa những thứ nó yêu thích. Cuckoo mê màu sắc, tiếng ồn. Nó thích phố xá, thích đi bộ, thích cảm giác tự do.”
“Một trong những lý do khiến cảnh sát loại trừ có sát nhân là cửa sổ lúc đó mở toang. Cuckoo đã tự mở cửa sổ, dấu vân tay còn trên đó. Nhưng tôi biết vì sao nó mở cửa. Cuckoo luôn mở cửa sổ, mặc dù bên ngoài lạnh tê tái, vì nó không chịu nổi sự yên lặng. Nó thích nghe được cả London.”
Somé không còn chút gì mỉa mai đểu giả nữa. Ông ta hắng giọng rồi nói tiếp.
“Nó luôn cố kết nối với những thứ có thật, sống động. Hai đứa tụi tôi rất hay nói về chuyện đó. Tụi tôi thực sự đồng cảm với nhau. Cuckoo qua lại với con khốn Rochelle cũng từ chỗ đó. Kiểu ‘trông người mà ngẫm tới ta’. Cuckoo nghĩ nếu nó không xinh đẹp, nếu nhà Bristow không xin nó về làm đồ chơi cho Yvette thì có khi đời nó cũng như Rochelle mà thôi.”
“Anh nói thêm về cái tay rình mò Lula ở nhà cũ đi.”
“Thằng điên. Hoang tưởng Lula là vợ hắn hay đại loại gì đó. Sau đó thì bị quản thúc và bắt điều trị tâm thần bắt buộc.”
“Có biết giờ tay đó ở đâu không?”
“Tôi nhớ hình như bị tống cổ về Liverpool,” Somé trả lời. “Nhưng bên cảnh sát có kiểm tra rồi, họ nói đêm đó hắn ta vẫn ở trong nhà thương điên có canh gác cẩn thận.”
“Anh có biết ông bà Bestigui không?”
“Chỉ biết qua lời Lula thôi, cha đó tởm lợm còn mụ vợ thì giả từ đầu tới chân như tượng sáp. Tôi không cần gặp cũng biết. Tôi biết cái thể loại đó. Gái nhà giàu chuyên xài tiền chồng. Show nào của tôi cũng có mặt. Xắng xít làm quen. Nói thật, thà chơi với đĩ còn hơn.”
“Freddie Bestigui có gặp Lula tại một bữa tiệc cuối tuần trước khi cô ấy chết.”
“Ừ, tôi cũng có biết. Lão thèm Lula chảy dãi,” Somé nói như không. “Nó cũng biết chứ, có phải chuyện lạ đời gì với nó đâu, anh biết đó. Nhưng lão ta không làm gì được nó, cùng lắm chỉ đứng chung trong thang máy thôi, theo như lời Lula kể.”
“Anh không nói chuyện với Lula sau khi cô ấy đến dự tiệc cuối tuần ở nhà Dickie Carbury, đúng không?”
“Đúng vậy. Lão ta làm gì ở đó hả? Anh không nghĩ là lão ta đó chứ?”
Somé ngồi thẳng dậy, nhìn chằm chằm vào Strike.
“Khốn nạn… Freddie Bestigui? Lão mất dạy, tôi biết mà. Tôi có quen con nhỏ này… đúng ra là bạn của một người bạn… nó làm cho công ty sản xuất phim của lão, sém bị hiếp. Không, tôi chẳng nói quá chút nào đâu,” Somé đáp. “Sự thật là vậy. Hiếp. Hết giờ làm lão chuốc rượu cho nó rồi đè ra sàn, vừa lúc có một đứa nhân viên quên điện thoại quay lại văn phòng lấy, bắt gặp cảnh đó. Bestigui bịt miệng cả hai bằng tiền. Ai cũng xúi con nhỏ kiện lão, nhưng nó cầm tiền rồi bỏ đi luôn. Họ cũng nói là hồi xưa lão hay có trò xử phạt bà vợ thứ hai cũng bệnh hoạn lắm, vì vậy mà hồi li dị bà ta mới cuỗm được ba triệu, sau khi hù là sẽ tung ra hết với báo chí. Nhưng không bao giờ có chuyện Cuckoo mở cửa cho lão vào nhà lúc hai giờ sáng. Tôi nói rồi, Cuckoo không phải là đứa ngu.”
“Anh biết gì về Derrick Wilson?”
“Thằng nào vậy?”
“Bảo vệ trực đêm đó.”
“Không biết gì cả.”
“Ông này to con, nói giọng Jamaica.”
“Nói nghe đừng sốc, dân da đen ở London này không phải ai cũng biết nhau đâu.”
“Tôi chỉ muốn hỏi liệu anh có bao giờ nói chuyện với ông ta không, hay Lula có nói gì về ông ta không?”
“Không, tụi tôi nói nhiều chuyện khác hay ho hơn chuyện ông bảo vệ.”
“Cũng không nhắc tới anh lái xe Kieran Kolovas-Jones?”
“À, tay đó thì biết,” Somé đáp, nhếch mép. “Cứ xớn xác tạo dáng mỗi khi tưởng tôi đang nhìn ra cửa sổ. Đáng tội là thiếu khoảng thước rưỡi mới đủ làm người mẫu.”
“Lula có bao giờ nói về anh ta không?”
“Không, tại sao chứ?” Somé sốt ruột hỏi. “Nó chỉ là thằng lái xe.”
“Anh ta nói là anh ta rất gần gũi với Lula. Anh ta còn kể là được Lula tặng áo khoác do anh thiết kế. Giá chín trăm bảng.”
“Bở gớm nhỉ,” Somé nói, khinh ra mặt. “Mấy món đàng hoàng của tôi thì tệ cũng phải ba ngàn một cái. Tôi đắp phứa logo lên mấy cái áo khoác chống thấm vậy mà bán chạy kinh khủng, nên tội gì không làm.”
“À, tôi sắp hỏi cũng chuyện đó,” Strike bói. “Áo như vậy thuộc dòng hàng đồ-may-sẵn, đúng không?”
Somé tỏ vẻ buồn cười.
“Đúng rồi. Tức là không phải đồ-may-đo-riêng, hiểu không? Có thể mua thẳng từ cửa hàng.”
“Hiểu rồi. Mấy thứ đó có bán rộng rãi không?”
“Ở đâu cũng có. Lần gần đây nhất anh đi mua sắm đó là khi nào vậy?” Somé hỏi, cặp mắt lồi kì dị của ông ta soi một vòng trên bộ complet màu xanh đậm của Strike. “Đồ kiểu gì vậy, áo quần phục viên hả?”
“Anh nói ‘ở đâu cũng có là sao?”’
“Trung tâm mua sắm, hiệu áo quần nhỏ, trên mạng,” Somé nói một mạch. “Tại sao anh hỏi vậy?”
“Một trong hai người đàn ông lọt vào camera an ninh hôm đó mặc một cái áo có logo của anh."
Somé khẽ lắc đầu, tỏ ý bất bình, khó chịu.
“Thì có cả triệu người mặc mà.”
“Anh không thấy...”
“Tôi không xem cái quái gì cả,” Somé giận dữ đáp. “Tất cả mọi thứ... báo biếc đài điếc. Tôi không muốn đọc gì hết, không muốn suy nghĩ về chuyện đó nữa. Tôi bắt tụi nó phải dẹp hết, không được để tôi thấy,” ông ta đáp, huơ tay về phía cầu thang và đám nhân viên của mình. “Tôi chỉ biết là Cuckoo đã chết rồi còn Duffield thì hành động như người có chuyện gì cần phải giấu diếm. Tôi chỉ biết có vậy. Vậy là đủ rồi.”
“Thôi được. Nói chuyện áo quần, trong tấm hình cuối cùng của Lula, lúc mới về nhà cô ấy mặc đầm và áo khoác...”
“Đúng vậy, nó mặc Maribelle và Faye,” Somé đáp. “Mẫu đầm tên là Maribelle...”
“Hiểu rồi,” Strike đáp, “Nhưng khi chết thì lại mặc đồ khác.”
Somé có vẻ ngạc nhiên.
“Vậy sao?”
“Vâng. Trong hồ sơ cảnh sát, thi thể...”
Nhưng Somé đưa cánh tay ra, như muốn xua đuổi hay tự vệ. Rồi ông ta đứng dậy, thở mạnh và đi tới bức tường, nơi có những tấm ảnh của Lula mỉm cười, nụ cười lúc đăm chiêu, lúc bình thản. Khi tay thiết kế quay lại nhìn Strike, đôi mắt lồi của ông ta ngân ngấn nước.
“Khốn nạn,” ông ta nói, giọng thầm thì. “Đừng nói về Lula như vậy chứ. Thi thể. Khốn nạn. Anh là một thằng con hoang máu lạnh, phải vậy không? Chẳng trách Jonny không thiết gì anh.”
“Tôi không có ý bất nhã,” Strike bình tĩnh đáp. “Tôi chỉ muốn biết liệu anh có nghĩ ra được lý do vì sao cô ấy mặc quần dài và áo đính kim sa.”
“Tôi làm quái gì mà biết được vì sao nó lại thay đồ?” Somé hỏi, giận dữ. “Có thể nó thấy lạnh. Có thể... Thật là nực cười. Anh nghĩ làm sao tôi biết được?”
“Tôi chỉ hỏi thôi,” Strike đáp. “Tôi đọc đâu đó anh nói với báo chí rằng khi chết Lula mặc đồ do anh thiết kế.”
“Không phải tôi, tôi không có phát biểu gì sất. Một đứa làm báo lá cải gọi điện cho văn phòng công ty và hỏi tên của mẫu đồ đó. Một đứa thợ may trả lời, vậy là tụi nó phong con nhỏ thành phát ngôn viên của tôi. Rồi suy luận là tôi dây máu ăn phần, bọn khốn nạn. Chó chết.”
“Anh có thể giúp tôi gặp Ciara Porter và Bryony Radford được không?”
Somé có vẻ mất bình tĩnh, bối rối.
“Gì kia? Được thôi...”
Nhưng ông ta đã bắt đầu khóc, không nấc từng tiếng như Bristow, chỉ có nước mắt chảy dài trên hai gò má sẫm màu trơn mịn, nhỏ giọt xuống chiếc áo đang mặc. Ông ta nuốt khan, nhắm mắt lại, quay lưng về phía Strike, úp trán vào tường, hai vai rung lên.
Strike im lặng, chờ đợi. Somé đã lau nước mắt vài lần, rồi quay lại nhìn hắn. Ông ta không nói gì đến chuyện khóc lóc, chỉ đi thẳng về ghế, ngồi xuống và đốt một điếu thuốc nữa. Rít thêm khoảng hai ba hơi thuốc thật sâu, ông ta lên tiếng giọng thản nhiên như không:
“Nếu nó thay quần áo thì có lẽ là đang chờ ai đó đến. Cuckoo lúc nào cũng ăn mặc rất hợp hoàn cảnh. Chắc hẳn nó đang chờ ai đó.”
“Tôi cũng nghĩ vậy,” Strike nói. “Nhưng tôi không rành phụ nữ và áo quần lắm.”
“Rõ là không,” Somé đáp, lai thoáng cười ranh mãnh, “anh cũng không có vẻ gì là rành rõi cả. Vậy anh muốn nói chuyện với cả Ciara và Bryony hả?”
“Được vậy sẽ rất có ích.”
“Tụi nó có buổi chụp hình vào thứ Tư tới. Số một phố Arlington ở Islingdon. Nếu anh tới khoảng chừng năm giờ, tụi nó sẽ rảnh tay nói chuyện được với anh.”
“Anh thật tử tế. Cảm ơn nhiều.”
“Tôi chẳng tử tế gì cả,” Somé nói nhỏ. “Tôi chỉ muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Khi nào thì anh mới gặp Duffield?”
“Ngay khi có thể.”
“Nó cứ nghĩ là nó thoát rồi, thằng chết giẫm. Ắt hẳn Cuckoo thay đồ vì biết nó sẽ tới. Ngay cả khi tụi nó vừa cãi nhau, Cuckoo vẫn biết là thế nào nó cũng đi theo về. Nhưng thằng Duffield sẽ không nói năng gì với anh đâu.”
“Anh ta sẽ nói,” Strike bình thản đáp, cất cuốn sổ và xem giờ. “Hôm nay tôi làm mất nhiều thời gian của anh quá. Một lần nữa, cảm ơn anh.”
Somé tiễn Strike xuống cầu thang, dọc theo hành lang sơn trắng. Phong thái nghênh ngang của ông ta dần dần trở lại. Tới khi hai người bắt tay tạm biệt ở sảnh, Somé không còn dấu hiệu đau khổ nào nữa.
“Giảm cân đi,” ông ta nói với Strike, thọc cú cuối cùng, “rồi tôi sẽ gởi vài thứ size XXL.”
Khi cánh cửa khu nhà kho đóng sầm sau lưng Strike, hắn nghe tiếng Somé hét lên với cô Trudie tóc màu cà chua đang đứng ở bàn, “Biết cưng nghĩ gì rồi nhé, Trudie. Cưng đang mơ mộng được cha đó đứng đằng sau làm cho một phát, đúng không? Không phải vậy sao cưng? Sướng chưa, dân lính tráng to con dữ dằn ha!” và tiếng Trudie cười ré lên kinh ngạc.
2
Xưa nay Charlotte chưa bao giờ chấp nhận sự im lặng của Strike như vậy. Cô ta không gọi điện hay nhắn tin gì thêm, cứ như thể trận cãi vã nảy lửa tồi tệ cuối cùng đã thay đổi cô ta hoàn toàn, khiến cô ta không còn yêu thương hay giận dữ gì hắn nữa. Tuy nhiên Strike biết rõ Charlotte như một thứ vi trùng đã ăn vào máu mình mười lăm năm qua. Hắn biết rằng khi bị tổn thương Charlotte chỉ có duy nhất một phản ứng là liên tục tấn công đối phương bằng bất cứ giá nào. Điều gì sẽ xảy ra nếu hắn làm ngơ, rồi cứ tiếp tục từ chối trả lời cô như vậy? Đó là cách duy nhất Strike chưa từng thử trước đó, cũng là tất cả những gì hắn có thể làm lúc này.
Thi thoảng, khi hắn thấy yếu đuối (nhất là lúc đêm khuya nằm chèo queo trên chiếc giường xếp) vết thương lòng lại trỗi dậy: hắn thấy hối tiếc và nhung nhớ, hắn thấy Charlote hiện ra ngay sát bên mình, đẹp đẽ, trần truồng, thì thào những lời yêu thương; hay lặng lẽ khóc, nói với hắn ràng cô ta biết mình là kẻ hư hỏng đốn mạt, vô phương cứu chữa nhưng hắn vẫn là điều tốt đẹp và chân thật nhất mà cô ta từng biết. Giờ đây với hắn, chuyện chỉ cần nhấc máy là sẽ nghe giọng Charlotte như một thứ rào cản cám dỗ quá mong manh. Thỉnh thoảng hắn lại phải chui ra khỏi túi ngủ, lò cò trong bóng tối đến bàn của Robin. Hắn ngồi xuống, bật đèn lên và nghiền ngẫm hàng tiếng đồng hồ các báo cáo trong hồ sơ. Hắn bấm máy gọi Rochelle Onifade vài lần lúc sáng sớm, nhưng cô ta không bao giờ nhận cuộc gọi.
Sáng thứ Năm, Strike quay lại chỗ bức tường bên ngoài bệnh viện St Thomas, đứng đợi ba tiếng đồng hồ, hi vọng gặp lại Rochelle. Nhưng cô ta không đến. Hắn nhờ Robin gọi cho bệnh viện nhưng lần này họ không đưa ra bất kì bình luận nào về chuyện Rochelle không đi đến điều trị nữa và tuyệt đối không cung cấp địa chỉ của cô ta, mặc cho Robin thử đủ cách hỏi.
Sáng thứ Sáu, Strike đi ra quán Starbucks mua cà phê. Khi hắn về đến văn phòng, Khỉ Con đang ở đó, không phải ngồi ghế sofa bên cạnh mà vắt vẻo ngay trên bàn của Robin. Khỉ Con ngậm điếu thuốc chưa châm trong miệng, nghiêng người về phía Robin, dường như đang nói chuyện gì hài hước lắm vì Robin đang cười. Rõ là cô đang rất muốn phá ra cười nhưng vẫn muốn tỏ ra chừng mực.
“Ê Khỉ Con,” Strike lên tiếng, nhưng giọng điệu có phần nghiêm nghị của hắn dường như không hề tác động gì đến điệu bộ hăng hái hay vẻ mặt tươi cười của cậu chàng.
“Ngon lành hả Fed? Em đem con Dell lại cho anh đây.”
“Tuyệt vời. Latte ly đúp không caffeine của cô đây.” Strike nói với Robin, đặt đồ uống xuống ngay bên cạnh cô. “Không tính,” hắn nói thêm khi Robin với tay lấy ví tiền.
Cô rất ngại chuyện tính những món ăn uống nho nhỏ vào tiền tiêu vặt của văn phòng. Trước mặt người khách lạ, cô không phản đối gì, chỉ cảm ơn Strike và trở lại làm việc. Cô xoay ghế theo chiều kim đồng hồ, quay lưng về phía hai người đàn ông.
Khỉ Con bật diêm đốt thuốc, Strike bỏ cốc espresso đúp của hắn xuống.
“Văn phòng không hút thuốc, Khỉ Con.”
“Cái gì? Anh hút như tẩu mà?”
“Nhưng không hút ở đây. Theo tao.”
Strike dẫn Khỉ Con vào văn phòng bên trong, đóng cửa lại.
“Cổ đính hôn rồi,” hắn vừa nói vừa ngồi xuống ghế.
“Ý anh là em đang phí nước bọt hả? Thôi vậy. Nếu vụ đính hôn mà bể thì anh nói vài câu hay ho dùm cho thằng em nhé; cổ đúng kiểu em thích.”
“Nhưng tao không nghĩ mày đúng kiểu cổ thích.”
Khỉ Con nhe răng cười, ra vẻ đã biết.
“Anh cũng xếp hàng sẵn rồi hả?”
“Không,” Strike đáp. “Tao chỉ biết chồng chưa cưới của cổ là kế toán kiêm vận động viên bóng bầu dục. Dân Yorkshire, cằm bạnh, mặt mày sáng sủa.”
Hắn bất ngờ vẽ ra chân dung Matthew rõ ràng từ tâm trí, mặc dù chưa thấy một bức hình nào cả.
“Biết đâu được, có khi sau cha đó cổ lại thích loại hơi... cá tính một chút,” Spanner nói, đặt máy tính của Lula Landry lên bàn và ngồi xuống đối diện với Strike. Anh chàng mặc áo len hơi sờn cũ, mang dép xỏ ngón, hôm đó cũng là ngày nóng nhất trong năm. “Em coi kỹ cái của nợ này rồi. Anh cần nghe chi tiết về kỹ thuật tới đâu?”
“Không cần cái đó; nhưng tao cần biết chắc là mày có thể giải thích rõ ràng trước tòa.”
Lần đầu tiên trông Khỉ Con có vẻ ngạc nhiên thực sự.
“Anh nói nghiêm túc hả?”
“Rất nghiêm túc. Mày có thể đối chất với luật sư bên bị không?”
“Đương nhiển ồi.”
“Vậy chỉ cần nói cho tao mấy chỗ quan trọng.”
Khỉ Con ngập ngừng trong giây lát, cố đọc biểu cảm trên gương mặt của Strike. Cuối cùng anh chàng lên tiếng:
“Mật khẩu là Agyeman, được đặt lại năm ngày trước khi cô ta chết.”
“Viết sao?”
Khỉ Con đọc từng chữ cái, bất ngờ nói thêm. “Agyeman là một họ của người Ghana. Cô ấy đánh dấu trang nhà của SOAS – Viện nghiên cứu Đông phương và Châu Phi. Từ Agyeman có ngay trên trang đó. Anh coi đây.”
Khỉ Con vừa nói vừa lách cách gõ phím; mở ngay trang web của SOAS. Trang web được chạy viền màu xanh tươi, có các phần về trường học, tin tức, giảng viên, sinh viên, thư viện...
“Nhưng lúc cô ta chết rồi thì như thế này.”
Khỉ Con nhấp chuột liên tục, mở ra một trang gần như giống y nhưng có thêm đường dẫn đến Cáo phó của Giáo sư J.P.Agyeman, Giáo sư danh dự ngành Chính trị Châu Phi.
“Cô ấy đánh dấu trang này,” Khỉ Con nói. “Trong một tháng trước khi chết cô ấy hay tìm sách của ông này trên Amazon. Lúc đó cô ấy cũng tìm rất nhiều sách về lịch sử và chính trị Châu Phi.”
“Có gì cho thấy cô ấy nộp đơn xin học ở trường SOAS không?”
“Trên máy này thì không có?”
“Còn gì nữa không?”
“Chỉ có chuyện nữa đó là một file hình ảnh lớn bị xóa ngày mười bảy tháng Ba.”
“Làm sao biết được?”
“Có phần mềm phục hồi những thứ đã bị xóa khỏi ổ cứng.” Khỉ Con đáp. “Chứ anh nghĩ làm sao mà cảnh sát bắt được mấy tên ấu dâm?”
“Mày có phục hồi lại được hết không?”
“Được. Em cho hết vào đây.” Khỉ Con đưa cho Strike một thẻ nhớ USB. “Em không nghĩ anh muốn em lưu trở lại vào máy.”
“Đúng rồi, vậy những cái hình đó là...?”
“Chẳng có gì đặc biệt. Chỉ bị xóa vậy thôi. Như em nói, người ta thường không biết là nếu muốn giấu thứ gì đó thì phải làm nhiều hơn là bấm nút delete”.
“Ngày mười bảy tháng Ba,” Strike nói.
“Vâng. Lễ Thánh Patrick.”
“Mười tuần sau khi cô ấy chết.”
“Có thể là bên cảnh sát,” Khỉ Con gợi ý.
“Không phải cảnh sát,” Strike nói.
Sau khi Khỉ Con ra về, hắn ra văn phòng ngoài, ngồi vào chỗ của Robin để xem mấy tấm hình đã bị xóa khỏi chiếc laptop. Robin có vẻ hồi hộp khi hắn giải thích những việc Khỉ Con đã làm và cắm thẻ nhớ vào máy.
Trong giây lát khi tấm hình đầu tiên dần hiện ra trên máy, Robin thấy lo sợ, như thể cả hai sắp nhìn thấy một điều gì thật kinh khủng; bằng chứng tội phạm hay một thứ gì đó thật bệnh hoạn. Trước đây cô chỉ nghe nói đến chuyện giấu hình ảnh trong những vụ án lạm dụng tồi tệ. Sau vài phút, Strike lên tiếng, như thể biết được cô vừa nghĩ gì.
“Chỉ là ảnh chụp tiệc tùng thôi.”
Nghe giọng hắn không có vẻ gì là thất vọng như cô tưởng, tự dưng Robin thấy xấu hổ; chẳng lẽ cô lại muốn nhìn thấy điều gì đó thật kinh khủng sao? Strike kéo màn hình xuống, toàn hình ảnh các cô gái chơi đùa, những người mẫu đồng nghiệp, thỉnh thoảng thấy có thêm vài người nổi tiếng. Có một số bức chụp Lula và Evan Duffield, vài tấm trong đó rõ là do một trong hai người tự chụp, tay cầm máy vươn hết cỡ. Trông cả hai có vẻ như đang phê thuốc hay say rượu. Somé cũng xuất hiện vài lần. Bên cạnh ông ta Lula trông có vẻ chừng mực, e dè hơn. Có nhiều ảnh Ciara Porter và Lula ôm nhau ở quầy bar, nhảy nhót trong hộp đêm hay cười đùa trên ghế sofa trong một căn hộ có đông người.
“Rochelle đó,” Strike đột ngột nói, chỉ vào một gương mặt sưng sỉa nhỏ bé khuất dưới cánh tay của Ciara trong hình chụp nhóm. Kieran Kolovas-Jones cũng có trong hình, đứng ngay cuối hàng cười tươi rói.
“Cô làm giúp tôi một chuyện,” Strike nói, sau khi xem hết hai trăm mười hai tấm hình. “Cô xem từng tấm, nhận diện hết những người trong đó, ít nhất là những người nổi tiếng rồi ta bắt đầu nghĩ xem ai muốn xóa hết đám hình này.”
“Nhưng mấy tấm hình này không có vẻ gì là mờ ám cả,” Robin nói.
“Phải có gì đó,” Strike đáp.
Hắn đi vào văn phòng bên trong. Rồi hắn gọi điện cho John Bristow (đang bận họp, không thể nghe máy, hắn để lại tin nhắn cho thư kí “Làm ơn nhắn anh ấy gọi lại cho tôi ngay khi có thể”), gọi tiếp cho Eric Wardle (để lại lời nhắn: “Tôi có một câu hỏi liên quan đến laptop của Lula”) và cuối cùng là cho Rochelle Onifade (xem cô ta có cầm máy không; vẫn không ai trả lời, và không thể lưu lời nhắn nào cả: “Hộp thư thoại đã đầy”.)
“Tôi vẫn không làm gì được với ông Bestigui,” Robin nói với Strike, khi hắn quay ra văn phòng ngoài. Cô đang tìm kiếm một nhân vật tóc nâu chụp hình với Lula trên bãi biển. “Sáng nay tôi có gọi lần nữa, nhưng ông ta quyết không gọi lại. Tôi thử đủ mọi cách; giả vờ làm đủ thứ người, còn nói là việc gấp nữa... có gì buồn cười hả?”
“À không, tôi chỉ thấy ngạc nhiên tại sao mấy người phỏng vấn chưa chịu nhận cô vào làm,” Strike đáp.
“À, Robin đáp, mặt hơi ửng đỏ. “Thực ra là có. Mấy chỗ phỏng vấn tôi đều nhận hết. Tôi đã nhận lời bên chỗ công việc nhân sự rồi.”
“Ồ, vậy hả.” Strike đáp. “Cô chưa nói gì. Chúc mừng cô nhé!”
“Xin lỗi, tôi cứ nhớ là đã báo với anh rồi,” Robin nói dối.
“Vậy chừng nào... cô nghỉ việc ở đây?”
“Hai tuần nữa.”
“À. Chắc Mathew vui lắm hả?”
“Vâng,” Robin đáp, hơi bất ngờ, “anh ấy cũng mừng.”
Cứ như thể Strike biết rõ Matthew không hề thích chuyện cô đi làm cho hắn, nhưng cô tự hỏi làm sao hắn biết. Cô đã rất cẩn thận, không kể gì về sự căng thẳng ở nhà cả.
Điện thoại văn phòng đổ chuông, Robin nhấc máy.
“Văn phòng Cormoran Strike?... Vâng, ai gọi đấy ạ?... Là Derrick Wilson,” Cô đưa thẳng ống nghe cho hắn.
“Chào anh.”
“Ông Bestigui vừa đi khỏi vài ngày,” Wilson nói. “Nếu anh muốn tới coi nhà cửa...”
“Tôi sẽ có mặt trong vòng nửa tiếng,” Strike trả lời.
Hắn loay hoay kiểm tra ví tiền và chìa hóa, rồi chợt nhận ra vẻ hơi thất vọng trên gương mặt Robin, mặc dù cô vẫn tiếp tục xem xét mấy tấm hình chẳng có gì mờ ám.
“Cô có muốn đi không?”
“Có!” Cô tươi tỉnh đáp, chụp lấy túi xách và tắt máy tính.
3
Cánh cửa đen nặng nề của tòa nhà số 18 Kentigern Gardens dẫn vào một sảnh lót đá cẩm thạch. Một cái bàn gỗ gụ hoàng tráng được lắp cố định ở sảnh, trực diện với lối vào, bên tay phải là cầu thang đi lên, khuất tầm nhìn (bậc thang cũng bằng cẩm thạch, tay vịn bằng gỗ và đồng thau). Kế bên đó là cửa thang máy dát vàng bóng loáng và một cánh cửa gỗ sẫm màu trên nền tường trắng. Giữa cánh cửa này và hai cánh cửa chính đằng trước là một kệ trưng bày đặt trong góc nhà, với những chiếc bình hoa trụ cao, cắm đầy hoa loa kèn màu hồng đậm. Mùi hương nồng tỏa khắp không khí ấm áp trong nhà. Bức tường bên trái ốp kín gương, tạo cảm giác sảnh rộng gấp đôi. Gương phản chiếu Robin và Strike đang mải ngó nghiêng, cánh cửa thang máy và bộ đèn chùm kiểu hiện đại gồm những khối pha lê vuông treo trên trần. Bức tường gương cũng khiến cho quầy trực bảo vệ bằng gỗ bóng loáng trông như dài hơn thực tế.
Strike nhớ lại lời của Wardle: “Trong căn hộ thì lát đá hoa nọ kia... mẹ kiếp, nhà ở mà cứ như khách sạn năm sao.” Robin đứng ngay bên cạnh hắn, cố tỏ ra không hề bị ngợp. Hóa ra giới triệu phú ở nơi như thế này. Matthew và cô đang thuê tầng dưới của một ngôi nhà cùng vách với hàng xóm ở Clapham. Phòng khách của cô rộng đúng bằng phòng nghỉ giải lao của nhân viên bảo vệ, cũng là chỗ Wilson chỉ cho hai người xem đầu tiên. Trong phòng có một cái bàn và hai cái ghế, một chiếc hộp treo trên tường đựng tất cả các chìa khóa chủ và một cánh cửa mở vào nhà vệ sinh nhỏ xíu.
Wilson mặc đồng phục màu đen, thiết kế giống trang phục của cảnh sát, áo sơ mi trắng, cà vạt đen, nút áo bằng đồng.
“Màn hình theo dõi,” ông ta chỉ cho Strike khi họ ra khỏi phòng sau, đến chỗ bàn trực, nơi có bốn màn hình trắng đen, khuất tầm nhìn của khách ra vào. Các màn hình lần lượt chiếu một đoạn đường trước tòa nhà, rồi hầm đỗ xe vắng ngắt, đến bãi cỏ trong khu vườn cũng không bóng người của tòa nhà số 18, vài thứ cây cảnh kiểu cọ và bức tường sau khá cao mà Strike từng leo lên; và cuối cùng là bên trong buồng thang máy đang đứng yên. Bên cạnh dãy màn hình là hai bảng điều khiển các thiết bị báo động chung của tòa nhà và báo động lắp ở cửa vào hồ bơi và bãi đậu xe. Cuối cùng là hai điện thoại để bàn, một gần với đường dây bên ngoài, một nối trực tiếp với ba căn hộ.
“Cánh cửa đó,” Wilson nói, chỉ vào cánh cửa gỗ nguyên khối, “dẫn ra phòng tập thể dục, hồ bơi với lại bãi đậu xe.” Ông ta dẫn cả hai đi vào theo yêu cầu của Strike.
Phòng tập thể dục khá nhỏ nhưng lắp gương khắp tường như ở sảnh, tạo cảm giác rộng gấp đôi. Trong đó chỉ có một cửa sổ nhìn ra đường, một máy chạy bộ tại chỗ, vài chiếc máy tập đua thuyền, tập bước chân và một bộ tạ.
Cánh cửa gỗ gụ thứ hai mở ra một cầu thang cẩm thạch hơi hẹp, trên tường gắn đèn khối vuông. Cầu thang dẫn xuống tầng hầm, đến một cánh cửa sơn trông rất bình thường mở ra bãi đậu xe. Wilson mở cửa bằng hai chìa khóa, một Chubb một Yale, rồi bật công tắc đèn. Khu vực vừa được thắp sáng dài gần bằng con phố trước nhà, đầy những chiếc xe hiệu Ferrari, Audi, Bentley, Jaguar và BMW, tổng trị giá cũng dễ đến hàng triệu bảng. Cách bức tường phía sau khoảng mười tám mét là những cánh cửa như cánh cửa cuối cùng họ vừa bước qua, thông thẳng vào mỗi tòa nhà ở Kentigern Gardens. Cửa tự động vào bãi đỗ xe từ Ngõ Nông Nô gần với tòa nhà số 18, hắt vào ánh sáng bàng bạc ban ngày.
Robin tự hỏi không biết hai người đàn ông lặng thinh đi bên cạnh mình đang nghĩ gì. Hẳn Wilson đã quá quen với đời sống lạ thường của những cư dân tòa nhà; quen mắt với bãi đậu xe ngầm, hồ bơi và những chiếc Ferrari? Còn Strike (cũng như cô) hẳn đang nghĩ rằng những cánh cửa liên tiếp này chứa đựng nhiều khả năng mà trước đó cô chưa nghĩ đến: cơ hội lẩn trốn nhanh chóng giữa những nhà lân cận, bao nhiêu nhà trên phố là bấy nhiêu lối để ẩn náu và lẻn ra? Nhưng rồi cô để ý thấy vô số camera đen gắn trên cao chĩa khắp hướng, thu mọi cử động vào loạt màn hình lúc nãy. Liệu có khả năng người bảo vệ đã bỏ sót hình ảnh nào đêm đó chăng?
“Xong rồi,” Strike lên tiếng và Wilson dẫn hai người trở lại cầu thang cẩm thạch, sau khi khóa cánh cửa vào bãi đậu xe.
Cả ba đi theo một cầu thang ngắn khác xuống tầng hầm, càng xuống sâu mùi chlorine càng nồng nặc. Khi Wilson mở cánh cửa ở cuối cầu thang, mùi không khí ẩm, ẩm ướt, nồng hóa chất khử trùng xộc lên mũi.
“Hôm đó cánh cửa này không bị khóa phải không?” Strike hỏi Wilson, ông ta gật đầu, bật công tắc đèn, ánh sáng đổ ra chói cả mắt.
Ba người bước trên mép bể bơi rộng rãi cũng lát đá cẩm thạch, hiện giờ đang được phủ lại bằng một tấm nhựa dày. Bức tường đối diện cũng được ốp đầy gương, phản chiếu ba người đang đứng, áo quần đầy đủ, không ăn nhập gì với bức tranh sau lưng vẽ các loại cây cối nhiệt đới và bươm bướm đập cánh, phủ đầy tường lên đến trần nhà. Hồ bơi dài khoảng mười lăm lét, cuối hồ là một bồn tắm mát-xa thủy lực hình lục giác, sau đó là ba buồng thay đồ đều lắp cửa có khóa.
“Ở đây không có camera sao?” Strike hỏi, nhìn quanh quất. Wilson lắc đầu, tỏ ý không có camera nào cả.
Robin cảm thấy mồ hôi rịn ra sau cổ và dưới tay áo. Khu vực hồ bơi rất bí, cô thấy nhẹ cả người khi đi lên cầu thang trước hai người đàn ông, trở lại sảnh lễ tân. So với hồ bơi thì sảnh lễ tân dễ chịu và thoáng hơn nhiều. Một cô gái nhỏ nhắn tóc vàng đang đứng đó. Cô ta mang tạp dề màu hồng, mặc quần jeans và áo thun, xách theo một xô nhựa đầy các loại dụng cụ lau chùi.
“Derrick,” cô ta gọi, giọng rất nặng kiểu tiếng Anh của người nước ngoài, khi thấy ông bảo vệ vừa lên cầu thang. “Tôi đang càng chìa khóa số hai.”
“Đây là Lechsinka,” Wilson nói. “Lao công.”
Cô ta nhìn Strike, mỉm cười thân thiện. Wilson ra phía sau bàn gỗ gụ, đưa cho cô ta một cái chìa khóa. Lechsinka đi lên cầu thang, tay vung vẩy cái xô đựng đồ, cặp mông bó chặt trong lớp quần jeans lắc lư khiêu khích. Biết Robin đang liếc ngang, Strike chột dạ, ngập ngừng đổi hướng nhìn.
Cả hai theo Wilson đi lên lầu, đến căn hộ số 1. Wilson mở cửa bằng chìa chủ. Strike để ý thấy cánh cửa ngay cầu thang có một lỗ nhìn trộm kiểu cũ xưa.
“Nhà ông Bestigui đây,” Wilson nói, tay bấm mã số trên bảng nút bên phải cánh cửa để tắt hệ thống báo động. “Sáng nay Lechsinka đã vô dọn dẹp rồi.” Strike ngửi thấy mùi nước đánh bóng và thấy cả đường lằn do máy hút bụi trên thảm trắng trong hành lang, hai bên có những chiếc đèn ốp tường bằng đồng thau và năm cánh cửa trắng muốt không tỳ vết. Hắn để ý thấy có một bảng nút báo động được lắp kín đáo trên bức tường bên phải, vuông góc với một bức tranh của Marc Chagall vẽ mấy con dê và người nông dân mơ màng trôi trên nền ngôi làng màu xanh nước biển. Ngay dưới bức tranh là mấy chiếc lọ cao cắm hoa phong lan đặt trên bàn sơn mài màu đen kiểu Nhật.
“Ông Bestigui đi đâu?” Strike hỏi Wilson.
“Los Angeles,” ông bảo vệ trả lời. “Hai ngày nữa mới về.”
Căn phòng khách sáng sủa, tươi tắn có ba cửa sổ dài, mỗi cửa sổ đều có ban công hẹp ốp đá ở bên ngoài. Ngoài các bức tường sơn màu xanh nhạt như màu men gốm sứ Wedgwood, gần như tất cả những đồ đạc còn lại đều có màu trắng. Mọi thứ đều tinh tươm, thanh lịch và cân xứng. Thêm một bức tranh tuyệt đẹp, trông ma mị và siêu thực. Trong tranh là một người đàn ông cầm giáo, hóa trang thành con chim hét, tay trong tay với một thân hình phụ nữ màu xám không có đầu.
Tansy Bestigui khăng khăng rằng bà ta đã nghe thấy tiếng la hét cãi nhau cách đó hai tầng lầu khi ở ngay trong căn phòng này. Strike tiến lại gần cửa sổ, chú ý đến chốt cửa kiểu hiện đại và độ dày của tấm kính. Hắn hoàn toàn không nghe được âm thanh nào từ đường phố mặc dù tai hắn gần như áp sát mặt kính lạnh lẽo. Ban công bên ngoài khá hẹp và đầy những chậu cây cảnh được tỉa thành hình chóp nhọn.
Strike đi vào nhà tắm. Robbin vẫn còn ở phòng khách, chậm rãi quay người quan sát chung quanh. Cô nhìn bộ đèn chùm bằng thủy tinh Venice, thảm lót sàn tông trầm màu xanh nhạt và hồng, TV plasma, bàn ăn bằng thủy tinh và sắt kiểu hiện đại, những chiếc ghế sắt có gối tựa bọc lụa rồi đến những món đồ trang trí nhỏ màu bạc đặt trên mấy chiếc bàn con mặt gương và trên bệ lò sưởi bằng đá cẩm thạch trắng. Cô hơi chạnh lòng nghĩ đến bộ sofa IKEA ở nhà mới đó cô còn rất hãnh diện; rồi cô sực nhớ ra chiếc giường xếp của Strike trong văn phòng và thấy hơi xấu hổ vì phép so sánh vừa rồi. Bắt gặp ánh mắt của Wilson, Robin lên tiếng, vô tình lặp lại lời của Eric Wardle:
“Đúng là một thế giới khác nhỉ?”
“Ừa,” ông ta đáp. “Chỗ này không nuôi con nít được.”
“Ừ nhỉ,” Robin nói, nãy giờ nhìn ngắm căn hộ cô không hề nghĩ đến chuyện đó.
Ông sếp tạm của Robin bước ra từ phòng ngủ, vẻ mặt như vừa nghĩ ra được điều gì đó rất thỏa mãn và bước tiếp vào hành lang.
Thực ra Strike đang chứng minh rằng con đường hợp lý nhất từ phòng ngủ nhà Bestigui đến phòng tắm là dọc theo hành lang, vòng qua phòng khách. Hơn nữa, hắn tin chắc rằng vị trí duy nhất trong căn hộ mà Tansy có thể nhìn thấy và nhận ra người vừa rơi xuống chính là Lula Landry, chỉ có thể là phòng khách. Trái với nhận định của Eric Wardle, không ai đứng trong phòng tắm mà nhìn rõ được cửa sổ, nhất là vào ban đêm. Nếu không ở phòng khách thì rất khó nhận ra thứ vừa rơi xuống là một con người, chứ chưa nói đến chuyện thấy rõ mặt.
Strike trở lại phòng ngủ. Sau khi Tansy dọn đi chỉ còn mỗi ông Bestigui ở trong căn hộ, ông ta nằm ngủ trên giường phía gần cánh cửa và hành lang, suy từ mớ thuốc men, kính đeo mắt và mấy cuốn sách đặt trên bàn con cạnh giường. Strike tự hỏi khi Tansy còn ở đây, phải chăng ông ta cũng có thói quen nằm phía bên đó.
Tủ gương siêu lớn để quần áo thông với phòng ngủ. Bên trong treo đầy complet Ý và áo sơ mi Turnbull & Asser. Có hai ngăn kéo phía dưới đựng toàn khuy măng-sét bằng vàng và bạch kim. Đằng sau tấm vách giả ngay sau kệ đựng giày là một két sắt.
“Tôi nghĩ coi ở đây vậy đủ rồi,” Strike nói với Wilson khi trở ra phòng khách.
Wilson bật lại hệ thống báo động trước khi cả ba rời khỏi căn hộ.
“Anh biết mã số của tất cả các căn hộ ở đây?”
“Ừa.” Wilson đáp. “Phải thuộc. Để lỡ báo động có kêu thì còn tắt.”
Họ lên cầu thang đến căn hộ thứ hai. Cầu thang uốn sát quanh đường thông thang máy, đến nỗi mỗi vị trí trên cầu thang đều bị khuất tầm nhìn. Bên trong căn hộ vọng ra tiếng gầm gừ của máy hút bụi Lechsinka đang dùng.
“Bây giờ có ông bà Kolchak thuê lại căn nhà này,” Wilson nói. “Người Ukraine.”
Hành lang ở đây thiết kế giống hệt như căn số 1, trang trí cũng có nhiều điểm tương đồng. Căn hộ này cũng có bảng nút báo động lắp trên tường, nhưng sàn căn hộ lót gạch thay vì lót thảm. Một tấm gương soi lớn, viền mạ vàng treo đối diện với lối vào, tương đương với vị trí bức tranh ở căn số 1. Đặt cạnh tấm gương là hai chiếc bàn con bằng gỗ trông có vẻ mỏng manh, dễ gãy, trên bàn có chiếc đèn ngủ Tiffany rất kiểu cọ.
“Bình hoa hồng của Bestigui cũng được đặt trên bàn như vậy hả?” Strike hỏi.
“Ừa, đặt trên một cái bàn cũng giống vậy,” Wilson đáp. “Cái đó giờ đem vô phòng khách lại rồi.”
“Hôm đó anh bưng bàn ra ngay giữa hành lang, rồi đặt bình hoa lên hả?”
“Ừa, ông Bestigui muốn Macc bước vào nhà là thấy ngay, nhưng cũng dễ tránh, anh thấy đó. Đâu dễ gì đụng bể liền. Nhưng anh cảnh sát đó cũng còn trẻ.” Wilson đáp, vẻ thông cảm.
“Vậy mấy cái nút báo động anh nói đâu?” Strike hỏi.
“Quanh đây,” Wilson trả lời, dẫn hắn ra khỏi hành lang và đi vào phòng ngủ. “Có một cái ngay cạnh giường và một cái trong phòng khách.”
“Căn hộ nào cũng có hết à?”
“Ừa.”
Vị trí tương ứng của phòng ngủ, phòng khách, nhà bếp và phòng tắm giống hệt như căn hộ số 1. Nhiều chi tiết nhỏ cũng giống, chẳng hạn cánh tủ quần áo siêu lớn cũng được ốp gương. Strike đi vào xem xét. Khi hắn mở cánh cửa tủ và quan sát mớ quần áo phụ nữ trị giá cũng phải vài ngàn bảng. Lechsinka từ phòng ngủ bước vào, trên tay cầm một cái thắt lưng, hai cái cà vạt và mấy bộ áo đầm mới được giặt sấy bọc ni lông cẩn thận.
“Chào cô,” Strike lên tiếng.
“Chào,” cô ta nói, bước tới một cánh cửa sau hắn và kéo ra một chiếc móc treo cà vạt. “Tránh ra, giùm chút.”
Hắn đứng ra một bên. Cô ta nhỏ con, xinh xắn kiểu nữ tính, hoạt bát. Gương mặt cô ta hơi bẹt, mũi hếch và đôi mắt kiểu người Đông u. Cô ta treo cà vạt lên thật ngăn nắp, Strike lặng lẽ đứng nhìn.
“Tôi là thám tử,” hắn nói. Rồi hắn nhớ lời Eric Wardle mô tả tiếng Anh của Lechsinka là “dở như hạch”.
“Giống cảnh sát vậy đó?” hắn thử giải thích.
“À. Cảnh sát.”
“Hôm trước khi Lula chết cô cũng có ở đây đúng không?”
Hắn phải nói vài lần Lechsinka mới hiểu ý. Khi đã hiểu ra, cô ta không có vẻ khó chịu gì cả, miễn là vẫn được đứng đó treo đồ lên khi trả lời.
“Tôi luôn chùi cầu thang trước,” cô ta nói, “Cô Landry nói chuyện với ông anh lớn tiếng lắm; ổng la là cổ cho bồ nhiều tiềng quá, với lại cổ tệ với ổng lắm.
“Tôi cũng chùi căn số hai, trống trơn. Trước đã chùi rồi. Nên làm nhanh.”
“Lúc cô đang chùi có Derrick với người bên công ty bảo trì ở đó không?”
“Derrick với gì...”
“Người bảo trì? Người làm đồ báo động?”
“À người báo động với Derrick hả, à có.”
Strike nghe thấy tiếng Robin và Wilson nói chuyện trong hành lang, vị trí hắn dừng lúc nãy.
“Sau khi chùi xong cô có bật báo động trở lại không?”
“Đặt báo động hả? Có,” cô ta nói. “Một chín sáu sáu, giống như dưới cửa, Derrick nói.”
“Ông ấy nói mã số cho cô trước khi dẫn người làm báo động đi?”
Lại một lần nữa hắn phải hỏi vài lần Lechsinka mới hiểu. Khi đã hiểu ra, cô ta có vẻ hết kiên nhẫn.
“Có, tôi nói rồi mà. Một chín sáu sáu.”
“Vậy sau khi chùi xong trong này cô bật báo động trở lại?”
“Đặt báo động, có mà.”
“Cái người sửa báo động đó, trông anh ta ra sao?”
“Người sửa báo động hả? Trông sao hả?” Cô ta nhíu mày trông thật dễ thương, chiếc mũi nhỏ xinh chun lại, cô nhún vai. “Không thấy mặt. Nhưng mà màu xanh – màu xanh hết...” cô ta nói thêm, dùng cánh tay không cầm đám áo đầm quét một đường trên người mình.
“Mặc bộ đồ bảo hộ hả?” Strike gợi ý, nhưng cô tỏ ra không hiểu từ đó. “Được rồi, sau đó cô lau chùi ở đâu?”
“Nhà số 1,” Lechsinka đáp, vừa nói vừa tiếp tục công việc, bước quanh Strike để tìm ra đúng móc treo cho từng món. “Chùi cửa sổ lớn. Bà Bestigui nói chuyện điện thoại. Giận lắm. Buồn lắm. Nói là không muốn nói dối nữa.”
“Bà ấy không muốn nói dối nữa?” Strike lặp lại.
Lechsinka gật đầu, nhón chân để treo một chiếc áo đầm dài quét đất.
“Cô nghe bà ấy nói,” Strike lặp lại rõ ràng, “trên điện thoại, là bà ấy không muốn nói dối nữa?”
Lechsinka lại gật đầu, gương mặt thản nhiên ngây thơ.
“Rồi bà thấy tôi, la lên ‘Cút đi, cút đi!’”
“Thật hả?”
Lechsinka gật đầu tiếp, tay vẫn treo áo.
“Còn ông Bestigui lúc đó ở đâu?”
“Không có đó.”
“Cô có biết bà ấy nói chuyện với ai không? Nói trên điện thoại đó?”
“Không.” Nhưng rồi, Lechsinka nói tiếp, ra vẻ bí mật. “Đàn bà.”
“Đàn bà? Làm sao cô biết?”
“La hét. La hét trên điện thoại. Nghe đàn bà.”
“Cãi lộn à? Tranh cãi? Họ la hét với nhau? Lớn tiếng, hả?”
Strike nhận ra mình đang nói một cách kỳ quặc, cố tình nói chậm, nhấn nhá từ ngữ như một người Anh điển hình khi bối rối trước người nước ngoài không thạo tiếng Anh. Lechsinka lại gật đầu lần nữa, rồi mở ngăn kéo tìm chỗ cất cái thắt lưng, cũng là vật duy nhất còn sót trên tay. Cuối cùng sau khi đã cuộn và cất chiếc thắt lưng vào ngăn kéo, cô ta đứng thẳng người rồi bước ra, đi thẳng vào phòng ngủ. Strike bước theo sau.
Trong khi cô ta trải drap giường và sắp xếp lại hai chiếc bàn con cạnh giường, Strike tiếp tục hỏi và biết thêm được rằng hôm đó cô ta lau chùi căn hộ của Lula Landry sau cùng, sau khi cô người mẫu đã đi ra ngoài thăm bà mẹ. Cô ta không thấy có gì khác thường cả, cũng không thấy tờ giấy màu xanh nào, có viết chữ hay còn để trống. Lúc cô ta xong việc thì mấy cái túi cùng với đám quần áo cho Deeby Macc mà Guy Somé gởi đến cũng vừa được giao ở bàn trực. Hôm đó việc cuối cùng cô ta làm là mang quà của Guy Somé lên lầu, lần lượt đặt vào căn hộ của Lula và Macc.
“Sau khi để đồ ở trong hai căn hộ đó cô đều bật lại báo động hết?”
“Tôi đặt báo động, có hết.”
“Cả nhà của Lula nữa?”
“Có.”
“Một chín sáu sáu trong căn số Hai?”
“Có.”
“Cô có nhớ đem gì lên căn hộ của Deeby Macc không?”
Lechsinka phải ra dấu để diễn tả vài món đồ, nhưng cô ta vẫn làm cho Strike hiểu được là cô ta nhớ có đem lên hai chiếc áo, một cái thắt lưng, một cái mũ, một đôi găng tay và (cô ta làm động tác loay hoay quanh cổ tay) khuy măng-sét.
Lechsinka kể tiếp là sau khi để hết mấy món đồ đó vào phần kệ mở tủ áo quần để Macc có thể nhìn thấy ngay được, cô ta bật báo động và ra về.
Strike cảm ơn cô lao công rối rít, cố tình lần chần để ngắm cặp mông mặc quần jeans bó sát khi cô ta vuốt thẳng tấm chăn mềm, rồi mới quay trở ra hành lang với Robin và Wilson.
Khi cả ba đi lên dãy cầu thang cuối cùng, Strike kiểm tra lại câu chuyện của Lechsinka với Wilson, ông bảo vệ xác nhận là có nhờ nhân viên bảo trì cài mã số 1966 trên báo động, giống như cửa trước nhà.
“Tui chỉ chọn số nào để Lechsinka dễ nhớ, tại giống cửa trước. Nếu muốn sau đó Macc có thể tự cài lại số khác.”
“Anh có nhớ hôm đó nhân viên bảo trì trông như thế nào không? Anh có nói là anh ta đến đây lần đầu?”
“Còn trẻ lắm. Tóc dài chừng mày.”
Wilson chỉ lên cổ.
“Da trắng?”
“Ừa da trắng. Nhìn như chưa mọc râu.”
Cả ba đứng trước cánh cửa căn hộ số Ba, nơi từng là chỗ ở của Lula Landry. Tự dưng Robin thấy như có một luồng điện chạy qua người – vừa sợ hãi, vừa phấn khích khi Wilson mở cánh cửa sơn trắng muốt, trên cửa có một lỗ nhìn trộm lắp kính, cỡ bằng đầu đạn.
Căn hộ trên cùng được thiết kế khác với hai căn còn lại: nhỏ hơn nhưng thoáng hơn. Có vẻ như nó vừa được trang trí lại hoàn toàn với tông màu kem và nâu. Guy Somé có nói với Strike rằng chủ nhân nổi tiếng trước đây của căn hộ yêu thích màu săc; nhưng giờ đây trông căn hộ cũng lạnh lùng như một phòng khách sạn hạng sang. Strike im lặng, đi trước vào phòng khách.
Thảm lót sàn ở đây không làm bằng len mịn màng như dưới căn của Bestigui mà lại bằng sợi đay màu cát, hơi nham nhám. Strike quẹt bàn chân lên thảm, không để lai dấu vết hay lằn ranh nào cả.
“Sàn cũng như vậy khi Lula còn ở đây sao?” Hắn hỏi Wilson.
“Ừa. Cổ chọn vậy. Gần như mới nguyên nên họ giữ lại.”
Khác với ba ô cửa sổ dài ở dưới hai căn hộ còn lại, mỗi ô có một ban công riêng, căn hộ tầng trên cùng chỉ có hai cánh cửa lớn dẫn ra một ban công rộng. Strike mở khóa, đẩy cửa bước ra bên ngoài. Robin không thích nhìn hắn làm việc đó; sau khi liếc nhìn gương mặt trầm tĩnh của Wilson, cô quay lại nhìn mấy chiếc gối tựa và những tấm ảnh treo tường đen trắng, cổ không nghĩ đến việc xảy ngay tại đây ba tháng trước.
Strike nhìn xuống đường. Robin ắt hẳn sẽ rất ngạc nhiên nếu cô biết được những suy nghĩ của hắn hiện giờ không hề lạnh lùng, bình thản như cô vẫn tưởng.
Strike đang hình dung ra một người đang mất kiểm soát, chạy xô về phía Landry khi cô người mẫu đứng đó, thanh mảnh và xinh đẹp, trong bộ quần áo cô đã chọn để gặp một người khách mà cô rất mong gặp. Kẻ sát nhân mất trí giận dữ giằng co với Lula, cuối cùng dùng sức mạnh thô bạo của một người điên loạn ném cô xuống. Những giây Lula rơi xuống mặt đường bê tông, tắt thở trong lớp tuyết trông mềm mại nhưng chết chóc, hẳn phải dài vô tận. Lula đã đập loạn tay trong không khí trống trơn tàn nhẫn, cố tìm một chỗ bấu víu. Và rồi, không hề có thời gian để sửa chữa sai lầm, để giải thích, để trăn trối hay xin thứ tha, không hề có những thứ xa xỉ thường dành cho những kẻ may mắn có thời gian hấp hối, thân xác cô tan vỡ ngay trên mặt đường.
Người chết chỉ có thể lên tiếng qua miệng người còn sống, và qua những dấu hiệu rải rác họ để lại. Strike đã mường tượng ra cô người mẫu từ những dòng chữ cô viết cho bạn bè; hắn đã nghe thấy giọng cô trên điện thoại áp bên tai; nhưng giờ đây, khi nhìn xuống quang cảnh cuối cùng cô thấy trước khi lìa đời, hắn cảm thấy gần gũi lạ lùng với Lula. Sự thật đang chậm rãi hiện ra giữa một đám chi tiết rối rắm không liên quan với nhau. Hắn chỉ còn thiếu bằng chứng.
Điện thoại di động của Strike đổ chuông. Tên và số của John Bristow hiện ra, hắn nhấc máy trả lời.
“Chào anh John, cảm ơn anh đã gọi lại.”
“Không thành vấn đề. Có gì mới không?” Ông luật sư hỏi.
“Có thể có vài thứ. Tôi đã nhờ một chuyên gia xem qua máy tính của Lula, anh ấy tìm thấy một file nhiều hình ảnh bị xóa sau khi Lula chết. Anh có biết gì về chuyện đó không?”
Đáp lời hắn là sự im lặng hoàn toàn. Điều duy nhất khiến Strike biết được Bristow vẫn chưa dập máy là những tiếng động phía bên kia đầu dây.
Cuối cùng ông luật sư lên tiếng, giọng khác hẳn:
“Bị xóa sau khi Lula chết?”
“Chuyên gia máy tính nói vậy.”
Dưới đường một chiếc xe chậm rãi chạy đến, dừng lại ngay giữa đường, Một người phụ nữ mặc áo lông bước ra.
“Tôi... tôi xin lỗi,” Bristow nói, giọng vô cùng chấn động. “Chỉ là tôi sốc quá. Hay bên cảnh sát xóa file này?”
“Anh nhận máy tính lại khi nào?”
“À... hồi tháng Hai, tôi nhớ vậy, khoảng đầu tháng Hai.”
“File bị xóa vào ngày mười bảy tháng Ba.”
“Nhưng... nhưng thế thì thật vô lý. Không ai biết mật khẩu cả.”
“Rõ ràng là có người biết. Anh có nói là cảnh sát cho mẹ anh biết mật khẩu đúng không?”
“Mẹ tôi chắc chắn là không xóa...”
“Tôi không nói mẹ anh làm chuyện đó. Nhưng liệu mẹ anh có để máy tính mở lúc nào đó không? Hoặc đưa mật khẩu cho ai đó?”
Bristow hắn đang ở trong văn phòng. Hắn nghe thấy tiếng nói lao xao ở đầu dây bên kia và văng vẳng có cả tiếng phụ nữ đang cười.
“Cũng có thể là vậy,” Bristow chậm rãi lên tiếng. “Nhưng ai có thể xóa những tấm hình đó? Trừ khi... lạy Chúa, thật kinh khủng...”
“Chuyện gì kia?”
“Anh không nghĩ một trong mấy cô y tá đã xóa mấy tấm hình chứ? Để bán lại cho báo chí? Nhưng mà như vậy thì kinh quá... cô y tá...”
“Chuyên gia chỉ nói là mấy tấm hình bị xóa hết; không có gì cho thấy là chúng bị chép lại rồi đem giấu đi. Nhưng mà như anh nói đó, chuyện gì cũng có thể xảy ra.”
“Nhưng còn ai được nữa chứ... Ý tôi là tôi không muốn nghĩ y tá làm chuyện đó, nhưng còn ai có thể làm được? Chiếc máy tính ở chỗ mẹ tôi suốt, kể từ khi bên cảnh sát trả lại.”
“John, anh có biết mặt tất cả những người đến thăm mẹ anh trong vòng ba tháng trở lại đây không?”
“Tôi nghĩ là biết hết. Nhưng rõ là tôi cũng không chắc...”
“Đúng vậy. Khó ở chỗ đó.”
“Nhưng tại sao... tại sao lại làm vậy?”
“Tôi có thể nghĩ ra vài lý do. Nếu được, phiền anh hỏi lại mẹ anh mấy chuyện. Rất quan trọng, John à. Phiền anh hỏi trong khoảng giữa tháng Ba mẹ anh có bật máy tính không. Có ai trong những người khách đến thăm tỏ ra quan tâm tới nó không.”
“Tôi... tôi sẽ thử xem.” Giọng Bristow rất căng thẳng, nghe như sắp bật khóc. “Mẹ tôi giờ đang rất yếu.”
“Tôi rất tiếc,” Strike nói, đúng phép tắc. “Có gì tôi sẽ liên lạc với anh sớm. Tạm biệt.”
Hắn quay trở lại trong nhà, đóng cửa ban công, rồi hỏi Wilson.
“Derrick, anh có thể chỉ lại cho tôi xem hôm đó anh kiểm tra căn hộ này như thế nào không? Anh kiểm tra phòng nào trước?”
Wilson ngẫm nghĩ một lúc, rồi lên tiếng:
“Tui vô đây trước. Nhìn quanh, thấy cửa mở. Nhưng không đụng vô. Rồi,” ông ta ra hiệu cho Strike và Robin đi theo, “tui coi trong đây...”
Robin đi theo hai người đàn ông, để ý thấy cách Strike nói chuyện với ông bảo vệ hơi khác lúc trước. Hắn hỏi những câu đơn giản, khéo léo, tập trung vào những thứ Wilson đã cảm nhận hay đụng vào, mường tượng ra lúc Wilson đi quanh nhà.
Dưới sự dẫn dắt của Strike, điệu bộ của Wilson bắt đầu thay đổi. Ông ta bắt đầu diễn lại cách ông ta nắm thanh cửa, chồm người vào từng phòng, nhanh nhẹn nhìn quanh quất. Khi ông ta đến phòng ngủ duy nhất, Wilson diễn tả lại hành động chạy một cách chậm rãi, đáp ứng lại sự tập trung chú ý trên gương mặt của Strike. Ông ta quỳ xuống, diễn tả cách mình đã xem xét gầm giường, khi Strike hỏi thì nhớ thêm được là lúc đó dưới chân ông ta có một chiếc áo đầm nhàu nhĩ. Rồi ông ta diễn tả cách mình xoay người để kiểm tra phía sau cánh cửa trước khi chạy ra cửa trước. (Wilson giả vờ làm động tác chạy, hai cánh tay vung mạnh khi bước đi).
“Và sau đó,” Strike lên tiếng, mở cửa và ra hiệu cho Wilson bước qua, “anh bước ra…”
“Tui bước ra,” Wilson đồng ý, giọng trầm thấp, “rồi tui bấm nút thang máy.”
Ông ta giả vờ làm động tác bấm nút, rồi giả vờ đẩy hai cánh cửa ra, nôn nóng xem bên trong có gì.
“Không có gì cả... vậy là tui chạy xuống nhà lại.”
“Lúc đó anh nghe gì không?” Strike hỏi, đi theo Wilson, cả hai đều không để ý đến Robin đang đóng cửa căn hộ.
“Chỉ nghe xa xa... tiếng hai ông bà Bestigui la hét... rồi tui quay qua đây...”
Wilson đứng im trên cầu thang. Strike, dường như cũng đoán trước được, cũng dừng lại; Robin đi thẳng đâm sầm vào hắn, bối rối xin lỗi nhưng hắn đã đưa tay lên ra hiệu im lặng, hắn làm như thể Wilson đang tập trung hầu đồng.
“Rồi tui trượt chân té,” Wilson nói. Giọng ông ta sửng sốt. “Tui quên mất vụ đó. Tui trượt chân té, ngay đây. Té ra đằng sau. Ngồi xuống cái rầm. Có nước. Chỗ này. Mấy giọt nước. Ngay đây.”
Ông ta chỉ về phía cầu thang.
“Mấy giọt nước,” Strike lặp lại.
“Ừa.”
“Không phải tuyết.”
“Không.”
“Không phải dấu chân ướt.”
“Giọt nước. Giọt bự lắm. ở đây. Chân tui quẹo qua một bên rồi tui trượt ngã. Rồi tui đứng dậy ngay, tiếp tục chạy.”
“Anh có kể với cảnh sát về mấy giọt nước chưa?”
“Không. Tui quên mất. Tới giờ luôn. Tui quên mất tiêu.”
Một chi tiết từng khiến Strike mất ăn mất ngủ cuối cùng cũng sáng tỏ. Hắn thở dài thỏa mãn và nhe răng cười. Hai người còn lại nhìn hắn chằm chằm.
4
Hai ngày cuối tuần lại đến, ấm áp và trống trải. Strike ngồi bên cửa sổ, vừa hút thuốc vừa ngắm dòng người đi mua sắm dưới phố Denmark. Hắn để tập hồ sơ điều tra riêng trên đùi và bộ hồ sơ của cảnh sát trên bàn, viết ra tất cả những thông tin đã thu thập được.
Hắn nhìn tấm hình chụp mặt tiền tòa nhà số 18 buổi sáng hôm đó một lúc lâu. Strike nhận ra một điểm khác biệt rất nhỏ nhưng hắn thấy khá quan trọng khi so sánh mặt tiền tòa nhà lúc đó và ở thời điểm hiện tại. Thỉnh thoảng hắn chuyển sang làm việc trên máy tính, đầu tiên là tìm người đại diện của Deeby Macc rồi sau đó là kiểm tra giá cổ phiếu của công ty Albris. Cuốn sổ ghi chép đặt ngay bên cạnh, trang đang mở chi chít những câu mô tả vắn tắt và các câu hỏi bằng nét chữ sắc nhọn của Strike. Khi điện thoại di động đổ chuông, hắn cầm thẳng lên nghe mà không xem trước là ai gọi.
“À, anh Strike,” Peter Gillespie lên tiếng. “Hôm nay anh nghe máy, thật tử tế quá.”
“Ô, chào Peter,” Strike đáp. “Giờ ổng bắt anh làm luôn cả cuối tuần à?”
“Có nhiều người phải làm việc cả cuối tuần. Phải vậy thôi, gọi trong tuần anh đâu có trả lời trả vốn gì.”
“Dạo này tôi rất bận. Công việc nhiều.”
“Tôi hiểu. Nói vậy tức là anh sắp trả được tiền cho tụi tôi?”
“Tôi cũng mong vậy.”
“Anh cũng mong vậy?”
“Vâng,” Strike đáp. “Vài tuần tới tôi sẽ có đủ tiền trả anh một khoản.”
“Anh Strike. Thái độ của anh làm tôi kinh ngạc. Anh hứa sẽ trả ông Rokeby hàng tháng, mà giờ đây anh đã trả chậm tổng cộng là...”
“Tôi không thể trả bằng tiền mà mình chưa có. Nếu anh chịu đợi thêm, tôi sẽ trả hết. Thậm chí trả nguyên một cục.”
“Tôi e là không được. Trừ khi anh trả hết phần bị chậm...”
“Gillespie,” Strike nói, mắt nhìn bầu trời sáng rực ngoài cửa sổ, “tôi với anh đều hiểu rằng Jonny già sẽ không đi kiện thằng con-thương-binh-một-cẳng chỉ để lấy lại món tiền không bằng tiền mua xà bông cho tay quản gia nhà ông ta. Tôi sẽ trả hết, trả cả tiền lời nữa, chỉ trong vòng hai tháng tới, ổng tha hồ tộng hết đám tiền đó vô đít rồi đốt sạch nếu ổng muốn. Anh cứ nói với ổng như vậy, còn bây giờ anh biến quách cho tôi nhờ.”
Strike dập máy, để ý thấy lần này hắn đã không thực sự nổi nóng, nhưng vẫn có chút hả hê.
Hắn tiếp tục làm việc đến đêm khuya, ngồi ở chiếc ghế mà giờ đây hắn đã quen nghĩ là chỗ ngồi riêng của Robin. Trước khi nghỉ tay, hắn gạch chân ba lần dưới dòng chữ “Khách sạn Malmaison, Oxford” và khoanh vòng thật đậm quanh cái tên “J.P. Agyeman”.
Nước Anh đang chuẩn bị cho ngày bầu cử sắp đến. Tối Chủ nhật Strike lên giường khá sớm, bật chiếc TV nhỏ xem tin tức về những vụ nói hớ trong ngày, các màn cãi qua cãi lại, những lời hứa hẹn trước bầu cử của giới chính trị gia. Dường như bản tin nào hôm đó cũng ảm đạm. Công nợ của chính phủ Anh lớn đến độ dân thường không ai hiểu nổi. Sắp đến ngân sách sẽ bị cắt giảm hàng loạt, Đảng nào thắng cũng vậy. Thi thoảng, ngôn từ lắt léo của lãnh đạo các Đảng đang tranh cử lại khiến Strike nhớ đến mấy vị bác sĩ phẫu thuật lúc họ dặn dò rằng có thể hắn sẽ bị đau; mặc dù bản thân họ sẽ chẳng bao giờ hiểu được cái đau ấy đến mức nào.
Sáng thứ Hai Strike đi đến chỗ hẹn ở quận Canning Town để gặp Marlene Higson, mẹ ruột của Lula Landry. Cũng khá rắc rối Strike mới sắp xếp được cuộc hẹn này. Alison, thư kí của Bristow đã đưa số điện thoại của Higson cho Robin. Strike đích thân gọi để xin cuộc hẹn. Ban đầu mặc dù hơi thất vọng vì Strike không phải là nhà báo, bà ta vẫn đồng ý gặp. Nhưng sau đó bà ta gọi điện lại cho văn phòng hai lần: đầu tiên để hỏi liệu Strike có chịu trả tiền vé tàu xe cho bà ta đi vào trung tâm London không, Robin trả lời là không. Sau đó bà ta gọi ngay lại, đùng đùng đòi hủy cuộc hẹn. Strike đích thân gọi lần thứ hai thuyết phục một hồi, bà ta đồng ý gặp tại quán bia ở gần nhà. Nhưng ngay sau đó Higson gọi lại cho Strike, để lại tin nhắn hủy cuộc hẹn, giọng có vẻ bực bội.
Strike gọi lần thứ ba. Hắn nói rằng điều tra đang đi vào giai đoạn cuối, sau đó tất cả các chứng cứ sẽ được công khai, lúc đó chắc chắn giới báo chí sẽ lại nhảy vào. Vậy nên nếu bà ta không muốn gặp thì hắn cũng thông cảm được, vì như vậy báo chí sẽ để bà ta yên. Ngay lập tức Marlene Higson đổi ý, muốn kể cho Strike tất cả những gì bà ta biết. Trước sự thống thiết của bà ta, Strike tỏ vẻ xuôi lòng và chấp nhận hẹn gặp ở vườn bia quán Ordance Arms vào sáng thứ Hai như đã hẹn trước.
Hôm đó hắn đi tàu ra quận Canning Town. Trạm tàu Canning Town nhỏ bé, có thể nhìn thấy được từ khu trung tâm tài chính Canary Wharf, nơi có những tòa nhà hào nhoáng sang trọng trông như phim khoa học viễn tưởng. Những tòa nhà đó sừng sững, to lớn như món nợ công khổng lồ của nước Anh, đứng từ xa không thể hình dung chúng lớn như thế nào. Nhưng chỉ đi bộ vài phút, Strike đã hoàn toàn bỏ lại sau lưng cái thế giới hào nhoáng đó. Quận Canning Town nhìn đâu cũng thấy nghèo nàn xập xệ, mặc dù nằm chen chúc ngay bên cạnh những dãy nhà ven sông, nơi có những căn hộ sang trọng hiện đại của giới nhà băng. Strike biết rõ Canning Town từ lâu bởi đây từng là chỗ của một người bạn trong giới giang hồ, cũng chính là người đã cung cấp cho hắn địa chỉ của Brett Fearney. Hắn đi dọc theo phố Barking, quay lưng về phía Canary Wharf, ngang qua một tòa nhà gần biển quảng cáo ghi chữ “kills 4 Communities” (Giết chóc vì cộng đồng), hắn hơi sững lại, trước khi nhận ra hẳn ai đó đã xóa mất chữ S trước chữ k- tấm biển quảng cáo đáng ra phải là “Skills 4 Communities” (Kĩ năng vì cộng đồng).
Quán Ordance Arms ở ngay bên cạnh Công ty Trách nhiệm hữu hạn môi giới Cầm đồ Anh quốc. Quán khá rộng lớn, trần thấp, sơn màu be. Nội thất bên trong quán có vẻ gọn gàng, thực dụng. Ngoài một dãy đồng hồ bằng gỗ treo trên tường màu đất sét và tấm thảm lót sàn màu đỏ có hoa văn bầm tía, chủ quán chẳng màng trang trí vẽ vời gì nữa. Trong quán có hai bàn billiard loại lớn, một quầy bar khá dài ở vị trí trung tâm, chung quanh khá thoáng, tiện cho khách ra vô lấy đồ uống. Mười một giờ sáng, quán vắng tanh, vị khách duy nhất là một người đàn ông lớn tuổi nhỏ bé ngồi khuất trong góc và một cô phục vụ mặt mày tươi tắn, thân mật gọi ông khách là “Joey” và nhanh nhẹn chỉ lối ra vườn sau cho Strike.
Vườn bia thực ra là sân sau lót bê tông, trông vô cùng ảm đạm. Trong “vườn” có mấy thùng rác và một chiếc bàn gỗ duy nhất. Một người đàn bà ngồi trên ghế nhựa màu trắng bên cạnh bàn. Bà ta bắt chéo cặp giò múp míp, cầm điếu thuốc ngang mặt. Trên mấy bức tường cao bao quanh có gắn kẽm gai cuộn bảo vệ. Một cái túi ni lông bị vướng vào đó, bay sột soạt trong gió. Bên kia bức tường là một dãy nhà chung cư sừng sững, sơn vàng. Ban công khu chung cư treo đầy quần áo đồ đạc lếch thếch, nhìn đâu cũng thấy dơ dáy nghèo khổ.
“Bà Higson?”
“Chú em gọi tui là Marlene được rồi.”
Bà ta nhìn hắn từ đầu tới chân, ra vẻ sành sỏi, chậm rãi mỉm cười. Marlene mặc áo sát nách màu hồng bằng vải thun Lycra, khoác ngoài một chiếc ao thun dày liền mũ màu xám có khóa kéo, bên dưới mặc quần tất ôm sát hơi ngắn, để lộ một khúc cổ chân trắng nhợt. Đôi dép xỏ ngón bà mang trông dơ dơ nhưng các ngón tay đeo đầy nhẫn vàng. Tóc cũng nhuộm vàng, lộ vài phân chân tóc màu nâu đã ngả bạc, được cột túm lại phía sau bằng một cái cột tóc vải lùm xùm như khăn tắm đã ngả màu cháo lòng.
“Bà uống gì để tôi mua?”
“Nếu anh đã ép vậy thì cho một vại Carling.”
Cái kiểu bà ta uốn éo người về phía Strike, gạt vài sợi tóc xơ xác rũ xuống bọng mắt, và cả cách bà ta cầm điếu thuốc đều toát lên vẻ điệu đàng lố bịch. Có lẽ bà ta luôn cư xử như vậy trước mặt đàn ông. Strike thấy vừa mủi lòng vừa ghê tởm.
“Sốc hả?” Marlene Higson lên tiếng, sau khi Strike đem bia về lại bàn cho cả hai. “Hồi lúc tui đem cho nó đi cũng y vậy. Lúc đó tui đau lòng lắm chứ, nhưng mà nghĩ thôi thì để nó được sung sướng. Còn không tui làm sao đành lòng làm chuyện đó. Tui cứ nghĩ để nó có những thứ tui không có. Tui nghèo từ nhỏ. Hồi đó trong tay chẳng có gì, nhẵn như chùi.”
Bà ta nhìn đi chỗ khác, cầm điếu thuốc Rothman rít một hơi thật sâu, lúc đó trông miệng bà ta nhăn nhúm y hệt đít mèo.
“Tay Dez bồ tui cũng chẳng thiết gì nó... anh biết đó, nó là dân da màu, rõ ràng không phải con ảnh. Càng lớn da nó càng đen, chứ lúc mới sinh nó cũng như con nít da trắng thôi. Nhưng không đời nào tui đem nó đi cho, nếu tui không nghĩ làm vậy thì nó có cơ được sung sướng. Tui nghĩ nó cũng sẽ không nhớ gì tôi, tại lúc đó nó còn nhỏ quá. Tui làm vậy để tốt cho nó, rồi biết đâu sau này khi nó lớn lên nó sẽ đi tìm tui. Mơ ước vậy mà thành sự thật,” bà ta nói thêm, làm bộ xúc động mãnh liệt. “Nó đi tìm tôi thiệt.”
“Để tui kể anh nghe chuyện này rất lạ,” bà ta tiếp tục thao thao, không thèm nghỉ lấy hơi. “Ngay một tuần trước khi nó gọi điện lần đầu cho tui, một anh bạn có hỏi tui ‘Cưng biết cưng giống ai không?’ Rồi ảnh nói tên nó. Tui chỉ nói ‘Dớ dẩn vừa thôi,’ nhưng ảnh lại nói tiếp, ‘Thiệt mà. Ngay con mắt, rồi hàng chân mày nữa, thấy chưa?”
Bà ta nhìn Strike, chờ đợi nhưng hắn không thể thốt ra tiếng nào. Gương mặt Nữ hoàng Nefertiti làm sao bà con gì với cái mớ xám xịt tai tái này.
“Nhìn ảnh tui hồi trẻ thì sẽ thấy,” bà ta nói tiếp, giọng hơi dỗi. “Cái chính là, tui cho đi để nó được sung sướng, vậy mà họ giao nó cho cái đám chó đẻ đó, vô phép anh tui nói vậy. Nếu biết trước tui đã giữ nó lại, tui có nói vậy với nó. Nghe tui nói vậy nó khóc luôn. Phải chi tui đừng bao giờ đem cho, để lại mà nuôi.
“Có chứ. Nó nói chuyện với tui hoài. Tâm sự nhiều lắm. Ông cha nuôi cũng tốt, Ngài Alec đó. Nghe kể cũng được. Nhưng bà mẹ ghê gớm lắm. À, vụ thuốc men. Uống thuốc liên tục. Thì kiểu mấy con mụ nhà giàu rảnh quá suốt ngày uống thuốc an thần. Anh thấy đó, Lula nói chuyện được với tui. Hai mẹ con quấn quít lắm. Ta nói, máu mủ ruột rà mà.
“Nó rất sợ không biết mụ già sẽ làm gì nếu biết nó đi tìm mẹ ruột. Nó lo lắm, sợ mụ ta lên cơn khi báo chí tìm ra tui, nhưng anh thấy đó, người nổi tiếng như nó thì rồi chuyện gì báo chí cũng biết, chẳng phải vậy sao? Trời ơi, báo chí bịa đâu ra đủ thứ chuyện. Nhứt là về tui. Giờ nghĩ lại tui còn muốn đi kiện.”
“Đang nói tới đâu rồi? À, bà mẹ nuôi nó. Tui nói với Lula, ‘Tại sao phải lo lắng hả cưng, bỏ luôn bà đó thì càng tốt chứ sao. Cứ kệ cho bả tức nếu bả không muốn hai mẹ con mình gặp nhau.’ Nhưng Lula là đứa có hiếu, thường xuyên thăm viếng bả, cho đúng bổn phận vậy mà.
“Nhưng dù sao thì nó cũng có cuộc sống riêng, tự do làm những việc nó muốn, không phải vậy sao? Nó còn có thằng Evan. Nói thiệt với anh, tui có nói là tui không chịu thằng đó,” Marlene Higson kể lể, làm bộ nghiêm nghị đứng đắn. “Gì chứ nghiện ngập thì tui biết quá rồi, nhiều đứa tan nát hết. Nhưng tui phải công nhận rằng thằng nhỏ coi vậy mà tốt tính. Tui phải công nhận vậy đó. Chuyện vừa rồi không dính gì đến Evan cả. Tui cam đoan luôn.”
“Bà gặp anh ta rồi à?”
“Chưa, nhưng có lần Lula điện cho Evan lúc đang ở chỗ tui. Tui có nghe hai đứa nó nói điện thoại với nhau, nghe dễ thương lắm. Không, tui không nghĩ gì xấu cho Evan cả. Rõ là không dính gì tới thằng nhỏ, có chứng cứ rồi còn gì. Tui không nghĩ gì xấu cho nó cả. Miễn là bỏ ma túy đi thì tui chịu hết. Tui có nói với Lula, ‘Dẫn nó tới đây cho mẹ xem có được không,’ nhưng Lula chẳng bao giờ dẫn Evan tới. Nó bận lắm. Tóc tai lôi thôi vậy chứ Evan trông bảnh lắm,” Marlene nói. “Anh nhìn hình cũng thấy đó.”
“Lula có kể gì với bà về mấy người hàng xóm không?”
“Ồ, tay Fred Beastigwee hả? Có, nó nói hết, nói là tay đó có mời đóng phim. Tui nói, tại sao không? Đóng cho vui mà. Nếu không thích thì vẫn có thêm được nửa triệu bỏ túi, chớ gì?”
Bà ta nheo đôi mắt đỏ ngầu; ngây ra trong giây lát khi nghĩ đến con số hấp dẫn khổng lồ mà xa vời như ảo ảnh vô tận. Chỉ nói đến món tiền đó cũng khiến Marlene mơ mộng lâng lâng.
“Lula có nói gì về Guy Somé không?”
“Có chứ, con bé quý Gee, ổng thương nó lắm. Nhưng tui thích mấy thứ hơi cổ điển chút. Đồ của Gee không hơp với gu của tui.”
Lúc bà ta chồm người ra trước để điệu đàng khảy điếu thuốc vào gạt tàn, mấy nếp gấp xuất hiện trên chiếc áo Lycra màu hồng chóe bó chặt lấy khúc mỡ bụng chỉ chực trào ra ngay lưng quần.
“‘Anh ấy như anh trai của con vậy’ Lula nói về Gee như vậy đó, rồi tui nói, cần gì anh nuôi, sao không đi tìm mấy thằng con của tui luôn? Nhưng nó không quan tâm mấy.”
“Mấy cậu con bà?”
“Ờ thì mấy đứa con khác của tui. Sau Lula tui sinh thêm hai đứa nữa, một đứa với Dez, một đứa với người khác. Bên Bảo trợ Xã hội đem tụi nó đi hết, nhưng tui nói với Lula, có tiền thì đi tìm được thôi, chỉ cần cho tui một ít, đôi ba ngàn bảng gì đó, rồi tui sẽ nhờ người đi tìm tụi nó, giữ kín với báo chí, để đó mình tui làm, nó không phải đụng gì tới. Nhưng nó chẳng mặn mà gì.” Marlene lặp lại.
“Bà có biết hai người này hiện giờ ở đâu không?”
“Hồi họ đem đi tụi nó còn nhỏ xíu, không biết bây giờ đã ở đâu rồi. Lúc đó tui gặp nhiều chuyện rắc rối. Tui cũng không giấu anh làm gì. Đời tui khổ lắm.”
Rồi bà ta kể lể dài dòng về cuộc đời “khổ lắm” đó của mình. Một chuỗi những cùng cực với những tay “chồng” vũ phu, nghiện ngập, dốt nát, trốn tránh trách nhiệm. Rồi sự túng bần và bản năng sống còn hoang dại xui khiến bà ta vứt bỏ con cái, vì việc nuôi dạy chúng đòi hỏi những kỹ năng mà bà ta chưa bao giờ có được.
“Vậy bây giờ bà không biết hai người con trai đang ở đâu?” Strike lặp lại, đúng hai mươi phút sau.
“Không, làm thế quái nào tui biết được?” Marlene đáp, sau một hồi kể lể bà ta trở nên cay cú hằn học. “Con nhỏ cũng không quan tâm gì. Nó đã có một thằng anh da trắng còn gì? Nó chỉ muốn đi kiếm ruột rà da đen thôi. Nó chỉ cần có vây.”
“Lula có hỏi gì bà về cha ruột không?”
“Có, tui biết gì nói hết. Ổng là sinh viên người châu Phi. Hồi đó, ổng thuê nhà trên gác, tui ở ngay tầng dưới, nhà trên đường Barking đây thôi. Ổng ở chung với hai người nữa. Chỗ đó giờ người ta đặt làm tiệm cá cược ở tầng dưới. Ổng đẹp trai lắm. Mấy lần tui đi chợ về có ra xách đồ giùm một tay.”
Trong câu chuyện của Marlene Higson, mối tình đó đứng đắn chừng mực, đầy đủ phép tắc như thời Victoria. Trong mấy tháng đầu tiên hai người không làm gì xa xôi hơn mấy cái bắt tay.
“Rồi thì, tại ổng giúp tôi hoài đó, nên một bữa tui mời ổng vô nhà, để cảm ơn vậy thôi anh hiểu không. Tui không bao giờ có thành kiến với dân da đen. Với tui ai cũng bình đẳng. Mời vô nhà uống ly trà trà thôi không có gì hết, tui nói vậy đó. Rồi thì,” Marlene nói tiếp, cho sự thật phũ phàng giáng rầm xuống những tách trà đặt trên đám khăn lót đĩa xinh xinh vừa tưởng tượng ra, “sau đó tui có bầu.”
“Bà có nói với ông ấy không?”
“Có chứ, ổng hứa hẹn sẽ giúp đỡ, đứng ra gánh vác, để làm sao cho tui ổn thỏa. Lúc đó vừa nghỉ hè. Ổng nói là sẽ quay lại,” Marlene nói, giọng đầy khinh bỉ. “Nhưng cút thẳng một mạch. Thì cũng có gì mà lạ? Rồi tui biết làm gì hơn, không lẽ đi châu Phi kiếm ổng?”
“Nhưng tui cũng không hề hấn gì, không đau khổ mấy vì lúc đó tui cũng vừa quen Dez. Ảnh không ngại đứa nhỏ. Sau khi Joe bỏ đi thì tôi dọn vô ở chung với Dez.”
“Joe?”
“Tên ổng. Joe.”
Bà ta nói ra vẻ chắc chắn như đinh đóng cột nhưng Strike cảm thấy dường như bà ta đã lặp đi lặp lại cái tên bịa đó quá nhiều lần, thành thử lời nói cứ trơn tuồn tuột.
“Họ của ông ấy là gì?”
“Tui nhớ làm quái nào được. Anh hỏi giống y như Lula. Hơn hai mươi năm rồi còn gì. Mumumba,” Marlene Higson nói bừa, không chút bối rối. “Hay đại loại vậy.”
“Có phải là Agyeman không?”
“Không.”
“Owusu?”
“Tui nói rồi,” bà ta trở nên hung hăng, “Mumumba hay cái gì đại loại vậy.”
“Không phải Macdonald? Hay Wilson chẳng hạn?”
“Anh giỡn hả? Macdonald? Wilson? Từ Châu Phi?”
Strike kết luận mối tình của Higson chưa đến giai đoạn hai bên kịp biết họ tên đầy đủ của nhau.
“Lúc đó ông ấy là sinh viên à? Ông ấy học ở đâu vậy?”
“Đại học,” Marlene đáp.
“Trường nào, bà nhớ không?”
“Tui đếch biết. Xin điếu thuốc được không?” Bà ta nói thêm, giọng hơi dịu lại.
“Vâng, bà cứ tự nhiên.”
Marlene rút ra một cái bật lửa nhựa để châm thuốc rồi làm luôn vài hơi. Điếu thuốc miễn phí làm bà ta mềm mỏng lại một chút:
“Hình như có liên quan gì đó tới bảo tàng. Liên kết gì đó, đại loại vậy.”
“Liên kết với bảo tàng?”
“Ừa, tại tui nhớ ổng có nói ‘Thỉnh thoảng có thời gian rảnh rỗi tôi đi thăm bảo tàng.’” Bà ta giả giọng, cứ nghe theo đó thì người sinh viên từ Châu Phi này nói năng giống hệt một quý ông thượng lưu người Anh. Nói rồi, bà ta tủm tỉm cười, như thể đi bảo tàng là chuyện lạ lùng lố bịch lắm.
“Bà có nhớ là ông ấy hay đi bảo tàng nào không?”
“Bảo... bảo tàng Anh quốc hay đại loại như vậy,” bà ta đáp, rồi sau đó bực tức nói thêm, “Anh y hệt như Lula. Làm thế quái nào mà tui nhớ hết mấy chuyện như vậy?”
“Bà không bao giờ gặp lại ông ấy nữa sau khi ông ấy về nước nghỉ hè?”
“Không.” Bà ta đáp. “Mà tui cũng không mong gì.” Bà ta nốc bia, nói tiếp. “Chắc chết đâu rồi.”
“Tại sao bà lại nói vậy?”
“Châu Phi mà, đúng không?” Bà ta đáp thản nhiên. “Chắc là bị trúng đạn chết? Hay chết đói. Hay gì nữa. Châu Phi mà, anh biết đó.”
Đúng là Strike từng biết Châu Phi. Hắn nhớ đến những con đường nhung nhúc người ở Nairobi, quang cảnh rừng mưa nhiệt đới của Angola nhìn từ trên máy bay, những ngọn cây phủ đầy sương mù và cảnh đẹp hút hồn hiện ra khi máy bay đổi hướng: một thác nước chảy đổ xuống triền núi xanh mướt. Rồi cả người đàn bà dân tộc Masai ngồi trên thùng giấy cho con bú trong khi hắn tỉ mỉ đặt câu hỏi điều tra về cáo buộc hiếp dâm còn Tracey cầm máy quay phim đứng ngay bên cạnh.
“Lula có cố gắng đi tìm cha ruột không?”
“Có, nó có cố tìm thiệt.” Marlene hờ hững đáp.
“Tìm như thế nào?”
“Nó tìm trong giấy tờ bên trường Đại học,” Marlene đáp.
“Nhưng nếu bà không nhớ ông ấy học trường nào...”
“Tui không biết, hình như Lula kiếm ra trường của ổng, nhưng mà không kiếm ra ổng đâu. Chắc tui không nhớ chính xác tên ổng, tui cũng không biết nữa. Lula cữ lẵng nhẵng hỏi suốt: trông ổng ra sao, ổng học cái gì. Tui trả lời là ổng cao, người gầy gầy, đáng ra nó phải mừng vì lỗ tai nó giống tui, chứ tai voi như ổng thì còn lâu mới làm người mẫu người miếc gì được.”
“Lula có hay nói gì về bạn bè của cô ấy không?”
“Có chứ. Có một con ranh người da đen, Raquelle hay cái quỷ gì đó. Đeo theo Lula như đỉa hút máu. Giờ cũng ngon lành chán. Có đủ áo quần rồi vòng vèo rồi những gì gì nữa. Tui chỉ nói với Lula một lần, ‘Mẹ khoái một cái áo khoác mới.’ Nhưng tui không có xin xỏ gì, anh thấy đó. Con Requelle thì hở ra là xin.”
Bà ta hừ mũi, uống cạn ly bia.
“Bà gặp Rochelle bao giờ chưa?”
“Hóa ra tên vậy hả? Ừ, có gặp một lần. Nó ngồi sẵn trong xe khi tài xế tới đón Lula ở chỗ tui. Ra vẻ bà lớn, nhìn tui bằng nửa con mắt chớ. Giờ thì chắc tiếc lắm. Cái đồ la liếm.
“Rồi cả con Ciara Porter.” Marlene kể tiếp, giọng còn khinh bỉ hơn, “chơi luôn bồ của Lula ngay trong đêm đó. Con đĩ ranh khốn nạn.”
“Bà có quen biết Ciara Porter không?”
“Tui thấy trên báo. Evan đi tới nhà nó, không phải vậy sao? Sau khi gây gổ với Lula. Đi thẳng tới nhà Ciara. Quá đáng mà.”
Marlene càng nói thì Strike càng thấy rõ là Lula chưa bao giờ để bà mẹ ruột gặp bạn bè của mình. Trừ lần nhìn thấy Rochelle chớp nhoáng, Marlene chỉ biết về họ qua mớ thông tin trên báo chí mà bà ta ắt hẳn đã đọc ngấu nghiến.
Strike đi mua thêm đồ uống, rồi nghe Marlene mô tả lại nỗi kinh hoàng và cú sốc khi nghe tin (do một người hàng xóm chạy xộc vào nhà báo ngay sáng sớm ngày 8 tháng Giêng) rằng con gái bà ta vừa ngã từ ban công xuống mặt đường chết ngay tại chỗ. Strike cẩn thận hỏi dò thì biết được thêm là hai tháng trước đó Lula không hề gặp bà mẹ ruột. Rồi bà ta tuôn một tràng chửi rủa cách gia đình nhận nuôi của Lula đối xử với mình sau đó.
“Họ không muốn có tui ở đó, nhứt là ông cậu khốn nạn của nó. Anh gặp ổng rồi chứ? Tony Landry đó? Tui gọi cho ổng hỏi về đám tang, nhưng toàn bị ổng dọa. Vậy đó. Dọa nạt đủ kiểu. Tui nói với ổng ‘Tui là mẹ nó, tui có quyền tới đó.’ Rồi ổng nói lại là tui không phải mẹ nó, mà mụ già hâm kia mới là mẹ nó, phu nhơn Bristow đó. Ngộ ghê hả, tui nói với ổng, tui nhớ là có rặn đẻ nó ra kia mà, nói vô phép anh nhưng đúng thế chứ gì nữa? Rồi ổng nói là tui đang gây rắc rối vì tui nói chuyện với báo chí. Nhưng tụi nó tới tận nhà tìm tui mà.” Bà ta giận dữ kể với Strike, chỉ tay dứt khoát về phía dãy chung cư bên cạnh. “Báo chí tới tìm tui. Vì tui kể chuyện của chính tui. Đương nhiên là tui kể rồi.”
“Tui không muốn làm lớn chuyện, nhứt là ở đám tang, tui không muốn phá cái gì hết, nhưng đừng có hòng đuổi tui đi. Tui có dự đám tang, ngồi ghế sau. Con khốn Rochelle cũng có ở đó, nhìn tui như thứ rác rưởi gì vậy. Nhưng sau đó thì không ai làm gì tui hết.
“Họ có được cái họ muốn rồi, cái gia đình khốn nạn đó. Tui chẳng được cái quái gì. Chẳng có cái khỉ khô gì cả. Lula có linh thiêng chắc nó buồn lắm, tui biết chắc vậy. Hẳn nó muốn để lại cho tui gì đó. Không phải,” Marlene nói, ra vẻ tự trọng “là tui quan tâm gì tới tiền nong. Với tui tiền bạc không là gì hết. Không có gì thay thế được con gái tui, mười triệu hay hai chục triệu cũng vậy.
“Nhưng nói thiệt với anh, Lula mà có linh thiêng chắc nó điên lắm nếu biết tui không được xu nào,” bà ta nói tiếp. “Cả đống tiền vậy mà; không ai tin chuyện tui trắng tay cả. Tiền nhà thì không trả nổi trong khi con gái ruột vừa chết đi để lại tiền triệu. Nhưng anh thấy đó. Cứ vậy nên người giàu mới giàu hoài, đúng không? Họ không cần tiền, nhưng có thêm chút đỉnh thì vẫn không chê. Tui không biết làm sao tay Landry cạn tàu ráo máng đó thảnh thơi ngủ ngon được, nhưng thôi, đó là việc của lão.”
“Lula có hứa hẹn để lại gì cho bà không? Cô ấy có bao giờ nhắc tới di chúc không?”
Gương mặt Marlene đột nhiên trở nên tươi tỉnh, khấp khởi hy vọng.
“Có chứ, nó nói sẽ lo hết cho tui mà. Đúng vậy, nó nói là sẽ lo cho tui ổn thỏa. Anh nghĩ tui có nên nói lại vụ đó với ai không? Nói rõ ra như vậy đó?”
“Tôi không nghĩ làm vậy sẽ thay đổi được chuyện gì, trừ khi cô ấy làm sẵn di chúc trong đó có nhắc tới bà.” Strike đáp.
Mặt bà ta xịu ngay xuống, sưng sỉa trở lại.
“Chắc đám đó đốt quách cái di chúc rồi, đồ khốn nạn. Dám lắm. Đám đó cùng một giuộc mà. Tui không tin nổi có gì lọt qua khỏi tay ông cậu già dịch đó.”
5
“Tôi rất tiếc vì anh ấy vẫn chưa gọi lại cho chị,” Robin nói với người bên kia đầu dây đang ở cách văn phòng hơn chục cây số. “Anh Strike hiện giờ rất bận. Để tôi ghi lại tên và số của chị rồi nhắc anh ấy gọi lại cho chị ngay chiều nay.”
“Ồ, không cần làm vậy đâu,” bên kia đầu dây lên tiếng. Giọng cô ta nghe dễ chịu, kiểu người có học thức, thoáng chút khàn khàn khiến người ta liên tưởng ngay đến một giọng cười rất gợi cảm, táo bạo. “Thực ra tôi không cần nói chuyện với anh ấy. Phiền cô chuyển giùm lời nhắn vậy? Tôi chỉ muốn báo trước cho anh ấy thôi. Trời đất, vụ này... thật là xấu hổ quá; tôi không muốn làm kiểu vậy chút nào... Thôi thì. Phiền cô nhắn lại rằng Charlotte Campbell gọi để báo tin đính hôn với Jago Ross. Tôi không muốn anh ấy nghe được tin này từ một người nào khác, hay phải đọc báo thấy. Bố mẹ Jago vừa mới đi đăng tin trên tờ Times. Thật là ngại quá.”
“Ồ, được rồi,” Robin đáp, đầu óc cô đột nhiên sững lại, bàn tay đang cầm cây viết cũng vậy.
“Cảm ơn cô nhiều lắm, Robin – phải tên cô vậy không? Cảm ơn. Chào cô.”
Charlotte dập máy trước. Robin từ từ đặt ống nghe xuống, vô cùng hoang mang. Cô không muốn chuyển lời của Charlotte một chút nào. Mặc dù Robin chỉ là người báo tin, cô vẫn cảm thấy như mình đang giáng một đòn xuống Strike, trúng ngay vào quyết tâm muốn giữ kín mọi chuyện riêng tư của hắn, từ đám thùng giấy đựng đồ, chiếc giường xếp, đến cả mấy vỏ hộp đồ ăn trong thùng rác mỗi sáng – những thứ hắn không bao giờ nhắc đến.
Robin ngồi suy tính. Cô có thể lơ luôn nội dung của tin nhắn, chỉ cần nhắc Strike gọi lại cho Charlotte, để cô ta tự làm cái việc dơ bẩn đó (Robin cho là thế). Nhưng mà nếu Strike không chịu gọi, rồi ai đó nói lại vụ đính hôn với hắn thì sao? Roin không cách gì biết được liệu Strike và người cũ (bồ? Vợ sắp cưới? Vợ đã cưới?) có nhiều bạn chung không. Nếu cô và Matthew chia tay và anh ấy đính hôn với một người đàn bà khác (chỉ nghĩ tới điều đó thôi cũng khiến Robin thấy nhói cả lòng), tất cả bạn bè và người thân của cô hẳn sẽ quan tâm và tìm cách báo ngay cho cô biết. Nếu vậy, Robin nghĩ thầm, cô vẫn muốn được cảnh báo trước, càng kín đáo và riêng tư càng tốt.
Vậy nên, một tiếng sau đó, khi nghe tiếng Strike đang đi lên cầu thang, vừa đi vừa nói điện thoại, có vẻ rất hồ hởi, Robin lại thấy quặn cả ruột gan, như thế chuẩn bị bước vào phòng thi. Khi Strike đẩy cánh cửa gương bước vào, hắn không cầm điện thoại mà đang đọc rap lẩm bẩm trong miệng. Robin càng cảm thấy tệ hại hơn nữa.
“Kệ mẹ thuốc men và kệ mẹ Johari,” Strike vẫn lẩm bẩm, kẹp một cái quạt điện còn đựng trong hộp dưới cánh tay. “Chào cô.”
“Chào anh.”
“Chắc phải dùng cái này. Trong này bí quá.”
“Đúng rồi, có quạt sẽ đỡ hẳn.”
“Trong cửa hàng bật nhạc Deeby Macc,” Strike nói, đặt cái quạt xuống góc phòng và cởi áo khoác. “Cái gì mà Ferrari, rồi kệ mẹ thuốc men, kệ mẹ Johari.” Không biết Johari là ai nhỉ? Một tay rapper khác có thù oán gì với ông ta chăng? Cô nghĩ sao?”
“Không phải,” Robin đáp, thầm ước giá mà hôm nay tâm trạng Strike không phấn khởi như vậy. “Johari là một thuật ngữ tâm lý. Cửa sổ Johari. Nói về chuyện chúng ta hiểu bản thân mình như thế nào, rồi người khác hiểu chúng ta ra sao.”
Strike sựng người lại, tay vẫn treo dở cái áo, nhìn cô chằm chằm.
“Đừng nói cô đọc vụ đó trên tạp chí Heat chứ?”
“Không. Tôi học Tâm lý hồi ở Đại học. Nhưng bỏ giữa chừng.”
Tự dưng Robin thấy nói chuyện đó khiến cô và hắn giờ ngang hàng về những thất bại trong cuộc sống riêng, như vậy sẽ dễ báo tin xấu kia hơn.
“Cô bỏ giữa chừng?” Strike tỏ vẻ quan tâm, khác hẳn với thường ngày. “Thật là trùng hợp, tôi cũng vậy. Mà sao ông ta lại nói là kệ mẹ Johari?”
“Hồi ở tù Deeby Macc được điều trị tâm lý nên rất quan tâm tới chủ đề đó, đọc khá nhiều về tâm lý học. Vụ đó thì tôi đọc trong báo,” cô nói thêm.
“Cô đúng là một kho tàng thông tin.”
Roobin lại nhói cả lòng.
“Lúc anh đi ra ngoài có người gọi. Một chị tên là Charlotte Campbell.”
Hắn ngước lên ngay, nhíu mày.
“Chị ấy nhờ tôi nhắn lại anh là,” Robin nhìn ngang tránh mắt hắn, chỉ thoáng thấy vành tai của Strike, “chị ấy mới đính hôn với Jago Ross.”
Rồi không kiềm được, cô liếc nhìn mặt Strike và tự dưng cô thấy lạnh cả gáy.
Một trong những ký ức thơ ấu đầu tiên và sống động nhất của Robin là ngày chú chó già yếu của gia đình cô được đem đi tiêm thuốc để “giải thoát”. Robin còn quá nhỏ, không hiểu được bố cô đang nói gì; cô cứ nghĩ rằng Bruno, chú chó Labrador thân thiết của anh trai cô vẫn còn sống. Robin bối rối không hiểu vì sao hôm đó bố mẹ rất buồn bã, vậy là cô quay sang hỏi anh Stephen giờ phải làm sao. Câu hỏi của Robin khiến mọi sự bình yên trước đó vỡ ra tan tành. Lần đầu tiên trong đời Robin thấy gương mặt nhỏ nhắn, bình thường rất tươi tắn của anh trai cô trở nên tiu nghỉu không còn chút sinh khí. Đôi môi Stephen trở nên trắng bệch khi anh òa ra khóc. Trong khoảnh khắc im lặng trước khi Stephen nấc lân đau đớn, Robin nghe thấy sự chết chóc như đang gào rú. Khi đó cô đã khóc tức tưởi, không ai dỗ dành gì được, không phải vì Bruno đã chết mà vì thấy Stephen quá đau buồn.
Strike không đáp lại ngay. Một lúc sau, hắn lên tiếng, khó nhọc.
“Được rồi. Cảm ơn cô.”
Hắn đi thẳng vào văn phòng phía trong, đóng cửa lại.
Robin ngồi xuống bàn trở lại, cô thấy mình y hệt như tên đao phủ vừa mới xong việc. Cô không thể tập trung làm gì cả. Cô muốn đứng dậy đến gõ cửa phòng hắn, hỏi hắn có muốn uống trà không, nhưng rồi lại thôi. Năm phút sau đó cô lúng túng sắp xếp lại mấy món đồ trên bàn, thỉnh thoảng liếc nhìn cánh cửa phòng trong. Một lúc sau cửa mở, Robin giật nảy cả người, cúi xuống giả vờ đang bận rộn trên máy tính.
“Robin, tôi đi ra đây chút.” Hắn nói.
“OK.”
“Nếu năm giờ mà tôi chưa về thì cô cứ khóa cửa.”
“Vâng.”
“Hẹn ngày mai gặp lại.”
Strike vớ lấy áo khoác, cố tình sải chân thật mạnh mẽ nhưng vẫn không che nổi mắt Robin.
Những bãi đào đường lan ra như một vết thương. Mỗi ngày qua lại có thêm mấy đống gạch đá, rồi những tấm chắn tạm bợ để bảo vệ người đi bộ và mở lối qua những chỗ đào xới tan hoang. Strike không nhìn thấy gì cả. Hắn đi như vô hồn trên mấy tấm ván gỗ rung bần bật, thẳng về phía quán Tottenham, nơi giờ đây với hắn đã trở thành chỗ ẩn náu quen thuộc.
Cũng như quán Ordance Arms, quán Tottenham vắng tanh, trừ Strike ra chỉ có một người đàn ông lớn tuổi ngồi ngay sát lối vào. Strike mua một vại Doom Bar và ngồi xuống dãy ghế bọc da màu đỏ dựa vào tường, gần như ngay dưới hình thiếu nữ thời Victoria đang rải hoa, trông vừa ngọt ngào vừa ngớ ngẩn. Hắn uống bia như uống thuốc, không thấy ngon lành gì mà chỉ chờ say.
Jago Ross. Hẳn cô ta đã qua lại với gã lúc vẫn còn sống chung với Strike. Mặc dù Charlotte có sức quyễn rũ mê hoặc đàn ông đáng kinh ngạc, cô ta không thể nào đính hôn với gã kia sau vỏn vẹn ba tuần nối lại. Ắt hẳn cô ta đã dan díu trước với Jago, trong khi miệng luôn thề thốt yêu thương Strike.
Như vậy cơn thịnh nộ cô ta giáng xuống hắn một tháng ngay trước khi chia tay, rồi chuyện cô ta từ chối không đưa ra bằng chứng rõ ràng, rồi chuyện liên tục tính nhầm ngày tháng “khó ở” đều có thể được giải thích theo một cách khác. Một kết luận bất ngờ.
Jago Ross trước đó đã từng có vợ. Cả con cái nữa. Charlotte nghe người ta đồn rằng gã này rượu chè be bét. Khi ấy cô ta vừa cười vừa nói với Strike rằng mình thật may mắn không dính phải gã. Cô ta còn thấy tội nghiệp cho vợ của Jago.
Strike mua vại bia thứ hai, rồi thứ ba. Hắn muốn dập tắt ngay sự thôi thúc muốn đi tìm cô ta, để mà gào lên cho thỏa lòng, rồi tộng một cú thật mạnh vào quai hàm của Jago Ross.
Từ lúc ở quán Ordance Arms cho đến bây giờ hắn vẫn chưa ăn gì cả. Lâu lắm rồi Strike mới uống nhiều như vậy. Chưa tới một tiếng đồng hồ ngồi uống tì tì hắn đã say khướt.
Ban đầu khi bóng người gầy gầy xuất hiện trên bàn, hắn chẳng thèm ngước lên, lè nhè rằng là ai thì cũng nhầm người nhầm bàn rồi.
“Không, không nhầm gì cả,” Robin nói dứt khoát. “Anh ngồi đó, tôi đi mua một ly, được không?”
Hắn mơ màng nhìn túi xách của cô đặt ngay trên ghế. Chiếc túi màu xanh nâu hiền lành, trông hơi cũ. Robin vẫn thường treo túi lên móc treo áo khoác trong văn phòng. Hắn mỉm cười thân thiện với cái túi, rồi lại nốc bia.
Ở quầy bar anh chàng phục vụ trẻ tuổi, trông hơi rụt rè nói với Robin: “Tôi nghĩ chắc ảnh uống đủ rồi dó.”
“Đâu phải tại tôi,” cô hơi cáu.
Cô đi tìm Strike, đầu tiên là trong quán Intrepid Fox, cũng là quán gần văn phòng nhất, rồi đến quán Molly Moggs, rồi đến quán Spice of Life, và cả quán Cambridge. Quán Tottenham cũng là nơi cuối cùng cô đến tìm.
“Có chiện gì hở?” Strike lè nhè hỏi khi cô vừa ngồi xuống.
“Không có gì hết,” Robin đáp, nhấp một ngụm từ ly bia nhỏ. “Tôi chỉ muốn xem anh có ổn không thôi.”
“Tôi ổn.” Strike đáp, rồi cố nói rõ ràng. “Tôi ổn mà.”
“Vậy thì tốt.”
“Chỉ là đi uống bia mừng vợ chưa cưới của tôi đính hôn trở lại,” hắn nói, tay nâng vại bia thứ mười một lên. “Đáng ra cô ta đừng bao giờ đá thằng đó thì hơn. Đừng bao giờ...”, hắn nói rõ ràng, lớn giọng, “... đá thằng đó hết. Đá.Ngài.Jago Ross. Một thằng đểu xuất chúng.”
Hắn gần như hét lên mấy từ cuối cùng. Lúc này trong quán khách khứa đã đông hơn nhiều so với khi hắn vừa đến, hầu như ai cũng nghe thấy hắn vừa nói gì. Trước đo nhiều người đã liếc nhìn hắn đầy nghi ngại. Dáng vẻ to con, mắt sùm sụp lầm lì và điệu bộ hung hăng của Strike khiến không ai dám ngồi gần hắn. Khi phải đi vệ sinh, người ta còn cố tình đi vòng để tránh bàn của hắn, cứ như thể cái bàn đó to gấp ba lần trên thực tế.
“Đi dạo không?” Robin gợi ý. “Kiếm gì đó ăn?”
“Cô biết sao không?” Hắn nói, chồm người về phía trước, khuỷu tay vẫn đặt ở trên bàn, sém đánh đổ cả vại bia. “Cô biết sao không, Robin?”
“Sao?” Robin hỏi lại, tay giữ vại bia của hắn. Tự dưng Robin muốn bật cười. Khách trong quán ngoái lại nhìn cả hai.
“Cô là một cô gái rất dễ thương.” Strike nói “Thiệt sự. Cô là người rất tử tế. Tôi biết mà,” hắn vừa nói vừa trịnh trọng gật gù. “Thiệt. Tôi có để ý thấy vậy.”
“Cảm ơn anh,” Robin mỉm cười đáp, cố nhịn cười thành tiếng.
Hắn ngồi thẳng, nhắm mắt lại rồi nói:
“Xin lỗi cô, tôi say quá rồi.”
“Ừ.”
“Lâu rồi không say dữ vậy.”
“Ừ.”
“Chưa ăn gì cả?”
“Vậy kiếm gì ăn nhé?”
“Ừ, được đó,” hắn đáp, mắt vẫn nhắm nghiền. “Cô ta nói với tôi cô ta có bầu.”
“Ờ,” Robin nói, giọng buồn buồn.
“Ừ, nói vậy đó. Rồi lại nói là không giữ được. Nhưng rõ không phải của tôi. Không có lý nào.”
Robin không nói gì. Cô không muốn khi tỉnh táo lại Strike sẽ phải nhớ ra là hắn đã nói những chuyện này với cô. Hắn mở mắt.
“Cô ta bỏ thằng đó để theo tôi, rồi giờ bỏ thằng đó... à không, bỏ tôi để theo thằng đó...”
“Tôi rất tiếc.”
“...bỏ tôi theo thằng đó. Khỏi tiếc gì. Cô đúng là người tử tế.”
Hắn rút điếu thuốc từ trong túi ra, ngậm đầu thuốc.
“Anh không hút thuốc trong này được đâu,” cô nhẹ nhàng nhắc nhở hắn, nhưng anh phục vụ đứng quầy bar dường như chỉ chờ có vậy, ngay lập tức chạy về phía hai người, mặt mày rất căng thẳng.
“Anh phải đi ra ngoài,” Anh ta lớn tiếng nói với Strike.
Strike ngước mắt nhìn anh chàng, mắt lờ đờ, tỏ vẻ ngạc nhiên.
“Được rồi,” Robin nói với anh phục vụ, tay cầm túi xách lên. “Thôi nào Cormoran.”
Hắn đứng dậy, khuỳnh khoàng, nghiêng ngả, cố lách người ra khỏi chỗ chật chội đằng sau chiếc bàn rồi trừng mắt nhìn anh phục vụ. Anh này ngay lập tức lùi lại một bước, Robin cũng chẳng lạ.
“Không cần,” Strike lên tiếng “...phải hét lên như vậy. Không cần phải vậy. Thô lỗ bỏ mẹ đi.”
“Được rồi Cormoran. Đi thôi nào,” Robin nói, đứng lùi lại nhường chỗ cho hắn đi ra.
“Đợi chút, Robin,” Strike nói, đưa cánh tay to đùng lên. “Đợi chút.”
“Trời đất,” Robin khẽ rên lên.
“Anh có biết đấm bốc không?” Strike hỏi anh phục vụ quầy bar, đang đứng run rẩy.
“Đi thôi Cormoran.”
“Tôi là dưn đấm bốc thiệt đó. Hồi còn ở lính luôn, biết không bồ tèo.”
Ở phía quầy bar, có người lẩm bẩm mỉa mai. “Để đó tôi ra thách đấu.”
“Đi thôi Cormoran,” Robin nói. Cô nắm lấy cánh tay hắn, thấy ngạc nhiên và nhẹ cả người khi hắn ngoan ngoãn đi theo. Cô tự dưng nhớ lại hồi nhỏ cầm cương dắt con ngựa giống Clydesdale khổng lồ ở trang trại của ông bác.
Ra ngoài trời Strike đứng dựa vào cửa sổ quán Tottenham, lập cập châm mãi điếu thuốc mà không được, cuối cùng Robin phải giúp hắn một tay.
“Giờ anh phải ăn gì đó,” cô nói với hắn, khi hắn nhắm mắt đứng hút thuốc, người hơi chao đảo, cô sợ hắn sẽ ngã nhào mất. “Phải ăn mới hết say.”
“Tôi không muốn hết say,” Strike lẩm bẩm. Hắn loạng choạng, sém tí nữa là ngã xuống, may mà kịp bước ngang mấy bước liên tục.
“Thôi nào,” cô nói, dắt tay hắn lần theo miếng ván gỗ kê giữa đường, ban đêm máy móc và công nhân sửa đường cũng đã nghỉ ngơi, mọi thứ yên ắng hẳn.
“Robin, cô có biết hồi xưa tôi là dưn đấm bốc thứ thiệt không?”
“Không, tôi không biết chuyện đó,” cô đáp.
Ban đầu Robin định dẫn Strike về lại văn phòng rồi mới đi mua thức ăn cho hắn, nhưng đi giữa đường hắn dừng lại ngay tiệm bánh mì kebab cuối phố Denmark và lừng lững đi vào trước khi cô kịp cản. Sau đó cả hai ngồi ở cái bàn duy nhất của tiệm bánh trên vỉa hè cuối cùng rồi cùng ăn kebab. Strike tiếp tục kể lể về sự nghiệp đấm bốc hồi còn tại ngũ, thỉnh thoảng lại lạc đề khen cô thật là tử tế. Robin cuối cùng cũng thuyết phục được hắn nói nhỏ lại. Nhưng Strike vẫn còn say bí tỉ sau khi uống quá nhiều, nên chỗ thức ăn dường như không có tác dụng gì. Khi hắn đứng dậy đi vệ sinh, Robin chờ khá lâu, đến nỗi cô lo là hắn đã ngất luôn trong đó.
Robin nhìn đồng hồ. Bảy giờ mười phút. Cô gọi cho Matthew nói là ở văn phòng có việc gấp. Matthew chẳng vui vẻ gì.
Strike loạng choạng quay trở lại vỉa hè, đụng đầu vào khung cửa quán bước ra. Hắn đứng dựa vào cửa sổ, loay hoay cố châm thêm điếu thuốc nữa.
“'R'bin này,” hắn nói, nhìn cô chằm chằm, sau một hồi cố bật lửa không thành. “R'bin, cô có biết khoảnh khắc...” hắn nấc một tiếng. “Khoảnh khắc kairos là gì không?”
“Khoảnh khắc kairos?” cô lặp lại lời hắn, thầm mong chuyện hắn sắp nói không có gì đen tối, hay sẽ khiến cô mãi không quên nổi. Lúc đó ngay sau lưng hai người, tay chủ quán kebab cũng đang ghé tai nghe, nhếch mép cười. “Không, tôi không biết. Giờ mình đi về văn phòng lại được không?”
“Cô không biết thiệt hở?” hắn nhìn thẳng vào mắt cô, hỏi tiếp.
“Không.”
“Tiếng Hi Lạp,” hắn giải thích. “Kairos. Khoảnh khắc Kairos. Có nghĩa là...” mặc dù đang say mèm, Strike tiếp tục nói, tự dưng rất mạch lạc “... là khoảnh khắc đích đáng. Khoảnh khắc đặc biệt. Khoảnh khắc tuyệt vời nhất.”
Trời ơi, làm ơn đừng nói tiếp là tôi với anh đang có một cái khoảnh khắc như vậy, Robin nghĩ thầm.
“Cô biết với tụi tôi, Charlotte với tôi đó, khoảnh khắc đó là gì không?” hắn nói, nhìn vào khoảng không trước mắt, điếu thuốc chưa châm vẫn cầm trên tay. “Đó là lúc cô ta đi thẳng vô phòng bệnh... Tôi nằm viện khá lâu, hai năm rồi chưa gặp Charlotte... không hề báo trước gì cả... rồi tôi thấy cô ta xuất hiện ở cửa, mọi người quay hết lại nhìn, rồi Charlotte bước vào phòng bệnh, không nói một tiếng nào,” hắn dừng lại lấy hơi, rồi nấc thêm một tiếng nữa, “rồi cô ta hôn tôi, sau hai năm, rồi tụi tôi quay lại với nhau. Không ai nói gì cả. Thật là đẹp đẽ khốn nạn. Người phụ nữ đẹp nhất mà tôi từng biết. Khoảnh khắc tuyệt vời nhất trong cả cuộc đời... cuộc đời khốn nạn của tôi, chắc vậy đó. Tôi xin lỗi cô R'bin,” hắn nói thêm “nãy giờ tôi nói khốn nạn hoài. Xin lỗi cô.”
Robin vừa thấy buồn cười vừa muốn bật khóc, cô không biết tại sao mình lại thấy buồn đến vậy.
“Để tôi châm thuốc cho anh nhé?”
“Cô thật là tử tế, Robin à, cô biết không?”
Gần đến ngã rẽ vào phố Denmark, Strike bỗng đứng sững lại, vẫn loạng choạng như cây trong bão, và lớn giọng nói với Robin rằng Charlotte không yêu gì Jago Ross, tất cả chỉ là một trò chơi, một trò chơi để làm tổn thương hắn, càng nhiều càng tốt.
Hắn dừng lại ngay trước cánh cửa đen, đưa hai tay lên cản Robin vừa dợm đi theo hắn lên lầu.
“Cô phải đi về nhà thôi, Robin.”
“Để tôi dìu anh lên lầu trước.”
“Không. Không. Tôi ổn mà. Chắc tôi sắp cho chó ăn chè. Tôi xi cà que mà,” Strike nói tiếp, “chắc cô không hiểu đâu hở. Hay cô hiểu thật? Chắc cô biết hết rồi còn gì? Tôi có kể với cô không nhỉ?”
“Tôi không biết anh đang nói gì.”
“Thôi bỏ đi, R'bin. Cô về nhà đi. Tôi sắp phun hết ra đây.”
“Anh sẽ không sao chứ...?”
“Xin lỗi cô, tôi cứ nói khốn nạn, chửi thề hoài. Cô thiệt quá tử tế. R'bin à. Chào cô nha.”
Khi đến phố Charing Cross, Robin quay lại nhìn Strike. Hán vẫn đang bước đi, loạng choạng vụng về đúng kiểu một kẻ say rượu về ngõ Denmark, chắc hắn sẽ tấp vào một con hẻm tối nào đó, nôn ra hết rồi lại lảo đảo đi lên cầu thang, nơi có chiếc giường xếp và chiếc ấm đun nước tạm bợ.
6
Strike không biết đã tỉnh dậy từ lúc nào. Ban đầu hắn còn nằm mơ đang gục mặt xuống một đám sắt thép gạch đá, đầy máu me, không nói được. Rồi hắn nhận ra mình đang nằm sấp, người đẫm mồ hôi, úp mặt trên chiếc giường xếp. Hắn thấy ê ẩm cả người. Miệng hắn khô khốc, đắng ngắt. Ánh nắng chiếu thẳng vào mắt hắn qua cửa sổ không kéo rèm. Mắt nhắm nghiền, hắn chỉ thấy một màu đỏ tươi và những đường mạch máu trên mí mắt lan ra như sợi lưới đen li ti phủ quanh những ngọn đèn nhấp nháy lúc hiện lúc ẩn.
Hắn vẫn còn mặc nguyên áo quần đêm trước, chân giả vẫn chưa tháo ra, nằm ngay trên chiếc túi ngủ, như thể đã ngã gục xuống đó. Ký ức lẫn lộn như những mảnh gương vỡ làm hai thái dương hắn nhức nhối, hắn nhớ lại cố đòi anh chàng phục vụ ở quầy bar bán thêm một vại bia. Rồi Robin ngồi đối diện, mỉm cười hiền lành. Mà không lẽ say xỉn như vậy mà hắn còn ăn được cả kebaba? Hắn mơ hồ nhớ vụ kéo dây khóa quần để đi tè, nhưng vạt áo bị mắc vào đó. Tự dưng hắn luồn tay xuống dưới, chỉ động đậy có vậy mà hắn cũng thấy buồn nôn, muốn rên thành tiếng. Dây khóa quần đã được kéo lại đàng hoàng, tự dưng hắn mơ hồ thở dài nhẹ nhõm.
Strike ngồi dậy chậm rãi như đang vác trên vai một kiện hàng dễ vỡ, nhìn quanh căn phòng sáng sủa, không biết đã mấy giờ rồi, cũng chẳng rõ hôm nay là thứ mấy.
Cánh cửa ngăn với văn phòng bên ngoài đã đóng. Hắn không nghe thấy tiếng động nào bên ngoài cả. Cô nhân viên tạm thời hẳn đã bỏ của chạy lấy người. Rồi hắn thấy một hình chữ nhật màu trắng nằm trên sàn nhà, ngay sau cánh cửa, chắc đã được tuồn vào khe cửa. Strike rón rén bò ra, lấy mẩu giấy vào. Hóa ra là lời nhắn của Robin.
Comoran thân mến (sau vụ này chắc Robin sẽ không bao giờ trịnh trọng gọi hắn là “anh Strike” nữa.)
Tôi đã đọc hết những điểm cần điều tra thêm liệt kê ở ngay đầu tập hồ sơ. Tôi nghĩ tôi có thể kiểm tra được hai mục đầu tiên (Agyeman và khách sạn Malmaison). Nếu anh muốn tôi trở lại văn phòng ngay thì cứ gọi vào máy di động.
Tôi có đặt sẵn đồng hồ báo thức ngay ngoài cửa phòng anh lúc 2 giờ chiều, nên anh sẽ có đủ thời gian chuẩn bị cho cuộc hẹn lúc 5 giờ ở số một phố Arlington để phỏng vấn Ciara Porter và Bryony Radford.
Trên bàn có sẵn nước lọc, paracetamol và Alka-Seltzer[1].
[1. Thuốc giải rượu bia. – ND]
Robin
T.B: Đừng ngại gì về tối hôm qua. Anh không hề nói hay làm điều gì đáng tiếc cả.
Hắn ngồi im trên chiếc giường xếp trong vòng năm phút, tay vẫn cầm lấy mẩu giấy, ngờ ngợ như sắp nôn, nhưng cố nán lại để tận hưởng chút ánh nắng ấm áp chiếu trên lưng.
Bốn viên paracetamol và một ly Alka-Seltzer khiến Strike không còn thấy buồn nôn như hồi mới dậy, nhưng mười lăm phút kế tiếp trong ánh đèn tù mù của toilet, hắn tháo sạch bụng dạ, nhăn nhó vì cả mũi lẫn tai đều chịu khổ.
Nhưng hắn vẫn thấy an ủi vì ít ra hôm nay Robin không có ở đây. Trở lại văn phòng Strike uống thêm hai chai nước lọc, tắt đồng hồ báo thức đã tích tắc cả đêm khiến hắn muốn ong cả đầu. Sau một hồi cân nhắc, hắn chọn được một bộ đồ sạch sẽ, lấy thêm dầu gội đầu, thuốc khử mùi, đồ cạo râu và khăn tắm ra khỏi túi. Hắn moi ra chiếc quần bơi nằm dưới đáy một thùng giấy vẫn còn đặt ngoài hành lang, rồi quay qua một thùng khác để lấy đôi nạng thép màu xám. Xong việc, hắn cà nhắc đi xuống cầu thang, vai choàng túi thể thao nhỏ, tay cầm đôi nạng.
Trên đường tới phố Malet, Strike dừng lại mua một thanh sô-cô-la Dairy Milk cỡ siêu lớn, loại “cả nhà cùng ăn”. Bernie Coleman, một người quen làm bên quân y của Strike từng giải thích với hắn rằng tất cả những triệu chứng sau khi quá chén đều do mất nước và hạ đường huyết – hậu quả tất yếu của nôn ói kéo dài. Strike vừa đi vừa gặm sô-cô-la, đôi nạng vẫn kẹp dưới cánh tay, đầu nhoi nhói theo mỗi bước đi như bị bó chặt trong kẽm gai.
Vị thần say rượu ưa đùa nhả vẫn còn chưa buông tha cho Strike. Hắn mơ màng không đẻ ý gì đến chung quanh, đường bệ đi thẳng xuống hồ bơi của Hội sinh viên Đại học London. Như thường lệ, không ai dám hỏi han gì hắn, ngay cả người duy nhất đang ở trong phòng thay đồ lúc đó. Anh ta tò mò liếc nhìn khi hắn tháo chân giả ra nhưng lịch sự quay mặt đi ngay. Hắn bỏ chân giả vào ngăn tủ cùng với áo quần vừa mặc hôm qua, không khóa lại được vì không mang theo đồng xu. Strike chống nạng đi đến chỗ vòi tắm, bụng hắn phệ ra ngay trên lưng quần bơi.
Khi xát xà bông lên người, Strike nhận ra sô-cô-la và paracetamol bắt đầu có tác dụng, hắn không còn đau đầu và buồn nôn dữ dội nữa. Sau đó hắn bước thẳng ra hồ bơi rộng lớn của Hội Sinh viên, cũng là lần đầu tiên hắn đi bơi ở đây. Trong hồ bơi chỉ có hai sinh viên, đều đang bơi ở làn nhanh, đeo kính bơi và không thèm để ý đến gì khác ngoài sự sung sức của chính mình. Strike đi về phía bên kia bể, cẩn thận đặt đôi nạng cạnh bậc thang rồi trượt xuống làn bơi chậm.
Chưa bao giờ hắn thấy cơ thể mình yếu ớt đến vậy. Hắn bơi lóng ngóng, nghiêng ngả, liên tục va vào thành bể. Làn nước sạch mát xoa dịu cả cơ thể và tâm trí. Thở hổn hển, hắn gắng bơi đến cuối bể rồi dừng lại nghỉ một lát, tay hắn dang ra vịn vào thành bể bơi, chịu bớt sức nặng cơ thể đang nhúng trong nước. Hắn đứng đó, nhìn lên trần nhà cao sơn trắng.
Những cơn sóng lan tỏa từ hai vận động viên trẻ khỏe bên kia hồ liên tục vờn lên ngực hắn. Đầu hắn dịu dần, sự đau đớn cũng lùi xa, như ánh đèn đỏ trong sương mờ. Mùi chlorine khá nồng, xộc thẳng vào mũi như mùi thuốc sát trùng ở bệnh viện, nhưng hắn không còn cảm thấy buồn nôn nữa. Strike nghĩ ngay đến nỗi lòng mà hắn mới vừa cố nén xuống bằng rượu bia, như đang thẳng tay xé toạc miếng băng gạc trên miệng vết thương vừa khép.
Jago Ross đối lập hoàn toàn với Strike: đẹp trai kiểu hoàng tử tóc vàng mắt xanh, thừa kế một quỹ đầu tư, mới sinh đã có tước hiệu sẵn. Jago Ross toát lên sự tự tin của một người biết rõ cả mười hai đời dòng tộc của mình. Anh ta từng bỏ hết việc này đến việc khác, toàn những công việc ngon lành, rồi dần dần chỉ biết có rượu, trở thành một thứ ngựa chứng bất kham.
Charlotte và Ross cùng thuộc về cái thế giới mật thiết của đám dân trường tư quý tộc, các gia đình đều quen biết lẫn nhau vì bao đời nay đã gả con cho nhau và những mối nâng đỡ trong làm ăn kiểu bạn-học-cùng-trường. Khi nước vỗ vào bộ ngực lông lá của Strike, hắn nhìn mối quan hệ tay ba giữa hắn, Charlotte và Ross ở tít xa như đang nhìn qua kính viễn vọng xoay ngược đầu. Câu chuyện ba người vì vậy mà trở nên rõ ràng hơn: mọi diễn biến đều thể hiện tính cách bốc đồng của Charlotte, cô ta luôn thèm khát những cảm xúc mãnh liệt nên thường đạp đổ mọi thứ. Mười tám tuổi Charlotte đã có được Jago Ross, điển hình tiêu biểu của dân quý tộc, đỉnh cao môn đăng hộ đối theo đúng tiêu chuẩn của bố mẹ cô ta. Có lẽ như vậy quá dễ dàng, chẳng có gì bất ngờ cả, nên cô ta đá Jago Ross để đến với Strike. Mặc dù học hành giỏi giang, Strike vẫn như một gáo nước lạnh dội vào gia đình Charlotte, bởi vì hắn là một thứ con lai không rõ nguồn gốc. Thế rồi, sau nhiều năm, người đàn bà luôn thèm khát những thứ dữ dội kịch tính đó còn biết làm gì hơn là bỏ Strike, hết lần này đến lần khác, cho đến khi cách duy nhất để cho hắn một đòn tối hậu là quay lại với người đầu tiên, y như lúc hai người mới quen nhau.
Strike thả lỏng cơ thể vẫn còn rã rời dưới làn nước. Hai sinh viên ở làn nhanh vẫn tiếp tục đua từ đầu đến cuối bể.
Strike quá hiểu Charlotte. Cô ta đang chờ hắn đến giải cứu cô ta khỏi cuộc hôn nhân với Jago. Một phép thử đành đoạn, ác độc nhất.
Hắn không bơi ngược lại mà bám tay vào thành bể rồi từ từ đi dọc theo dưới nước như lúc tập vật lý trị liệu ở bệnh viện.
Lần tắm vòi sen thứ hai dễ chịu hơn hẳn lần đầu. Hắn bật nước thật nóng, xát xà bông khắp người rồi chuyển sang nước lạnh gột sạch mình mẩy.
Hắn lắp lại chân giả, đứng cạo râu bên bể rửa mặt với chiếc khăn tắm quấn quanh hông rồi cẩn thận mặc áo quần mới. Hắn chưa bao giờ mặc bộ complet và áo sơ mi đắt tiền nhất của mình. Bộ đồ này cũng là món quà sinh nhật cuối cùng Charlotte tặng hắn: đúng là một thứ lệ bộ xứng với vị hôn phu của cô ta. Hắn vẫn còn nhớ Charlotte rạng rỡ đứng đó, khi hắn nhìn chằm chằm vào bộ dạng bảnh bao khác thường của mình trong gương. Sau đó cả bộ complet lẫn áo sơ mi lại được cất kĩ vào lớp túi bảo vệ, vì kể từ tháng Mười Một hắn và Charlotte hầu như chẳng đi đâu với nhau, và cũng vì lần sinh nhật đó là ngày vui vẻ thực sự cuối cùng của cả hai. Ngay sau đó là những trận cãi vã quen thuộc, rồi cả hai lại chìm vào cái vũng lầy cũ mà không lâu trước đó họ thề thốt sẽ tránh cho bằng được.
Strike từng muốn đốt phứa bộ đồ đi. Nhưng tự dưng thấy bất cần, hắn chọn mặc nó ngay hôm nay, để rũ sạch mọi liên quan tới Charlotte, để áo quần chỉ còn là quần áo. Chiếc áo veston được cắt rất khéo, khiến hắn trông gọn gàng khỏe khoắn hẳn. Hắn để mở nút cổ áo sơ mi.
Khi còn trong quân đội Strike đã nổi tiếng về khả năng tỉnh rượu nhanh sau khi uống như hũ chìm. Người đàn ông trong gương có nước da xanh tái, mắt thâm quầng nhưng bộ compet Ý sắc sảo khiến anh ta trông bảnh bao hơn cả mấy tuần trước đo. Vết bầm tím trên mắt của hắn cuối cùng cũng tan, cả mấy vết trầy xước cũng đã liền.
Strike dè dặt ăn một bữa nhẹ, uống thật nhiều nước. Sau một chuyến tốc hành vào nhà vệ sinh ở nhà hàng và vài viên thuốc giảm đau, đúng năm giờ chiều, hắn có mặt tại số 1 phố Arlington.
Hắn gõ cửa lần thứ hai. Cửa mở, một người đàn bà mặt mày sưng sỉa, đeo kính gọng đen, tóc cắt ngắn ngả bạc nhìn hắn. Bà ta miễn cưỡng mở cửa cho hắn, rồi nhanh chóng bước ngang qua sảnh lớn có sàn lót đá, ngay ở giữa là một cầu thang hoành tráng với lan can bằng sắt rèn uốn éo. Bà ta gọi to “Guy! Ông Strike nào đây nè?”
Hai bên sảnh đều có phòng. Ở phòng bên trái có một nhóm người đang đứng túm tụm, mặc toàn đồ đen, nhìn chằm chằm về phía nguồn sáng cực mạnh khuất mắt Strike, nhưng rọi rõ những gương mặt hết sức chăm chú của họ.
Somé xuất hiện, đi lả lướt từ sau cánh cửa phòng đó ra đến sảnh. Ông ta cũng mang kính, trông già dặn hơn. Hôm nay ông ta mặc quần jeans rách lụng thụng và áo thun trắng có hình một con mắt như đang khóc ra máu, nhìn kỹ thấy có đính kim sa màu đỏ.
“Phải đợi thôi,” ông ta nói cộc lốc. “Bryony bận rồi còn Ciara cũng phải vài tiếng nữa. Nếu muốn anh cứ ngồi trong đó,” ông ta chỉ tay vào căn phòng bên tay phải, cửa hé để lộ ra mép bàn trên đó đầy khay đĩa, “hoặc anh có thể đứng đó mà xem như cái đám đần độn vô dụng kia,” ông ta nói tiếp, tự dưng lớn giọng, nhìn trừng trừng vào đám nam thanh nữ tú đang chăm chăm về phía nguồn sáng. Ngay lập tức bọn họ tản ra, không phàn nàn, vài người đi ngang sảnh vào căn phòng đối diện.
“Hôm nay mặc đồ có khá hơn,” Somé nói thêm, thoáng vẻ láu lỉnh như trước. Ông ta đi trở lại vào căn phòng lúc nãy vừa bước ra.
Strike theo chân nhà thiết kế thời trang, đứng ngay vào chỗ của đám khán giả vừa đi khỏi. Căn phòng dài và gần như trống trơn. Góc trần kiểu cọ, tường màu nhạt trống trải và hoành tráng u buồn. Đứng giữa Strike và khung cảnh dàn dựng ở góc cuối phòng là một nhóm người, trong đó có một anh thợ ảnh tóc dài đang lúi húi trước camera. Khung cảnh dàn dựng được chiếu sáng rực rỡ bằng một chuỗi các loại đèn chuyên dụng và tấm hắt ánh sáng, bao gồm mấy chiếc ghế cũ nát được sắp đặt điệu nghệ, một cái ngã chỏng chơ dưới đất và ba cô người mẫu. Ba cô này trông khác hẳn nhau, tỉ lệ gương mặt và cơ thể hiếm có, vừa lạ lùng vừa ấn tượng. Cả ba mảnh khảnh, gầy gò như ốm đói. Strike đoán hẳn Somé chọn họ vì ba người có màu da và đường nét khác hẳn nhau. Cô người mẫu da đen như Somé, tóc xù, mắt xếch khiêu khích ngồi trên chiếc ghế đặt ngược, giống kiểu ngồi của người mẫu kiêm điệp viên Christine Keeler. Cco ta dạng cặp chân dài mang tất phun trắng ra hai bên, từ thắt lưng trở lên không mặc gì cả. Một cô lai Á- u đứng ngay đằng sau. Cô này tóc đen thẳng cắt mái so le, mặc áo lót trắng có đính dây xích trang trí, chỉ vừa đủ che chỗ kín. Bên cạnh là Ciara Porter, nghiêng người đứng dựa một mình vào lưng ghế, da trắng như sứ, tóc vàng mềm mại, mặc một bộ áo liền quần màu trắng gần như trong suốt, thấy rõ nhũ hoa phơn phớt, nhòn nhọn.
Chuyên viên trang điểm cũng cao và gầy gần như ba cô người mẫu, đang cúi cuống cô gái da đen để dặm phấn vào hai bên mũi. Ba cô người mẫu im lặng chờ đợi tại chỗ, tĩnh tại như ba bức chân dung. Gương mặt họ bình thản, không biểu cảm, như đang chờ lệnh. Những người khác trong phòng (tay thợ ảnh có hai thợ phụ, Somé đứng một bên cắn móng tay, cạnh đó là người đàn bà mặt sưng sỉa đeo kính) đều chỉ nói thầm, cứ như sợ sẽ phá vỡ một sự cân bằng mong manh nào đó.
Cuối cùng cô chuyên viên trang điểm tiến về phía Somé, ông này nói liên tục nhưng Strike không thể nghe được là nói gì, huơ tay loạn xạ. Cô ta quay bước về phía chỗ có ánh đèn sáng rực, đánh rối mớ tóc dài của Ciara Porter rồi chỉnh lại mà không nói năng gì cả. Ciara làm như không hề biết có người đang chạm vào mình, tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi. Bryony đi lùi lại trong khoảng tối và hỏi Somé gì đó. Ông ta trả lời bằng một cái nhún vai, rồi ra vẻ chỉ dẫn, vẫn thầm thì không rõ tiếng, khiến Bryony nhìn quanh quất cho tới khi thấy Strike.
Hai người gặp nhau ở ngay dưới chân cầu thang.
“Chào anh,” cô ta thầm thì. “Đi qua đây.”
Cô ta dẫn hắn đi ngang sảnh qua phòng đối diện. Phòng này tuy nhỏ hơn căn phòng vừa rồi, giữa phòng là một cái bàn lớn bày buffet, la liệt thức ăn. Ngay trước bệ lò sưởi là mấy cái giá treo quần áo có bánh xe, đầy nhung nhúc những mẫu đồ đính kim sa, bèo nhún và lông chim, sắp xếp theo màu sắc. Đám khán giả vừa bị đuổi đứng tụ tập ngay trong phòng, tất cả đều khoảng hai mấy tuổi. Họ nói chuyện thầm thì, thỉnh thoảng lại nhón tay vào mấy đĩa đựng phô-mai mozzarella và thịt muối Parma đã vơi một nửa, kè kè điện thoại để gọi điện hoặc nghịch vớ vẩn. Vài người ngước lên nhìn Strike ra vẻ dò xét khi hắn đi theo Bryony vào căn phòng nhỏ phía sau, nơi được dùng như phòng trang điểm tạm thời.
Ngay bên khung cửa sổ duy nhất trong phòng kê hai chiếc bàn, trên bàn đặt những tấm gương soi lớn. Cửa sổ nhìn thẳng ra hai khu vườn tỉa tót. Mấy chiếc hộp nhựa nhiều ngăn màu đen đặt chung quanh khiến Strike nhớ đến đồ nghề câu cá bằng ruồi nhân tạo của cậu Ted, chỉ có điều trong các ngăn hộp của Bryony chứa đầy phấn màu. Các thể loại ống màu và chổi lông bày la liệt trên mấy chiếc khăn trải đầy bàn.
“Chào anh,” cô ta lớn tiếng, lần này giọng to hơn bình thường. “Trời ơi, căng thẳng quá. Guy lúc nào cũng cầu toàn, nhưng đây là lần chụp hình nghiêm túc đầu tiên kể từ khi Lula chết vậy nên ổng cực kỳ khó tính.”
Tóc Bryony sẫm màu, bồng bềnh, nước da hơi tái, nét to thô, nhưng cũng khá quyến rũ. Cô ta mặc quần jeans bó để lộ đôi chân hơi vòng kiềng và áo ba lỗ màu đen. Trên cổ đeo vài sợi dây chuyền vàng mảnh, tay đầy nhẫn, kể cả ngón cái. Bryony mang giày da cũng màu đen, trông giống giày ballet. Loại giày này luôn khiến Strike thấy tụt hứng vì giông giống mấy đôi dép mang trong nhà mà mợ Joan hay gấp lại để trong túi xách, khiến hắn liên tưởng ngay đến bệnh nấm kẽ chân và các loại mụn nhọt.
Strike bắt đầu giải thích hắn muốn hỏi cô ta những gì, nhưng Bryony cắt ngang.
“Guy có nói trước hết rồi. Anh hút thuốc không? Ở trong này vẫn hút thuốc được nếu mở cửa ra.”
Bryony vừa nói vừa đẩy cánh cửa mở thẳng ra lối đi lát gạch trong vườn. Cô ta dẹp một ít đồ trên chiếc bàn lỉnh kỉnh, ngồi lên đó; Strike chọn một chiếc ghế trống và rút cuốn sổ ra.
“Được rồi, anh nói đi,” cô ta lên tiếng, nhưng hắn chưa kịp nói gì thì cô ta đã tiếp tục. “Thực tình, tôi cứ nghĩ hoài về buổi chiều hôm đó. Buồn quá đi.”
“Cô có quen thân với Lula không?” Strike hỏi.
“Ừ, cũng khá thân. Tôi trang điểm cho Lula vài lần, có làm cho cổ hồi đại nhạc hội Rainforest Benefit nữa. Tôi nói với Lula là tôi biết se lông mày...”
“Cô biết làm gì kia?”
“Se lông mày. Giống như nhổ vậy, nhưng làm bằng sợi chỉ đó?”
Strike không hình dung nổi vụ này.
“Vậy à...”
“...Rồi Lula nhờ tôi tới nhà làm. Đám săn ảnh bám theo cổ miết, mọi lúc mọi nơi, ngay cả khi đi làm đẹp. Điên cả đầu. Vậy là tôi nhận lời làm cho cổ.”
Bryony hay lắc đầu ra sau rồi hất phần tóc mái dài phủ mắt, vừa nói vừa thở nhẹ. Rồi cô ta lại hất tóc qua một bên, đưa tay lên vuốt và nhìn Strike qua lớp tóc mái.
“Tôi tới nhà Lula lúc ba giờ chiều. Lula và Ciara đang rất háo hức chuyện Deeby Macc sắp đến. Hai người đang tám đã đời, con gái với nhau mà. Vậy mà sau đó... đúng là không thể nào biết được.”
“Lula háo hức lắm hả?”
“Trời đất, anh nghĩ sao? Anh thấy sao nếu một người từng viết bài hát tặng... Ờ,” cô ta nói tiếp, vừa cười vừa thở. “Chắc là đàn bà con gái mới vậy. Deeby Macc thật là quyến rũ. Tôi với Ciara cứ giỡn hoài vụ đó khi tôi làm lông mày cho Lula. Rồi Ciara nhờ tôi làm móng luôn. Sau đó tôi trang điểm cả hai người, nên tôi ở đó chắc cũng phải tới ba tiếng đồng hồ. Khoảng sáu giờ tôi đi về.”
“Cô thấy lúc đó Lula rất háo hức à?”
“Ờ. Nhưng mà cổ cũng có vẻ hơi lơ đãng sao đó; cứ nhìn điện thoại hoài. Cổ để điện thoại ngay trên đùi khi tôi se lông mày cho cổ. Tôi biết ngay mà, lại là Evan giở trò nữa.”
“Cô ấy nói vậy à?”
“Không, nhưng tôi biết Lula đang rất bực Evan. Tại sao anh nghĩ cổ lại nói vụ ông anh với Ciara? Vụ để hết lại cho ông anh đó?”
Strike thấy Bryony dường như đã suy luận hơi quá.
“Cô có nghe Lula nói vậy không?”
“Gì kia? Không, nhưng tôi có nghe nói vậy. Ciara kể hết với tụi tôi. Tôi nghĩ hồi cổ nói tôi ở trong toilet. Nhưng mà tôi tin có vụ đó. Chắc chắn luôn.”
“Tại sao vậy?”
Bryony lúng túng.
“Thì... cổ rất thương ông anh còn gì? Trời đất, rõ vậy mà. Ông đó chắc là người duy nhất mà cổ tin được. Mấy tháng trước lúc cổ với Evan chia tay tôi trang điểm cho cổ đi dự show của Stella. Cổ cứ nói là đang rất bực ông anh vì ổng cứ nói đi nói lại chuyện Evan ăn bám cổ. Anh hiểu không, mà hôm đó Evan lại giở trò nên chắc cổ cho là ông James – phải tên ổng vậy không? – trước giờ toàn nói đúng. Lula cũng biết ông anh chỉ lo cho cổ thôi, mặc dù nhiều khi ổng hơi to tiếng. Cái nghề này bạc lắm, anh biết đó. Ai cũng muốn dính phần.”
“Ai muốn dính phần với Lula?”
“Trời đất, ai mà không muốn,” Bryony nói, tay cầm điếu thuốc kéo một đường, lướt qua hết những phòng bên ngoài đang có người. “Lula là người mẫu nổi nhất, ai cũng muốn đu theo. Guy, chẳng hạn...” Bryony chựng lại “Đành rằng Guy là dân làm ăn, nhưng ổng ghiền cổ lắm; sau vụ cái thằng rình mò đó ổng muốn cổ dọn vô ở chung luôn. Ổng chưa có bình thường lại đâu. Nghe nói ổng đi kiếm thầy bà gì đó để gặp hồn Lula nữa kìa. Margo Leiter nói vậy đó. Ổng còn buồn lắm, cứ nghe tên cổ là khóc à. Nhưng mà,” Bryony kết luận, “tôi chỉ biết có vậy à. Tôi không bao giờ ngờ được buổi chiều hôm đó là lần cuối cùng tôi thấy Lula. Lạy Chúa.”
“Lula có nói gì về Duffield không, khi cô đang... à... se lông mày cho cô ấy?”
“Không,” Bryony đáp, “nhưng nếu hắn đang giở trò thật thì cổ cũng không muốn nói chuyện đó đâu, đúng không?”
“Vậy như cô nhớ thì Lula chỉ nói chuyện về Deeby Macc thôi?”
"Ờ... đúng ra là Ciara với tôi nói chuyện ông đó nhiều hơn."
"Nhưng cô nghĩ Lula rất háo hức vì sắp gặp Deeby?"
“Trời, tất nhiên rồi.”
“Nói tôi nghe, hôm đó cô có thấy tờ giấy màu xanh nào có chữ viết tay của Lula không?”
Bryony lại hất tóc qua mặt rồi đưa cả bàn tay lên vuốt.
“Gì kia? Không. Không. Tôi không thấy thứ gì như vậy cả. Mà sao kia, giấy tờ gì vậy?”
“Tôi không biết,” Strike đáp, “nên tôi hỏi cô đó.”
“Tôi không thấy giấy tờ gì cả. Anh nói giấy màu xanh hả? Không có.”
“Cô có thấy bất kỳ tờ giấy nào có chữ viết tay của Lula không?”
“Tôi chẳng nhớ có giấy tờ gì cả. Không có đâu,” Cô ta lại hất mớ tóc phủ mặt. “Thực ra, mấy thứ như vậy có thể ở quanh đó, nhưng tôi không để ý mấy.”
Căn phòng tối lù mù. Có lẽ Stike vừa tưởng tượng ra rằng Bryony vừa đỏ mặt, nhưng chắc hẳn hắn thấy cô ta vặn bàn chân phải rồi kéo lên tới đầu gối, ngắm nghía đế giày như đang tìm thứ gì đó.
“Lái xe của Lula, Kieran Kolovas-Jones...”
“Ồ, cái anh chàng xinh ơi là xinh đó hả?” Bryony đáp. “Tụi tôi hay ghẹo Lula vụ Kieran lắm. Anh ta mê mệt Lula. Giờ hình như thỉnh thoảng Ciara có thuê anh ta.” Bryony khẽ cười ý nhị. “Ciara cũng hơi bị mang tiếng. Ý tôi là, cổ dễ thương thiệt, nhưng...”
“Kolovas-Jones nói là sau khi ra khỏi nhà mẹ, Lula viết gì đó lên tờ giấy màu xanh ngay trong xe,...”
“Anh nói chuyện với mẹ cổ chưa? Bà đó hơi quái.”
“... nên tôi muốn biết tờ giấy đó là giấy gì.”
Bryony búng tay vứt tàn thuốc ra ngoài cửa, loay hoay không yên trên ghế.
“Chắc giấy tờ gì đó.” Strike chờ đợi câu trả lời hiển nhiên nhất, và ngay lập tức không bị thất vọng. “Chắc là giấy ghi mấy thứ cần mua hay gì đó.”
“Cũng có thể, nhưng cứ đặt giả sử, nếu đó là thư tuyệt mệnh...”
“Nhưng không phải mà... ý tôi là, thật kỳ cục... thư thiếc gì? Ai lại đi viết thư tuyệt mệnh từ sớm như vậy, rồi mất công trang điểm để đi nhảy nhót? Vô lý đùng đùng!”
“Tôi cũng thấy là không hợp lý thật, nhưng dù sao nếu biết được tờ giấy đó là giấy gì cũng tốt hơn.”
“Biết đâu không dính gì đến chuyện cổ chết. Biết đâu là thư gởi Evan hay gì đó, để nói cho hắn biết cổ bực hắn ra sao?”
“Nhưng mãi tối hôm đó Evan và Lula mới gây gổ với nhau. Hơn nữa, vì sao cô ấy lại viết thư, khi đã có sẵn số điện thoại của Evan, lại biết trước sẽ gặp anh ta ngay đêm đó?”
“Tôi biết đâu,” Bryony nói, tỏ vẻ nôn nóng. “Tôi chỉ nói vậy thôi, có là giấy tờ gì nữa thì cũng thay đổi được gì đâu.”
“Cô có chắc là không thấy tờ giấy đó không?”
“Có tôi chắc mà,” cô ta nói, tự dưng mặt đỏ bừng lên. “Tôi tới đó làm việc, chứ không phải đi tò mò chuyện của cổ. Còn gì nữa không?”
“Được rồi, tôi nghĩ vậy đủ rồi,” Strike nói tiếp, “nhưng có khi cô giúp được tôi chuyện khác. Cô có biết bà Tansy Bestigui không?”
“Không,” Bryony đáp. “Biết em bả thôi, Ursula á. Bà này có thuê tôi làm vài lần khi đi ăn tiệc. Bà đó trời ơi lắm.”
“Trời ơi sao?”
“Thì kiểu mấy bà giàu có hư hỏng... ờ,” Bryony nói, nhếch miệng, “bà giàu vậy nhưng vẫn chẳng thấy ăn thua gì. Hai chị em nhà Chillingham lấy toàn mấy ông già nhiều tiền: giống kiểu săn đại gia vậy đó. Ursula cứ tưởng lấy Cyprian May là trúng số độc đắc rồi, nhưng ông này không giàu như bả tưởng. Bả cũng gần bốn chục tuổi rồi; đâu còn nhiều cơ hội nữa. Chắc vì vậy mà bả chưa đá ông chồng để lên đời.”
Rồi nhận ra đã hơi quá lời, cần phải giải thích thêm, Bryony lại nói tiếp.
“Tôi xin lỗi, nhưng bả dám lu loa là tôi nghe trộm lời nhắn trên điện thoại bả.” Cô chuyên viên trang điểm khuỳnh tay ngang ngực, nhìn Strike. “Thiệt tình. Bả quăng điện thoại vô mặt tôi, nói nhờ gọi giùm taxi, không có một tiếng cảm ơn cảm iếc gì. Tôi bị chứng loạn chữ nên bấm nhầm nút. Bả chửi tôi không kịp vuốt mặt.
“Tại sao bà ta lại tức tối vậy?”
“Chắc vì tôi nghe thấy giọng của một ông không phải chồng bả, nói là đang nằm trong khách sạn, mơ đang... vét bả,” Bryony đáp, tỉnh khô.
“Vậy chắc bà ta đang tính chuyện lên đời hả?” Strike hỏi.
“Lên liếc gì cái mối đó,” Bryony đáp, nhưng rồi vội vã nói thêm, “Ý tôi là, tin nhắn sến lợm. Tôi, tôi phải đi ra lại đây, Guy sắp nổi đóa rồi.”
Strike để Bryony đi. Sau khi cô ta đã đi khỏi, hắn viết thêm hai trang ghi chú. Bryony Radford rõ là một nhân chứng không đáng tin cậy, thích gợi ý và hay xuyên tạc. Nhưng cô ta khiến hắn biết thêm được nhiều chuyện mà chính cô ta cũng không ngờ.
7
Buổi chụp hình kéo dài ba tiếng đồng hồ nữa. Strike đứng đợi sau vườn, hút thuốc và uống nước lọc. Trời tối dần. Cứ một lúc hắn lại đi vào nhà xem tình hình tới đâu. Công việc có vẻ chậm chạp kinh khủng. Thỉnh thoảng Strike nhác thấy Somé hay nghe giọng ông ta. Somé có vẻ đang nóng, liên tục la hét chỉ đạo anh nhiếp ảnh gia và mấy ngươi giúp việc mặc đồ đen len lách giữa đám giá treo đồ. Cuối cùng, gần chín giờ tối, sau khi Strike đã ăn vài miếng pizza do tay trợ lý ủ rũ mệt mỏi gọi mang đến thì Ciara Porter cũng vừa đi xuống cầu thang, nơi cô mới chụp hình với hai đồng nghiệp. Cô ta theo Strike đi ra phòng trang điểm. Bryony đang mải thu dọn đồ đạc.
Ciara vẫn còn mặc áo đầm ngắn vải cứng màu bạc, phục trang trong mấy tấm ảnh cuối vừa chụp. Cô ta có dáng dấp mảnh khảnh, đường nét góc cạnh, da trắng như sữa, tóc màu sáng và hai mắt to xanh biếc, nằm cách xa nhau. Ciara mang giày bánh mì có buộc chỉ bạc quanh ống chân, đôi chân dài miên man. Cô ta châm một điếu Malboro Light.
“Chúa ơi, tôi không thể tin nổi anh là con của Rokers!” Ciara nói không ra hơi, đôi mắt mèo và cặp môi dày đều mở to. “Đúng là lạ đời! Tôi có biết Rokers, ông ấy từng mời Looly và tôi đi dự buổi ra mắt album Greatest Hits hồi năm ngoái! Tôi biết cả em trai của anh nữa, Al và Eddie! Hai người có kể là có ông anh trong quân đội! Lạy Chúa. Quái thiệt. Xong chưa Bryony?” Ciara hỏi, có ý dò xét.
Cô chuyên viên trang điểm dường như mất khá nhiều thời gian để dọn dẹp đồ nghề. Sau khi Ciara hỏi, cô ta nhanh tay hẳn lên. Ciara hút thuốc, im lặng quan sát Bryony.
“Xong rồi,” Bryony nhanh nhẹn nói. Cô ta vác trên vai một chiếc thùng nặng nề, mỗi tay cầm thêm vài hộp đồ. “Chào cô, Ciara. Chào anh,” cô ta quay sang chào Strike, rồi đi ra ngoài.
“Con nhỏ đó nhiều chuyện lắm, buôn dưa dã man.” Ciara kể với Strike. Cô hất mái tóc sáng màu ra sau, xếp đôi chân dài như hươu lại, rồi hỏi Strike:
“Anh có hay gặp Al và Eddie không?”
“Không” Strike đáp.
“Cả mẹ anh nữa,”cô ta nói, thản nhiên, nhả khói thuốc qua khóe miệng. “Ta nói, mẹ anh giống như... một huyền thoại vậy đó. Anh biết không, Baz Carmichael làm nguyên một bộ sưu tập hai mùa trước có tên là ‘Fan nữ cuồng’, lấy cảm hứng từ Bebe Buell và mẹ anh đó? Toàn váy maxi, áo sơ mi không cài nút và giày bốt đó?”
“Tôi không biết,” Strike đáp.
“Ờ, kiểu như là... anh biết không, kiểu như cái câu gì nói về các mẫu áo đầm của Ossie Clask đó, đàn ông rất mê mấy kiểu đồ đó vì dễ tuột ra, xơi ngay được. Đúng y như thời mẹ anh vậy.”
Cô ta hất mớ tóc rũ xuống mắt và nhìn hắn chằm chằm, không giống như kiểu nhìn lạnh lùng hằn học của Tansy Bestigui, mà có vẻ thẳng thắn, kinh ngạc thực sự. Hắn không biết liệu cô ta đang nói thật lòng, hay chỉ đang diễn cho trọn vai. Ciara quá đẹp. Sắc đẹp của Ciara như một tấm mạng nhện dày ngăn cách giữa cô ta và người đối diện.
“Vậy nếu cô không phiền tôi muốn hỏi cô về Lula.”
“Lạy Chúa, được thôi. Được mà, không, nói thiệt đó, tôi rất muốn giúp anh. Khi tôi nghe có người đang điều tra về vụ này, tôi nghĩ thầm, tốt rồi. Cuối cùng cũng có người làm.”
“Vậy sao?”
“Lạy Chúa thiệt mà. Chuyện quá sốc, thật khốn nạn. Tôi không thể tin được. Tôi vẫn còn lưu số cổ trên điện thoại, anh coi nè.”
Cô ta lục lọi một hồi trong cái túi xách to đùng, cuối cùng lấy ra một cái iPhone màu trắng, rồi nghiêng người về phía Strike, ngón tay kéo danh bạ trên điện thoại xuống, chỉ cho hắn xem cái tên “Looly” trên đó. Mùi nước hoa của Ciara ngọt ngào, hơi cay nồng.
“Tôi cứ chờ cổ điện,” Ciara nói, chùng xuống trong giây lát rồi thảy cái điện thoại vào túi xách. “Tôi không thể nào xóa tên cổ được, cứ vừa định làm thì lại thôi, muốn giữ hết lại, anh có hiểu không?”
Cô ta loay hoay rướn người, uốn éo cẳng chân dài ngoẵng, ngồi xuống lại và im lặng hút thuốc trong vài giây sau đó.
“Vào ngày cuối cùng của Lula cô ở với cô ấy khá lâu, đúng không?”
“Đừng nhắc đến cái ngày khốn nạn đó nữa,” Ciara đáp, nhắm mắt lại. “Tôi nghĩ tới nó mới có một triệu lần thôi. Tôi cứ nghĩ mãi, không hiểu làm sao đi từ chỗ hoàn toàn vui vẻ tưng bừng đến cái chết chỉ trong có mấy tiếng.”
“Cô ấy vui vẻ tưng bừng?”
“Lạy Chúa, mấy ngày trước đó cổ rất vui, xưa giờ tôi chưa thấy cổ vui như vậy. Tụi tôi vừa mới đi Antigua chụp cho Vogue về, rồi cổ với Evan quay lại với nhau, rồi hai người làm lễ cam kết. Mọi chuyện vô cùng tuyệt vời, cổ lâng lâng như ở trên chín tầng mây vậy.”
“Cô có đi dự cái lễ cam kết đó không?”
“Có chứ,” Ciara nói, dụi tàn thuốc vào lon nước ngọt, tàn thuốc xì một tiếng rồi tắt ngấm. “Lạy Chúa, còn hơn là lãng mạn nữa kia. Evan làm một cú rất bất ngờ, ngay tại nhà của Dickie Cadbury đó. Anh biết Dickie Cadbury không? Ông chủ nhà hàng đó? Ông ta có cái nhà đẹp mỹ mãn ở Cotswolds, cuối tuần tụi tôi đổ hết về đó, Evan đã mua trước một cặp vòng tay mạ bạc cực xinh của Fergus Keane. Rồi ảnh bắt hết cả đám đi xuống chỗ hồ nước sau bữa tối, trời lạnh ngắt, tuyết rơi nữa, xong rồi ảnh đọc bài thơ ảnh viết tặng Looly, xong rồi đeo vòng cho cổ. Looly cười quá trời, nhưng mà đọc ngay một bài thơ khác trả lời. Thơ Walt Whitman. Lúc đó,” Ciara nói tiếp, đột nhiên tỏ ra nghiêm chỉnh hẳn lên, “thiệt tình, quá là ấn tượng luôn, bài thơ quá hợp, hoàn hảo, cứ tự nhiên như không vậy. Người ta tưởng người mẫu dốt lắm, anh hiểu không.” Cô ta lại hất tóc ra sau, mời Strike một điếu rồi rút ra thêm một điếu nữa cho mình. “Tôi quá chán chuyện cứ phải thanh minh là tôi đã được nhận vào học Văn ở Cambridge, nhưng đang bảo lưu kết quả.”
“Vậy hả?” Strike hỏi lại, không giấu được sự ngạc nhiên trong giọng nói.
“Ừ” cô ta nói, miệng phì phèo thuốc lá trông thật xinh, “nhưng anh thấy đó, vụ làm người mẫu đang ngon ăn. Tôi định làm thêm một năm nữa. Mở ra nhiều cơ hội lắm, anh hiểu không?”
“Vậy cái lễ cam kết này diễn ra khoảng... một tuần trước khi Lula chết?”
“Ờ,” Ciara đáp, “Ngay thứ Bảy trước đó.”
“Chỉ có trao cặp vòng với hai bài thơ. Không có thề thốt, chủ hôn gì hết hả?”
“Không, lễ đó không có chính thức như đính hôn kết hôn gì đâu, chỉ là một khoảnh khắc hoàn hảo, ngọt ngào như vậy thôi. Bực cái là Freddie Bestigui cũng ở đó, lão đó thiệt là khó ưa. Nhưng ít ra,” Ciara rít một hơi thuốc thật sau, “là không có mụ vợ mắc dịch của lão.”
“Tansy?”
“Tansy Chillingham. Đồ quỷ cái. Hai người ly dị cũng chẳng lạ; đã đường ai nấy đi rành rành, có bao giờ thấy cặp kè gì đâu.”
“Thực ra mà nói, hôm đó Fredie cũng không đến nỗi, mặc dù mang tiếng ghê gớm như vậy. Lão chỉ sến sẩm chán bỏ xừ, cứ đi theo o bế Looly, nhưng mà không đến nỗi tệ như người ta hay nói. Tôi có nghe chuyện này, kiểu là, một đứa ngây thơ rành rành được lão hứa hẹn cho một vai trong phim, rồi... Nhưng tôi không biết có thật không.” Ciara nheo mắt nhìn đầu thuốc. “Dù sao thì con nhỏ đó cũng không tố lão.”
“Cô nói Freddie khó ưa là ý sao?”
“Trời đất, lão ta cứ nhằng nhẵng đi theo Looly, khen hoài là cổ chắc chắn ăn hình hết ý, rồi còn nữa, hồi xưa ông già cổ hay ho thế nào.”
“Ngài Alec hả?”
“Ừ, đương nhiên là Ngài Alec rồi. Lạy Chúa,” Ciara nói, mắt mở to, “nếu mà lão biết cha thiệt của cổ, Looly hẳn đã nhảy cẫng lên rồi! Vì vậy thì coi như mơ ước cả đời của cổ thành sự thật mà! Nhưng không, lão chỉ nói là có quen Ngài Alec từ hồi lâu lắc lâu lơ, hai người đều là dân phía Đông thành phố, ở cùng xóm hay sao đó, nên đúng ra có thể coi lão như cha đỡ đầu hay gì đó của Looly. Tôi nghĩ lão đang cố diễn trò hài nhưng mà chẳng có gì tức cười cả. Ai cũng thấy được là lão đang chài Looly đóng phim. Hồi lễ cam kết lão rất là dở hơi, cứ ré lên “Để tôi giao cô dâu cho chú rể,” làm như là ông già cổ không bằng. Lão say mèm, tại trước đó uống dữ lắm. Dickie cứ phải nhắc lão ngậm miệng lại. Rồi sau đó tụi tôi trở vô nhà, uống champagne và Freddie làm thêm hai chai nữa. Lão cứ gào lên với Looly là cổ sẽ thành diễn viên bá cháy, nhưng cổ không quan tâm gì hết. Cổ lơ đẹp Freddie. Cổ nằm trên sofa với Evan, hai người...”
Rồi đột nhiên đôi mắt kẻ đậm của Ciara ngấn nước, cô ta quay mặt đi, đưa bàn tay trắng muốt lên chùi nước mắt.
“...đang sung sướng hạnh phúc. Cổ đang rất hạnh phúc, chưa bao giờ tôi thấy cổ vui như vậy.”
“Đêm Lula chết cô có gặp lại Freddie Bestigui đúng không? Cô với Lula chạm mặt ông ta ngay ở sảnh dưới nhà, khi chuẩn bị đi ra ngoài?”
“Đúng vậy,” Ciara đáp, tay vẫn chặm mắt. “Làm sao anh biết?”
“Người bảo vệ tên Wilson kể. Ông ta nói là Bestigui có nói gì đó mà Lula không thích tí nào.”
“Ừ, đúng rồi. Tôi quên mất vụ đó. Freddie nói gì đó về Deeby Macc, chuyện Looly đang rất phấn khởi vì Macc sắp chuyển tới, rồi chuyện lão rất muốn hai người đóng phim chung. Tôi không nhớ chính xác là nói gì, nhưng mà lão nói thô lắm, anh hiểu không?”
“Lula có biết chuyện Bestigui là chỗ quen biết với Ngài Alec không?”
“Cổ nói với tôi là chưa nghe chuyện đó bao giờ. Cổ luôn né Freddie khi về tới nhà. Cổ cũng không ưa gì mụ Tansy.”
“Tại sao vậy?”
“Ờ, Looly không có quan tâm mấy cuộc lê la bàn tán coi chồng ai có du thuyền to nhất, cổ không thích đám đó. Looly hay ho hơn vậy nhiều. Khác hẳn với hai chị em nhà Chillingham.”
“OK,” Strike đáp, “Giờ cô kể lại buổi chiều và buổi tối hôm đó, lúc cô ở với Lula có được không?”
Ciara dụi đầu thuốc thứ hai vào lon nước ngọt, lại một tiếng xì rồi tắt ngấm. Cô ta châm ngay một điếu nữa.
“Ừ, được rồi, để tôi nhớ coi. Buổi chiều hôm đó tôi tới nhà cổ. Bryony ghé qua làm lông mày, rồi cuối cùng làm móng cho cả hai đứa tôi. Hai đứa tụi tôi ngồi tám chuyện con gái cả buổi chiều.”
“Cô thấy khi đó Lula ra sao?”
“Cổ...” Ciara ngập ngừng. “Cổ không được vui bằng mấy ngày trước đó. Nhưng mà không có gì là sắp tự tử hết, không thể nào.”
“Kieran, tài xế của Lula nghĩ là cô ấy có vẻ hơi khác sau khi ra khỏi nhà mẹ ở Chelsea.”
“Trời đất, thì còn gì nữa? Mẹ cổ bị ung thư mà, không phải vậy sao?”
“Khi gặp cô Lula có nói gì về phu nhân Bristow không?”
“Nói gì đâu. Có kể là ngồi với mẹ một lúc, vì bả hơi... anh biết rồi đó...suy sụp sau ca mổ, nhưng mà không ai nghĩ phu nhân Bristow sắp chết cả. Mổ miếc là để chữa cho khỏi mà, không phải vậy sao?”
“Lula có nhắc đến bất kỳ chuyện gì khác làm cho cô ấy không vui bằng mấy ngày trước không?”
“Không,” Ciara đáp, chậm rãi lắc đầu, mớ tóc vàng nhạt ve vuốt gương mặt. Cô ta cào ngược tóc ra sau, rồi rít thêm một hơi thuốc thật sâu. “Đúng là cổ có vẻ hơi buồn thiệt, hơi mất tập trung sao đó, nhưng tôi nghĩ chỉ là do vừa gặp mẹ. Quan hệ giữa hai mẹ con cổ kỳ lắm. Phu nhân Bristow kiểu... bảo bọc quá mức, cứ bám theo cổ hoài. Làm Looly nhiều khi thấy ngột ngạt, anh hiểu không?”
“Cô có nhớ chiều hôm đó Lula có gọi điện cho ai không?”
“Không,” Ciara đáp, sau khi im lặng ngẫm nghĩ một lúc. “Tôi nhớ là cổ cứ mở điện thoại xem hoài, nhưng không nói chuyện với ai hết, nếu tôi nhớ đúng. Nếu mà có gọi cho ai thì chắc là cô muốn giữ kín. Vì cổ cứ đi vô phòng ngủ hoài. Tôi cũng không biết nữa.”
“Bryony nghĩ là Lula rất háo hức vì Deeby Macc sắp đến.”
“Hả, trời đất,” Ciara thốt lên, mất kiên nhẫn. “Thực ra mấy người kia mới háo hức về Deeby Macc... Guy, Bryony với... cả tôi cũng háo hức, một chút,” cô ta nói, vẻ thật thà dễ mến. “Nhưng Looly không có tha thiết gì chuyện đó. Cổ đang rất hạnh phúc với Evan. Không phải Bryony nói gì cũng tin được đâu.”
“Lúc đó Lula có cầm tờ giấy nào không, cô nhớ không? Một tờ giấy màu xanh có chữ viết tay của Lula?”
“Không,” Ciara hỏi, y hệt những người khác. “Sao vậy? Giấy tờ gì?”
"Tôi cũng chưa biết chắc," Strike đáp, Ciara đột nhiên hoảng hốt như vừa ngộ ra điều gì đó.
"Lạy Chúa... anh đừng nói là thư của cổ để lại? Lạy Chúa tôi. Làm sao có chuyện điên khùng khốn kiếp đến vậy? Nhưng... không lẽ...! Vì nói vậy hóa ra... cổ đã có ý định từ trước."
"Có thể là giấy tờ gì khác," Strike đáp. "Cô khai trong hồ sơ điều tra là Lula muốn nói để lại hết cho anh trai cô ấy, đúng vậy không?"
"Ừ, đúng rồi," Ciara nói, gật đầu, giọng thành thật. "Chuyện là, Guy gởi cho Looly mấy cái túi hàng mới cực xinh. Tôi biết ngay là mình chẳng có phần, mặc dù tôi cũng có mặt trong quảng cáo đó. Tôi mở bao đựng cái túi trắng, cái Cashile đó, anh biết không, đẹp mỹ mãn. Bên trong có lớp lót bằng lụa, có thể tháo ra được, in hoa văn kiểu châu Phi rất chi là độc đáo. Guy làm riêng tặng cho Lula mà. Vậy là tôi nói, "Looly, bồ để cái này cho mình nha?" giỡn chơi vậy thôi. Rồi cổ nói, thiệt nghiêm chỉnh, "Sẽ để lại hết cho ông anh, nhưng chắc bồ thích gì ổng cho thôi."
Strike vừa quan sát và nghe ngóng thật kỹ, tìm xem có dấu hiệu nào cho thấy Ciara đang bịa chuyện hay nói quá lên không, nhưng lời nói của cô ta rất tự nhiên, thẳng thắn.
"Nghe lạ thật nhỉ?" Hắn hỏi.
"Ừ, tôi cũng thấy vậy," Ciara đáp, lại hất tóc ra sau. "Nhưng mà kiểu Looly như vậy đó, lâu lâu lại hơi u ám, trầm trọng hóa vấn đề. Guy hay nói, 'Bớt khùng đi, Cuckoo ơi.' Nhưng mà," Ciara thở dài, "cổ chẳng hiểu ý tôi chút nào, vụ cái túi Cashile đó. Vậy mà tôi cứ tưởng là cổ cho tôi luôn, thiệt tình, cổ có tới bốn cái lận."
"Cô nghĩ mình có thân thiết với Lula không?"
"Tất nhiên rồi, siêu thân luôn, chuyện gì cổ cũng kể với tôi."
"Có người nói rằng Lula rất khó tin ai. Rằng cô ấy rất sợ mấy việc riêng tư bị tung lên báo. Tôi có nghe kể là cô ấy còn hay thử bạn bè, xem họ có đáng tin không."
"Ờ đúng rồi, sau khi bị bà mẹ ruột bán cho báo, cổ hơi bị... đa nghi. Cổ còn hỏi tôi," Ciara nói, tay phe phẩy điếu thuốc. "Là liệu tôi có xì chuyện cổ vừa quay lại với Evan không. Ta nói, trời đất. Kiểu gì mà cổ giữ kín vụ đó được. Ai mà không biết. Tôi nói với cổ. "Looly, bị nói sau lưng còn đỡ hơn là không bao giờ được nhắc tới. Câu đó của Oscar Wilde," cô ta tử tế giải thích thêm. "Nhưng Looly không thích mặt trái của sự nổi tiếng."
"Guy Somé nói rằng Lula ắt hẳn đã không quay lại với Duffield nếu ông ta không đi công tác."
Ciara liếc về phía cánh cửa, hạ giọng.
"Đương nhiên Guy sẽ nói vậy. Ổng siêu bảo bọc Looly mà. Ổng rất mê tít cổ, thương cổ thực sự. Ổng nghĩ Evan chẳng đem lại cái gì tốt đẹp cho Looly, nhưng thiệt tình, ổng không biết con người thật sự của Evan. Evan đúng là khùng dã man thiệt, nhưng ảnh là người tốt. Mấy hôm trước ảnh có ghé thăm phu nhân Bristow. Tôi nói. 'Tại sao, Evan, mắc gì mà lại phải làm vậy?' Vì anh biết đó, gia đình cổ rất ghét Evan. Anh biết ảnh nói sao không. ' Tôi chỉ muốn nói chuyện với ai đó có thể đồng cảm được với mình.' Nghe tội không?"
Strike hắng giọng.
"Báo chí lúc nào cũng chĩa vào Evan, thật là không công bằng tí nào, ảnh làm gì cũng bị chửi."
"Duffield có ghé qua nhà cô ngay trong đêm Lula chết, phải vậy không?"
"Trời đất, đúng rồi, cuối cùng cũng tới chuyện này đây!" Ciara bực bội nói. "Báo viết y như là tụi tôi ngủ nghê gì với nhau vậy! Ảnh không có tiền trong túi, tài xế thì biến mất tăm cho nên phải cuốc bộ hết cả London tới nhà tôi ngủ tạm. Ảnh ngủ trên ghế sofa. Hai tụi tôi cùng biết tin một lúc."
Cô ta đưa điếu thuốc lên miệng, rít một hơi sâu, mắt nhìn xuống sàn nhà.
"Thật là tệ hại. Anh không tưởng tượng được đâu. Kinh khủng lắm. Lúc đó Evan... lạy Chúa... Và rồi," cô ta nói tiếp, giọng thầm thì, "ai cũng nói ảnh là thủ phạm. Nhất là sau khi Tansy Chillingham khai có nghe tiếng cãi nhau. Báo chí nổi điên lên. Thật không tả nổi."
Cô ta ngước nhìn Strike, đưa tay giữ tóc khỏi xõa xuống mặt. Ánh đèn chói gắt trên đầu làm vóc dáng hoàn hảo của Ciara càng nổi bật.
"Anh vẫn chưa gặp Evan, đúng không?"
"Tôi chưa gặp."
"Anh có muốn gặp không? Giờ đi luôn với tôi. Ảnh nói tối nay ảnh đi Uzi."
"Vậy thì hay quá."
"Tuyệt vời. Đợi chút."
Cô ta nhảy lên rồi đứng ở cửa gọi:
"Guy ơi, cho mặc luôn bộ này được không cưng? Đi mà. Mặc đi Uzi được không?"
Somé bước vào. Đôi mắt ông ta trông rất mệt mỏi sau tròng kính.
"Được rồi. Nhưng làm sao làm phải dính vài cái hình. Coi chừng bị hư là tôi kiện cô tới số luôn."
"Sẽ không hư hỏng gì đâu mà. Em dẫn Cormoran đi gặp Evan."
Cô ta nhét bao thuốc vào chiếc túi xách to đùng, dường như đựng cả quần áo thường ngày, rồi choàng qua vai. Mang giày cao gót, Ciara chỉ kém Strike có hai phân. Somé ngước nhìn Strike, nheo mắt lại.
"Nhớ cho thằng quỷ con đó biết mùi lễ độ."
"Guy!" Ciara chu miệng, "Đừng có ác vậy."
"À, coi chừng đó, ngài Rokeby," Somé nói với theo, giọng châm chích như thường lệ. "Ciara lẳng lơ đĩ thõa lắm đó, phải vậy không cưng? Nó cũng giống tôi vậy, toàn thích mấy tay dữ dằn to con không à."
"Guy!" Ciara hét lên, giả bộ sửng sốt. "Đi nào Cormoran. Lái xe chờ sẵn ở ngoài rồi."
8
Đã biết trước nên Strike không ngẩn người ra như Kieran Kolovas-Jones khi hai người chạm mặt. Kolovas-Jones đứng giữ cánh cửa sau bên trái, đèn trong xe chỉ sáng mờ mờ, nhưng Strike thấy anh chàng thoáng thay đổi nét mặt khi nhận ra ai chuẩn bị lên xe với Ciara.
"Chào", Strike lên tiếng, đi vòng qua xe rồi tự mở cửa, ngồi xuống bên cạnh Ciara.
"Kieran, anh gặp Cormoran rồi đúng không?" Ciara nói, sửa người ngồi lại ngay ngắn. Áo cô ta bị kéo lên tới gần hông, để lộ cặp chân cực dài. Hình như bên dưới cô ta không mặc gì cả. Còn khi cô mặc bộ áo liền quần thì rõ là không có áo ngực.
"Chào Kieran," Strike nói.
Anh lái xe nhìn vào kính chiếu hậu, gật đầu chào lại hắn nhưng không nói năng gì. Tự dưng anh ta tỏ thái độ nghiêm túc, rất chuyên nghiệp mà Strike ngờ rằng rất liên quan tới chuyện có thám tử đang ngồi trong xe.
Chiếc xe lùi xa khỏi lề đường. Ciara bắt đầu lục lọi túi xách; cô ta rút ra một chai dầu thơm rồi xịt túi bụi lên người, xịt thêm một vòng tròn rộng quanh mặt và vai. Sau đó cô ta chặm son bóng lên môi, tay làm miệng nói.
"Gì nữa ta? Tiền. Cormoran, phiền cưng giữ dùm mớ này được không? Em không mang hết chừng đó vô trong đâu." Rồi cô ta dúi vào tay hắn một nắm tờ hai mươi bảng nhăn nheo. "Cưng thật dễ thương. À điện thoại nữa. Cưng có túi quần không, cho để nhờ cái? Lạy Chúa, túi xách lộn xộn quá. “
Cô ta thả cái túi xuống sàn xe.
"Lúc nãy cô nói là nếu tìm được cha ruột thì coi như ước mơ cả đời của Lula thành sự thật…"
"Lạy Chúa, đúng vậy đó. Cổ nói chuyện đó hoài à. Hồi cái bà già dịch mẹ ruột nói cha cổ là dân châu Phi, Looly rất là háo hức. Guy khăng khăng là bả phịa ra, nhưng ổng ghét mụ đó lắm nên cũng chẳng biết được."
"Ông ta gặp Marlene Higson rồi hả?"
"Không, làm gì có, chỉ là ghét chuyện Looly có bà mẹ vậy thôi. Ổng cũng thấy là Looly rất háo hức, nên chỉ muốn bảo vệ cổ, sợ cổ sẽ bị thất vọng.”
Bảo vệ chu đáo ghê, Strike nghĩ thầm. Chiếc xe rẽ vào một góc tối. Phải chăng Lula là người yếu đuối, cần được che chở đến vậy? Kolovas-Jones ngồi im không hề cựa quậy đầu, mắt anh ta chớp liên tục, nhìn Strike trong kính chiếu hậu.
"Có lúc Looly lần ra được manh mối của ông đó – ông cha ruột đó, nhưng mà cũng chẳng tới đâu. Tắc luôn. Buồn ghê vậy đó. Cổ cứ tưởng là đã tìm được, vậy mà công cốc hết."
"Manh mối gì vậy?"
"Hình như là trường ổng học hồi xưa. Bà mẹ cổ có nhắc tới. Looly tưởng là đã tìm đúng trường rồi, nên đi kiểm tra hồ sơ trong trường, đi với nhỏ bạn hơi ngộ ngộ tên là …”
"Rochelle?" Strike gợi ý. Chiếc Mercedes đã qua phố Oxford.
"Ừ, Rochelle, đúng rồi. Looly gặp nhỏ này hồi đi cai hay gì đó, nghe thảm lắm. Looly tốt không thể tưởng với nhỏ đó. Hay dẫn đi shopping này nọ. Nhưng mà hai người không tìm ra ông đó, hình như là nhầm trường hay gì đó. Em cũng không nhớ nữa.”
"Có phải cô ấy đi tìm người tên là Agyeman không?”
"Em không nhớ cổ có nói tên tuổi gì cả.”
"Hay Owusu?”
Ciara ngước đôi mắt sáng xinh đẹp nhìn Strike, kinh ngạc.
"Đó là họ thật của Guy mà?”
"Tôi biết.”
"Trời đất," Ciara cười khúc khích. "Ông già của Guy làm gì học Đại học. Ổng lái xe buýt mà. Hồi nhỏ chuyên đánh đập Guy vì cái tội suốt ngày vẽ vời áo xống. Vì vậy mà Guy mới đổi tên họ đó.”
Chiếc xe chậm dần lại. Dòng người xếp hàng bốn mà vẫn dài dằng dặc, dọc theo dãy nhà trên phố, ngay trước một lối vào kín đáo như lối vào nhà riêng. Một nhóm người mặc đồ đen đứng túm tụm trước cửa có cột trắng hay bên.
"Bọn săn ảnh," Kolovas-Jones lên tiếng. "Đi ra cẩn thận đó, Ciara.”
Anh ta bước ra khỏi ghế tài xế, đi vòng qua cửa sau bên trái, nhưng đám paparazzi mặc đồ đen đã chạy tới, trông như một thứ điềm gở. Bọn họ vừa đổ tới gần vừa nâng những chiếc camera với ống kính dài lên cao.
Ciara và Strike bước ra khỏi xe, đèn flash chớp liên tục như súng bắn. Strike bất ngờ bị chói mắt, hắn thụp đầu xuống, bàn tay tự động nắm lấy cánh tay mảnh khảnh của Ciara và đẩy cô ta đi trước, thẳng vào cánh cửa hình chữ nhật màu đen - nơi ẩn náu an toàn. Như có phép màu cánh cửa mở ra ngay. Đám người đang xếp hàng la lối om sòm, vừa phản đối chuyện hai người được cho vào dễ dàng vừa hét lên đầy phấn khích. Rồi ánh đèn flash tắt ngúm. Strike và Ciara vào trong, tiếng nhạc phát ra ầm ĩ trên nền tiếng bass lớn dập liên tục.
"Chời, cưng dẫn đường hay quá," Ciara nói. "Thường em phải loay hoay một hồi chỗ mấy tay bảo vệ rồi họ mới đẩy em vô trong.”
Mắt Strike hãy còn choá hoa cà hoa cải. Hắn thả tay cô người mẫu ra. Da cô ta thật trắng, gần như loá lên trong bóng tối. Sau đó hai người bị đẩy vào sâu bên trong vì vừa có thêm một tá khách được cho vào.
"Đi nào," Ciara nói, luồn mấy ngón tay mềm mại, thuôn dài vào bàn tay Strike, rồi kéo hắn theo.
Khi cả hai đi qua đám đông, nhiều người ngoái lại nhìn; Ciara và Strike cao hơn hẳn phần lớn dân đi sàn hôm đó. Strike nhìn thấy trên tường có ốp những hộp gương giống kiểu bể cá dài, bên trong có mấy thứ nhìn như cục sáp đang trôi, làm hắn nhớ đến chiếc đèn đối lưu lava của mẹ. Những dãy ghế dài bọc da màu đen chạy dọc theo các bức tường, vào sâu bên trong gần sàn nhảy có thêm mấy chỗ ngồi được quây lại. Thật khó biết được hộp đêm này rộng chừng nào vì có khá nhiều gương soi được sắp đặt rất khéo. Có lúc Strike bắt gặp hắn trong gương ngay trước mặt, trông hắn giống một tay bảo kê ăn mặt bảnh bao đứng sau thiên thần màu bạc là Ciara. Tiếng nhạc dội ầm ầm lên khắp cơ thể hắn, làm đầu óc và mình mẩy hắn cũng muốn rung theo. Sàn nhảy chật như nêm, không biết làm sao người ta vẫn có thể nhảy nhót uốn éo được.
Cả hai đến trước một cánh cửa bọc da. Tay bảo vệ hói đầu cười với Ciara, để lộ hai cái răng bọc vàng rồi đẩy cánh cửa, mở ra lối vào kín đáo.
Bên trong là một khu vực thưa người, yên tĩnh hơn, rõ là chỉ dành riêng cho những người nổi tiếng và bạn bè của họ. Strike nhận ra một người dẫn chương trình truyền hình mặc váy cực ngắn, một diễn viên phim bộ, một nghệ sĩ hài được biết đến chủ yếu vì scandal giường chiếu. Và ở góc xa là Evan Duffield.
Anh ta quàng khăn có in hình đầu lâu, mặc quần jeans đen bó sát, ngồi ngay giữa hai dãy ghế da màu đen vuông góc với nhau, cánh tay duỗi dài trên thành ghế. Phần lớn đám người đang chen chúc ngồi cùng anh ta là phụ nữ. Mái tóc sẫm chấm ngang vai của Evan vừa mới được nhuộm vàng. Trông mặt anh ta xanh xao, xương xẩu, quanh đôi mắt xanh biếc có quầng thâm tím sẫm.
Nhóm của Duffield toả ra một sức hút kỳ lạ trong căn phòng. Strike nhận thấy những người trong phòng thỉnh thoảng lại liếc về phía họ. Khu vực chung quanh hai dãy ghế của Duffield trống trơn, dường như anh ta được dành cho một quỹ đạo rộng hơn so với những người khách khác. Duffield và đám tuỳ tùng tỏ ra hờ hững, không để ý đến gì cả, nhưng Strike nhận ra thái độ đó hoàn toàn là đóng kịch nhuần nhuyễn. Cả đám vừa tỉnh táo dè chừng như con mồi, vừa kiêu hãnh bất cần như thú săn. Danh vọng là một thứ chuỗi thức ăn bị đảo ngược, những con vật lớn lại luôn bị rình mò và săn đuổi, cứ như bị quả báo vậy.
Duffield đang nói chuyện với một cô gái tóc nâu gợi cảm. Cô ta say sưa nghe Duffield nói, cặp môi mở hé, như hoàn toàn bị anh ta mê hoặc. Khi Ciara va Strike tiến tới gần, Strike để ý thấy Duffield thoáng rời mắt khỏi cô tóc nâu, quét một vòng nhanh như điện khắp phòng, ước lượng sự chú ý và tính toán thiệt hơn.
"Ciara!"Anh ta thét lên, giọng khàn khàn.
Cô tóc nâu tiu nghỉu khi Duffield nhảy phắt dậy. Trông Duffield gầy gò nhưng rắn rỏi, anh ta đi vòng từ sau bàn ra trước, ôm chầm lấy Ciara. Mang đôi giày bánh mì, cô người mẫu cao hơn anh ta dễ cũng đến hai tấc. Cô ta buông tay Strike, ôm lấy Duffield. Trong giây lát, tất cả mọi người trong phòng đều ngoái nhìn, rồi sực nhớ ra mình là ai, họ lập tức trở lại với câu chuyện trước đó và mấy ly cocktail uống dở.
"Evan, đây là Cormoran Strike," Ciara giới thiệu. Cô ta ghé miệng gần tai Duffield, Strike nghe loáng thoáng (đọc miệng thì đúng hơn) cô ta nói, "Ảnh là con của Jonny Rokeby đó!”
"Ngon lành hả, bồ tèo?" Duffield hỏi, chìa tay ra. Strike bắt tay đáp lại.
Như những tên Don Juan khác mà Strike từng gặp, giọng nói và điệu bộ của Duffield hơi mềm mỏng dịu dàng. Có lẽ những tay đó suốt ngày cặp kè hết cô này tới bà kia nên dần dần nhiễm phong cách phụ nữ, hoặc cũng có thể đó chỉ là một cách làm đối phương mất cảnh giác. Duffield phẩy tay, ra hiệu cho đám ngồi chung xích ra để chừa chỗ cho Ciara. Gương mặt cô tóc nâu ỉu xìu. Strike tự đi tìm một chiếc ghế đẩu, kéo lại cạnh bàn rồi hỏi Ciara muốn uống gì.
"Ồ, cho em một ly Boozy-Uzi," cô ta trả lời "lấy tiền của em mua nha cưng.”
Ly cocktail của Ciara nồng mùi tượu Pernod. Strike mua nước lọc rồi trở lại bàn. Ciara và Duffield ngồi sát nhau, gần như chạm mũi, đang say sưa nói chuyện, nhưng khi Strike đặt đồ uống xuống, Duffield liền nhìn quanh.
"Anh làm gì hả Cormoran? Nhạc nhẽo gì hả?”
"Không," Strike đáp. "Tôi làm thám tử.”
"Không giỡn à," Duffield đáp, "Lần này tôi giết ai vậy?”
Đám người chung quanh Duffield cười gượng gạo, có vẻ căng thẳng. Nhưng Ciara nói ngay:
"Đừng giỡn mà Evan.”
"Giỡn gì hả Ciara. Nếu tôi đùa thì cô biết ngay mà, vì tức cười thiệt chứ không như thế này.”
Cô tóc nâu bật cười.
"Tôi đã nói là tôi không đùa giỡn gì mà." Duffield nạt nộ.
Trông cô tóc nâu như vừa bị tát vào mặt. Đám người chung quanh như đang vô tình lảng dần ra, mặc dù vẫn chen chúc trên băng ghế chật chội. Họ bắt đầu nói những chuyện khác, tạm thời né tránh Ciara, Strike và Duffield.
"Evan, nói gì kỳ." Ciara nói, nhưng cách cô ta rầy Evan gần với ve vuốt hơn trách móc, Strike để ý cô ta liếc cô tóc nâu một cái, không hề thương hại.
Duffield gõ ngón tay lộp độp trên mép bàn.
"Vậy anh là thể loại thám tử gì hả Cormoran?”
"Thám tử tư."
"Evan cưng ơi, Cormoran là do anh của Looly thuê …”
Nhưng dường như Duffield vừa kịp nhìn thấy gì đó ở ngay quầy bar. Vậy là anh ta đứng ngay dậy, đi khuất mắt vào đám đông.
"Ảnh hay bị tăng động giảm chú ý kiểu mấy đứa con nít ấy mà,"Ciara nói, thanh minh cho Duffield. "Với lại là ảnh vẫn còn điên lắm luôn về vụ Looly. Thiệt mà," cô ta khăng khăng nói, nửa bực bội, nửa tức cười khi Strike nhướng mày về phía cô gái tóc nâu “hàng họ" ngon lành đang rầu rĩ ôm ly mojito đã cạn. "Áo đẹp của cưng dính gì nè," Ciara chồm người tới, phủi vụn bánh pizza trên áo Strike. Mùi nước hoa ngọt ngào, cay nóng. Lớp vải áo cứng màu bạc của Ciara đổ hết về trước, hớ hênh, làm hắn thấy trọn hai bầu ngực nhỏ xinh trắng trẻo và cặp nhũ hoa màu hồng phớt nhòn nhọn.
"Cô dùng nước hoa gì vậy?”
Cô ta chìa ngay cổ tay dưới mũi hắn.
"Hàng mới của Guy," cô đáp. "Tên là Éprise, tiếng Pháp, có nghĩa là đắm đuối, anh biết không?”
"Ờ." Hắn đáp.
Duffield quay lại, cầm theo đồ uống, chen qua đám đông liên tục ngoái nhìn anh ta, như thể anh ta toả ra thứ hào quang nào đó. Hai cẳng chân mặc quần jean bó chặt của Duffield trông như que thông ống nước. Còn đôi mắt thâm quầng lại khiến anh ta trông như tay hề kịch câm gian ác.
"Evan cưng nè," Ciara nói, khi Duffield ngồi xuống trở lại, "Cormoran đang điều tra…”
"Lúc nãy anh ấy đã nghe rồi," Strike cắt ngang. "Không cần nhắc đâu."
Strike có cảm giác câu này anh ta cũng nghe thấy. Duffield uống nhanh, thỉnh thoảng bình luận vài câu với mấy người ngồi cạnh. Ciara nhấp cocktail, rồi hích nhẹ Duffield.
"Phim ảnh sao rồi cưng?”
"Tuyệt. Rất tốt. Vai một tay buôn ma tuý muốn tự tử. Cô thấy đó, có xa lạ gì.”
Tất cả mỉm cười, trừ Duffield. Anh ta lại gõ ngón tay lên bàn, chân rung theo nhịp gõ.
"Chán như gián," anh ta tuyên bố.
Duffield nheo mắt nhìn ra cửa, đám xum xoe dõi theo anh ta, lộ rõ thèm thuồng. Strike đoán là thèm được rủ đi cùng.
Duffield hết nhìn Ciara rồi đến Strike.
"Về nhà tôi không?”
"Hết xảy," Ciara khẽ hét lên, liếc mắt như mèo về phía cô gái tóc nâu, vẻ hả hê. Rồi cô ta uống ực hết ly rượu.
Khi cả ba vừa đi ra khỏi khu VIP, hai cô gái say rượu chạy bổ vào Duffield, một cô kéo áo lên và năn nỉ hắn ký lên ngực cô ta.
"Đừng có dơ vậy cưng," Duffield nói, đẩy cô ta ra. "Cô có xe không Cici?" hắn ngoái lại, vừa hét vừa chen chúc qua đám đông, phớt lờ hết những tiếng la lối và mấy ngón tay chỉ chỏ.
"Có xe, cưng," cô ta hét lại. "Để gọi đã. Cormoran, cưng còn giữ điện thoại của em không?”
Strike tự hỏi không biết đám paparazzi bên ngoài sẽ phản ứng ra sao khi thấy Ciara rời hộp đêm với Duffield. Cô ta nói như hét vào chiếc iPhone. Khi cả ba ra tới cửa Ciara nói, "Đợi đã, tài xế sẽ nhắn tin khi đậu ngay bên ngoài.”
Ciara và Duffield trông hơi hồi hộp, liên tục quan sát chung quanh, dè dặt như vận động viên sắp ra sân đấu. Điện thoại của Ciara rung lên.
"Ok, ảnh tới rồi," cô ta nói.
Strike lùi lại nhường cho hai người đi ra trước, rồi bước thật nhanh về ghế hành khách đằng trước xe. Duffield chạy vòng ra sau xe, chui vào ghế bên cạnh Ciara vừa mới được Kolovas-Jones đỡ vào. Đèn flash chớp liên tục, loá cả mắt. Dòng người đang xếp hàng lại la lối um sùm. Strike đóng sầm cửa xe, khiến hai tay săn ảnh đang dựa vào xe liên tục bấm máy chụp Duffield và Ciara phải nhảy lùi lại.
Kolovas-Jones dường như còn dùng dằng chưa chịu vào xe; Strike có cảm giác bên trong chiếc Mercedes không khác gì một cái ống nghiệm, vừa được che chắn vừa bị phơi bày trong ánh đèn flash chớp liên tục. Bao quanh họ là những ống kính dí sát vào cửa sổ xe, vào cả kính lái; những gương mặt không hề thân thiện trôi trong bóng tối, những bóng đen chạy ngược xuôi ngay trước chiếc xe đang đứng yên. Ngay bên ngoài lớp đèn flash chớp liên tục, đám đông đang xếp hàng đổ dồn về trước, vừa tò mò vừa phấn khích.
"Đạp ga đi, trời ạ!" Strike gầm gừ với Kolovas-Jones đang mải loay hoay lùi xe. Đám săn ảnh đang chắn đường lập tức lùi lại nhưng vẫn tiếp tục bấm máy.
"Bái bai, lũ khốn!" Evan Duffield lên tiếng, khi chiếc xe vừa rời khỏi vỉa hè.
Nhưng đám săn ảnh vẫn bám theo hai bên xe, đèn flash chớp liên tục. Mồ hôi Strike ra đẫm cả người. Tự dưng hắn thấy lại con đường đất vàng lắm bụi, chiếc xe thiết giáp Viking rung lắc dữ dội và tiếng nổ như pháo hoa trên bầu trời Afghanistan. Lúc đó, hắn đã kịp thấy một người chạy vụt qua đường kéo theo một chú bé con ở phía trước. Như một phản xạ tự nhiên, hắn rống lên "Phanh lại!" rồi chồm ra trước và chụp lấy Anstis, người đồng đội vừa được làm cha có hai ngày. Anstis lúc đó đang ngồi ngay sau người lái xe. Rồi sau đó hắn chỉ còn nhớ tiếng Anstis la lên cự lại, một tiếng động lớn, ầm ầm vang vọng như có sắt thép khi hắn bị dội bật vào cửa sau, chiếc Viking nát vụn ra cùng với một tiếng nổ đinh tai nhức óc. Rồi tất cả chỉ còn là một khoảng mờ mịt, đau đớn và sợ hãi.
Chiếc Mercedes chạy vòng qua góc đường, ra đến một con phố gần như vắng tanh. Strike nhận ra hắn vừa gồng cứng người đến nỗi bắp chân ê ẩm. Trong kính chiếu hậu hắn nhìn thấy hai chiếc xe máy chở người ngồi sau vẫn còn bám theo. Khi xe đi qua những con đường tối, hắn lan man nghĩ đến công nương Diana và đường hầm ở Paris, rồi nghĩ đến chiếc xe cứu thương chở thi thể của Lula Landry đi qua giữa rừng camera giơ lên cao, dí thẳng vào cửa kính tối màu.
Duffield châm một điếu thuốc. Strike thoáng thấy Kolovas-Jones cau mày nhìn Duffield trong kính chiếu hậu, nhưng anh lái xe không lên tiếng phản đối. Vài giây sau, Ciara bắt đầu thì thầm vào tai Duffield. Strike nghe loáng thoáng có tên hắn.
Năm phút sau đó, họ rẽ tiếp một góc đường nữa. Một đám săn ảnh mặc đồ đen hiện ra, đèn flash lại bắt đầu chớp liên tục. Cả đám rầm rập chạy về phía chiếc Mercedes khi nó vừa ló ra. Hai chiếc xe máy dừng ngay bên cạnh đám săn ảnh; Strike thấy bốn người đàn ông đi trên đó nhảy ngay xuống, chạy lại để kịp chụp lúc cửa xe mở ra. Strike thấy sôi cả người, hắn tưởng tượng mình lao khỏi xe, đấm văng mớ camera đắt đỏ xuống lòng đường cùng cả đám săn ảnh. Cứ như thể đọc được suy nghĩ của Strike, Duffield lên tiếng, tay chỉ về phía nắm cửa:
"Tộng cho tụi nó ngủ mẹ nó luôn đi, Cormoran, tướng anh làm được mà.”
Khi cửa xe mở, giữa không khí ban đêm và ánh đèn flash điên cuồng, Strike lù lù bước ra. Hắn đi thật nhanh, cúi đầu, dán mắt vào gót giày của Ciara, tránh nhìn ánh đèn chói loá. Duffield và Ciara chạy lên bậc tam cấp, Strike đi sau, đóng sầm cửa toà nhà lại ngay trước mặt đám săn ảnh.
Trong giây lát, vụ săn đuổi khiến Strike đứng về phe hai người nổi tiếng. Khu sảnh nhỏ xíu, chỉ có ánh đèn mờ mờ lại cho cảm giác an toàn và thân thiện hẳn so với bên ngoài. Đám paparazzi vẫn la hét với nhau bên kia cánh cửa, những tiếng hét cộc lốc giống như tiếng gọi của những người lính đang đi kiểm tra khắp một toà nhà. Duffield đứng loay hoay trước một cánh cửa bên trong toà nhà, cố thử hết chìa này đến chìa khác để mở khoá.
"Tôi mới dọn vào có vài tuần," anh ta giải thích, cuối cùng cũng mở được, rồi dùng vai đẩy cửa thật mạnh. Vừa vào bên trong, anh ta loay hoay cởi chiếc áo khoác bó chật, vứt luôn xuống sàn nhà, ngay cạnh cửa. Anh ta đi trước, dẫn đường cho Strike và Ciara. Khi đi Duffield ngúng nguẩy cặp hông gầy gò, điệu đàng chỉ thua Guy Somé một chút. Cả ba đi qua một hành lang ngắn vào phòng khách. Duffield bật đèn lên.
Nội thất căn phòng đơn giản, phong cách lịch lãm hai màu đen xám đã bị chìm lấp dưới mớ đồ đạc lộn xộn cùng với mùi thuốc lá, cần sa và rượu bia nồng nặc. Ký ức tuổi thơ của Strike bỗng quay về thật sống động.
"Đi tè cái," Duffield thông báo rồi ngoái lại nói to, bật ngón tay cái chỉ hướng, "Đồ uống trong bếp đó Cici.”
Cô ta mỉm cười nhìn Strike rồi bước qua cửa mà Duffield vừa chỉ.
Strike nhìn quanh căn phòng. Hắn liên tưởng đến chỗ ở của một cặp vợ chồng có gu không chê vào đâu được. Hai ông bà bận đi xa, phải giao lại nhà cửa cho ông con tuổi thiếu niên. Tất cả mọi bề mặt trong phòng đều bị phủ đầy rác rưởi, phần lớn là mấy mẩu giấy viết lăng nhăng. Ba cây đàn guitar dựa vào tường. Một chiếc bàn nước mặt kính đựng đủ thứ lỉnh kỉnh, chung quanh là mấy cái ghế đen trắng, quay mặt về phía một chiếc TV plasma to đùng. Mớ rác rưởi đổ tràn từ bàn nước xuống tấm thảm bằng lông màu đen bên dưới. Khung cửa sổ khá cao, qua lớp màn xám mỏng tang, Strike nhận ra bóng dáng đám săn ảnh vẫn còn lảng vảng dưới ngọn đèn đường.
Duffield trở lại, tay còn kéo nốt khoá quần. Trong phòng chỉ còn mỗi anh ta và Strike. Anh ta bật cười, hơi căng thẳng.
"Cứ tự nhiên đi ông anh. Ê, mà tôi có quen ông già anh đó.”
"Vậy hả?" Strike đáp, ngồi xuống một chiếc ghế bành vuông vức bọc da ngựa mềm mại.
"Ừ, có gặp vài lần," Duffield đáp. "Ông già ngầu thiệt.”
Anh ta cầm lấy một cây đàn, buồn tay gảy tí tách một chút nhưng rồi đổi ý, lại đặt nó xuống dựa vào tường.
Ciara quay lại, mang theo một chai rượu và ba cái ly.
"Cưng không thuê được người dọn dẹp hả?" Cô ta hỏi Duffield, vẻ trách móc.
"Họ bỏ chạy hết," Duffield đáp. Anh ta đứng sau cái ghế, rồi uốn éo vòng qua thả phịch người xuống, chân vắt vẻo trên thành ghế. "Cóc làm nổi.”
Strike đẩy đám lỉnh kỉnh trên mặt bàn qua một bên để Ciara đặt chai rượu và mấy cái ly xuống.
"Tưởng cưng dọn vô ở chung với Mo Innes chứ," Cô ta nói, rót rượu ra ly.
"Ừ, nhưng vụ đó bể," Duffield đáp, lục lọi khắp mớ hầm bà lằng trên bàn tìm thuốc lá. "Lão Freddie thuê giùm chỗ này ở tạm một tháng trong thời gian quay ở Pinewood. Lão muốn tôi tránh xa mấy cái ổ cũ.”
Ngón tay cáu ghét của Duffield lần mò khắp bàn, lần lượt quét qua một chuỗi tràng hạt, vô số bao thuốc lá rỗng với miếng bìa bên trong bị xé ra, ba cái hộp quẹt trong đó có một cái Zippo có khắc hình, giấy quấn thuốc Rizla, các loại dây điện rối tung, một bộ bài, một chiếc khăn mùi soa gớm ghiếc, mấy mẩu giấy nháp bị vò lại, một cuốn tạp chí âm nhạc có bìa in hình Duffield mặc đồ đen trắng mặt mày rầu rĩ, các thể loại thư từ đã mở và chưa mở, một đôi găng tay da màu đen nhăn nhúm, tiền lẻ, và một chiếc khuy măng-sét màu bạc có hình khẩu súng bé tí đặt trên một chiếc gạt tàn bằng sứ sạch nguyên, ngay cạnh đống rác rưởi. Cuối cùng Duffield cũng bới ra được một bao thuốc Gitanes từ dưới ghế sofa. Anh ta châm thuốc, phả ra một đường khói dài lên trần nhà, rồi quay sang Ciara đang ngồi trên sofa đối diện với hai người đàn ông, nhỏ nhẻ uống rượu. Duffield nói:
"Tụi nó lại đồn hai đứa mình phang nhau nữa cho coi, Ci à," anh ta nói, chỉ ra cửa sổ, lảng vảng bóng mấy tay săn ảnh đang chầu chực.
"Vậy tụi nó sẽ nói Cormoran tới đây làm gì?" Ciara hỏi, liếc ngang nhìn Strike. "Chơi ba người cùng lúc hả?”
"Làm bảo kê," Duffield đáp, nheo mắt nhìn Strike. "Trông anh ta giống dân đấm bốc. Hay võ sĩ đấu trong lồng sắt. Anh không uống iếc gì hả Cormoran?”
"Không, cảm ơn," Strike đáp.
"Sao vậy, do đang cai nghiện hay đang làm việc?”
"Đang làm việc.”
Duffield nhướng mày, cười khẩy. Anh ta có vẻ hồi hộp, cứ thỉnh thoảng lại liếc về phía Strike, ngón tay gõ liên hồi lên mặt bàn. Ciara lên tiếng, hỏi anh ta có đi thăm phu nhân Bristow lần nào nữa không, trông anh ta nhẹ nhõm hẳn khi được gợi chuyện.
"Thôi dẹp đi. Một lần đủ rồi. Phát kinh được. Mụ già tội nghiệp. Nằm hấp hối rồi mà.”
"Dù sao cưng cũng có đi thăm, thiệt là quá sức tử tế rồi, Evan à.”
Strike biết cô ta đang đỡ cho Duffield.
"Anh có quen với mẹ của Lula không?" Hắn hỏi Duffield.
"Không. Chỉ có gặp một lần trước khi Lu chết. Bả không chịu tôi. Không ai trong cái nhà đó chịu tôi hết. Không biết nữa," anh ta loay hoay, "tôi thì chỉ muốn nói chuyện với một ai đó thực sự quan tâm tới Lula, tới chuyện cô ấy chết rồi.”
"Xin lỗi nha Evan!" Ciara chu miệng. "Đây cũng quan tâm tới Looly vậy!”
"Ừ, nhưng…”
Với một động tác mềm mại, nữ tính một cách kỳ quặc, Duffield cuộn người trong ghế như tư thế bào thai rồi rít thuốc thật mạnh. Trên chiếc bàn ngay sau đầu Duffield, dưới ánh đèn chiếu thẳng là một bức ảnh lớn, kiểu dàn dựng, chụp anh ta với Lula Landry, rõ là lấy từ một buổi chụp thời trang. Trong ảnh, hai người đang giả vờ vật nhau trên phông nền cây cối giả tạo; Lula mặc đầm đỏ chấm đất còn Duffield mặc complet ôm sát màu đen, chiếc mũ chó sói được đẩy lên trán.
"Không biết bà già tôi nghĩ gì nếu tôi ngoẻo? Ông bà già tôi còn ra toà xin lệnh cấm tiệt tôi tới gần." Duffield kể với Strike. "Thực ra ông già là chính. Vì hai năm trước tôi chôm TV của ông bà. Cô biết không?" anh ta nói thêm, ngoẹo cổ nhìn Ciara, "Tôi nhịn được năm tuần, hai ngày rồi.”
"Cưng giỏi quá! Tuyệt vời!”
"Ừ," Anh ta xoay người ngồi thẳng lại. "Anh không hỏi tôi gì hả?" Duffiled quay sang Strike. "Tưởng anh đang điều tra vụ án mạng của Lu?”
Giọng điệu màu mè của anh ta không hợp với mấy ngón tay vẫn còn run. Đầu gối Duffield bắt đầu nhịp lia lịa, y hệt John Bristow.
"Anh có nghĩ đó là vụ án mạng không?" Strike hỏi.
"Không." Duffield rít hơi thuốc dài. "Mà cũng có thể. Tôi không biết. Dù sao thì án mạng nghe hợp lý hơn tự tử chớ. Vì cô ta sẽ không đi mà không thèm nhắn nhủ gì với tôi. Tôi cứ chờ người ta tìm ra thư tuyệt mệnh, có vậy tôi mới tin Lu đã chết. Chẳng thấy thật chút nào cả. Tôi còn không nhớ nổi hôm đám tang nữa. Đầu óc rối tung lên. Hôm đó, tôi tộng tùm lum thứ, không bước đi nổi. Nhiều khi tôi nghĩ nếu mà chỉ nhớ lại được hôm đó thôi, có khi tôi sẽ lại chấp nhận được sự thật.”
Anh ta ngậm điếu thuốc giữa môi rồi lại bắt đầu gõ ngón tay lên cạnh bàn. Sau một lúc, vẻ như khó chịu vì Strike chỉ im lặng quan sát, anh ta hạch hỏi:
"Hỏi gì đi chứ. Mà ai thuê anh vậy?”
"John, anh trai của Lula.”
Duffield dừng tay không gõ nữa.
"Thằng cha mắc dịch hà tiện khó ưa đó hả?”
"Hà tiện?”
"Lão suốt ngày chăm chăm vào tiền bạc của cô ta, cứ như việc của lão vậy. Mấy người giàu luôn nghĩ là người khác chỉ muốn bòn họ, anh có thấy vậy không? Cái nhà khốn nạn đó nghĩ tôi là thằng đào mỏ, rồi," anh ta đưa ngón tay lên thái dương, làm động tác quay đều đều, "mưa dầm thấm đất, gây nghi ngờ, anh hiểu không?”
Anh ta chụp lấy cái Zippo trên bàn, bắt đầu búng tanh tách, cố bật lửa. Strike nhìn mấy tia lửa xanh liên tục chớp lên rồi tắt ngúm. Duffield nói tiếp.
"Tôi đoán chắc lão nghĩ cô ấy nên lấy một thằng kế toán giàu có khốn nạn nào đó, giống lão vậy.”
"Ông ấy là luật sư.”
"Là gì cũng được. Khác quái gì, quanh đi quẩn lại cũng là chuyện đám nhà giàu cố kiếm thêm tiền, càng nhiều càng tốt, không phải vậy sao? Lão đã có gia tài ông già để lại, mắc mớ gì mà cứ đi nhúng mũi vào chuyện tiêu pha của con em?”
"Ông ấy phản đối Lula mua gì vậy?”
"Mấy thứ vớ vẩn cho tôi. Cả nhà đó y chang nhau: nếu mà Lu ném tiền cho họ thì không sao. Lu cũng biết đám người khốn kiếp đó chỉ biết có tiền, nhưng, như tôi nói đó, mưa dầm thấm lâu mà. Họ cứ nói xấu tôi mãi, làm cô ta cũng bắt đầu nghĩ ngợi.”
Anh ta vứt cái Zippo hết ga lên bàn, bó gối trước ngực rồi nhìn Strike bằng đôi mắt xanh biết lơ láo.
"Vậy lão thân chủ của anh vẫn nghĩ là tôi giết Lu hả?”
"Tôi không thấy vậy." Strike đáp.
"Chắc vừa đổi ý chớ gì, vì tôi biết chính lão đi lu loa rằng tôi là thủ phạm, trước khi có kết luận tự tử. Nhưng mà, tôi có chứng cứ ngoại phạm rành rành, nên kệ mẹ lão. Kệ mẹ. Hết thảy. Tụi nó.”
Duffield có vẻ bồn chồn bất an, anh ta đứng dậy, đổ thêm rượu vào ly còn gần đầy nguyên, rồi châm thêm một điếu thuốc.
"Anh có thể kể về hôm Lula chết được không?" Strike hỏi.
"Ý anh là đêm đó hả?”
"Ngày trước đó cũng khá quan trọng. Có mấy thứ tôi muốn làm rõ.”
"Vậy hả? Hỏi đi.”
Duffield ngồi phịch xuống ghế, trở lại tư thế bó gối trước ngực.
"Lula liên tục gọi điện cho anh từ trưa cho tới sáu giờ tối, nhưng anh không bốc máy.”
"Đúng vậy," Duffield đáp. Anh ta bắt đầu rị mọ một cái lỗ quần jeans rách ở đầu gối, loay hoay như trẻ con. "Thì tôi bận. Lúc đó tôi đang làm việc. Đang viết bài hát. Không muốn dừng lại. Mất hứng sao.”
"Vậy lúc đó anh không biết Lula gọi?”
"Có biết. Tôi có thấy số hiện lên." Anh ta miết ngón tay lên mũi, duỗi chân gác lên bàn, khuỳnh tay lại rồi nói. "Tôi muốn dạy cho Lu một bài học, để cô ta hoang mang không biết tôi đang làm gì.”
"Tại sao anh nghĩ cô ta cần một bài học?”
"Cái tay rap riếc chết tiệt đó. Tôi muốn cô ta dọn vào ở chung với tôi khi tay đó tới London. 'Đừng có ngớ ngẩn vậy, anh không tin em sao?' Duffield ngoa ngoắt giả giọng nói và điệu bộ Lula. Tôi nói với cô ấy, 'Chính cô mới đừng có ngớ ngẩn thì có. Vậy thì chứng tỏ là tôi không có gì để lo đi, dọn vô ở chung với tôi đi.' Nhưng cô ấy không dọn đi đâu cả. Vậy nên tôi nghĩ, muốn chơi thì chơi luôn cưng. Để xem cô ta chịu được không. Tôi rủ Ellie Carreira về nhà, cùng viết nhạc rồi sau đó kéo Ellie đi Uzi. Lu cóc nói năng gì được. Công việc mà. Chỉ là viết nhạc chung thôi. Chỉ là bạn bè, như cô ta và cái tay nhạc sĩ rap dân anh chị đó.”
"Tôi không nghĩ Lula đã gặp Deeby Macc.”
"Chưa gặp, nhưng ông ta đã tuyên bố rùm beng rồi, không phải vậy sao? Anh nghe bài hát ông ta viết chưa? Cô ta nghe bài đó sướng mê tơi.”
"Con kia có là gì…" Ciara sốt sắng trích dẫn, nhưng lập tức im bặt khi bắt gặp cái lườm nguýt ghê gớm của Duffield.
"Cô ấy có để lại tin nhắn gì cho anh không?”
"Có vài tin. ‘Evan làm ơn gọi ngay cho em. Việc gấp lắm. Không nói trên điện thoại được.’ Lúc nào cũng gấp với chả khẩn, nhưng tôi thừa biết là chỉ muốn xem tôi đang làm gì. Cô ta biết là tôi đang bực lắm, chắc sợ tôi gọi cho Ellie. Cô ta rất ghét Ellie, vì biết tụi tôi từng ngủ với nhau."
"Cô ấy nói là việc gấp, và không muốn nói trên điện thoại kia mà?”
"Đúng vậy, nhưng cô ta nói vậy chỉ để tôi gọi lại. Một trong mấy trò của Lu. Cô nàng ghen nổ đĩa. Với cả lúc nào cũng ưa ép người ta.”
"Anh có thể nghĩ ra lý do vì sao ngay trong hôm đó, Lula cũng liên tục gọi điện cho ông cậu không?”
"Ông cậu nào kia?”
"Tony Landry, cũng là luật sư.”
"Ông đó hà? Lu không gọi ông ta đâu, cô ta ghét ổng còn hơn ghét ông anh nữa.”
"Cô ấy có gọi, liên tục, cùng thời gian gọi cho anh. Cũng để lại tin nhắn tương tự như vậy.”
Duffield đưa mấy ngón tay cáu ghét lên gãi cằm chưa cạo, nhìn Strike trừng trừng.
"Tôi không biết gì cả. Chắc chuyện bà già. Phu nhân B già sắp đi viện hay gì đó.”
"Anh không nghĩ là sáng hôm đó đã có chuyện gì có thể liên quan tới cả anh và ông cậu của Lula?”
"Làm quái gì có chuyện cùng liên quan tới cả tôi và ông cậu chết tiệt đó," Duffield. "Tôi có gặp ổng. Ổng chỉ quan tâm tới giá cổ phiếu thôi chớ có gì khác.”
"Có lẽ là chuyện liên quan tới Lula, chuyện gì đó riêng tư chẳng hạn?”
""Nếu vậy thì cô ta đã không gọi cho cái lão già dịch kia. Hai người không ưa gì nhau cả.”
"Tại sao anh nói vậy?”
"Ông cậu đó với Lula như ông già tôi với tôi vậy. Cả hai lão đều coi tụi tôi như rác thối.”
"Cô ấy có bao giờ nói chuyện đó với anh không?”
"Có chứ. Ông ta nghĩ là bệnh tâm thần của Lu chỉ là mấy trò gây sự chú ý, rồi nào là cô ta phá phách hư hỏng. Làm bộ làm tịch. Gánh nặng cho bà già. Tới khi cô ta kiếm ra tiền thì ông ta lại xun xoe o bế, nhưng Lu không quên được chuyện cũ.”
"Khi gặp anh ở Uzi, Lula không giải thích tại sao trước đó gọi diện anh à?”
"Không," Duffield đáp. Anh ta châm một điếu thuốc nữa. "Mới vào tới nơi cô ta đã điên lên rồi, vì Ellie cũng có mặt. Không ưa chút nào cả. Chưa gì đã nổi khùng, đúng không?”
Lần đầu tiên anh ta nhìn về phía Ciara, tìm sự hưởng ứng. Ciara gật đầu buồn bã.
"Cô ta hầu như chẳng nói gì với tôi," Duffield đáp. "Chủ yếu là nói chuyện với cô thôi, đúng không?”
"Đúng vậy," Ciara đáp. "Looly cũng không kể với em là có chuyện làm cổ buồn hay gì cả.”
"Có người nói với tôi là điện thoại của Lula bị nghe lén…" Strike bắt đầu dò hỏi. Duffield nói ngay, lấp lời hắn.
"Đúng vậy, tụi nó nghe tin nhắn của hai đứa tôi cả mấy tuần. Tụi nó biết hết tụi tôi gặp nhau ở đâu, cái quái gì cũng biết. Đám khốn khiếp. Tụi tôi đổi số điện thoại, rồi sau đó để lại tin nhắn gì cũng rất cẩn thận.”
"Vậy nên cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Lula nói không thể nói chuyện trên điện thoại, nếu đúng là cô ấy có chuyện quan trọng hay buồn bực cần nói với anh?”
"Đúng vậy, nhưng nếu có chuyện gì quan trọng thực sự thì cô ta đã nói với tôi ngay tại hộp đêm.”
"Nhưng cô ấy chẳng nói gì cả?”
"Không, tôi nói rồi đó, cả đêm đó cô ta không nói năng gì cả." Cơ hàm Duffield giật giật trên gương mặt góc cạnh. "Cô ta cứ nhìn đồng hồ mãi. Tôi biết cô ta đang làm gì: rõ là cố chọc tức tôi. Cố tỏ ra là cô ta không thể chờ đến giờ về nhà để gặp tay Deeby Macc chứ gì. Cô ta đợi Ellie đi vào nhà vệ sinh; rồi đứng dậy tới nói với tôi là cô ta đi về, rồi nói muốn trả lại cái vòng hôm lễ cam kết. Cô ta vứt cái vòng xuống bàn, ngay trước mặt tôi, mặc cho thiên hạ trố mắt nhìn. Vậy là tôi nhặt lên rồi nói ‘Có ai muốn lấy không, đằng nào cũng vứt mà?’ rồi cô ta biến.”
Nghe anh ta nói, Strike có cảm giác như Lula chưa hề chết cách đây ba tháng. Như thể mọi thứ vừa mới diễn ra hôm qua và vẫn còn có cơ hội hàn gắn.
"Sau đó anh cố giữ cô ấy ở lại mà, đúng không?" Strike hỏi.
Duffield nheo mắt.
"Cố giữ?”
"Theo lời nhân chứng lúc đó anh chụp lấy cánh tay của Lula.”
"Có vậy hả? Tôi không nhớ.”
"Nhưng cô ấy vùng ra được. Anh không đuổi theo ngay, đúng vậy không?”
"Tôi đợi mười phút, vì tôi không muốn làm cô ta hả hê trước mặt đám người đó. Sau đó tôi đi về, nói lái xe chở thẳng đến Kentigern Gardens.”
"Có đội mũ chó sói," Strike nói.
"Đúng vậy, để tránh đám ruồi nhặng," anh ta gật đầu về phía cửa sổ, "tụi nó chuyên bán chác mấy tấm hình chụp tôi say xỉn hay đang giận dữ. Bọn săn ảnh rất ghét những người che mặt. Vì làm vậy tụi nó không ăn bám kiếm tiền được. Có đứa còn cố kéo mặt nạ của tôi ra, nhưng tôi giữ lại được. Tôi chui vào xe, đội mũ chó sói, chĩa ngón giữa vào mặt tụi nó cho tụi nó chụp vài pô. Đi tới góc phố ở Kentigern Gardens thì lại thấy tụi nó ở khắp nơi. Nên tôi biết là cô ta đã về tới nhà.”
"Anh có biết mật mã khoá cửa không?”
"Một chín sáu sáu, biết chứ. Nhưng tôi cũng biết là cô ta đã dặn ông bảo vệ không cho tôi lên nhà. Tôi không muốn đi vào ngay trước mũi tụi nó, để rồi bị đuổi ra chỉ sau năm phút. Tôi cố gọi điện cho cô ta từ trong xe, nhưng cô ta không cầm máy. Tôi nghĩ chắc cô ta xuống tầng dưới đón thằng cha Deeby Macc rồi. Vậy là tôi đi kiếm vài tép.”
Anh ta dụi đầu thuốc xuống một lá bài lẻ cạnh bàn, rồi loay hoay tìm thuốc lá tiếp. Strike mời anh ta một điếu, để câu chuyện được tiếp tục.
"Ồ, ngon lành. Cám ơn nhé. Vậy là tôi nói tài xế thả xuống, rồi tôi đi thăm người bạn, thằng này cũng đã khai đầy đủ với cảnh sát, xét về khía cạnh đó - nếu anh muốn nói như giọng điệu ông cậu Tony vậy. Rồi tôi đi lang thang một lúc, có đoạn phim trong trạm đổ xăng làm chứng, rồi khoảng… tôi cũng không rõ nữa, khoảng ba giờ? Hay bốn giờ?”
"Bốn giờ rưỡi," Ciara lên tiếng.
"Đúng vậy, bốn giờ rưỡi tôi ghé lại chỗ Ciara để ngủ.”
Duffield rít thuốc, ngắm nghía đầu thuốc cháy lên, rồi thở ra và tươi tỉnh nói:
"Vậy tôi không dính gì hết, đúng không?”
Strike không ưa gì vẻ thoả mãn trên gương mặt anh ta.
"Vậy anh biết Lula chết lúc nào?”
Duffield lại co chân lên ngực.
"Ciara đánh thức tôi dậy để báo. Tôi không thể… tôi… thật khốn nạn. Mẹ kiếp.”
Anh ta choàng hai cánh tay lên đầu rồi nhìn lên trần nhà.
"Tôi đếch… đếch tin nổi. Đếch tin nổi.”
Strike tiếp tục quan sát. Như thể Duffield vừa nhận ra rằng cô gái mà anh ta vừa xấc xược nói đến, người mà anh ta vừa yêu thương, vừa cố tình khiêu khích, nhạo báng, sẽ không bao giờ quay trở lại. Thân xác cô ta đã tan nát trên mặt đường phủ tuyết, không còn cách gì cứu vãn Lula lẫn mối quan hệ của hai người. Trong giây lát, Duffield nhìn trân trối lên trần nhà sơn trắng, gương mặt anh ta trông méo mó, như đang cố cười ngoác ra mà thực chất là nhăn mặt đau đớn, cố ghìm lại những giọt nước mắt. Hai cánh tay buộc ra, anh ta cúi mặt xuống, trán tì lên đầu gối.
"Ôi, cưng ơi," Ciara lên tiếng, đặt ly rượu đánh cộc xuống bàn rồi đặt tay trên đầu gối xương xẩu của Duffield.
"Vụ này làm tôi điên thật," Duffield nói, giọng vọng ra từ hai cánh tay, khàn khàn. "Điên hết rồi. Tôi muốn cưới cô ta. Tôi yêu cô ta, tôi yêu cô ta thật. Khốn nạn, tôi không muốn nói chuyện này nữa.”
Anh ta ngồi bật dậy và rời khỏi phòng, sụt sùi thành tiếng rồi quẹt mũi vào tay áo.
"Nói rồi mà." Ciara thì thầm với Strike. "Ảnh đau khổ lắm.”
"Vậy hả, tôi không biết được. Có vẻ như anh ta ăn năn hối cải. Hơn một tháng không đụng tới heroin.”
"Biết mà, em không muốn ảnh bỏ cuộc giữa chừng.”
"Hỏi kiểu này nhẹ nhàng hơn nhiều so với bên cảnh sát. Vậy là lịch sự lắm rồi.”
"Nhưng mặt cưng trông khiếp quá. Thiệt tình, nhìn rất là nghiêm, như thể cưng không tin lời ảnh chút nào hết.”
"Cô nghĩ anh ta có quay lại không?”
"Có chứ, đương nhiên rồi. Cưng làm ơn nhẹ nhàng hơn chút…”
Cô ta nhanh chóng ngồi xuống ghế khi Duffield trở lại. Trông mặt anh ta dữ dằn, điệu bộ bớt ẻo lả một chút. Anh ta thả người xuống chiếc ghế khi nãy vừa ngồi, rồi nói với Strike:
"Thuốc hết rồi. Cho điếu nữa được không?”
Strike ngập ngừng, hắn chỉ còn ba điếu. Hắn đưa anh ta một điếu, châm giúp rồi nói:
"Nói tiếp được không?”
"Về Lula hả? Anh cứ nói, nếu anh muốn. Tôi không biết còn nói thêm được chuyện gì nữa, tôi chẳng còn gì khác để nói.”
"Tại sao hai người chia tay? Lần đầu tiên đó, còn lần ở Uzi thì tôi hiểu rồi.”
Hắn thoáng thấy Ciara đưa tay ra dấu bực tức, hình như câu hỏi vừa rồi không thể coi là "nhẹ nhàng hơn.”
"Chuyện đó thì liên quan quái gì?”
"Đều có liên quan hết," Strike nói. "Để hình dung được lúc đó cuộc sống của Lula ra sao. Có thể giải thích vì sao cô ấy tự tử.”
"Tôi tưởng anh đang đi tìm thủ phạm giết người?”
"Tôi đi tìm sự thật. Vậy tại sao hai người chia tay, lần đầu tiên?”
"Khốn kiếp, mắc mớ quái gì?" Duffield bùng nổ. Như Strike đã dự đoán, tính khí Duffield bạo lực, dễ nổi nóng. "Gì nữa hả, anh đang cố chứng tỏ tôi làm cô ta phải nhảy lầu hả? Chuyện đó thì liên quan gì, anh bị đần hả? Tụi tôi chia tay lần đầu tiên từ cả hai tháng trước khi cô ta chết. Mẹ kiếp, cỡ này thì tôi làm thám tử cũng được, cứ đi hỏi mấy câu vớ vẩn là xong. Chắc kiếm được lắm hả, nếu vớ được mấy tay thân chủ giàu sụ điên khùng?”
"Thôi mà Evan," Ciara lên tiếng, lo sợ. "Anh nói anh muốn giúp…”
"Thì tôi muốn giúp, nhưng như thế này thì công bằng chỗ nào?”
"Không sao cả, nếu anh không muốn trả lời," Strike đáp. "Anh không phải trả lời gì cả.”
"Tôi cóc có gì phải giấu, chỉ vì nó riêng tư thôi, được chưa? Tụi tôi chia tay," anh ta hét lên, "vì ma tuý, vì gia đình và bạn bè của cô ta suốt ngày nói xấu tôi, và vì báo chí làm cô ta không tin được ai cả, được chưa? Vì tất cả mọi thứ áp lực.”
Duffield co rúm hai bàn tay thành cặp móng vuốt run rẩy, rồi ép mạnh vào tai.
"Áp lực, đủ thứ áp lực khốn kiếp, vì vậy mà tụi tôi chia tay.”
"Lúc đó anh dùng ma tuý nhiều lắm hả?”
"Đúng vậy.”
"Lula bực chuyện đó?”
"Thực ra do mọi người chung quanh cứ lải nhải vậy mãi, anh hiểu không?”
"Ai kia?”
"Thì gia đình cô ta, rồi tay Guy Somé. Thằng khốn ẽo ợt đó.”
"Khi anh nói là báo chí làm cô ấy không tin được ai cả, ý anh là sao?”
"Hử, còn chưa rõ sao? Ông già anh không kể gì sao?”
"Tôi đếch biết gì về bố tôi cả." Strike lạnh lùng nói.
"Tụi nó nghe trộm điện thoại của cô ta, anh hiểu chưa, làm cô ta hoang mang. Bộ anh không có trí tưởng tượng hả? Cô ta bắt đầu nghi ngờ lung tung hết người này đến người kia đã bán cô ta cho báo. Rồi cố nhớ xem đã nói gì, không nói gì trên điện thoại, rồi ai có thể xì ra, kiểu vậy. Cô ta điên cả đầu.”
"Cô ấy có nói là anh đi bán cô ấy cho báo không?”
"Không," Duffield hét lên, rồi, tiếp tục giận dữ, "Mà có, thỉnh thoảng. Làm sao họ biết tụi mình sẽ tới đây, làm sao họ biết em nói với anh… lu loa nhức óc. Tôi có nói với cô ta, nổi tiếng thì phải chịu vậy, không phải sao. Nhưng cô ta thì cái gì cũng muốn.”
"Nhưng anh không hề bán chuyện của Lula cho báo?”
Strike nghe tiếng Ciara hít một hơi, sợ hãi.
"Không tôi đếch bán buôn gì cả," Duffield nói, nhỏ giọng, nhìn Strike không chớp mắt. "Đếch bán gì hết. Được chưa?”
"Hai người chia tay bao lâu?”
"Khoảng hai tháng.”
"Nhưng rồi quay lại, chỉ khoảng một tuần trước khi cô ấy chết?”
"Đúng vậy. Ở tiệc của Mo Innes.”
"Và bốn mươi tám tiếng đồng hồ sau thì làm lễ cam kết? Ở nhà của Cadbury ở Cotswolds?”
"Đúng.”
"Có ai biết trước vụ đó không?”
"Chỉ là ngẫu hứng thôi. Tôi mua cặp vòng, rồi tụi tôi làm luôn. Tuyệt lắm, phải nói.”
"Đúng vậy," Ciara buồn bã hưởng ứng.
"Vậy nên nếu báo chí biết được chuyện đó ngay thì hẳn một người khách có mặt ở đó đã để lộ?”
"Chắc vậy.”
"Bởi vì điện thoại của anh không còn bị nghe lén nữa mà, đúng không? Anh đã đổi điện thoại rồi.”
"Tôi làm sao biết có bị nghe lén hay không. Anh đi mà hỏi đám lợn háo tin đó.”
"Cô ấy có nói gì với anh về chuyện đi tìm cha không?”
"Ông đó chết rồi… à, ý anh là cha ruột hả? Có, cô ta rất muốn tìm, nhưng không được mà, phải vậy không? Mẹ cô ta còn không biết ông ta là ai.”
"Cô ấy không hề kể với anh là có tìm ra manh mối gì sao?”
"Cô ta rất cố tìm, nhưng không tới đâu hết, rồi cô ta quyết định sẽ học một khoá nghiên cứu về châu Phi. Cứ như thể cả châu Phi là cha của cô ta vậy. Lại tay Somé khốn nạn đi khuấy nước chọc bùn, như thường lệ.”
"Là sao?”
"Với Somé, bất cứ chuyện gì làm cô ta tránh xa tôi đều tốt cả. Bất cứ chuyện gì kéo hai đứa tôi lại gần nhau. Ông ta rất ích kỷ mỗi khi đụng tới Lula. Ông ta đắm đuối Lula. Tôi biết ông ta là dân bóng," Duffield vội nói thêm khi thấy Ciara sắp lên tiếng phản đối, "nhưng tôi biết khối tay bóng vẫn ưa giành gái như thường. Thứ gì ông ta cũng chơi được, miễn là đàn ông, nhưng ông ta vẫn muốn có Lula kè kè một bên. Chỉ cần cô ta không tới gặp thì nổi đoá lên, không muốn cô ta làm việc cho ai khác.
"Ông ta ghét cay ghét đắng tôi. Cứ hằm hè suốt. Ông ta gạ gẫm Lu dính với Deeby Macc. Suốt ngày tơ tưởng chuyện hai người đó phang nhau. Làm tôi điên cả đầu. Cứ phải nghe đi nghe lại mấy chuyện đó suốt. Rồi bắt Lu giới thiệu tay đó cho ông ta, để mà tặng quần áo, để báo chí chụp hình hắn ta mặc đồ GS. Somé không hề ngu. Ông ta lợi dụng Lu để làm ăn. Cố kèo nhèo để Lu chịu làm giá rẻ, làm không công. Còn cô ta thì ngốc nghếch nên bị lợi dụng.”
"Không phải Somé tặng anh mấy thứ đó hả?" Strike hỏi, chỉ tay về phía đôi găng tay đen bằng da đặt trên bàn nước. Hắn nhận ra logo GS mạ vàng nhỏ xíu đính trên đó.
"Gì kia?”
Duffield rướn người, với ngón trỏ móc một chiếc găng lên ngang mặt, đung đưa quan sát.
"Mẹ kiếp, anh nói đúng. Vậy thì vứt," rồi anh ta vứt chiếc găng tay vào trong góc, đụng ngay vào dây đàn guitar làm nó vang lên một tiếng trống rỗng. "Tôi giữ lại sau khi chụp tấm đó," Duffield nói, chỉ tay vào bìa tạp chí đen trắng. "Somé đời nào cho tôi cái gì. Anh còn thuốc không?”
"Hết rồi," Strike nói dối. "Giờ anh sẽ giải thích vì sao anh mời tôi về nhà chứ, Evan?”
Im lặng một lúc lâu. Duffield liếc nhìn Strike, có vẻ như biết hắn vừa nói dối vụ đã hết thuốc. Ciara cũng nhìn hắn, đôi môi hé mở, đẹp hoang mang.
"Vì sao anh nghĩ là tôi có chuyện muốn nói với anh?" Duffield cười nhạo.
"Tôi không nghĩ anh rủ tôi về nhà vì thích tôi.”
"Biết đâu đó," Duffield đáp, giọng châm chích. "Chắc vì tôi tưởng anh cũng vui tính, như ông già anh?”
"Evan," Ciara nạt nộ.
"Được thôi, nếu anh không muốn nói gì với tôi…" Strike nói, chống tay đứng lên. Ciara cũng đặt ly rượu đã cạn xuống, xếp chân chuẩn bị đứng dậy. Strike hơi ngạc nhiên, còn Duffield thì bực ra mặt.
"Được rồi," Duffield giật giọng. "Có chuyện này.”
Strike ngồi xuống ghế trở lại. Ciara đưa cho Duffield một điếu thuốc, anh ta cầm lấy, lẩm bẩm cảm ơn. Cô ta cũng ngồi xuống, chăm chú nhìn Strike.
"Nói đi," Strike lên tiếng, khi Duffield vẫn còn loay hoay bật lửa.
"Được rồi. Tôi không biết chuyện này có quan trọng không," tay diễn viên nói. "Nhưng tôi không muốn anh tiết lộ lấy thông tin ở đâu.”
"Không đảm bảo được chuyện đó," Strike đáp.
Duffield quắc mắt, hai đầu gối lại giật lia lịa, vừa hút thuốc vừa nhìn xuống sàn nhà. Strike thoáng thấy Ciara vừa mở miệng định nói gì đó, hắn đưa tay lên cản lại.
"Chuyện là," Duffield nói. "Hai hôm trước tôi đi ăn trưa với Freddie Bestigui. Ông ta để cái BlackBerry trên bàn rồi đi tới quầy bar." Duffield phả khói thuốc, khẽ lắc người. "Tôi không muốn bị đuổi việc," anh ta nói, nhìn Strike chằm chằm. "Tôi cần cái công việc khốn nạn này.”
"Nói đi," Strike tiếp.
"BlackBerry báo có email. Tôi thấy có tên Lula. Vậy là tôi đọc.”
"OK.”
"Email của bà vợ. Nói đại loại là ‘Tôi biết là đáng ra phải nói chuyện qua luật sư, nhưng ông mà không chịu trả hơn 1.5 triệu bảng thì tôi sẽ nói với mọi người chính xác tôi ở đâu khi Lula Landry chết, rồi làm sao mà phải ở đó, vì tôi quá ngán ngẩm chuyện phải nói đỡ cho ông rồi. Tôi không doạ suông. Tôi đang nghĩ đằng nào cũng nên nói với cảnh sát.’ Đại khái vậy," Duffield nói.
Từ cửa sổ vọng vào tiếng vài tay săn ảnh đang cười giỡn với nhau.
"Thông tin rất có ích," Strike nói với Duffield. "Cám ơn anh.”
"Tôi không muốn Bestigui biết là tôi nói chuyện này với anh.”
"Anh không phải lo," Strike nói, lại đứng dậy. "Cảm ơn đã mời nước.”
"Gượm đã cưng ơi, em cũng đi luôn," Ciara nói, áp điện thoại lên tai. "Kieran? Chuẩn bị ra đây, Cormoran với tôi. Ngay giờ đây. Tạm biệt cưng nha, Evan.”
Cô ta cúi xuống hôn Duffield ở cả hai bên má, anh ta chỉ vừa kịp nhấc người dậy, mặt mày chưng hửng.
"Cô cứ ngủ lại nếu cô...”
"Không được cưng ơi. Chiều mai có buổi chụp hình; phải về ngủ để dưỡng da," cô ta đáp.
Khi Strike bước ra ngoài ánh đèn flash lại chớp liên tục làm hắn loá cả mắt; nhưng đám paparazzi tỏ vẻ bối rối. Lúc hắn đỡ Ciara xuống bậc tam cấp, rồi vào xe ngay sau cô ta, một tên hét lên: "Tay quỉ nào vậy?”
Strike đóng sầm cửa lại, nhe răng cười. Kolovas-Jones ngồi vào ghế tài xế; chiếc xe rời xa vỉa hè, lần này không có ai chạy theo cả.
Xe chạy hết một dãy phố, không ai nói năng gì. Kolovas-Jones nhìn vào kính chiếu hậu, hỏi Ciara:
"Về nhà chứ?”
"Chắc vậy. Bật radio được không Kieran? Xin chút nhạc," cô ta nói. "Bật to nữa đi cưng. Ồ, bài này nghe thích quá.”
Trong xe vang lên bài Telephone của Lady Gaga.
Cô ta quay sang nhìn Strike, ánh đèn đường màu cam lướt trên gương mặt tuyệt đẹp của Ciara. Hơi thở của cô ta có mùi rượu, làn da vương vấn mùi nước hoa ngọt ngào, cay nồng.
"Cưng không muốn hỏi em gì nữa hả?”
"Biết sao không?" Strike nói. "Thêm câu này nữa. Lớp lót tháo rời được trong túi xách là để làm gì vậy?”
Cô ta nhìn sững hắn trong vài giây, bật cười, ngả người lên vai hắn, rồi khẽ hích khuỷu tay. Thân hình mềm mại, mỏng manh của Ciara dựa hẳn vào Strike. Cô ta nói:
"Cưng đúng là hài hước.”
"Nhưng để làm gì chứ?”
"Thì làm cho cái túi có vẻ riêng tư hơn vậy mà; có thể thay đổi được, anh hiểu không, có thể mua vài lớp lót khác màu rồi đổi qua đổi lại; không thì rút ra làm thành cái khăn quàng cổ, vải đẹp lắm. Lụa, có hoa văn cực xinh. Dây khoá may viền quanh, rất là rock-and-roll.”
"Hay thật," Strike nói. Cô ta gác chân lên chân hắn, rồi lại bật cười khoái trá.
Call all you want, but there's no one home[1], Lady Gaga vẫn hát trên đài.
[1. Anh cứ gọi đi, nhưng làm gì có ai ở nhà.]
Tiếng nhạc che lấp cuộc trò chuyện của hai người, nhưng mắt Kolovas-Jones thì liếc liên tục vào kính chiếu hậu một cách không cần thiết. Một phút sau, Ciara lên tiếng:
"Guy nói đúng. Em thích mấy tay to con thiệt. Cưng rất là dữ dằn. Rồi lại nghiêm nữa. Sexy chỗ đó.”
Xe chạy tiếp một dãy phố nữa. Ciara thì thầm:
"Nhà cưng ở đâu?”, rồi áp gò má mịn như lụa vào mặt hắn, nũng nịu như mèo.
"Tôi ngủ trên giường xếp trong văn phòng.”
Cô ta lại khúc khích. Rõ là cô đang chếnh choáng.
"Cưng nói thiệt hả?”
"Ừ.”
"Vậy về nhà em nhé?”
Lưỡi cô ta mát rượi, ngọt ngào, có vị Pernod.
"Cô ngủ với ông già tôi chưa?" hắn kịp hỏi trước khi cô ta áp sát môi vào môi hắn.
"Không… trời đất… không có chuyện đó…" Lại bật cười khúc khích. "Ổng nhuộm tóc… nhìn gần giống màu tím… Em hay gọi ổng là trái mận khô biết chơi rock…”
Và rồi mười phút sau đó, một giọng nói sáng suốt vang lên trong đầu hắn, khuyên nhủ đừng có yếu lòng để rồi phải xấu hổ, hắn rướn người dậy, lấy hơi rồi nói thầm:
"Tôi chỉ còn một chân thôi.”
"Đừng đùa nữa…”
"Tôi không đùa… bị bom nổ ở Afghanistan.”
"Tội cưng quá…" cô ta thì thầm. "Để em xoa cho đỡ đau nha.”
"Ừ… xoa nhầm chỗ rồi…. nhưng đỡ đau thật…”
9
Robin chạy rầm rầm lên cầu thang sắt, chân vẫn nguyên đôi giày gót thấp đã mang suốt từ hôm qua. Hai mươi tư tiếng đồng hồ trước, vì không sao gạt khỏi đầu hình ảnh hấp dẫn của chàng "thám tử vườn đi giày cỏ”[1], cô đã chọn đôi giày tuềnh toàng nhất đi khắp chốn. Rồi hôm nay, sau khi làm được một số việc đáng kể, Robin trở nên vô cùng phấn khích, đến nỗi đôi giày đen cũ kỹ giờ với cô cũng lung linh không khác gì giày thuỷ tinh của Lọ Lem. Háo hức muốn kể cho Strike nghe tất cả những việc vừa làm được, cô đi như chạy qua phố Denmark, băng ào qua những đống gạch đá dưới nắng ấm. Robin tin chắc rằng những phát hiện xuất sắc ngày hôm qua sẽ khiến cả hai vô cùng phấn khích và khoả lấp hết mọi sự ngượng ngùng còn vương lại từ vụ say xỉn bê tha của Strike hai đêm trước.
[1. Nguyên gốc tiếng anh "gumshoe": giày đế mềm, ngoài ra còn có nghĩa tiếng lóng là thám tử tư - ND]
Nhưng khi lên đến tầng hai, Robin sững lại. Lần thứ ba, cánh cửa gương bị khoá, văn phòng bên trong tối om, im ắng lạ thường.
Cô mở cửa vào trong, nhanh chóng quan sát một vòng. Cửa phòng Strike vẫn mở. Chiếc giường xếp được gấp lại ngay ngắn. Trong thùng rác không có tàn tích của bữa ăn đêm trước. Màn hình máy tính tối đen, ấm đun nước nguội lạnh. Robin buộc phải rút ra kết luận là đêm qua Strike đã không về nhà.
Cô treo áo khoác lên móc, rút ra một cuốn sổ nhỏ từ trong túi xách và bật máy tính lên. Robin cố lần lữa đợi thêm vài phút xem Strike có trở lại không, cuối cùng đành bắt tay gõ lại tóm tắt những việc đã làm được. Vậy mà đêm trước cô hầu như không ngủ được vì háo hức muốn gặp Strike để kể hết cho hắn nghe. Mất hứng quá, bực cả mình. Tên sếp tạm đi đâu mà vẫn chưa về?
Tay vẫn gõ lia lịa trên bàn phím, tự dưng Robin nghĩ đến một khả năng chẳng hay ho gì. Rõ là Strike tan nát cõi lòng sau khi nghe tin bồ cũ đính hôn, biết đâu hắn ta đã chạy đến cầu xin cô nàng đừng có lấy cái anh chàng kia nữa? Chẳng phải hôm đó hắn đã hét to trước cả phố Charing Cross rằng Charlotte không hề yêu Jago Ross sao? Biết đâu đấy, biết đâu Charlotte đã lại sà vào vòng tay của Strike, rồi hai người đã làm lành, giờ đây đang ôm nhau ngủ trong căn nhà mà Strike vừa bị đuổi ra cách đây bốn tuần? Robin nghĩ đến mấy câu bóng gió của Lucy khi nhắc đến Charlotte. Nếu hai người quay lại thật thì chắc công việc của cô cũng chẳng còn được bao lâu. Nhưng không hề gì, Robin tự nhắc mình, tay vẫn tức tối gõ phím, liên tục mắc lỗi, sự thuần thục ngày thường đi đâu mất cả. Một tuần nữa là đi hẳn rồi. Nhưng suy nghĩ đó lại càng làm cho Robin thấy bức xúc.
Ngược lại, cũng rất có thể Strike đã đến tìm Charlotte rồi bị cô ta đuổi thẳng cổ. Như vậy, chuyện "giờ này anh ở đâu?" trở nên cấp bách hơn, không còn là chuyện riêng tư nữa. Biết đâu sau đó, hắn lại đi uống, không có ai ở bên coi chừng, rồi lại say xỉn bét nhè thì sao? Ngón tay gõ phím chậm lại rồi dừng hẳn, ngay giữa một câu dang dở. Cô quay ghế, nhìn về phía chiếc điện thoại để bàn nằm im lìm.
Có thể cô là người duy nhất biết được rằng Cormoran Strike đã tạm thời mất tích. Có lẽ cô nên gọi vào máy di động cho hắn? Rồi nếu hắn không bốc máy thì sao? Phải đợi bao nhiêu tiếng đồng hồ mới báo cho cảnh sát? Cô thoáng nghĩ đến việc gọi điện cho Matthew, nhưng dẹp ngay ý định đó.
Đêm đó Matthew và Robin đã cãi nhau khi cô về tới nhà rất trễ, sau khi phải dìu tên Strike say xỉn từ quán Tottenham về lại văn phòng. Matthew lại càm ràm rằng cô thật ngây thơ, dễ bị ảnh hưởng và quá thương người. Rằng Strike chỉ nhăm nhe kiếm một cô thư ký giá rẻ, nên mới lợi dụng lòng thương người của cô như vậy; rằng chẳng có Charlotte Char-liếc gì cả, tất cả chỉ là một âm mưu để lấy lòng và ép cô tận tụy thêm vì hắn mà thôi. Robin giận sôi lên, cô đáp trả rằng người đang muốn ép cô chính là Matthew, vì anh ta suốt ngày ra rả chuyện đáng ra cô phải kiếm được bao nhiêu, rồi cứ bóng gió chuyện cô không làm ra nhiều tiền như anh ta. Chẳng lẽ anh ta không thấy được là cô rất thích làm việc cho Strike, chẳng lẽ đầu óc kế toán hẹp hòi, khô khan của anh ta không nhận ra rằng cô đang sợ phải đối mặt với công việc nhân sự cực kỳ nhàm chán? Matthew sửng sốt nghe cô nói, rồi tỏ ý ăn năn (mặc dù vẫn giữ ý chê bai hành vi của Strike). Ngày thường Robin là người dễ chịu, luôn dĩ hoà vi quý. Nhưng Matthew đã xin lỗi rồi mà cô vẫn thấy xa cách và giận dữ. Sáng hôm sau, mặc dù đã làm lành, hai người (mà chủ yếu là Robin) vẫn còn khá cay cú.
Giờ đây, trong cảnh im lặng đến phát ngốt, nhìn chiếc điện thoại, tự dưng Robin giận lây sang cả Strike. Hắn đang ở đâu? Đang làm gì? Tại sao hắn cứ muốn chứng tỏ Matthew nói đúng, rằng hắn là kẻ vô trách nhiệm? Cô thì ngồi cố thủ ở đây, còn hắn thì mải chạy theo người cũ, chẳng màng gì đến công việc chung…
… công việc của hắn thì đúng hơn….
Có tiếng bước chân lên cầu thang. Robin thoáng nhận ra nhịp chân hơi chông chênh của Strike. Cô chờ đợi, nhìn về phía cầu thang, cho tới khi chắc chắn tiếng bước chân vẫn tiếp tục vang lên sau khi đã đi qua tầng một. Cô quay hẳn ghế nhìn vào màn hình máy tính, gõ phím liên tục, trống ngực đập thình thịch.
"Chào cô.”
"Chào.”
Cô liếc nhanh về phía Strike rồi tiếp tục gõ phím. Trông hắn mệt mỏi, râu ria chưa cạo, nhưng ăn mặc bảnh bao khác thường. Ngay lập tức cô đoán ắt hẳn hắn đã cố làm lành với Charlotte, mà xem chừng đã thành công. Hai câu tiếp theo trong văn bản đầy lỗi đánh máy.
"Sao rồi?" Strike hỏi, để ý thấy vẻ nghiêm nghị, lạnh lùng của cô.
"Tốt." Robin đáp.
Cô định sẽ trình bản báo cáo hoàn hảo ngay trước mặt hắn, rồi sẽ lạnh lùng thông báo chuyện nghỉ việc sau một tuần nữa. Cô sẽ đề nghị rằng ngay trong tuần này hắn nên thuê một nhân viên tạm thời khác, để cô có thể bàn giao công việc trước khi nghỉ.
Chỉ vài giờ trước đó, Strike tự dưng "trúng số độc đắc" một cách ngoạn mục, sau một chuỗi những chuyện xui xẻo liên tục trong thời gian qua. Mấy tháng rồi hắn mới thấy vui vẻ như vậy. Hắn rất trông đến văn phòng để gặp cô thư ký. Strike hoàn toàn không có ý định chiêu đãi Robin bằng chuyện đêm qua hắn làm gì (đặc biệt là vụ "trúng số”, khiến hắn phục hồi lại chút tự ái đàn ông tưởng đã te tua). Hắn vốn kín tiếng trong những chuyện như vậy. Ngoài ra, hắn cũng muốn cứu vớt cái ranh giới nghiêm túc giữa hai người, hắn đã bị sứt mẻ khá nhiều sau trận say bia trong quán Tottenham. Tuy nhiên, Strike cũng đã chuẩn bị sẵn trong đầu bài xin lỗi về sự vụ hai đêm trước đó, thêm một lời cảm ơn sâu sắc và cuối cùng là khoe khoang những kết luận hay ho có được sau mấy cuộc phỏng vấn hôm qua.
"Uống trà không?”
"Không, cám ơn.”
Hắn nhìn đồng hồ.
"Tôi chỉ đi trễ có mười một phút thôi mà.”
"Anh muốn tới mấy giờ mà chẳng được. Ý tôi là," Robin cố vớt vát, nhận ra giọng điệu của mình thật hung hăng, "chuyện anh làm gì… à… đi làm mấy giờ không phải là việc của tôi.”
Vậy mà Robin đã tập dượt sẵn trong đầu vài câu đáp trả thật dịu dàng, rộng lượng, vì cô cứ tưởng gặp cô Strike sẽ rối rít xin lỗi về vụ say xỉn cách đây bốn mươi tám tiếng. Ngược lại, thái độ của hắn lúc này thật vô duyên, chẳng hề có chút xấu hổ ân hận gì cả.
Strike loay hoay với chiếc ấm đun và mấy tách trà. Vài phút sau hắn đặt xuống trước mặt Robin một tách trà bốc khói.
"Tôi đã nói là tôi không…”
"Cô đặt bản đánh máy quan trọng đó qua một bên, một phút thôi, để tôi nói cái này được không?”
Robin gõ phím ầm ầm để lưu văn bản, quay sang nhìn hắn, hai tay vòng lại trước ngực. Strike ngồi xuống chiếc ghế sofa cũ.
"Tôi muốn xin lỗi về chuyện đêm trước.”
"Không cần đâu," Robin đáp, nhỏ giọng, kiệm lời.
"Cần chứ. Tôi không nhớ rõ đã làm gì. Tôi chỉ mong là lúc đó tôi không be bét quá.”
"Không đâu.”
"Chắc cô cũng đoán ra chuyện gì rồi. Vợ chưa cưới của tôi vừa đính hôn với bồ cũ. Chỉ ba tuần sau khi tụi tôi chia tay cô ấy đã đeo nhẫn mới. Là nói văn hoa vậy thôi; chứ thật ra trước giờ tôi còn chưa mua nhẫn cho cô ấy. Tôi chưa bao giờ có đủ tiền mà mua.”
Nghe giọng hắn Robin đoán là hẳn hai người vẫn chưa làm lành, nhưng vậy thì tối hôm qua hắn ở đâu? Cô bất giác buông hai cánh tay xuống, cầm tách trà lên.
"Cô không có trách nhiệm đi tìm tôi như vậy, nhưng nếu không có cô hẳn tôi đã ngã xuống cống, hay đã đấm vỡ mặt ai đó. Vậy nên, cám ơn cô rất nhiều.”
"Không có gì," Robin đáp.
"À cảm ơn vụ Alka-Seltzer luôn," Strike nói tiếp.
"Có tác dụng không?" Robin hỏi, vẫn lạnh lùng.
"Sém chút nữa là tôi phun ra khắp chỗ này," Strike trả lời, nắm tay đấm nhè nhẹ vào chiếc ghế sofa sờn cũ, "nhưng uống xong một lúc thì đỡ hẳn.”
Robin bật cười. Strike chợt nhớ lại nội dung mẩu giấy cô luồn dưới khe cửa khi hắn đang ngủ và lý do cô đưa ra cho sự vắng mặt vô cùng tế nhị của mình.
"Được rồi, tôi đang rất mong được nghe cô báo cáo công việc hôm qua," hắn nói dối. "Đừng để tôi phải hồi hộp nữa.”
Robin tươi tỉnh hẳn lên, bừng nở như bông súng trên mặt hồ.
"Tôi đang gõ lại…”
"Cứ nói đã, rồi cô có thể lưu hồ sơ sau," Strike đáp, nghĩ thầm nếu phần Robin sắp nói chẳng có ích gì thì hắn sẽ gạt luôn ra khỏi hồ sơ.
"Ok," Robin nói, vừa hào hứng vừa hồi hộp. "Như tôi đã nhắn với anh, tôi đọc trong hồ sơ thấy anh đang muốn điều tra Giáo sư Agyeman và khách sạn Malmaison ở Oxford.”
Strike gật đầu, thấy nhẹ nhõm vì hắn không nhớ chi tiết đến vậy. Khi đọc mẩu giấy của Robin hắn vẫn còn say mờ mắt.
"Vậy là," Robin nói tiếp, thoáng hụt hơi, "đầu tiên tôi đến khu Russell Square, đến trường SOAS - Viện nghiên cứu Đông phương và Châu Phi, phải ý anh chỉ chỗ đó không?" Cô giải thích. "Tôi xem bản đồ: đúng là chỉ cách Bảo tàng Anh Quốc một khoảng đi bộ. Có một chỗ anh viết nhắc tới chi tiết này, đúng không?”
Strike lại gật đầu.
"Rồi tôi đi vào SOAS, giả vờ là đang viết luận văn về chính trị châu Phi và muốn có thông tin về Giáo sư Agyeman. Tôi gặp được một bà thư ký rất nhiệt tình trong khoa Chính trị, bà này từng làm việc cho giáo sư Agyeman, cho tôi rất nhiều thông tin về giáo sư, bao gồm danh mục sách và tiểu sử tóm tắt. Giáo sư từng học Đại học ở SOAS.”
"Thật sao?”
"Đúng vậy." Robin tiếp. "Tôi còn kiếm được hình nữa.”
Nói rồi cô rút từ trong cuốn sổ ra bản sao một tấm ảnh và đưa Strike xem.
Trong ảnh là một người đàn ông da đen, gương mặt dài, xương gò má cao, tóc đã ngả bạc cạo sát đầu. Ông ta đeo kính gọng vàng, hai tai lớn quá khổ. Strike nhìn tấm hình một lúc lâu. Cuối cùng, hắn thốt lên:
"Trời.”
Robin chờ đợi, hãnh diện.
"Trời." Strike lại thốt lên lần nữa. "Ổng chết khi nào vậy?”
"Năm năm trước. Bà thư ký rất buồn khi nói chuyện đó, kể là giáo sư rất thông minh, một người thật tử tế, tốt bụng. Một tín đồ Cơ-đốc mẫu mực.”
"Có gia đình gì không?”
"Có. Vợ và một người con trai.”
"Con trai," Strike lặp lại.
"Đúng vậy," Robin nói. "Tại ngũ”
"Tại ngũ," Strike buồn rầu lặp lại lời Robin. "Đừng nói..”
"Anh ta đang làm nhiệm vụ tại Afghanistan.”
Strike đứng dậy, đi tới đi lui trong phòng, tay vẫn cầm bức ảnh của giáo sư Josiah Agyeman.
"Cô không hỏi được đơn vị nào hả? Cũng không sao. Tôi có thể tìm được," hắn nói.
"Tôi có hỏi," Robin đáp, nhìn xuống sổ, "nhưng tôi không hiểu lắm… có đơn vị nào tên là Sappers hay gì đó không…?”
"Kỹ sư Quân đội Hoàng gia," Strike đáp. "Có manh mối này là tôi tìm thêm được rồi.”
Hắn dừng lại ngay bên cạnh bàn của Robin, nhìn tấm hình của Giáo sư Josiah Agyeman một lần nữa.
"Giáo sư là người gốc Ghana," Robin nói tiếp. "Nhưng gia đình đã định cư ở Clerkenwell từ lâu, cho tới khi ông ấy chết.”
Strike đưa tấm hình lại cho Robin.
"Coi chừng mất. Cô làm giỏi thật, Robin à.”
"Chưa hết," cô nói tiếp, mặt ửng đỏ, cố không mỉm cười mặc dù rất phấn chấn. "Buổi chiều tôi lấy tàu đi Oxford, đến khách sạn Malmaison. Anh biết không, khách sạn đó hồi trước là nhà tù, sau này mới cải tạo lại thành khách sạn?”
"Vậy hả?" Strike hỏi, từ từ ngồi xuống ghế sofa.
"Ừ. Thật ra cũng đẹp lắm. Tôi định sẽ đóng giả làm Alison, đến đó để xem Tony Landry có để quên đồ ở đó không, hay đại loại vậy…”
Strike nhấp một ngụm trà, nghĩ thầm thật khó tin chuyện ba tháng sau hội thảo, ông luật sư phải cử cô thư ký đến tận nơi chỉ vì lý do cỏn con như vậy.
"Dù sao thì, sai lầm là ở chỗ đó.”
"Vậy sao?" Strike nói, cố giữ giọng bình thường.
"Đúng vậy, bởi vì ngày bảy tháng Giêng bà Alison có tới đó để tìm gặp Tony Landry. Tôi thiếu điều muốn chui xuống đất. Một cô làm lễ tân có gặp Alison hôm đó, nên vẫn nhớ mặt bà ta.”
Strike hạ tách trà xuống.
"Hừm, vụ này," hắn nói, "đúng là hay ho.”
"Tôi cũng thấy thế," Robin phấn khởi kể tiếp. "Vậy là tôi phải suy nghĩ thật nhanh.”
"Cô có nói tên cô là Annabel nữa không?”
"Không," cô đáp, thoáng bật cười. "Tôi nói, à vậy thì, tôi đành nói thật, tôi là bạn gái của ông Landry. Rồi tôi khóc thút thít.”
"Cô khóc?”
"Thật ra cũng không khó lắm." Robin đáp, tỏ vẻ ngạc nhiên. "Tôi vào vai ngon ơ. Tôi nói là tôi nghi ngờ ông Landry đang có người khác.”
"Cô không giả bộ nghi ngờ Alison chứ? Nếu họ thấy bà ta rồi chắc chắn họ sẽ không tin…”
"Không, nhưng tôi nói là nghi ổng nói dối, nghi là hôm đó ổng không hề ở Malmaison… Rồi tôi khóc lóc một hồi. Cô gái từng gặp Alison phải kéo tôi ra một bên dỗ dành. Cô ta nói là họ không thể cung cấp thông tin về người khác mà không có lý do chính đáng, luật lệ của khách sạn qui định vân vân và vân vân… anh biết rồi đó. Nhưng tôi cứ khóc mãi, cuối cùng cô ta đành phải nói ông Landry có làm thủ tục nhận phòng vào tối ngày Sáu, rồi trả phòng buổi sáng ngày Tám. Lúc trả phòng có phàn nàn chuyện khách sạn không đưa đúng loại báo ổng muốn đọc, nên cô nhân viên mới nhớ mặt. Vậy chắc chắn là Landry có ở đó. Tôi còn ráng nức nở hỏi thêm một chút, rằng làm sao cô ta biết chắc người đó là ông Landry. Cô ta mô tả tới chân tơ kẽ tóc. Còn tôi đã biết mặt ổng rồi," cô nói thêm, trước khi Strike kịp hỏi. "Trước khi đi Oxford tôi có coi hình trước trên trang web của công ty LMP.”
"Cô cừ thật," Strike nói, "vụ này nghe quá xá mờ ám. Cô nhân viên đó có kể gì về Alison không?”
"Kể là Alison đến nơi, hỏi gặp ông Landry, nhưng lúc đó ổng không có ở khách sạn. Nhưng họ xác nhận với Alison là ổng đã làm thủ tục nhận phòng. Rồi Alison đi về.”
"Quái thật. Đáng ra Alison phải biết là ông Landry đã đi dự hội thảo; tại sao không đến thẳng đó trước?”
"Tôi không biết.”
"Cái cô nhân viên được việc này có kể ngoài lúc nhận phòng và trả phòng ra thì có thấy mặt Landry lúc nào khác không?”
"Không." Robin đáp. "Nhưng mà ta đã biết là Landry có dự hội thảo rồi còn gì? Tôi kiểm tra vụ đó rồi, anh không nhớ sao?”
"Ta biết là Landry có đến hội thảo, ghi tên và có lẽ lấy bảng tên đeo. Nhưng rồi sau đó lái xe về Chelsea ngay để gặp phu nhân Bristow. Tại sao vậy?”
"Thì… bà ấy đang bị ốm.”
"Vậy sao? Nhưng bà vừa được phẫu thuật cho hết bệnh kia mà.”
"Phẫu thuật cắt tử cung," Robin đáp. "Như vậy thì hậu phẫu phải đau đớn lắm.”
"Nhưng ông này không yêu quý gì bà chị lắm - cái này tôi nghe tận miệng Landry - rồi ông lại biết bà chị vừa trải qua một cuộc phẫu thuật cứu mạng, biết đã có hai đứa con của bà ta đến thăm nom. Can cớ gì ông ta phải đi thăm gấp gáp vậy?”
"Thì," Robin nói, không còn chắc chắn nữa, "Tôi đoán… chắc là vì bà ấy mới xuất viện…”
"Nhưng chắc hẳn Landry phải biết chuyện đó trước khi đi Oxford chứ. Vậy tại sao không nán lại London và đi thăm ngay nếu ông ta thấy sốt ruột, rồi chỉ dự phần hội thảo buổi chiều hôm đó? Tại sao phải lái xe hơn năm mươi dặm, ngủ một đêm ở cái nhà tù xa hoa kia, rồi đến hội thảo chỉ để ghi tên, rồi lái xe quay trở lại London ngay?”
"Có thể có ai gọi điện nhắn là phu nhân Bristow đang rất mệt chăng? Biết đâu John Bristow gọi điện cho Landry, nhắn ông ta đến ngay?”
"Bristow không hề nhắc đến chuyện đó. Tôi thấy thực ra hai người giờ đang khá căng thẳng. Họ có vẻ khó chịu khi nhắc đến chuyến thăm nom đó của Landry. Cả hai đều không thích nói tới khi tôi hỏi.”
Strike đứng dậy, đi tới đi lui trong phòng, hơi cà nhắc nhưng hầu như không để ý đến cái chân đau.
"Không phải," hắn nói tiếp, "Bristow nhắn em gái ghé qua, Lula là người được mẹ cưng nhất - chuyện đó nghe có lý. Nhưng chuyện nhờ ông cậu, người đang ở xa London, lại không ưa gì phu nhân Bristow, ngược đường chạy về để thăm nom… nghe chẳng hợp lý tí nào. Và giờ ta còn biết được là Alison có đi tìm Landry ở ngay khách sạn. Hôm đó lại không phải là ngày cuối tuần. Phải chăng bà ta đang tự đi rình Landry, hay có ai sai đi?”
Điện thoại đổ chuông. Robin nhấc ống nghe. Strike thấy bất ngờ khi cô ngay lập tức giả giọng Úc điệu đà.
"Xinh lỗi nha, cổ hông có đây… Hông… hông. Tôi hông biết cổ làm ở đâu… Hông phải… Tơn tôi là Annabel…”
Strike khẽ bật cười. Robin nhìn hắn, giả vờ nhăn mặt đau khổ. Sau một phút đóng giả một cô gái người Úc nói như đang bị bóp cổ, Robin dập máy.
"Giải pháp Tạm thời gọi," cô nói.
"Tôi cứ phải giả làm Annabel, mỗi lần mỗi khác. Cô Annabel vừa rồi nói nghe giống giọng Nam Phi hơn là Úc.”
"Giờ tôi muốn biết hôm qua anh làm được việc gì," Robin nói, không giấu được vẻ nôn nóng nữa. "Anh có gặp Bryony Radford và Ciara Porter không?”
Strike kể lại tất cả mọi thứ, chỉ trừ đoạn sau khi hắn rời khỏi căn hộ của Evan Duffield. Hắn nhấn mạnh chuyện Bryony Radford cứ khăng khăng là cô ta bị loạn chữ, bấm nhầm nút nên mới tình cờ nghe được lời nhắn trên điện thoại của Ursula May; Ciara thì liên tục nói rằng Lula có kể sẽ để lại hết cho anh trai; rồi Evan Duffield rất bực vì Lula cứ liên tục xem giờ khi ở Uzi, và cả bức email đe doạ mà Tansy Bestigui gởi cho ông chồng cũ.
"Vậy lúc đó Tansy ở đâu?" Robin hỏi, sau khi đã chăm chú nuốt lấy từng lời của Strike. "Nếu ta có thể biết…”
"Ồ, tôi biết quá rõ bà ta ở đâu lúc đó," Strike đáp. "Vấn đề là làm sao để bà ta thừa nhận, vì nếu làm vậy bà ta có thể mất đứt khoản tiền triệu dàn xếp ly hôn của Freddie. Khó là ở chỗ đó. Nếu cô nhìn vào mấy tấm hình của cảnh sát, cô cũng sẽ đoán được lúc đó bà ta ở đâu.”
"Nhưng...”
"Nhìn kỹ hình chụp mặt tiền toà nhà buổi sáng sau khi Lula chết, rồi suy nghĩ xem nó khác gì so với hôm chúng ta tới xem. Sẽ rất có ích nếu cô muốn làm thám tử sau này.”
Nghe Strike nói, Robin thấy vô cùng hào hứng, nhưng ngay lập tức sau đó cô lại thấy tiu nghỉu tiếc nuối, vì nhớ ra là cô sắp phải rời xa chỗ này để bắt đầu công việc nhân sự.
"Tôi phải đi thay đồ đã," Strike nói, đứng dậy. "Cô thử gọi cho Freddie Bestigui lần nữa được không?”
Hắn biến mất sau cánh cửa phòng trong, đóng cửa lại và cởi bỏ bộ complet may mắn (từ nay về sau hắn sẽ gọi bộ đồ này như thế). Hắn thay áo sơ mi cũ và quần dài rộng rãi thoải mái hơn. Khi Strike đi ngang qua bàn của Robin để ra nhà vệ sinh, cô đang gọi điện cho Bestigui. Gương mặt Robin vừa tập trung vừa thờ ơ, đúng kiểu người đang bị cho chờ trên điện thoại. Strike đánh răng bên chậu rửa mặt đã nứt gãy. Hắn thấy nhẹ nhõm hẳn với Robin, sau khi đã âm thầm thừa nhận chuyện ăn ngủ luôn trong văn phòng. Đánh răng xong, hắn quay trở vào, Robin vừa mới dập máy, trông rất cáu tiết.
"Tôi nghĩ giờ họ còn không ghi lại tin nhắn gì của tôi nữa," cô nói với Strike. "Họ nói ông ta đang ở trường quay Pinewood, không được quấy rầy.”
"Thôi được, ít ra cũng biết là ông ta đã về nước," Strike đáp.
Strike với tay lấy báo cáo điều tra từ kệ đựng hồ sơ, ngồi xuống ghế sofa rồi bắt đầu im lặng ghi chép lại những cuộc nói chuyện hôm qua. Robin khẽ liếc Strike, thích thú nhìn hắn tỉ mỉ ghi lại tất cả những phát hiện điều tra, chú thích rõ mỗi mẩu thông tin được lấy ở đâu, lấy như thế nào, ai là người cung cấp.
"Chắc là," cô lên tiếng, sau một hồi lâu im lặng, vừa lén quan sát Strike làm việc, vừa xem hình chụp mặt tiền toà nhà số 18 Kentigern Gardens trên Google Earth, "anh phải hết sức cẩn thận như vậy, để khỏi quên gì hết.”
"Không phải chỉ có vậy," Strike trả lời, vẫn không ngẩng lên. "Mà còn là để luật sư bên bị không có đường phản công.”
Hắn nói bình thản và quá hợp lý khiến Robin phải dừng lại ngẫm nghĩ một lúc, sợ không kịp hiểu hết ý.
"Ý anh là… nói chung?" cô nói thêm. "kiểu theo nguyên tắc phải vậy?”
"Không," Strike đáp, vẫn tiếp tục ghi chép. "Ý tôi là tôi không muốn để tay luật sư bên bị khi ra toà có thể chứng minh rằng tôi không biết cách lưu giữ hồ sơ, rồi sau đó đặt nghi vấn về độ tin cậy của tôi trong vai trò nhân chứng.”
Rõ là Strike đang ra vẻ chút đỉnh, hắn cũng biết vậy, nhưng hắn không kiềm được. Mọi thứ chạy đang bon bon như có đà, hắn nghĩ thầm. Hẳn có người sẽ thấy đi điều tra án mạng mà thấy thích thú như vậy thật chẳng ra gì, nhưng Strike từng cười được trong những hoàn cảnh còn u ám hơn.
"Cô đi mua bánh mì được không Robin?" hắn nói, chỉ để ngước lên nhìn vẻ mặt sửng sốt thán phục của cô thư ký.
Trong khi Robin đi ra ngoài, hắn cũng ghi chép xong, vừa định gọi cho một đồng đội cũ ở Đức thì Robin chạy vào, tay cầm hai cái bánh mì kẹp và một tờ báo.
"Trang nhất tờ Standard có hình anh nè," cô thở hổn hển.
"Cái gì?”
Đập vào mắt hắn là tấm hình chụp Ciara đang đi sau Duffield vào nhà anh ta. Ciara trông thật xinh đẹp. Trong vòng nửa giây Strike nhớ lại lúc hai giờ rưỡi sáng, khi Ciara nằm ngay dưới người hắn, trắng trẻo, trần truồng, mái tóc dài óng ả tràn khắp gối như nàng tiên cá, miệng khẽ thì thầm, rên rỉ.
Strike cố tập trung trở lại. Trong hình hắn bị cắt mất một nửa. Hắn đang đưa tay lên cản đám paparazzi.
"Không sao," hắn nhún vai, trả lại tờ báo cho Robin. "Họ nghĩ tôi là bảo kê.”
"Bài báo nói là," Robin nói, lật tới trang ở trong, "cô ta rời nhà của Duffield cùng với vệ sĩ lúc hai giờ sáng.”
"Thấy chưa.”
Robin nhìn hắn chằm chằm. Lúc nãy khi kể lại chuyện hôm qua, hắn dừng ngay ở đoạn hắn, Duffield và Ciara ở nhà của Duffield. Mải mê với những mẩu chứng cứ hắn vừa tìm được, cô quên không thắc mắc hôm qua hắn ngủ ở đâu. Cô cứ nghĩ là hắn để cô người mẫu ở nhà tay diễn viên rồi đi.
Nhưng rõ là khi về đến văn phòng hắn mặc đồ y như trong hình.
Cô quay mặt đi, đọc hết bài báo ở trang hai. Bài báo ám chỉ lộ liễu rằng tối đó Ciara và Duffield mặn nồng với nhau, còn tên to con giống bảo kê đợi ở ngoài.
"Ở ngoài cổ có đẹp vậy không?" Robin hỏi, gấp tờ báo lại, cố ra vẻ bình thường,
"Ừ, đẹp lắm," Strike đáp. Hắn ngờ ngợ không biết ba từ hắn thốt ra nghe có khoe khoang quá không. "Cô muốn ăn bánh mì kẹp phô-mai và dưa góp, hay trứng và mayonaise?”
Robin chọn bừa một cái rồi mang về bàn của mình. Ngồi đoán già đoán non chuyện đêm qua Strike ở đâu, cơn phấn chấn nãy giờ của cô nàng hơi nhụt đi. Thật là khó hình dung Strike – một gã lụy vì tình trong suy nghĩ của Robin, lại vừa qua đêm với một siêu mẫu (thật khó tin, nhưng cô nghe ra được vì hắn không cách gì giấu nổi vẻ khoái chí.)
Điện thoại lại đổ chuông. Miệng vẫn đầy bánh mì và phô-mai, Strike đưa tay lên cản Robin. Hắn nuốt ực rồi bốc máy.
"Cormoran Strike.”
"Strike, Wardle đây.”
"Ê Wardle, sao rồi?”
"Không hay lắm. Tụi tôi vừa vớt được một xác người dưới sông Thames, có kẹp theo danh thiếp của anh. Không biết anh có muốn nói năng gì không?”
10
Kể từ khi dọn đồ ra khỏi nhà Charlotte, đây cũng là lần đầu tiên Strike gọi taxi mà không thấy áy náy. Hắn thờ ơ nhìn đồng hồ tính tiền nhảy liên tục. Chiếc taxi chạy về hướng quận Wapping. Suốt đường đi bác tài thao thao chứng minh Gordon Brown làm chính khách mà chẳng ra cái gì. Strike ngồi im lặng hết cả quãng đường.
Đây không phải là nhà xác đầu tiên Strike từng đến và hoàn toàn không phải là tử thi đầu tiên hắn phải xem. Strike đã quá quen mắt với những vết thương súng đạn; những cơ thể bị giày xé, bầm dập, nội tạng lồ lộ ra như ở hàng thịt, máu me đỏ lói. Hắn không còn thấy chợn chạo chút nào. Những tử thi không toàn vẹn nhất, những thân thể lạnh lẽo trắng toát trong ngăn trữ đông với người làm nghề như hắn đều chỉ là những vật phẩm đã được sát trùng, tiêu chuẩn hoá. Chỉ có những xác người vừa chết, chưa qua xử lý theo thể thức mới cứ trở đi trở lại trong những giấc mơ của Strike. Mẹ hắn nằm trong nhà tang lễ, mặc áo đầm dài tay phồng - chiếc áo lúc sinh thời bà thích nhất, hốc hác nhưng trông vẫn trẻ trung, không thấy một vết kim tiêm nào. Trung sĩ Gary Topley nằm trên con đường lầm bụi đẫm máu ở Afghanistan, gương mặt vẫn vẹn nguyên, nhưng phần cơ thể từ lồng ngực trở xuống đã bay mất. Khi Strike nằm giữa đám bụi đường nóng bỏng, hắn cố không nhìn vào gương mặt trống rỗng đó. Hắn sợ không muốn nhìn xuống bên dưới cơ thể mình, sợ phải biết đã mất những gì… nhưng hắn nhanh chóng ngất đi và chỉ biết được câu trả lời khi tỉnh dậy trong bệnh viện dã chiến…
Bức tường gạch trần trụi của phòng chờ ở nhà xác treo bản in của một bức tranh trường phái Ấn Tượng. Strike nhìn chăm chú, cố nhớ ra là đã thấy ở đâu, rồi cuối cùng nhận ra bức tranh treo trên bệ lò sưởi ở nhà Lucy và Gregg.
"Anh Strike?" ông nhân viên nhà xác tóc bạc lên tiếng, ghé mắt qua cánh cửa ngăn cách. Ông ta mặc áo blu trắng, mang găng tay nhựa. "Vào trong này đi.”
Những người coi sóc tử thi dường như lúc nào cũng có vẻ dễ chịu, tử tế. Strike theo ông ta vào căn phòng bên trong rộng rãi và lạnh toát, không hề có cửa sổ. Chạy dọc theo bức tường bên tay phải là hàng loạt những cánh cửa tủ đông bằng thép khá lớn. Sàn nhà lót gạch vuông được láng thoai thoải, đổ xuống một rãnh thoát ở giữa. Ánh đèn trong phòng chói loá. Mỗi tiếng động phát ra đều dội vào những bề mặt cứng và sáng bóng, nghe như cả một nhóm người rầm rập tiến vào phòng.
Một chiếc xe đẩy bằng thép được đặt sẵn trước cánh cửa tủ đông, đứng bên cạnh là hai nhân viên cục điều tra tội phạm, Wardle và Carver. Wardle gật đầu, miệng lầm bầm chào Strike. Carver, bụng phệ mặt rỗ, vai áo đầy gàu, chỉ hầm hừ cho có lệ.
Nhân viên nhà xác kéo nắm cửa dày bằng thép trên tủ đông. Ba đầu thi thể lộ ra, đặt chồng lên nhau, mỗi thi thể được bọc trong một tấm vải trắng đã cũ mèm và mỏng dần đi qua nhiều lần giặt giũ. Nhân viên nhà xác kiểm tra bảng tên đính vào tấm vải phủ lên thi thể ở giữa; không có tên, chỉ nguệch ngoạc ngày tháng hôm qua. Ông ta nhẹ nhàng kéo cả khay trượt dài lẫn tử thi trên đó xuống chiếc xe đẩy gọn ơ. Strike để ý thấy miệng Carver cử động khi ông ta bước lùi lại, nhường chỗ cho ông nhân viên nhà xác kéo chiếc xe đẩy ra xa tủ đông. Sau một tiếng choang và một tiếng rầm, hai tử thi còn lại khuất mất sau cánh cửa tủ.
"Không cần phải đem vô phòng quan sát, tại trong này không có ai khác," ông nhân viên nhà xác nói nhanh. "Ánh sáng ở giữa phòng là rõ nhất," ông ta thêm vào, dừng chiếc xe đẩy ngay trên rãnh thoát, rồi mở tấm khăn phủ.
Trước mắt hắn là Rochelle Onifade, trương phình, đầy nước. Vẻ nghi ngại thường thấy tên gương mặt Rochelle đã biến mất, thay vào đó là một vẻ ngơ ngác trống rỗng. Từ những lời ngắn ngủi của Wardle trên điện thoại Strike đã đoán được sẽ thấy xác của ai. Nhưng vẻ yếu đuối khủng khiếp của người chết vẫn khiến hắn giật mình. Trông Rochelle nhỏ bé hơn nhiều so với lúc ngồi đối diện hắn, vừa ăn khoai tây chiên vừa lấp liếm sự thật.
Strike nói tên cô gái, đánh vần từng chữ để nhân viên nhà xác và Wardle ghi lại chính xác trên bảng tên và sổ sách. Hắn khai luôn địa chỉ duy nhất của Rochelle mà hắn biết: Nhà trọ St Elmo dành cho người vô gia cư, Hammersmith.
"Ai tìm thấy cô ta vậy?”
"Cảnh sát tuần sông vớt được hồi khuya hôm qua," Carver lần đầu tiên lên tiếng. Ông ta nói giọng người phía Nam London, có gì đó rất hằn học. "Xác chết thường mất khoảng ba tuần mới nổi lên, đúng vậy không?" ông ta nói thêm, hướng câu hỏi như một lời bình luận đó về phía nhân viên nhà xác. Ông này khẽ hắng giọng cẩn trọng.
"Trung bình là vậy, nhưng tôi cũng không ngạc nhiên gì nếu thi thể này mới hơn. Có nhiều dấu hiệu…”
"Được rồi, bên pháp y sẽ lo vụ đó," Carver nói, không thèm để ý tới ông kia.
"Không thể là ba tuần được," Strike nói, ông nhân viên nhà xác thoáng mỉm cười, ra vẻ đồng ý.
"Vì sao không?" Carver hoạnh hoẹ.
"Vì cách đây đúng hai tuần một ngày tôi còn mua bánh burger và khoai tây chiên cho cô ta.”
"À," nhân viên nhà xác lên tiếng, gật đầu với Strike từ phía đối diện. "Tôi vừa định nói nếu trước khi chết mà ăn nhiều tinh bột thì sẽ có ảnh hưởng nhất định lên vẻ ngoài của tử thi. Rõ là có dấu hiệu trương phình…”
"Anh đưa danh thiếp cho cô ta lúc đó à?" Wardle hỏi Strike.
"Đúng vậy. Tôi không ngờ vẫn còn đọc được.”
"Danh thiếp để chung với thẻ Oyster đi tàu xe, ở trong ví kẹp bằng ni lông nhét túi sau quần jeans, vì vậy mà không bị nát.”
"Khi vớt lên cô ta mặc gì?”
"Áo khoác lông giả màu hồng. Trông giống con rối Muppet vừa bị lột da. Quần jeans, mang giày thể thao.”
"Cô ta mặc y như vậy khi gặp tôi.”
"Trong trường hợp đó, khám nghiệm mẫu dạ dày của thi thể có thể cho thấy chính xác…" Ông nhân viên nhà xác lại bắt đầu thao thao.
"Anh biết cô ta có gia đình bà con không?" Carver hạch hỏi Strike.
"Có một bà cô ở Kilburn. Tôi không biết tên gì.”
Mắt Rochelle khép hờ, lộ ra khe cầu mắt trắng lạnh, đúng kiểu tử thi chết đuối. Quanh nếp da gần hốc mũi có vết máu trào.
"Hai bàn tay tử thi như thế nào?" Strike hỏi nhân viên nhà xác, vì tấm vải che chỉ vừa kéo xuống ngang ngực Rochelle.
"Tay tiếc gì nữa," Carver nạt nộ rồi lớn giọng với nhân viên nhà xác "Xong việc ở đây rồi, cảm ơn," giọng ông cảnh sát dội khắp phòng. Ông ta quay sang Strike: "Tụi tôi muốn nói chuyện với anh. Xe đậu ngoài kia.”
Strike đang hỗ trợ công việc điều tra của cảnh sát. Hắn còn nhớ nghe được cụm từ đó trên bản tin lúc còn nhỏ xíu. Từ nhỏ Strike đã mê mẩn công việc của cảnh sát. Mẹ hắn luôn cho rằng chính anh trai bà, cậu Ted đã khiến Strike có sở thích kỳ quặc này. Cậu Ted là cựu quân cảnh, với Strike cậu còn là một kho tàng các câu chuyện ly kỳ về những nơi đây đó, các bí mật và những chuyến phiêu lưu. Hỗ trợ công việc điều tra của cảnh sát: lúc năm tuổi Strike hình dung ra một công dân vô tư, cao quý, hi sinh thời gian và công sức để giúp cảnh sát phá án, được trang cấp một chiếc kính lúp và dùi cui để hoạt động bí mật, thật hấp dẫn.
Nhưng thực tế là đây: một căn phòng thẩm vấn nhỏ xíu và một cốc cà phê pha bằng máy Wardle vừa đưa cho. Anh chàng cảnh sát này mặc dù thái độ không có sự hằn học như ứa ra từ mỗi lỗ chân lông như Carver, nhưng cũng chẳng còn thân thiện gì với Strike như trước. Strike ngờ rằng sếp của Wardle không biết hết mấy vụ qua lại trước đó giữa hắn và anh ta.
Trên mặt bàn trầy xước có một cái khay nhỏ màu đen chứa mười bảy xu toàn tiền lẻ, một chiếc chìa khoá Yale và một thẻ đi xe buýt bọc nhựa; danh thiếp của Strike đã phai màu và nhăn nheo nhưng vẫn còn đọc được.
"Túi xách tay của cô ta thì sao?" Strike hỏi Carver đang ngồi đối diện. Wardle đứng dựa vào tủ hồ sơ trong góc phòng. "Cái túi màu xám, trông rẻ tiền, giống như làm bằng nhựa. Không thấy đâu hả?”
"Chắc cô ta vứt ở cái xó xỉnh tạm bợ nào rồi chứ sao," Carver đáp, móc máy. "Không lẽ đi nhảy cầu tự tử mà mang theo xách tay.”
"Tôi không nghĩ cô ta tự tử," Strike đáp.
"Ồ, vậy sao, lại thế nữa?”
"Tôi muốn nhìn bàn tay của tử thi. Nạn nhân rất ghét nhúng mặt xuống nước, cô ta từng nói vậy với tôi. Khi người ta loay hoay chống chọi trong nước, vị trí bàn tay…”
"Hay ho quá hả, chuyên gia có khác," Carver nói tiếp, lớn giọng mỉa mai. "Tôi biết chú là ai rồi, Strike à.”
Ông ta ngồi dựa lưng xuống ghế, hai tay đan lại đặt sau đầu, để lộ mấy mảng mồ hôi đã ráo ngay dưới nách áo. Mùi mồ hôi chua loét, nồng nồng như củ hành từ bên kia bàn thoảng qua trước mũi hắn.
"Ảnh là cựu nhân viên SIB," Wardle đứng ở tủ đựng hồ sơ nói chen vào.
"Biết rồi," Carver nạt, nhướng hai hàng chân mày khô cứng, lấm tấm vảy. "Anstis ca nguyên bài về vụ chân cẳng vinh quang gì gì đó, rồi huy chương cứu người. Một bản lý lịch hơi bị đẹp.”
Carver rút hai bàn tay ra từ sau đầu, nghiêng người về phía trước rồi đan các ngón tay trên mặt bàn. Dưới ánh đèn tuýp nước da đỏ như thịt bò muối và bọng mắt thâm quầng của ông ta trông càng tối sầm sì.
"Tôi biết ông già anh là ai, biết hết.”
Strike đưa tay gãi cằm lún phún, chờ đợi.
"Cũng muốn giàu có nổi tiếng như tía chú em chứ gì? Hoá ra là vậy đó hả?"
Carver có cặp mắt màu xanh sáng quắc nhưng đầy những tia máu đỏ ngàu, luôn khiến Strike liên tưởng đến một bản tính bạo lực, nóng nảy (hắn từng biết một tay thiếu tá bên lính nhảy dù cũng có đôi mắt như vậy – tay này về sau bị sa thải vì tội cố ý gây thương tích nghiêm trọng).
"Rochelle không tự tử. Lula Landry cũng không.”
"Không cái con c*c!" Carver hét lên. "Mày đang nói chuyện với hai người đã có công chứng minh rằng Landry nhảy lầu tự tử. Tụi tao căng mắt coi hết từng chi tiết chứng cứ, không sót cái đếch gì. Tao biết mày đang giở trò gì rồi. Mày đang cố bòn tới xương tay Bristow ngu ngốc tội nghiệp. Cười cái đếch gì?”
"Tôi đang nghĩ tới chuyện trông anh sẽ ngớ ngẩn ra sao khi vụ này được đưa lên báo.”
"Đừng hòng lấy báo ra mà dọa tụi tao, đồ khốn.”
Gương mặt bành bạnh, cục mịch của Carver cau lại. Cặp mắt xanh trừng trừng trên nền da mặt đỏ tía.
"Mày gặp rắc rối lớn rồi, biết chưa nhóc. Ông già nổi tiếng, cái chân giả và thành tích chiến tranh gì gì cũng không đỡ nổi đâu. Làm sao tụi tao biết được mày không làm cho con ranh tội nghiệp đó sợ hãi tới mức đâm đầu nhảy xuống sông? Nó có bệnh tâm thần, không phải vậy sao? Biết đâu mày đã lải nhải vào tai nó rằng nó đã làm việc gì sai trái? Mày là người cuối cùng gặp nó. Thực tình, tao không muốn ở vào vị trí của mày lúc này chút nào.”
"Sau khi gặp tôi, Rochelle băng qua đường Grantley, vẫn sống nhăn răng như anh ngồi đây. Anh sẽ tìm ra ít nhất một người đã nhìn thấy cô ta sau khi cô ta gặp tôi. Không ai đã từng nhìn thấy cái áo khoác đó mà quên được.”
Wardle rời tủ đựng hồ sơ, kéo một chiếc ghế nhựa cứng lại rồi ngồi xuống cạnh bàn.
"Nói đi," anh ta đề nghị Strike. "Cho tụi tôi nghe giả thuyết của anh.”
"Cô ta đang tống tiền thủ phạm giết Lula Landry.”
"Dẹp đi!" Carver nạt ngay, còn Wardle thì cười khẩy, hơi bị kịch.
"Ngày hôm trước khi Landry chết," Strike nói, "cô ấy có gặp Rochelle khoảng mười lăm phút tại cái cửa hàng ở Notting Hill. Cô ấy lôi ngay Rochelle vào trong phòng thử đồ, rồi gọi điện nài nỉ ai đó tới gặp mình tại căn hộ lúc khoảng một hai giờ sáng. Một nhân viên cửa hàng đứng ở buồng bên cạnh, chỉ cách một tấm màn tình cờ nghe được cuộc nói chuyện đó. Cô này tên là Mel, tóc đỏ, có xăm mình.
"Đụng tới người nổi tiếng thì khối đứa chỉ chực thêu dệt vớ vẩn," Carver nói.
"Nếu Landry có gọi điện ở đó thật," Wardle lên tiếng, "thì hẳn cô ta gọi cho Duffield hay ông cậu. Danh sách cuộc gọi cho thấy trong chiều hôm đó cô ta chỉ gọi cho mỗi hai người đó thôi.”
"Vậy tại sao cô ta muốn Rochelle ở trong buồng thử đồ khi gọi điện?" Strike hỏi. "Tại sao phải lôi Rochelle vô đó?”
"Đàn bà hay làm vậy," Carver nói. "Đi tè còn đi thành bầy nữa mà.”
"Chịu khó động não chút đi: cô ta dùng điện thoại của Rochelle," Strike tức điên cả người. "Trước đó cô ta đã thử hết thảy mấy người thân quen, xem ai là người bán cô ta cho báo chí. Rochelle là người duy nhất biết ngậm miệng lại. Landry kết luận rằng cô gái này đáng tin cậy nên mua cho cô ta một cái điện thoại, đăng ký thuê bao lấy tên Rochelle nhưng trả tiền hết. Lula Landry từng bị nghe lén điện thoại, không phải vậy sao? Cô ta rất hoang mang về chuyện bị nghe lén rồi bị đưa lên báo, vậy là cô ta mua một con Nokia, lấy tên người khác đăng ký thuê bao để mà có phương tiện liên lạc hoàn toàn kín đáo khi cần.
"Ừ thì như vậy cũng không loại trừ người cô ta gọi là ông cậu, hay Duffield vì biết đâu họ đã tự đặt ra dấu hiệu nào đó bằng cách gọi với những số khác nhau. Hoặc cũng có thể cô ta dùng điện thoại của Rochelle để nói chuyện với một người khác; một người cô ta không muốn lộ ra với báo chí. Tôi có số của Rochelle ở đây. Các anh có thể xem cô ta dùng mạng nào, rồi kiểm tra lại hết những chuyện tôi vừa nói. Điện thoại của Rochelle là một con Nokia màu hồng, gắn đầy hột cườm, nhưng các anh sẽ không tìm ra đâu.”
"Vì nó đang nằm dưới đáy sông Thames," Wardle đáp.
"Tất nhiên không phải," Strike nói. "Tên giết người đã lấy đi rồi. Hắn đã tước từ tay Rochelle trước khi xô cô ta xuống sông.”
"Dẹp phứt mày đi!" Carver nhạo, Wardle lắc đầu nguầy nguậy, mặc dù không tin Strike nhưng rõ ràng vẫn bị cuốn vào.
"Vậy tại sao Landry muốn Rochelle ở đó khi cô ta gọi điện?" Strike lặp lại. "Tại sao không gọi trong xe? Tại sao, mặc dù vô gia cư, nghèo kiết xác, Rochelle vẫn chưa bán Landry cho báo cho ấm thân? Rochelle còn chờ gì nữa, Landry đã chết, còn ai làm gì được nữa?”
"Vì Rochelle là người tử tế?" Wardle gợi ý.
"Đó là một khả năng," Strike đáp. "Khả năng khác là cô ta đã kiếm đủ bằng việc tống tiền chính tên thủ phạm giết Lula.”
"Tống cái con c*c!" Carver gầm gừ.
"Anh nghĩ vậy sao? Cái áo khoác Muppet mà cô ta mặc lúc được vớt lên có giá một ngàn năm trăm bảng đó.”
Im lặng trong mấy giây.
"Chắc của Landry cho," Wardle lên tiếng.
"Nếu vậy Landry đã mua một món chưa hề ra cửa hàng hồi tháng Giêng.”
"Landry là người mẫu, hẳn quen biết nọ kia… mà liên quan quái gì," Carver lớn tiếng, cứ như vừa tự chuốc lấy bực bội.
"Tại sao," Strike nói tiếp, đặt hai cánh tay xuống bàn rồi rướn người về vùng xú khí quanh Carver, "tại sao Lula Landry chỉ ghé qua cửa hàng đó trong vòng có mười lăm phút?”
"Cô ta đang bận gì đó.”
"Vậy thì tại sao phải ghé?”
"Cô ta không muốn để Rochelle phải thất vọng.”
"Cô ta khiến Rochelle đi từ bên kia thành phố tới… Chính cô bạn gái bần cùng, vô gia cư mà cô ta thường cho quá giang về nhà trọ bằng xe có tài xế riêng chứ không phải ai xa lạ. Nhưng lần này Landry lôi Rochelle vào trong buồng thử đồ, rồi mười lăm phút sau bước ra, để Rochelle tự đi về nhà.”
"Thì kiểu tiểu thư hư hỏng quen được o bế mà.”
"Nếu vậy thì việc gì phải tới Vashti? Bởi vì cô ta đang cần làm một việc gì đó. Và nếu không phải vậy thì hẳn cô ta phải lo lắng hay giận dữ sao đó, nên hành động mà không suy nghĩ. Có nhân chứng vẫn còn sống từng nghe được Lula nài nỉ ai đó trên điện thoại đến gặp mình ở căn hộ, khoảng sau một giờ sáng. Còn có một tờ giấy màu xanh Landry cầm trước khi vào Vashti, mà không ai khai là đã nhìn thấy sau đó cả. Cô ta đã làm gì với tờ giấy? Tại sao lại viết ngay trong xe, trước khi gặp Rochelle?”
"Chắc là…" Wardle lên tiếng.
"Cóc phải giấy ghi mấy thứ cần mua," Strike tức tối nói trước khi Wardle kịp gợi ý, đập tay xuống bàn, "và không ai lại đi viết thư tuyệt mệnh trước khi tự tử đến tám tiếng đồng hồ, rồi đi nhảy nhót. Cô ta đang viết di chúc, anh không hiểu sao? Cô ta đem tới Vashti để Rochelle làm chứng…”
"Chứng cái con c*c!" Carver lại cảm thán, nhưng lần này Strike lơ hẳn ông ta, chỉ nói với Wardle.
"…khớp với chuyện cô ta nói với Ciara Porter là sẽ để lại mọi thứ cho ông anh, không phải vậy sao? Cô ta cần có người làm chứng để hợp thức hoá di chúc. Hôm đó Landry liên tục nghĩ đến việc này.”
"Tự dưng đi làm di chúc chi vậy?”
Strike ngập ngừng, rồi ngồi xuống trở lại. Carver liếc đểu hắn một cái.
"Trí tưởng tượng tới đó thôi hả?”
Strike thở dài ngao ngán. Một đêm uống như hũ chìm, rồi vụ vui vẻ quá đà tối hôm qua, rồi suốt nửa ngày trong bụng có mỗi nửa cái bánh mì kẹp phô mai và dưa góp. Hắn thấy mệt lả, trống rỗng.
"Nếu tôi có bằng chứng cụ thể, tôi đã mang đến đây rồi.”
"Anh có biết người gần gũi với nạn nhân tự tử cũng có có tỉ lệ tự tử rất cao hay không? Cái cô Raquelle này còn bị trầm cảm nữa. Hôm đó hẳn cô ta đang rất buồn, nhớ lại cách bạn cũ chết rồi bắt chước làm một cú như vậy. Quay lại với anh, chuyên truy bắt người ta, đẩy người ta…”
"… đến đường cùng" Strike nói. "Lại vậy nữa. Trong hoàn cảnh này thì ăn nói như vậy quá vô duyên. Còn bằng chứng của Tansy Bestigui thì sao?”
"Nữa hả Strike? Tụi tui đã chứng minh là bà ta không thể nghe được gì," Wardle nói. "Đã chứng minh chắc chắn rồi.”
"Không hề," Strike nói. Cuối cùng, hắn bất ngờ nổi nóng thật sự. "Anh rút ra kết luận về vụ án dựa trên một giả thuyết bậy bạ. Nếu anh nghe kỹ lời Tansy Bestigui, nếu anh phân tích rõ ràng và buộc bà ta phải nói ra sự thật, thì hẳn giờ Rochelle Onifade vẫn còn sống.”
Carver nổi trận lôi đình, giữ Strike ở lại thêm một tiếng nữa. Rồi trút giận cú cuối cùng bằng cách lệnh cho Wardle tiễn phức "Ngài Rokeby con" ra khỏi trụ sở, cấm lảng vảng.
Wardle đi theo Strike đến cửa trước, không nói năng gì.
"Tôi cần anh làm một chuyện," Strike nói, dừng ngay trước cửa, bên ngoài bầu trời đang tối sầm lại.
"Đủ rồi, bồ tèo" Wardle nói, cười gượng gạo. "Tôi sẽ phải chịu trận vụ đó," anh ta đưa ngón tay cái chỉ về sau vai, nơi có Carver và cơn thịnh nộ của ông ta, "trong nhiều ngày tới, tất cả chỉ vì anh. Tôi nói đã nói anh rồi, vụ đó là tự tử.”
"Wardle, trừ khi có ai mang tên khốn đó đem nộp cho anh, sẽ có hai người nữa lăm le bị giết.”
"Strike…”
"Nếu tôi mang cho anh bằng chứng rằng hôm đó Tansy Bestigui không ở bên trong căn hộ khi Lula ngã xuống? Rằng bà ta ở một nơi có thể nghe được hết?”
Wardle nhìn lên trần nhà, nhắm mắt trong giây lát.
"Nếu anh có bằng chứng…”
"Tôi chưa có, nhưng sẽ có trong hai ngày tới.”
Hai người đàn ông bước ngang qua mặt họ vừa đi vừa nói chuyện. Wardle lắc đầu, mặt cáu kỉnh, nhưng vẫn chưa bỏ đi.
"Nếu anh muốn nhờ vả gì bên cảnh sát thì gọi Anstis. Anh ta mới là người nợ nần anh."
"Anstis không thể giúp tôi vụ này. Tôi cần anh gọi cho Deeby Macc.”
"Để làm quái gì?”
"Anh nghe tôi nói rồi đó. Deeby Macc sẽ không nói chuyện với tôi. Nhưng anh ta sẽ nói với anh: anh là nhà chức trách, với cả hình như Deeby Macc rất khoái anh.”
"Không lẽ ý anh là Deeby Macc biết Tansy Bestigui ở đâu khi Lula Landry chết?”
"Không, đương nhiên anh ta biết thế quái nào được. Lúc đó anh ta còn đang ở Barrack. Tôi muốn biết anh ta nhận được món quần áo gì gởi từ Kentigern Gardens về khách sạn Claridges. Tức là, Guy Somé tặng anh ta những món gì.”
Strike không thèm phát âm tên của Somé là "ghi" trước mặt Wardle.
"Anh muốn biết… nhưng tại sao?”
"Bởi vì một trong hai người bỏ chạy trên đoạn băng từ camera an ninh mặc một cái áo ấm được gởi cho Deeby.”
Wardle căng mặt trong giây lát, rồi trở lại giận dữ.
"Áo đó ở đâu chẳng có," rồi nói tiếp. "Mấy cái đồ GS đó. Đồ bộ chống thấm, đồ thể thao nọ kia.”
"Nhưng cái áo thun dày liền mũ đó rất đặc biệt, được làm riêng cho Deeby Macc, trên thế giới chỉ có mỗi một cái. Cứ gọi cho Deeby, hỏi Somé gởi cho anh ta những món gì. Tôi chỉ cần vậy thôi. Nếu tôi đúng thật thì anh muốn đứng về phe ai hả Wardle?”
"Đừng có hù tôi, Strike…”
"Tôi không hù hiếc gì hết. Tôi đang nghĩ đến một tên giết người hàng loạt vẫn còn đang lởn vởn tính vụ tiếp theo… nhưng nếu anh còn lo chuyện báo chí, tôi nói thật, bọn chúng sẽ không nhẹ tay với bất cứ người nào còn khăng khăng giữ giả thuyết tự tử sau khi một nạn nhân mới xuất hiện. Gọi Deeby Macc đi Wardle, trước khi một người nữa bị giết chết.”
11
"Không được" Strike nói dứt khoát trên điện thoại tối hôm đó. "Càng lúc càng nguy hiểm. Đi theo dõi không phải là việc của thư ký.”
"Đi tới khách sạn Malmaison ở Oxford hay tới trường SOAS cũng có phải đâu." Robin chỉ ra, "nhưng anh vẫn để tôi làm cả hai việc đó.”
"Nhưng khi đó cô không theo dõi ai cả, Robin à. Tôi nghĩ Matthew cũng sẽ không vui nếu biết được.”
Thật buồn cười, Robin nghĩ thầm. Cô mặc áo choàng tắm ngồi trên giường, điện thoại áp sát tai. Strike nhớ tên vị hôn phu của cô, mặc dù chưa một lần gặp mặt. Robin thấy đàn ông thường không thèm nhớ những thông tin như vậy. Matthew thường xuyên quên tên người khác, thậm chí tên cháu gái mới sinh cũng không nhớ nổi; nhưng cô đoán là Strike đã được đào tạo để biết cách nhớ chi tiết như vậy.
"Tôi không cần xin phép Matthew," Robin nói. "Mà cũng sẽ không có gì nguy hiểm cả, anh không nghĩ là Ursula May đã giết ai đó chứ…”
(Robin lí nhí thêm mấy từ "phải vậy không?" cuối câu)
"Không, nhưng tôi không muốn có người nghĩ tôi đang chú ý tới bà ta. Vì như vậy có thể đánh động thủ phạm, tôi không muốn có ai bị xô chết nữa.”
Robin nghe tim mình đập thình thịch sau lớp vải áo choàng mỏng. Cô biết Strike sẽ không nói ra hắn đang nghĩ ai là thủ phạm. Thậm chí cô còn thấy hơi sợ phải nghe chuyện đó, mặc dù trong đầu không thể nghĩ đến chuyện gì khác lúc này.
Chính cô chủ động gọi cho Strike. Đã mấy tiếng đồng hồ trôi qua từ lúc hắn nhắn tin cho cô, báo là phải đi đến Trụ sở Cảnh sát London và nhờ cô khoá cửa văn phòng khi ra về. Robin đã rất lo lắng.
"Thì gọi cho anh ta đi, không thì trằn trọc mãi," Matthew nói vậy, không bực hẳn mà cũng không nói thẳng rằng mặc dù chưa biết mọi chi tiết, anh ta vẫn đồng ý với bên cảnh sát.
"Nghe này, tôi muốn nhờ cô làm một việc." Strike nói. "Gọi cho John Bristow ngay khi cô đến văn phòng sáng mai và báo với ông ta vụ Rochelle.”
"Được rồi," Robin đáp, mắt nhìn vào con voi nhồi bông to tướng mà Matthew tặng cô dịp Valentine đầu tiên, cách đây tám năm. Người tặng quà hiện đang ngồi xem bản tin Newsnight trong phòng khách. "Mai anh sẽ làm gì?”
"Tôi sẽ đến trường quay Pinewood để có vài lời với Freddie Bestigui.”
"Anh làm sao vào đó được?" Robin nói. "Họ sẽ không để anh tới gần ổng.”
"Được hết." Strike đáp.
Sau khi Robin dập máy, Strike ngồi im một lúc lâu trong văn phòng tối om. Vụ bữa ăn McDonald vẫn chưa tiêu hoá hết trong thi thể trương phình của Rochelle không hề làm Strike lợm giọng. Hắn vẫn ăn hết được cả hai cái Big Mac, một hộp khoai tây chiên lớn và một hộp kem McFlurry trên đường về văn phòng từ Trụ sở Cảnh sát London. Bụng hắn sôi ùng ục, hoà với tiếng bass thình thịch từ quán Bar Café số 12 dưới nhà mà giờ đây Strike hầu như không còn để ý nữa, cứ như đã trở thành mạch đập của hắn.
Căn hộ điệu đà, bừa bộn của Ciara, khuôn miệng mở rộng, rên rỉ, đôi chân dài trắng muốt quấn quanh lưng hắn, tất cả như đã lâu lắm rồi. Giờ đây hắn mãi nghĩ về chỗ trú thân tạm bợ, và Rochelle Onifade xấu số. Hắn nhớ lại cách cô ta nói ào ào trên điện thoại, chưa đầy năm phút sau khi rời quán Mc Donald, mặc y bộ đồ như khi được vớt từ dưới sông lên.
Hắn biết chắc chuyện gì đã xảy ra. Rochelle đã gọi điện cho thủ phạm để kể chuyện cô ta mới ăn trưa với một tay thám tử tư. Sau đó hai người hẹn gặp nhau. Tối hôm đó, sau một bữa ăn hay vài cốc bia, cả hai đi thơ thẩn trong bóng đêm, về phía bờ sông. Hắn nghĩ về cây cầu Hammersmith, cây cầu hai màu, xanh lá xô thơm và ánh vàng, gần nơi Rochelle vừa khoe là đã mua nhà, rồi nghĩ về dòng nước sông Thames chảy xiết dưới cầu. Cô ta không biết bơi. Trời tối: một cặp trai gái đang đùa giỡn gần đó, một chiếc xe chạy vụt qua, một tiếng hét rồi tiếng nước bắn lên. Liệu đã có ai nhìn thấy Rochelle?
Không ai cả, nếu thủ phạm có một thần kinh thép và liên tục gặp may. Yếu tố thứ nhất từng được thể hiện rõ ràng ở nạn nhân đầu tiên. Đúng là thủ phạm luôn ra tay táo tợn, cứ như biết mình sẽ luôn gặp may. Luật sư bên bị chắc chắn sẽ viện dẫn tâm lý bất ổn, vì kẻ thủ ác trong trường hợp này hành động quá liều lĩnh, khinh suất một cách khác thường và có lẽ, Strike nghĩ thầm, ở đây còn có cả vấn đề bệnh lý nữa, một chứng điên loạn nào đó. Nhưng lúc này hắn không quan tâm tới khoa tâm lý học. Cũng như John Bristow, hắn muốn đi tìm công lý.
Trong bóng tối, Strike suy nghĩ lan man. Dòng suy nghĩ ngược thời gian, đột ngột đọng lại ngay cái chết của người gần gũi nhất với Strike, dù chẳng liên quan gì. Cái chết mà Lucy luôn đinh ninh (một cách sai lầm) rằng đã ám ảnh mọi cuộc điều tra của hắn, ảnh hưởng đến mọi vụ án mà hắn tham gia. Cái chết đó đã chia cắt cuộc đời của hắn và Lucy thành hai chương rõ rệt, trước đó và sau đó. Lucy cứ nghĩ rằng hắn bỏ hết, quyết vào Quân cảnh Hoàng gia chỉ vì cái chết của bà Leda; vì hắn bất mãn sau khi không chứng minh được tội lỗi của ông cha dượng. Cô ta cho rằng mỗi xác chết mà hắn gặp trong khi làm việc hẳn đã làm Strike nhớ lại người mẹ, còn mỗi tên sát nhân hắn gặp hẳn nhắc Strike về ông chồng hờ của bà ta. Lucy tin rằng hắn lao vào điều tra những cái chết khác để bù đắp chuyện không thể đưa thủ phạm giết mẹ hắn ra ánh sáng.
Nhưng thực ra Strike đã chọn nghề này từ rất lâu, trước khi bà Leda tiêm mũi ma túy cuối cùng; trước cả khi hắn hiểu rằng mẹ hắn (và tất cả những người khác) đều sẽ phải chết, và những vụ án giết người không đơn giản chỉ là những câu đố chưa có lời giải. Lucy mới chính là người không thể quên chuyện cũ. Em gái hắn vẫn sống giữa mớ ký ức như đám ruồi nhặng bâu quanh xác chết. Lucy mới là người nhìn mọi cái chết bất thường với những xúc cảm mâu thuẫn từ sự ra đi đột ngột của mẹ hắn.
Tuy vậy, tối nay Strike lại làm cái việc mà hẳn Lucy nghĩ hắn luôn làm: hắn nhớ lại bà Leda và liên hệ với vụ án trước mặt. Leda Strike, fan nữ cuồng. Người ta luôn chú thích như vậy trong tấm ảnh nổi tiếng nhất của mẹ hắn, cũng là tấm ảnh duy nhất có cả cha lẫn mẹ của Strike. Ảnh trắng đen chụp mẹ hắn, với gương mặt trái tim, mái tóc sẫm màu mượt mà, đôi mắt mở to chăm chú. Đứng giữa mẹ hắn và Jonny Rokeby là một tay buôn nghệ thuật, một tay dân chơi quý tộc (về sau một người đã tự tử còn người kia chết vì AIDS) và người mẫu Carla Astofi, vợ thứ hai của Rokeby. Ngôi sao nhạc rock trông ái nam ái nữ, hoang dại, tóc dài gần bằng tóc của Leda. Ai cũng cầm ly martini và thuốc lá, khói thuốc vờn ra từ khoé miệng cô người mẫu nhưng mẹ hắn mới là người trông duyên dáng nhất.
Trừ Strike ra, tất cả đều cho rằng cái chết của Leda là hậu quả đáng tiếc nhưng không có gì bất ngờ của một lối sống phóng túng, vượt ra ngoài khuôn khổ xã hội. Đến cả những người thân quen lâu năm nhất của Leda cũng chấp nhận rằng chính bà ta tự chuốc ma tuý quá liều vào người. Tất cả đều đồng ý rằng Leda đã bước đến những ranh giới tội lỗi của cuộc sống; và chẳng có gì ngạc nhiên khi một ngày nào đó bước thêm một bước nữa, rơi xuống vực thẳm chết chóc, bất động và lạnh lẽo trên chiếc giường dơ dáy.
Không ai biết tại sao Leda làm việc đó, ngay cả cậu Ted cũng không (cậu chỉ đứng dựa vào chậu rửa bát trong bếp, lặng im đau đớn) hay mợ Joan ( mắt đỏ ngàu nhưng giận dữ, ngồi ở bàn ăn, choàng tay ôm Lucy lúc đó mới mười chín tuổi đang dựa đầu vào vai mợ nức nở). Chuyện chơi ma tuý quá liều hoàn toàn ăn khớp với lối sống của Leda lúc đó: ở nhà hoang tạm bợ, cặp kè với đám nhạc sĩ, tiệc tùng hư hỏng, rồi cuộc sống nghèo khó với ông chồng hờ cuối cùng. Chung quanh Leda lúc nào cũng có sẵn ma tuý, bà luôn muốn phê, muốn có những cảm xúc dữ dội. Chỉ có mỗi Strike tự hỏi mẹ hắn đã chuyển sang chích heroin từ khi nào. Chỉ mình Strike thấy lạ vì mẹ hắn vốn chỉ thích cần sa, mà lại đột ngột chết vì heroin. Một mình hắn có những câu hỏi bỏ ngỏ và nhận ra những tình tiết đáng nghi ngờ. Nhưng lúc đó hắn chỉ là cậu sinh viên hai mươi tuổi, chẳng ai thèm nghe hắn nói.
Sau phán quyết của tòa, Strike thu dọn hành lý và để lại sau lưng tất cả: vụ ồn ào ngắn ngủi trên báo chí, nỗi thất vọng của mợ Joan trước chuyện hắn bỏ học ở Oxford, Charlotte đau khổ giận dữ vì phải xa hắn nhưng cũng đã kịp ngủ với người khác, những màn khóc lóc gào thét của Lucy. Với sự ủng hộ duy nhất từ cậu Ted, Strike mất hút vào quân đội, tìm lại được cuộc sống mà Leda từng dạy cho hắn: một cuộc sống rày đây mai đó, sự tự lập và sức hấp dẫn vô tận của những thứ mới mẻ.
Tối nay, Strike cảm thấy bà Leda không khác gì một người chị tinh thần của hai cô gái đó. Một người xinh đẹp, yếu đuối và trầm cảm, cuối cùng tan xương nát thịt trên mặt đường giá băng. Một người xấu xí thô kệch vô gia cư, cuối cùng nằm trong nhà xác lạnh lẽo. Leda, Lula và Rochelle khác xa với Lucy hay mợ Joan. Cả ba đều không dè dặt trước bạo lực hay rủi ro. Họ không trói buộc mình vào cuộc đời bằng những thứ như nợ mua nhà trả góp, những công việc thiện nguyện, những ông chồng tốt bụng và những đứa con mặt mũi sạch sẽ. Vì vậy cái chết của họ không được xem là "bi thảm", như cái chết của các bà nội trợ đoan trang đáng kính.
Thật quá dễ dàng để phán xét một con người, để nói rằng chính họ tạo ra bi kịch của mình. Quá dễ dàng để khiến họ đi đến bước đường cùng, rồi bàng quan nhún vai đồng ý rằng đó chỉ là kết cục hoàn toàn biết trước của một lối sống suy đồi, hỗn loạn.
Gần như mọi chứng cứ vật chất trong vụ án của Lula đều đã bị xoá sạch từ lâu. Vết chân kẻ thủ ác đã bị dẫm đạp lên, hay bị tuyết rơi dày che phủ. Mẩu chứng cứ thuyết phục nhất mà Strike có được chỉ là đoạn phim trắng đen mờ mịt quay hình hai người đàn ông chạy khỏi hiện trường, mà cảnh sát chỉ xem cho có lệ rồi vứt qua một bên. Cảnh sát không tin có người đột nhập vào toà nhà, hoàn toàn bị thuyết phục rằng là Landry đã tự tử và cho rằng hai người trong đoạn phim chỉ là hai tên trộm đang lảng vảng chờ thời.
Strike bừng tỉnh, nhìn xuống đồng hồ. Mười giờ rưỡi nhưng hắn chắc người hắn đang muốn gọi điện vẫn còn thức. Hắn bật công tắc đèn để bàn, lấy điện thoại di động ra và bấm một số ở Đức.
"Oggy," một giọng lành lạnh ở bên kia đầu dây rống lên. "Sao rồi mậy?”
"Nhờ chút được không bồ tèo,”
Rồi Strike nhờ Trung uý Graham Hardacre cung cấp mọi thông tin có được về một người có họ Agyeman mà hắn còn không biết tên và cấp bậc, thuộc biên chế Kỹ sư Quân đội Hoàng Gia. Hắn đặc biệt quan tâm đến ngày tháng của những chuyến làm nhiệm vụ ở Afghanistan.
12
Đây là chiếc xe thứ hai Strike từng lái sau khi mất đi chân phải. Hắn từng cố lái chiếc Lexus của Charlotte, nhưng hôm nay, để tỏ ra thật mạnh mẽ lạnh lùng, hắn đã thuê một chiếc Honda Civic số tự động.
Từ văn phòng đến Iver Heath mất gần một tiếng đồng hồ. Strike vào được trường quay sau khi giở mọi ngón: nói thật nhanh, doạ dẫm và xẹt ra mấy thứ giấy tờ tuỳ thân không hề giả mạo nhưng đã hết hạn. Tay bảo vệ, ban đầu vô cùng nghiêm túc, đã bị thuyết phục hoàn toàn trước thái độ thản nhiên như không của Strike, cùng với cụm từ "Cục điều tra đặc biệt" và tấm thẻ có hình hắn.
"Anh có hẹn trước không?" Ông ta hỏi Strike, đứng cao hơn hắn ba tấc trong cabin ngay cạnh barrier điện, bàn tay ông ta chụp lên ống nghe điện thoại.
"Không.”
"Chuyện gì vậy?”
"Chuyện ông Evan Duffield," Strike đáp. Hắn thấy tay bảo vệ sưng sỉa mặt mày và lầm bầm gì đó vào điện thoại.
Khoảng một phút sau, Strike được chỉ đường và mở barrier cho vào. Hắn chạy xe dọc theo một con đường uốn thoai thoải quanh toà nhà trường quay, vừa đi vừa nghĩ mấy vụ tai tiếng của Duffield coi vậy mà cũng có thể dùng vào việc có ích.
Một chiếc Mercedes đậu ở khoảng riêng tại bãi, chỗ có gắn bảng tên ghi chữ GIÁM ĐỐC SẢN XUẤT FREDDIE BESTIGUI. Strike đậu xe ngay sau đó vài hàng, rồi lừng lững đi ra khỏi xe. Tay tài xế của Bestigui nhìn theo hắn qua kính chiếu hậu. Hắn đi qua một lớp cửa kính, đến một cầu thang trông tầm thường như ở những toà nhà công cộng. Một thanh niên đang chạy xuống cầu thang, anh này giông giống Khỉ Con, nhưng sạch sẽ gọn gàng hơn một chút.
"Ông Freddie Bestigui ở đâu?" Strike hỏi anh ta.
""Tầng hai, văn phòng thứ nhất bên tay phải.”
Bestigui xấu xí y như trong những tấm hình hắn từng xem, cần cổ trùng trục, mặt dày rỗ. Ông ta ngồi ở bàn đặt trong góc phòng, phía sau tấm kính ngăn với văn phòng ngoài, đang nhăn nhó nhìn vào màn hình máy tính. Văn phòng ở bên ngoài đông đúc và chật chội. Nhiều phụ nữ trẻ đẹp đang làm việc tại bàn. Poster quảng cáo film dán đầy lên mấy cây cột. Trên vách đầy hình chụp thú cưng với thời gian biểu quay phim. Một cô gái xinh đẹp ngồi ngay gần cửa, mang một bộ tai nghe và micro trực điện thoại. Cô ngẩng lên nhìn hắn, hỏi:
"Chào anh, tôi giúp gì được cho anh?”
"Tôi tới đây để gặp ông Bestigui. Cô khỏi lo, tôi tự đi vô được.”
Hắn đi vào trong phòng của Bestigui, trước khi cô ta kịp nói gì.
Bestigui ngước lên nhìn, hai mắt ti hí giữa những nếp thịt chảy xệ, da ngăm ngăm lốm đốm nốt ruồi.
"Anh là ai?”
Ông ta đã chống tay đứng lên, bàn tay chuối mắn giữ chặt mép bàn.
"Tôi là Cormoran Strike, thám tử tư. Tôi được...”
"Elena!" Bestigui đánh đổ cốc cà phê ra bàn, cà phê chảy tràn trên mặt gỗ bóng, ướt hết mớ giấy tờ. "Cút mẹ đi! Cút ra! CÚT”
"… anh trai của Lula Landry, John Bristow thuê để…”
"ELENA!”
Cô gái xinh đẹp mảnh khảnh vẫn đeo tai nghe chạy ngay vào, đứng run rẩy cạnh Strike. Trông cô ta hết cả hồn vía.
"Gọi cho bảo vệ đi, con ranh ngủ gục kia!”
Cô ta chạy ngay ra ngoài. Bestigui cao chừng một mét rưỡi là cùng. Lúc này ông ta đã đứng hẳn dậy, đi ra trước bàn. Ông nhìn Strike như một con chó Pitbull vừa phát hiện thấy lãnh địa mới bị một con chó Rottweiler xâm chiếm. Elena để cửa mở, nhân viên ở văn phòng bên ngoài lố nhố nhìn vào, vừa sợ hãi vừa tò mò không rời mắt được.
"Tôi đã cố bắt liên lạc với ông trong mấy tuần rồi, thưa ông Bestigui…”
"Mày gặp rắc rối to rồi con à," Bestigui nói, tiến lại gần hắn, miệng gầm gừ, cặp vai bệ vệ khom lại.
"… để nói chuyện hôm cô Lula Landry chết.”
Qua cửa kính, hắn thấy hai người đàn ông lực lưỡng, mặt mày căng thẳng, mặc áo sơ mi trắng, cầm theo bộ đàm đang chạy đến từ phía bên phải.
"Đem nó ra khỏi đây!" Bestigui gầm lên, chỉ tay về phía Strike. Hai người bảo vệ va vào nhau ở cửa rồi chen vào hết trong phòng.
"Cụ thể là," Strike nói tiếp, "về vị trí của vợ ông, bà Tansy, khi Lula ngã xuống…”
"Tống nó ra ngoài và gọi cảnh sát ngay! Làm quái nào mà nó vào đây được?”
“…bởi vì có người cho tôi xem mấy tấm hình chứng tỏ lời khai của bà nhà. Bỏ ra," Strike quay sang nói với tay bảo vệ trẻ hơn, tay này vừa níu cánh tay hắn lại, "nếu không tôi sẽ vứt anh qua cửa sổ.”
Tay bảo vệ không buông ra nhưng nhìn Bestigui, chờ lệnh.
Cặp mắt màu xanh đậm của Bestigui quắc lên, nhìn chằm chằm vào Strike. Ông ta nắm chặt bàn tay lại rồi thả ra. Một lúc lâu sau ông ta lên tiếng.
"Nói năng nhảm như cứt.”
Nhưng ông ta không ra lệnh cho hai người bảo vệ kéo Strike ra khỏi phòng.
"Người chụp hình đứng trên vỉa hè đối diện nhà ông lúc sáng sớm ngày Tám tháng Giêng. Anh ta không biết được bức hình đó có giá trị như thế nào. Nếu ông không muốn nói chuyện với tôi, cũng được thôi. Cảnh sát và báo chí sẽ vào cuộc. Đằng nào thì cũng vậy cả.”
Strike bước ra phía cửa. Hai người bảo vệ vẫn còn túm lấy cánh tay hắn bị bất ngờ, trong giây lát trông như đổi ý quyết giữ hắn lại.
"Cút ra," Bestigui đột ngột nói với đám thuộc hạ. "Khi cần tao sẽ gọi. Đóng cửa lại.”
Hai người đi ra. Khi cánh cửa đã đóng, Bestigui nói:
"Được rồi. Đồ khốn. Cho mày năm phút.”
Strike ngồi xuống chiếc ghế bọc da màu đen đối diện với bàn của Bestigui, mặc dù chưa được mời mọc gì. Nhà sản xuất phim trở lại chỗ ngồi cũ, vẫn nhìn Strike bằng cặp mắt lạnh lùng, cứng rắn, khác hẳn với cái nhìn của bà vợ ông ta. Bestigui có cặp mắt tính toán thận trọng của một tay cờ bạc chuyên nghiệp. Ông ta với tay lấy gói cigar cỡ nhỏ, kéo cái gạt tàn thuỷ tinh màu đen tới trước mặt và rút hộp quẹt vàng ra châm thuốc.
"Được rồi, vậy mấy cái hình giả định đó có gì," ông ta nói, nheo mắt nhìn qua lớp khói thuốc hăng hắc, đúng kiểu ông trùm điện ảnh.
"Chụp lại bóng đổ," Strike nói, "của một người đàn bà đang cúi người trên ban công, ngay bên ngoài cửa sổ phòng khách nhà ông. Trong hình bà ta dường như không mặc gì, nhưng cả tôi và ông đều biết, là có mặc đồ lót.”
Bestigui phả mạnh một hơi thuốc trong vài giây, rồi rút điếu cigar ra và nói:
"Vớ vẩn. Từ bên kia đường không thể thấy được. Nền ban công bằng đá nguyên khối, từ góc đó không thấy được gì cả. Hơi bị liều đó.”
"Trong phòng khách của ông lúc đó có bật đèn. Có thể thấy được bóng bà Tansy qua khe hở trên ban công. Có đủ chỗ cho bà ta ở đó, đương nhiên rồi, vì lúc đó làm gì có chậu cây cảnh, phải vậy không? Người ta thường bứt rứt không yên, phải làm méo mó hiện trường cho bằng được, mặc dù đã yên ổn." Strike nói thêm, thản nhiên như không. "Ông cố làm như trên ban công không có đủ chỗ cho ai đứng cả, đúng không? Nhưng ông không thể quay ngược thời gian để dùng Photoshop chỉnh sửa sự thật. Thực tế là Tansy lúc đó hoàn toàn có thể nghe được tất cả những gì xảy ra trên ban công tầng ba, ngay trước khi Lula Landry chết.
"Tôi cho là như thế này," Strike nói tiếp, trong khi Bestigui tiếp tục nheo mắt nhìn hắn qua làn khói từ điếu cigar. "Ông và bà nhà hẳn đã cãi nhau khi bà ta đang cởi áo ngoài chuẩn bị đi ngủ. Có lẽ vì ông tìm thấy vài tép trong nhà tắm, hay bắt quả tang bà đang phê. Vậy là ông quyết định phạt Tansy bằng cách tống cổ ra ngoài ban công, giữa cái lạnh dưới không độ.”
"Người ta chắc sẽ đặt câu tại sao một con phố đầy ắp paparazzi mà không ai nhìn thấy một người đàn bà gần như trần truồng vừa bị đuổi ra ngoài ban công ngay trên đầu họ. Nhưng đêm đó tuyết rơi rất dày. Còn đám thợ săn ảnh vừa phải liên tục dậm chân xuống đất để giữ ấm vừa phải tập trung nhìn về cuối đường vì Lula và Deeby có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào. Tansy cũng không hề la hét đúng không? Bà ta cúi người xuống, nấp kín, không muốn lộ mặt ra trước báo giới, khi trên người chỉ có mỗi bộ đồ lót. Có thể ông đã tống cổ bà ta ra đó ngay lúc xe của Lula vừa về đến nơi. Không ai lại đi nhìn lên cửa sổ nhà ông khi Lula Landry vừa xuất hiện, mặc áo đầm mỏng manh.”
"Toàn nhảm nhí vớ vẩn," Bestigui nói. "Anh cóc có tấm hình nào cả.”
"Tôi chưa bao giờ nói là tôi có mấy tấm hình đó. Tôi chỉ nói là có người đã cho tôi xem.”
Bestigui rút điếu cigar ra khỏi miệng, rồi đổi ý không muốn nói nữa, ngậm lên trở lại. Strike đợi một lúc khá lâu nhưng khi đã rõ là Bestigui không nói năng gì, hắn tiếp:
“Tansy hẳn đã đập lên cửa ngay sau khi thấy Landry rớt xuống. Ông không ngờ bà ta lại đập cửa la lối đúng không? Sợ phải phơi bày bản tính vũ phu trước bàn dân thiên hạ, ông mở cửa ngay. Tansy vừa la hét vừa chạy vào, ngang qua mặt ông, chạy thẳng xuống nhà dưới để báo với Derrick Wilson.
"Lúc đó ông mới nhìn xuống lan can và thấy Lula Landry nằm chết trên mặt đường.”
Bestigui phả khói thuốc chậm rãi, mắt vẫn không rời khỏi gương mặt Strike.
"Bồi thẩm đoàn hẳn sẽ thấy chuyện ông làm ngay sau đó vô cùng mờ ám. Ông không gọi 999. Ông không chạy theo bà vợ bị lạnh cóng, còn đang hoảng loạn. Ông thậm chí còn không chạy vào toilet để phi tang hết chỗ ma túy vẫn còn vương vãi trong đó, dù nếu ông làm chuyện này thực thì bồi thẩm đoàn thấy còn có vẻ hợp lý.
"Không, ngay sau đó, trước khi chạy theo bà vợ hay gọi cảnh sát, ông lại đi lau cửa sổ thật sạch. Nên trên cửa sổ không hề có dấu tay của Tansy vịn vào từ bên ngoài, đúng vậy không? Ưu tiên hàng đầu lúc đó của ông là xóa sạch dấu vết vụ tống bà vợ ra ngoài ban công, trong khi bên ngoài âm mười độ. Ông đã sẵn tai tiếng bạo lực hiếp đáp, cộng thêm vụ lùm xùm với cô nhân viên cũ vẫn còn lơ lửng, dại gì mà cúng thêm bằng chứng cho báo chí hay công tố viên?
"Sau khi đã yên tâm rằng mọi dấu vân tay trên cửa kính đều bị xoá sạch, ông chạy xuống nhà dưới rồi bắt bà Tansy quay trở về căn hộ. Trong thời gian ngắn ngủi đợi cảnh sát đến, ông khống chế Tansy, buộc bà ta không được khai ra đã ở đâu khi Lula rơi xuống. Tôi không biết ông hứa hẹn hay hù doạ gì bà ta, nhưng rõ là có tác dụng.
"Nhưng ông vẫn chưa thấy yên tâm, vì lúc đó Tansy quá sốc và hoảng loạn, ông e là bà ta sẽ buột miệng nói ra hết. Vậy là ông cố đánh lạc hướng cảnh sát bằng cách lu loa về cái bình hoa bị bể, để Tansy có thời gian bình tĩnh lại và làm đúng theo lời ông.
"Mà đúng là bà ta giữ lời thật còn gì nữa? Có Chúa mới biết vụ này tốn của ông bao nhiêu, nhưng mặc cho báo chí bủa vây, mặc cho người ta gọi mình là một kẻ hoang tưởng thối trí vì cocaine, bà ta trước sau vẫn khăng khăng rằng đã nghe thấy tiếng Landry và kẻ sát nhân cãi vã, mặc dù ở cách hai tầng lầu và có cả kính cách âm.
"Nhưng nếu biết được đã có tấm ảnh này," Strike tiếp, "tôi nghĩ bà ta sẽ nhẹ nhõm mà khai hết. Bà vợ ông nghĩ mình mê tiền hơn tất cả những thứ khác trên đời nhưng cũng bị cắn rứt lương tâm lắm. Tôi tin chắc là chẳng bao lâu nữa bà ta sẽ khai hết thôi.”
Bestigui đã hút điếu cigar đến mẩu chót. Ông ta chậm rãi dụi đầu thuốc vào chiếc gạt tàn thủy tinh màu đen. Những giây tiếp theo dài dằng dặc, âm thanh ở văn phòng bên ngoài vọng vào qua cửa kính, tiếng người nói lao xao, rồi tiếng điện thoại đổ chuông.
Bestigui đứng dậy, kéo tấm rèm vải bạt xuống, che hết bức tường kính ngăn cách với bên ngoài, khuất mắt đám con gái tò mò hồi hộp. Ông ta ngồi xuống, ngón tay chuối mắn chậm rãi sờ soạng lên chiếc cằm sần sùi, nhìn Strike rồi nhìn ra ngoài, dán mắt vào tấm bạt màu kem trống trơn vừa được kéo xuống. Strike dường như thấy rõ ông ta đang cân nhắc từng lựa chọn, như đang lựa các lá bài, tính kế chơi tiếp.
“Màn cửa đã được kéo lại,” cuối cùng Bestigui lên tiếng. “Không có đủ ánh sáng chiếu ra để nhìn thấy một người đàn bà đang trốn trên ban công. Tansy sẽ giữ nguyên lời khai.”
“Chưa chắc,” Strike nói, duỗi chân ra; chiếc chân giả vẫn còn khó chịu. “Nếu tôi nói với bà ấy, đúng như ngôn ngữ của tòa, rằng việc hai người đã làm là ‘cản trở quá trình điều tra’. Nếu thành khẩn khai báo thì Tansy sẽ tránh được tù tội; cộng thêm sự thương hại chắc chắn của công chúng dành cho một nạn nhân bạo hành gia đình, rồi cả những lời mời mọc phỏng vấn độc quyền. Khi Tansy nhận ra rằng bà ta có quyền nói trước tòa, lần này người ta sẽ tin lời bà ấy, rồi có thể giúp lôi kẻ thủ ác ra ánh sáng, thì ông Bestigui à, tôi không nghĩ lúc đó ông có đủ tiền để Tansy ngậm miệng nữa đâu.”
Mép da sần sùi quanh miệng Bestigui giật khẽ. Ông ta cầm gói cigar lên nhưng không rút thêm điếu nào nữa. Một lâu sau đó ông ta chỉ im lặng, vờn gói thuốc qua mấy ngón tay.
Cuối cùng ông ta nói:
“Tôi không khai khiếc gì hết. Cút ra.”
Strike đứng im.
“Tôi biết ông rất muốn gọi cho luật sư,” hắn nói, “nhưng tôi nghĩ ông đã bỏ sót một cơ hội ở đây.”
“Đủ rồi. Tôi nói rồi, cút ra.”
“Có khó khăn đến đâu nữa thì thừa nhận sự thật đêm hôm đó vẫn còn hơn là trở thành nghi can số một trong một vụ án mạng. Từ lúc này trở đi ông chỉ có thể chọn phương án đỡ tệ hơn mà thôi. Nếu khai thật ông sẽ không bị dính gì đến vụ giết người nữa.”
Lúc này Strike đã có được sự chú ý của Bestigui.
“Ông không thể là thủ phạm được,” Strike nói, “bởi vì nếu ông xô Landry xuống từ hai tầng lầu phía trên, ông sẽ không có đủ thời gian mở cửa cho Tansy vào trong nhà, chỉ vài giây sau khi thi thể rơi xuống. Tôi nghĩ ông tống bà vợ ra ngoài, đi thẳng vào giường nằm một lúc – bên cảnh sát có nói trên giường chăn gối lộn xộn, như vừa có người nằm – nhưng lúc đó ông vẫn để mắt nhìn đồng hồ. Tôi nghĩ ông không muốn ngủ quên luôn, vì nếu Tansy bị nhốt ngoài ban công quá lâu mà chết cóng thì ông sẽ bị khép tội ngộ sát. Chẳng lạ gì khi Wilson nói rằng khi chạy xuống nhà bà ta run như cầy sấy. Có lẽ lúc đó bà ta đang bị hạ thân nhiệt giai đoạn đầu rồi.”
Lại im lặng. Chỉ nghe được tiếng mấy ngón tay cục mịch của Bestigui gõ nhè nhẹ trên cạnh bàn. Strike rút cuốn sổ tay ra.
“Bây giờ ông trả lời vài câu hỏi được không?”
“Đồ khốn!”
Cơn giận dữ của Bestigui bị kiềm chế nãy giờ đã bùng nổ. Ông ta nghiến hàm, vai gồng lên ngang lỗ tai. Hắn hình dung lúc nạt nộ bà vợ gầy gò, đang phê trắng mắt chắc ông ta trông cũng như vậy, thêm hai bàn tay co vuốt toan bóp cổ.
“Ở đây nói thẳng ra là ông đang ngập bùn tới mũi rồi,” Strike nói thản nhiên như không, “nhưng chìm tới đâu nữa là tùy ở ông. Ông có thể phủ nhận tất cả, rồi đấu đá với bà vợ tại tòa và trên mặt báo, rồi ngồi tù vì tội khai man và cản trở người thi hành công vụ. Hoặc ông có thể bắt đầu hợp tác, ngay lúc này đây để có được sự biết ơn và thiện ý của gia đình Lula. Như vậy sẽ được coi là thành khẩn khai báo, sẽ rất có ích khi xin giảm tội. Nếu thông tin mà ông cung cấp giúp tìm ra thủ phạm, tôi nghĩ cùng lắm ông chỉ bị khiển trách. Trong vụ này, cảnh sát mới là chỗ sẽ hứng trọn đòn của dư luận và báo chí.”
Bestigui thở nặng nhọc, nhưng dường như đang cân nhắc lời của Strike. Cuối cùng, ông ta gầm gừ:
“Đếch có tên sát nhân nào cả. Wilson chẳng thấy ai trên đó cả. Landry nhảy lầu,” ông ta nói, đầu giật giật, ra ý phủ nhận, “Cô ta cũng chỉ là một đứa nghiện ngập điên khùng, như mụ vợ khốn nạn của tôi.”
“Có một tên sát nhân,” Strike nói ngắn gọn, “và ông đã giúp hắn ta thoát tội.”
Dường như ở vẻ mặt Strike có gì đó khiến Bestigui không tiếp tục bỉ bai hắn được nữa. Khi ngẫm ngợi về những lời Strike vừa nói, cặp mắt Bestigui nheo lại, chỉ còn như hai sợi chỉ đen.
“Tôi nghe nói ông muốn mời Lula đóng phim?”
Bestigui có vẻ lúng túng khi Strike thay đổi chủ đề.
“Chỉ mới định vậy thôi,” ông ta lầm bầm. “Bình hoa di động, nhưng quá đẹp.”
“Ông muốn đưa cô ấy và Deeby Macc vào cùng một phim?”
“Hai đứa đó đứng chung thì hái ra tiền.”
“Còn bộ phim ông định làm sau khi cô ấy chết nữa – kiểu dựa theo chuyện có thật, phải vậy không? Tôi nghe nói Tony Landry không được vui lắm.”
Strike ngạc nhiên khi thấy một nụ cười dâm dật hiện dần lên trên gương mặt phì nộn của Bestigui.
“Ai nói với anh vậy?”
“Không đúng à?”
Dường như mãi đến lúc này Bestigui mới làm chủ lại được tình thế.
“Không, sai bét. Anthony Landry đã nhăm nhe trước với tôi là sau khi phu nhân Bristow chết, ông ta sẽ sẵn sàng nói chuyện với tôi.”
“Lúc gọi cho ông về chuyện đó ông Landry không tức tối gì à?”
“Chỉ nói miễn là làm sao phải tế nhị, đừng thô quá, vân vân…”
“Ông có quen biết Tony Landry không?”
“Tôi có biết ông ta.”
“Trong hoàn cảnh nào?”
Bestigui gãi cằm, mỉm cười một mình.
“À, đương nhiên rồi, Landry là luật sư của vợ ông trong vụ ly dị.”
“Hiện thời là như vậy,” Bestigui nói.
“Ông nghĩ Tansy sẽ thôi mướn Landry à?”
“Có thể,” Bestigui nói, nụ cười trở nên đểu cáng tự đắc. “Có mâu thuẫn quyền lợi. Để rồi xem.”
Strike nhìn xuống cuốn sổ, tính toán rủi ro, lạnh lùng như một tay chơi bài poker chuyên nghiệp. Hắn tự hỏi nếu khai thác hết hướng điều tra này thì có liều quá không, thực tế vẫn chưa có chứng cứ.
“Ý ông là,” hắn nói, ngẩng lên nhìn Bestigui, “ông đã nói với Landry rằng ông biết tay này đang ngủ với vợ của Cyprian May?”
Bestigui sững lại trong giây lát, rồi phá ra cười, thô lỗ và dữ dằn, rất đắc chí.
“Biết vụ đó hả?”
“Làm sao ông biết được?”
“Tôi thuê một thằng như anh vậy. Tôi cứ tưởng Tansy đang mèo mỡ, nhưng hóa ra là mụ ta bao che cho con em khốn nạn, trong khi Ursula ăn nằm với Tony Landry. Vui bỏ mẹ đi được nếu hai vợ chồng đó dắt nhau ra tòa. Cả hai bên đều có luật sư sừng sỏ. Công ty luật gia đình lâu đời sẽ giữa đường đứt gánh. Cyprian May coi vậy mà không vừa đâu. Ông ta đại diện cho mụ vợ thứ hai của tôi. Tôi sẽ sướng kinh người khi xem vụ đó. Dễ gì có dịp bọn luật sư vặt cổ lẫn nhau.”
“Như vậy ông đã thủ sẵn được một đòn trong vụ ly dị?”
Bestigui cười đểu qua làn khói thuốc.
“Chưa đứa nào biết là tôi biết cả. Tôi vẫn đang chờ đúng lúc mới nói.”
Nhưng rồi Bestigui dường như đột ngột nhớ ra là hiện giờ trong tay Tansy còn có một thứ vũ khí còn mạnh hơn, nụ cười của ông ta nhạt dần thành vẻ chua chát trên khuôn mặt sần sùi.
“Cuối cùng,” Strike nói. “Đêm Lula chết, sau khi ông chạy theo bà vợ xuống dưới sảnh để kéo bà ta quay trở lên, ông có nghe được gì bên ngoài căn hộ không?”
“Chứ không phải anh đang cố chứng minh là đếch nghe được gì trong nhà tôi nếu đóng cửa sổ hả?” Bestigui bật lại.
“Không phải từ ngoài đường; ý tôi là tiếng động ngay bên ngoài cửa căn hộ. Lúc đó hẳn Tansy còn la lối, nhưng lúc hai người đã vào trong nhà, khi ông cố ý làm bà ấy bình tĩnh lại? – Lúc đó có tiếng động gì ở bên ngoai không? Hay Tansy la to quá?”
“Mụ ta ồn ào bỏ mẹ,” Bestigui nói. “Tôi không nghe gì cả.”
“Hoàn toàn không có gì hết?”
“Không có gì đáng ngờ. Chỉ là Wilson chạy ngang qua cửa.”
“Wilson.”
“Đúng vậy.”
“Lúc nào?”
“Lúc anh nói đó. Khi vừa quay lại trong nhà."
“Ngay sau khi đóng cửa?”
“Ừ.”
“Nhưng lúc ông xuống dưới sảnh thì Wilson đã chạy lên lầu rồi, phải không?”
“Đúng thế.”
Những nếp nhăn trên trán và ở khóe miệng Bestigui trở nên sâu hơn.
“Vậy lúc ông vào lại trong nhà thì Wilson đã đi quá xa?”
“Ờ…”
“Nhưng ông nghe có tiếng bước chân trên cầu thang, ngay sau khi đóng cửa lại?”
Bestigui không trả lời. Lần đầu tiên Strike thấy ông ta đang khớp mọi thứ trong đầu lại.
“Tôi có nghe… đúng vậy… tiếng bước chân. Chạy ngay qua. Từ cầu thang xuống.”
“Được rồi,” Strike hỏi tiếp. “Ông có nhớ được là bước chân của một người hay hai người không?”
Bestigui nhướng mày, mắt ông ta giãn ra, không nhìn Strike nữa mà hồi tưởng lại ký ức lờ mờ cách đây ba tháng. “Hình như… một người. Vì vậy mà tôi nghĩ là Wilson. Nhưng không lý nào… Wilson vẫn còn ở trên tầng ba, kiểm tra căn hộ của Lula… vì sau đó tôi có nghe tiếng ông ta đi xuống trở lại… lúc sau… sau khi tôi gọi cảnh sát, tôi nghe tiếng chân ông ta chạy ngang cửa…”
“Tôi quên mất,” Bestigui nói, trong giây lát, ông ta có vẻ yếu đuối lạ kỳ. “Tôi quên mất. Lúc đó ồn ào quá. Tansy thì la hét.”
“Và, đương nhiên, ông còn bận nghĩ cho cái thân mình nữa” Strike nói gọn, đút cuốn sổ và cây viết vào túi rồi đứng lên. “Được rồi, tôi sẽ không làm mất thì giờ của ông nữa, hẳn ông đang muốn gọi điện cho luật sư. Ông đã giúp tôi rất nhiều. Hẹn gặp nhau ở tòa.”
13
Ngày hôm sau Eric Wardle gọi cho Strike.
“Đã gọi Deeby,” anh ta báo cáo cụt ngủn.
“Sao nữa?” Strike hỏi, ra dấu nhờ Robin chuyển cây viết và tờ giấy. Hai người vừa ngồi ở bàn của Robin, uống trà ăn bánh qui và nói về bức thư dọa giết gần đây nhất từ Brian Mathers. Trong thư hắn ta hứa, không phải là lần đầu tiên, sẽ rạch bụng Strike và tè một bãi vô đó.
“Deeby nói và Somé gởi một cái áo thun dày liền mũ thiết kế riêng. Trước áo có đính khuy xếp hình khẩu súng còn sau lưng có vài dòng lời bài hát.”
“Chỉ một cái thôi hả?”
“Ừ.”
“Còn gì nữa không?” Strike hỏi.
“Anh ấy nhớ là có một cái dây thắt lưng, một cái mũ tròn và một bộ măng-sét.”
“Không có găng tay sao?”
Wardle dừng lại, có lẽ là kiểm tra trong ghi chép.
“Không, anh ấy không nhắc gì tới găng tay hết.”
“Vậy là rõ rồi,” Strike đáp.
Wardle không nói gì nữa. Strike đợi xem anh chàng cảnh sát sẽ dập máy hay nói thêm gì nữa.
“Điều tra chính thức bắt đầu từ thứ Năm này.” Wardle đột ngột nói. “Vụ Rochelle Onifade.”
“Vậy à.” Strike đáp.
“Anh không quan tâm sao?”
“Không.”
“Tôi tưởng anh chắc chắn vụ đó là án mạng?”
“Tôi chắc chứ, nhưng điều tra sẽ không rút ra kết luận gì cả. Có biết tang lễ lúc nào không?”
“Không,” Wardle nói, có vẻ bực bội. “Để làm gì vậy?”
“Tôi tính tới dự.”
“Để làm gì?”
“Cô ta có một bà cô, nhớ không?” Strike đáp.
Wardle dập máy, Strike ngỡ là vì anh cảnh sát hết chịu nổi hắn nữa.
Bristow gọi Strike ngay trong buổi sáng hôm đó, cung cấp thời gian và địa điểm đám tang Rochelle.
“Alison tìm ra được hết mấy thông tin đó,” ông ta nói với tay thám tử trên điện thoại. “Cô ấy thật là lanh lợi.”
“Rõ là vậy.” Strike đáp.
“Tôi sẽ đến dự. Thay mặt Lula. Đáng ra tôi phải giúp đỡ Rochelle mới phải.”
“Chuyện này cũng khó tránh khỏi, John à. Alison có đi cùng anh không?”
“Cô ấy cũng muốn đi,” Bristow nói, nghe giọng không tha thiết gì lắm.
“Gặp anh ở đó vậy. Tôi mong sẽ nói chuyện được với cô của Rochelle, nếu bà ta có đến dự.”
Khi Strike nói với Robin rằng bạn gái của Bristow vừa tìm ra thời gian và địa điểm tổ chức tang lễ, trông cô hơi thất vọng. Cô cũng đã cố tìm kiếm những thông tin đó theo yêu cầu của Strike. Robin có cảm giác như Alison vừa thắng “một-không” với mình.
“Tôi không biết là cô ganh đua tới vậy đó,” Strike nói, thấy tức cười. “Đừng lo. Chắc vì bả có lợi thế đi trước cô thôi.”
“Đi trước sao kia?”
Nhưng Strike lại đang nhìn cô, ra vẻ tính toán.
“Gì kia?” Robin hỏi lại, hơi bị tự ái.
“Tôi muốn cô đi cùng tôi tới đám tang Rochelle.”
“Ồ.” Robin ngạc nhiên. “Được thôi. Nhưng tại sao?”
Cô tưởng Strike muốn đi thành cặp để trông tự nhiên hơn, như hồi đi Vashti. Nhưng hắn lại nói:
“Có một chuyện tôi muốn nhờ cô làm ở đó.”
Sau khi hắn giải thích, rõ ràng và cụ thể việc mà hắn muốn nhờ làm, trông Robin vô cùng hoang mang.
“Nhưng tại sao?”
“Tôi không nói được.”
“Tại sao không?”
“Tôi cũng không nói được luôn.”
Robin không còn nhìn Strike bằng con mắt của Matthew như hồi đầu, không còn nghi ngờ rằng hắn đóng kịch hay ba hoa chích chòe hay làm ra vẻ thông minh. Nên cô không cho là hắn đang cố tỏ ra bí hiểm một cách không cần thiết. Robin lẩm bẩm lặp lại, như thể sợ nghe nhầm:
“Brian Mathers.”
“Đúng vậy.”
“Thằng cha chuyên gởi thư dọa giết.”
“Đúng thế.”
“Nhưng,” Robin nói, “Cha đó thì dính gì đến án mạng của Lula?”
“Không dính gì hết,” Strike đáp, nghe cũng thành thật. “Chưa dính.”
Ba ngày sau, đám tang của Rochelle được cử hành ở nhà hỏa táng ở phía Bắc London, một nơi lạnh lẽo, không tên tuổi và nhuốm màu phiền muộn. Mọi thứ đều trung dung, trôi tuồn tuột qua mất, từ những dãy ghế gỗ sẫm màu và những bức tường trống trơn, không hề có một dấu hiệu tôn giáo nào cả; đến tấm tranh kính màu trừu tượng ghép từ những hình vuông nhỏ xíu như hạt cườm trên cửa sổ. Strike ngồi trên băng ghế cứng. Người chủ lễ giọng eo éo liên tục đọc nhầm tên Rochelle là “Roselle”. Mưa bụi rơi lấm tấm đầu khung cửa sổ lòe loẹt ngay trên đầu hắn. Giờ đây hắn mới thấy hết tác dụng của những bức tượng tiểu thiên sứ mạ vàng, các thể loại thần thánh tạc bằng thạch cao, những máng xối hình thù kỳ dị, những thiên thần trong Kinh Cựu Ước rồi những cây thập giá vàng đính đá quý. Tất cả những thứ đó tạo ra không khí uy nghiêm hoành tráng, như lời hứa hẹn chắc chắn về nước Chúa, cũng như làm cho người đi đưa đám phải nghĩ đến phẩm giá của người đã khuất. Rochelle, cô gái xấu số đã từng được nếm mùi thiên đường trên mặt đất, thiên đường có những món hàng hiệu, những người nổi tiếng để mà cô dè bỉu sau lưng và các anh lái xe đẹp trai để cợt đùa chút đỉnh. Rochelle từng khao khát thế giới đó, và đây là kết cục của cô ta: bảy người đưa đám và một vị chủ lễ còn không đọc đúng tên của cô.
Đám tang của Rochelle lạnh lùng đến mức trơ tráo. Người đi đưa có vẻ hơi ngượng ngùng, lúng túng tránh không nói gì về cuộc đời của Rochelle. Dường như không ai cảm thấy mình có quyền ngồi ngay hàng ghế đầu. Đến cả người đàn bà da đen béo phì mang kính dày và đội mũ len, mà Strike đoán là cô của Rochelle, cũng chọn ngồi cách miệng lò hỏa thiêu đến ba hàng ghế, tránh xa chiếc quan tài rẻ tiền. Ông nhân viên hói đầu mà Strike gặp ở nhà trọ St Elmo cũng đến dự, mặc áo sơ mi không cài nút cổ và áo khoác da. Ngồi sau là một gương mặt xa lạ - một thanh niên châu Á mặc complet gọn gàng, Strike đoán hẳn đây là bác sĩ tâm thần ở khu ngoại trú nơi Rochelle đi chữa bệnh.
Strike mặc complet màu xanh đen. Robin mặc váy đen và áo khoác hôm đi phỏng vấn. Hai người ngồi ở hàng ghế phía sau. Ở hàng ghế đối diện với bên kia lối đi là John Bristow, tái nhợt và rầu rĩ, ngồi cùng với Alison. Bà ta mặc một chiếc áo khoác đi mưa màu đen cổ bẻ, mấy giọt nước mưa đọng trên áo ánh lên dưới ngọn đèn lạnh lẽo.
Tấm màn đỏ rẻ tiền được kéo ra, rồi cỗ quan tài biến mất đằng sau đó, cô gái chết đuối giờ đây bị ngọn lửa thiêu trụi. Những người khách lặng lẽ gượng gạo mỉm cười khách sáo với nhau sau khi ra khỏi khu hỏa táng, nán lại thêm một chút để lễ tang vốn dĩ đã sơ sài không tàn cuộc quá nhanh đến bẽ bàng. Cô của Rochelle trông lập dị, gần như bất bình thường, tự giới thiệu tên là Winifred rồi lớn giọng tuyên bố, nghe như dọa nạt:
“Bên quán xẵng bánh mì kẹp rồi đó. Tui cứ tưởng có nhìu ngừ hơn.”
Bà ta dẫn đường đi ra ngoài, như thể không chấp nhận sự phản đối nào cả, ngược lên quán Red Lion. Sáu người còn lại đi theo sau, hơi cúi đầu tránh mưa.
Món bánh mì kẹp trông khô khốc và chẳng ngon lành gì sắp sẵn trên khay bằng giấy nhôm, có bọc ni lông kín, đặt trên một chiếc bàn nhỏ trong góc quản rượu cũ kỹ. Trên đường đến quán Red Lion, Cô Winifred đã kịp nhận ra John Bristow là ai. Khi vào trong quán bà ta kè kè đi theo ông luật sư, giữ ông ta đứng mãi ở quầy bar và nói liên tu bất tận. Bristow cố trả lời mỗi khi bà ta cho phép xen vào, nhưng thỉnh thoảng ông ta lại liếc nhìn Strike cầu cứu. Hắn vẫn đang nói chuyện với bác sĩ điều trị của Rochelle. Càng về sau Bristow càng liên tục liếc về phía hắn, trông vô cùng thống thiết.
Anh chàng bác sĩ tâm thần khéo léo né tránh mọi nỗ lực của Strike khi hắn cố moi thông tin về nhóm bệnh nhân ngoại trú. Cuối cùng trược một câu hỏi về Rochelle, anh ta lịch sự nhưng cứng rắn từ chối trả lời hắn, nhắc lại nguyên tắc bảo mật thông tin bệnh nhân.
“Anh có ngạc nhiên khi nghe tin Rochelle tự tử không?”
“Không, không ngạc nhiên mấy. Cô ấy có rất nhiều vấn đề, anh biết rồi đó. Rồi vụ Lula Landry cũng làm Rochelle bị sốc nặng.”
Không lâu sau đó anh ta chào tạm biệt rồi ra về.
Robin cố bắt chuyện với Alison ở bàn nhỏ cạnh cửa sổ, nhưng bà ta cứ trả lời nhát gừng. Cô bỏ cuộc, đi vào nhà vệ sinh.
Strike đi qua sảnh nhỏ, ngồi vào ghế Robin vừa đi khỏi. Alison nhìn hắn, không lấy gì làm thân thiện, rồi quay lại dán mắt về phía Bristow vẫn đang bị bà cô của Rochelle thuyết giáo. Alison không mở nút áo đi mưa. Một ly rượu nhỏ, có vẻ là rượu port đặt trên bàn ngay trước mặt bà ta. Miệng Alison thoáng cười khinh khỉnh, vẻ như mọi thứ xung quanh toàn là rơm rác. Strike vẫn còn đang nghĩ cách bắt chuyện thì bà ta đột ngột lên tiếng trước:
“Đáng ra sáng nay John phải đi họp với đại diện Conway Oates chứ. Ông ấy để Tony đi một mình. Tony giận lắm.”
Giọng bà ta như ám chỉ rằng Strike có trách nhiệm trong vụ này. Và hắn phải biết được hắn đã gây rắc rối như thế nào. Bà ta nhấp một ngụm port. Tóc Alison đổ xuống vai, đôi bàn tay to của bà ta khiến cái ly trông nhỏ xíu. Vẻ ngoài tầm thường thô kệch không khiến Alison chìm lẫn giữa đám đông, mà lại làm toát lên ở bà ta vẻ trịch thượng.
“Chị không nghĩ John đến dự đám tang vậy cũng là tử tế hay sao?” Strike hỏi.
Alison hừ một tiếng, cười nhạt.
“Có phải như ông ấy thân thiết gì con bé này đâu.”
“Thế tại sao chị lại đi cùng?”
“Tony muốn tôi đi.”
Strike để ý thấy vẻ lúng túng nhưng trìu mến trong cách bà ta gọi tên ông sếp.
“Tại sao vậy?”
“Cần để mắt đến John.”
“Tony nghĩ cần phải trông chừng John à?”
Bà ta không trả lời.
“John và Tony cùng dùng chị phải không?”
“Anh nói gì?” Bà ta hỏi, gay gắt.
Strike thấy nhẹ nhõm vì đã phá được cái vỏ bình tĩnh của bà ta.
“Ý tôi là họ cùng dùng chị làm thư ký đó?”
“À, ờ, không phải vậy. Tôi làm việc cho Tony và Cyprian; tôi là thư ký của thành viên cấp cao.”
“Ra vậy. Tại sao tôi cứ nghĩ chị cũng là thư ký của John nhỉ?”
“Tôi làm việc ở mảng hoàn toàn khác,” Alison nói. “John dùng tổ thư ký chung của công ty. Tôi không dính gì đến ông ấy trong công việc cả.”
“Vậy mà tình yêu nảy nở xuyên qua phòng ban và các tầng lầu?”
Bà ta đáp lại câu bông lơn rẻ tiền của hắn bằng cách im lặng, tiếp tục tỏ thái độ khinh khỉnh. Dường như Alison chỉ coi Strike như một tên ưa gây sự, du thủ du thực, không đáng phải giữ phép tắc trước mặt hắn.
Ông nhân viên nhà trọ đứng một mình trong góc, ăn bánh mì, rõ là đang cố giết thời gian cho đến lúc có thể cáo lui một cách lịch sự. Robin đi ra khỏi nhà vệ sinh, ngay lập tức bị Bristow cầu cứu. Có vẻ như ông ta chịu hết nổi Cô Winifred.
“Vậy chị với John được bao lâu rồi?” Strike hỏi.
“Vài tháng.”
“Hai người bắt đầu quen nhau trước khi Lula chết, phải không?”
“Không lâu sau đó ông ấy ngỏ lời với tôi,” bà ta nói.
“Chắc lúc đó ông ấy buồn lắm nhỉ?”
“Suy sụp.”
Giọng bà ta chẳng có gì là cảm thông, mà hơi khinh thường.
“Trước đó ông ấy tán tỉnh chị có lâu không?”
Hắn nghĩ bà ta sẽ từ chối trả lời. Nhưng hắn sai. Mặc dù cố làm ra vẻ thản nhiên, câu trả lời của Alison tỏ rõ sự thỏa mãn, tự đắc không lẫn vào đâu được.
“Ông ấy đi lên lầu gặp Tony. Tony đang bận, nên John đứng chờ trong văn phòng của tôi. Rồi bắt đầu nói về cô em gái, rồi bị xúc động mạnh. Tôi đưa khăn giấy cho ông ấy, rồi ông ấy mời tôi đi ăn tối.”
Mặc dù Alison có vẻ chẳng tha thiết gì với Bristow, Strike vẫn cảm thấy bà ta hãnh diện trước lời mời ấy, như vừa được trao giải gì đó. Strike tự hỏi không biết trước Bristow đã có người nào mời bà ta đi ăn tối hay chưa. Một sự giao thoa giữa hai con người có nhu cầu không bình thường: Tôi đưa khăn giấy cho ông ấy, rồi ông ấy mời tôi đi ăn tối.
Ông nhân viên nhà trọ bắt đầu cài nút áo khoác. Bắt gặp ánh mắt của Strike, ông ta vẫy tay chào rồi ra về mà không nói gì với ai.
“Vậy ông sếp lớn thấy sao khi cô thư ký hẹn hò với cháu trai của mình?”
“Tony không có quyền ý kiến về chuyện riêng tư của tôi,” bà ta nói.
“Cũng đúng,” Strike nói tiếp, “Dù sao thì, Tony lấy tư cách gì mà lên án chuyện lẫn lộn giữa làm ăn và bồ bịch, phải vậy không? Nhất là khi ổng đang ngủ với vợ của Cyprian May.”
Giọng thản nhiên của Strike khiến trong giây lát Alison không kịp để ý thấy hắn vừa nói gì, toan mở miệng đáp trả. Và khi nhận ra ý nghĩa của câu nói, sự tự tin của Alison hoàn toàn bị bóp vụn.
“Không đúng!” Bà ta giận dữ nói, mặt bừng bừng. “Ai nói với anh vậy? Dối trá. Đặt điều. Không đúng. Không đúng tí nào cả.”
Trong sự phản đối của Alison có cả nỗi sợ hãi của một đứa trẻ.
“Vậy sao? Vậy thì tại sao Cyprian May lại sai chị đi xuống Oxford để tìm Tony vào ngày Bảy tháng Giêng?”
“Chuyện đó… chỉ vì… ông ấy quên đưa Tony ký mấy thứ giấy tờ quan trọng, có vậy thôi.”
“Và ông May không dùng máy fax hay chuyển phát nhanh bởi vì…?”
“Giấy tờ nhạy cảm.”
“Alison,” Strike lên tiếng, thích thú trước sự bối rối của bà thư ký, “cả hai chúng ta đều biết lý do chị đưa ra rất vớ vẩn. Cyprian nghi là Tony đã chuồn đi đâu với Ursula ngày hôm đó, không phải vậy sao?”
“Không phải! Không có chuyện đó!”
Ở quầy bar, Cô Winifred vừa nói vừa hăng hái vẫy tay như hai cánh quạt cối xay gió về phía Bristow và Robin. Hai người cười gượng chịu trận.
“Chị gặp Tony ở Oxford đúng không?”
“Không, bởi vì…”
“Chị tới nơi lúc mấy giờ?”
“Khoảng mười một giờ, nhưng ông ấy đã…”
“Hẳn là chị vừa đến công ty thì Cyprian sai đi ngay, đúng không?”
“Giấy tờ đó rất khẩn.”
“Nhưng chị không gặp được Tony ở cả khách sạn và trung tâm hội thảo?”
“Tôi lỡ mất ông ấy,” bà ta nói, tức tối bất lực, “vì ông ấy vừa quay lại London để thăm phu nhân Bristow.”
“À,” Strike đáp. “Đúng rồi. Ổng không nói với chị hay Cyprian là đang trên đường về London à, kể cũng hơi lạ nhỉ?”
“Ừ,” bà ta đáp, cố lấy lại vẻ trịch thượng lúc nãy. “Nhưng tôi liên lạc được. Ông ấy không tắt điện thoại. Có gì đâu.”
“Chị có gọi vào máy di động của ông ta không?”
Alison không trả lời.
“Chị gọi mà không ai bốc máy hả?”
Bà ta im lặng nhấp rượu port, mặt mày sưng sỉa.
“Thì cũng đúng thôi, khi đang hành sự mà phải nghe điện thoại của thư ký thì mất hứng quá còn gì.”
Hắn đoán bà ta sẽ thấy xúc phạm nặng nề. Hắn không phải thất vọng.
“Anh là cái đồ gớm ghiếc. Thật quá thể.” Giọng bà ta ồm ồm, gò má đỏ sẫm, xấu hổ nhưng vẫn cố khoác cái vẻ cao kỳ.
“Chị sống một mình à?” Hắn hỏi.
“Chuyện đó thì liên quan gì?” Bà ta hỏi lại, lúc này Alison đã hoàn toàn mất bình tĩnh.
“Hỏi vậy thôi. Vậy chị không thấy có gì kỳ lạ sao, Tony nhận phòng khách sạn ở Oxford trong đêm, rồi sáng hôm sau lái xe về London, rồi trở lại Oxford, chỉ vừa kịp trả phòng khách sạn ngày hôm sau?”
“Ông ấy trở lại Oxford để dự hội thảo buổi chiều,” Bà ta vẫn khăng khăng.
“Ồ, vậy sau? Chị có ở lại gặp ổng ở đó không?”
“Ông ấy có ở đó,” bà ta trả lời, lẩn tránh.
“Chị có bằng chứng à?”
Bà ta không nói gì cả.
“Vậy thì,” Strike nói, “chị thấy chuyện nào nghe được hơn, Tony lên giường với Ursula cả ngày hôm đó, hay bận về nhà hoạnh họe cô cháu gái?”
Ở quầy bar, Cô Winifred đưa tay vuốt chiếc mũ len và siết lại thắt lưng. Có vẻ như bà cô đang chuẩn bị ra về.
Trong vài giây Alison bình tĩnh lại. Và rồi, như giải tỏa một nỗi lòng bị kiềm nén lâu ngày, bà ta nói, giọng vẫn thì thầm nhưng bốc khói:
“Họ không có bồ bịch gì. Tôi biết là không có chuyện đó. Không thể được. Ursula chỉ quan tâm tới tiền, chỉ có vậy thôi, mà Tony thì không giàu có bằng Cyprian. Ursula đời nào cặp với Tony. Đời nào.”
“Ồ, nhưng biết đâu được. Nhục cảm cũng có thể lớn hơn lòng tham tiền chứ,” Strike nói, quan sát kỹ lưỡng Alison. “Cũng có thể lắm. Tôi là đàn ông thì hơi khó nhận xét, nhưng Tony trông cũng đâu đến nỗi nào, phải không?”
Hắn thấy sự đau đớn, giận dữ lộ rõ trên gương mặt Alison. Giọng bà ta nghèn nghẹn:
“Tony đã nói đúng… anh chỉ có lợi dụng thôi… chạy theo la liếm… John thì không bình thường… Lula nhảy lầu. Cô ta tự tử. Cô ta đã mất thăng bằng từ lâu. John rất giống mẹ, dễ bị kích động, tưởng tượng ra đủ chuyện. Lula dùng ma túy, cô ta là loại người như vậy, mất kiểm soát, lúc nào cũng gây chuyện để gây sự chú ý. Hư hỏng. Ném tiền qua cửa sổ. Cô ta muốn gì mà chẳng được, muốn ai mà không xong, nhưng bao nhiêu cũng không đủ cả.”
“Tôi không biết là chị rành Lula như vậy.”
“Tôi… Tony có nói.”
“Ông ấy không ưa gì Lula cả, đúng vậy không?”
“Ông ấy chỉ thấy đúng bản chất Lula thôi. Cô ta chẳng tốt đẹp gì. Nhiều người đàn bà,” bà ta nói, thở gấp gáp dưới chiếc áo khoác thùng thình, “chẳng ra gì.”
Một cơn gió lạnh thổi vào phòng, ngay khi cô của Rochelle vừa đẩy cửa đi ra. Bristow và Robin giữ nụ cười gượng gạo cho tới khi cánh cửa đóng hẳn, rồi nhẹ nhõm nhìn nhau.
Nhân viên quầy bar đã đi đâu mất. Trong phòng chỉ còn lại có bốn người. Strike nhận ra bản nhạc ballad thập niên 80 đang bật trong quán: bài The Power of Love của Jennifer Rush. Bristow và Robin tiến tới bàn của hai người.
“Tôi tưởng anh muốn nói chuyện với cô của Rochelle?” Bristow hỏi, trông tiu nghỉu như vừa phải chịu trận mà chẳng được gì.
“Không tới mức phải chạy theo gợi chuyện,” Strike hồ hởi trả lời. “Anh kể lại với tôi cũng được mà.”
Vẻ mặt của cả Robin và Bristow cho thấy cả hai đều nghĩ thái độ thờ ơ của Strike thật khó hiểu. Alison lục lọi gì đó trong túi xách, cúi mặt xuống.
Mưa đã tạnh, vỉa hè trơn trượt. Bầu trời ảm đạm như hứa hẹn sắp thêm một trận mưa xối xả nữa. Hai người phụ nữ đi đằng trước trong im lặng, trong khi Bristow thuật lại kỹ càng cuộc trò chuyện với Cô Winifred cho Strike. Tuy nhiên. Strike không nghe gì cả. Hắn mải nhìn tấm lưng của hai người phụ nữ đi đằng trước, đều mặc đồ đen – mới nhìn thoáng qua thì giống hệt nhau. Hắn nhớ đến chi tiết chạm trổ hình con hươu ở hai bên cổng Queen’s Gate vào công viên Hyde Park: không hề giống nhau, mặc dù con mắt lười quan sát sẽ thấy vậy. Một bên đực, một bên cái, cùng thuộc một loài nhưng khác nhau một trời một vực.
Khi Alison và Robin dừng bước bên cạnh một chiếc xe BMW mà hắn đoán là xe của Bristow, Strike cũng đi chậm lại, ngắt lời Bristow còn đang thao thao kể lại mối dây nhợ đầy sóng gió giữa Rochelle và gia đình cô ta.
“John, tôi muốn hỏi lại một chi tiết này với anh.”
“Anh cứ nói.”
“Anh nói là có nghe tiếng ông cậu đi vào nhà mẹ buổi sáng trước khi Lula chết?”
“Vâng, đúng vậy.”
“Anh có chắc người đó là Tony không?”
“Đương nhiên rồi.”
“Nhưng anh không thấy mặt, đúng không?”
“Tôi…” Gương mặt thỏ của Bristow trông như bị đánh đổ. “… không, tôi… tôi không nghĩ là có gặp cậu. Nhưng tôi nghe tiếng cậu đi vào. Tôi nghe tiếng cậu từ phòng khách.”
“Có khi nào, vì anh đang đợi Tony đến, nên anh cứ nghĩ người đó là Tony không?”
Lại im lặng.
Rồi, Bristow lạc giọng:
“Ý anh là Tony không có ở đó?”
“Tôi chỉ muốn biết anh có chắc người đó là Tony không.”
“Thì… cho tới bây giờ, tôi hoàn toàn chắc chắn. Ngoài Tony ra, không ai khác có chìa khóa vào nhà mẹ tôi. Không thể là ai khác ngoài Tony cả.”
“Vậy là anh nghe có người bước vào nhà. Anh nghe một giọng đàn ông. Người này nói chuyện với mẹ anh, hay với Lula?”
“Ơ…” Hai cái răng thỏ của Bristow lộ hẳn ra khi ông ta ngẫm nghĩ câu hỏi của Strike, “Tôi nghe tiếng ông ấy đi vào. Tôi nhớ là nghe ông ấy nói chuyện với Lula…”
“Anh có nghe tiếng ông ấy đi về không?”
“Có, tôi nghe tiếng ông ấy bước ngoài sảnh, nghe tiếng cửa đóng lại.”
“Khi Lula tạm biệt anh, cô ấy có nhắc gì đến Tony không?”
Lại im lặng. Bristow đặt tay lên miệng suy nghĩ.
“Tôi… nó ôm tôi tạm biệt, chỉ có vậy thôi… Tôi… Đúng rồi, tôi nhớ là nó nói có nói chuyện với Tony. Có không ta? Hay tôi cứ tưởng là nó đã nói chuyện với Tony vì tôi nghĩ…? Nhưng nếu người đó không phải là cậu tôi thì còn là ai được nữa?”
Strike chờ đợi. Bristow nhìn lên vỉa hè, suy nghĩ.
“Nhưng chắc phải là Tony. Lula ắt hẳn đã thấy có người vào, và thấy không có gì lạ thường, như vậy thì có thể là ai khác ngoài Tony? Còn ai nữa có chìa khóa?”
“Có bao nhiêu chìa khóa tất cả?”
“Bốn cái. Ba cái dự phòng.”
“Nhiều vậy.”
“Thì Lula, Tony và tôi mỗi người một cái. Mẹ tôi muốn tất cả tụi tôi đều có thể tự mở cửa ra vào được, nhất là khi mẹ tôi bị ốm.”
“Hiện giờ anh có biết tất cả các chìa khóa ở đâu không?”
“Biết chứ… tôi nghĩ vậy. Tôi đoán là chìa của Lula hẳn đã được trả lại cho mẹ tôi, cùng với tất cả đồ đạc của nó. Tony vẫn còn chìa của ông ấy, tôi có chìa riêng đây còn chìa của mẹ tôi… Tôi nghĩ chắc ở đâu đó trong nhà.”
“Vậy anh không nghĩ là có chìa nào bị lạc mất?”
“Không.”
“Và không ai trong số bốn người có cho người ngoài mượn chìa khóa?”
“Lạy Chúa, tại sao lại làm vậy?”
“Tôi chỉ nhớ lại file hình ảnh bị xóa từ máy tính của Lula lúc đã mang về nhà mẹ anh. Nếu có một chìa khóa nữa nằm ở đâu đó…”
“Không thể được,” Bristow nói. “Chuyện này… Tôi… tại sao anh lại nói là Tony không có ở đó? Ông ấy hẳn đã ghé qua. Chính ông ấy nói đã nhìn thấy tôi trong thư phòng kia mà.”
“Anh đi đến công ty sau khi rời nhà Lula đúng không?”
“Đúng vậy”
“Để lấy giấy tờ?”
“Đúng thế. Tôi chạy ào vào lấy. Cũng nhanh thôi.”
“Vậy anh trở lại nhà mẹ lúc…”
“Chắc chắn là chưa quá mười giờ.”
“Và cái người đi vào sau anh đó, ông ta tới đó lúc mấy giờ?”
“Chắc là… chắc là khoảng nửa tiếng sau? Thực tình tôi không nhớ rõ. Tôi không nhìn đồng hồ. Nhưng tại sao Tony lại nói là có ghé qua nếu không ghé?”
“Nếu ông ấy biết trước hôm đó anh làm việc ở nhà, ông ấy có thể dễ dàng nói rằng có ghé qua, không muốn quấy rầy anh, nên chỉ đi thẳng xuống nhà để nói chuyện với mẹ anh. Mẹ anh chắc đã xác nhận như vậy với cảnh sát rồi hả?”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Nhưng anh không chắc?”
“Tôi không nghĩ là mẹ tôi có nhắc tới chuyện này với tôi. Lúc đó mẹ tôi rất mệt mỏi, đau đớn và mê man. Rồi sáng hôm sau thì có tin Lula…”
“Nhưng anh chưa bao giờ thấy lạ là Tony không ghé vào thư phòng để chào anh một tiếng sao?”
“Chẳng có gì lạ cả.” Bristow đáp. “Ông ta vẫn còn cay cú vụ Conway Oates. Nếu ông ta xởi lởi hơn thì mới đáng ngạc nhiên.”
“John, tôi không muốn làm anh sợ, nhưng tôi nghĩ cả anh và mẹ anh đều đang gặp nguy hiểm.”
Tiếng cười căng thẳng của Bristow nghe rất yếu ớt và không hề thuyết phục. Strike thấy Alison đang đứng cách đó khoảng bốn lăm mét, bà ta khoanh tay lại, phớt lờ Robin, tập trung quan sát hai người đàn ông.
“Anh… anh đùa à?” Bristow nói.
“Tôi nói rất nghiêm túc.”
“Nhưng… Cormoran, ý anh là anh đã biết ai giết Lula?”
“Tôi nghĩ thế - nhưng tôi vẫn cần nói chuyện với mẹ anh, trước khi kết luận chính thức.”
Vẻ mặt của Bristow như muốn đọc hết những suy nghĩ trong đầu Strike. Cặp mắt cận của ông ta nhìn khắp mặt Strike, trông ông ta nửa sợ hãi, nửa tha thiết nài nỉ.
“Tôi phải có mặt ở đó,” ông ta nói. “Mẹ tôi yếu lắm rồi.”
“Đương nhiên rồi. Sáng mai được không?”
“Tony sẽ tức điên lên nếu tôi lại vắng mặt trong giờ làm việc.”
Strike chờ đợi.
“Được rồi,” Bristow nói. “Được rồi. Mười giờ rưỡi sáng mai vậy.”
14
Sáng hôm sau trời trong mát, nắng đẹp. Strike đi tàu điện đến khu Chelsea hiền hòa, nhiều cây cối. Mặc dù từng sống lang thang khắp London, hắn hầu như không bao giờ bén mảng đến đây. Mẹ Strike chưa bao giờ với tới nổi một tấc đất gần Bệnh viện Hoàng Gia Chelsea, ngay trong những giai đoạn bà phung phí tiền bạc mạnh tay nhất. Dưới ánh nắng mùa xuân, tòa nhà bệnh viện hiện lên trầm mặc và nền nã.
Trước mặt Strike là con phố Franklin Row xinh đẹp với những dãy nhà gạch đỏ, hàng cây tiêu huyền và một bãi cỏ rộng lớn có hàng rào bao quanh. Một đám học sinh tiểu học đang chơi thể thao trên bãi cỏ, mặc áo thun Aertex và quần short màu xanh sẫm, xung quanh có các thầy cô mặc đồ thể thao đứng trông chừng. Tiếng cười đùa của bọn trẻ làm ngắt quãng sự yên lặng tĩnh tại ở khu phố vốn dường như chỉ có tiếng chim hót. Strike sải bước trên vỉa hè, hai tay đút túi quần. Đường phố không một bóng xe chạy qua.
Phía trên bốn bậc cấp bằng đá trắng là một cánh cửa lắp kính. Kế đó là bảng chuông cửa bằng nhựa Bakelite kiểu cũ xưa gắn trên tường. Strike kiểm tra lại có đúng là tên của phu nhân Yvette Bristow nằm bên cạnh dòng chữ Căn hộ E hay không rồi quay xuống vỉa hè, đứng đợi trong ánh nắng ấm áp dìu dịu, thỉnh thoảng nhìn về hai phía đầu đường.
Mười giờ rưỡi. John Bristow vẫn chưa đến. Khu phố không một bóng người, trừ khoảng hai mươi đứa trẻ con bên kia hàng rào bãi cỏ. Chúng đang chơi đến trò chạy qua những vòng tròn và cột mốc đủ màu.
Mười giờ bốn mươi lăm phút, điện thoại của Strike rung lên trong túi. Robin nhắn tin:
Alison vừa gọi để báo rằng JB bận không tới được. JB không muốn anh nói chuyện với bà mẹ mà không có mặt ông ấy.
Ngay lập tức Strike nhắn tin của Bristow:
Anh còn bận bao lâu nữa? Vẫn gặp hôm nay được chứ?
Hắn chưa kịp gởi tin nhắn thì điện thoại đổ chuông.
“A lô?” Strike nói.
“Oggy?” Giọng lành lạnh của Graham Hardacre vang lên, từ tận nước Đức. “Tao có thông tin về Agyeman rồi.”
“Mày thiêng quá xá.” Strike rút cuốn sổ ra. “Nói đi.”
“Anh chàng này là Trung úy Jonah Francis Agyeman, Kỹ sư Quân đội Hoàng gia. Hai mươi mốt tuổi, chưa kết hôn, đợt làm nhiệm vụ gần đây nhất bắt đầu từ ngày Mười Một tháng Giêng, kết thúc vào tháng Sáu tới. Người thân gần nhất là mẹ. Không anh chị em, không con cái.”
Strike hí hoáy viết hết vào sổ, điện thoại kẹp giữa cằm và bả vai.
“Tao nợ mày vụ này rồi, Hardy,” hắn vừa nói vừa cất cuốn sổ. “Không có hình ảnh gì hả?”
“Để đó tao email cho một cái.”
Strike đọc cho Hardacre địa chỉ email của văn phòng. Sau vài màn hỏi thăm thông thường về cuộc sống và chúc tụng lẫn nhau, hắn dập máy.
Mười một giờ kém năm. Strike vẫn đứng đợi giữa khu phố hiền hoà, xanh tươi, điện thoại cầm trong tay. Đám trẻ con vẫn mải chơi với mấy cái vòng và túi hạt xốp. Một chiếc máy bay màu bạc bé xíu vạch một đường trắng dày trên nền trời xanh nhàn nhạt. Cuối cùng, điện thoại phát ra tín hiệu báo tin nhắn, nghe rất rõ trên con phố vắng lặng. Bristow trả lời:
Hôm nay không được rồi. Tôi phải đi Rye có việc. Hay ngày mai vậy?
Strike thở dài.
“Xin lỗi nhé John,” hắn lẩm bẩm rồi leo lên bậc tam cấp và bấm chuông nhà phu nhân Bristow.
Sảnh đón khách yên tĩnh, rộng rãi và sáng sủa, nhưng vẫn có vẻ gì đó ảm đạm của những nơi công cộng, mặc dù có đặt thêm bình hoa trông như cái xô cắm đầy hoa khô, thêm thảm lót màu xanh mờ và tường sơn vàng nhạt, chắc chủ nhân cố ý chọn toàn những thứ nhẹ nhàng dễ chịu như vậy. Giống với toà nhà chung cư Kentigern Gardens, ở đây cũng có thang máy, nhưng cửa bằng gỗ. Strike quyết định đi cầu thang bộ. Toà nhà trông hơi cũ kỹ nhưng vẫn lặng lẽ toát lên vẻ giàu có.
Cô y tá Macmillan[1] người Caribe ra mở cửa, mỉm cười thân thiện. Cô cũng chính là người bấm nút mở cửa vào sảnh ở tầng dưới cho Strike sau khi hắn bấm chuông.
[1. Một tổ chức chuyên chăm sóc người bệnh ung thư ở Anh quốc.]
“Tôi cứ tưởng là anh Bristow,” cô ta nhanh nhẹn nói.
“Không, tôi là Cormoran Strike. John vẫn đang trên đường đi.”
Cô y tá cho hắn vào. Hành lang dẫn vào phòng khách nhà phu nhân Bristow ấm cúng dễ chịu. Giấy dán tường màu đỏ phai, trên tường treo nhiều tranh màu nước lồng khung mạ vàng cũ xưa. Giá để dù đi mưa đựng đầy các loại gậy chống. Mấy chiếc áo khoác được treo lên một hàng móc áo ngay ngắn. Strike liếc qua phải, thoáng thấy thư phòng ở cuối hành lang, bên trong có một chiếc bàn gỗ nặng nề và chiếc ghế xoay, lưng ghế quay ra phía cửa.
“Phiền anh đợi trong phòng khách. Tôi đi xem phu nhân đã sẵn sàng gặp anh chưa nhé.”
“Vâng, được.”
Hắn bước qua cánh cửa cô y tá vừa chỉ, vào một phòng khách trang nhã với tường sơn màu hoa anh thảo, đầy kệ sách và khung ảnh. Một chiếc điện thoại quay số kiểu cổ đặt trên chiếc bàn con, cạnh đó là ghế sofa bọc vải hoa. Strike đợi cô y tá đi ra hẳn, rồi nhấc ống nghe điện thoại lên, khéo léo gác kênh máy, nhìn lướt qua khó nhận ra.
Gần cửa sổ lớn là chiếc bàn mặt tủ kiểu cọ, trên bàn có một tấm ảnh lớn lồng khung bạc, chụp đám cưới của Ngài Alec Bristow và phu nhân. Chú rể trông già hơn nhiều so với cô dâu. Ngài Alec phốp pháp, râu ria, đang mỉm cười rạng rỡ bên cô dâu mảnh khảnh, tóc vàng, xinh đẹp kiểu nhàn nhạt. Giả vờ đang chiêm ngưỡng bức ảnh, Strike đứng quay lưng về phía cửa và nhanh tay mở ngăn kéo nhỏ ngay dưới mặt chiếc bàn gỗ xoan đào tinh tế. Bên trong là giấy viết thư màu xanh nhạt và bì thư cùng màu. Hắn đóng ngăn kéo lại ngay.
“Anh Strike? Anh có thể vào gặp phu nhân được rồi.”
Hai người trở ra hành lang có giấy dán tường đỏ rồi đi một đoạn ngắn đến một phòng ngủ rộng lớn với hai màu chủ đạo trắng và xanh trứng sáo. Mọi thứ trong phòng toát lên vẻ thanh lịch, trang nhã. Bên trái là hai cánh cửa đang khép hờ, một mở vào buồng tắm, một mở vào tủ áo quần siêu lớn. Bàn ghế trong phòng tinh tế, mang hơi hướm phong cách Pháp. Bình truyền nước gắn trên giá đứng bằng thép, bộ vệ sinh sạch sẽ sáng bóng đặt trên tủ ngăn kéo cùng với vô số thuốc men. Những món đạo cụ của bệnh tật lạc lõng trong căn phòng thanh nhã như những kẻ trà trộn không mời.
Người đàn bà đau yếu mặc áo khoác len dày màu trắng ngà, nằm lọt thỏm trên chiếc giường gỗ chạm trổ, đỡ lưng bằng những chiếc gối màu trắng. Vẻ đẹp thanh xuân của phu nhân Bristow đã hoàn toàn biến mất. Dưới làn da mỏng manh, trong suốt, và đã bắt đầu bong vảy, những đốt xương lộ rõ, gầy guộc và góc cạnh. Đôi mắt của phu nhân trũng sâu, mờ đục. Mái tóc bạc trắng lơ thơ như tóc trẻ con, lộ cả lớp da đầu hồng nhạt. Hai cánh tay xương xẩu đặt hờ trên lớp chăn, trên tay gắn kim truyền dịch. Cái chết đã hiện diện trong căn phòng, chừng như đang lịch sự và kiên nhẫn đứng chờ ngay sau lớp màn cửa.
Mùi hoa chanh thoang thoảng trong không khí, nhưng vẫn không át được mùi thuốc sát trùng và bệnh tật, khiến Strike nhớ đến mấy tháng dai dẳng nằm viện. Cửa sổ lớn thứ hai đã được nâng lên khoảng vài tấc, hứng lấy chút không khí ấm áp trong lành và tiếng trẻ con chơi đùa từ xa vọng vào, nhìn ra những cành cao nhất trên hàng cây tiêu huyền xanh mát trong nắng.
“Anh là thám tử à?”
Giọng của phu nhân Bristow mỏng manh, khàn và hơi nhịu. Trước đó Strike vẫn còn băn khoăn không biết liệu Bristw đã nói thật với mẹ ông ta về hắn chưa. Hắn mừng là phu nhân đã biết trước.
“Vâng, tôi là Cormoran Strike.”
“John đâu rồi?”
“Anh ấy bận việc ở văn phòng.”
“Lại bận nữa à,” bà ta lẩm bẩm, rồi nói tiếp, “Tony bắt John làm việc cực khổ quá. Không công bằng chút nào.” Bà ta cố nheo mắt nhìn hắn, rồi khẽ đưa ngón tay lên chỉ một chiếc ghế nhỏ. “Ngồi xuống đi.”
Hai mống mắt đã bạc màu của phu nhân Bristow có những đường trắng đục viền quanh. Khi ngồi xuống Strike để ý trên bàn con cạnh giường có thêm hai khung ảnh bạc nữa. Một luồng điện chạy qua người Strike khi hắn nhìn vào đôi mắt của Charlie Bristow trong ảnh. Gương mặt tròn trịa, đuôi tóc hơi dài, Charlie dừng lại mãi ở tuổi lên mười trong chiếc áo sơ mi đồng phục có cổ áo chìa ra và nút thắt cà vạt to tướng. Trông Charlie y hệt như lúc vẫy tay tạm biệt Cormoran Strike, cậu bạn thân nhất, ríu rít hẹn gặp nhau sau kỳ nghỉ Phục Sinh.
Bên cạnh ảnh của Charlie là một tấm ảnh nhỏ hơn, chụp một cô bé xinh lạ thường, tóc đen dài xoăn từng lọn, đôi mắt to màu nâu, mặc đồng phục màu xanh sẫm. Lula Landry trong ảnh chắc chỉ độ sáu tuổi.
“Mary,” phu nhân Bristow gọi khẽ, cô y tá chạy ngay đến. “Cô có thể lấy cho anh Strike đây ít cà phê? Hay anh dùng trà nhỉ?” bà ta quay sang hỏi hắn. Trong giây lát, Strike như quay trở về khoảnh khắc cách đây hai thập kỷ rưỡi, trong khu vườn rực nắng ở nhà Charlie với người mẹ tóc vàng duyên dáng tay cầm bình nước chanh mát lạnh.
“Cho tôi một tách cà phê vậy, cảm ơn cô nhiều.”
“Xin anh bỏ quá cho vì tôi không tự pha được,” phu nhân Bristow nói, sau khi cô y tác đã đi ra ngoài, bước chân vội vã, “nhưng anh thấy đó, giờ tôi phải nương nhờ lòng tốt của kẻ khác. Như Blanche Dubois[2] tội nghiệp.”
[2. Nhân vật chính trong tác phẩm nổi tiếng A streetcar named desire của Tennessee Williams, từng được dịch ra tiếng Việt với tựa Chuyến tàu mang tên dục vọng (NXB Trẻ, 2011) - ND]
Bà nhắm mắt lại trong giây lát, như để tập trung cảm nhận sự đau đớn bên trong cơ thể. Hắn không biết phu nhân Bristow đã uống bao nhiêu thuốc và còn tỉnh táo tới đâu. Đằng sau phong thái nền nã đó, Strike vẫn thấy vương vấn chút chua chát trong từng lời nói, tựa như mùi hoa chanh không thể át hết mùi bệnh tật trong phòng. Hắn thấy ngạc nhiên, chẳng phải Bristow gần như lúc nào cũng túc trực cạnh bên để tận tình chăm sóc bà mẹ đó sao?
“Tại sao John không tới?” phu nhân Bristow lại hỏi, mắt vẫn nhắm.
“Anh ấy bận việc ở văn phòng,” Strike lặp lại.
“À, đúng rồi. Anh có nói.”
“Thưa phu nhân, tôi muốn hỏi bà một vài câu. Tôi xin bà lượng thứ nếu câu hỏi quá riêng tư, hoặc làm bà phải phiền lòng.”
“Nếu anh đã gặp những chuyện mà tôi phải trải qua,” bà ta lặng lẽ nói, “thì chẳng còn gì có thể gây đau đớn được nữa. Cứ gọi tôi là Yvette.”
“Cảm ơn phu nhân. Bà không phiền nếu tôi ghi chép lại chứ?”
“Không, không sao cả,” bà ta trả lời, nhìn hắn lấy cây viết và cuốn sổ ra, vẻ hơi tò mò.
“Nếu bà không phiền, tôi muốn bắt đầu từ việc Lula đã đến với gia đình như thế nào. Khi nhận nuôi bà có biết gì về gốc gác của cô ấy không?”
Phu nhân Bristow giờ đây như hiện thân của sự bất lực và thụ động, hai cánh tay vẫn hờ hững đặt trên lớp chăn.
“Không,” bà ta trả lời. “Tôi chẳng biết gì cả. Chắc Alec biết, nhưng nếu có đi nữa thì ông ấy cũng không bao giờ kể với tôi.”
“Tại sao bà nghĩ Alec biết gì đó?”
“Alec luôn tìm hiểu tường tận mọi thứ,” bà ta trả lời, dịu dàng mỉm cười hoài niệm. “Ông ấy là người làm ăn giỏi, anh biết đó.”
“Nhưng ông ấy chưa bao giờ nói gì với bà về gia đình đầu tiên của Lula?”
“Ôi không, ông ấy không nói những chuyện đó đâu.” Có vẻ như phu nhân Bristow thấy câu hỏi thật kỳ lạ. “Tôi muốn con bé chỉ là của tôi, của riêng tôi mà thôi, anh hiểu không. Alec nếu có biết gì thì vẫn muốn che chở cho tôi. Tôi không thể chịu được cái ý nghĩ rằng ai đó sẽ tìm đến và đòi lại nó. Tôi đã mất Charlie; tôi rất muốn có một đứa con gái; ý nghĩ sẽ mất nó thật…”
Cô y tá quay trở lại cầm theo một chiếc khay với hai cái tách và một đĩa bánh qui sô cô la.
“Một cà phê,” cô ta vui vẻ nói, đặt cái tách bên cạnh Strike trên chiếc bàn con gần hắn, và “một trà hoa cúc.”
Rồi cô ta lại vội vã bước ra. Phu nhân Bristow khép mắt lại. Strike uống một ngụm cà phê đen, rồi hỏi tiếp:
“Năm ngoái Lula bắt đầu đi tìm bố mẹ ruột, có phải vậy không thưa bà?”
“Đúng thế,” phu nhân Bristow trả lời, mắt vẫn nhắm. “Lúc đó tôi vừa phát hiện ung thư.”
Cả hai im lặng. Strike khẽ đặt tách cà phê xuống. Tiếng trẻ con hò hét từ xa vọng vào qua ô cửa sổ đang mở.
“John và Tony rất giận nó,” phu nhân Bristow nói tiếp. “Cả hai đều thấy nó không nên đi bắt đầu đi tìm mẹ đẻ trong khi tôi ốm đau như vậy. Khi phát hiện thì khối u đã tiến triển. Tôi phải làm hoá trị ngay. John rất ngoan; nó lái xe chở tôi đi về bệnh viện, đến ở cùng tôi những ngày tệ hại nhất. Đến Tony cũng hay ghé qua. Vậy mà Lula dường như chỉ biết có…” Bà ta thở dài, mở đôi mắt mờ, nhìn mặt Strike. “Tony luôn nói con bé được chiều quá hoá hư. Lỗi tại tôi cả. Tôi từng mất Charlie, anh thấy đó, tôi yêu con bé bao nhiêu cũng không đủ.”
“Bà có biết được Lula đã tìm ra những gì về gia đình ruột thịt của cô ấy không?”
“Không, tôi không biết gì cả. Tôi nghĩ nó cũng biết chuyện đó làm tôi rất phiền. Nó không kể gì nhiều. Tôi biết nó đã tìm ra mẹ ruột, đương nhiên rồi, vì báo chí ồn ào kinh khủng sau đó. Bà ta đúng như những điều Tony đoán. Bà ta còn không muốn sinh ra Lula. Một người đàn bà chẳng ra gì, chẳng ra gì cả.” phu nhân Bristow thì thầm. “Nhưng Lula cứ đi gặp bà ta mãi. Trong lúc tôi vẫn còn hoá trị. Tôi bị rụng hết tóc…”
Giọng bà ta yếu dần đi. Strike thấy mình thật thô lỗ (mà có lẽ bà ta cũng thấy vậy) khi vẫn phải tiếp tục hỏi:
“Còn người cha ruột thì sao? Cô ấy có bao giờ kể gì về ông ta không?”
“Không,” phu nhân Bristow đáp, giọng yếu ớt. “Tôi không hỏi. Tôi có cảm giác nó không thiết tha gì nữa sau khi tìm ra bà mẹ khủng khiếp đó. Tôi không muốn nói chuyện đó với nó, không muốn chút nào cả. Quá đau lòng. Tôi nghĩ nó cũng biết vậy.”
“Cô ấy không nói gì về người cha ruột khi gặp bà lần cuối sau?” Strike vẫn hỏi tiếp.
“Ôi không có,” bà ta trả lời, giọng nhẹ nhàng. “Không nói gì. Nó cũng chẳng ở lâu, anh biết đó. Tôi còn nhớ vừa vào đến nơi nó đã nói là không ở được lâu. Nó phải đi gặp Ciara Porter bạn nó.”
Strike nhận ra chút tủi thân phảng phất trong giọng nói của bà ta, tựa như mùi đau ốm lâu ngày vương vấn trong phòng: có chút gì ẩm mốc, chết chóc. Phu nhân Bristow làm hắn nhớ đến Rochelle, mặc dù hai người nhìn bên ngoài thật như một trời một vực. Cả hai đều có cái hờn tủi của những người nghĩ mình bị người khác quay lưng, bỏ rơi.
“Bà có nhớ là hôm đó bà và Lula nói những chuyện gì không?”
“Anh biết đó, tôi uống rất nhiều thuốc giảm đau. Tôi vừa phải chịu một ca phẫu thuật lớn. Tôi không nhớ hết được.”
“Nhưng bà nhớ Lula có ghé vào thăm?” Strike hỏi.
“Có chứ,” bà ta nói. “Nó đánh thức tôi dậy vì trước đó tôi vẫn còn ngủ.”
“Bà có nhớ hai người nói chuyện gì không?”
“Chuyện ca phẫu thuật, đương nhiên rồi,” bà ta nói, thoáng sự khó chịu. “Sau đó có nói một chút về anh của nó.”
“Anh của cô ấy…?”
“Charlie,” phu nhân Bristow trả lời, giọng buồn bã. “Tôi kể lại ngày Charlie chết. Trước đó tôi chưa bao giờ nói chuyện đó với Lula cả. Ngày tồi tệ nhất, kinh khủng nhất trong đời tôi.”
Strike có thể hình dung cảnh phu nhân Bristow vừa mệt mỏi kiệt sức nhưng cũng không kém phần ai oán, cố giữ cô con gái đang miễn cưỡng ngồi lại bằng cách nói về sự đau đớn hành xác, rồi về đứa con trai đã chết.
“Làm sao tôi biết được đó lại là lần cuối cùng tôi thấy con bé?” bà ta nói, thở nặng nhọc. “Khi đó tôi không biết sẽ lại mất thêm một đứa con nữa.”
Đôi mắt phu nhân Bristow đỏ ngàu, ngấn nước. Bà ta khẽ chớp mắt, hai giọt nước mắt tròn mẩy lăn dài trên gò má hốc hác.
“Phiền anh mở ngăn kéo,” phu nhân Bristow thì thào, chỉ ngón tay gầy guộc về chiếc bàn con cạnh giường, “lấy cho tôi mấy viên thuốc?”
Strike mở ngăn kéo bàn. Bên trong có nhiều hộp trắng, đủ loại thuốc men được dán nhãn khác nhau.
“Thuốc nào…”
“Loại nào cũng được. Như nhau cả,” bà ta nói.
Hắn lấy ra một chiếc hộp trắng có dán nhãn ghi chú rõ ràng là Valium. Chỗ thuốc trong hộp đủ cho bà ta uống quá liều mười lần.
“Anh cho tôi vài viên được không?” bà ta nói. “Tôi sẽ uống với trà, nếu đã nguội bớt.”
Hắn đưa mấy viên thuốc và tách trà cho phu nhân Bristow. Đôi bàn tay bà ta run rẩy, hắn phải đưa tay đỡ lấy cái đĩa tách. Hắn tự dưng (thật vô duyên) thấy mình như một vị linh mục đang cử hành thánh lễ.
“Cảm ơn anh,” bà ta thì thào, ngả người lên gối khi hắn đặt tách trà xuống bàn, rồi lại não nùng nhìn hắn. “Hình như John có nói với tôi là anh biết Charlie?”
“Vâng, đúng thế.” Strike đáp. “Tôi không bao giờ quên được anh ấy cả.”
“Đương nhiên rồi. Nó là đứa trẻ đáng yêu nhất. Ai cũng nói thế. Đứa trẻ xinh xắn, dễ thương nhất mà tôi từng biết. Không ngày nào mà tôi không nhớ nó cả.”
Bên ngoài cửa sổ, đám trẻ con vẫn đang hò hét, hàng cây tiêu huyền lao xao. Strike nghĩ đến một sáng mùa đông vài tháng trước. Khi đó hẳn hàng cây đã rụng lá, chỉ còn trơ trụi cành khô, còn Lula đang ngồi ngay chỗ hắn đây, đôi mắt xinh đẹp dán vào tấm hình của Charlie quá cố, trong khi bà mẹ mê man kể lại một câu chuyện khủng khiếp.
“Trước đó tôi chưa bao giờ kể chuyện Charlie cho Lula cả. Tôi còn nhớ, hôm đó Charlie và John đạp xe ra ngoài chơi. Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng John gào thét, và tiếng Tony la hét, rồi la hét…”
Strike vẫn chưa đặt bút viết. Hắn mải quan sát gương mặt người đàn bà hấp hối đang kể chuyện.
“Alec không để tôi nhìn thấy cảnh đó, không cho tôi tới gần mỏ đá. Khi ông ấy kể lại, tôi ngất xỉu. Tôi tưởng tôi chết mất thôi. Tôi muốn chết. Tôi không hiểu tại sao Chúa có thể để chuyện đó xảy ra được.
“Nhưng sau đó tôi nghĩ rằng có lẽ tôi đáng chịu tất cả,” phu nhân Bristow mơ hồ nói, mắt dán lên trần nhà. “Tôi luôn tự hỏi phải chăng mình đang bị trừng phạt. Vì tôi yêu thương cả ba quá mức. Tôi nuông chiều chúng. Tôi không biết nói không Charlie, Alec rồi cả Lula. Tôi nghĩ ắt hẳn đó phải là sự trừng phạt bởi vì nếu không thì quá độc ác, phải vậy không? Chúa khiến tôi phải chịu đau đớn đến ba lần.”
Strike không biết nói sao. Dường như bà ta muốn tìm kiếm chút thương hại, một sự thương hại vượt ra ngoài khả năng của hắn. Phu nhân Bristow nằm đó, quấn trong lớp áo choàng vô hình của một vị thánh tử vì đạo, mang thêm sự bất lực và thụ động như những món đồ trang sức. Nhưng khi nhìn bà ta, Strike vẫn thấy không quý mến nổi.
“Tôi rất muốn có Lula,” phu nhân Bristow nói, “nhưng tôi không nghĩ nó… Nó là một đứa bé đáng yêu. Rất xinh đẹp. Vì nó tôi có thể làm tất cả. Nhưng nó không yêu tôi như Charlie và John yêu tôi. Có lẽ đã quá trễ. Có lẽ vì chúng tôi nhận nuôi nó quá trễ.
“Khi nó mới về John ghen tị lắm. Thằng bé rất đau khổ sau khi Charlie… nhưng rồi hai đứa trở nên rất thân thiết. Thân lắm.”
Một cái nhướng mày khiến lớp da mỏng như giấy trên trán bà ta nhăn lại.
“Vậy nên Tony đã nói sai.”
“Ông ấy nói sai chuyện gì?” Strike khẽ hỏi.
Ngón tay phu nhân Bristow co lại trên tấm chăn. Bà ta nuốt nước bọt.
“Tony nghĩ chúng tôi không nên nhận nuôi Lula.”
“Tại sao không?” Strike hỏi.
“Tony không thích đứa nào trong đám con tôi cả” Yvette Bristow trả lời. “Em trai tôi là người rất nghiệt ngã. Rất lạnh lùng. Cậu ấy nói những lời thật khủng khiếp sau khi Charlie chết. Alec xông vào đánh cậu ấy. Những chuyện Tony nói không hề đúng sự thật. Không đúng tí nào cả.”
Đôi mắt mờ đục của bà ta nhìn mặt Strike, hắn thoáng nhận ra người đàn bà của ngày trước, khi hãy còn nhan sắc: một chút quyến luyến, một chút trẻ con, xinh đẹp, thích phụ thuộc vào người khác. Một người đàn bà cực kỳ nữ tính, được nâng niu, bảo vệ trong vòng tay Ngài Alec; mọi ước ao, mọi ý thích tình cờ đều được thoả mãn.
“Tony nói gì vậy?”
“Những điều khủng khiếp về John và Charlie. Rất kinh khủng. Tôi không…” bà ta nói, yếu ớt, “… muốn lặp lại. Rồi khi nghe rằng chúng tôi sắp nhận nuôi một bé gái, cậu ấy gọi ngay cho Alec để ngăn cản. Alec giận lắm," bà ta thì thào. “Sau đó ông ấy cấm cửa Tony”.
“Hôm đó bà có kể hết chuyện này cho Lula không?” Strike hỏi. “Về Tony, về những điều ông ấy nói sau khi Charlie chết, rồi cả khi bà sắp nhận nuôi cô ấy?”
Câu hỏi đó với phu nhân Bristow dường như một lời quở trách. Bà ta khống chế:
“Tôi không nhớ chính xác đã nói gì với nó. Khi đó tôi vừa phải chịu một ca phẫu thuật lớn. Nhiều thuốc men quá nên tôi hơi buồn ngủ. Tôi không nhớ rõ lắm…”
Và rồi, phu nhân Bristow bất ngờ đổi chủ đề:
“Anh chàng đó khiến tôi nhớ đến Charlie. Bạn trai của Lula ấy. Một cậu rất đẹp trai. Tên gì nhỉ?”
“Evan Duffield?”
“Đúng vậy. Anh ta có đến thăm tôi. Cũng mới đây thôi. Tôi không biết chính xác… tôi không còn nhớ ngày tháng nữa. Nhiều thuốc men quá. Nhưng anh ta có đến thăm tôi. Thật là tử tế. Anh ta muốn nói chuyện về Lula”.
Strike nhớ Bristow từng nói mẹ anh ta không biết Duffield là ai. Hắn tự hỏi phải chăng phu nhân Bristow đã vờ vĩnh với ông con trai, kiểu như cố tỏ ra đãng trí để được Bristow chú ý chăm sóc hơn.
“Charlie mà còn sống hẳn cũng sẽ đẹp trai như thế. Hẳn nó phải thành ca sĩ, hay diễn viên. Nó rất thích trình diễn, anh có nhớ không? Tôi thấy thương Evan quá. Anh ta ngồi đây khóc với tôi. Anh ta nói cứ tưởng Lula có người khác”.
“Người khác là ai?”
“Tay ca sĩ ”, phu nhân Bristow nói mơ hồ. “Tay ca sĩ viết bài hát về Lula. Khi còn trẻ và đẹp như vậy người ta dễ cư xử tàn nhẫn. Tôi thấy tội Evan. Anh ta nói rằng anh ta rất ân hận. Tôi nói anh ta không có việc gì phải ân hận cả”.
“Tại sao anh ta ân hận?”
“Vì đã không theo nó vào nhà. Vì đã không có ở đó, để ngăn nó lại”.
“Nếu bà có thể nhớ lại thêm một chút, ngay hôm trước khi Lula mất…?”
Bà ta tỏ vẻ hơi trách móc.
“Tôi e là tôi không nhớ gì nữa. Tôi đã kể với anh tất cả những gì tôi còn nhớ. Lúc đó tôi vừa ra viện. Tôi không tỉnh táo. Nhiều thuốc giảm đau quá”.
“Tôi hiểu. Tôi chỉ muốn biết hôm đó Tony có ghé thăm bà không?”
Im lặng một lúc. Gương mặt yếu ớt của phu nhân Bristow đanh lại.
“Không, tôi không nhớ là Tony ghé qua”, cuối cùng bà ta lên tiếng. “Tôi biết cậu ấy nói là có ghé qua thăm, nhưng tôi không nhớ. Có lẽ khi đó tôi đang ngủ”.
“Ông ấy nói lúc đó Lula cũng đang ở đây”, Strike nói.
Phu nhân Bristow khẽ nhún đôi vai gầy gò yếu ớt.
“Có lẽ vậy”, bà ta nói tiếp, “nhưng tôi không nhớ”. Rồi bà ta nói to hơn một chút. “Cậu ấy đã dễ chịu hơn với tôi, vì biết tôi gần đi rồi. Cậu ấy hay ghé thăm lắm. Đương nhiên là lúc nào cũng nói xấu John. Xưa nay cậu ấy vẫn thế. Nhưng John rất hiếu thảo với tôi. Nó đã đỡ đần tôi rất nhiều khi ốm đau…làm cả những việc mà đáng ra con trai không phải làm. Những việc đó nếu Lula làm thì hợp lý hơn… nhưng con bé được chiều quá. Tôi yêu nó lắm, nhưng nhiều khi nó khá ích kỷ. Rất ích kỷ”.
“Vậy vào cái ngày cuối cùng đó, lần cuối cùng bà gặp Lula…” Strike cố tìm cách trở lại chuyện chính, nhưng phu nhân Bristow đã ngắt lời hẳn.
“Sau khi nó ra về, tôi rất buồn”, bà ta nói. “Buồn quá đỗi. Mỗi khi nhắc chuyện Charlie tôi đều cảm thấy như thế. Con bé thấy tôi đang rất buồn, nhưng vẫn đi gặp bạn. Lúc đó tôi phải uống thuốc, rồi tôi thiếp đi. Không, tôi không hề gặp Tony; cũng không hề gặp ai khác. Tony nói cậu ấy có ghé qua, nhưng tôi không nhớ gì nữa, cho đến khi John đánh thức tôi dậy để ăn tối. John rất giận. Nó còn rầy tôi nữa”.
“Tại sao vậy?”
“Nó nói tôi uống nhiều thuốc quá”, phu nhân Bristow trả lời, bối rối như một bé gái. “Tôi biết nó chỉ muốn tốt cho tôi, tội nghiệp John, nhưng nó không nhận ra rằng… nó không thể… Đời tôi đã quá nhiều đau đớn. Đêm đó nó ngồi với tôi rất lâu. Chúng tôi nói về Charlie. Nói đến tận sáng sớm. Và trong khi chúng tôi nói chuyện”, bà ta hạ giọng, thì thào, “ngay đêm đó, Lula ngã xuống… từ ban công.
“John phải làm cái việc là báo tin cho tôi biết, ngay sáng hôm sau. Cảnh sát đến trước nhà khi trời vừa sáng. Sau đó John vào phòng ngủ để nói với tôi và…”
Bà ta nghẹn ngào, khẽ lắc đầu chậm chạp, dường như không còn sinh khí.
“Vì vậy mà ung thư tái phát, tôi biết mà. Người ta chỉ chịu được chừng đó đau đớn”.
Giọng bà ta càng lúc càng nhịu. Hắn tự hỏi không biết bà ta uống bao nhiêu Valium rồi. Hai mắt phu nhân Bristow nặng trĩu, khép lại.
“Yvette, tôi dùng nhà vệ sinh của bà được không?” hắn hỏi.
Bà ta cho phép bằng cái gật đầu thiêm thiếp.
Strike đứng dậy, nhanh nhẹn và nhẹ nhàng di chuyển thân hình bệ vệ. Hắn đi thẳng vào tủ quần áo siêu lớn.
Những cánh cửa gỗ gụ trong tủ chạm đến trần nhà. Hắn mở một cánh ra, thấy những giá treo đầy nhóc các loại áo đầm và áo khoác, bên trên có kệ đựng túi xách và mũ. Mùi âm ẩm của giầy cũ và vải vóc khiến hắn cảm giác như đang đứng trong cửa hàng từ thiện bán đồ cũ, mặc dù đám đồ đạc ở đây hẳn cực kỳ đắt đỏ. Hắn khẽ mở hết cánh cửa này đến cánh cửa khác, đến cánh thứ tư, hắn thấy mấy cái túi xách còn mới nguyên, đủ màu sắc, tất cả được nhồi nhét trên kệ.
Hắn lấy xuống chiếc túi màu xanh, mới cứng, sáng bóng. Chiếc túi có logo GS và lớp vải lót bên trong bằng lụa có dây kéo. Hắn cho tay vào bên trong chiếc túi, miết ngón tay khắp các góc rồi khéo léo đặt vào chỗ cũ.
Tiếp đến hắn chọn chiếc túi màu trắng có lớp lót in hoa văn cách điệu kiểu châu Phi. Hắn lại miết ngón tay trong túi. Rồi hắn mở khoá kéo, tháo lớp vải lót.
Y như Ciara đã mô tả, lớp vài lót rời ra thành một chiếc khăn quàng cổ có viền là dây khoá kéo, để lộ phần da nham nhám màu trắng bên trong túi. Vẫn không thấy gì cả, cho tới khi hắn nhìn thật kỹ. Một đường màu xanh nhạt lộ ra dọc theo tấm bìa cứng bọc vải hình chữ nhật ở đáy túi. Hắn nhấc tấm bìa lên. Bên dưới là một tờ giấy màu xanh nhạt đã được gấp lại. Chữ viết trên tờ giấy khá cẩu thả.
Strike nhanh tay nhét lớp vải lót trở lại túi rồi đặt vào chỗ cũ. Hắn rút từ trong túi áo ra một cái bao ni lông, bỏ tờ giấy xanh vẫn chưa kịp đọc vào đó, rồi đóng cánh cửa lại và tiếp tục mở các cánh khác. Đằng sau cánh cửa gần cuối là một cái két sắt có khoá mã số.
Strike lấy ra thêm một bao ni lông nữa, lồng tay vào và bắt đầu bấm mã số. Nhưng trước khi hắn kịp thử thì bên ngoài có tiếng động. Hắn vội vàng nhét bao ni lông vào trong túi áo, đóng cửa tủ không một tiếng động và quay trở lại phòng ngủ. Cô y tá Macmillan đang cúi xuống bên phu nhân Bristow. Khi nghe tiếng bước chân hắn cô ta ngẩng lên nhìn quanh.
“Tôi đi nhầm”, Strike nói. “Tôi cứ tưởng là nhà vệ sinh”.
Rồi hắn đi vào nhà vệ sinh, đóng cửa lại. Trước khi bấm xả bồn cầu và vặn vòi nước để cô y tá có thể nghe được, hắn đọc bản di chúc cuối cùng của Lula Landry, viết tháu trên tờ giấy lấy từ thư phòng của phu nhân Bristow. Người làm chứng là Rochelle Onifade.
Khi hắn trở ra, Yvette Bristow vẫn nằm đó, mắt nhắm nghiền.
“Bà ấy thiếp đi rồi”, cô y tá dịu dàng nói. “Bà ấy dạo này hay ngủ như vậy lắm”.
“Vâng”, Strike nói, hai tai nóng bừng. “Khi phu nhân tỉnh dậy, phiền cô nhắn lại là tôi xin phép ra về. Tôi phải đi đây”.
Hai người cùng đi ra, dọc theo hành lang ấm cúng.
“Phu nhân Bristow trông rất yếu”, Strike bình luận.
“Ồ vâng, đúng vậy”, cô y tá đáp lời. “Bà ấy có thể đi bất cứ lúc nào. Bà ấy yếu lắm rồi”.
“Tôi nghĩ hình như tôi để quên…” Strike băng quơ nói rồi rẽ trái vào căn phòng khách sơn vàng lúc hắn mới đến. Hắn cúi người trên chiếc sofa, che tầm nhìn của cô y tá và cẩn thận đặt ống nghe điện thoại ngay ngắn trở lại lên giá đỡ.
“À đây rồi”, hắn nói, giả vờ nắm lấy một vật rất nhỏ trong bàn tay rồi bỏ vào túi. “Cảm ơn cô đã mời cà phê”.
Tay cầm nắm cửa, hắn quay lại hỏi cô y tá.
“Phu nhân vẫn lạm dụng Valium như xưa, nhỉ?”
Không hề nghi ngờ gì cả, cô y tá mỉm cười độ lượng.
“Vâng, thì vậy, nhưng bây giờ cũng không thể hại gì nữa. Mà nói thật”, cô ta tiếp, “phải tay tôi, tôi mắng cho mấy tay bác sĩ đó một trận. Bà ấy có tới ba bác sĩ chuyên kê đơn cho bà mua Valium từ bao năm nay, nhìn trên nhãn dán hộp thì biết”.
“Thật chẳng ra gì”, Strike nói. “Một lần nữa cảm ơn cô. Tạm biệt”.
Hắn gần như chạy xuống cầu thang, điện thoại đã cầm sẵn trong tay. Hắn phấn chấn đến nỗi không nhìn lối đi, hụt chân trên cầu thang. Chiếc chân giả bị lệch về một bên, hắn rống lên đau đớn. Đầu gối trật ra khiến hắn ngã rầm xuống sáu bậc thang, nằm nguyên một đống. Khớp gối và mỏm chân cụt của hắn đau đớn kinh hoàng như lúc vừa mới bị cưa, lớp da non còn đang kéo lại.
“Mẹ kiếp! Đau quá!”
“Anh không sao chứ?”, cô y tá Macmillan gọi hắn từ trên lan can, từ dưới nhìn lên gương mặt của cô ta lộn ngược trông rất buồn cười.
“Tôi ổn… Không sao cả!” hắn hét ngược trở lại. “Trượt chân thôi! Đừng lo! Chó chết, khốn nạn, mẹ kiếp”, hắn rên rỉ, thở hồng hộc rồi vịn tay vào trụ cầu thang gần nhất để đứng dậy, rón rén không dám đứng thẳng trên chiếc chân giả đã bị lệch.
Hắn đi cà nhắc xuống phần cầu thang còn lại, cố dựa vào lan can; vừa đi vừa nhảy lò cò qua sảnh đón khách rồi bám vào cánh cửa dày để lết xuống bậc tam cấp trước toà nhà.
Đám trẻ con học thể dục đang chuẩn bị về lại trường để kịp bữa trưa, đi thành hàng rồng rắn xanh xanh ở phía xa. Strike đứng dựa lưng vào bức tường gạch ấm áp, vừa chửi thề liên tục, vừa tự hỏi rằng không biết chân cẳng mình đã hư hại đến đâu. Hắn thấy đau đớn kinh khủng, cảm giác như lớp da mỏm chân đang sưng tấy bị rách ra, rát buốt trong lớp lót bảo vệ. Viễn cảnh đi bộ về trạm tàu điện ngầm trở nên vô cùng thê thảm.
Hắn ngồi ở bậc tam cấp và gọi taxi. Trong khi chờ xe đến hắn gọi cho Robin, rồi Wardle, rồi văn phòng công ty luật Landry, May, Patterson.
Chiếc xe taxi đen đỗ xịch ở góc đường. Lần đầu tiên hắn nhận ra xe taxi ở London trông giống hết như những cỗ xe tang nhỏ. Hắn gượng đứng dậy, lê lết xuống vỉa hè, mỏm chân đau buốt.
Con Chim Khát Tổ Con Chim Khát Tổ - Robert Galbraith (J.k.rowling) Con Chim Khát Tổ