Books are lighthouses erected in the great sea of time.

E.P. Whipple

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Loneliness On The Net
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Bach Ly Bang
Số chương: 14
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1546 / 15
Cập nhật: 2015-09-29 20:00:26 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5
acek, trung tâm máy tính, Viện Max Planck, Hamburg:
Đúng là anh đã bỏ ra ngoài, khi chuông điện thoại reo.
Hôm ấy là thứ bảy, ngay trước nửa đêm, trong trung tâm máy tính vắng ngắt, chỉ có thể là vợ anh gọi đến. Anh không muốn nhấc máy. Anh mệt kinh khủng, phải theo dõi cả ba máy tính nên nước mắt cứ chảy ra, anh cảm thây trong lòng hồi hộp, cảm giác bao giờ cũng xuất hiện khi anh uống trên mười ly cà phê và hút hết hai bao thuốc lá. Anh ở trong tâm trạng hoàn toàn không muốn nghe hai lần những lời ca cẩm của vợ, bây giờ qua điện thoại và sau đó là ở nhà, ngay khi anh bước vào nhà. Lại thêm một lần anh biết, nào là "anh không bao giờ ở nhà", nào là "Ania từ lâu nay đã quên không biết trông mình như thế nào", rồi " lẽ ra anh nên cưới mấy cái máy tính thổ tả ây mới phải" và "đằng nào thì bọn họ cũng chẳng đánh giá đúng mức công sức của anh". Còn anh đương nhiên là không nói với cô ấy rằng anh phải đến đây vì đang có một dự á n quan trọng, vì anh đã hứa với xếp, vì mọi người ở California đang đợi và họ cần phải biết rằng, ở đây, ở Hamburg này họ bị cắt Internet hai ngày, vì vậy mà anh bị tách biệt với thế giới như thể người Eskimo trên một tảng băng trôi và ngày hôm qua anh không thể hoàn thành việc này được.
Anh bỗng thấy bực mình kinh khủng.
Về nguyên tắc thì tại sao anh lạikhông thể, dù chỉ một lần, nói cho cô ấy biết chuyện này? – anh nghĩ.
Mình ở đây làm việc chết thôi, còn cô ấy… Anh đột ngột quay lại chỗ điện thoại, anh muốn hét to lên hết cả để cô ấy nghe. Anh nhấc máy. Đó là Jakub.
- Jacek, ông lấy hộ tôi một cái e-mail từ máy chủ của Poznan. Chuyện này với cô ấy rất quan trọng – hắn nói với cái giọng nhỏ nhẹ, bao giờ cũng buồn buồn và khàn khàn của mình.
Nếu hắn gọi vào trước mười hai giờ đêm thứ bảy, sau năm năm và nói một kiểu câu như thế này ngay sau "chào ông", thì chắc chắn đây là việc cực kỳ quan trọng đối với hắn. Anh không hỏi gì, chỉ lấy địa chỉ máy chủ, địa chỉ người nhận e-mail và xác định anh có bao nhiêu thời gian cho "điều sai bảo" của hắn.
- Đến thứ hai, sáu giờ sáng. Ông có thể gởi tin nhắn cho tôi nếu lấy được hoặc không?
- Jakub, ông phải tin là sẽ được. Cho tôi số nhắn tin của ông đi.
- Ania thế nào? – hắn hỏi.
Chỉ cần nghe thấy là rất tốt và vẫn hỏi thăm hắn thường xuyên, là hắn cúp máy luôn.
Hắn luôn luôn xuất hiện rất nhanh, khuấy động mọi thứ rồi biến mất.
Phần lớn là vào mùa hè.
Mọi cái lại trở về với anh như một giấc mơ giữa ban ngày, gần đây anh hay bị như thế sau mỗi lần uống rượu vang.
Nhưng đây không phải là giấc mơ.
Jakub là một mảng khác thường của quá khứ anh.
Họ biết nhau từ hồi học trung học kỹ thuật. Ngay từ đầu anh đã thán phục hắn, vì bộ óc của hắn và sức chịu đựng của hắn. Thực ra thì đứa nào cũng thán phục hắn, nhưng đương nhiên là chưa bao giờ có ai nói với hắn điều đó. Trong ngôi trường kia, bộ óc của hắn không phải loại cơ bắp đáng để kính nể, chí ít thì cũng công khai, mà hắn thì không có loại cơ bắp khác, thêm vào đó hắn còn nhỏ con nhất trường. Bao giờ cũng đăm chiêu, buồn buồn thế nào ấy. Và liên tục nhận được thư mẹ. Hàng ngày.
Chỉ riêng chuyện ấy cũng đủ để bọn chúng bày ra những trò hèn mạt đối với hắn. Thỉnh thoảng bọn chúng lại lấy cấp những bức thư kia, mở ra và đọc to.
Còn có thể là gì nữa, trong những bức thư của một người mẹ đang nhớ?
Những lúc ấy hắn đứng đờ người ra, khổ sở vô tận, không nói gì, chỉ nắm chặt hai tay và nhìn bọn chúng đầy căm giận với ánh mắt bất lực.
Hắn không thể làm gì được bọn chúng, bởi hắn không có cơ bắp nào khác ngoài bộ óc và bọn chúng biết điều đó.
Nhưng sau năm thứ ba, nghỉ hè xong, hắn đến trường hoàn toàn thay đổi. Hắn lớn lên trông thấy. Hắn đột nhiên to cao như tất cả bọn khác.
Anh nhớ rất rõ sự kiện này.
Một đứa nào đó trong lúc ăn trưa ở nhà ăn ký túc xá đã cá cược oang oang lên rằng có phải mẹ Jakub đã vay bưu điện số tiền mua tất cả số tem thư gửi cho hắn. Mọi người bắt đầu cười. Jakub từ tốn đứng dậy – có những tia lửa trong mắt và nụ cười quái dị - đi đến chỗ cái thằng vừa nói, xin lỗi những đứa ngồi cùng bàn và dùng hết sức đập đĩa súp vào đầu thằng kia. Cho tới tận bây giờ anh vẫn còn nhớ chỗ súp còn lại trong đĩa đã chuyển sang màu máu như thế nào.
Tất cả im lặng nhìn, còn hắn kéo cái đầu đầy súp ra và để hạ nhục kẻ bất hạnh hơn nữa, lấy giấy ăn chùi khuôn mặt dính máu của nó rồi lặng lẽ đi ra.
Chuyên xảy ra thật đẹp…
Anh không nhớ sau đấy có còn ai dám bình luận về những bức thư kia nữa không.
Sau tai hoạ trên, Jakub bỗng nhiên bắt đầu tồn tại, khi hắn nói điều gì đấy, bọn chúng nghe hắn như nghe tất cả những đứa khác, khi chúng hút thuốc, hắn cũng được mời (điều mà cho đến lúc ấy chưa từng xảy ra), khi bọn chúng đi khiêu vũ với bọn con gái trường kỹ thuật y khoa, chúng đưa hắn theo.
Hắn đi cùng bọn chúng mặc dù không bao giờ nhảy. Bao giờ hắn cũng ngồi đúng cái góc tối ấy, không nói gì, chỉ tư lự nhìn.
Song có một lần, trong một buổi khiêu vũ đã xảy ra một điều rất không bình thường.
Một trong số các cô dạy văn kỳ quặc của trường kỹ thuật y khoa muốn làm cho trò chơi hoá trang phong phú hơn (thực ra thì là để tách những đôi bắt đầu ôm nhau chặt hơn khi khiêu vũ), đã tổ chức festival thơ. Trên một cái bục giống như sân khấu, mọi người đọc thơ. Không khí giống như một cuộc thi, mà mục đích là chọn ra những người thuộc lòng những đoạn thơ dài nhất.
Một ý tưởng rất phản động, vì với bọn con trai ở trung học kỹ thuật, thì thơ xa lạ giống như một tủ lạnh đối với người Eskimo. Thậm chí không đứa nào trong số bọn chúng bước lên sân khấu. Sau vài phút thì thấy rõ là chỉ có tụi con trai của trường phổ thông là đua tài với nhau, mà chủ yếu là để thể hiện với bọn con gái trường kỹ thuật y. Cuộc thi kết thúc, hàng tràng vỗ tay tán thưởng của quí cô dành cho người đọc thơ đang từ sân khấu đi xuống đầy kiêu hãnh sau mười bốn phút thể hiện một đoạn trong Balladyna của Slowacki, đúng lúc ấy Jakub bỗng nhiên xuất hiện. Hắn yêu cầu đưa micrô và khi tất cả im lặng, hắn tự giải thích rằng đây sẽ không liên quan gì đến các bài học ở trường và hắn sẽ chỉ chú trọng tới… tình ái. Không đợi cho tiếng xì xào vì ngạc nhiên lắng hẳn, bằng một giọng khẽ khàng hắn bắt đầu đọc.
Asnyk, Pawlikowska–Jasnorzewska, Jastrun, Przerwa–Tetmajer, Osiecka, Galczynski, Illakowiczowna, Lesman, Baczinski, Norvid, Staff, Czechowicz…
Không một lần dừng lại, suốt nửa tiếng trong tiếng vỗ tay, không nhìn xuống khán giả, chỉ tập trung vào một điểm trên sàn, hắn đọc tên các nhà thơ, tên các tập thơ và đọc thơ.
Thỉnh thoảng hắn dùng tay nhẹ nhàng minh hoạ, thỉnh thoảng hắn trầm ngâm trong vài giây như muốn dành cho người nghe một khoảng thời gian cho thư giãn, cho thay đổi tâm trạng hoặc đơn giản là tìm bài thơ lại trong trí nhớ.
Tại một thời điểm, giữa bài thơ của Pawlikowska – Jasnorzewska, hắn từ sân khấu đi xuống và ngồi vào góc của mình. Im lặng kéo dài khoảng hơn chục giây, bọn con gái bên trường phổ thông nhìn hắn với ánh mắt đầy ngưỡng mộ, còn đám con trai bọn chúng, đám con trai của trường kỹ thuật thì nở nang vì kiêu hãnh. Jakub nhỏ con của chúng…..
Ngoài ra Jakub còn hoàn toàn bình thường.
Hắn uống rượu với bọn chúng, cũng chửi thề như chúng và là một người trong số chúng. Ngoài việc hắn có bộ óc ấy, những bức thư mà mẹ hắn hàng ngày gửi đến và hắn thuộc ngần ấy bài thơ, hắn là "từ cùng một cuốn sách".
Tất cả đều biết rằng hắn sẽ học đại học.
Các giáo viên hơi sợ hắn kể từ cái lần trước cả lớp mà lại đang trong buổi dự giờ, hắn đã cho thầy dạy lý một bài giảng về đề tài sự giãn nở của vũ trụ, còn khi thầy này được hắn tha, đã thú nhận rằng mình không biết Hubble là ai, hắn đã gọi ông ta là "kẻ dốt nát tỉnh lẻ" và là "đại diện được đào tạo của cơ quan thanh tra giáo dục". Hình như những vị dự giờ có tuổi của cả tỉnh cho tới tận bây giờ vẫn còn kể về chuyện này.
Hắn bị tước quyền học sinh một tuần, khi ông bố hắn đến theo giấy mời của ban giám hiệu, thậm chí không cần hỏi đầu đuôi câu chuyện thế nào, đã làm một trận lôi đình trong phòng hiệu trưởng, đến nỗi mọi người buộc phải gọi công an đến.
Bố của Jakub không có một căn cứ nào khác, chỉ duy nhất một cái đó.
Jakub của ông.
Ông tự hào về hắn đến mức gần như bay khỏi mặt đất.
Cho đến bây giờ vẫn không ai biết mọi chuyện đã diễn ra như thế nào, nhưng ngày hôm sau hiệu trưởng đã chính thức xin lỗi Jakub vào giờ điểm danh, còn thầy dạy lý thì chuyển trường hai tuần sau đó.
Những con đường của họ tách ra sau ngày ra trường, anh ở lại Gdansk, còn Jakub tết nghiệp đại học toán và đồng thời triết học ở Wroclaw.
Thỉnh thoảng anh lại nghe được những thông tin ít ỏi về hắn: rằng hắn giành huy chương Olimpic tiếng Anh toàn Ba Lan, rằng hắn học cùng lúc hai khoa, rằng hắn làm tiến sĩ ở Mỹ.
Một ai đó đã có lần nói với anh là hắn bị gạch tên ở trường đại học. Nhưng anh không tin.
Sau đấy thì con gái của vợ chồng anh bị ốm và thế giới như sụp đổ.
Nó tên là Ania, mới lên tám, là tình yêu lớn nhất và duy nhất của anh, nó bị bệnh máu trắng và chỉ sau vài tháng nó sẽ chết.
Anh bắt đầu uống, để có thể chịu đựng.
Anh khóc và uống, càng uống nhiều, càng khóc nhiều. Nhưng không hao giờ anh khóc trước mặt Ania.
Anh không còn tin vào Chúa nữa.
Không thể có Chúa. Bởi nếu có, thì có nghĩa là Người hoặc rất xấu, hoặc bất lực, hoặc đồng thời cả xấu cả bất lực. Thậm chí ngay lúc này anh cũng không thể tin vào điều này, vậy thì anh loại trừ khả năng tồn tại của Người.
Họ đưa con bé đi tất cả các bệnh viện ở Ba Lan. Ania bị mắc bệnh ngừng phát triển, tủy sống mất đần. Cứu cánh duy nhất là ghép tủy, nhưng thời đó ở Ba Lan chưa có ai làm việc này. Một lần, do tình cờ, khi đặc biệt tỉnh táo, anh được biết rằng ở Mỹ người ta làm được việc đó. Anh biết rằng việc phẫu thuật sẽ tốn kém không thể tưởng tượng nổi, mặc dầu vậy anh vẫn bắt đầu tìm kiếm. Anh được biết là Jakub đang làm tiến sĩ ở New Orleans và thông qua trường của hắn ở Wroclaw anh đã có được số điện thoại của hắn. Hai tuần liền anh đắn đo, gọi hay không gọi.
Một lần, say và can đảm, anh đăng ký cuộc gọi. Mãi ngày hôm sau mới được kết nối, khi anh đã tỉnh táo và nói chung là không nhớ đêm qua mình lại can đảm đến thế.
Tuy nhiên anh nhớ lại là mình muốn nói với Jakub về Ania.
Jakub nghe rất nghiêm túc. Hắn đột ngột yêu cầu tất cả các thông số của Ania, các thông tin về tuỷ sống, về quá trình hóa trị liệu, về tình trạng của mạch bạch huyết. Có vẻ như hắn biết hết về bệnh máu trắng và ghép tủy.
Điều này làm anh ngạc nhiên. Nhưng chỉ thoáng qua. Anh nhớ lại là bao giờ Jakub cũng biết hầu như tất cả.
Hắn hỏi không chút cảm xúc. Thậm chí không cả nói mình rất buồn về bệnh tình của Ania. Hắn xin số điện thoại của anh và bảo sẽ gợi điện sau hai tuần, và cúp máy không một lời tạm biệt.
Anh thậm chí không chờ đợi cú điện thoại này.
Trong vô vàn những lời hứa suông mà họ đã vấp phải, và những hy vọng hão mà mọi người đã tạo nên cho họ, thì thêm một hy vọng này nữa đâu có nghĩa lý gì. Đơn giản vì khi đó Jakub là địa chỉ duy nhất ở Mỹ mà anh biết và anh nghĩ rằng riêng việc đã nhờ hắn giúp đỡ cũng đủ để anh thấy lương tâm thanh thản.
Khi hắn gọi điện là gần trưa chủ nhật.
Jakub.
Không bao giờ anh quên được cuộc nói chuyện ấy:
- Ông đã uống rồi cơ à? - hắn hỏi.
- Chưa... vì hôm nay tôi phải vào bệnh viện với Ania – anh trả lời.
- Thế thì tốt rồi. Bây giờ thì ông nghe thật kỹ nhé. Ông lên ôtô và đến sân bay Warszawa. 20 giờ 30 máy bay của LOT 1 từ New York sẽ hạ cánh, trong đó có một người, người này sẽ đưa cho ông một thư bảo lãnh viết tay, nhận Ania vào Đại học Tổng hợp Tulane ở New Orleans để làm phẫu thuật ghép tủy, một giấy hẹn cấp viza cho Ania ở đại sứ quán Mỹ tại Warszawa và số đặt chỗ chuyến bay cho Ania đến New York vào thứ sáu. Tôi đã đặt cho con bé hai chỗ hạng business. Ông sẽ nhận tất cả những thứ này từ người kia và vé tại LOT ở Warszawa vào sáng thứ hai. Thứ ba, ông phải bán ôtô, đưa một ít hối lộ cho phòng hộ chiếu để giải quyết sao cho con bé có được hộ chiếu vào thứ tư. Thứ năm ông đến sứ quán lấy viza, còn thứ sáu thì đưa Ania lên máy bay. Tôi sẽ đón nó ở New York và đưa về chỗ tôi ở New Orleans. Đã có người cho tuỷ. Tôi đã giải quyết xong mọi chi phí cho cuộc mổ này, vậy ông đừng có làm hỏng việc đấy. Tối thứ ba tôi sẽ gọi cho ông - hắn nói và cúp máy.
Còn anh thì đứng như trời trồng và cứ giữ cái ống nghe ấy rất lâu và kiểm tra lại xem mình có nhớ hết không, nước mắt chảy xuống má cho dù anh hoàn toàn chưa say...
Tất cả đã diễn ra đúng như Jakub nói. Duy có hộ chiếu là do vợ anh khóc lóc mà có được chứ không cần phải hối lộ gì hết.
Tuy nhiên đằng nào họ vẫn phải bán ôtô. Để trả một khoản tiêu cực khác: giải quyết việc chở Ania bằng máy bay lên thẳng từ bệnh viện ra sân bay Warszawa. Sáng thứ sáu, họ đứng trên sân thượng của Okecie, nắm tay nhau và nhìn cái máy bay ấy cất cánh.
Jakub gọi điện từ New York thông báo rằng Ania đã đến nơi may mắn và con bé rất dũng cảm. Sau đấy thì hắn gọi hàng ngày.
Vợ anh gần như phát điên lên. Cô ấy xin nghỉ phép để lúc nào cũng ở gần điện thoại. Cô ấy cấm mọi người gọi đến vì sẽ "chiếm đường dây". Còn khi điện thoại yên lặng quá lâu thì cứ chốc chốc cô ấy lại nhấc máy lên để xem nó có bị hỏng không. Hầu như cô ấy không ra khỏi nhà, không ngủ vì sợ rằng mình sẽ không nghe thấy tiếng chuông điện thoại.
Anh uống liên tục.
Sau năm tuần thì họ đi Warszawa để đón Ania. Họ đã biết là Ania sẽ sống.
Tối hôm ấy họ về nhà mệt mỏi sau chuyến đi, và Ania lại ngủ trong căn phòng của nó, hai vợ chồng vào phòng con bé, quỳ xuống bên giường, ôm nhau nhìn con và khóc.
Anh biết rất rõ rằng trong giây phút ấy, cả hai đều cảm thấy cùng một điều: lòng biết ơn trọn vẹn và lớn lao vô hạn. Lòng biết ơn giành cho một người khác.
Anh chợt nghĩ rằng, dù sao Chúa vẫn tồn tại. Người chỉ đi vắng trong một khoảng thời gian nào đó mà thôi.
Anh không thể hình dung được, lòng biết ơn không bày tỏ được có thể trở thành một gánh nặng như thế nào. Tối hôm ấy họ chờ điện thoại của hắn, họ muốn nói với hắn một điều gì đất. Cái gì cũng được, miễn là chứa trong nó lời cám ơn.
Nhưng hắn không gọi.
Cả tối hôm ấy, cả suốt hai năm sau đó hắn không gọi. Hắn vốn vậy.
Và khi đó tối hôm ấy, anh thử gọi cho hắn. Anh đăng ký cuộc gọi và nói rằng anh muốn được kết nối ngay lập tức, phải trả bao nhiêu cũng được. Họ nói rằng đây là ở Mỹ, rằng anh cần phải hiểu, rằng họ sẽ kết nối cho anh, nhưng nhanh nhất cũng phải sau mười tám tiếng.
Tối hôm ấy họ đã quyết định phải đi khỏi đất nước này.
Và giờ đây khi mọi người hỏi tại sao họ lại rời Ba Lan thì anh nói rằng anh đi vì anh đã không thế bày tỏ được lòng biết ơn, còn mọi người thì cười và không tin anh.
Nhưng đấy là sự thật, toàn bộ sự thật.
Chuông điện thoại bứt anh ra khỏi dòng suy nghĩ. Lần này thì là bà xã.
- Anh có biết rằng, đồ quỉ quái, ở Hamburg bây giờ đã là chủ nhật?- cô ấy bắt đầu.
Anh không để cho cô ta nói hết.
- Jakub vừa gọi, hắn cần anh giúp - anh nói.
- Jakub...?
Im lặng mấy giây, cô ấy hỏi:
- Em có phải đến để giúp anh không?
Anh cười, chợt ngạc nhiên vì câu hỏi ấy.
Không, em không thể giúp được anh đâu. Đừng khóa cửa nhé để lúc về anh không làm Ania thức giấc.
- Tất nhiên rồi. Với lại đằng nào thì cho đến lúc anh về em cũng không ngủ được. Jacek, anh phải cố giúp anh ấy đấy nhé.
Đương nhiên là anh sẽ giúp! Anh sẽ giải quyết cái máy chủ này sao cho không phải đứng dậy!
Kể cả lúc này anh phải đi Poznan và lấy búa đập tan nó ra hoặc là phải lấy dao cạo mà nạo cái e-mal ấy ra khỏi mấy cái ổ cứng.
Anh biết là mình sẽ không phải đi đâu hết. Anh chợt cảm nhận được thách thức này. Giống như cái lần vừa mới đến Đức vẫn còn đang là sinh viên ở Frankfurt trên Men, cùng với các hacker giống như anh họ đã giải quyết những cái máy tính của IBM ở Heiderberg hoặc là họ đã thử đột nhập vào trung tâm Commerzbank. Sáng hôm sau anh cười khúc khích đầy tự hào khi đọc báo về "một cuộc thử đột nhập không thành vào trung tâm máy tính ở..." và ở chỗ này họ đưa ra tên một viện quan trọng nào đấy: Anh biết là đến tối anh sẽ phải giải thích cho người yêu rằng cuộc thử không thành công có nghĩa là máy tính vẫn còn đó, còn cuộc thử thành công thì sẽ có nghĩa là nó đã cháy trụi.
Đó là cool và nó tác động giống như heroin. Chỉ còn lại rất ít từ cái thời xa xưa ấy: một vài tình bạn được sống lại bằng những tấm bưu thiếp nhân dịp lễ tết, một vài mẩu báo đã ố vàng, những kỷ niệm.
Nhưng cũng có cả những cuốn sổ ghi mật khẩu, những mật khẩu giúp anh có thể thâm nhập vào hầu như tất cả các máy tính ở Đức.
Anh pha một cốc cà phê nữa rồi bật máy tính.
Đầu tiên, anh làm quen với máy chủ ở Poznan.
Ngay lập tức anh nhận ra rằng nó được bảo vệ trước những cuộc tấn công từ bên ngoài bằng firewall, một chương trình bảo vệ chọn lọc, có vai trò như một người lính canh điện tử đặc biệt, và... anh phấn khởi. Anh sẽ không cảm nhận được thành công, nếu mọi việc quá dễ dàng.
Sau đấy anh tìm trong sổ những mật khẩu mà bạn bè đã cho để vào được cray của các trường Đại học Tổng hợp ở Munich, Berlin và Stuttgat. Không có loại máy tính nào nhanh hơn cray. Cái đất nước giầu có này chỉ có bốn cái như thế kể cả cái ở đây ở Hamburg mà anh vẫn làm việc với nó.
Anh đồng thời nhập hệ trên ba cái trong số đó.
Anh khởi động viên ngọc của mình cùng lúc trên tất cả các máy. Đây là chương trình do anh tự viết và nó đã làm một việc tuyệt hảo: anh viết ẩn danh. Đơn giản là anh thay đổi địa chỉ phiên của mình ở Berlin, Munich và ở Hamburg này thành không hiện hành. Kể cả nếu cái firewall thông minh của họ ở Poznan có nhận ra cuộc tấn công khởi nguồn từ đâu thì đằng nào họ cũng chỉ nhận được một cái địa chỉ có phố không tồn tại trong một thành phố không tồn tại ở một nước không tồn tại.
Nửa tiếng đồng hồ trôi qua, và anh đã sẵn sàng.
Anh châm thuốc, ra bếp lấy bia trong tủ lạnh, nhìn đồng hồ và phải nói rằng đã muốn làm "nổ tung" luôn cả ba chương trình: ở Hamburg này, ở Berlin và Munich. Anh biết rằng ngay cả máy chủ ở Pentagon cũng không thể chịu nổi một vụ tân công như thế này. Kế hoạch rất đơn giản. Anh tấn công từ đây, từ Hamburg, hoàn tất trên cái cray ở Munich, còn sửa từ Berlin.
Bởi nó gần Poznan nhất - anh cười thầm.
Trong khoảnh khắc ấy, anh hiểu rằng mình thanh toán cả cái máy tính chỉ cất để hủy một cái mail duy nhất. Bỗng nhiên anh nảy ra một ý muốn không thể cưỡng nổi là thử xem trong đó là cái gì. Đây hẳn phải là một cái gì đó rất khác thường.
Anh quyết định, với lương tâm của mình, rằng vì điều tốt cho vấn đề, vì điều tốt cho khoa học, anh có quyền xem bức mail đó trước khi hủy.
Anh dừng việc tấn công, khởi động chương trình bẻ khóa hộp thư, và mail là của hắn.
Anh uống một ngụm bia rồi bắt đầu đọc.
Anh đọc và cảm thấy cả người mình run lên.
Anh đã không linh cảm được rằng lại có một khi nào đó anh được đọc một bức thư đẹp đến vậy về tình yêu, nỗi nhớ, sự thất lạc, lòng ghen, sự không chung thủy và sự trừng phạt vì tội …
Cô ấy phải là một hiện tượng khác thường, không lặp lại như thế nào đấy một khi Jakub đã viết một bức thư như thế.
Anh ghen với hắn.
Anh lại nhớ về trường. Sự kiện từ cái thuở Jakub vẫn còn là một "thằng nhỏ".
Bọn chúng phải viết một bài về đế tài Tạm biệt Maria của Borowski. Còn mười lăm phút nữa thì hết tiết học, bỗng nhiên cô giáo nhớ ra là mình vẫn chưa kiểm tra các bài làm đó. Cô gọi Jakub. Tất cả thở phào nhẹ nhõm, còn hắn bắt đầu đọc. Hắn viết về cái chết, về nỗi đau khổ, về sự tồn tại, về sự qua đi về phẩm giá con người hay và xúc động đến nỗi cô giáo đã phải khóc. Không tự chủ nổi, cô phải bỏ ra ngoài khi hắn chưa kết thúc, còn hắn, không để ý đến điều đó, vẫn đọc tiếp. Tất cả đờ người ra nghe trong một sự im lặng như thể cô giáo chưa từng bao giờ có mặt trong lớp.
Và cả sau đấy nữa, không bao giờ.
Chuông hết giờ đột ngột vang lên, nhưng không ai đứng dậy. Jakub đọc xong và lặng lẽ ngồi xuống, trong khi tất cả những đứa khác ra khỏi lớp trong khoảng thời gian giải lao còn lại và không đứa nào dám nhìn vào mắt hắn, vì đứa nào cũng xấu hổ với sự mềm yếu mà mình vừa tỏ ra.
Bởi hắn lúc nào cũng vẫn là cái thằng Jakub nhỏ nhất hướng ấy.
Chỉ có anh, Jacek là ngồi xuống cạnh hắn một lúc, vỗ vai hắn và nói:
- Iakub, đừng ngại. Không chỉ có cô giáo đâu. Cả tớ cũng khóc đấy
Đã đến lúc.
Đầu tiên anh khởi động chương trình ở chỗ mình, sau đó ở Munich và cuối cùng là ở Berlin.
Anh chờ mất mấy phút và thử kết nối với máy chủ ở Poznan. Anh cười mãn nguyện.
Máy chủ ở Poznan đã không còn.
Có nghĩa là vẫn còn, nhưng chỉ là một đống silic vụn.
Anh chọn số nhắn tin của Jakub trên trang web cho phép gìn thẳng tin nhắn từ Internet, và viết:
Poznan không còn nữa. Chắc chắn cô ấy sẽ không bao giờ đọc được cái mail ấy. Jacek.
Anh gửi tin nhắn và nghĩ rằng tuy nhiên Jakub không phải từ cùng một cuốn sách ấy.
Anh tắt máy tính, uống nốt chỗ bia và chậm rãi ra thang máy.
ANH: Từ hơn chục giờ đồng hồ nay anh ngồi trong phòng làm việc ở Munich. Chi có tiếng gõ bàn phím máy anh làm xáo động sự yên tĩnh. Đã bước sang ngày chủ nhật.
Anh đợi.
Cố tập trung vào bài mà anh vừa tìm được trên mạng. Anh cho rằng điều đó sẽ xua đi nỗi lo âu trong mình.
Song nỗi lo âu không mất đi. Nó chuyển thành nỗi sợ hãi.
Anh sợ rằng sẽ mất cô vĩnh viễn khi cô đọc cái e-mail mà anh gửi cho cô. Anh viết nó ở tâm điểm bùng nổ của ghen tuông, thất vọng và nhớ.
Cho tới lúc ấy anh vờ như không ghen hoặc giấu đi sự có mặt của nó. Anh học điều này rất lâu, và việc họ không gặp nhau đã giúp anh. Những cái kiểu như nét mặt, ánh mắt nhìn, tâm trạng, giọng nói, vê bối rối hoặc sất ruột không bị cô thu nhận. Cảm xúc chỉ được biểu lộ duy nhất qua những dòng chữ, mà trong trường hợp của họ thì như vậy dễ kiểm soát hơn.
Đôi khi anh phân vân, phải chăng chính khả năng chỉ sử dụng duy nhất chữ viết này là điều lâm người ta hài lòng, trong những mối quan hệ trên mạng như thế này. Một số người nghĩ ra những điều dối trá đầy tính thuyết phục, nhưng họ biết rằng họ không bao giờ nói ra những điều ấy, bới chỉ cần giọng nói run run hay khuôn mặt ửng đỏ cũng khiến chúng trở thành không thể tin được. Cả các tác giả ẩn danh cũng biết rất rõ về điều này.
Cô có thể thu nhận được tất cả những gì anh viết, và nhiều nhất thì cũng chỉ có thể khuyếch đại chúng bằng trí tưởng tượng của mình. Thậm chí cả khi cô cảm nhận được nhiều hơn là anh mong muốn, thì cũng không thể nhận ra sự ghen tuông trong những con chữ của anh.
Cô không thể, đó chính là thành công của anh và anh đã phải trả giá khá nhiều. Bởi chỉ thực tế là cô không chỉ thuộc về riêng anh, gần đây đã làm anh như mất trí. Vậy mà mới chỉ cách đây không lâu anh còn cho rằng ý nghĩ tối tối cô lên giường với một người đàn ông khác không làm anh đau đớn. Anh cho rằng cái gã có cô như của riêng chỉ khi nào hắn muốn, giống như là một đoạn tiểu sử đã xảy đến với cô, khi mà anh, Jakub chưa có mặt trong cuộc đời cô. Đơn giản là người đàn ông ấy đã đến với cô trước một thiên thạch lớn là anh, Jakub, đương nhiên.
Anh tin là người đàn ông đó sẽ nhanh chóng biến mất. Như loài khủng long.
Khủng long cũng chỉ bị tuyệt chủng sau vụ va chạm với thiên thạch hay sao chổi một thời gian nào đó chứ đâu phải ngay tức thì. Chủ yếu do bóng tối bao trùm lên trái đất. Vụ va chạm khiến cho trái đất bị phủ một đám mây bụi không cho ánh sáng mặt trời xuyên qua. Bụi làm cho thảm thực vật không sinh trưởng được, và điều này dẫn đến sự tuyệt chủng của loài khủng long ăn thực vật. Sau chúng là tất cả các loài khủng long ăn khủng long khác.
Anh đã tự giải thích cho mình như vậy sau khi uống hết chai chianti thứ hai, rằng gã khủng long-chồng cô sẽ hệt giống, thậm chí kể cả gã có ăn uống lành mạnh và chỉ ăn toàn rau đi chăng nữa. Ngoài chuyện đơn giản là sẽ không có gã, điều này còn góp phần vào sự tiến bộ chung.
Khủng long cũng chỉ là một thứ hành lý quá tải vô bổ của nền văn minh. Chương trình gien của chúng - gần như chắc chắn rằng những biến đổi gien ở loài khủng long sẽ không bao giờ xuất hiện nữa - đã hoàn tất, điều này cảnh báo rằng trên hành tinh này sẽ không bao giờ có người nữa.
Và cả Internet cũng không có nữa.
Nhưng may mắn thay, đã không xảy ra như vậy. Thiên thạch va vào và khủng long chết, nhường chỗ cho loài chuột. Những tạo vật siêu thông minh sống trong hang và quen với cái bóng tối đã hủy diệt loài khủng long hiệu quả ấy đã ra ngoài và bắt đầu tiến hóa.
Liệu anh cũng là một con chuột như vậy? Không. Anh chắc chắn là không!
Với lại giả thuyết với thiên thạch chỉ là một trong rất nhiều giả thuyết khác. Đã có những lúc anh không nhất trí với nó. Tất cả tùy thuộc vào việc anh uống bao nhiêu vang.
Ngoài ra anh muốn được ưu tiên hưởng độc quyền quan trọng hơn nhiều.
Độc quyền đối với ý nghĩ của cô.
Anh muốn cô chỉ nghĩ đến anh khi trải qua niềm vui, khi đưa ra những quyết định, khi xúc động hay mơ mộng. Chỉ nghĩ đến anh khi nghe những bản nhạc yêu thích, những khi cười đến chảy nước mắt vì tếu hay khóc vì câm động trong rạp chiếu phim. Anh muốn cô nghĩ đến anh khi chọn đồ lót son tô môi, nước hoa hay màu nhuộm tóc. Để cô chỉ nghĩ đến anh trên đường phố khi ngượng ngùng quay mặt trước cảnh một đôi đang hôn nhau. Anh muốn là ý nghĩ duy nhất của cô mỗi sáng khi thức dậy, và mỗi tối khi chân vào giấc ngủ.
Mặc dù không đủ can đảm để hỏi, nhưng anh chắc là cô thủ dâm.
Cô quá hiểu biết để không làm việc đó.
Chỉ có những người đàn bà thủ dâm mới biết rõ cái gì kích thích họ và biết nói lên nhu cầu ấy. Hơn nữa, hành vi thủ dâm là phần thêm vào duy nhất cho hành vi thực thụ có vị trí trong não. Bụng dưới chỉ là một sân khấu để người ta biểu diễn cái đó. Anh dám chắc rằng cô thủ dâm khi nghĩ đến anh. Vâng, đây chính là sự độc quyền ấy: hiện hữu trong não cô và trong các ngón tay cô - vào thời điểm như vậy.
Nói chung, liệu có thể gần người đàn bà hơn khi người ấy giải tỏa những bức xúc của trí tưởng tượng của mình và biết rằng mình không phải, tuyệt đối không phải giả vờ bất cứ cái gì và trước bất cứ ai?
Thậm chí nếu không phải là anh hôn lên phần bụng ấy, thì đó vẫn cứ là sân khấu của anh.
Mặc dầu vậy càng ngày anh càng hay cảm thấy rằng như vậy với anh chưa đủ. Gần đây, trong những lần nói chuyện với cô trên ICQ, cả trên e-mail nữa, anh nhận thấy là cô đã tìm thấy modus vivendi 2 của mình và học cách sống, theo anh, thân thiết và thuận tiện giữa hai người đàn ông: chồng cô và anh. Mỗi người trong số họ cho cô một kiểu cảm giác khác, nhưng kết quả là, vì đã quá quen với thực tế là anh vượt qua được sự ghen tuông hoặc là không để cô nhận thấy, cô đã không còn giấu giếm rằng tình huống ấy không làm cô phiền lòng, lo lắng, bực mình hay thất vọng nữa.
Anh có thể hỏi cô, thực tế có đúng như vậy không. Song anh đã không làm điều đó vì sợ rằng cô sẽ trả lời thẳng. Anh sẽ rơi vào bẫy của chính mình: niềm kiêu hãnh đàn ông cộng với sự nhạy cảm rồi sẽ như một vết thương trong lòng bàn chân, nó bỏng rát vì đi lại. Mà anh thì phải đi lại.
Thế mà, thứ sáu, cô gửi cho anh tấm ảnh ở bữa tiệc cuối cùng do công ty ông chồng tổ chức và khi anh nhìn thấy cô trong vòng tay ông ta thì toàn bộ cái mô hình độc quyến đã đổ sụp như một ngôi nhà giấy. Anh bỗng hiểu ra rằng chính người đàn ông trong tấm ảnh mới hiện hữu trong cô, bằng những ngón tay, bằng lưỡi và bằng "cái ấy", và rằng cô, ở bên cái gã trong ảnh đó sẽ thì thầm, sẽ ướt và thậm chí có thể rên lên vì sung sướng nữa. Anh đập cái ý nghĩ ấy vào giữa vết thương và anh đã viết và gìn thư cho cô trong nỗi đau sau cú đập ấy.
Khi nỗi đau qua đi, anh sôi lên vì xấu hổ. Cái mà anh làm thật mâu thuẫn với toàn bộ triết học của anh, thứ triết học mà anh đã hăm hở giảng cho cô đến thế và cô cũng hăm hở tranh luận với anh đến thế để thất bại đến thế. Bởi chẳng có ai khác ngoài anh lúc nào cũng thuyết phục cô, rằng ví dạ sự liên tưởng thông thường tình yêu với hành vi về thực chất là rất tầm thường và hài hước rằng việc ai đó cho một cái gì đó vào một chỗ nào đó của ai đó, chỉ khiến anh buồn cười rằng khi cân nhắc kỹ lưỡng hơn trước vấn đề này, thì khó mà không nhận thấy rằng sự tầm thường của hành vi này vẫn cứ áp đảo. Bởi làm gì có ai khác ngoài anh lúc nào cũng thuyết phục cô rằng anh sẽ tìm lại được nhiều tình yêu hơn nhiều trong dòng năng lượng bất chợt giữa các đồng tử.
Và sau tất cả những điều đó, cô sẽ phải đọc cái mail đầy nước mắt về một con đực nữa, một con đực bị đau thần kinh tim và tiền liệt tuyến vì ghen?!
Anh bỗng cảm thấy có tiếng rung. Đó là máy nhắn tin trong túi anh. Anh lấy máy ra và đọc tin nhắn từ Hamburg.
Thành công rồi!
Cô sẽ không đọc được cái thư ấy.
Việc Jacek biết về cô không khiến anh đặc biệt e ngại. Thứ nhất anh tin vào sự thận trọng tuyệt đối của Jacek, thứ hai, anh đã biết rõ rằng Jacek sẽ nhìn thấy thứ này ở Poznan. Và sẽ đọc trước khi hủy.
Bao giờ Jacek cũng có ý thức đặc trưng và kiên định về tính chân thật và lòng trung thành. Bời cậu ta có thể không cần phải nói là mình biết nội dung bức thư ấy. Với Jacek, đọc một bức thư lạ là okay, nhưng không nói ra điều đó lại là lừa dối và ăn cắp.
Vậy nên cậu ta đã nói.
Jacek...
Cuộc đời của họ được đan bện vĩnh viễn và không thể tách rời bới một bi kịch rất khác thường. Gần đây anh hay nghĩ về những sự kiện xưa kia. Một vài nỗi xúc động mà gần đây cô đã gây nên trong anh, chúng như những deja vu 3 và của cái mà anh đã trải qua mấy năm trước đây ở New Orleans. Anh còn nhớ cú điện thoại vào cái đêm hôm ấy như thể chỉ vừa mới hôm qua, mà chuyện thì đã qua đi hơn chục năm rồi.
Đã là cuối tháng thứ tám của đợt thực tập khoa học của anh tại Đại học Tổng hợp Tulane ở New Orleans. Từ mấy tuần trước, anh luôn ở trong trạng thái ngây ngất về cảm xúc cũng như trí óc. Công trình mà anh đang tiến hành và cũng là tư liệu cho luận văn tiến sĩ của anh đã bước vào giai đoạn quyết định. Hai mươi người của một số trường đại học trên toàn nước Mỹ độc lập viết các modun cho một chương trình độc nhất về sắp xếp chuỗi ADN nhằm xây dựng bản đồ gien cá biệt của vi khuẩn gây bệnh sất Richettsia. Công trình là rất táo bạo và thu hút nhiều người nước ngoài. Những người này làm thành một nhóm các chuyên gia máy tính bị thôi thúc bởi tính tò mò, nhiệt tình và khát khao được trải nghiệm những phiêu lưu khoa học cực kỳ hiếm khì xảy ra. Dự án, nếu thành công, sẽ mở ra con đường để bắt đầu những công trình xây đựng bản đồ gien người. Cái mô hình cá biệt ấy của con người được ghi trên một thang xoắn thành chuỗi xoắn kép ADN mà ai ai cũng biết.
Anh là một trong số những người muốn thử tạo nên mô hình ấy.
Một nghiên cứu sinh nhỏ thó từ Ba Lan, với mặc cảm tự ti trước thế giới được hình thành từ hiện thực xã hội chủ nghĩa và được che đậy một cách bài bản và toàn diện của một nhà khoa học hạng hai, bỗng nhiên được có mặt trong nhóm để chơi trận chung kết tuyệt đối cúp siêu hạng thế giới. Huấn luyện viên là một người của Harvard đoạt giải Nobel, tiền nhiều như tuyết của dân Eskimo và tất cả đều muốn chơi trận đấu để đời của mình.
Hồi đầu, mọi người trong nhóm chỉ biết là anh đến từ một nước có rượu vodka khá ngon và có cái họ rất khó đọc cửa một anh thợ điện hoạt khẩu.
Họ cho anh, điều này thì họ không hề nói, ba tháng để thể hiện những gì anh biết. Họ quan sát anh.
Sau ba tháng, một hôm chuông điện thoại trong phòng làm việc của anh reo và Janet, cô thư ký, bằng giọng nói rất sexy của mình mà anh còn nhớ cho đến tận bây giờ, thông báo anh có điện thoại của giáo sư phụ trách nhóm từ Harvard. Anh vội đứng dậy khỏi ghế khi họ bắt đầu nói chuyện. Giáo sư cứ hỏi đi hỏi lại anh rằng liệu anh "có thời gian" và liệu vấn đề có phù hợp với mối quan tâm của anh. Anh chỉ nhớ là bị chấn động bởi niềm vui, anh cứ áp sát ống nghe vào miệng khi họ kết thúc cuộc đàm thoại, và anh được biết rằng "sau mười lăm phút nữa họ sẽ gửi qua Internet cho anh mật khẩu để mở khóa vào chương trình sắp xếp dãy AND" và rằng "ngày kia, anh phải có mặt ở New York trong cuộc họp của cả nhóm chúng ta".
Giờ đây thì anh biết rằng cuộc nói chuyện trong vòng mấy phút ấy đã thay đổi cuộc đời anh.
Sau cuộc nói chuyện ấy, anh cũng nhận thấy ở tỉnh, lần đầu tiên, một nguyên tắc bất thường nào đó. Niềm vui và sự phấn khởi về mình khi vượt quá một giá trị ngưỡng nào đấy - sau cuộc nói chuyện kia thì đúng là như vậy - tạo nên trong anh sự hưng phấn tình dục cực mạnh. Khi kết thúc cuộc nói chuyện với vị giáo sư kia, anh không đủ cực kỳ hạnh phúc và cực kỳ tự hào về mình, mà còn bị cực kỳ cương cứng. Đây hoàn toàn không liên quan gì đến việc đã mấy tháng anh không hề đụng tới một người phụ nữ nào. Thực ra thì anh nhớ là sau mấy tháng độc thân tuyệt đối ấy, ra đường anh ngoái cổ trông theo tất cả những gì đi lại và có ngực, nhưng trong trường hợp này phải loại trừ nguyên nhân đó. Anh biết chắc thế, trời sau này hiện tượng này vẫn xảy ra thậm chí cả khi niềm vui và niềm tự hào về mình vượt quá giá trị ngưỡng đến với anh chỉ vài giờ sau khi anh "làm việc" đầy thỏa mãn nhưng mệt lử.
Anh đã đọc tất cả về cơ cấu cương cứng ở đàn ông, anh biết rằng khởi đầu của hiện tượng này là sự gia tăng nồng độ ôxit nitơ trong máu, anh đọc về các chất ức chế enzym PDE5, về việc làm đầy và xả trống các thể hang, về các xi lanh cGMP, và về các chứng minh khoa học tương tự vô cùng nghiêm túc và thông minh. Anh có thể hiểu rất rõ rằng, anh có thể bị cương cứng vào ban ngày, khi đi hơi lâu theo những bậc thang dốc, phía trước là Janet, để đến nhà ăn của Viện ở Bruff Commons ăn trưa, quan sát cặp mông của cô không bao giờ bị vướng víu bới bất cứ thứ đồ lót nào trong chiếc quần da bó sát đến cực điểm. Song điều đó lại không thể giúp anh hiểu được, vì sao anh lại "bị" cả khi đọc các bài báo của những vị rất quan trọng được viết trên cơ sở những bài công bố của anh - mặc dù ngoài mấy cuốn tạp chí Playboy được giấu sâu trong ngăn kéo, phía dưới đám giấy má, tuyệt đối không có cái gì mang tính kích thích tình dục dù một chút trong cái phòng làm việc trống trải và ngột ngạt của anh. Rõ ràng là sự khát khao được thán phục và sự khát khao đàn bà gây nên trong anh những phản ứng y như nhau. Khi phân vân trước điều này, anh ít ngạc nhiên hơn. Lịch sử của những thảm kịch do những người đàn ông chiếm đoạt được những người đàn bà mà họ khao khát gây ra cũng dài và tàn nhẫn như danh sách những bất hạnh do những người chiếm đoạt sự thán phục bằng mọi giá gây ra.
Anh cũng nhận thấy là sự cương cứng do ngắm nhìn cặp mông của Janet và sự cương cứng do kiêu căng hầu như là giống nhau về độ mãnh liệt cũng như sức mạnh của bức xúc nội tâm gây nên cương cứng. Sự khác biệt duy nhất ở đây là, Janet có thể làm cho nó mạnh hơn lên khi nói bất cứ điều gì trong lúc ăn. Vì Janet có giọng nói có thể làm tăng nồng độ ôxit nitơ trong máu lên đến mức các mạch máu phải sủi bọt. Hầu như chẳng bao giờ cô nàng nói những điều thông minh hay thú vị. Mà điều đó đâu có quan trọng. Đơn giản là Janet biết đưa dây thanh quản của mình vào chế độ rung và khuyếch đại nó bằng vận động của lưỡi và môi, nhưng tuyệt nhất là khi môi cô nàng bị cắn trong những sự kiện của đêm hôm trước hoặc là tô son đỏ nổi bật; Janet luôn cố giữ sao cho bao giờ cũng có một trong hai điều kiện trên được thỏa mãn. Những rung động không nhất thiết phải được sắp xếp thành những từ hay câu có nghĩa nào. Và mặc dù Janet thuộc nhóm những phụ nữ chuyên trị nhầm ôtô có động cơ phóng với ôtô có động cơ nạp, thì anh vẫn cứ thích nghe cô nói.
Nhất là khi cô nàng nói về sự phóng bằng cái giọng ướt át của mình.
Anh nhớ rằng khi ấy, sau khi nói chuyện với giáo sư, sự cương cứng của anh mãnh liệt đến mức anh cảm thấy đau một cách vật lý và thực thụ. Anh cũng nhớ là mình đã khóa trái cửa, gọi điện cho Janet với bất kể lý do gì, chỉ cất để được nghe giọng nói của cô nàng và thủ dâm: Janet kể một câu chuyện ngớ ngẩn nào đó qua điện thoại, anh tay trái bịt ống nghe để cô nàng không nghe thấy những gì đang diễn ra ở chỗ anh, còn tay phải thì làm việc đó. Khi anh kết thúc, Janet vẫn tiếp tục nói, còn anh sợ hãi nhận ra rằng mình đã xuất tinh trong lúc hình dung ra bản đồ gien của một loại vi khuẩn nào đấy gây ra bệnh Richettsia.
Đôi khi anh phân vân, không biết sự hư đốn kia có phải là kết quả của một sự sắp xếp gien nào đó của chuỗi xoắn kép không.
Nếu đúng, thì sự sắp xếp của anh không đến nỗi tồi tệ lắm. Anh biết nhiều trò hư đốn thuộc đề tài này còn tồi tệ hơn nhiều.
Một lần, say mê câu chuyện của Proust, anh quyết định phải biết thêm nữa trong bản thân con người này. Những gì anh đọc được đã gây sốc. Cậu con trai nhà quí tộc còi cọc, ẻo lả lúc nào cũng ốm đau, ho hen, bị hưng phấn mạnh, nhạy cảm một cách bệnh hoạn và luôn đòi hỏi sự chăm sóc của phụ nữ ấy cho dù chẳng gây được ấn tượng gì mạnh đối với phụ nữ, những tự thú nhận là đã thủ dâm tương đối đều đặn. Chủ yếu là nhìn trộm những thằng con trai mới lớn đang cởi quần áo trước khi đi ngủ. Thỉnh thoảng kể cả việc đó cũng không đủ làm hắn thỏa mãn, hắn lệnh cho người hầu mang vào phòng ngủ cái lồng có hai con chuột được che bằng khăn lụa đen. Một con to đại bị bỏ đói, con thứ hai bé và lười biếng vì ăn quá no. Proust bỏ khăn che lồng ra và khi con chuột to nhai con bé thì... hắn thủ dâm. Phản xạ đầu tiên của anh là ghê sợ. Sau đó, khi đã cân nhắc kỹ lưỡng, anh quyết định đọc lại hết những cái Proust viết. Mối ác cảm biến mất.
Một kiểu sắp xếp khác hẳn phải thuộc về John Fitzgerald Kennedy, tổng thống Mỹ, đẹp trai, rất được phụ nữ yêu, với cái chết ngoạn mục ở Dallas đã trở thành bất tử. Từ những hối ức về ông người ta đã đưa ra hình ảnh về một người nghiện tình dục với những sở thích tình dục hết sức tinh vi. Kennedy đặc biệt thích những màn yêu đương trong bồn tắm, chủ yếu do ông bị chứng đau cột sống kinh niên. Những phụ nữ làm tình với ông, thường đứng ngoài bổn, nghiêng người để hôn và vuốt ve cơ thể ông. Khi thời điểm quyết định đến gần - đối với Kennedy, đương nhiên - người bảo vệ lao vào phòng tắm, túm gáy người đàn bà dìm xuống bồn. Đến khi người này giãy giụa trong sự gắng sức cuối cùng để thoát ra, thì Kennedy hầu như sung sướng phóng ra.
Anh thấy sự sắp xếp chuỗi gien dấu trách nhiệm về sự hư đốn này dứt khoát tệ hơn sự sấp xếp gien ở Proust.
Tuy nhiên dạo đó anh chẳng quan tâm đến Proust cũng như Kennedy, dạo đó anh chỉ nghĩ đến những gì đã xảy ra và những gì sẽ đến tiếp theo. Anh đột nhiên trở thành một phần của nhóm "chúng ta" và từ buổi đó việc sắp xếp chuỗi gien của một loại vi khuẩn nhất định đã trở thành công việc quan trong nhất của cuộc đời anh.
Có được tấm bản đồ như vậy, có thể "dịch" nó sang các protein điều khiển các quá trình sống, biết tính chất hóa sinh của các protein này thì có thể biết, ví dụ như, gien nào chịu trách nhiệm về việc tạo ra dopamin của cơ thể người, mà sự thiếu hụt chất này sẽ gây ra bệnh Parkison, còn sự vượt quá giới hạn của nó đã được ghi nhận (thường chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn) trong trường hợp của trạng thái đã được mô tả rộng rãi trong văn học như là trạng thái si mê. Với sự hiểu biết ấy, không chỉ có thể chữa khỏi cho hàng ngàn người mắc bệnh hoặc bị nhục nhã bồi căn bệnh này, mà con người còn có thể yêu nhau về mặt gien học.
Thỉnh thoảng, thường là sau nửa đêm, họ gọi taxi, để "bệnh Richettsia" của họ lại chừng một tiếng và sang sân trời có quán bar của khách sạn Dauphine New Orleans ở Khu Pháp, nơi vừa uống bia, vừa nghe blues 3 họ vừa dệt những kịch bản dị thường và tin rằng họ chính là những người bắt đầu sắp xếp lại những vấn đề to lớn vô cùng nan giãi về gien. Thêm vào đó, họ còn tự tin một cách trắng trợn rằng họ sẽ sắp xếp chúng thành một thể thống nhất. Càng có nhiều bia trong máu và càng có nhiều blues trong không khí, niềm tin của họ càng sâu sắc hơn.
Từ viễn cảnh hiện tại của mình, ở thời mà người ta nói chuyện về gien học hầu như bên mỗi bàn nhậu kể từ khi ngành gien học đã tặng cho thế giới một chiến công ngoạn mục là nhân giống cừu, sau ngần ấy năm đã qua đi kể từ những ngày ấy, anh nhìn lại dự án ấy và nhưng nghiên cứu ấy với đôi chút cười nhạo và bề trên, nhưng cũng với cả niềm tự hào và khâm phục đối với sự nhiệt tình của mình thời đó. Những gì mà họ đã làm ở New Orleans mười mấy năm trước đây là rất quan trọng, nhưng so với những cái đang diễn ra bây giờ thì thật ấu trĩ.
Nhưng có lẽ trật tự các vấn đề trong khoa học vốn vẫn thế.
Bởi giờ đây anh biết rằng đó hoàn toàn không phải là một sự xếp đặt. Một ai đó đã đổ ra bàn nhiều hơn một trăm ngàn vấn đề nan giải.
Giống như hồi ấy, cả bây giờ nhiều khi anh vẫn phân vân, đó có phải là Chúa. Hồi ấy đúng là có một phần hiểu biết đã ngăn cách anh với Chúa. Song anh nhận thấy, giờ đây, khi biết và hiểu nhiều hơn rất nhiều, thì mình lại bé nhỏ hơn rất nhiều và càng có xu thế tin rằng tuy nhiên, Chúa chính là nhà Lập trình vĩ đại đó.
Chỉ có dạng của Keunedy và Proust là anh vẫn chưa nắm bắt được.
Giờ đây anh cũng biết rất rõ ràng mấy chuyên gia tin học, gien học và sinh học phân tử hung hăng đang mơ được nổi tiếng ấy sẽ không thề sắp đặt các vấn đề nan giải thành một tổng thể được. Thậm chí kể cả họ có quyết định ngừng thở và tan vào công việc để tiết kiệm thời gian đi nữa. Nhưng hồi ấy, ở New Orleans anh chưa biết đến điều này.
Không một ai biết đến điều này.
Hồi ấy anh đã làm việc như trong cơn điên, đến kiệt sức... theo đúng nghĩa đen.
Có lần anh đã ngủ gật và ngã lăn xuống sàn nhà ngổn ngang những sách. Vì rèm cửa sổ phòng anh lúc nào cũng buông nên anh đã không ý thức được thời gian trong ngày. Ở chỗ anh, phòng số 4018 trên tầng ba tòa nhà Percival Stem, nơi có phòng thí nghiệm của họ, những cái đèn neon được gắn trên trần lúc nào cũng kêu o o và chiếu sáng trưng. Một lần vào chủ nhật, khi trong tủ lạnh chỉ còn lại đúng mấy thanh khử mùi không hơn, anh bèn hẹn với Jim làm một buổi đi mua đồ nghiêm chỉnh ở siêu thị cuối phố.
Anh hẹn vào mười sáu giờ và... ngủ quên.
Mà anh đi ngủ từ trước nửa đêm thứ bảy.
Thậm chí anh không hề cân nhắc xem liệu có thể khác đi được không? Một cách tiềm thức, anh cảm thấy là không. Dự án này là cuộc sống của anh. Anh buộc phải sắp đặt tất cả theo nó.
"Chỉ khi nào thực sự ốm anh mới được không đến phòng thí nghiệm. Mà anh chỉ thực sự ốm khi nào ho ra máu lâu trên mười tiếng".
Một lập trình viên người Ấn Độ, ngrười tham gia vào nhóm gần như cùng thời gian với anh đã định nghĩa như vậy.
Anh phân vân, liệu có phải chỉ mình anh làm việc như vậy. Đôi khi anh hỏi bạn bè cùng nhóm vế điếu này. Anh nhớ một trong số họ, Janusz, người Ba Lan thứ hai trong nhóm, được cấp học bổng của Quĩ Nhà thờ, một chuyên gia tin học ở Đại học Tổng hợp Torun đang làm việc cho Queens College ở New York bảo anh:
"Ông anh à, mãi hôm nay em mới nhớ ra là con bé Ioasia nhà em đã học lớp ba. Mà ngày mai là con bé nhận chứng chỉ và bắt đầu nghỉ hè rồi".
Từ mấy tuần nay bốn rưỡi sáng anh đã dậy, hút thuốc, thu dọn quần áo vứt bừa bãi khắp phòng, đặt cà phê, tắm nước lạnh như băng trong nhà tắm dưới tầng trệt cho tỉnh người. Rất nhiều lần lúc đứng dưới vòi tắm rồi anh mới nhận ra là mình vào đó với cả thuốc lá. Anh mặc vội quán áo, uống cà phê, nhét vào túi những tờ giấy với những ghi chép mà anh làm đêm qua rồi chạy ra ôtô của Jim đã chờ từ mấy phút trước.
Jim, kể từ dạo bắt đầu công trình xây dựng ở gần trường anh, thì chở anh đến Tulane luôn. Ngây nào Jim cũng chờ anh, luôn luôn cười, tươi tắn như một bãi cỏ mùa xuân. Bằng trạng thái ấy, bằng tâm trạng ấy Jim đã gây nên trong anh một kiểu bực tức và miễn cưỡng. Làm sao có thể hân hoan đến thế vào lúc năm giờ sáng, sau một đêm ngắn đến thế và ngồi trong một cái ôtô như thế?
Jim có một chiếc buick từ những năm sáu mươi, điều mà ở New Orleans được coi là bằng chứng hoặc của một sự nghèo khổ cùng cực hoặc thuộc về một giáo phái khổ dâm đặc biệt nào đó. Đã thế, cửa sau của xe bên phía hành khách thì hoặc là phải buộc bàng một sợi dây to vào chỗ tựa đầu của lái xe, hoặc người ngồi phải giữ suốt đường đi.
Anh nhắm mắt chui vào xe của Jim, lấy điếu thuốc đã được châm sẵn đang nằm chờ anh trong gạt tàn, họ lăn bánh. Phải sau mấy dặm đầu, khi Jakub tỉnh ngủ họ mới bắt đầu nói chuyện. Jim biết nghi thức này và ứng xử như một người lái xe riêng trung thành và tận tụy của một gia đình quí tộc Anh.
Chẳng mấy chốc anh đã bắt đầu ngủ ở nhà ngày càng ít, anh ở lại phòng làm việc và làm việc suốt đêm với những quãng nghỉ ngắn.
Vào cái đêm ấy, khi Jacek gọi điện, anh cũng đang làm việc như vậy.
Đã là bốn giờ sáng chủ nhật.
Đúng lúc Jim đang ở chỗ làm việc của anh. Gã ta lặng lẽ nghiêng người bên cái cân điện tử đặt cạnh máy tính. Trong sự tập trung cao độ, Jim cân các suất cocain rỏi gói lại trong những cái túi đã được chuẩn bị từ trước. Trên bàn, cạnh máy tính là hàng dãy các gói nilon đựng bột trắng. Mỗi túi có bốn "gạch".
Khi Jim kết thúc, thì trên bàn là một lượng cocain trị giá năm mươi ngàn đôla.
Jim vòng quanh, lặng lẽ thu các gói vào cái vàn đã sứt gãy. Xong xuôi, Jim khóa mã van lại, kẻo một bên vòng của cái còng tay của cảnh sát qua bàn tay trái của anh rồi khóac bằng một cái khóa đặc biệt ở chỗ khớp tay. Cái vòng kia thì đã được gắn vào vali. Jim đi đến chỗ Jakub, không nói không rằng để chìa khóa còng tay lên bàn phím máy tính. Lúc đi ra gã nhìn vào mắt anh nói:
- Dứt khoát đây làm lần cuối cùng. Đừng khinh bỉ tôi thế. Xin lỗi
Jakub rất bực và cảm thấy đau lòng. Anh bực bản thân mình, sao lại đồng ý với việc này. Thậm chí không phải vì anh nghĩ đến chuyện mình có thể đánh mất tất cả những gì đã đạt được trong cuộc đời, rằng lần thứ hai anh trở thành một cách có ý thức - bởi anh đâu có bắt buộc phải đồng ý - trợ lý của một gã tiếp tế cho con nghiện; anh đau nhất khi thấy Jim đã làm anh thất vọng đến vậy. Rằng gã đã lợi dụng tình bạn của họ một cách rất không trung thực.
Anh cảm thấy mình bị phản bội.
Mà gã đã hứa với anh rằng lần trước, cái lần cách đây ba tháng "dứt khoát là lần đầu tiên và cuối cùng", "rằng bây giờ chỉ còn trả hết nợ và sẽ ra khỏi kênh này" và rằng "chỉ có thể làm việc này ở đây, bởi không ai ngờ rằng ở Tulane, trong phòng thí nghiệm gien người ta lại cắt bụi", như gã vẫn gọi cái việc chia suất của gã như vậy.
Hôm nay, khi cách đấy một tiếng Jim gõ cửa phông làm việc của anh, anh không hề nghĩ rằng gã lại có "hàng". Gã đứng với cái vali được gắn vào cổ tay trái và rất khó khăn mới cất được giọng run run:
Nếu đêm nay tôi không cắt được cái này ở chỗ ông thì sẽ không bao giờ tôi còn có thể chở ống đến trường được nữa. Cho phép tôi đi... xin ông đấy.
Anh đã cho phép.
Trong suốt thời gian đó anh đứng quay lưng lại gã, sôi lên vì tức và im lặng. Anh không muốn nhìn.
Một niềm tin ngây thơ của đứa trẻ, rằng khi nào nhắm mắt thì hoàn toàn không phải là tối.
Cho đến khi Jim sập cửa lại, anh mới quay vào phòng.
Trên bàn phím máy tính là chìa khóa còng tay mà để cho chắc chắn, Jim đã gắn vào vali, cùng với than và hai gói nilon bột trắng.
Cho anh.
Lần cuối cùng Jim gói hàng ở đây, Anh cũng đã thử cocain.
Có một lúc, khi nửa phòng anh đầy những gói nilon, Jim từ chỗ cái cân đi ra, dỡ bức ảnh cũ có khung gỗ trên tường xuống, thổi bụi trên mặt kính và sấy nó bằng ngọn lửa của cái bật lửa. Gã đổ một gói bột trắng lên mặt kính đã được sấy chia làm ba vạch bằng nhau dài chừng tám centimét. Tiếp theo gã châm thuốc lá, lấy từ ví ra một nửa con dao cạo râu viền gỗ rồi bắt đầu lần lượt gạt bột thành từng vạch. Tất cả hết độ năm phút. Sau đó gã lấy từ túi áo ra một tờ tiền xanh nhàu nát, cuộn lại thành cái ống rồi đẩy một đầu ống vào mũi. Gã nghiêng đầu xuống một vạch bột và hít hết. Còn sót lại một tí, gã đùng ngón tay thấm nước dãi chấm lấy rồi quệt lên lợi. Sau đó gã quay sang phía Jakub, vừa đưa cho anh tờ một đô la cuộn lại vừa cười Với anh, nói:
- Ông thử đi. Ông sẽ thấy dễ chịu ngay. Tôi chiêu đãi đấy.
Mặc dù đã quan sát toàn bộ cái nghi lễ ấy của Iim với sự ngạc nhiên không giấu giếm, nhưng anh không hề do dự lấy một giây. Anh đến bên bàn, nhét một đầu ống vào mũi và bằng một hơi, hít hết một gạch. Ngay lập tức anh thấy hơi lạnh và cảm giác tê cóng rất rõ nơi mũi. Anh quay về ghế của mình bên máy tính, ngồi thoải mái và chờ. Tò mò xen lẫn với lo ngại.
Sau mấy phút, anh cảm thấy rất rõ, sự mệt mỏi sau mười sáu tiếng làm việc cật lực tan biến. Anh cảm thấy mình tươi tỉnh, khỏe mạnh và năng động. Và lại có thể bắt đầu mười sáu tiếng làm việc tiếp theo. Thế mà mới chỉ vừa đấy, trước khi Jim đến, anh còn ngã lăn ra vì mệt và phải dùng cà phê đen và thuốc lá để tỉnh táo. Anh bỗng hoạt bát như vừa tắm nước lạnh sau một đêm dài ngủ ngon lành.
Đó là một cái gì đó.
Anh đã lừa dối cơ thể và não mình bằng một chút xíu bột chứa hai mươi lăm nguyên tử kết hợp với nhau. Anh bỗng cảm thấy mình mạnh mẽ, nhanh nhẹn và đặc biệt khôn ngoan thế không biết. Anh cho rằng nếu lúc này bắt đầu lập trình, thì anh sẽ viết ra một chương trình tốt nhất trong đời.
Và anh hoàn toàn không có cảm giác rằng mình không phải là mình. Hơn lúc nào hết, anh câm thấy đây chính là anh, là đúng cái thằng Jakub ấy, chỉ có điều hắn có ý nghĩa cực kỳ đặc biệt. Anh không còn cảm thấy lo ngại hay sợ hãi, không còn do dự phân vân.
Thay vì những điều đó, anh luôn có lý.
Anh tận hưởng cảm giác này một lúc. Và bắt đầu hiểu rằng người ta có thể muốn đầu tư trạng thái này cho mình thường xuyên hơn.
Đặc biệt là những người yếu đuối hoặc những kẻ bắt buộc phải cảm thấy mình mạnh mẽ hoặc chí ít cũng sắm vai kẻ mạnh. Chỉ cần vài giam hợp chất hóa học, màng nhầy còn tốt và thế là anh thành người rất quan trọng, thông minh, mạnh mẽ, hóm hỉnh, đẹp mê hồn, hùng biện, hấp dẫn, ý thức được sức mạnh của mình, người mà ai ai cũng muốn luôn luôn được như thế. Việc này thường diễn ra nhiều nhất là hơn chục phút, tốn vài chục đôla, không hợp pháp, gây nghiện, làm tổn hại cho tim và não. Ngoài ra sau đấy còn có dư vị khó chịu khủng khiếp mà ngay cả sau khi uống hàng thừng nước ủ rượu người ta cũng không đến nỗi bị như vậy.
Cocain không gây nên bất kỳ một ảo giác, hay những giấc mơ rực rỡ, hay cảm giác được bay trên bãi cỏ mùa hè còn đẫm sương và đầy bướm lượn và những nữ thần khỏa thân nào.
Với cocain, người ta được trải qua những giấc mộng về sức mạnh. Sau khi dùng cocain, người ta có bộ gien tốt hơn. Và là đứa con của một đức Chúa tốt hơn. Điều này thì không một thứ bia nào, không một loại nhạc nào hay đàn bà nào có thể làm được cho con người. Ngoài ra, không gì có thể biến thứ tình dục bình thường, êm ả thành một "vụ nổ nguyên tử" như Jim nói. Điều này là nguy hiểm nhất. Tình dục bình thường so với tình dục sau cocain thì giống như là "làm tình với manơcanh trong bách hóa tổng hợp ở Moscow hay ở Đông Berlin". Sau một cái gì kiểu như thế, sẽ còn lại những kỷ niệm quá đẹp và một thực tại quá xám xịt. Theo Jim thì chỉ sau LSD 5 mới có thể tốt hơn được. "Bới khi đó - hắn nói – anh làm tình bằng tất cả các tế bào, còn chỉ riêng tế bào thần kinh anh đã có hàng tỷ".
Từ tất cả những mối nguy hiểm đó, anh đã ý thức được tối hôm ấy, khi Jim thú nhận danh dục không có các hợp chất khiến gã hoang mang sợ hãi". Nó không còn là sự hiện thực hóa khát khao của anh nữa, mà trở thành phép thử, xem nói chung anh còn có khả năng nữa không".
"Bởi anh thấy đấy, không có hợp chất thì có khác gì nhét một con ốc vào khe của cái máy điện thoại tự động đã ở ngoài băng giá cả chục tiếng" - gã nói.
Anh nhớ rằng khi vẫn còn ở trong trạng thái đó, Jim, người đã quan sát anh rất kỹ từ đầu, bằng cái giọng của một người hiểu biết tuyệt đối đã nói: "Tôi đã chẳng nói với anh rồi sao, anh sẽ thấy dễ chịu mà".
Đã rất dễ chịu.Họ bắt đầu nói chuyện.
Mặc dù đã biết nhau và đã thân thiết với nhau từ nửa năm nay, nhưng cho đến lúc ấy chưa bao giờ hai người nói chuyện với nhau cởi mở và chân thành như khi đó, sau một liều cocain. Anh vẫn luôn muốn hỏi hắn ta về điều đó nhưng chưa đủ can đảm. Giờ đây, khi sự nhút nhát không còn tồn tại, nên anh đã hỏi về Kimberley, người mà chưa bao giờ Jim gọi là "bạn gái của tôi", "người đàn bà của tôi", "người yêu của tôi" nhưng lại lui tới, ngủ và đi mua sắm với người ấy.
Kimberley, mà chỉ có Iim gọi cô ta như vậy, còn tất cả những người khác thì chỉ gọi đơn giản là Kim, là sinh viên của Đại học Tổng hợp Tulane. Cô đang học năm cuối khoa luật; gần đây anh có đọc tờ báo của trường, trong đó viết rằng cô là một sinh viên giỏi nhất trong lịch sử của khoa này, mà cả khoa có khoảng sáu ngàn sinh viên. Tất cả những ai biết cô đều biết rằng đó không phải là do sự giúp đỡ của bố cô, một nhà giải phẫu nổi tiếng, đồng thời là hiệu trưởng trường Đại học Y Tulane.
Bố của Kìm yêu cô vô cùng, nhưng theo cách của mình, trong sự vội vã, trong những khoảng thời gian nghỉ ít ỏi giữa các ca trực ở bệnh viện, các buổi lên lớp, hội nghị, các chuyến đi công tác và các dự án mà ông tham gia. Ông yêu Kim đến mức chỉ vì cô mà ông chung sống với người vợ đã phản bội ông ngay trong chuyến đi hưởng tuần trăng mật và chỉ thích gắn bó với các thẻ tín đụng và những người bạn làm phẫu thuật thẩm mỹ của ông. Kể từ ngày em trai ông tự vẫn do việc ông ta buôn bán các cơ quan người để cấy ghép, thì ông chỉ còn có Kim. Kim tài năng của ông, niềm tự hào của ông và chỉ vì cô mà ông đã lên những kế hoạch chi tiết cho toàn bộ tương lai của mình. Trong giai đoạn hiện tại, không có thời gian dành cho cô, ông đã làm cho lương tâm mình thanh thản bằng cách mua cho cô những ôtô đắt tiền.
Kim đặc biệt hiểu biết, tài năng, chăm chỉ và tất cả đều nhờ vào chính bản thân mình. Với bố - ngoài những chiếc ôtô - nhiều nhất thì cô cũng chỉ có thể biết ơn ông về bộ gien, và cũng chỉ một phần của nó mà thôi. Do vậy mà tất cả những người quen biết cô, đều không thể tin được khi biết tin cô là "người đàn bà của Jim". Của cái thằng Jim mà thực ra mới chỉ ngồi ghế giảng đường của Harvard được bốn học kỳ, nhưng đã ngồi tù tới bốn năm ở Baton Roug, vì tội buôn bán ma tuý, mà đấy mới là ba phần tư số thời gian của hình phạt vì hắn được ra tù trước thời hạn, do cải tạo tốt và với nhiều điều kiện.
Một gã với quá khứ bị hủy hoại và một hiện tại đang hủy hoại từng ngày lao động trong các khu đào đất với sáu đôla một giờ. Quá khứ kinh hoàng đến nỗi việc nhắc lại bốn học kỳ ở khoa kiến trúc tại Harvard không gây được ấn tượng gì đối vời các ông chủ tiềm năng của Jim. Và kết quả là gã chỉ thuyết phục được rất ít người và chỉ là những người cần người đào móng cho các công trình xây dựng lớn ở New Orleans và các khu vực lân cận.
Đương nhiên là điều này làm gã thất vọng, đau khổ và đẩy gã vào trạng thái chán nản. Nhiều khi gã cảm thấy tồi tệ và vô vọng tới mức mỗi buổi sáng dậy - đối với những người đang chán nản thì buổi sáng là tồi tệ nhất - gã lại thấy hiện ra sự tiếp tục cảnh khốn quẫn của ngày hôm qua. Sự chán nản lớn đến nỗi gã buộc phải thoát khỏi chúng, mặc dù gã biết anh phải mạo hiểm như thế nào, kể cả phải dùng đến ma túy.
Và ngủ với một gã đàn ông như vậy là cô con gái của một gia đình có tiếng nhất ở New Orleans, đứa con một của vị hiệu trưởng trường đại học Y ở Tulane, một luật sư tương lai với trình độ hiểu biết hoàn toàn không trung bình, với mức hấp dẫn trung bình, người muốn trở thành một chuyên gia về luật buôn bán ma túy, nên đã nêm vào cuộc tình này một hương vị rất đặc trưng. Rất nhiều người quen biết của Kim đã không thể chấp nhận được thực tế là cô Kim thiên tài ấy lại mãn nguyện với một tên nghiện hoàn hảo ngay từ vòng loại đầu tiên là Jim.
Nhưng những người không thể chấp nhận điều này thì đơn giản là không có đủ thông tin.
Họ không biết ví dụ như thay vì tất cả những cái ôtô đáng nguyền rủa, điên rổ và trị giá bằng cả một gia tài kia thì Kim chỉ muốn một nụ hôn chúc ngủ ngon.
Dù chỉ là mỗi tuần một lần và chỉ là trong mơ.
Bởi cho dù ông không biết điều đó, thì cô cũng không bao giờ ngủ khi ông chưa về nhà. Nằm trên giường, ôm con gấu bông koala mà ông mua cho cô trong một lần ông đưa cô đi theo đến Sydney, cô chờ cho đến khi ông cất xe vào gara, xem qua thư từ để trên bàn trong phòng khách, tắm ở phòng tắm dành cho khách dưới tầng trệt để không làm vợ thức giấc và khẽ về phòng ngủ. Khi ông đi qua cửa phòng, cô buồn rầu trong hy vọng là ông sẽ vào. Đã lâu lắm rồi ông không vào. Tối nào cô cũng chờ, nhưng ông không đến và tối nào tai con gấu koala cũng thấm đẫm nước mắt của cô và nó cứ ngày một xa lạ hơn.
Có một đêm - khi đó cô đã quen với Jim - cô lại chờ còn ông lại không đến, cô bèn dậy khỏi giương, xuống bếp và lấy con dao điện cắt bánh mì cắt đầu con gấu mua ở Sydney.
Thậm chí cô đã không khóc khi làm việc đó. Cô chỉ có thể nôn.
Sáng ra, khi ông bố dậy và xuống bếp để pha cà phê, hai nửa của con gấu koala vẫn nằm bên cạnh con dao điện cắt bánh mì.
Jim không cho cô ngay cả gấu bông, vì gã không tặng quà cho ai bao giờ, nhưng gã cũng không cho cô ngủ một khi chưa hôn cô để chúc ngủ ngon. Ngoài ra gã còn có thể đến chỗ cô vào ban đêm hoặc sáng ra và mang cho cô những bông hồng trắng, vì tự nhiên gã cảm thấy "lâu lắm rỗi chưa tặng hoa cho cô". Bao giờ cũng là hoa trắng và bao giờ cô cũng nhận được vào ban đêm. Những lần ấy gã ở lại chỗ cô đến rạng sáng và làm với cô tất cả những trò tuyệt vời mà chỉ gã mới có thể.
Vì vậy mà kể từ ngày cô yêu Jim, cô không còn thức giấc vào ban đêm vì giấc mơ kinh hoàng, trong giấc mơ ấy con gấu koala mua ở Sydney có cái đầu của bố cô.
Quan hệ giữa Jim và Kimberley còn che giấu một điều bí mật nữa. Lần ấy, trong một cuộc nói chuyện không bình thường "với hai vạch", Jakub đã được biết toàn bộ sự thật.
Thỉnh thoảng Jim và Kim lại đưa anh đi ăn ở những nhà hàng khá sang trọng, họ khoái chí với hình ảnh của "nhà khoa học cộng sản trẻ" say sưa với cảnh tàn lụi của bữa tối với tôm hùm và học cách phân biệt các loại vang Pháp. Một lần anh nhận thấy sau mỗi bữa tối lãng mạn như vậy Kim thường để họ lại một lúc lâu hoặc chóng, sau đó quay lại rất thay đổi. Son phấn trang điểm bị lau đi, thỉnh thoảng còn thấy rõ là cô mới khóc, bao giờ cũng mơ màng và im lặng. Cô nép người vào Jim một cách gợi tình đến mức ngay cả anh cũng cảm thấy ấm áp. Thỉnh thoảng có khi phải chờ đến nửa tiếng cô mới quay lại. Những khi đó Jim mua bia Corona của Mexico mà anh vốn thích hoặc họ hút xì-gà loại ngon, thỉnh thoảng họ ra bãi đỗ xe phía sau tòa nhà và hút cần sa. Mặc dù điều này rất không bình thường, nhưng Jim chưa bao giờ nói với anh tại sao Kim lại bỏ ra ngoài.
Lúc này thì Jim nói.
Kim bị chứng cuồng ăn.
Khi đó, vào giữa những năm tám mươi thì đối với một người đến từ Ba Lan, từ "cuồng ăn" khiến người ta liên tưởng đến tên một loại hoa nhập ngoại và Jim đã phải giải thích cho anh rất lâu, sự thật đó là cái gì. Cứ sau mỗi bữa ăn ngon, đơn giản là Kim phải tống khứ nó ra ngoài. Cô vào toilet, kiểm tra hiện trạng của nó và khi cô nhận thấy nó đủ sạch sẽ và thân thiện, cô sẽ thực hiện việc này ở đó. Bởi Kim chỉ có thể nôn trong những toilet có thẩm mỹ và được chọn lựa. Ngoài ra cô còn làm việc này với sự thoải mái nhất sau những bữa tối thịnh soạn và lịch sự với rượu vang và nến. Nếu toilet không thỏa mãn những yêu cầu của cô, thì cô sẽ gọi taxi hoặc lấy xe ở bãi đỗ xe và đi về nhà, một vila lịch sự ở Garden District trên Charles Avenue và làm việc đó ở toilet nhà mình, sau đó sẽ quay lại với Jim.
Jim kể với anh rằng đối với Kim, đó là những trải nghiệm hết sức khêu gợi. Khi nôn, cô cảm nhận sự mãn nguyện tình dục. Kim phản ứng với sự thỏa mãn tình dục bằng cách khóc - vì sung sướng - và kết quả của việc này chính là sự quay lại bàn ăn với son phấn nhoè nhoẹt và tâm trạng mơ màng. Cái việc xảy ra bên bàn ăn sau những gì Kim vừa làm, không là gì khác ngoài việc người đàn bà nép sát vào người đàn ông ngay sau cuộc yêu. Jim biết điều đó và đáp lại cô bằng tình cảm mà không bao giờ anh thể hiện với cô trong những bối cảnh khác. Trong khoảnh khắc như vậy, gã là một tay tình cảm nhất đối với cô của "ngay sau khi". Gã cho cô cái mà phần lớn phụ nữ đều mơ ước nhưng không mấy ai có được. Đã thế gã lại luôn cho cô bên những ly rượu vang, những ngọn nến và trên nền nhạc. Việc chủ yếu cô là người thanh toán hóa đơn cho dù gã là người mời không mang nhiều ý nghĩa. Bằng một tình cảm thái quá và bị xúc động mãnh liệt rất kịch, Jim đã làm cô say đắm, gã biết rất rõ điều này bởi gã là một tay vận dụng thông minh kể từ khi nhận thấy phụ nữ thường gắn bó nhất với những người đàn ông biết nghe họ, biết thể hiện tình cảm với họ và biết làm cho họ cười.
Sự chiếm đoạt này là một phần khá tinh vi trong chương trình mà gã thiết kế cho mình trong thời gian diễn ra mối quan hệ này, nhưng thực ra Jim khiến Kim phải lệ thuộc vào mình bằng một thứ hoàn toàn khác. Gã biết cách có được loại ma túy tốt và gã biết rất rõ phải làm như thế nào và làm cái gì để nó tác động mạnh hơn nữa. Những phân tủ nhỏ bé trong cấu trúc hóa học của ma túy sẽ vào máu nhanh nhất qua màng nhầy, chính vì thế mà phần lớn mọi người đều đưa nó vào cơ thể qua đường mũi.
Nhưng chỗ kín của phụ nữ mới là nơi có nhiều màng nhầy nhất.
Ở đó có hàng kilômét vuông màng nhầy, mà tất cả những gì có trọng lượng phân tử gần bằng của cocain đấu có thể đi qua. Iim biết điều này rất rõ. Thỉnh thoảng, khi ở trên giường với Kim, gã cố tình trì hoãn việc cho vào cho đến lúc cô phải rên lên vì sốt ruột, cắn vào tai gã và giục gã làm điều ấy. Khi đó Jim đã có kha khá cocain trong túi quần hoặc ở ngăn kéo bàn ngủ, mở gói nilon bột và ngay trước khi cho vào mới thận trọng rắc cocain lên "cái ấy" của mình. Gã biết rằng cocain có tác dụng gây tê. Cho nên trong thời gian chờ ở "trong đó", gã ghi nhận được ít hơn nhiều những tín hiệu từ "cái ấy" của mình và có thể đợi mà không sợ rằng, mặc dù bị kích thích rất dữ dội, gã sẽ bị mất kiềm soát và bỏ qua điểm mà vượt quá điểm ấy người đàn ông sẽ không thể quay trở lại được nữa.
Gã vừa chuyển động không ngừng ở trong đó vừa phải chờ độ hai phút, là quãng thời gian mà đối với phần lớn đàn ông, theo thống kê, là cả một vấn đế. Trong thời gian ấy, Kim trải qua hai phút đầu tiên cực kỳ của mình, mà đối với phần lớn phụ nữ cũng đồng thời là hai phút cuối cùng, sau đó cô nhận được kick thực sự, mà theo Jim, kẻ rất khoái phóng đại một cách văn chương và sáo rỗng "cô như đột ngột được chuyển đến một hành tinh khác, vào một chiều kích khác của niềm khoái lạc tuyệt đối không thể cân đo được".
Và mặc dù sự thật là như thế này: Kim đảm bảo điều này cho mình chủ yếu nhờ màng nhầy của cô, những tính chất hóa học và kích thước nhỏ bé của các phân tử cocain, thì dẫu thế cô vẫn cứ bị thuyết phục một cách linh thiêng rằng cô phải biết ơn và chỉ biết ơn tình yêu của Jim.
Khi Jim kể cho anh nghe chuyện này, anh bắt đầu phân vân, liệu có một lúc nào đó anh cũng sẽ có đủ ngần ấy can đảm.
Và ngần ấy cocain.
Nhưng đấy là ba tháng trước đây.
Lúc này anh căm thù Jim. Vì sự không chung thủy ấy.
Anh ngồi sau bàn làm việc, tức tối giật bàn phím máy tính mà Jim đã để trên đó hai gói bột trắng và chìa khóa còng tay ra, vứt tất cả lên đống thùng các-tông và cặp tài liệu sát cửa sổ.
Sau mười lăm phút, nỗi bực qua đi và anh lại muốn làm việc nhưng không thể. Anh đứng dậy, đi ra phía cửa sổ và lôi bàn phím từ đống giấy má ra. Anh chợt tiếc thấy một gói bột ở tít trong góc, cạnh cái chậu mẻ trồng cọ bằng đá, cây cọ đã khô vì anh luôn quên tưới. Anh lấy gói bột, sau đó gỡ bức ảnh trên tường xuống, vẫn cái bức ảnh mà lần gần nhất Jim đã dùng, rồi ngồi xuống nền nhà, bật lửa sấy mặt kính, đặt bức ảnh xuống nền nhà và đổ chỗ bột trong gói lên mặt kính còn ấm. Anh đứng lên, lấy cái máy cạo râu mà anh để trong ngăn kéo kể từ đạo anh thường ở đây cả đêm. Anh tháo ốc bắt dao cạo vào thân máy rồi lấy dao ra. Anh quay lại chỗ cửa sổ và bắt đầu gõ lưỡi dao vào đống bột trắng trên mặt kính. Chưa đầy một phút trôi qua, anh đã thấy tay mình như cứng đờ ra.
Làm thế nào mà Jim có thể gõ vào cái thứ bột này suốt mười lăm phút liền tù tì được nhỉ? - anh nghĩ.
Anh đảm bảo là điều này không phải do Jim học được ở Harvard, mà là ở trong tù, ở Baton Rouge.
Lưỡi dao bỗng lạng vào ngón tay anh, anh thấy đau và một giọt máu to rơi xuống chỗ bột trắng trên mặt kính.
Cái giọt đỏ kia từ từ và trang trọng lặn vào đám bột cocain trắng như tuyết. Anh mê mẩn nhìn mất mấy giây.
Rồi anh chợt hiểu ra rằng mình đã phạm sai lầm. Bởi không phải là máu trong cocain mà phải là cocain trong máu!
Bằng một động tác rất nhanh, anh tách phần bột chưa dính máu ra, gạt thành hai vạch dài, lấy một tờ tiền trong ví ra, cuộn lại thành ống, nhét một đầu ống vào mũi và hít thật nhanh một vạch bột. Anh nghiêng người xuống bức ảnh một lúc nhìn thấy bóng khuôn mặt anh với tờ tiền nhô ra ở mũi, anh bật cười vui vẻ. Sau một giây phân vân, anh hít luôn cả vạch thứ hai. Rồi anh tựa người thoải mái vào đống hộp các-tông và lười nhác theo dõi sự mệt mỏi và kiệt sức, sự nóng bẳn và thất vọng của một giờ đồng hồ cuối cùng qua đi như thế nào. Trạng thái tươi tỉnh trở lại.
Não lại để bị lừa dối. Và cơ thể cũng thế.
Jim, nếu ở đây, lại một lần nữa có lý.
Anh thấy dễ chịu.
Lúc này anh đã là một thằng nghiện bình thường nhất trên thế gian này.
Lần này thì không có ai rủ anh đến bên bàn. Tự anh đổ ra, tự anh cắt và tự anh đưa vào qua màng nhầy. Cái này thì không thể thanh minh rằng "chỉ muốn thử một lần thôi cho biết". Anh đã biết nó là như thế nào. Chính vì thế nên anh mới làm điều đó.
Anh bắt đầu hiểu con tinh tinh trong một thí nghiệm kỳ lạ mà anh mới đọc được trong các tạp chí khoa học.
Bị trói vào ghế, bị nối với các cáp của máy điện tâm đồ và điện não đồ và máy đo huyết áp, con tinh tinh vẫn có thể dùng tay ấn vào cái nút vàng, là đầu cuối của binh chia tỷ lệ để chích cho mình những dung dịch của các loại ma túy khác nhau: LSD, heroin, morphin, amphetanin, crack và nhiều nhiều nữa, kể cả cocain. Sau một số lần ấn, con tinh tinh đạt được trạng thái bão hòa khác lạ và thôi không ấn nữa, lúc này nó rơi vào trạng thái ngủ, ngủ tim, mơ mơ màng màng hoặc phởn phơ.
Ngoài một ngoại lệ duy nhất.
Với bình có cocain, nó ấn nút vàng lâu đến mức nhịp tim của nó tăng lên. trên bốn mươi lần trong một phút, nó bị rung buồng tim và chết.
Tay vẫn để trên cái nút vàng.
Từ đâu mà nó biết được điều đó?
Sao lại từ đâu?!
Từ Mazowsze, Podkarpacz, Pomorze và Kujaw, ví dụ thế.
Chỉ có điều đó không phải là những con tinh tinh, chẳng có ai nối chúng với máy điện tâm đồ, và hợp chất hóa học không phải là cocain và chính thức được gọi là dung dịch nước etanol, còn không chính thức thì gọi là rượu. Bởi vì hợp chất hóa học này không đến nỗi quá nguy hiểm, nên họ đã bị mất tỉnh táo mà không kèm theo rung buồng tim, nhưng "tay đặt lên nút vàng" thì họ giữ cho đến phút chót.
Anh nghĩ đến con tinh tinh ấy không chút sợ hãi hay lo lắng. Không có một lý do nào hết cho dù là nhỏ nhất. Anh nhận định rằng không thể nghiện loại ma tuý tinh khiết như cocain chỉ sau vài lần sử dựng: Thực ra thì anh biết rằng cocain tiêu diệt não nhẹ nhàng hơn rất nhiều so với búa hơi, những mặc dù thế anh vẫn không hề sợ. Hiện tại cuộc đồng hành với cocain là cực kỳ tốt cho não của anh. Bây giờ thì đại loại là thay vì cafein, thỉnh thoảng anh dửng cocain để tỉnh táo. Chẳng mấy nữa anh sẽ về Ba Lan, và sẽ chỉ có dung dịch nước etanol cho anh mà thôi. Ngoài ra, điều này thì ai cũng biết, tinh tinh bị rớt lại trong cuộc chạy đua tiến hóa và có thể gõ vào cái nút kia, bởi chúng bị thiếu mất mấy cặp gien quan trọng.
Anh lại cảm thấy tỉnh táo và đầu óc sáng láng, sự mệt mỏi đã tan biến. Anh thích làm việc trong trạng thái tỉnh táo và hăng hái như thế này với những ý tưởng điên rồ quay cuồng trong đầu. Anh đứng dậy rất nhanh, cầm bàn phím, quay lại bàn nối với máy tính.
Chuông điện thoại bỗng reo.
Jacek. Anh nhận ngay ra giọng nói của cậu ta.
Thậm chí anh không cố nhớ xem lần cuối cùng họ nói chuyện với nhau là bao giờ.
Điều đó không hề có ý nghĩa.
Xấu hổ vì sự bất lực của mình, vì mình yếu đuối và chán nản, Jacek kể với anh về Ania.
Cậu ta gọi cho anh vào bốn giờ sáng, từ Ba Lan, sau mấy năm kể từ lần nói chuyện gần nhất và kể rằng cô con gái tám tuổi Ania của cậu ta bị bệnh máu trắng và sẽ chết. Cậu ta chỉ kể có vậy.
Thậm chí cậu ta không nhờ giúp đỡ. Bởi Jacek, kể từ khi anh quen biết, bao giờ cũng rất ngại nhờ vả.
Cậu ta kể cho anh theo cái cách như thể để cho xong việc.
Đến tận hôm nay anh vẫn không biết tại sao, nhưng nghe cậu ta nói và hỏi cụ thể, anh tin chắc rằng mình sẽ giúp được. Đây chắc chắn là do cocain vừa nãy. Bởi anh rất quan trọng và luôn có lý cơ mà.
Còn từ hồi Natalia, anh biết tất cả về bệnh máu trắng.
Làm sao mà có thể không biết cho được? Natalia của anh, nếu may mắn hơn, đã có thể chết vì bệnh máu trắng.
Nếu cô đã không chết sớm hơn.
Anh cúp mây. Những gì vừa nghe thấy đã khiến anh bị chấn động. Anh tắt máy tính và quyết định đi bộ về nhà. Đi trên Charles Street vào giờ ấy vẫn còn vắng, anh nghĩ đến định mệnh. Có thể nói là anh từng chắc chắn rằng định mệnh đó là tưởng tượng và thiên kiến. Chúa đã có quá nhiều việc đổ lên đầu nên không thể ấn định định mệnh cho toàn bộ đàn người này. Ngoài ra không thể có cái thứ định mệnh bắt một đứa trẻ tám tuổi phải chết. Khi anh vào nhà, phòng Jim vẫn sáng đèn. Anh thấy mừng. Lúc này anh cần được nói chuyện hơn bất cứ thứ gì khác trên đời này.
Anh gõ khẽ cửa phòng và bước vào mà không chờ được mời, và không một lời mào đầu, anh hỏi luôn:
- Jim, cậu nghĩ thế nào, một ca ghép tuỷ xương ở đây, ở Tulane hết độ bao nhiêu? Con bé lên tám, đang ở Ba Lan và chỉ có thể sống được độ ba tháng nữa thôi. Đây là con gái của một anh bạn thân của tôi.
Jim phản ứng như hắn vẫn thường phân ứng trước những câu hỏi hệ trọng và gay go: đắm chìm trong suy nghĩ của mình một lúc. Lần này thì lâu hơn nhiều so vời thường lệ. Gã đột ngột rời khỏi giương, đi rất nhanh đến chỗ anh và nói:
- Ông nghe này, tôi thì chẳng biết mấy tí về cái khoản ghép tuỷ ấy. Tôi nghi ràng ghép tủy là ở trong xương. Ngoài ra không biết thêm tí gì về đề tài này. Nhưng nếu người ta sẽ chết vì nó thì có nghĩa là nó rất đắt. Ở Mỹ, tất cả những thứ mà người ta sẽ không chết nếu có được đều rất đắt. Anh cứ nhìn mà xem, bố của Kim sống ở đâu và đi những cái xe ôtô loại nào; bộ ngực cửa mẹ Kim thì cứ mỗi năm lại to thêm và dựng thêm lên như thế nào. Phải trả 100 hay 300 ngàn ư, không có nghĩa gì hết. Quá nhiều, để mà có. Ông thậm chí chưa nhìn thấy những khoản tiền như thế bao giờ đâu. Tôi thì tôi đã được nhìn thấy nhưng chúng chưa bao giờ là của mình cả. Tụi mình không được phép để cho con bé phải chết chỉ vì nó không sinh ra ở đúng cái nước cần thiết. Sáng thứ hai, ông sẽ đứng trước văn phòng hiệu trưởng ở Tulane với một tấm áp phích. Tôi cũng với một tấm áp phích đúng như vậy sẽ ngồi giữa trung tâm của Bourbone Street. Hôm nay bọn mình vẫn còn kịp gọi điện đến đài phát thanh ở đây, ở New Orleans. Quảng cáo ngay cạnh những đợt quyên góp tiền bao giờ cũng đắt nhất. Chắc chắn họ sẽ giúp. Trước và sau những đoạn về băng vệ sinh phụ nữ họ sẽ chen vào những đoạn mới, về một bé gái vô tội ở Ba Lan đang chết dần vì bệnh máu trắng. Cái công ty sản xuất băng vệ sinh ấy nhất định sẽ tài trợ với lòng biết ơn. Mai, mà đúng hơn là hôm nay là chủ nhật. ông hãy đến nhà thờ, kể hết với giám mục. Ông hãy đến chỗ nào mà nhiều khách du lịch đến nhất ấy. Họ, một khi đã xúc động thì sẽ thả vào khay nhiều hơn đấy. Trong nhà thờ, dân địa phương chủ yếu là người da đen. Họ không có tiền đâu, ngoài ra bệnh máu trắng còn khiến họ liên tưởng đến phân biệt chủng tộc. Thứ hai Kim sẽ đến Student Union và sẽ chỉ ra về khi nào họ hứa sẽ tổ chức quyên góp tại khu vực trường học. Và ông hãy viết cho tất cả những người trong nhóm. Ông hãy điện cho con người tài năng ở Harvard. Bệnh máu trắng thì cũng là gien chứ gì. Ông ấy có tiền cho vấn đề này đấy. Chỉ cần phải tính toán cho thật kỹ. Ông phụng sự họ với cái đầu của anh. Cái đầu sẽ hoạt động tốt nếu tâm hồn thanh thản. Để có được tâm hỏn thanh thản cần phải trả giá. Ông ấy biết điều này. Có nguyên do của nó. Ở đây quyền đối với sự thanh thản của tâm hồn được ghi trong phụ trương của bộ luật. Ngoài ra ông phải gọi đến đại sứ quán BaLan nữa. Nói với họ hãy liên hệ với Tulane. Các bác sĩ bao giờ cũng khoái những người nhờ vả họ điều gì đấy là những người quan trọng và khỏe mạnh, nhất lại là ở các đại sứ quán: Mà thậm chí ông chớ có nghĩ rằng bọn lính sẽ mình thu được khoản nào từ đấy.
Nghe Jim nói, anh dần dà nắm bắt được sự chắc chắn, lòng nhiệt tình và niềm tin vào bản thân mình của gã. Cái cụm từ "bọn mình" như một lời thú nhận về tình bạn. Anh nghĩ rằng dù sao, vẫn có định mệnh. Nếu không thì anh đã không gặp Jim trong cuộc đời này.
Khi quay về phòng mình, anh đã có một kế hoạch sẵn sàng. Anh để nguyên quần áo nằm lên chiếc đi văng da đã sờn ở phía trước TV để đợi sáng. Anh đang bị hưng phấn. Anh không thể đợi được đến sáng để bắt đầu hành động. Bỗng nhiên anh nghe thấy tiếng động ngoài cửa. Ai đó vừa nhét qua khe rửa một phong bì trắng. Anh đứng đậy, ra lấy cái phong bì và mở. Giữa những tờ tiền là một tờ giấy xé từ vở.
Gửi Ania-Jim.
Từ tất cả những gì diễn ra trong hai tuần khác thường tiếp theo đó, anh chỉ ghi nhớ một vài sự kiện để nhớ đời. Anh nhớ là mình tuyệt đối thôi ở chỗ căn phòng đi thuê mà chuyển hẳn đến văn phòng, viết hàng trăm bức thư, đi đến hầu như tất cả các công ty lớn ở New Orleans, đi quyên góp ở nhà thờ trên xe buýt, trong các nhà hàng, cửa hàng và các câu lạc bộ ban đêm. Anh đã được gặp tình đoàn kết cảm động cũng như sự dửng dưng đáng sợ.
Anh biết chắc rằng Ania sẽ sang được đây vào một tối khoảng một tuần sau khi bắt đầu chiến địch, bố của Kim gọi điện đến cho anh bảo:
- Tất cả các bác sĩ và tất cả các y tá của tôi sẽ tiến hành ca mổ này mà không nhận thù lao. Ngoài ra tôi đã liên hệ với văn phòng nhập cư ở Washington và tôi đã giải quyết được viza cho cô bé. Ngày mai chúng tôi sẽ bắt đầu tìm người cho tủy. Cơ sở dữ liệu những người cho ở Mineapolis - mà chỉ có thể tìm được ở đấy như anh biết đấy - là do một nghiên cứu sinh của tôi phụ trách. Tôi đã cung cấp cho anh ta biểu đồ kháng nguyên chính xác của Ania. Chúng ta cần phải có người cho trong vòng ba ngày. - Ông im lặng một lúc rồi nói thêm: - Con gái tôi phục anh lắm. Thậm chí anh không biết là tôi ghen với anh như thế nào đâu.
Ba tuần sau đó thì anh đứng ở sân bay và năm nhân viên của LOT đẩy chiếc xe lăn với một bé gái đầu trọc lốc, sợ hãi trong bộ đồ thể thao bông được giặt sạch sẽ như thế nào. Cô bé có đôi mắt rất to màu xanh lục, gầy một cách đáng sợ và đang ôm chặt một con rối mặc áo chẽn và đội mũ đỏ.
Đó là Ania.
Anh đi đến chỗ cô bé và tự giới thiệu.
- Cháu tên là Ania. Còn đây là Kacper - cô bé nói, chỉ vào con rối. - Mẹ cháu bảo là chú có thể làm được cái gì đấy để cháu không chết.
Anh đứng như trời trồng. Không biết nói gì. Anh phải cố hết sức để không lộ ra là mình đang nuốt nước mắt.
Con bé không lúc nào rời Kacper. Ngủ cùng nó, nói chuyện với nó. Ôm nó âu yếm những khi khóc vì nhớ nhà. Với Ania, con rối vải ấy bỗng trở thành biểu tượng của tất cả những gì gắn-bó nó với quá khứ, với bố mẹ và với cái mà nó hiểu được, khiến nó liên tưởng tới sự an toàn và ngôi nhà của nó ở Ba Lan. Các chị y tả ở Tulane kể với anh rằng, thậm chí cả khi đã mơ màng vì thuốc gây mê ngay trước lúc mổ, nó vẫn dùng hết sức để ôm Kacper và phải khó khăn lắm mới tôi được con rối ra khỏi hai cánh tay thâm tím vì những vết kim tiêm và gầy không thể tưởng tượng nổi của nó.
Từ giai đoạn ấy anh còn nhớ cả một ví dụ về thói đạo đức giả ghê tởm. Một hôm, sau khi bố của Kim đã gọi điện, có một gã người to bè, hai mắt cách xa nhau khiến ta nhớ đến loài cáo, đến văn phòng thăm anh. Ông ta tự giới thiệu là nhân viên của đại sứ quán Ba Lan ở New York và yêu cầu anh cho xem hộ chiếu. Rất may là anh lại nhớ hỏi để làm gì. Điều này đã gây nên một sự khó chịu không thể tin được. Khi đó anh được biết rằng mình "đang hủy hoại hình ảnh của Ba Lan trong mắt bọn đế quốc Mỹ", rằng "anh đi ăn mày ăn nhặt giống hệt một tên digan rách rưới trước cửa nhà thờ", rằng "anh làm tổn hại đến Ba Lan với tư cách một nhà khoa học và một công dân". Anh nghe ông ta nói, thấy ngạc nhiên và ghê tởm. Cho đến bây giờ anh vẫn tiếc tại sao lúc ấy anh không tống cổ ông ta ra khỏi văn phòng.
Anh còn gặp người đàn ông đó một lần nữa. Đại học Tổng hợp Tulane, khi phòng trào giúp đỡ Ania kết thúc tốt đẹp, đã tổ chức một cuộc họp báo. Cả truyền hình địa phương cũng có mặt. Anh nhớ là cả anh cũng nhận được những lời chúc mừng từ tất cả mọi ngrười. Đến khi mà các camera hướng đúng vào chỗ anh thì người đàn ông ở đại sứ quán ấy bước đến và chìa tay chúc mừng anh. Lúc ấy anh nhìn vào mắt ông ta và nói:
- Ông biết không, tôi mơ thấy là ông đã treo cổ. Tôi tỉnh dậy thấy mình yên tâm hẳn đi.
Anh đã không bắt tay ông ta.
Anh còn nhớ cả lúc chia tay với Ania, khi anh đưa con bé ra máy bay của hãng Delta ở New Orleans để bay đi Chicago, từ đấy nó sẽ đi LOT về Warszawa. Anh không phải đi cùng con bé. Delta sẽ đảm bảo toàn bộ việc chăm sóc Ania theo khuôn khổ tham gia của mình vào phong trào giúp đỡ. Khi Ania khuất sau cửa máy bay cùng với cái xe lăn của mình, anh bỗng cảm thấy trống trải, buồn và cô đơn.
Liệu mẹ anh cũng có những cảm giác như vậy sau mỗi lần anh, một cậu bé hơn chục tuổi bỏ bà lại để đi đến tận cùng đầu kia của đất nước?
Lách người qua đám đông ở sân bay, anh chợt phân vân, phải chăng tất cả những con vi khuẩn gây bệnh sốt Rittchesia của anh, tất cả những trạng thái hưng phấn trong niềm thán phục được toại nguyện và toàn bộ sự xáo trộn này trong cuộc sống của anh chẳng qua chỉ là một hình thức trốn chạy trước sự trống trải và cô đơn? Ania đã lấp đầy khoảng trống đó trong vài tuần bàng niềm vui, sự xúc động và một cái gì đó thực sự quan trọng.
Tiếng loa của sân bay gọi tên anh đã bứt anh ra khỏi dòng suy nghĩ. Anh phải khẩn trương đến phòng thông tin của Delta.
Có một gói gì đó được tìm lại cho anh - nữ thực tập viên trong bộ đồng phục màu xanh đen tươi cười nói và đưa cho anh một cái gói nilon.
Anh mở gói ngay tại chỗ. Lấy ra con rối đội mũ đỏ xinh xắn, đặt lên mặt quầy và cứ đứng bất động mà nhìn nó.
Những chuyện ấy đã lâu lắm rỏi - anh nghĩ.
Anh tắt máy tính, uống nốt lon co ca rồi gói mấy trang anh in ra và mấy quyền tập chí để chủ nhật đọc. Đi qua cửa cạnh cái tủ bằng gỗ bạch dương, anh dừng lại, chỉnh lại cái mũ đỏ cho con rối vải để trên ngăn cao nhất, giữa những cuốn sách.
CÔ: Cô lại dậy trước báo thức. Thậm chí cô cũng không lấy thế làm ngạc nhiên. Ngày xưa thì không bao giờ có chuyện ấy, bây giờ đã là chuyện thường ngày.
Thứ hai! Cô cười một mình.
Trong những ngày nghỉ cuối tuần, cô đã nhớ biết bao...
Cô sẽ lại sắp sửa đến văn phòng, mở máy tính, đọc mail của anh và cô sẽ vui.
Cô khẽ ra khỏi giường và xuống phòng tắm.
Đứng dưới vòi hoa sen cô phân vân, không biết mình có muốn anh ở đây lúc này và nhìn thấy mình khỏa thân không nhỉ.
Cô biết là anh sẽ chỉ nhìn cô một lần bằng cặp mắt đầy suy tư của mình và sẽ nhớ tất cả. Không, bây giờ thì anh tuyệt đối không nói gì hết, nhưng mấy hôm nữa anh sẽ viết cho cô rằng cô có một nốt ruồi ba milứnét dưới ngực phải và rằng nó ngọt, rằng xương hông trái của cô cao hơn bên phải và anh muốn có một lần nào đó anh sẽ húc trán vào đấy, và rằng núm vú của cô nâu hơn là anh vẫn hình dung ra và khi cô đã cảm thấy ấm áp và dễ chịu lắm rồi vì những lời bình luận khác thường ấy, thì anh sẽ đưa cô trở về mặt đất bằng cách viết rằng trong bất cứ trường hợp nào cô cũng không nên tắm bằng cái loại xà phòng ấy, vì độ PH của nó quá cao.
Tại sao cô lại chưa dám chắc rằng cô thực sự muốn anh nhìn thấy mình. Cô quyết định không "phân tích nhu cầu này" bây giờ, mà sẽ thực hiện ở văn phòng, muộn muộn một chút, sau khi cô đã đọc xong mail của anh, nói chuyện với anh trên ICQ, uống bia và sẽ hoặc đã "ngây ngất".
Cô rất thích suy nghĩ về những lưỡng lự kiểu như vậy chính trong trạng thái này.
Cô tin chắc rằng nếu cô nói với anh, thì anh sẽ còn tình cảm hơn nữa, và sẽ khiêu khích để cô viết "những lá thư tình", nhưng đằng nào thì cuối cùng anh cũng sẽ viết rằng cô không được phép "giữ trong lông những phân tích ấy", thậm chí nếu cô có rất "ngây ngất" trong văn phòng đi nữa, thì chắc chắn cô cũng sẽ không khỏa thân, mà điều này sẽ làm diện mạo của vấn đề thay đổi một cách thê thảm.
Ông chồng vừa vào phòng tắm đã bứt cô ra khỏi dòng suy nghĩ. Anh ấy nhắc cô rằng nếu cô cứ chiếm cái vòi tắm lâu hơn thì chắc chắn cả hai sẽ đi làm muộn.
Anh ta có lý. Như vẫn thế, kể cả khi vô lý.
Cô lau vội người và cứ khỏa thân thế chạy vào phòng ngủ, chỗ tử quần áo.
Kể từ lúc, khi anh mào đầu ngay bang câu hỏi khá trơ tráo mang tính tước bỏ khí giới, rằng hôm nay cô mặc bộ đỏ lót màu gì, thì sáng nào khi thay quần áo cô cũng nghĩ đến chuyện ấy.
Đương nhiên là cô không cho anh biết, bởi nó quá riêng tư. Nhưng khi biết được là anh thích màu xanh lá cây, thì "vô tình" như thế nào đấy, cô đã mua ba bộ với ba tông màu xanh lá cây khác nhau.
Hôm nay cô quyết định mặc bộ xanh thẫm, gợi tình nhất, nịt vú thì có khóa cài đằng trước, còn quần lót khoét cao có viền đăng ten.
Cô cảm thấy đây là bộ mà anh thích.
Và hoàn toàn không phải vì chồng cô đã nhìn cô rất lạ những khi cô ngồi trang điểm trong phòng ngủ mà mặc mỗi bộ đỗ lót.
Cô thích cái khoảnh khắc bước vào văn phòng. Đã từ lâu rồi khi cô không phải là người đầu tiên. Rất yên tĩnh và chỉ có một mình. Kề từ ngày tìm được anh, cô thích sự một mình này trong văn phòng. Cô pha cà phê, khi mùi cá phê tỏa khắp phòng, cô bật máy tính và khi modem đang chọn số modem của máy chủ của họ ở Poznan thì cô ngồi đầy ắp chờ đợi, như một cô gái mới lớn đang bị bỏ bùa mê, ly cà phê đặt cạnh máy tính. Cô khởi động chương trình thư và đợi cho đến khi tất cả các mail từ máy chủ của công ty tại Poznan được lấy về máy tính của cô. Sau đấy cô mở lần lượt các mail của anh và đọc.
Mới tuyệt vời làm sao, lãng mạn làm sao.
Và cứ như vậy không hề gián đoạn từ mấy tháng nay, nhưng cô biết rằng không nên như thế. Cô biết rằng tất cả chỉ là thoảng qua, không bền lâu và phải trải nghiệm "ở đây và lúc này", thậm chí đây chỉ là ảo giống như mối quen biết của họ.
Máy chủ ở Poznan không trả lời.
Cô thử ít nhất cũng phải tám lần. Cô không thể chờ được, khi cô thư ký vừa đến, cô đã lấy một cái cớ nào đấy để bắt cô ta phải kiểm tra thư ngay lập tức. Cả máy tính của cô ta cũng không thể kết nối được với Poznan.
Cô bực bội và thất vọng. Họ đã làm hỏng cả buổi sáng nay của cô, mà với cô thì từ mấy tháng nay, sáng thứ hai giống như tối thứ sáu hay thứ bẩy của nhiều người khác.
Cô gọi điện cho Poznan.
Họ trả lời rằng có ai đó đã tấn công máy chủ của họ và hiện tại. Họ đang khắc phục hậu quả, nhưng máy bị quá nặng nên chắc chần trong ngày hôm nay họ chưa thể sửa xong được bồở thậm chí họ chưa biết cụ thể bị mất những gì.
Đúng là một cú đánh bất ngờ! Anh thì chắc chấn chỉ sau vài phút là phải biết cái gì bị hủy - cô tức tối nghĩ.
Cô gọi cho anh.
- Chào anh, Jakub. Em nhớ anh - cô thì thầm. - Máy chủ của tụi em ở Poznan không hoạt động, nên em không đọc được mail của anh, mà anh thì biết rồi đấy, chúng quan trọng với em như thế nào. Thế là em nảy ra sáng kiến là bây giờ anh đọc qua điện thoại cho em nghe. Anh chưa làm thế bao giờ đâu đấy. Anh biết là em sẽ rất thích khi anh làm thế. Anh sẽ đọc phải không? - cô hỏi.
Anh im lặng một lúc, không trả lời, sau đấy thì nói điều gì đó khiến cô băn khoăn:
- Anh không đọc cho em được, vì anh không thể.
- Jakub, nhưng anh đã viết và đã gửi cho em, đúng không nào?
- Tất nhiên rồi, anh đã viết, đã gửi, nhưng... sau đó... sau đó thì anh đổi ý - anh trả lời.
Cô phải mất một lúc để phân tích câu nói đó và chợt hiểu.
- Jakub! Vậy là anh, em xin lỗi, khi đổi ý, như anh gọi rất nhẹ nhàng và khôn ngoan như vậy, đã phá máy chủ ở Poznan, để cả nó cũng "đổi ý" và không chuyển mail đến tay em phải không? - cô tức giận hỏi.
- Không, anh không phá... Những chỉ là vì anh không biết. Mà là anh bạn Jacek của anh ở Hamburg đã phá. Tha thứ cho anh nhé. Sẽ có lúc anh giải thích cho em chuyện này.
Cô rất bực, cảm thấy mình đã bị anh làm tổn thương, lần đầu tiên kể từ khi anh hiện hữu trong cuộc đời cô.
- Anh đã viết những gì trong những bức mail ấy? - cô hỏi hơi lên giọng.
Ngay lập tức cô hiểu rằng đó là câu hỏi ngu xuẩn nhất mà cô có thể đưa ra.
- Anh đừng trả lời - cô nói vội. - Đó là một câu hỏi điên rồ. Em sẽ gọi cho anh sau. Bây giờ em cần phải bình tâm cái đã.
Cô gác máy.
Chẳng còn gì giống với ngày xưa nữa, hồi "trước anh".
Nói chung cô đã sống như thế nào nhỉ, hồi "trước anh"?
Người ta gửi mail cho cô, sau đó thì phá hỏng cả máy tính để cô không thể đọc được. Ai làm những chuyện ấy, ai gây ra ngẩn ấy rắc rối, ai đã có những ý nghĩ như vậy nói chung?
ANH: Buổi sáng anh thức dậy và nghĩ đến cô. Anh không nhớ chính xác là mình bắt đầu như vậy từ bao giờ, nhưng từ mấy tuần nay thì liên tục như thế. Tâm trạng mà những ý nghĩ ấy gây nên khiến anh hơi lo ngại. Chờ đợi và buồn khó tả Ngực bỗng nhiên đau nhói hay những xúc cảm đột ngột không thể kiểm soát khi trong đài có ai đó hát về tình yêu đúng vào lúc anh vừa uống chút vang. Cái này rất mới. Từ hồi nào tới giờ anh chỉ quan tâm tới tin tức trên đài.
Cô đã bất ngờ bước vào cuộc đời anh. Từ giây phút đầu tiên xuất hiện, cô đã không bình thường. Không bao giờ anh quên được buổi chiều hôm ấy, khi anh đang làm việc với chương trình của mình thì tự nhiên lại để ý thấy trên màn hình có tin của ai đó gửi đến qua ICQ. Anh mở và đọc.
Tôi vẫn còn một chút yêu trong những gì còn rơi rớt lại của một mối tình vô nghĩa và lúc này tôi đang buồn kinh khủng nên muốn được chia sẻ với ai đó. Một ai đó phải hoàn toàn xa lạ, người không thể làm tôi bị tổn thương. Cuối cùng thì Internet cũng có ích cho tôi về một cái gì đó. Và trúng phải anh. Tôi có thề chia sẻ với anh được không?
Cô đã làm anh bị choáng vì sự thành thật ấy. Anh đồng ý. Cuối cùng thì cô chẳng kể gì với anh và mọi chuyện đã bắt đầu như vậy.
Hôm nay anh cũng thức dậy với ý nghĩ về cô và cười một mình.
Thứ hai! Cô sẽ ở bên anh trong suốt năm ngày.
Một ngày nắng tháng chín bắt đầu ở Munich. Với thời tiết như thế này, anh quyết định sẽ đi xe máy đến cơ quan.
Ngày xưa, "trước cô", không bao giờ anh lại để ý đến những sự kiện kiểu như vậy, anh chìm đắm trong những suy nghĩ về các thuật toán, về gien học, anh trăn trở với những lỗi mới nhất trong chương trình. Song hôm nay thì anh để ý và cảm thấy hung phấn một cách lạ lùng.
Vẫn ở ngoại thành, trên một ngã tư anh đứng cạnh một chiếc Mercedes màu bạc mui trần. Kể cũng hơi lạ trong tiết trời giá lạnh và vào giờ này trong ngày. Lái xe là một phụ nữ. Dễ chùng đến ba mươi tuổi. Cô ta mặc váy xếp rất ngắn màu xanh đen và body chật màu kem, tay trái cầm lon coca và nhấp từng ngụm qua cái ống hút màu xanh. Cô ta đeo cặp kính râm hình ôvan gọng mạ vàng. Một cái vợt tenis nằm trên ghế bên, một phần bị cuốn tạp chí thời trang che khuất. Những cái vỏ đĩa CD nằm lộn xộn trên ghế da hẹp phía dưới. Anh dừng lại ngay cạnh cô ta. Xe máy bao giờ cũng được quyền ưu tiên trong hàng chờ đèn đỏ. Trong lúc đợi đèn xanh, cô ta chợt nhoài người ra phía sau để lấy đĩa trên ghế. Váy bị kẻo lên và không thể không nhận thấy là body của cô ấy ở chỗ khóa giữa hai đùi cùng màu với chân váy! Cô ta cứ ở tư thế nghiêng như vậy mà chọn đĩa như thể chỉ cần sờ là biết tên đĩa, còn anh thì nhìn vào chỗ khóa ấy và mọi sức lực đều đồn vào ý nghĩ, rằng những cái khóa như vậy quả là một giải pháp thiết thực. Cô ta bỗng ngoảnh đầu lại phía anh, kính của họ gặp nhau. Cô ta khẽ hé miệng cười với anh. Anh giật mình, đột ngột cúi đầu, xấu hổ cảm thấy mình giống như cậu bé bị bắt quả tang đang nhìn trộm bà chị đang tắm qua lỗ khóa. Có thể nhận thấy sự thay đổi trên gương mặt của tất cả lái xe quanh chiếc xe mui trần của cô ta.
Đèn tín hiệu chuyển sang màu xanh, nhưng trước khi xe cô ta lăn bánh, anh còn kịp nhận thấy điếu đó lần đầu tiên. Tuy nhiên anh vẫn chưa dám chắc. Thế là anh bắt đầu cuộc đua để giành chỗ tốt nhất bên cạnh cô ta ở chỗ đèn tín hiệu tiếp theo. Anh mừng vì hôm nay mình đã quyết định đi xe máy. Kể cả nếu anh có là người đến sau cùng, thì vẫn cứ sẽ có chỗ ngay bên cạnh "sân khấu". Không, anh không nhanh ở mỗi điểm chờ đèn tín hiệu tiếp theo, núm vú của cô ta càng lúc càng nổi rõ hơn dưới lớp body màu kem bó sát người. Như bị mê hoặc, anh nhìn chầm chậm vào bộ ngực ấy từ sau cặp mắt kính sẫm của mình và phân vân phải chăng đó là cái lạnh của buổi sáng sớm, hay cái đói của cô ta, hay có thể là họ, những người lái xe.
Vừa mở cửa phòng làm việc, anh đã nghe thấy tiếng chuông điện thoại. Là cô. Nhất định đã xảy ra chuyện gì rồi. Trước đó cô mới chỉ gọi cho anh có một lần. Nhưng khi cô đã thầm "em nhớ anh" thì nỗi lo ngại biến mất và tâm trạng yêu lại trở về. Và khi cô hỏi anh về cái e-mail hôm thứ bảy thì đúng là lúc anh đang phân vân không biết làm thế nào để biết được là cô cũng có body kiểu như thế, có khóa ở giữa hai đùi, không nhất thiết phải là màu kem.
Anh không lường trước được chuyện này. Anh không hề nghĩ là Jacek đã "giải quyết" cả cái máy tính khi được anh nhờ hủy chỉ một cái mail duy nhất. Jacek, như anh biết, thì chắc chắn là đã làm vậy để "cho chắc".
Và mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy con ngươi của mắt cô, thì anh vẫn cứ hình dung ra là chúng rất to và tuyệt đẹp khi cô nói cái câu đặc biệt này:
"Anh biết là em sẽ rất thích nếu anh làm điều đó. Anh sẽ đọc, đúng không?"
Anh không làm. Anh sẽ không đọc cho cô nội dung bức thư đó.
Vì những con ngươi ấy, chính thế. Anh chẳng vẫn muốn dẫu chỉ một lần nhìn thấy chúng đấy thôi.
CÔ: Cô không biết gọi tên cái đã xảy ra với anh. Đó không phải là "yêu". Cô biết là khi yêu, người ta không có những nỗi sợ ghê gớm như vậy. Mặc dù cô chợt hiểu ràng rất có thể cô đã nhầm trong trường hợp của anh.
Đã có lần anh cố giải thích cho cô tất cả những gì xảy ra trong não của những người đang gặp phải "rắc rối đột ngột về cảm xúc" được biết đến chủ yếu dưới dạng tình yêu bằng thuyết hóa học về tình yêu của mình. Theo anh thì đây chẳng liên quan gì đến sự điên rồ, nồng nàn và si mê. Mà nó giống như một bản báo cáo thí nghiệm thì đúng hơn. Anh qui tất cả về hoócmôn, dopamina và bộ gien tương ứng. Anh cố thuyết phục cô rằng con người ta có thể hạnh phúc nhờ "những chất ức chế ma thuật nào đó của con hãm phản hồi serotonine". Và mặc dù cái này đọc lên nghe như một đoạn tiêu đề của một luận văn tiến sỹ khô khốc nào đấy, cô vẫn biết là dù đó có là cái gì đi nữa, thì cô cũng sẽ biết chính xác nó có nghĩa gì. Cho dù chỉ để chắc chắn là anh không có lý. Khi anh viết cho cô tất cả những cái đó, cô cảm thấy hạnh phúc và biết rằng chắc chắn chẳng có bất cứ một chất ức chế nào có liên quan gì đến chuyện này.
Nghe những bức thư ấy - đúng ra là đọc chúng - cô nhất trí với khả năng hiện thực của chúng về mặt khoa học, nhưng không bao giờ cô tin chúng hoàn toàn.
Cô không thể. Điều đó cũng tương đương với việc tin rằng âm nhạc của Chopin, đó là hiệu quả đã được lập trình một cách hoàn hảo của những cú gõ vào các phím đàn.
Ngoài ra từ mấy tuần nay cô còn biết chắc rằng dù gì đi nữa thì Jakub vẫn là người đàn ông lãng mạn nhất mà cô từng gặp trong đời.
Nếu quả thực Chúa đã tạo ra con người, thì hẳn Người đã tốn nhiều thời gian hơn để tạo ra anh.
Cô bỗng cảm thấy mình ngưỡng mộ anh hơn bao giờ hết.
Cô gọi điện một lần nữa.
- Jakub, anh có thể hủy cái mail ấy mà không cần phải phá cả server phải không? Bây giờ thì cả ngày thứ hai em sẽ không có anh, mà em thì đã chờ và đã mừng biết bao nhiêu. Liệu anh bạn anh có thể giúp họ sửa nhanh cái máy ở Poznan được không?
Cô đặt máy và chợt biết rất rõ mình sẽ làm gì.
Cô lấy đĩa mềm từ ICQ, gọi taxi, nói với cô thư ký là cô mệt phải đi bác sĩ và nếu cô không về kịp trước mười bảy giờ thì cô ta tắt hộ cái máy tính.
Cô bảo lái xe taxi đưa đến cái khách sạn mới mở mà gần đây ai cũng nói tới. Tại lễ tân, cô hỏi Internet Cafe mà báo nào ở Warszawa cũng đưa tin ở chỗ nào. Quán cà phê hóa ra là mấy cái máy tính nằm ở một góc của câu lạc bộ ban đêm trên gác một của từng ngầm cửa khách sạn.
Khi cô vào đó, đã là mười giờ sáng.
Đó là câu lạc bộ ban đêm duy nhất có quầy bar, một sàn nhảy và những cái bàn với những chiếc ghế cao, nặng nề bọc nhung màu xanh lá cây. Ánh sáng nhờ nhờ, câu lạc bộ hoàn toàn vắng vẻ; chỉ có mỗi một nam nhân viên phục vụ còn trẻ đứng sau quầy bar, mắt đỏ vì hơi cồn, đang lau chùi ấy. Anh ta trạc tuổi cô. Kiểu một người tình La tinh, tóc đen bóng chải ốp ra phía sau. Anh ta mặc một chiếc áo may-ô đen bó sát người với hàng chữ "bạn có thể có tôi" bằng tiếng Anh và trông như thể là bị nhốt trong phòng tắm nắng chí ít cũng bốn giờ đồng hồ. Cách phản ứng của anh ta chứng tỏ anh ta không hề nghĩ rằng lại có ai đến đây vào tầm này của sáng thứ hai và rõ ràng là cô đã làm khó cho anh ta trong việc "liếm láp các vết thương" sau đêm hôm qua. Khi cô đến chỗ quầy bar, anh ta nhìn cô từ đầu đến chân, chỉ đừng lại một phần giây khi nhìn vào môi cô.
Cô hỏi về Internet.
Anh ta không nói không rằng, dẫn cô đến chỗ mấy cái máy tính đặt trên những cái bàn gỗ nhỏ nặng nề, với những cái ghế cũng to tướng màu xanh lá cây. Bên cạnh một số máy tính vẫn còn nguyên những cái gạt tàn đầy, một vài bàn phím bị dây những vết vang đỏ và cô bỗng vui vui nhận thấy trên một màn hình một vết môi màu máu rất rõ.
Thật tuyệt vời! Phải chăng cả cô nữa, đôi khi cũng muốn làm một cái gì đó kiểu như vậy?
Ví dụ như cái lần, Jakub trong lúc đang nói chuyện về đề tài Internet, chẳng cơn cớ gì, hoàn toàn không có bối cảnh thích hợp, bỗng dưng viết: "Lúc này anh khát khao em biết bao...". Lúc đó mọi cái bỗng trở nên tình cảm thế. Nhưng chỉ một lúc. Ngay sau đó cô cảm thấy, mặc dù rất lâu về sau cô vẫn không dám thú nhận điếu này ngay cả với chính mình, rằng cô thực sự muốn anh chạm môi lên ngực mình.
Người phục vụ nhận thấy sự trầm tư bất chợt nơi cô bèn e hèm thật to rồi bật cái máy tính ở đúng đối diện với quầy bar. Khi anh ta bắt đầu giảng giải cho cô cách sử dụng chuột như thế nào, cô nhìn anh ta săm soi và bảo rằng anh ta không việc gì phải nhọc lòng, cô sẽ tự xoay sở được mà không cần tới khóa đào tạo dành cho những người mới bắt đầu của anh ta.
Anh ta quay về quầy bar tỏ vẻ khó chịu và nhìn cô đầy nghi ngờ.
- Máy tính của các anh ở đây có ICQ không? - cô hỏi.
Cứ theo ánh mắt của anh ta thì cô hiểu rằng anh ta chẳng có một tí khái niệm nào về cái điều cô vừa nói: Và bắt đầu quanh co, rằng họ đang chờ phiên bản mới, còn cô thì băn khoăn, tại sao đối với đàn ông, việc thú nhận mình không biết một điều gì đấy mà điều ấy phụ nữ lại biết, lại khó khăn đến thế.
Cô quyết định không hỏi anh ta, rằng cô có thể tự cài đặt ICQ được không.
Cô cho cái đĩa mềm mà cô mang theo vào ổ, và bắt đầu cài đặt.
Anh ta vẫn nghi ngờ nhìn cô không dứt từ quầy bar.
Và khi ấy cô bỗng nảy ra một ý nghĩ lạ lùng.
Đúng, đây chính là một bối cảnh khác thường!
Câu lạc bộ này, những gì xảy ra với server ở Poznan, tâm trạng của cô và điều kiện tưởng tượng của ngày hôm nay.
Cô ra chỗ quầy bar và nói:
- Anh mang giúp tôi một chai nước khoáng có ga loại một lít bốn lát chanh, hai cốc uống nước, cappucino với suất đúp amaretto ở giữa, một chai vang đỏ chát và hai cái ly đến bàn máy tính được không?
CÔ biết anh ta rất ngạc nhiên, nhưng vẫn gật đầu hỏi:
- Xin lỗi, chị trả tiền máy tính đến mấy giờ?
- Đến bốn rưỡi. Và nhờ anh gọi giúp taxi vào lúc mười sáu giờ bốn nhăm phút.
Cô quay lại chỗ máy tính và gửi e-mail đến thẳng pager của anh:
Jakub, anh hãy lên ICQ ngay, càng nhanh càng tốt. Em sẽ nói với anh tất cả những gì anh muốn.
Sự bất thường này, rằng việc này nói chung là có thể về mặt kỹ thuật, thậm chí không còn làm cô ngạc nhiên nữa. Nhưng lòng biết ơn sự thông minh này của loài người không bao giờ qua đi trong cô. Chẳng phải nhờ sự thông minh ấy mà cô có anh đấy sao.
Một lát sau máy tinh báo hiệu rằng anh đã có mặt.
Em thân yêu, em lấy đâu ra thế này??? Đừng có nói với anh là Poznan đã "phục hồi" đây nhé?
Cô cười thỏa mãn.
Nó không phục hồi đầu. Mà là em phục hồi đây. Em đã quá nhớ anh, em đã quá mừng khi thứ hai đến, nên không thể để cho một cai Server suy sụp nào đó ở Poznan lấy mất của mình được. Em đang ở Internet Cafe trong câu lạc bộ ban đêm của một khách sạn mới ở Warszawa và em sẽ ở đây cùng với anh cho đến 16.30. Em ngồi gần quay bar, đứng sau nó là người phục vụ đang sững người vì kinh ngạc, em uống nước khoáng với chanh và em gọi một chai vang đỏ, em sẽ mờ ngay bây giờ đây. Ngoài người phục vụ mà ta không tính đến, thì chúng ta chỉ có một mình thôi, anh và em.
Và không đợi phản ứng của anh, cô viết một câu không thể tin được như thế này:
Jakub, ngay bây giờ em sẽ cho anh biết một thông tin về mình, côn anh xin hãy quyến rũ em đi.
HÃY QUYẾN RŨ EM HÔM NAY TRONG CÂU LẠC BỘ NÀY??????
Anh hãy làm điều đó, em xin anh đấy. Chúng mình chưa bao giờ cùng nhau trong câu lạc bộ ban đêm, một mình, và em thì có chút cồn trong máu. Và có thể rất lâu nữa mới lại có lần thứ hai như thế này. Anh hãy mở một chai vang đỏ mà nhất định là anh có khóa trái cửa phòng làm việc lại và anh nhớ rằng đang là sáng thứ hai. Sáng thứ hai, đó chúng phải là thời gian đẹp nhất của chúng mình sao. Bao giờ chúng mình cũng chờ nó, rất lâu và rất nhớ.
Cô dừng viết và gọi người phục vụ:
- Anh có thể mở một đĩa nhạc gì đó được không?! Tốt nhất là B.B. King... - cô nói thêm.
Anh ta chắc không còn ngạc nhiên nữa, cái tay phục vụ này - cô nghĩ.
Chỉ một lát sau, xung quanh cô trong cái câu lạc bộ mờ ảo và ấm cúng này đã tràn ngập blues.
Jakub, để dễ hơn cho anh, và để anh cũng có cơ hội như tất cả mọi người, em sẽ cho anh biết tất cả những thông tin quan trọng nhất về mình. Hôm nay em mắc chiếc nịt vú màu xanh lá cây sẫm viền đăng ren có khóa cài ở đằng trước, một cái áo đen chui đầu bó sát người có ba cúc, em đặc biệt đẹp, vì vừa sạch kinh được hai hôm, em tô son dưỡng môi màu đỏ thẫm và khi chạm tay lên đó thì khắp người em như bị kiến bò. Ngoài ra căn phòng đang tràn ngập blues Của B.B. King mà anh yêu thích và em có những ý nghĩ kỳ quặc đến nỗi tiềm thức của chính em cũng phải đó mặt. Anh có tất cả những cái mà anh cần đúng không. Bàn phím, Internet và những khát khao. Và có những khát khao của em nữa, anh cũng đang có. Vậy thì anh hãy BẮT ĐẦU đi, còn chờ gì nữa!
Trong câu lạc bộ vang lên cái đoạn mà cô thích, Dangerous mood do King hát cùng với Joe Cocker, còn cô cởi hết cúc áo, rót đầy ly vang, ngồi thoải mái trên cái ghế nhung, tay đặt lên bàn phím và nhìn vào màn hình. Anh viết cho cô tất cả những tình cảm mà cô đã chờ đợi biết bao nhiêu, còn cô phân vân không biết trời xui đất khiến thế nào mà hôm nay cô lại mặc đúng bộ đồ lót này. Cô nâng ly rượu vang, nhìn một lúc vào màn hình. Người phục vụ đứng bất động, miệng há hốc nhìn cô và cô có cảm tưởng như anh ta không dám thở để không làm xao động đến cái đang bắt đầu xảy ra ở đây.
Chú thích
1 Hãng Hàng không Ba Lan.
2 Modus vivendi: từ La tinh, chỉ trạng thái tức thời.
3 Deja vu: tiếng Pháp, chỉ cảm giác khi con người cho rằng điều mà mình đang trải qua dường như đã từng xảy ra.
4 Blues: một loại nhạc.
5 LSD: một loại ma tuý tổng hợp, gây ảo giác mạnh.
Cô Đơn Trên Mạng Cô Đơn Trên Mạng - Janusz Leon Wiśniewski Cô Đơn Trên Mạng