Số lần đọc/download: 2448 / 116
Cập nhật: 2019-01-28 20:59:57 +0700
Meli - Bốn
B
ên bờ sông, sau khi đã uống no nê dòng nước mát chảy giữa những phiến đá phủ kín rêu, tôi đi kiếm cái ăn, tôi cần phải ăn, để có sức.
Kiếm được một con tunduku, chuột núi, cũng chẳng phải việc khó nhọc gì đối với tôi, rồi tôi cắt cổ nó chỉ bằng một cú ngoạm, nhưng trước khi ăn nó tôi nhớ lại điều đã học được từ những Con người của Đất và thế là tôi khẽ kêu ư ử: cũng giống như che, con người, thường xin aliwen, cái cây, thứ lỗi trước khi đốn hạ nó, và xin ufisa, con cừu, tha thứ trước khi xén lông nó, tôi xin bạn tunduku thứ lỗi vì phải dùng thân thể bạn để thoả cơn đói của mình.
Tôi ăn nhanh nhưng không nhiều hơn mức cần thiết, và thân thể nóng hổi của tunduku truyền cho tôi hơi ấm cùng năng lượng. Những gì còn lại sẽ thành bữa tiệc thịnh soạn cho ñamku, đại bàng con, và biết đâu đấy, khi nó trở thành đại bàng mẹ và đang dang cánh bay lượn trên bầu trời rộng lớn thì ổ trứng của nó sẽ lại thành mồi ngon cho một con tunduku khác.
Khi tôi quay lại lùng sục tiếp dấu vết của kẻ trốn chạy, một âm thanh làm rung chuyển cả khu rừng. Đó là tralkan, tiếng sấm, báo hiệu cơn dông sắp tới. Tôi biết trời mà mưa thì sẽ khó lòng tìm lại được dấu vết kia, vì mapu, mặt đất, mang lòng biết ơn, sẽ mở toang mọi lỗ hổng để đón mưa, và khi ấy ta sẽ chỉ còn nhận thấy mùi niềm vui của mặt đất.
Tôi nấp vào một thân cây lớn rồi nằm xuống. Khi ấy tôi biết vì sao mùi của kẻ trốn chạy lại gợi nhắc tôi về tất cả những gì tôi đã mất. Và trong lúc đau đáu nghĩ về những gì mình đã đánh mất, tôi chìm vào giấc ngủ dưới cơn mưa rả rích không ngừng. Và tôi mơ.
Tôi mơ thấy mình ở bên một đống lửa đưa tôi vào trạng thái lơ mơ thanh bình. Quanh đống lửa, còn có những người khác, đàn ông, đàn bà, trẻ nhỏ, vừa lắng nghe một người đang nói vừa ăn hạt pewen, một loài bách tán có thân rất cao. Họ đang nói về tôi.
"Những người già kể lại rằng nawel, một con báo đốm khoẻ mạnh và nhanh nhẹn, đi xuống từ dãy Nawelfüta, nơi nó sinh sống, và không phải vô tình mà Nawelfüta có nghĩa là báo đốm lớn theo tiếng mapudungun, ngôn ngữ của những Con người của Đất.
Ấy là vào một buổi sáng trời rét căm căm, vạn vật được bao bọc trong màn sương mù dày đến nỗi người ta không còn nhìn ra được đám cành cây, những đỉnh núi phủ trắng tuyết, cũng như khó mà thấy rõ con đường mòn dẫn ra các ruka, những ngôi nhà của người Mapuche dựng bên hồ lớn. Những người già cũng kể lại rằng con báo xuất hiện dưới núi mà lũ chó nhà không hề cất tiếng sủa, dù rằng những Con người của Đất vốn lo sợ đàn cừu gặp nguy hiểm đã thúc giục lũ chó bằng những tiếng hô Trewa! Trewa! Chó! Chó! Nhưng, dù người ta có hét lên giục giã thế nào, đám chó quý hoá vốn không hề sợ nawel, con báo đốm, vẫn nín thinh, cúi đầu xuống trong buổi sáng mù sương đó, cho tới tận khi con báo đến gần ngôi nhà đầu tiên và khẽ khàng đặt xuống trước cánh cửa hướng về puelmapu, mảnh đất phía Đông, thứ mà nó ngoạm giữa những chiếc răng nanh. Sau đó nawel, con báo đốm, gầm lên rồi mất dạng trong màn sương mù."
"Chuyện là như vậy đấy, một người khác nói vọng lên trong giấc mơ tôi. Ruka đó là nơi sinh sống của Wenchulaf, một ông già mà đúng như tên gọi của mình - người đàn ông hạnh phúc - luôn thích làm trò vui cho lũ trẻ con ở ayekantun, cuộc gặp gỡ thường nhật để lắng nghe những câu chuyện vui và những khúc ca kể về một thời xa xưa không bao giờ nên quên, vì trong những câu chuyện và khúc ca được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác ấy, luôn phập phồng niềm kiêu hãnh được là người Mapuche, Con người của Đất.
Nghe thấy tiếng gầm, Wenchulaf ra khỏi ruka, cúi xuống bế cái cơ thể nhỏ bé có lông sẫm màu ấy lên, ông vuốt ve nó rồi bảo rằng đó là pichitrewa, một chú cún con.
Cả bộ tộc vây lấy Wenchulaf và món quà kỳ lạ được nawel, con báo đốm, bỏ lại. Nhiều người nói rằng buổi sáng hôm ấy, ngay cả khi gió bão không thổi, thì kallfütray, âm thanh của trời cao, vẫn vọng xuống từ trên các đỉnh núi, và một số người khác khăng khăng rằng con chó nhỏ hẳn là một món quà của wenupang, chúa tể bầu trời.
Wenchulaf yêu cầu mọi người im lặng. Điều quan trọng là, ông ấy bảo, con chó nhỏ này đang lạnh và đói, và vì tất cả những gì ngünemapu, linh hồn của đất, trao cho chúng ta đều là để tốt cho chúng ta, nên ta chào đón chú chó này với tất cả lòng biết ơn."
Trong mơ, tôi cảm nhận được hơi ấm từ vòng tay của Wenchulaf, và những mùi hương ở ruka từ trong ký ức bay tới mũi tôi: mùi khói của củi khô, mùi len, mùi mật ong và mùi bột mì.
Trong mơ và trong cảnh tranh tối tranh sáng của ruka tôi thấy Kinturray - người phụ nữ có một bông hoa. Chị đang cho một con người bé tí bú sữa, và khi nhìn thấy tôi chị hào phóng vắt một phần sữa vào một cái bát nhỏ và chị gọi tôi.
Trong lúc tôi liếm láp phần sữa này, có ai đó bảo: ông có một con chó tốt đấy, Wenchulaf, hy vọng sau này nó sẽ thành một con chó chăn cừu thành thục. Và ông già Mapuche đáp lại rằng: đó không phải con chó của tôi, đó là bạn của thằng cháu nhỏ nhà tôi Aukamañ - chú kền kền tự do. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được nawel, con báo đốm, đã tìm thấy nó ở đâu, chuyện gì đã xảy ra với mẹ nó, nhưng chúng ta biết rằng con chó nhỏ này đã thoát được cảnh chết đói và chết cóng trên núi. Con chó nhỏ đã chứng tỏ được lòng trung thành đối với monwen, sự sống, nó đã không nhường bước trước lời mời dễ dãi của lakonn, cái chết, và chính vì thế, nó sẽ được đặt tên là Afmau, nghĩa là trung thành, chung thuỷ trong ngôn ngữ của bộ tộc chúng ta.