Số lần đọc/download: 102 / 66
Cập nhật: 2020-06-24 21:49:52 +0700
Chương 6
C
hẳng bao lâu sau, dấu vết sét đánh không còn thấy mấy nữa. Ba con gà mái tơ bị đè chết cho chó ăn, ván chuồng đã mục lại được mang ra dùng, và bất cứ những xúc cảm méo mó nào đều được chấn chỉnh lại. Thậm chí cả thân những cây bị quật đổ cũng dần dần được người đàn ông cần mẫn bổ ra và chất thành đống. Người đàn bà ngắm dõi chồng mỗi lúc nghỉ tay với những nỗ lực của chính mình. Chị thấy anh loạng choạng, nhưng vẫn tiến về phía trước trên mảnh đất gồ ghề. Không còn nghi ngờ gì nữa thể nào cuối cùng anh cũng sẽ hoàn thành được những gì anh đã bắt tay vào làm, chỉ có con đường là khúc khuỷu quanh co, và cái sức khỏe tưởng chừng vô tận của anh nay xem ra cũng có giới hạn.
Đôi lúc, vào những buổi chiều vang vang âm thanh, khi lòng tin bị giảm sút cực độ và nỗi hoang mang lên tới đỉnh điểm nặng nề, con gà trống cất tiếng gáy thỏa chí trong bụi cây tầm ma, còn những con gà mái ấp trứng trong bụi, người đàn ông và người đàn bà ngồi phóng tầm mắt dưới mũ che nắng dõi theo bước hoạt động cần mẫn khác. Xuôi theo lối đi đang dần trở thành một con đường, ngay trong tầm mắt nhìn, dưới rặng cây tiêu và bạch đàn, có một gia đình chuyển tới. Đó là gia đình Quigley. Có cặp vợ chồng già, cụ ông da vàng, râu mọc lởm chởm được đặt nằm trên đệm và nằm nguyên đó, còn cụ bà tỏ ra ngơ ngác nhìn vào những vùng chung quanh, không hiểu lý do gì run rủi họ tới đây ở tầm tuổi này. Cụ ngồi bên chồng, phân vân suy nghĩ, hai bàn tay hết xòe ra lại nắm vào tựa như định nhặt cái gì đó đã đánh rơi ở nơi khác. Cùng lúc, cụ ngồi bên người chồng nằm một đống ra đấy, giữa những đống đệm và đàn gà, cô con gái và những cậu con trai đi lại quanh quẩn cố tìm những thứ để quên mất đâu đó.
Hai anh con trai nhà Quigley, cánh tay dài, gân guốc, quần mặc trễ hẳn xuống, đang bắt tay xây một căn nhà bằng ván gỗ để bố mẹ ở. Nhưng người ta kể rằng hai anh con trai khéo tay, có thể dùng dây thép, hộp sắt tây hay bao túi sáng chế ra bất cứ một cái gì, sau đó lại trở về Bangalay làm việc trong một nhóm phu làm đường. Nhìn họ chuyển động, nhặt nhạnh và lắp ghép, bà mẹ thấy các cậu con tay dài ngoẵng mà ngỡ ngàng như khi nhìn vào những đồ vật khác, cứ như mình không sinh ra chúng. Sự sống đã khô cạn nơi bà và để bà ngồi trơ giữa những bọc đồ.
- Bố con trông không được khỏe, Doll ạ, - bà nói với cô con gái cao đang thả đàn gà đỏ.
Người thiếu nữ cao bước đến cúi xuống nhìn bố.
- Trông bố cũng không đến nỗi yếu lắm, - cô nói, lấy bàn tay dài xua ruồi.
Giống như các anh em trai mình, chân tay cô dài ngoẵng. Nhưng người cô lại ngắn. Giống như hai anh em trai mình, cô trông cứ như được đẽo từ gỗ ra. Nhưng các anh thanh niên là những vị thần thô lỗ, còn cô là một totem chưa hoàn chỉnh, mà ý nghĩa vẫn còn tối tăm.
Cũng giống như số phận của các cậu con trai không thể nào phù hợp với cái vòng tròn gia đình, cô Doll chưa hoàn chỉnh đã sinh ra để sống trong cái đó. Bản thân cô không thể tạo cho mình một vòng tròn riêng. Một phẩm chất tự nhiên nào đó đã gắn liền với cô bằng bộ váy vải bông trên người. Nhiều người đã gọi cô là cô Quigley thậm chí cả khi cô đi chân đất và con cái các anh cô, vẫn chưa ra đời, có thể được mang đến thăm cô trên những chiếc xe bò, xe độc mã và cuối cùng trên những chiếc xe ô tô Ford, như một vật đáng tôn kính. Thật khó mà nói được tuổi của Doll Quigley, và dù ít hay nhiều cô vẫn ở nguyên tuổi đó. Cô là một cô gái khô héo, tóc hung hung, loại người mà chẳng mấy chốc đã bị mặt trời tàn phá, và chẳng còn gì để lại cho tuổi tác kịp gieo rắc ác tâm của mình. Lúc còn trẻ cô đã có kiểu chữ viết ngay ngắn, đẹp mà cô học được ở các bà xơ, người nhà cô tự hào về điều đó. Họ mang bút mực lại cho cô viết, và cô ngồi xuống bên bàn gỗ thông trước ngọn đèn, vươn cổ trên mấy hõm sâu nơi xương đòn, rồi duyên dáng lướt tay trên tờ giấy phác nét chữ trong không khí, và cả nhà tự hào, kinh ngạc, đợi cô viết. Cô là bề trên tuy cô không muốn như vậy. Mọi người đến gõ cửa nhà cô yêu cầu được gặp cô Quigley, muốn thổ lộ tâm tình với cô. Dường như cô là người được ký thác niềm tâm sự đáng tin cậy ấy.
Cuối cùng, trong gia đình Quigley còn có cậu Bub, với bộ mặt trẻ con trên thân hình của một thanh niên. Cậu nằm dưới gốc cây và nhai nhai một nhánh cây. Sự giản dị đến tuyệt đối dường như bó gọn trên đường nét khuôn mặt mờ nhạt, dài ngoẵng của cậu. Rõ ràng cậu là người tốt bụng. Đôi mắt xanh, mơ màng mở to. Cái mũi không cương quyết chạy thẳng tắp, nhưng không đến nỗi đáng ghét lắm. Bub Quigley không làm ai phải bồn chồn lo sợ, trừ một đôi người khách lạ vì cậu như thuận như dòng nước vậy. Và thụ động nữa. Cậu luôn bị người khác đem đổ từ chỗ này sang chỗ khác, mà thường là do ý muốn của bà chị Doll.
Gia đình Quigley sống ổn định ở một nơi họ đã chọn, dưới những cây bạc hà và cây bạch đàn, bên cạnh những cây thông. Nhà của họ mới thực là nhà, do sự khéo tay của hai người con trai làm nên, những người trời phú cho cái tài biết làm nhiều thứ. Họ cũng may mắn tìm ra ở ngay đó một con suối, nên Bub Quigley thường ngồi cạnh suối trên một hòn đá giữa những bụi cỏ, nhìn dòng nước tuôn chảy trong khi mọi người bận rộn sắp xếp cuộc sống mà không có cậu. Cậu nhìn mọi người cứ gần như nhìn những con nòng nọc, vậy mà chẳng bao giờ thấy bực dọc. Chỉ khi bà chị Doll bỏ cậu lại sau thì cậu mới cáu kỉnh. Rồi cậu thường chạy ngược, xuôi trên đôi cẳng sếu, quần xắn lên, vừa nhìn vừa khóc, và cảnh cậu tuyệt vọng đến đổ mồ hôi hột, mới thật khủng khiếp.
Đôi lúc Doll Quigley dẫn cậu em Bub đến luẩn quẩn ở cửa sau nhà Parker nói chuyện phiếm. Mà nếu chính xác ra họ không nói chuyện liên tục, họ cũng cùng nhau chia sẻ cảnh tĩnh mịch nơi đó, đấy là cách thay đổi không khí tuyệt vời. Amy Parker đành tiếp Doll và Bub vì cũng chẳng còn sự lựa chọn nào. Họ là những người tốt, và chị sa vào những thèm muốn riêng tư có được những quan hệ tinh tế cùng những sự kiện không thể đong đếm được, chị cũng không biết tại sao nữa.
- Trước đây có lần tôi nghĩ ước gì mình có một cửa hàng nhỏ, - Doll Quigley nói, chị ngồi trên bậc cửa, chiếc cằm dài tựa trên đầu gối gầy. - Tôi thích bán những khăn lót, khăn tắm, thảm và các thứ, chị biết đấy, những thứ lòe loẹt mà tôi tự làm ra, và xà phòng v.v… Nào, Bub, làm gì mà dọa cả gà qué thế. Chẳng qua tôi học làm nhiều thứ qua các bà xơ, tôi thêu ren cùng những thứ đại loại như vậy. Có một số người học đan giỏ, nhưng tôi không thích.
- Em thích đan giỏ, - Bub Quigley nói, - có đường viền màu đỏ và vàng.
- Thế sao chị không dựng một cửa hàng như chị nói, hả chị Doll? - Amy Parker hỏi, bằng một câu hỏi xa vời mà thỉnh thoảng chị vẫn dùng để hỏi mọi người, và đặc biệt để hỏi người nhà Quigley.
- Nhưng việc không theo hướng ấy, - cô Quigley nói, không thêm chi tiết nào, tựa như cô ta đã biết.
Công việc của bản thân mình, Amy Parker cũng chẳng biết sẽ đi theo hướng nào. Đến tận bây giờ, chị vẫn chẳng hề nghĩ đến, nhưng lẽ nào đó là lý do để chị hoảng sợ sao? Một chút sợ hãi làm chị sởn gai ốc. Nơi đây trong căn nhà này, cuộc sống của chị ngưng đọng, một bong bóng xà phòng sắp bị nổ tung.
- Gì thế, chị Parker? - Cô Quigley hỏi và đứng dậy, vẻ uyển chuyển và ân cần mà cô bỗng nhiên có được.
- Chị ấy ốm à? - Bub hỏi.
- Tôi hơi bị khó chịu trong người một chút. Không sao đâu, cô Doll ạ, - Amy Parker nói.
Chị ngồi trên một chiếc ghế thẳng đứng dưới ánh nắng gay gắt. Đến tận lúc này, bản thân chị vẫn chưa bao giờ thấy một cách sâu sắc ranh giới giữa cái sống và cái chết.
- Chẳng làm sao đâu, - chị nói.
- Nào, - Bub Quigley vừa nói vừa chìa một hình mà cậu vừa dùng sợi dây đan trên các ngón tay, - chị chơi được không?
- Không, - Amy Parker nói - em tài thật, Bub ạ. Nhưng chị không biết chơi.
Chị nhìn đôi bàn tay còn thơ ngây của cậu ta và đột nhiên thấy ghê tởm vì trên đó sợi dây đang căng một hình rắc rối và thô tục. Cậu ta đang lựa đan một hình mới.
- Hình như chị bị chứng buồn nôn thì phải, - Doll Quigley nói.
- Tôi chẳng làm sao đâu, - Amy Parker nói.
Nhưng chị không thể dùng lời nói để tống khứ chị em nhà Quigley. Đôi bàn tay của Bub còn đang đan thêm những hình mới trên cái dây.
- Xem này, đó là cái đệm đấy, - cậu ta nói.
Amy Parker chạy ra bên nhà và bắt đầu nôn ọe.
- Chứng buồn nôn đấy, - Doll Quigley nói dịu dàng mà nghe gai cả người.
- Người ta bảo nếu lấy lá cây chút chít và dán vào trán là nó…
- Sẽ biến ngay, - Amy Parker nói, cố trấn tĩnh.
Mong sao chị em nhà Quigley cũng vậy.
Và họ thấy đã đến lúc phải ra về, bước những sải dài, thong thả qua sân có đàn gà bước thủng thỉnh.
Tối hôm đó khi Stan Parker từ khe núi trở về, anh hỏi:
- Sao thế, Amy?
- À, chị em nhà Quigley - chị nói.
Chị tỳ khuỷu tay lên bàn, vì như vậy tay chị sẽ không rung.
- Họ là người tốt đấy, - người chồng nói. - Vô hại mà.
Anh từ từ khuấy đĩa xúp đặc mà anh đã bỏ thêm vào mấy mẩu bánh mì. Sự mệt mỏi về thể xác của bản thân và sự hiện diện của vợ khiến anh thấy hài lòng.
Nhưng Amy Parker lại đang giận dữ xé bánh mì.
- Cái thằng oắt con Bub Quigley làm em phát buồn nôn lên.
- Nó liên quan gì tới em à? Cậu ta vô hại, - người chồng nói.
- Vớ vẩn thật! Anh nói phải đấy! Nhưng em không thể chịu được. Miệng chị đầy bánh mì nhão nóng. Ngọn đèn lay động khiến mắt anh sáng lên khi nhìn chị, gương mặt anh dày dặn, sấp bóng.
Có gì đang xảy ra trong căn phòng kỳ lạ mà mình đang sống này - anh tự hỏi.
- Anh Stan ạ, - chị nói, - ban nãy em nhìn cậu bé cao kều, dài ngoẵng, ngớ ngẩn, em thấy hãi quá. Em không biết nhiều. Em không hiểu cơ sự rồi sẽ ra sao đây. Đấy, cứ lấy bà Quigley làm ví dụ chẳng hạn? Anh Stan, em sắp có con. Bây giờ thì em chắc chắn rồi. Thằng bé đưa em xem những hình nó nghĩ ra, và em bắt đầu cảm thấy chếnh choáng, cứ như mình chẳng bấu víu được vào đâu trên cõi đời này. Thế là em sợ quá.
Sau đó chị không sợ nữa. Lúc này ánh đèn đã dịu. Nói ra được thì thấy khuây khỏa. Và khuôn mặt anh đang nhìn chị. Có những giây phút họ nhìn nhau đắm đuối. Rồi hai linh hồn vượt khoảng cách quyện vào nhau.
- Chẳng việc gì phải sợ, - anh nói, giọng bâng quơ. - Em sẽ vượt qua như mọi người khác.
Đi bàn chuyện bà mẹ Quigley đã hoài thai Bub thì dường như vô lý quá.
- Vâng, đúng thế, - chị bình thản nói.
Anh sẵn lòng nói bất cứ điều gì để an ủi chị.
- Chúng mình sẽ phải dựng thêm một buồng, - anh nói. - Mà có lẽ phải xây một căn nhà. Ba người mà đi lại trong cái lều này thì chật quá.
Và thằng bé, bởi vì sẽ phải là như vậy, đứng ở giữa buồng của căn nhà mới, tay cầm đủ mọi thứ, nào quả trứng sáo lốm đốm, nào mảnh thủy tinh trong có bong bóng hoặc một cái gậy giả làm ngựa. Sự tưởng tượng tích cực của Stan Parker thậm chí gán cho đồ đạc một hình thù nào đó mà vợ anh chưa bao giờ nhận thấy, khiến chị hổ thẹn về sự thiếu lòng tin của mình.
- Có con cái quanh đây thì tuyệt quá, - chị khẽ nói bưng ra đĩa bánh pudding nho khô, mà vì chị em Quigley nên không thành công lắm.
- Bổ củi hả? Và rửa bát đĩa!
Lần đầu tiên anh cười kể từ lúc nghe vợ báo tin, và nếu miệng anh có mím chặt một chút, chị cũng không để ý hoặc tỏ ra không để ý, vì chị còn đang mải suy nghĩ rất lung. Nếu trí tưởng tượng của Stan Parker có kém tích cực hơn trước, chính là vì bản thân anh còn có bao nhiêu điều vẫn chưa biết cách tháo gỡ, đây là cuộc sống mới, và toàn bộ cái mớ bòng bong huyền bí nằm trong bụng vợ anh. Nghĩ đến mà sởn gai ốc. Người đàn ông ngồi giữa làn ánh sáng nhỏ, yếu ớt, bản thân anh sáng lóe và mờ đi trong giới hạn của linh hồn anh, có lẽ lại lớn hơn, nhưng cũng kém thỏa đáng hơn người chồng đã tạo ra đứa bé, là người ngồi đưa ra lời khuyên và an ủi bằng sự hiện diện của con người mình khi anh nhai một đĩa đầy bánh pudding nhão và làm những việc cần làm.
Vợ anh cảm thấy không khỏe.
Chị đi đây đi đó. Có lần chị đến thăm nhà Quigley, mà các cậu con trai xây sắp xong, còn cô Doll đưa chị đi xem dốc đồi ở phía sau, mà cô ta khoe là sẽ cày lên để trồng cam, rồi thế là sẽ có cam và gà.
- Tôi rất mừng là chúng tôi đã đến đây, - Doll Quigley nói. - Lúc đầu tôi không muốn. Nhưng nơi này đã là nhà của chúng tôi rồi. Cái lối sinh cơ lập nghiệp nghĩ đến mà buồn cười. Cũng phải yêu thương bà con lối xóm thôi.
Đứng trên cánh đồng, hai tay vựng về đặt trước bụng, trông cô chẳng khác gì một cái cây, mà có cái gì đó đã vô tình làm cho vỏ cây bị xù xì.
Và Bub Quigley đã cho Amy Parker xem những con nòng nọc nó bắt được, song chị không thấy ghê tởm nữa.
Biết bao nhiêu con vẹt nhỏ bé muôn màu tình cờ đến các ngọn đồi vào mùa đó, lượn quanh, rồi đậu xuống, đứng trơ trong đám gốc cây cụt ngủn, cất tiếng kêu vang, phá tan cả bầu không khí tĩnh mịch. Đã đến mùa hoạt động. Vào bao buổi chiều tối, cuộc sống giản dị và rộng lượng. Những cây keo đang trổ hoa. Giờ đây những thân cây đen của chúng bớt tiêu điều, mặt trời chiếu xuyên qua những giọt nhựa keo. Amy Parker đi dưới hàng cây keo sủi nhựa, bẻ những mẩu nhựa trong suốt, dán vào miệng vì nó đẹp và hứa hẹn, nhưng chất nhựa chẳng có gì mấy, chẳng ngọt mà cũng chẳng đặc biệt đắng, chỉ nhạt nhẽo.
Tuy vậy, đó vẫn là mùa của hoạt động và cuộc sống, là lúc diễn ra hầu hết mọi sự kiện, khi vào những buổi tối chị mang thùng đến chỗ con bò đang đợi. Chẳng bao lâu họ bắt tay vào làm nhà mới, làm ngày làm đêm để chí ít cũng xong một buồng trước khi chị Parker ở cữ. Buổi tối chị nghe thấy tiếng búa, và tiếng chồng cùng các cậu con trai nhà Quigley đến giúp đỡ. Rồi toàn bộ khung cảnh như được xây quanh người đàn bà, khiến chị trở nên im lặng và quan trọng.
Những buổi tối đó sao mà yên tĩnh khi gió đã lặng, và tiếng vắt sữa làm cho sự yên tĩnh càng trở nên yên tĩnh hơn. Những cây keo xao động suốt ngày lúc này cũng đứng yên sám hối. Những đám mây của ánh sáng lụi dần làm vàng óng bóng tối đang ập đến. Cái cây dùng buộc bò để vắt sữa có chỗ nhẵn thín do cổ bò cọ vào, nay trông trắng như một cây bằng xương.
Con Julia của họ, do bị viêm một đầu vú, nên họ mua được giá rẻ, nay lại có chửa. Hai bên sườn nặng nhọc đang phập phồng do con bê chưa ra đời. Nó nhai cỏ và thở dài. Chẳng bao lâu họ sẽ vắt cạn sữa của nó. Nhưng con bò vẫn tiếp tục nhai, thở dài, và nhìn, và đứng bên cái cây dùng để cột nó khi vắt sữa, đợi được chăm sóc, và được tham gia vào công việc vắt sữa.
Đó là một con bò đã già.
- Ta nên bán quách nó đi, - Stan Parker nói, - trong khi còn được giá.
- Không đâu, - Amy nói. - Đó là con bò của em. Nó được việc lắm.
Stan Parker không tranh cãi, vì anh chưa thấy cần thiết. Điều ấy lúc này không quan trọng.
Do đó vợ anh lại càng thích con bò hơn, đặc biệt lúc này chị sắp có con. Chị dụi trán vào bên sườn mềm mại của con bò nghe tiếng cựa mình đều đều và ngửi thấy hơi bò dịu dịu. Vào những buổi chiều tối như thế không khí lắng dịu trong hơi thở của con bò, tựa như cái lưỡi xanh lè đã phả ra. Con bò già khôn ngoan đứng đợi. Đôi tai bị kéo giật về phía sau, như cảm thấy vui lòng. Đôi mắt nâu tựa hồ ẩn sâu xuống. Trên cái mũi màu đá granit của nó lấm tấm mồ hôi.
Mối quan hệ thanh bình này giữa Amy Parker và con bò vàng lại còn êm ả hơn cả buổi hoàng hôn. Hai tấm thân mềm mại mỗi ngày một to trông hoàn toàn hòa hợp. A, mình sẽ có con gái, Amy Parker thầm nghĩ, và chị vui sướng mỉm cười trước cái bụng đầy thỏa mãn của con bò. Đứa bé ngồi trên phiến gỗ nhẵn nhụi. Nó hồng hào và trắng trẻo như đồ sứ có họa tiết, còn tóc rẽ ngôi giữa, óng ả vào những buổi sáng khi chải bằng bàn chải ướt, hất sang hai bên mái thành những đám tóc xoăn nhỏ vàng óng như những cây keo đang tàn. Ừ, Amy Parker tự nhủ, mình muốn có một đứa con gái. Rồi chị nhớ chồng mình không muốn thế, và chị cúi nhìn thùng sữa.
Đến thời kỳ con bò không còn sữa nữa, nó dưỡng sức trước khi đẻ con thì cũng là lúc người thiếu phụ thấy bồi hồi. Chị thường đi trong những buổi tối giá buốt, từ túp lều đến khung sườn căn nhà mới, và dọc theo bờ ruộng, mặc một chiếc áo khoác cũ mà chị đã đan, có vết mạng ở khuỷu tay trái, xoa hai bàn tay bỗng nhiên khô khốc và mỏng như tờ giấy vì không hoạt động, xương cốt mảnh mai. Rồi việc mang thai cứ trải ra trước mắt chị, kéo dài những ngày nặng nề. Gai của bụi hồng bò lan um tùm, bám vào chiếc áo xanh khi chị đi ngang qua. Một nụ hồng non trông còn trắng và ẻo lả trên cọng.
- Trông em xanh xao quá! - Anh âu yếm nói khi gặp chị trên đường, đôi ủng nặng nề của anh đột nhiên đứng sững lại ngay trước mũi giày nhọn hoắt của chị.
Anh nắm đôi bàn tay lạnh buốt của chị. Từ người anh và cả đôi bàn tay anh nữa - đôi bàn tay vừa đẵn cây xẻ gỗ - toát ra một mùi mùn cưa khiến chị cảm thấy yên tâm.
- Ô anh, - chị cười, nhìn vào mắt anh. - Em chẳng thấy khác gì. Dĩ nhiên anh thì cảm thấy khác. Nhưng em không sao, bình thường thôi. Không xuống được chỗ con bò, em cảm thấy làm sao ấy. Anh xem kìa, nó đang đứng đợi em đấy.
Chị nhìn vào mắt anh, mong anh giúp đỡ mình, nhưng đồng thời cũng biết anh không làm nổi.
Anh cảm thấy ngay cả đôi bàn tay chị cũng có lúc trở nên cách biệt. Thậm chí sự huyền bí của sở hữu lại là một sự huyền bí không thể nào chia sẻ được. Và giờ đây, khi hai người đứng trên đường, gần như khám phá ra bến bờ mờ mịt, đứa con như không phải là của họ, và anh chưa gì đã thấy lúng túng trước những thứ anh không thể nào nói được với đứa bé xa lạ.
- Con bò già đó em không phải lo, - anh nói với vẻ mặt hiền lành.
Chị lom khom bước, cảm thấy mình lúc đó quá gầy gò, khô héo để đáp lại lòng tử tế của anh.
Mình có một người chồng tốt, chị thường tự nhủ vậy, chị không nhận ra được mình có điểm nào chưa xứng đáng với chồng, nhưng những điểm chưa xứng đáng ấy rồi từ từ chị sẽ tìm ra.
- Đúng như anh bảo, chẳng có gì phải lo, - chị nói, - chỉ vì con bò già.
Chị chậm rãi bước tiếp, tự bản thân cẩn thận, và màu xanh đến chói mắt trên cái áo khoác len của chị lóa lên giữa những màu sắc chiều tối của khu vườn, màu rêu, gần như báo trước một điềm gở, còn cái váy chị mặc, khi đi ngang qua làm dậy mùi hương ngào ngạt cây hương thảo và cỏ xạ hương, vẫn còn phảng phất ngay cả lúc chị đã đi xa rồi.
Thỉnh thoảng Amy Parker ngồi bên mép giường, cảm giác về tình yêu và niềm vui sướng về đứa bé sắp có đã trở thành một cảm giác buồn rầu và mất mát không tài nào giải thích được.
Chị tự nhủ liệu nó có trôi qua đi nhanh không: mình chẳng hề biết gì, chẳng hề hiểu những cảm giác của cơ thể hay ý nghĩa của mọi vật. Mình thật sự không thể tin vào Chúa. Rồi chị co rúm người lại khi nghĩ đến người đàn ông mà chị cùng chung sống trong căn nhà, người mà sức mạnh hoàn toàn không thay thế được sự thiếu hiểu biết và yếu đuối của chị, người có ham muốn đến thảm khốc. Chị ngồi nghe tiếng lá cây loạt soạt quệt vào bức tường gỗ.
- Amy ơi, - cuối cùng Stan Parker nói, - con bò già của em vừa sinh con bê cái đẹp lắm.
Đó dường như là điều tối thiểu anh có thể kể lại cho một đứa bé.
- Ồ, thế nó màu gì? - Chị náo nức hỏi.
Dĩ nhiên điều đó khuấy động tâm trạng thư thái của chị. Thế là mọi việc đã đâu vào đấy. Chị đứng phắt dậy, định đi ngay đến chỗ con bò.
- Loại bò vá. Mà khỏe lắm em ạ, - anh nói.
Đúng là có con bê đốm nằm cuộn tròn trong bụi dương xỉ, con bò mẹ phổng mũi đứng, xem ra có vẻ ngạc nhiên, tuy đây là con bê thứ bảy nó đẻ ra. Người thiếu phụ bắt đầu lên tiếng cưng nựng. Chị muốn vuốt ve con vật quý giá đó. Con bê đứng dậy, chỉ thấy toàn cẳng chân và sợi dây rốn. Nó đứng sáng rực, đung đưa, rồi liếm liếm trong bụi dương xỉ lá cuộn tròn.
- Kúp… kúp.. kuuúp! - Chị gọi. - Bê con yêu quá, anh Stan ơi! Bê con yêu ơi!
Con bò mẹ khịt khịt mũi và ngoe nguẩy đầu, nhưng không có cảm giác, cứ như nó đứng chực sẵn đợi người đến dắt đi. Hai bên sườn bụng hóp sâu hoắm. Nó còn bê bết máu.
- Julia tội nghiệp, - Amy Parker nói. - Chúng ta sẽ gọi nó là Jewel, anh Stan nhé? Jewel! Con bê của Julia!
Chị cười trong buổi sáng rực rỡ. Thế là xong. Chị lại là một cô gái, đứng trong căn nhà ở Yuruga, dang đôi cánh tay gầy guộc đón cuộc sống kỳ diệu.
Suốt sáng hôm đó, chị lăng xăng ngắm nghía, vuốt ve nó, ở bên con bê mới vừa đẻ. Chị cứ thì thầm tạo ra một niềm âu yếm mới mẻ để bày tỏ nỗi khuây khỏa của mình, cho đến khi nó tràn ngập trong lòng chị, những cây đứng đó, ngay cả con bò cùng con bê vụng dại đã giải thoát cho chị. Chị như hòa nhập vào bầu không khí yên bình. Bản thân chị là buổi sáng trời xanh trong đó sự việc trên đã xảy ra.
Đến cuối ngày, khi những hình dáng của sự vật đã rõ nét hơn và chị lại trở về với thực tại cuộc sống, chồng chị đột nhiên bước vào lấy nước nóng ở cái siêu.
- Có chuyện gì thế? - Chị hỏi.
Anh trả lời rằng con bò có chuyện.
- Nhưng nó có sao đâu, - chị nói, gần như tức giận, để giữ cho tâm hồn mình thanh thản.
- Đúng thế, - anh vừa nói, vẻ bực tức, vừa rót nước vào cái chậu sắt cũ. - Nhưng bây giờ nó bị ốm rồi. Hình như bị sốt tấy sữa, - anh nói.
Con bò đúng là bị quỵ trong bụi dương xỉ, nhưng yên lặng, kín đáo, đôi vai mềm mại của nó nhô ra khỏi bụi cây trông như bức tượng.
- Sao anh biết? - Chị hỏi.
- Mắt nó đỏ ngầu, - anh nói. - Nom nó lờ đờ. Nó không đứng dậy. Đây, em xem này, - anh nói, rồi đá vào mông và xoắn đuôi nó, cứ như nó đã biến thành một đồ vật. Song nó vẫn không đứng dậy.
- Thế còn con bê? - Chị hỏi.
- Chúng ta phải chữa cho con bò này. Cứ rối tinh lên. - Anh nói. - Lẽ ra phải bán nó đi rồi. Đấy, nuôi bò già khổ thế đấy.
- Lỗi tại em cả, - người vợ nói.
- Anh không đổ lỗi cho em, - anh nói, vắt nước sôi từ một mảnh giẻ.
- Không phải anh đang trách em thì là gì nữa? - Chị nói, bản thân cảm thấy buồn chán, vô tích sự.
Chị nhìn anh cầm miếng vải nóng áp vào bầu vú con bò, con bò cựa mình và rên rỉ, hơi thở nóng rực.
Chị nhìn anh. Chị thấy hình như anh không giận mình. Anh đang chăm chú vào công việc. Anh dồn hết tâm trí vào hai bàn tay nên không còn để ý đến chị. Hai bàn tay đó đã quên rằng chúng từng vuốt ve âu yếm chị. Chị trở nên vô ích và lẻ loi, đứng đó, rồi bắt đầu thấy lo lắng về đứa con.
- Chúng ta phải cho bê ăn anh Stan ạ, - chị nói giọng bình tĩnh lại. - Em lại đằng nhà O’Dowd. Họ bảo em họ có nuôi bò. Chắc vậy họ sẽ có sữa.
- Được, - anh nói cứ như mọi việc là thứ yếu, cứ như toàn bộ con người anh đang dồn mọi sinh lực truyền vào người con bò ốm.
Chị ngoảnh đi không nhìn vào bàn tay mà chị không có quyền sở hữu, chị bám vào mục đích mới của mình. Chị đi đóng xe ngựa.
Trong khi chị lao về nhà O’Dowd, ngồi đằng sau con ngựa nhỏ leng keng tiếng nhạc, nỗi tủi thân của chị rơi rụng. Miệng chị đắng ngắt, nhưng gió lạnh cắt da cắt thịt trên đôi má đanh lại của chị. Chị đánh xe rất quả quyết. Cây cối trải ra trước mặt như không có đường, và chị đang mở đường. Một thoáng sau đã nhìn thấy xương con ngựa chết đúng như chị hàng xóm nói, và một căn nhà thấp thoáng qua hàng cây bụi.
Thế là Amy Parker đã đến được nhà O’Dowd.
- Đúng rồi, tôi tin chắc thể nào cũng là chị Parker đến mà, - chị hàng xóm nói khi đứng trên bậc cửa quan sát mọi thứ nhưng chẳng thấy gì cả, như thể chị ta phải làm điều gì đó mà chỉ nghĩ tới là đã không chịu nổi.
Nhà O’Dowd như được xây do một loạt ngẫu hứng. Ngoài căn buồng đầu tiên, tất cả đều chứng tỏ cách sinh hoạt rối rắm, những nơi hình thù giống căn buồng, hoặc những chỗ nhô lên bằng ván gỗ, tấm sắt, hay cả vỏ cây. Không có gì hài hòa, trừ cái sắc nâu hoen rỉ như vỏ cây, song cái đó được bố trí trong khung cảnh này cũng tạm ổn, dưới và giữa các lùm cây. Quanh đó, những con gà mái đứng rỉa lông trên một lớp bùn đọng cứng lại. Con lợn nái đỏ hung tò mò chạy lại xem có ai đến, những núm vú của nó đập vào hai bên sườn cứng như da thuộc, đàn lợn con kêu eng éc bên những cây bắp cải. Mấy con bò đứng nhìn chăm chú đám cỏ mới nhú ở chỗ bùn. Có cả mùi vịt.
- Đúng là chị Parker rồi, - chị hàng xóm nói, rồi chạy xuống, hay đúng hơn cái bậc thềm mà chị ta đang đứng đã đẩy chị ta xuống sân.
- Vâng, tôi đây, - Amy Parker nói.
Cái hăm hở đưa chị đến đây đã biến mất, và chị trở lại buồn bã trong cái sân đó.
- Tôi đến mong chị giúp đỡ đây, - chị nói. - Chúng tôi đang gặp rắc rối, chị O’Dowd ạ.
- Chuyện gì thế chị? - Người đàn bà béo lùn hỏi, vẻ sốt sắng.
Hôm nay chị không ăn bận như ngày lễ hội. Đúng là có mấy chỗ, chị lấy kim băng ghim lại gọn gàng, nhưng bộ ngực của chị ta nhấp nhô không kém phần thân thiện, còn máu thì đang dồn lên đôi má nhẵn nhụi.
- Sáng nay một con bò nhà tôi đẻ, - Amy Parker nói. - Đẻ một con bê cái.
- Chị may mắn quá! Những con bê đẹp làm sao!
- Nhưng con mẹ bị quỵ vì sốt tấy sữa. Nó già rồi mà, - chị nói.
Chị hàng xóm chép miệng.
- Con bò già nào cũng khốn khổ thế cả. Thật đáng thương. Chúng vậy cả đấy chị ạ.
- Nhưng chúng tôi phải nuôi con bê con, chị O’Dowd.
- Đúng là thế rồi.
Chị ta tỏ ra băn khoăn.
- Này! - Chị ta gọi to. - Anh ở đâu đấy? Có một chị khách đến thăm này. Nào anh ra đây một chút nào, vì Chúa, để người ta còn biết tôi có chồng. Ồ, đám đàn ông các anh, lúc nào cũng ra vẻ, thế mà gà qué chẳng chịu cho ăn uống gì cả. Nhưng chị ạ, nếu chị cần sữa, thì chúng tôi có nhiều lắm. Chúng tôi đang tranh thủ vắt hai con bò to, con bò cái tơ khốn kiếp lại sắp đẻ. Được thôi, chị Parker ạ, anh ấy có nói gì cũng mặc, tôi quyết định tất.
- Làm gì mà cô oai oái lên thế? Tìm đôi ủng rồi tôi lại ngay mà! - Người chồng thét to. Và quả anh ta đến ngay.
- Anh ấy đấy, - người vợ nói.
Chị ta ngoảnh đầu về phía cửa sau. Bộ tóc đen của chị đang buông thả, lần này chị lại không vấn tóc.
Anh O’Dowd là một người to bè. Anh ta có hai lỗ mũi đen ngòm, ta có thể nhìn ngược lên được. Người anh ta lông lá và tiếng cười nghe sảng khoái.
- Có chuyện rắc rối với con bò hả? Lại sốt tấy sữa, - O’Dowd nói.
- Không cần phải nhắc lại đâu, - vợ anh ta nói.
Mọi người kinh ngạc, còn chị ta thản nhiên như không.
- Dầu hỏa, - người chồng nói, - không có gì chữa sốt tấy sữa hay bằng dầu hỏa, bất kì bệnh gì khác cũng vậy.
Hơi thở của anh ta là bằng chứng.
- Anh ấy chuyên chữa bằng dầu hỏa, - người vợ nói. - Anh ấy rót dầu hỏa vào bất kỳ con vật nào bị ốm. Cứ ngửi thấy mùi là tôi thấy đến chết khiếp.
- Không gì bằng dầu hỏa đâu, - người chồng nói. - Chị cứ lấy một chai bia, dốc hết bia ra, đổ đầy dầu hỏa vào, đến ngấn tay tôi đây này, không hơn không kém, vào khoảng hai phần ba chai, thêm nữa là nguy như nhà anh Paddy Connor quá vội vàng, và con bê nhỏ Jersey xinh đẹp của anh ta quằn quại trong bụi cát, nhưng chị nhớ là phải đổ dầu đầy đến vậy nhé, rồi ấn chai vào miệng con vật một cách từ từ cho đến khi hết, dĩ nhiên là con bò nó phản đối đấy, mà lúc ấy thì ghê gớm lắm, song cơn sốt sẽ qua, chị sẽ thấy, nhanh như một buổi sáng Chủ nhật.
- Nhưng chị ấy không cần dầu hỏa đâu, - người vợ nói lưu ý chồng, - mỗi người có một kiểu chữa riêng. Chị ấy cần sữa thôi.
- Nếu không phải dùng dầu hỏa, - người chồng nói, - ít nhất chị ấy cũng biết được một cách chữa không phải tốn tiền.
- Sữa cũng vậy. Một ít cho chú bê con mới đẻ.
- Ồ, sữa không phải trả tiền.
- Vậy anh huyên thuyên gì đến hàng nửa giờ thế?
- Đàn ông phải có ý kiến chứ, - người chồng nói.
Đứng giữa cái sân ngổn ngang, Amy Parker cảm thấy đầu gối đứng không vững, nhưng nhìn đàn vịt đang rúc mỏ vào vũng nước bùn, lòng chị thấy xốn xang. Thậm chí cả những cái chai nằm trơ ra đó lúc này xem ra cũng có cái lý của chúng, vì bản thân O’Dowd ném chúng ra ngoài cửa sổ, còn hơn là vứt chúng trong nhà.
- Chị có xô không? - Anh ta hỏi.
Anh ta xách xô và đi ngang qua sân, lòng phấn khởi vì việc làm hào phóng của mình.
- Chị O’Dowd… - Amy Parker cất tiếng.
- Cảnh ngộ chị hôm nay có thể sẽ là của chúng tôi ngày mai, - người bạn hàng xóm nói. - Chậc! Chậc! - Chị ta tặc lưỡi, rút bàn tay nhờn mỡ.
- Chị đừng bận tâm. Có con dê đẻ vào tối hôm thứ Năm, bố là con hoẵng, phải nện vào đầu con vật tội nghiệp. Nhưng chị Parker ạ, chúng tôi để chị lấy con mẹ, nó sẽ cung cấp sữa cho chị, chị sẽ thấy hạnh phúc. Nhà nó ơi, - chị ta gọi to, - chị Parker mượn một con dê cái nhé! Bà chị thân mến ạ, không nhờ có những con dê tốt lòng thì ối trẻ con sẽ héo hon gầy mòn. Và cả con bê bé bỏng đáng yêu…
Đôi lúc những hành động tử tế giáng mạnh như một cú đòn. Song Amy Parker hy vọng chị có thể chịu đựng được.
- Chị có con cái gì chưa? - Chị O’Dowd hỏi.
Bầu trời nãy giờ cứ nhạt dần. Giờ đây đã hoàn toàn trắng.
- Không có, - người thiếu phụ da trắng nói, sự trần trụi của chị chỉ để dành cho chồng mình. - Không có, - chị nói. - Tôi không có con.
- Ồ, chắc chưa có thôi, - chị O’dowd nói.
Rồi chị ta khẽ ngâm nga một điệu hát đã ăn sâu vào đầu óc và rung lên kì lạ qua hàm răng.
- Chúng tôi chẳng được trời phú cho, - chị ta nói, - mặc dù không phải không cố gắng.
Sau đó người chồng dẫn con dê đến.
Chị Amy Parker đón lấy con dê đang vùng vẫy về, và liền cho con bê mới đẻ ăn, nó liền mút trùn trụt ngay những ngón tay chị nhúng trong xô. Cái lợi vụng về không sao ăn được nhiều. Trong lúc chị cảm thấy con bê của mình đã khỏe khoắn và vui vẻ, chị cứ muốn quên con bò ốm yếu đang nằm co ro trong đám dương xỉ hai ngày đêm nay rồi, lúc này thật sự là một bức tượng bằng đồng bệnh tật.
- Nhưng nó cũng không tệ đi, - người vợ nói, cố giải thích sự thờ ơ vừa qua của mình. - Chị thật sự mang lòng yêu mến con bò.
- Nó cũng chẳng khá hơn, - Stan Parker nói.
Người chồng vẫn chăm sóc con bò ở khoảng đất bị giày xéo do đứng ngồi quá nhiều. Anh cắm những ống lông vũ vào đầu vú con bò để hút sữa ra rồi mang những bát nước sôi đến với ý định dùng khăn nóng đắp vào vú bò, hy vọng sẽ làm cho nó tỉnh dậy, thoát khỏi trạng thái mê mệt. Nhưng ý chí của anh không đủ mạnh. Và lúc ngồi một mình, nhìn chăm chăm vào cặp mắt hiền lành, đang mở trừng trừng của con bò, anh liền đá vào mông nó.
- Đứng dậy! - Anh kêu lên và dùng hết sức bình sinh đá nó. - Nào, dậy đi! Đứng dậy đi!
Anh mệt lả.
Amy Parker lúc đó đã đến chỗ lùm cây, chị không còn hiểu chồng mình nữa. Giọng anh nghe thất thường, cộc cằn.
- Để nó yên một chút, anh, - chị bảo, giày chị vấp phải một hòn đất, như đây là phương diện sống kỳ lạ mà chị vừa mới nhận thấy.
- Em sẽ ở lại bên nó một tí. Trà đã pha rồi đấy. Anh đi nằm đi, anh Stan, sau đó chúng ta sẽ ăn một chút nhé.
Anh nghe lời chị, bỏ đi.
Chị chẳng còn nhớ là trước đây mình đã có quyền lực như vậy không.
Nếu có thì bên cái hố ẩm ướt với con bò ốm yếu, nó làm chị buồn, thấy chồng mình quy phục trước quyền lực của chị. Vì chị là người nhẽ ra lúc này phải khỏe thì lại yếu. Bóng tối tràn đến và những bụi mâm xôi đã thúc ép linh hồn mỏng manh của chị vào cảnh tù túng hơn nữa, còn đứa con trong bụng phản đối, có lẽ nó dự cảm nỗi tuyệt vọng trong tương lai đã nằm sẵn giữa cảnh giam hãm của xương cốt chị.
- Tội nghiệp Julia, - nói rồi, chị tiến lại gần con bò, để tay lên cái cổ không có phản ứng nào của nó.
Giờ đây xem ra chẳng còn thứ gì chị có thể hồi sinh được nữa. Mọi giây phút sung sướng hay cảm thức mà chị đã từng sống qua rất có thể chưa được thể nghiệm. Hiện tại chị chẳng còn gì nữa.
Chị bỏ con bò đấy. Chị bước qua những hàng cây mọc trên mảnh đất đã thuộc về họ. Mặt trăng mờ mờ hiện lên, nhợt nhạt và bàng bạc giữa cành lá đung đưa. Cùng một lúc trong lòng chị trào dâng một cảm giác xốn xang về gió thoảng cành đưa, mây trôi trăng tãi. Chị cảm thấy trời có lẽ sẽ mưa trong cảnh đời ảm đạm và vô vị chị đã bước vào. Trong đó túp lều nhà chị với cánh cửa sổ đón ánh sáng tràn đầy hy vọng một cách vô lý. Chị nhìn qua cánh cửa sổ của túp lều do bàn tay con người dựng lên này, nhìn người chồng đang nằm ngủ trên giường. Những chiếc nồi đặt trên bếp. Súp khoai tây trào bọt ra khỏi miệng cái xoong đen. Chị nhìn cái thân thể khỏe mạnh của một người đàn ông yếu ớt. Đôi dép của chị nằm ngay ngắn dưới ghế. Chị nhận ra với vẻ khách quan buồn chán, miệng trễ ra, đau đớn rằng mình đang nhìn vào cuộc sống của bản thân.
Đập vào cánh cửa sổ để phá tan giấc mơ này thì quá là đơn giản. Để nói: Anh Stan, nhìn em này.
Nhưng điều đó dường như không thể được.
Vậy là chị buộc phải từ ngôi nhà xót xa đáng thương bước trở vào thế giới cây cối và mây, mà dù muốn hay không cũng là thế giới của chị. Đôi bàn chân chị lướt nhanh trong bụi dương xỉ. Và đứa con mà mình sắp có đây nữa, chị tự nhủ. Mà thân thể chị đang hình thành một cách miễn cưỡng. Ngay cả đứa con chưa ra đời đó là con trai hay con gái cũng do người khác quyết định. Chị hoàn toàn bất lực. Chị bước đi, váy cọ vào lớp vỏ cây xù xì. Mọi thứ chị chạm vào đều trôi tuột khỏi tay chị gần như ngay lập tức, và chị đành cam chịu.
Rồi chị thấy điều đó xảy đến với con bò trong lúc chị đi vắng, thấy cái mà ít nhất chị hy vọng chị không có phận sự khám phá.
Con bò đang nằm bên cạnh chị. Nó nằm sõng soài, trông đen ngòm dưới ánh trăng. Đôi cẳng chân duỗi thẳng. Nó cứng đơ như một cái bàn. Chị lấy chân thúc vào con bò. Con Julia của vợ chồng chị đã chết.
Giờ đây chỉ còn một mình chị với ánh trăng.
Chị bỏ chạy, cuốn theo hơi thở nóng hổi của chính chị. Lá ướt vẩy vào bộ mặt cẩm thạch của chị, hoặc biến thành roi, rạch sâu thêm. Chị phải quay về nhà để báo cho chồng, phải để con bò chết đấy mà chạy thục mạng hết mức cổ chân chị và cành lá cho phép. Chị chạy dưới ánh trăng bàng bạc. Bóng tối dữ tợn níu lấy tóc chị. Chị không sao chạy nhanh nổi qua những hàng cây gây đau đớn cho chị để về đến căn nhà tràn đầy ánh sáng mà chị tưởng tượng ra trong óc. Chạy. Nhưng chị càng bỏ xa con bò nằm chết thì càng đến gần những cái mà chị chưa trải qua. Da thịt chị ớn lạnh khi chạy qua những tấm lưới bủa vây lấy chị không còn nghĩ gì hơn là cố thoát ngay khỏi nỗi sợ hãi của chính mình.
Cứ như vậy, dù chưa về đến tận nhà, Amy Parker đã ngã vào cái bóng mà ban ngày là đống đá vụn, mọi vấn đề thoáng chốc vượt ngoài sự kiểm soát của chị.
Giờ đây còn có mặt trăng.
Khi tỉnh lại, chị thấy vạn vật nằm gọn trong vòng ôm của ánh trăng tàn nhẫn. Mình đang bỏ chạy, mà mình chạy quá nhanh, người thiếu phụ thốt ra qua hai hàm răng, vết đau nhức nhối. Chị khóc rưng rức, buồn cho con bò, buồn vì ánh trăng tỏa trắng, buồn vì tấm thân mềm mại, mệt lả mà chị không điều khiển được. Thật vậy, chẳng có gì chị điều khiển được, khi chị lại ngã bổ nhào trên đám dương xỉ ướt.
Về đến nhà, chị thấy chồng đang nằm sóng sượt. Anh tỉnh giấc khi ngửi thấy mùi khoai tây đã cháy khét gần như không còn gì, nên anh dậy bỏ chúng ra khỏi bếp. Anh vẫn còn ngái ngủ. Ý thức trách nhiệm chưa xung đột với bản chất lương thiện của anh, nên nếu chị muốn, chắc hẳn chị đã có thể đến bên anh. Nhưng chị không muốn nhìn anh lúc này.
- Sao, anh để khoai tây cháy à? - Chị hỏi như muốn làm to chuyện.
Nhưng anh nhìn vào vai chị và bảo:
- Sao thế, Amy? Có phải chuyện con bò không?
Qua cánh cửa chị để ngỏ, ánh trăng đầy huyền bí tràn khắp không gian.
- Con bò chết rồi, - chị nói, hai môi run run, nên chị mím chặt môi mỗi khi nỗi đau đớn trở lại.
Chị không chịu nổi cảnh anh đứng đó. Thân thể chị như trôi tuột khỏi chị, và cả niềm yêu thương trìu mến đang dâng trào mà chị đã có thể đã ban phát nếu được phép.
- Thôi được, - anh nói, nhìn xuống nền đất. - Vậy… là, thật bậy quá. Nhưng em đừng nên hốt hoảng, Amy. Còn có con bê cái cơ mà. Mà con bò đó cũng già rồi, và không tốt lắm; đầu vú nó không bình thường và còn bao nhiêu bệnh tật nữa.
Ngồi trên mép giường đã nghiêng một bên, anh trầm tư suy đi nghĩ lại, còn chị trông già hẳn đi, nhìn vào đỉnh đầu anh, chỗ xoáy đầu nhỏ lộ rõ giữa đám tóc.
Lúc ấy anh ngẩng lên và chị thấy mình biết kỹ mặt anh quá.
- Còn gì nữa không? - Anh lưỡng lự hỏi, giọng đờ đẫn.
Chị ngồi xuống góc giường gồ ghề ở chỗ xa xa để anh không chạm đến người chị.
- Em muốn anh đi gọi chị O’Dowd, anh Stan. - Giọng chị run lên. Để mặc em, anh ạ, - Chị nói. - Em cho rằng chúng mình sẽ không có con mất. Nhưng anh hãy đi tìm chị O’Dowd về đây. Có lẽ chị ấy sẽ biết cần phải làm gì.
Nỗi khổ không thể chia sẻ đó cũng là của anh. Anh không thể nói với ai, anh chỉ có thể thắt chặt cái đai lạnh lẽo vào con ngựa, bóng anh trải dài trong đêm sáng trăng.