Số lần đọc/download: 378 / 33
Cập nhật: 2020-07-09 16:12:07 +0700
Chương 6
S
tevens đi ngược đại lộ King, đến dãy rào song sắt của Despard Park. Trời không trăng nhưng đầy sao. Như thường lệ, cổng rào mà mỗi trụ cổng đều chống đỡ một khối đá tròn ở bên trên - vẫn rộng mở. Stevens đóng cổng lại và cài then. Lối đi tưởng dài hơn lên với những khúc quanh co men theo sườn đồi. Ngôi nhà, trệt và dài, tựa như một chữ T, với hai chái ngắn hướng về phía đường. Ngoài vẻ cổ kính, ngôi nhà chẳng có một đặc điểm nào. Những cánh cửa sổ thì nhỏ và dài sát đất, theo lối kiến trúc Pháp vào cuối thế kỷ XVII. Một ai đó, vào thế kỷ XIX, đã xây thêm một cánh cổng vòm cung, nhưng xem ra thì cũng hợp với toàn bộ ngôi nhà. Có ánh đèn dưới cổng vòm và Stevens nhấc cây búa gõ cửa lên.
Ngoài thứ ánh sáng duy nhất đó, ngôi nhà hoàn toàn chìm trong bóng tối. Vài phút sau, Mark ra mở cửa và hướng dẫn chàng qua một hành lang nực mùi sách cũ và sáp đánh bóng, để đến một căn bếp rộng mênh mông. Partington, có vẻ to lớn hơn trong bộ đồ của Mark, đang hút thuốc lá cạnh bếp sưởi. Dưới chân ông là một cái túi màu đen và một chiếc hộp lớn bằng da. Dựng cạnh bàn là những cây búa lớn của thợ rừng, xẻng, cuốc chim, đòn bẩy và hai cây xà beng bằng thép dài khoảng hai thước mà Henderson đang nhấc lên vai. Lão là một người nhỏ con, lớn tuổi, nhưng cuồn cuộn bắp thịt. Lão mặc một bộ đồ bằng vải nhung cổ viền. Lão có cái mũi lớn, đôi mắt xanh và một vầng trán hói chỉ còn lơ thơ vài cụm tóc bạc. Một bầu không khí của những mưu đồ đang trĩu nặng trên căn bếp và giữa những người này, Henderson là người lộ vẻ bồn chồn nhất. Khi Mark và Stevens bước vào, lão ta giãy nảy người.
Mark giao cho Stevens công việc đổ dầu vào hai cây đèn bão.
- Với búa xẻng như thế này thì chúng ta có làm ồn ào lắm không.? chàng lo ngại hỏi.
Henderson gãi gãi đầu rồi nói nhỏ:
- Này ông Mark, ông chớ nên nóng nảy. Chắc chắn là tôi không thích cái chuyện này, cũng như hẳn bố ông cũng không thích như thế, nhưng chỉ vì ông yêu cầu nên chúng tôi phải làm thôi. Về mấy cái búa, tôi không nghĩ rằng ở ngoài đường người ta có thể nghe thấy, nhưng điều tôi lo ngại là chị ông, vợ ông hoặc vợ tôi hay cũng có thể là Ogden, sẽ đến đây. Như chúng ta điều biết, cậu Ogden là người rất tò mò và nếu lỡ cậu ta trông thấy...
Mark cắt ngang:
- Ogden đã đi New York. Về những người khác thì tất cả đã đến chơi ở nhà người quen và chỉ về đây vào tuần tới. Quí vị đã sẵn sàng chưa?
Vác đồ nghề lên vai, họ cùng đi ra cửa sau. Mark và Henderson xách đèn lên trước. Họ đi ngang ngôi nhà nhỏ và đến cách nhà nguyện khoảng vài thước, Mark và Henderson đặt đèn bão xuống đất.
Công việc kéo dài trong hai tiếng đồng hồ. Vào mười hai giờ kém mười lăm, Stevens ngồi xuống trên cỏ ướt, thở hổn hển. Toàn thân chàng ướt đẫm mồ hôi và tim đập mạnh. Cuối cùng, phiến đã lớn đã được lật nghiêng, tựa như một cái nắp rương mà ở bên trong là những bực thang bằng đá.
- Xong cả rồi chứ? Partington nhanh nhẩu hỏi, mặc dầu ông ta cũng muốn đứt hơi và nhễ nhại mồ hôi. - Nếu xong xuôi, tôi phải về nhà tắm rửa để bắt tay vào công việc của tôi.
- Và để cạn một cốc! Mark thì thầm khi nhìn ông ta bỏ đi. Dẫu sao, tôi cũng chẳng trách ông ấy về chuyện đó.
Anh ta cầm lấy cây đèn, quay sang Henderson:
- Bác xuống trước nhé, Henderson? Anh ta hỏi, cười nhếch mép.
- Không đâu, lão the thé nói, cậu biết rồi đấy! Tôi chưa hề bước xuống hầm mộ, ngay cả khi chôn cất cha, mẹ cậu và ông bác đây. Và bây giờ tôi cũng chẳng xuống đâu, nếu cậu không cần đến tôi để mở nắp quan tài...
- Bác chớ có rầy rà. Nếu bác không muốn xuống thì chúng tôi làm vậy, bởi vì đây là một quan tài bằng gỗ và hai người có thể dời đi dễ dàng.
- Ồ! nhưng mà tôi xuống chứ! ông ta nói với một giọng tức tối tuy vẫn còn âm hưởng của sự sợ hãi. Với những chuyện thuốc độc của cậu thì nếu cha cậu còn sống ở trên cõi trần này, ông sẽ ném thuốc độc vào mặt cậu! ồ! tôi biết tôi chỉ là một lão bộc và các cậu cóc cần nghe những điều tôi nói... (Lão thấp giọng.) Thật tình, cậu có chắc rằng không ai rình rập quanh ta? Tôi có cảm tưởng mình bị theo dõi kể từ khi đến nơi này...
Lão ngoái cổ trông lui. Stevens đứng dậy và đến bên huyệt, cạnh họ, trong khi Mark đưa cao cây đèn bão. Gió lay động hàng cây du, nhưng chỉ có thế thôi. Mark đột ngột nói:
- Nào, chúng ta xuống đi. Part sẽ theo sau. Hãy bỏ đèn bão ở lại đây, dưới đó ngột hơi lắm và tốt hơn, chúng ta xài đèn bấm.
Họ bước xuống những bậc thang đến một vòm cung, nơi có một cánh cửa rêu xanh dẫn vào hầm mộ.
Bên trong không khí thật nặng nề và ngột ngạt. Ánh đèn pin của Mark di chuyển trong căn hầm. Mười ngày trước đây, người ta đã mở cửa căn hầm này và vì thế, mùi hoa bây giờ vẫn còn phảng phất.
Ánh đèn soi sáng một phần mộ thuôn thuôn được che chở bằng những khối đá tảng, ở chính giữa là một thạch trụ hình bát giác chống đỡ vòm cung. Trong bức tường dài đối diện với ngõ vào và nơi cánh tường ngắn hơn ở cánh phải, có làm sẵn những hộc, lớn hơn kích thước của những chiếc quan tài bình thường phía hàng trên nơi chứa quan tài của các tổ phụ, hầu hết các hộc đều có chạm nổi những phù điêu và những hàng chữ La Tinh. Nhưng ở phía dưới thì giản dị hơn. Một vài hàng đã kín bít, số còn lại hầu hết còn trống và mỗi hàng như thế có thể chứa đến tám quan tài.
Về phía trái, ánh đèn soi tỏ một phiến đá cẩm thạch được gắn trên tường, khắc tên những người quá cố, phía bên trên là một thiên thần cẩm thạch gục mặt. Ở hai bên phiến đá cẩm thạch là các bình hoa bằng cẩm thạch với những cánh hoa tàn ở bên trong và một số tơi tả ở dưới đất. Stevens ghi nhận tên người đầu tiên là Paul Desprez, 1650 - 1706. Cái tên đã biến cải thành Despard vào giữa thế kỷ XVIII và người ta có thể nghĩ rằng dòng họ này đã đứng về phe Anh quốc trong cuộc chiến chống người Pháp và Da Đỏ, vì thế họ đã Anh hóa cái tên của họ. Hang sau cùng là Miles Bannister Despard 1873-1929.
Ánh đèn tìm kiếm quan tài của Miles Despard. Quan tài được đặt đối diện với cổng vào, trong hàng phía dưới. Ngăn hộc phía trái hoàn toàn bít kín và ở bên tay phải, còn vài hộc trống. Người ta có thể nhận ra ngay, chẳng phải chỉ vì cái mới mẻ và bóng lưỡng, trong khi những hộc khác thì đầy bụi và hoen rỉ, mà còn vì trong dãy này, chỉ có duy nhất cái quan tài này là bằng gỗ.
Ba người đứng lặng im một lúc, rồi Mark trao cây đèn cho Henderson.
- Bác rọi đi, Mark nói. Giọng nói của anh vang vang khiến anh giật mình. Lại đây Ted. Anh và tôi, mỗi người một bên.
Khi đến gần quan tài, họ nghe có tiếng chân đang bước xuống bậc thang. Cả ba đều quay lại: Partington, vai đeo túi và ôm trên tay chiếc hộp da, ở bên trên có hai cái lọ rộng miệng. Vững tin, Stevens và Mark nắm lấy quan tài và nhấc lên...
- Sao nhẹ thế này, Stevens ngạc nhiên nói.
Mark lặng im, nhưng có vẻ bối rối hơn bao giờ hết. Quan tài làm bằng gỗ sồi bóng nhẵn, không lớn lắm. Bên trên có một tấm biển bằng bạc ghi ngày tháng sinh và từ trần. Họ đặt quan tài xuống đất.
- Sao nhẹ thế này! Stevens không ngăn được phải nhắc lại. Khỏi cần đồ vặn đinh ốc, hai chốt cài đây rồi.
Mark và Stevens tháo chốt và giở nắp...
Quan tài trống trơn.
Với vải lót bằng sa tanh trắng lấp lánh dưới ánh đèn đang run rẩy trong bàn tay của lão Henderson. Quan tài thật sự trống trơn.
Chẳng ai nói gì, chỉ có tỉếng thở đứt hơi của mỗi ngườỉ.
- Chúng ta đã lầm quan tài chăng.? Mark ú ớ.
Rồi cả hai đồng loạt đóng nắp ván lại để đọc hàng tên trên tấm biển. Chẳng nghi ngờ gì nữa.
- Lạy thánh mẫu! Herderson thốt lên trong khi bàn tay của ông lại càng run rẩy hơn, đến nỗi Mark phải cầm lấy cây đèn. Chính mắt tôi thấy người ta đã liệm ông! Hãy xem, đây là dấu va chạm khi động quan. Dẫu sao, nơi đây cũng chẳng có một quan tài bằng gỗ nào khác! Ông dứt lời và chỉ tay về phía những ngăn hộc.
- Đúng rồi, Mark nói, không còn nghi ngờ gì nữa, đây là quan tài của bác Miles. Nhưng xác ông ấy đâu rồi?
Họ bối rối đảo mắt nhìn quanh. Chỉ Partington là bình thản, nhưng không ai có thể hiểu là ông ta đang suy tính hay do tác dụng của rượu uýtki. Ông tỏ vẻ hơi nôn nóng:
- Này, đừng có rối óc vô ích! Nếu cái xác đã biến mất thì như thế chỉ có nghĩa là ai đó đã đến đây trước chúng ta và đã mang xác đi... Vì một lý do nào đó.
- Sao lại như thế? Henderson hỏi với giọng phẫn nộ và Partington quay nhìn lão.
- Vâng, làm sao người ta có thể vào được đây rồi trở ra, lão lặp lại, đưa tay áo lên chùi trán. Thưa bác sĩ Partington, đó là điều tôi muốn biết, ông hãy nghĩ xem, để mở hầm mộ này, bốn người chúng ta phải làm việc cật lực. Ông có tin rằng có ai đó đã làm được chuyện này, trong khi vợ chồng tôi ngủ cách đây hai mươi thước, cửa sổ đã mở, và ai đó, hơn thế nữa, còn thu dọn tươm tất và tô lại xi măng giữa những phiến đá? Tôi có thể nói với ông rằng không ai khác ngoài tôi, là kẻ đã sắp xếp lại những phiến đá này cách đây một tuần và tôi sẵn sàng thề trước Thượng Đế rằng từ đó đến nay, chẳng ai động đến nơi này!
Không hề tức giận, Partington nhìn lão.
- Tôi không nghi ngờ lời bác, nhưng bác chớ có nóng nảy như thế. Nếu những tên trộm xác không đi qua lối này, thì tất nhiên chúng đã sử dụng một ngõ khác.
- Tường, trần và nền, tất cả đều được xây bằng đá cứng, Mark từ tốn nói. Nếu anh nghĩ rằng có một ngõ ngách bí mật nào đó thì chúng ta sẽ tìm kiếm, nhưng trước sau tôi vẫn tin chắc là không có.
- Anh cho phép tôi hỏi nhé, Partington nói, anh nghĩ sao về chuyện xảy ra nơi đây? Bộ anh tưởng rằng ông bác bật khỏi quan tài và đích thân ra khỏi hầm mộ?
- Hay cũng có thể là, Henderson e dè gợi ý, người nào đó đã đặt xác ông vào một quan tài khác?
- Theo tôi nghĩ, chuyện đó khó xảy ra, Partington nói. Bởi trong trường hợp này, vấn đề cũng chỉ là thế thôi. Làm thế nào người ta có thể xâm nhập vào đây rồi trở ra?
Vị bác sĩ suy nghĩ một lúc rồi nói tiếp:
- Tất nhiên, trừ phi cái xác đã bị đánh cắp trong khoảng thời gian đặt ở đây cho đến khi hầm mộ được niêm lại.
- Giả thuyết này coi như hủy bỏ, Mark lắc đầu nói. Lễ cầu hồn đã diễn ra tại đây, với sự hiện diện của đông đủ mọi người. Sau đó, chúng tôi trở lên...
- Vậy ai là người cuối cùng ra khỏi hầm mộ?
- Chính tôi, Mark nói với vẻ chua chát. Tôi đã thổi đèn và mang theo những giá nến, nhưng việc đó chỉ kéo dài hơn một phút và lúc đó thì mục sư khả kính của nhà thờ ST Pierre đang chờ tôi ở bực thang, không lý nào mà tôi phạm tội được!
- Chẳng phải chuyện đó. Nhưng sau khi anh đã đi ra?
- Sau khi chúng tôi trở ra, Henderson và toán thợ đã niêm cửa lại ngay. Hẳn nhiên, anh có thể nói là họ thông đồng với nhau, nhưng còn có nhiều người ở lại đây để xem họ làm việc...
- Thôi, chúng ta không thể nói đến nữa! Partington nhún vai, làu bàu. Nhưng nè Mark, dẫu sao nếu có ai đó đánh cắp cái xác nhằm thủ tiêu hay chôn giấu nơi khác, hẳn người đó có lý do. Nói cách khác, kẻ đó tiên liệu được cái công việc mà chúng ta làm đêm nay. Tôi không nghi ngờ gì nữa: bác Miles của anh bị đầu độc. Và bây giờ, trừ phi chúng ta tìm được cái xác, kẻ sát nhân chẳng còn gì để lo ngại. Ông bác sĩ của anh đã chứng nhận rằng cố Miles chết một cách bình thường và giờ đây cái xác tang chứng biến mất. Từ nay về sau, đâu là chứng cớ để cho chúng ta nói rằng ông bác của anh không chết vì bệnh? Đồng ý rằng chúng ta có những bằng chứng phụ, nhưng liệu những điều đó có đủ không? Anh phát hiện lớp cặn của sữa, trứng gà và chiếc tách nơi phòng ông ấy. Được lắm, nhưng nào ai thấy ông uống thứ đó? Hay là ông thấy bất thường nên để riêng ra? Điều duy nhất mà chúng ta có thể biết chính xác là bác Miles đã uống hết ly sữa mà sau này được xét nghiệm là vô hại.
- Ông là luật sư được đấy! Henderson nói với một vẻ nể nang bất bình.
Partington nói tiếp:
- Tôi nói thế là để cho quí vị hiểu những lý do khiến tên sát nhân muốn thủ tiêu cái xác. Chúng ta phải tìm hiểu xem hắn đánh cắp như thế nào. Giờ đây, chúng ta chỉ có một có áo quan trống rỗng...
- Chưa hẳn thế! Stevens nói.
Từ nãy đến giờ, chẳng hiểu vì sao, chàng vẫn nhìn đăm đăm vào trong quan tài. Và rồi, một vật gì đó mà cho đến nay vẫn lẫn lộn trong lớp sa tanh, hiện ra rõ nét. Vật đó nằm dọc theo hông quan tài, nơi mà bàn tay phải của người chết đặt lên.
Stevens cúi xuống và lấy lên trước mặt mọi người.
Đây là một khúc dây bình thường, dài khoảng ba mươi phân, gồm có chín gút với khoảng cách đều nhau.