Nguyên tác: La Mort Du Roi Tsongor
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2020-11-02 22:24:58 +0700
Chương 5
Massaba vẫn cầm cự được, nhưng vẻ ngoài của nó đã thay đổi. Giờ đây là một thành bang kiệt quệ nằm cao trên bình nguyên. Tường thành như muốn đổ sụp vào bất cứ lúc nào. Dự trữ nước và thực phẩm gần như cạn. Nhiều đàn chim ăn thịt quay mòng mòng trên các tường thành và bổ xuống những xác người chưa được thiêu. Thành phố bẩn và cư dân kiệt lực. Các chiến binh mặt hõm vào như những con ngựa già lạc trong sa mạc, ương bướng tiến lên cho đến khi hết sức và quỵ hẳn xuống cát nóng mà chết. Không ai nói gì nữa. Mỗi người đều chờ đợi cho cuộc sống chấm dứt, an phận.
Trong lâu đài Tsongor, mọi thứ đều suy sụp. Một cánh lâu đài đã bị lửa phá hủy. Không ai có thời gian và sức lực để sửa chữa nó lại. Cả một đống những tấm thảm treo cháy dở, trần sụt xuống và tường đầy muội khói. Các hành lang bẩn và cũ đi. Các phòng xưa kia là các gian đại lễ giờ đây là những phòng ngủ chung cho những con người mệt mỏi nằm chất đống. Bậc thềm lớn của lâu đài được dùng làm bệnh viện tạm. Người ta vừa chăm sóc các người bị thương vừa xem những trận đánh diễn ra dưới tường thành. Mọi người đều đã kiệt sức. Mọi thứ đều có thể bị sụp đổ vào bất cứ lúc nào. Phố phường chỉ còn là những đường đất. Người ta cậy hết đá lát đường để ném xuống kẻ thù. Các vườn tược đều bị phá để lấy thức ăn cho ngựa. Rồi sau đó, khi không còn cái ăn nữa, người ta giết súc vật để nuôi người.
Từ khi em trai chết, Sako thay đổi hẳn. Anh gày đến mức những chuỗi vòng cổ anh đeo trên ngực đập vào sườn khô không khốc. Anh để râu mọc dài thành chòm lởm chởm khiến đôi khi nom anh giống xác của cha anh. Các chiến binh của Massaba bị chết rất nhiều. Những đội quân trước đây nay chỉ còn lại đội cận vệ đặc biệt và những người - dương xỉ của Gonomor. Bên phía Kouame chỉ còn Arkalas, Barnak và những người nhai lá khat. Chỉ còn có thế. Còn chưa kể là những người này đều đã quá mệt mỏi sau những tháng ngày chiến đấu liên tu bất tận.
Kouame cảm thấy thất bại đang đến gần. Anh sẽ ngã xuống nơi đây cùng với thành Massaba, giữa những tiếng hò reo mừng vui của quân công thành. Một đêm, không cho ai biết, anh cởi bỏ áo giáp, mặc một chiếc áo dài tối màu và rời khỏi thành. Đêm nặng nề và không có mùi gì. Anh đi như một cái bóng qua đồng bằng nơi chứng kiến biết bao cuộc giao tranh và đi về phía đồi. Đến nơi, anh lẻn qua doanh trại, với vũ khí duy nhất là một con dao găm. Anh quả quyết đi qua giữa đám người ngựa và không ai ngăn cản anh vì anh thật giống với những chiến binh đeo mạng của Rassamilagh. Anh chờ thêm một chút cho quân lính dần dần ngủ và nhẹ nhàng, không tiếng động, anh vào lều của Samilia.
Con gái của Tsongor đang nằm trên đệm, kiên nhẫn gỡ những băng buộc tóc của nàng.
“Ngươi là ai? - Nàng giật mình hỏi.
- Kouame, chúa vùng đất muối, - anh trả lời.
- Kouame ư?”
Nàng đứng dậy, mắt mở to tròn và giọng nói run rẩy. Anh bước thêm một bước vào trong lều để không bị phía ngoài nhìn thấy và nâng tấm mạng che mặt lên.
“Anh không ngạc nhiên vì em không nhận ra anh, Samilia, anh không còn là con người trước đây nữa.”
Im lặng một lát. Kouame nghĩ rằng Samilia sẽ hỏi anh điều gì đó, nhưng nàng không làm thế. Nàng không thể. Nàng quá sững sờ.
“Đừng run, Samilia. Em có thể giết anh bất cứ lúc nào, - Kouame tiếp. - Chỉ cần em kêu lên một tiếng là đủ để quân lính bắt anh. Hãy làm theo ý em. Thế nào cũng được. Ngày mai đằng nào anh cũng chết.”
Nàng không kêu. Nàng nhìn gương mặt hằn trong nhăn nhúm trước mình, không nhận ra nổi người nàng đã gặp ngày nào. Khuôn mặt tròn rộng và đầy tin tưởng của anh đã trũng xuống đầy nếp nhăn. Một khuôn mặt khô cằn, góc cạnh dường như đang lên cơn sốt. Chỉ có ánh mắt vẫn như ngày trước. Vẫn ánh mắt mà nàng đã chạm vào khi ở bên xác Tsongor. ánh mắt như muốn lột trần nàng ra.
“Em có biết không? - Anh nói tiếp. - Chắc họ đã nói cho em biết. Bọn anh đang hấp hối trong thành Massaba. Ngày mai chắc chắn mọi việc sẽ kết thúc. Và em sẽ nhìn thấy đầu bọn anh diễu qua trên những hàng cọc dài dằng dặc. Vì thế mà hôm nay anh đến đây. Chính vì thế.
- Anh cần gì? - Samilia hỏi.
- Em biết rõ rồi, Samilia. Hãy nhìn anh. Em biết rồi đúng không?”
Quả thật là nàng biết, ngay lúc mắt nàng lại gặp mắt anh. Anh đến đây vì nàng. Anh vượt qua doanh trại kẻ thù để đến chiếm đoạt thân xác nàng. Nàng biết thế và cảm thấy rằng như thế là đúng. Quả vậy. Anh đến với nàng đêm trước ngày anh chết và nàng biết mình sẽ trao cho anh điều anh mong muốn. Nàng chưa bao giờ ngừng ham muốn. Kể từ ngày nhìn thấy anh lần đầu tiên và mặc dù nàng đã tự nguyện đi theo Sango Kerim, có điều gì đó luôn xúi giục nàng hãy nhượng bộ Kouame. Nàng chọn Sango Kerim vì nghĩa vụ. Để giữ lời thề quá khứ. Nhưng khi nhìn thấy Kouame, nàng biết mình sẽ thuộc về anh. Bất chấp ý chí của nàng. Bất chấp cả cuộc chiến tranh sẽ không bao giờ cho phép cuộc hôn nhân với Kouame. Sẽ là như vậy. Nàng không nhúc nhích. Anh tiến sát lại gần. Nàng cảm thấy hơi thở của anh trên ngực mình.
“Ngày mai anh sẽ chết. Nhưng có nghĩa lý gì đâu nếu anh được nếm mùi thể xác em.”
Nàng nhắm mắt lại và cảm thấy bàn tay của Kouame đang lần cởi quần áo mình. Họ ngã xuống giường Samilia và anh chiếm đoạt nàng, trong mồ hôi của một đêm không gió, giữa muôn ngàn tiếng động của doanh trại kẻ thù, tiếng quân đi đi lại lại và tiếng lửa gác doanh cháy bập bùng. Anh ngập vào nàng và lần đầu tiên nàng hòa tan mình trong khoái cảm. Nàng mở rộng thân hình, cắn vào gối để không kêu lên. Những cơn run rẩy ẩm ướt dọc theo đùi nàng làm dịu nỗi khao khát của Kouame. Anh không rời thân nàng, vùi đầu trong tóc Samilia. Anh tẩy rửa hồn mình khỏi những vết thương trong chiến đấu. Anh ngây ngất say, một lần cuối, trong hương vị cuộc đời. Lều tràn đầy mùi hương ôm ấp nồng nàn và mỗi khi anh làm bộ định rời xa, nàng lại kéo anh xuống và cuốn anh vào nơi thẳm sâu của thân thể nàng, để anh lại trượt trong khoái lạc và rơi vào một vực thẳm ngọt ngào.
Trước khi mặt trời mọc, Kouame rời khỏi giường Samilia để lách qua đám lều kẻ thù và quay về thành phố. Samilia vuốt ve má anh. Anh mặc nàng làm vậy. Bàn tay trên mặt anh như muốn vĩnh biệt. Như nói rằng: “Anh đi đi. Đã đến lúc phải chết rồi.”
Sau khi anh đi, nàng nằm bất động một lúc lâu. Từ khi nàng theo quân Sango Kerim, có một điều gì đó đã tắt ngấm trong nàng. Nàng vẫn còn đây. Giữa những người đang đánh nhau vì nàng. Nàng vẫn còn đây. Nhưng không còn niềm mê say nữa. Nàng chỉ chờ xem kết cục của trận chiến. Để không còn đau khổ nữa và để cuộc sống mới bắt đầu. Việc Kouame đến đây đêm qua đã làm đảo lộn tất cả.
“Mình không biết chọn, nàng nghĩ. Hoặc là mình đã nhầm. Mình chọn quá khứ và sự phục tùng. Mình bóp nghẹt nỗi ham muốn trong mình. Và vì lòng trung thành, mình đã đi theo Sango Kerim. Nhưng cuộc sống đòi phải có Kouame. Không, không phải thế. Nếu mình chọn Kouame, mình chắc lại sẽ đang khóc thương Sango Kerim. Không phải thế. Không thể nào chọn được. Mình thuộc về cả hai người. Đúng thế. Mình thuộc về cả hai. Đó là hình phạt của mình. Mình không có hạnh phúc. Vì mình thuộc về cả hai. Bị giày vò và đau đớn. Đúng vậy. Mình chỉ có được thế mà thôi. Một người đàn bà trong chiến tranh. Dù mình không muốn thế. Mình là một người đàn bà chỉ làm sinh ra hận thù và chiến trận.”
Khi Kouame đến với Samilia, anh đã chấp nhận cái chết. Những trận đánh trong những tháng sau này làm anh mòn mỏi. Thất bại dường như đã quá rõ ràng. Anh chỉ thấy quanh mình kiệt quệ và an phận. Anh đến gặp Samilia như một tử tù đòi xin ân huệ cuối cùng. Chiếm đoạt người đàn bà này là cách duy nhất để rời bỏ cuộc sống không luyến tiếc. Anh muốn vuốt ve nàng trước khi bị thảm sát. Biết mùi thơm da thịt nàng. Thấm đẫm mùi hương đó. Và còn cảm thấy nó trước khi khụyu chân ngã xuống. Anh nghĩ rằng một khi anh đã ôm ấp Samilia, chẳng còn gì có thể làm anh lo phiền nữa. Anh tưởng rằng mình đã sẵn sàng để chết. Nhưng mọi việc lại ngược lại. Từ khi anh quay về Massaba, một nỗi căm hận trào dâng trong anh. Thể xác anh dù đã gày đi và kiệt sức, vẫn rung lên trong những cử chỉ đột ngột và cáu bẳn. Anh tự nói với mình, và liên tục tự chửi rủa mình.
“Hôm qua ta đã sẵn sàng để chết. Ta bình thản. Và chúng có thể đến lúc nào cũng được. Chẳng có gì làm ta sợ hãi. Ta sẽ chết một cách xứng đáng. Chẳng thèm nhìn đến kẻ thù. Thế mà giờ đây… Giờ đây ta cũng sẽ chết, nhưng còn nuối tiếc. Nàng đã hôn lên khắp thân ta. Nàng đã siết chặt người ta trong đùi nàng. Bụng nàng êm mượt làm sao. Thế mà giờ đây ta lại phải vào vị trí trên tường thành. Không. Giờ đây ta đã biết ta đang mất gì. Lẽ ra đã tốt hơn cho ta nếu ta không biết điều này.”
Anh là người duy nhất trên tường thành còn hăng hái. Tất cả những người khác đều bất động. Đờ đẫn vì mệt mỏi. Lũ trẻ con được đánh thức dậy giữa đêm và đứng yên nơi người ta đặt chúng, dáng sững sờ. Họ sẵn sàng để chết. Họ chẳng còn mong ước gì khác ngoài cái chết sẽ giải thoát cho họ khỏi nỗi kiệt lực này. Kouame nhổ nước bọt, hét lên và đấm tay vào tường thành. “Cầu cho chúng đến đây! Cầu cho chúng đến đây! Và chúng ta chấm dứt đi thôi!” Anh không rời mắt khỏi ngọn đồi nơi địch đóng quân và khi quân du mục bắt đầu rục rịch xuống đồi anh dường như thấy có một chấm nhỏ đứng im nhìn anh. “Samilia, anh nghĩ. Nàng đang xem chúng ta có chết một cách xứng đáng hay không.”
Ngày hôm đó vẫn như thường lệ, các chiến binh hằn học lao tới tường thành. Nhưng đúng vào lúc họ tới sát tường, có tiếng hò reo xa xa. Từ phía đồi Nam lao xuống một đoàn quân mà người ta chưa xác định được. “Lần này thì xong thật rồi, Kouame nghĩ thầm. Bọn chó này lại có thêm quân tiếp viện.” Từ trên tường thành, họ nhìn theo những đám khói lớn mà cánh quân này đang tạo ra, với sự tò mò buồn rầu của kẻ tử tù nhìn chiếc mũ trùm của đao phủ. Họ muốn biết ai sẽ là người tàn sát họ. Nhưng đột nhiên họ thấy quân du mục lùi lại và dồn thành thế phòng thủ. Càng nhìn, họ càng thấy rõ là quân mới tới đang tấn công vào kẻ thù của họ. Những hình người đang rõ nét dần.
“Nhưng… đây là đàn bà mà…, - Sako lầm bầm, miệng há hốc.
- Đúng là đàn bà…, - ông già Barnak khẳng định.
- Mazébu đấy”, Kouame khẽ nói.
Và anh nhắc lại ngày càng to hơn. “Mazébu. Mazébu.” Và mọi người trên thành cùng lặp lại từ đó, cũng chẳng cần biết rõ nghĩa nữa. Như lặp lại một tiếng kêu xung trận. Như một tiếng kêu nhẹ nhõm để cám ơn thần linh. Mazébu. Mazébu. Và với mỗi người cái từ kỳ lạ ấy có nghĩa là: “Chúng ta có lẽ thoát chết ngày hôm nay.”
“Đó là ai vậy?” Sako hỏi Kouame.
Và ông hoàng đất muối trả lời:
“Mẹ tôi.”
Đó chính là nữ hoàng Mazébu đang xuống đồi cùng toàn quân của mình. Người ta gọi tên bà như vậy vì bà là mẹ của dân tộc bà, bà và các nữ kỵ mã cưỡi trên các con zebu sừng dài nhọn hoắt. Bà là một phụ nữ cao lớn, đeo đầy kim cương, một trong những đầu óc chính trị giỏi nhất vương quốc. Bà tuyệt vời trong các âm mưu cung đình và các cuộc thương lượng mua bán. Nhưng mỗi khi đất nước có chiến tranh, bà lại đích thân cầm đầu quân đội và trở thành một chiến binh tàn bạo. Bà không ngớt lời nguyền rủa tục tĩu kẻ thù và trong trận đánh không hề biết tới xót thương hay cảm thông. Quân đội của bà toàn nữ kỵ binh đã dày dạn trong lối đánh trên lưng ngựa. Họ vừa phi vừa bắn cung và để cho tiện, họ đã cắt bỏ ngực phải.
Kinh ngạc xâm chiếm toàn quân du mục. Họ quá quen với nhịp điệu hàng ngày của cuộc vây hãm thành. Họ quá tin tưởng rằng Massaba sẽ sớm thất thủ nên trước cuộc tấn công bất ngờ của một địch quân họ không hề biết tới, họ không biết phải làm gì. Bị dồn ra giữa bình nguyên, cách xa nơi đóng quân, họ cảm thấy vô cùng khó chống trả. Khi họ đã nhận ra những nữ kỵ binh của Mazébu, cái đội quân đàn bà sặc sỡ sắc màu cưỡi zebu, họ tưởng chừng như đây là một trò đùa chết người. Rồi họ nghe thấy tiếng chửi tục tằn của Mazébu. Bà hét váng cả óc đồng thời thúc vào sườn con vật cưỡi.
“Đến đây, tao nghiền nát mặt chúng mày ra. Cho chúng mày ăn bùn. Đồ con hoang, lại đây. Chúng mày chết đến nơi rồi. Vào đây. Mazébu sẽ giết chúng mày…”
Một rừng tên tua tủa bổ xuống đám quân du mục đầu tiên. Quân kỵ binh vừa tiến vừa bắn liên tục. Họ càng đến gần thì tên của họ càng mạnh và chính xác. Khi hai quân đã sát vào nhau, lũ zebu xọc những đoạn sừng dài và nhọn vào các chiến binh đối phương. Sango Kerim hiểu ngay rằng nếu còn ở lại trên đồng bằng phút nào, quân của anh sẽ bị tiêu diệt nhanh chừng ấy. Anh ra lệnh lui quân về doanh trại và sự hoảng loạn bắt đầu. Quân nữ kỵ mã không đuổi theo họ mà xếp cạnh nhau thành hàng và bình tĩnh, tập trung bắn tên vào đám quân du mục đang bỏ chạy. Họ ngã sấp mặt trên đường chạy trốn. Cung của quân nữ kỵ mã được đẽo từ gỗ sêkôia rất dẻo, có thể bắn xa hơn bất kỳ loại cung nỏ nào. Và quân du mục phải chạy qua hết bình nguyên mới thoát khỏi tầm cung bắn.
Lần đầu tiên từ nhiều tháng nay, Massaba không phải chiến đấu trên tường thành. Cũng là lần đầu tiên từ nhiều tháng nay, quân đội của Massaba có thể ra khỏi thành phố và chiếm lại ba trong số bảy ngọn đồi. Cuộc vây thành Massaba thế là đã chấm dứt. Và cả thành phố mừng vui trước cái tên họ được nghe thấy lần đầu: Mazébu.
Thành phố hăng say hoạt động cho đến tận hết ngày và cả buổi tối. Người ta đưa ra ngoài thành những xác chết chất chồng đống trên các giàn lửa tạm dựng trên từng quảng trường. Họ được chôn trong nhiều hố để tránh các nạn dịch. Các chiến binh đua nhau tìm các vũ khí, mũ giáp của quân du mục mới vừa bị giết. Mọi người đi kiếm cỏ và lúa mì để nuôi súc vật và người. Người ta cho chuyển bệnh viện dã chiến xuống các hầm trong lâu đài, mát hơn, được bảo vệ tốt hơn và có lối đi lại dễ dàng hơn. Và khi trăng đã lên cao, một bữa tiệc thịnh soạn được tổ chức trên quảng trường Massaba. Hệt như cả thành phố đã bật ra một tiếng thở dài nhẹ nhõm. Mazébu ngự giữa những chiến binh ngồi xen với các nữ kỵ mã. Bà muốn biết tên từng người một, hỏi thăm từng vết thương. Rồi khi cả hai mẹ con có một lúc riêng bên nhau, bà cầm tay con, ngắm một lát rồi bảo:
“Con gày đi đấy, con trai.
- Thành bị vây từ nhiều tháng rồi, mẹ ạ.
- Con cũng già đi nữa.
- Chúng con suốt ngày chỉ giết và chết thôi.
- Mẹ nhìn thấy dấu ấn của Samilia trên mặt con. Mẹ nhìn con và mẹ như thấy cô ta qua con. Cô ta làm con thêm nhiều nếp nhăn. Được lắm.”
Bà không nói gì thêm nữa. Bà mời con uống thêm và họ cùng chung vui trong ngày này, ngày mà Massaba không bị thất thủ.
Souba tiếp tục hành trình của mình xuyên qua vương quốc. Nếu như mới đầu anh còn e ngại những giây phút lang thang thì nay anh đã ngày càng thích thú. Anh không vội vã để tới thành phố tiếp theo cũng như vội tìm ra chỗ xây lăng mới. Anh đi trên mọi nẻo đường, từ nơi này sang nơi khác trong thờ ơ với thế giới và sự thờ ơ ấy làm anh dễ chịu. Anh chẳng có tên, chẳng có lai lịch gì nữa. Anh sống trong yên lặng. Với những kẻ anh gặp trên đường, anh chỉ là một lữ khách. Nhiều vùng đất mới trải dài trước mặt anh. Anh tự ru mình trong bước đi lắc lư của con la. Hạnh phúc vì chẳng phải làm việc gì khác trong lúc này, ngoài việc ngắm nhìn thế giới và thấm mình trong ánh sáng.
Dần dần, anh đi về hướng Solanos, thành phố bên bờ sông Tanak. Con sông chảy qua một sa mạc toàn đá và nơi cửa sông, thiên nhiên tự nhiên thay đổi. Hai bên bờ rợp bóng các cây chà là, như một ốc đảo nằm giữa đá. Và Solanos được xây dựng ở nơi đó. Souba nghe tên thành phố đã lâu. Đó là nơi đã diễn ra một trong những trận đánh nổi tiếng nhất của cha anh. Người ta kể rằng quân đội của vua Tsongor đã vượt qua sa mạc và bất ngờ đánh úp dân thành Solanos đang tưởng rằng quân địch sẽ tấn công bằng đường sông. ánh mặt trời gay gắt từng làm nứt nẻ cả đá núi, thiêu đốt quân nhà vua. Họ kiệt lực và phải ăn thịt cả ngựa. Một đôi người đã phát điên. Nhiều người khác bị mù vĩnh viễn. Càng đi, quân Tsongor càng bị rơi rụng. Khi họ đến dưới chân thành Solanos họ đã là những kẻ kiệt sức. Truyền thuyết kể rằng Solanos đã phải gánh chịu cơn giận của Tsongor. Nhưng thật ra không phải vậy. Không phải cơn tức giận đã khiến quân nhà vua lao tới thành phố trong điên giận. Đó là sự đờ đẫn, lang thang và mất trí. Những ngày trong sa mạc chất đầy trong trí não họ. Và họ lao vào Solanos tàn phá dã man. Chẳng mấy chốc trong thành chẳng còn lại gì.
Souba muốn đi tới tận thành phố đó. Để nhìn những tường thành mà anh đã nghe nói tới rất nhiều khi còn bé. Anh đi dọc theo dòng sông nước đục ngầu chậm rãi trôi. Khi anh tới Solanos và trình diện với các bậc bô lão của thành phố, anh cảm thấy khắp nơi có một điều gì đó đang xao động, một sự xao động kỳ dị mà anh không phải là nguyên nhân. Có chuyện gì đã xảy ra khiến cho cả đá lát đường cũng rung lên. Anh xưng danh và mọi người đón tiếp anh với vinh dự dành cho dòng dõi anh. Người ta đề nghị thu xếp chỗ ở và mời anh dự tiệc nhưng Souba, mặc dù có sự trọng thị đó, vẫn cảm thấy rằng việc anh đến có vẻ như không quan trọng bằng một điều gì đó đang xảy ra. Anh càng tò mò gấp bội. Anh hỏi viên quan tiếp khách:
“Có chuyện gì vậy? - Anh hỏi. - Tại sao cả thành phố lại náo loạn lên như vậy?
- Ông ấy trở lại, - viên quan run sợ trả lời.
- Ai? - Souba hỏi.
- Galash. Kỵ sĩ trên dòng sông. Ông ấy đã trở lại. Đã hàng chục năm nay không ai thấy ông ấy đâu. Chúng tôi tưởng rằng ông ấy đã chết. Nhưng sáng nay ông ấy lại trở về. Chẳng ai biết từ đâu ra. Ông ấy lại ở đó, y như ngày xưa.”
Souba nghe ông ta nói. Anh muốn biết rõ hơn. Anh bình thản mời ông ta ngồi xuống cạnh mình, dùng chút nước và kể cho anh nghe xem người kỵ sĩ đó là ai và vì sao việc ông quay trở về lại có vẻ kỳ dị đến thế. Viên quan nhận lời mời và kể hết những điều ông ta biết.
Chuyện xảy ra từ thời vây hãm thành Solanos. Người ta kể lại rằng ngay vào buổi chiều khi đã hạ xong thành, một tên lính bước ra khỏi hàng quân và xin được nói chuyện với nhà vua. Tsongor đang ăn mừng việc chiếm thành cùng với đội cận vệ, trong mùi chà là ngọt ngào và mùi tro cháy khét lẹt. Người lính xuất hiện. Tên anh ta là Galash. Chẳng ai biết anh ta là ai. Trông anh ta giống một thằng điên. Nhưng Tsongor không nghi ngại gì. Toàn quân đều mắt mũi trợn trừng trợn trạc sau chuyến vượt sa mạc và những trận chiến điên cuồng tiếp đó. Toàn quân đều ít nhiều phát điên. Tất cả đều vui mừng tàn phá. Tên lính xuất hiện trước mặt nhà vua và Tsongor mới đầu cứ tưởng anh ta xin một ân huệ gì đặc biệt. Nhưng không phải thế.
“Tsongor, ta xin gặp ông vì những điều ta muốn nói, ta phải nói thẳng với ông. Ta đã tin tưởng ông rất nhiều. Tin vào sức mạnh của ông. Tin vào tài quân sự của ông. Vào ánh hào quang thủ lĩnh của ông. Ta đã theo ông. Từ ngày đầu tiên. Không đòi hỏi gì. Không cần thăng tiến hay ân huệ. Ta là một trong số quân lính của ông và với ta thế là đủ. Chỉ cần là một người trong số biết bao nhiêu. Nhưng hôm nay, Tsongor, hôm nay ta đến trước mặt ông để nguyền rủa ông. Ta nhổ vào tên mi, ngai vàng của mi và quyền thế của mi. Ta đi cùng mi qua sa mạc. Ta đã thấy các bạn ta gục ngã, từng người một, mặt úp vào trong cát mà mi chẳng thèm đoái hoài tới họ mảy may. Ta đã cầm cự được. Ta đã nghĩ rằng mi sẽ thưởng cho chúng ta vì lòng trung thành và sự bền bỉ. Mi trao cho chúng ta một thành phố. Phải, một cuộc thảm sát. Đấy là quà đấy, Tsongor. Ta nhổ vào cái thành phố của mi. Mi thả cho chúng ta lao vào thành Solanos như một bầy chó điên. Mi biết là chúng ta kiệt sức, say máu và điên giận quá rồi. Đúng thứ mi cần. Mi thả chúng ta vào thành và chúng ta đã moi gan thành phố này ra như những con quái vật. Mi biết thế. Mi cùng đi với chúng ta mà. Mi ban thưởng cho chúng ta như thế đấy. Chúng ta hóa ra một lũ súc sinh mà từ nay trở đi tay không bao giờ phai mùi máu. Ta nguyền rủa mi, vua Tsongor, vì mi đã làm ta thành khốn nạn như thế đấy. Điều ta vừa nói, ta sẽ đi rêu rao khắp nơi trong vương quốc này. Nói cho tất cả mọi người ta gặp. Ta đi đây, Tsongor. Bây giờ ta đã biết mi là ai rồi.”
Anh lính Galash đã nói như vậy. Và anh ta định bước đi khi Tsongor ra lệnh cho bắt anh ta lại và buộc anh ta phải quỳ xuống chân ông. Môi ông run lên vì tức giận. Ông đứng dậy trên ngai.
“Tên lính kia, ngươi sẽ không đi đâu hết. Không đi đâu cả vì xung quanh ngươi đều là đất của ta. Ngươi đứng trên đất của ta. Ta có thể giết ngươi vì những điều ngươi vừa nói đó. Ta có thể cho rút lưỡi ngươi vì đã chửi rủa ta trước toàn quân. Nhưng ta không làm thế. Vì nể lòng trung thành của ngươi trong suốt những năm chiến đấu vừa qua. Ta sẽ không làm thế. Ngươi nhầm rồi. Ta biết cách ban thưởng cho quân ta. Ngươi sẽ được sống. Nhưng cấm không bao giờ được đặt chân lên đất của ta. Nếu ngươi ở lại trên vương quốc ta, ta sẽ ra lệnh cho băm ngươi thành từng mảnh nhỏ. Ngươi có thể tới thế giới chưa được khai phá. Tới những vùng đất không ai ở. Hãy qua sông Tanak và sống những ngày tàn của ngươi ở bờ bên kia.”
Mọi việc được làm theo ý của vua Tsongor. Ngay chiều hôm đó, Galash vượt sông và biến mất trong đêm. Nhưng ngày hôm sau, anh ta quay lại. Ngay trên bờ sông. Bóng anh rõ nét trên con ngựa sùi bọt mép. Anh ta thét lên từ phía bờ bên kia. Anh thét lên với tất cả sức lực của mình, nói những điều anh muốn nói về vua Tsongor. Sao cho quân lính và cư dân đều nghe được. Anh nguyền rủa nhà vua đến váng cả óc. Nhưng tiếng dòng sông che lấp tiếng anh. Người ta chỉ nghe được tiếng nước chảy rì rầm. Anh quay trở về trong nhiều tháng liền, ngày nào cũng cố gắng kêu to hơn tiếng dòng sông. Ngày nào cũng sục sôi căm giận như ngày nào. Như một kỵ sĩ điên rồ kêu gọi thần linh. Rồi một ngày anh biến đi. Không ai gặp lại anh nữa. Năm tháng trôi qua. Người ta nghĩ rằng anh đã chết.
Ngày Souba đến Solanos, Galash lại xuất hiện sau nhiều năm vắng bóng. Như thể hiện về từ quá khứ. Lại vẫn ông ta. Vẫn trên lưng ngựa. Già đi rất nhiều. Nhưng cơn giận trong ông dường như vẫn nguyên vẹn như xưa. Người kỵ sĩ trên dòng sông đã quay trở lại đúng vào ngày con trai vua Tsongor đặt chân lên đất thành Solanos.
Souba tò mò lắng nghe câu chuyện. Anh chưa bao giờ nghe nói tới con người này. Anh cảm thấy mình phải đi gặp ông ta, cũng không rõ tại sao lại như thế nữa. Anh thấy hình như Galash không làm gì khác ngoài việc gọi anh.
Từ sớm tinh mơ, Souba đã lên con la và đi về phía dòng sông. Anh thấy Galash đúng như lời người ta kể. Một hình người trên lưng ngựa. Đi đi lại lại trên bờ sông đối diện. Tay chân vung vẩy như người điên. Anh thúc la và dấn vào dòng nước. Càng tiến anh càng thấy bóng người kỵ sĩ câm lớn dần. Giờ anh đã nhìn thấy ông ta nhưng không nghe được gì. Anh tiếp tục tiến lên. Con la cuối cùng đã đạp đất. Galash đứng đó. Souba kinh ngạc vì những gì anh thấy. Người đứng trước mặt anh là một ông già đói khát. Ông cởi trần, mặt và sườn trầy xước qua nhiều năm tháng, ông trông như một con ác quỷ. Ông gày, lưng còng. Và ánh mắt như người say thuốc đảo đồng địa. Souba nhìn ông rất lâu. Anh quan sát cái sinh vật đã bị thời gian huỷ hoại. Điều khiến anh ngạc nhiên là anh không nghe được gì hết. Galash lại vung vẩy chân tay trong dáng bộ nguyền rủa. Ông đảo con mắt khắc nghiệt. Nhưng không âm thanh nào thốt ra từ miệng ông. Phổi ông phồng lên. Có thể thấy rõ những mạch máu nơi cổ ông căng ra. Nhưng Souba chỉ nghe được một giọng kêu khao khao rất khẽ. Hóa ra không phải dòng sông đã phủ lấp tiếng của Galash. Trong những năm tháng ấy, ông đã hét với tất cả sức lực của mình. Đến nỗi đứt cả dây thanh quản. Ông đã gào thét điên cuồng hàng chục năm liền. Giờ đây từ cổ họng ông chỉ còn lại một thứ âm thanh ríu ran xa vợi. Nhưng dần dần, Souba quên đi những âm thanh kỳ cục và nhìn vào nét mặt của người kỵ sĩ. Và những gì anh không hiểu hết qua giọng nói, anh đọc được trên gương mặt người bị nguyền rủa. Những vết hằn sâu nói lên tất cả những năm tháng lưu đày bất tận. Cách ông túm môi, vẻ mặt của ông ta đều thuật lại những đau khổ và sợ hãi, sự hoang dại và cô đơn. Galash khóc. Vặn tay vào nhau. Vung vẩy tay. Kêu những tiếng dữ tợn và cắn vào cánh tay mình.
Họ đứng như vậy một lúc lâu, đối diện, như muốn thuần hóa nhau. Rồi Galash hất đầu ra hiệu cho Souba theo mình. Ông thúc ngựa đi theo một con đường rời khỏi bờ sông. Con trai Tsongor không ngần ngại bước theo. Họ im lặng đi dọc theo những lối mòn của vùng đất chưa ai khai phá. Ngựa và la bước đi thủng thẳng trên con đường đầy sỏi. Lên một ngọn đồi. Sau nhiều giờ kỵ sĩ mới dừng lại. Họ đứng trên một ngọn đồi nhỏ. Dưới chân họ là vịnh nước. Hình nửa vầng trăng. Souba ngửi thấy mùi thối rữa. Dưới chân anh, nằm trải dài trên nhiều trăm mét, một cảnh tượng kinh khủng diễn ra. Hàng ngàn con rùa biển lớn đang chết dần trên mặt cát nồng nặc mùi lợm mửa. Vài con đã chết, một số khác đang ngắc ngoải. Một số nữa đang cố gắng giãy giụa. Cả một đống mai rùa rỗng và thịt rùa thối rữa. Không khí oi nồng mùi hôi thối. Những con chim ăn thịt nhào xuống lao lên, đâm mỏ nhọn vào những xác rùa. Quang cảnh thật ghê tởm. Lũ rùa bị nước ngầm xô đến vịnh nước này. Chúng dạt vào bờ. Trên bãi sông chết chóc nơi chẳng che chở được gì, chẳng có thức ăn. Chúng dạt vào đây, không còn sức để đối đầu với sóng nước, để bơi ra xa, đành mặc cho lũ chim tham lam lao xuống giết dần. Thật như một nghĩa địa súc vật mênh mông. Một thứ bẫy của tự nhiên mà những con rùa biển chẳng cách gì chống cự lại được. Chúng vẫn liên tục dạt vào và cát như bị khuất đi dưới những đống xương và mai rùa đã cháy khô. Souba đưa tay che mũi để không ngửi thấy mùi của cái chết bốc lên tới tận chỗ anh. Galash không nói gì thêm. Ông không lầu nhầu nữa. Dường như ông đã bình tâm hơn. Souba nhìn các con sóng xô đều đều chậm rãi và những cố gắng vô vọng của lũ rùa khổng lồ để thoát khỏi luồng nước cuốn lên bờ. Chim bay vòng vòng. Không ngừng nghỉ. Anh nhìn các cơn sóng đổ dồn, như cái chết đang đều đặn đến. Có điều gì trái khoáy và phi lý. Như một cuộc tàn sát không nhằm mục đích gì. Galash đã đưa anh đến tận đây và Souba hiểu tại sao. Anh phải xây một ngôi mộ tại đây. Tại nơi thối tha này, nơi những con rùa lớn bị nước cầm tù rên xiết và chết dần. Một ngôi mộ cho Tsongor, kẻ hủy diệt. Cho Tsongor, người đã đưa bao sinh mạng đến với cái chết. Tsongor, người đã càn quét bao thành phố và thiêu cháy biết bao đất nước. Một ngôi mộ cho Tsongor, người man rợ không chùn bước trước máu. Một ngôi mộ là gương mặt chiến tranh của ông. Đây chính là nơi phải xây ngôi mộ thứ sáu. Để cho chân dung Tsongor được trọn vẹn cần phải có một nét nhăn kinh khiếp. Một ngôi mộ bị nguyền rủa giữa những đống xương tàn và những con chim ăn thịt no nê.
Cùng với Mazébu, chiến tranh lại tiếp tục. Một lần nữa đồng bằng Massaba lại đẫm máu. Tháng ngày đều nhịp lui tới của các chiến binh. Các điểm cao bị thất thủ, rồi lại bị chiếm, rồi lại thất thủ. Hàng ngàn bước chân vạch lên trong cát bụi đồng bằng những con đường đau khổ. Tiến lên. Lui về. Chết. Xác người khô đi dưới ánh nắng. Chỉ còn lại xương. Rồi xương trắng mục dần theo năm tháng và rữa ra và rồi nhiều người khác lại ngã xuống trên đống bụi thân người. Quả là lò sát sinh lớn nhất mà lục địa từng biết tới. Người ta già đi. Gày đi. Và chiến tranh khoác cho họ nước da nhờ màu cát của những pho tượng đá. Bất chấp các trận đánh và nhọc mệt, họ vẫn hăng máu và lao vào nhau trong điên giận. Như hai con chó đói, mất trí trước màu máu chỉ nghĩ tới cắn xé nhau mà không hề cảm thấy chúng đang chết dần.
Một tối, Mazébu cho gọi con trai tới trên thềm lâu đài. Trời nóng. Bà đứng thẳng, mặt đầy quả quyết và nói với Kouame với giọng ra lệnh:
“Kouame, nghe mẹ và không được ngắt lời. Ta ở đây đã khá lâu rồi. Chiến đấu bên con cũng khá lâu rồi. Đã khá lâu rồi ta phải chịu tức giận và thiếu thốn mỗi ngày. Khi ta tới, ta đã cứu Massaba và đẩy lùi thằng chó Sango Kerim. Nhưng từ đó tới nay, các cuộc tấn công của ta đều chẳng mang lại kết quả gì. Ta gọi con đến để bảo con điều này, Kouame. Hôm nay ta sẽ dừng lại. Ngày mai ta về vương quốc muối. Để đất nước không người cai trị lâu như vậy là không ổn. Đừng lo, ta sẽ về một mình, để lại cho con quân nữ kỵ mã. Ta không muốn Massaba thất thủ vì ta ra đi. Nhưng nghe ta nói đây này Kouame. Hãy nghe lời mẹ. Con muốn có người đàn bà ấy và con đã chiến đấu vì cô ta. Những thứ mà con có thể giành được cho tới giờ, tương lai sẽ không tặng cho con nữa đâu. Nếu Samilia còn chưa thuộc về con, nó sẽ chẳng bao giờ thuộc về con cả. Các thần linh chắc chắn sẽ không cho ai trong số hai người. Các anh đều mạnh và khôn như nhau. Các anh đánh nhau đến kiệt quệ và chỉ có chiến tranh là lớn mãi lên. Bỏ đi, Kouame. Chẳng có gì đáng xấu hổ. Hãy mang chôn người chết của mình và nhổ vào cái thành phố đã làm con hao tổn rất nhiều này đi. Nhổ cả vào cái con Samilia mặt trát tro ấy. ở đây cuộc đời con cứ tuột ra khỏi con thôi. Con đánh mất tuổi xuân của con trên tường thành Massaba. Mẹ còn biết bao thứ khác cho con. Để mặc kệ cái thằng Sango Kerim lấy Samilia hay đứa nào lấy nó cũng được. Chẳng mong nó đem lại cho con cái gì khác ngoài khóc than và máu. Mẹ thấy con cứ nhìn mẹ, mẹ biết con nghĩ gì. Không. Mẹ chẳng sợ gì Sango Kerim. Mẹ không lẩn trốn chiến tranh. Mẹ đến đây để giúp con rửa nỗi nhục. Cái đứa gây điều ấy cho con, nó không hèn đâu. Nhưng cái việc đem quân mình đi chết cũng chẳng vinh quang gì. Nhẫn nhịn đi, Kouame. Về với mẹ. Ta sẽ mời Sako và người thân của anh ta sang vương quốc chúng ta để họ không bị cắt cổ ở đây sau khi chúng ta rút đi. Chúng ta sẽ cùng rời Massaba vào ban đêm. Không nói cho ai biết. Và sáng ra bọn chó đấy chỉ lấy được thành Massaba rỗng không mà thôi. Tin mẹ đi, chúng ta cũng chẳng nghe tiếng chúng hò reo mừng vui đâu. Khi nào chúng vào được trong các phố âm thầm không sinh khí này chúng sẽ hiểu rằng làm gì có chiến thắng. Thậm chí chúng sẽ hiểu rằng, nghiến răng lại mà hiểu rằng chúng ta đã rời bỏ chiến tranh vì cuộc sống, để chúng lại trong bụi mù chiến trường, giữa cái chết và các thứ ảo ảnh.”
Mazébu đã nói như vậy. Kouame nghe bà mà không nói năng gì, mặt không biểu cảm. Anh không rời mắt khỏi bà. Khi bà dứt lời, anh chỉ nói:
“Mẹ đã sinh ra con hai lần mẹ ạ. Ngày mẹ sinh con và ngày mẹ đến cứu thành Massaba. Mẹ không phải hổ thẹn về điều gì. Vinh quang vẫn ở trước mẹ. Mẹ về cho bình yên nhưng đừng bắt con phải theo mẹ. Con còn phải lấy một người vợ và giết một kẻ thù.”
Nữ hoàng Mazébu rời Massaba. Ban đêm. Trên con zebu của bà. Cùng đi với bà có khoảng mươi kỵ sĩ. Bà để lại đằng sau người con trai đang mơ tới hôn lễ đẫm máu. Bà để lại bảy ngọn đồi chìm trong một cái chết dần mòn.
Chiến tranh lại tiếp tục và chiến thắng còn chưa chọn phe nào. Cả hai đội quân đều ngày càng trở nên bẩn thỉu và cùng kiệt. Đâu đâu cũng vật vờ những bóng hình xương xẩu. Những thân người khô khỏng và mòn mỏi trong tang tóc và thời gian.
Từ nhiều đêm rồi, xác Tsongor bị dằn vặt. Thân hình ông hay bị giật nảy lên, như trẻ con lên cơn sốt. Trong giấc ngủ của người chết, mặt ông nhăn nhó. Katabolonga còn thấy ông đưa hai bàn tay xương xẩu đã chết lên bịt chặt lấy tai. Người hầu không biết làm gì. Có chuyện gì đó xảy ra mà ông không biết được. Ông chỉ có thể nhìn nỗi khắc khoải xâm chiếm thân hình ông vua già. Một đêm, Tsongor không chịu được nữa mở mắt và nói. Giọng ông đổi khác. Đây là giọng của một người đã thất bại.
“Ta nghe thấy tiếng cười của cha ta.” Tsongor nói.
Katabolonga không biết gì về cha của Tsongor. Ông không bao giờ nói tới. Katabolonga thì luôn có cảm tưởng rằng nhà vua sinh ra sau một sự kết hợp giữa một con ngựa và một thành bang. Ông im lặng và Tsongor tiếp tục.
“Cha ta cười. Ta nghe tiếng ông vang không dứt trong đầu ta. Cũng vẫn với cái giọng ngày cuối cùng ta gặp ông. Ông ấy nằm trên giường. Cho người tìm ta và báo rằng ông ấy sắp qua đời. Vừa nhìn thấy ta ông đã phá lên cười. Tiếng cười khinh miệt làm tấm thân già của ông rung lên từng chặp. Ông cười trong căm thù. Ông cười để hạ nhục ta. Ta không ở lại. Ta không gặp lại ông lần nào nữa. Chính vào lúc đó mà ta quyết định sẽ không mong đợi gì ở cha ta. Kiểu cười của ông nói rằng ông sẽ chẳng để lại gì cho ta. Ông cười trên niềm hy vọng được thừa kế của ta. Ông đã nhầm. Dù ông có để lại cho ta cái vương quốc bé tí teo đó, ta cũng chẳng muốn nào. Ta muốn nhiều hơn thế. Ta muốn xây lên một vương quốc khiến người ta quên ngay vương quốc của cha ta. Để xóa tiếng cười của ông. Tất cả những gì ta đã làm từ đó tới nay, các chiến dịch, hành quân, các cuộc chinh phạt, xây dựng thành bang, ta đã làm tất cả những việc đó để tránh xa giọng cười của cha ta. Nhưng hôm nay nó trở lại. Ta nghe thấy trong đêm như ta đã từng nghe thấy ngày xưa. Vẫn tiếng cười man dại ấy. Ngươi có biết nó nói gì không, Katabolonga? Nó nói rằng ta đã chẳng để lại được gì cho con cháu ta. Ta đã xây dựng đô thành này. Ngươi biết rõ điều này hơn ai hết vì ngươi luôn ở bên ta. Thành phố được xây để tồn tại mãi. Giờ đây còn lại gì? Đó quả là lời nguyền của dòng họ Tsongor, Katabolonga. Từ cha tới con, chỉ còn lại cát bụi và sự khinh bỉ. Ta đã thất bại rồi. Ta muốn có một vương quốc để truyền lại cho con cháu. Để con cháu ta làm nó thịnh vượng hơn lên. Nhưng cha ta đã quay trở lại. Ông cười. Và ông đúng. Ông cười về cái chết của Liboko. Ông cười về thành Massaba bốc cháy. Ông ấy cười. Tất cả đều sụp đổ và chết quanh ta. Ta thật là huênh hoang. Ta biết lẽ ra ta đã phải làm gì. Lẽ ra ta phải để lại cho các con ta bản chất của con người ta, lẽ ra ta phải để lại cho các con tiếng cười của cha ta. Lẽ ra trước khi ta chết, ta phải cho gọi chúng lại và ra lệnh đốt cháy kinh thành Massaba trước mắt chúng. Sao cho không còn lại chút gì. Lẽ ra ta phải làm như vậy. Và phải cười trong khi lửa cháy, như cha ta đã cười xưa kia. Sau khi ta chết, lẽ ra chúng chỉ còn có chút tro tàn làm của thừa kế. Và một nỗi tham lam khủng khiếp. Và chúng sẽ phải xây dựng tất cả lại từ đầu. Để tìm lại được hạnh phúc của cuộc sống trước đây. Lẽ ra ta phải truyền được cho chúng nỗi ham muốn vượt qua cha ông. Chẳng có gì khác ngoài các niềm tham lam làm chúng thót cả bụng lại. Có lẽ chúng sẽ ghét ta, như ta đã từng ghét cái ông già chửi ta trước khi chết. Nhưng có lẽ chính niềm căm giận người cha sẽ làm chúng ta gần nhau hơn. Chúng lẽ ra đã xứng đáng là con ta. Còn giờ đây chúng là gì? Tiếng cười của cha ta đã đúng. Lẽ ra ta nên phá hủy tất cả.”
Katabolonga không nói năng gì. Ông không biết nói gì. Massaba đã bị phá hủy. Liboko bị giết. Có lẽ Tsongor nói đúng. Có lẽ ông đã trao lại cho các con bạo lực dã man của loài ngựa chiến. Niềm say mê máu và lửa. Trong người Tsongor có những thứ đó. Katabolonga biết rõ hơn ai hết.
“Tsongor, ông nói đúng, - Katabolonga nhẹ nhàng nói. - Ông đã thua. Các con ông giằng xé vương quốc và chẳng giữ lại được gì chúng có từ ông. Nhưng còn tôi, ông đã cho Souba được thừa kế tôi mà.”
Tsongor thoạt tiên không hiểu. Ông không hiểu tại sao Katabolonga lại có thể nghĩ rằng ông là một vật để thừa kế. Nhưng dần dần, ông cảm thấy mà không biết tại sao, rằng điều đó là đúng. Tất cả sắp bị hủy diệt. Tất cả. Chỉ còn lại Katabolonga. Bình thản trong đống đổ nát. Chỉ mình ông giữ được thứ làm di sản thừa kế của nhà Tsongor. Lòng trung thành của Katabolonga đang chờ đợi Souba. Với sự kiên nhẫn ương ngạnh và không lay chuyển. Có lẽ ông đã truyền lại điều đó cho Souba. Mà con ông không biết thế. Sự trung thành bình tĩnh của Katabolonga. Ông nhắm mắt lại. Đúng. Bạn ông nói đúng. Vì tiếng cười của cha ông không vang lên trong đầu ông nữa.
Không, chiến thắng không đến ngay. Mazébu đã rời Massaba và Kouame đã bắt đầu nghĩ rằng mẹ anh có lý. Anh sẽ không bao giờ thắng. Nhưng anh không thể quyết định ra đi như mẹ anh đã từng khuyên. Không phải vì sợ bị chê là hèn nhát. Anh cười nhạo vào điều đó. Nhưng ý tưởng phải để Samilia lại cho Sango Kerim hưởng lạc với nàng khiến anh ghê tởm. Anh tưởng tượng ra cảnh họ ôm ấp nhau và ý nghĩ đó khiến anh phát nấc vì tởm lợm. Tuy nhiên, ham muốn đánh nhau đã không còn trong anh. Anh kém khôn khéo hơn. Anh xông lên tấn công không còn với niềm căm giận như trước nữa. Một chiều sau trận đánh mà chỉ là một thứ đâm chém lộn xộn chẳng ai thắng ai, anh nhìn các đồng đội. Ông già Barnak người đã thêm còng vì thời gian. Ông đi mà lưng sụt hẳn xuống. Người ta còn nhìn thấy bả vai xương xẩu của ông nhô lên dưới lớp da. Ông nói lẩm bẩm một mình và kể từ nay chẳng gì có thể làm ông tách khỏi được những cơn mơ mờ mịt khói thuốc. Arkalas không rời quần áo chiến đấu ra nữa. Buổi tối ông cười trong lều với đám hồn ma quây quanh ông. Sako vẫn còn tráng kiện nhưng râu mọc dài trong suốt ngần ấy năm tháng khiến anh có vẻ như một ẩn sĩ đang chiến đấu. Có lẽ chỉ còn có Gonomor là còn chưa thay đổi mấy. Nhưng đó là vì ông là thầy cả của thần linh và thời gian chẳng để lại nhiều dấu ấn trên con người ông. Kouame nhìn đoàn lũ bạn mình từ chiến trường trở về, kéo lê vũ khí, chân dầm trong cát và tư duy cũng ngập tràn những cát. Anh nhìn đám người đã ngừng sống, ngừng nói, ngừng cười từ lâu rồi. Anh nhìn tất cả bọn họ rồi lẩm bẩm:
“Không thể thế. Chuyện này phải chấm dứt thôi.”
Sáng hôm sau, anh ra lệnh cho mọi người chuẩn bị ra chiến trường trên đồng bằng Massaba. Cho một sứ giả đến báo với Sango Kerim rằng anh đợi Sango. Anh yêu cầu Sango Kerim đến cùng với Samilia. Và thề rằng sẽ không có một mưu mẹo nào đằng sau những yêu cầu đó.
Hai đội quân chuẩn bị như mọi khi. Nhưng mỗi người trước khi khoác lên người bộ giáp bằng da hay đóng yên cương cho vật cưỡi, đều có cảm tưởng rằng sẽ có chuyện xảy ra làm thay đổi cuộc thảm sát hàng ngày.
Cả hai đạo quân tiến lên theo bước chân ngựa chậm chạp. Vó ngựa nghiến trèo trẹo những xương sọ và xương người trên đường đi. Khi hai đạo quân đến cách nhau vài chục mét, họ dừng lại, không tiến thêm nữa. Tất cả mọi người đều có mặt. Phía quân du mục có Rassamilagh, Bandiagara, Orios, Danga và Sango Kerim. Đối diện với họ trong yên lặng là Sako, Kouame, Gonomor, Barnak và Arkalas. Samilia đứng cạnh Sango Kerim. Nàng cưỡi một con ngựa ô đen bóng. Mặt che mạng. Dáng nàng thẳng cứng lạnh lùng trong bộ đồ tang.
Kouame tiến lên. Khi còn cách Sango Kerim và Samilia vài bước chân, anh nói to cho mọi người cùng nghe rõ những điều anh muốn nói.
“Sango Kerim, đối với ta cảm giác lại đứng đối mặt với ngươi rất lạ lùng. Ta không chối rằng lúc trước ta tưởng mẹ ngươi đẻ ra một cái xác chết và chỉ cần hất ngươi ngã xuống là sẽ thấy xương ngươi rơi lả tả trong cát. Nhưng chúng ta đánh nhau suốt ngần ấy thời gian không ngừng nghỉ và không đòn nào của ta làm ngươi gục ngã. Ta lại đứng trước mặt ngươi đây, rất gần và ta khao khát được nhảy xổ vào ngươi vì ngươi đứng quá gần và dường như quá dễ giết. Lẽ ra ta đã làm như thế nếu ta không biết rằng một lần nữa thần linh sẽ lại tách rời chúng ta ra và ta sẽ không thể nhúng môi ta vào máu ngươi. Ta căm thù ngươi, Sango Kerim, chắc chắn phải là như thế. Nhưng ta biết ta sẽ không chiến thắng.
- Ngươi nói có lý, Kouame, - Sango Kerim trả lời. - Ta cũng chẳng bao giờ ngờ rằng ta có thể đứng gần ngươi thế này mà lại không cố hết sức để cắt cổ ngươi. Nhưng thần linh cũng bảo ta rằng các người không ban cho ta niềm vui đó.
- Ta nhìn quân đội của ngươi, Sango Kerim, và ta hài lòng nhận thấy rằng nó cũng tan tác như quân của ta. Chúng ta chỉ còn là hai đám người mệt nhọc phải bám vào ngọn giáo để đừng ngã gục. Phải thừa nhận, Sango Kerim, rằng chúng ta đã kiệt sức và chỉ có cái chết trên bình nguyên này là còn đang lên.
- Ngươi nói đúng Kouame, - Sango Kerim lại nhắc lại. - Chúng ta đánh trận như người mộng du.
- Đó cũng là điều ta nghĩ, Sango Kerim, - Kouame ngừng một lát rồi nói. - Không ai trong hai chúng ta, sau bấy nhiêu trận chiến, chấp nhận nhường Samilia cho kẻ kia. Quá xấu hổ nếu phải đầu hàng. Chỉ còn một cách.
- Ta nghe đây, - Sango Kerim đáp.
- Hãy để Samilia làm cái điều mà cha cô ta đã làm trước đây. Cô ta phải tự sát. Để hòa bình trở lại,” Kouame nói.
Tiếng ồn vang lên trong hai đạo quân. Vũ khí và trang bị chạm nhau lách cách, mọi người truyền nhau những điều nghe được. Sango Kerim tái mặt há hốc miệng. Anh chỉ biết hỏi:
“Ngươi bảo sao?
- Samilia sẽ không thuộc về ai, ngươi biết rõ như ta. Chúng ta đều sẽ chết mà chẳng giành được cô ta. Samilia là tai họa. Hãy để cô ta tự cắt cổ để từ nay chẳng ai được chạm vào cô ta nữa. Đừng tưởng rằng ta kết án nàng một cách dễ dàng. Chưa bao giờ ta khao khát được có nàng làm vợ như ngày hôm nay. Nhưng nếu Samilia chết, hai đạo quân của chúng ta sẽ ngừng chiến và thoát khỏi cái chết.”
Kouame say mê nói. Mặt anh đỏ bừng bừng. Nhìn đã biết ngay rằng điều anh vừa nói thiêu đốt tâm can anh. Anh vặn vẹo người trên lưng ngựa.
“Sao ngươi dám nói thế, - Sango Kerim vặc trả. - Ta đã tưởng rằng ngươi là người biết nghĩ nhưng hóa ra những năm chiến đấu này đã làm ngươi phát rồ.”
Kouame hộc lên. Không phải vì điều mà Sango Kerim vừa nói. Anh chỉ nghe được loáng thoáng. Không. Đó là nỗi điên giận trong anh. Điều anh vừa nói, anh không muốn nói ra. Anh nhìn Samilia đang lạnh lùng đứng trước mặt anh và anh kết án nàng phải chết trong khi anh khao khát được ôm nàng trong tay. Nhưng anh đã nói. Bừng bừng như trong cơn sốt. Và giờ đây phải đi tới cùng. Dù có phát điên lên vì đau đớn cũng mặc.
“Đừng có làm vẻ bị xúc phạm như thế, Sango Kerim. Ngươi bảo vệ người đàn bà này. Thật vinh dự cho ngươi. Nhưng ta sẽ cho ngươi biết một điều làm ngươi thay đổi ý kiến. Cái người đàn bà mà ngươi bảo vệ ấy, cô ta đã ngủ với ta. Chính cô ta đã chọn đi theo phe ngươi, thế mà cô ta đã hiến dâng thân xác cho ta một đêm, trong doanh trại của ngươi. Ta không nói dối. Cô ấy ở đây. Cô ấy sẽ nói. Samilia, điều đó có đúng không?”
Im phăng phắc. Những con diều hâu cũng ngừng không lao xuống rỉa xác chết nữa và quay đầu về phía hàng quân. Samilia vẫn lạnh lùng. Từ sau tấm mạng đen, nàng đáp:
“Đúng.
- Tôi có cưỡng hiếp em không? - Kouame gần như phát điên lên hỏi.
- Chưa bao giờ có ai cưỡng hiếp được ta và cũng sẽ không bao giờ có ai làm được điều đó”, Samilia trả lời.
Nét mặt Sango Kerim trở nên méo mó. Một nỗi căm hận lạnh lùng làm anh tê dại toàn thân. Anh không thể nói, không thể cử động được. Kouame vẫn tiếp tục, càng lúc càng sôi sục lên.
“Hiểu chưa Sango Kerim? Cô ta không bao giờ thuộc về ai trong chúng ta. Và chúng ta cứ sẽ tiếp tục tàn sát nhau mãi. Chỉ còn mỗi cách ấy thôi: Cô ấy phải chết. Hãy để cô ta noi gương cha mình.”
Sango Kerim quay đầu ngựa về phía Samilia và nói trước đám đông các binh sĩ đang bàng hoàng vì sự việc:
“Suốt thời gian qua, ta chiến đấu vì ngươi, để trung thành với lời thề ngày trước. Để dâng cho ngươi tên ta, giường ta và thành phố Massaba. Ta đã dấy lên cả một đạo quân du mục. Vì tình bạn với ta, họ chấp nhận tới tận đây để chết. Hôm nay ta mới biết rằng ngươi đã hiến thân cho Kouame. Hắn đã làm chủ thể xác ngươi. Được lắm. Thế thì ta cũng theo hắn và ta cũng đòi ngươi phải chết. Nhìn tất cả những người này, nhìn tất cả hai đạo quân này, hãy tự nhủ rằng chỉ vung tay một cái là ngươi cứu được mạng sống của họ. Mặc dầu ngươi đã bị ô uế, ta sẽ không bao giờ chịu bỏ ngươi cho Kouame. Nếu như thế ta bị nhục tới hai lần. Nhưng nếu ngươi tự vẫn, ngươi sẽ không thuộc về ai. Và khi linh hồn ngươi rời khỏi xác, khi tóc ngươi đẫm máu, ngươi sẽ nghe thấy tiếng quân reo vì được ngươi trả cho cuộc sống.”
Kouame cười như một thằng mất trí trước những lời nói của Sango Kerim. Anh đi đi lại lại trong hàng ngũ quân mình và hỏi tất cả mọi người: “Anh có muốn cô ta chết không? Còn anh, có muốn cô ta chết không?” và càng ngày càng có nhiều tiếng nói thét lên từ hai đạo quân: “Được lắm, cho nó chết đi!” Hàng chục, rồi hàng trăm, rồi toàn quân. Những con người này dường như đột nhiên lại tìm thấy hy vọng. Họ nhìn tấm thân mảnh khảnh, đen thẫm, bất động và họ hiểu rằng chỉ cần nàng biến mất và mọi việc sẽ chấm dứt. Thế là ai ai cũng hét lên. Ngày càng gào to hơn. Tất cả cùng hét lên. Vui sướng. Phẫn nộ. Đúng thế, Samilia phải chết. Và mọi thứ sẽ chấm dứt.
Sango Kerim vẫy tay ra hiệu cho tất cả lại trở lại yên lặng và tất cả quay về phía người đàn bà đang câm nín. Nàng từ từ vén tấm mạng che mặt. Tất cả các chiến binh có thể nhìn thấy gương mặt của kẻ mà vì kẻ đó họ chết từ bao lâu nay. Nàng đẹp. Nàng cất tiếng nói và cát trong bình nguyên sẽ còn nhớ mãi giọng nàng.
“Các người muốn ta chết. Đứng trước toàn quân của các người, các người muốn chấm dứt chiến tranh. Được. Hãy cắt cổ ta và thỏa thuận hòa bình đi. Và nếu không ai trong số hai người có đủ can đảm làm việc ấy, một tên quân nào cũng được, tiến lên đi và làm thay chủ cái điều mà chủ tướng hắn không dám làm đi. Ta có một mình. Trước hàng ngàn con người đang vây quanh ta. Ta không trốn và nếu ta có giẫy giụa, các người sẽ dễ dàng trói được thôi. Nào. Ai đó tiến lên đi và thế là kết thúc mọi việc. Nhưng không. Các người không nhúc nhích. Các người không nói gì. Các người không muốn thế chứ gì. Các người muốn ta phải tự vẫn cơ. Lại còn dám ngang nhiên nói điều ấy vào mặt ta. Không bao giờ. Các người nghe rõ chưa. Ta đâu có xin gì, đòi hỏi gì. Các người đến gặp cha ta, mới đầu là đem theo lễ vật, rồi đem theo quân đội. Chiến tranh đã nổ ra. Ta được gì ở đây? Nhiều đêm tang tóc, nếp nhăn trên mặt và một chút đất bụi. Không. Ta sẽ không bao giờ làm thế. Ta không muốn rời bỏ cuộc sống. Ta chưa được hưởng gì từ cuộc sống. Trước đây ta giàu có, giờ đây thành bang ta bị hủy diệt. Trước đây ta hạnh phúc, giờ đây cha ta đã chết và anh trai ta đã được chôn rồi. Ta đã hiến thân cho Kouame. Đúng. Vào đêm trước cái ngày mà nếu Mazébu không tới, thành Massaba đã thất thủ. Nếu ta làm điều ấy thì đó chỉ là vì người đàn ông đến với ta đêm ấy đã là một người chết. Ta làm tình như người ta vuốt ve trán một người chết mà thôi. Để anh ta còn giữ được càng lâu chừng nào càng tốt hương vị của cuộc đời. Ngươi đến đây, Kouame, và ngươi nói điều này trước toàn quân. Nhưng ta đâu có hiến thân cho ngươi. Ta dâng thân xác ta cho cái hình bóng đã thất bại của ngươi. Ta nguyền rủa cả hai người vì đã dám muốn ta tự sát. Còn các anh trai, các anh không nói năng gì. Các anh không có lời nào để ngăn cản hai kẻ hèn này lại. Ta nhìn thấy trong ánh mắt các anh, các anh cũng đồng lòng để ta phải chết. Các anh hy vọng thế. Ta nguyền rủa cả các anh, thề có vua cha Tsongor. Nghe cho kỹ những gì Samilia nói đây. Không bao giờ ta cắm mũi dao vào da thịt ta. Nếu các người muốn ta phải chết, đâm ta đi, làm ô uế bàn tay các người đi. Còn hơn thế nữa. Kể từ ngày hôm nay, ta không thuộc về ai hết. Ta nhổ vào ngươi, Sango Kerim và vào những kỷ niệm ấu thơ. Ta nhổ vào ngươi, Kouame, và vào người mẹ đã sinh ra ngươi. Ta nhổ vào các người, hỡi các anh trai ta, các người đang tiêu diệt lẫn nhau vì lòng hận thù ăn trong xương tủy các người. Ta cho các người một giải pháp khác để chấm dứt chiến tranh. Ta sẽ không thuộc về ai nữa hết. Có lôi tóc ta mà kéo cũng chẳng bắt được ta nằm vào giường của ai. Chẳng có gì để bắt các người phải đánh nhau nữa. Vì kể từ ngày hôm nay, ta không còn là cái cớ để các người đánh nhau.”
Trong im lặng nặng nề, Samilia chẳng thèm nhìn các anh trai, quay lưng lại toàn quân và bỏ đi. Nàng đi một mình. Không mang theo gì hết. Nàng để cuộc đời mình lại phía sau. Kouame và Sango Kerim đang định rượt theo nàng thì bỗng có một tiếng hú kỳ dị chặn họ lại. Tiếng hú vang lên trong hàng ngũ quân Kouame. Vang vọng và gằn. Tiếng kêu như vọng lại từ thế kỷ nào xa xưa.
“Đồ chó, mày đây rồi. Cầu cho mày, cho dòng họ mày là một đàn xác chết thối tha.”
Mọi người đang tìm xem ai nói những lời đó và nói với ai. Mọi người nhìn khắp nơi. Trước khi người ta kịp hiểu ra ai vừa nói, một tiếng thét xung trận vang lên và Arkalas lao ra như một mũi tên. Chính là ông, người chiến binh điên rồ, đã thốt ra những lời như vậy. Không ai nhận ra ngay tiếng ông vì đã từ lâu ông không thốt ra một lời nào. Bandiagara đứng cạnh Sango Kerim và Arkalas mãi mới nhận ra ông. Đã trôi qua lâu rồi cái ngày mà Arkalas, dưới ảnh hưởng của phù phép của Bandiagara, đã tàn sát có hệ thống tất cả quân của mình. Đột nhiên, trong tâm thần rối loạn của ông, ông như thấy lại tất cả. Và chỉ tới lúc đó, ông mới cất tiếng nói. Và chỉ cần một giây thôi là ông đã chồm lên kẻ thù của mình. Trước khi có người kịp can thiệp, ông nhảy xuống khỏi ngựa và treo như một con dơi vào giữa mặt của Bandiagara. Với sự cuồng nộ của loài sói ăn thịt người chết, ông ăn nghiến ngấu mặt Bandiagara. Ông cắn từng miếng to, thủng mặt. Mũi. Má. Ông giằng xé tất.
Nỗi khiếp sợ òa ra trong toàn quân. Arkalas lôi kéo cả hai đạo quân vào trận chiến. Tất cả lại hỗn loạn. Kouame và Sango Kerim không thể nào đuổi theo Samilia được. Thoáng một cái có cả chục người vây lấy hai thủ lĩnh và họ lại buộc phải chiến đấu. Lại bị tấn công từ mọi phía. Không thể nào dứt mình khỏi bàn tay chiến tranh. Và Samilia chậm rãi biến mất sau ngọn đồi xa nhất.
Trận đánh kéo dài cả ngày và khi hai đạo quân tách nhau ra, Sango Kerim và Kouame đều thất thần vì mệt và người đầy máu. Đêm đó không ai ngủ được. Cả trong thành lẫn trong doanh trại quân du mục. Những tiếng kêu gào khủng khiếp vang lên trong bóng đêm. Đó là tiếng kêu than méo mó của Bandiagara. Ông nằm giữa chiến trường, vẫn còn chưa được từ bỏ cuộc sống. Arkalas cúi xuống người ông. Ông lôi Bandiagara ra khỏi đám đông để toàn tâm hành hạ ông này và bây giờ khi bãi chiến trường đã vắng, ông lại quay lại như một con chó đói đang tha miếng mồi. Không ai nhìn thấy họ nhưng người ta nghe được tiếng rú lên đau đớn của Bandiagara xen lẫn tiếng cười của tên đao phủ ăn thịt người. Arkalas tiếp tục xé từng mảnh thịt Bandiagara. Thân hình ông này chỉ còn là một đám bầy nhầy rỉ ra những tiếng kêu khóc. Ông xin kẻ giết người kết liễu đời ông hàng nghìn lần. Và Arkalas cũng phá lên cười hàng nghìn lần và rồi lại cắm phập răng vào người Bandiagara.
Bandiagara chết khi bình minh ló rạng. Arkalas bỏ lại một đống thịt bầy nhầy không nhận ra nổi cho đám côn trùng. Răng ông kể từ ngày đó đỏ màu máu. Để nhớ mãi kỷ niệm về cuộc trả thù bằng thịt người này.
Việc xây ngôi mộ chỗ bầy rùa kéo dài nhất và vất vả nhất. Mùi thối khiến cho ngày như không bao giờ kết thúc. Công nhân làm việc không chút hăng hái. Họ phải xây một thứ thật xấu xí và điều này khiến tâm trạng họ nặng nề.
Khi lăng đã xây xong, Souba rời khỏi vùng này và một lần nữa lại lên đường. Anh không biết phải đi đâu tiếp nữa. Lăng xây chỗ bầy rùa đã làm xáo trộn tất cả. Không thể nào phác lại được chân dung của cha anh. Thực ra anh biết những gì về con người thực của Tsongor? Càng đi anh càng cảm thấy không thể nào trả lời được câu hỏi này. Anh nhìn thấy những thành phố lớn với những tường thành vững chắc. Những con đường lát đá nối vùng này với vùng khác. Anh thấy các cây cầu, các kênh dẫn nước và anh biết đây là những công trình của Tsongor. Nhưng anh càng đi và biết tới sự mênh mông bao la của vương quốc, anh càng hiểu thấu sức lực tàn bạo và dã man cần phải có để thiết lập nên một quyền lực như vậy. Anh đã được nghe những truyền thuyết về các cuộc chinh phạt của Tsongor như một người anh hùng. Giờ đây anh thấy cuộc đời cha anh là sự cuồng nộ và mồ hôi. Phải chinh phục nhiều vùng đất. Phải tấn công nhiều thành bang giàu có cho đến khi chúng chết ngạt. Phải tàn sát những kẻ không chịu khuất phục. Phải chém đầu những vị vua già. Souba đi qua vương quốc và hiểu rằng anh chưa biết được gì về nhà vua Tsongor lúc còn trẻ. Những điều ông đã làm. Những gì ông đã bắt kẻ khác phải chịu đựng và những gì ông đã phải hứng chịu. Anh cố hình dung con người đã đưa quân đội của mình vượt quá ngưỡng của sự kiệt quệ trong suốt những tháng năm ấy. Chỉ mình Katabolonga biết được con người ấy.
Phải tìm ra một chỗ nói lên được tất cả những điều đó. Một nơi nào thể hiện được cả nhà vua, người chinh phục, người cha và kẻ giết người. Một nơi nói lên được những bí mật sâu kín nhất của Tsongor, những nỗi sợ hãi, những khát khao và những tội ác của ông. Nhưng một nơi như thế chắc chắn không tồn tại trong vương quốc.
Souba cảm thấy mệt mỏi với nhiệm vụ của mình. Lần đầu tiên anh cảm nhận được rằng anh có thể mất cả đời anh để tìm kiếm và chết trước khi tìm thấy.
Chính lúc đó, trên bước đường vòng vo lang thang, anh đến vùng đất có hai mặt trời. Vào cuối ngày đất ở đây như phát sáng lấp lánh. Mặt trời từ từ lặn và các ngọn đồi sáng lên những tia nắng hắt màu hạnh nhân. Một vài làng xóm dường như bập bềnh trong nắng. Souba dừng lại để ngắm vẻ đẹp thiên nhiên. Anh đứng trên đỉnh một ngọn đồi. Trời còn ấm, thứ hơi ấm mượt mà của cuối chiều. Trước mặt anh chừng vài mét có một cây trắc bách diệp đơn độc im lìm. Souba không nhúc nhích. Anh muốn để cái khoảnh khắc này thấm đượm vào anh. “Đúng là ở đây, anh nghĩ. ở đây. Dưới chân cây trắc bách diệp này. Đơn giản chỉ có thế. Chẳng cần thêm gì nữa. Một ngôi mộ của con người. Sẽ để cho ánh sáng chiếu xuyên qua. Đúng ở đây. Chẳng cần ra tay thêm nữa.” Anh không nhúc nhích. Anh cảm thấy như ở nhà mình. Mọi thứ đều thân thuộc. Anh suy nghĩ rất lâu nhưng dần dần một ý tưởng nảy sinh trong anh và khiến anh trăn trở. Không, Tsongor chắc sẽ không hợp. Sự nhún mình không hợp với ông. Không phải đây là nơi dành cho Tsongor mà là Souba, người con trai cả đời lang thang. Đúng vậy. Giờ đây anh đã tin chắc điều này. Ngày nào anh qua đời, xác anh phải được yên nghỉ nơi đây. Mọi thứ đều bảo anh như vậy.
Anh nhẹ nhàng xuống la và tiến lại gần cây trắc bách diệp. Anh quỳ xuống và cúi hôn mặt đất. Anh bốc một nhúm đất và cho vào một chiếc bùa đeo ở cổ. Anh muốn mang theo mình mùi thơm của mảnh đất có hai mặt trời, nơi sẽ đón anh về một ngày nào đó. Anh đứng dậy và thì thầm với đồi núi và ánh sáng:
“Ta muốn được chôn cất nơi đây. Ta không biết khi nào ta sẽ chết nhưng hôm nay ta đã gặp được nơi chốn của ta. Chính ở đây. Ta sẽ không bao giờ quên. Ta sẽ quay về đây khi tới ngày cuối đời.”
Rồi khi mặt trời đã khuất sau núi, anh lại lên yên và biến mất. Anh biết mình sẽ phải làm gì. Anh đã tìm thấy nơi mình sẽ yên nghỉ. Mỗi người đều như thế. Mỗi người đều có một mảnh đất chờ đợi mình. Một mảnh đất để hòa tan vào đó. Đối với Tsongor cũng vậy. ở nơi nào đó phải có một nơi chốn hợp với ông. Chỉ cần đi tiếp. Anh sẽ tìm thấy. Xây nhiều lăng cũng không ích gì. Anh sẽ không bao giờ xây được hình ảnh chân thực và hoàn hảo của cha anh. Cần phải đi nữa. Nơi chốn đó tồn tại. Anh siết chặt chiếc bùa. Bây giờ phải tìm ra mảnh đất của Tsongor. Sẽ rất rõ ràng hiển nhiên. Anh cảm thấy thế. Và khi đó nhiệm vụ của anh sẽ hoàn thành.