The walls of books around him, dense with the past, formed a kind of insulation against the present world and its disasters.

Ross MacDonald

 
 
 
 
 
Tác giả: Kim Nhật
Thể loại: Tùy Bút
Upload bìa: nguyễn quang
Số chương: 8
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: /
Cập nhật: 2025-11-08 19:43:20 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
17 Rừng Biên Giới
uả thực cái sinh hoạt, cái nếp sống tại đây hoàn toàn khác chắc chắn, xa lạ với cái cái sống mà tôi đã sống qua trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, hay trong thời gian ở Khu A mới đây.
Từ cái sinh hoạt theo kiểu công chức bạch tuộc, theo kiểu «kẹo kéo' của Mỹ cơm ai ai ăn, nhà ai ai ở, tiền ai ai xài vv.., cả đến cách nói chuyện cũng bị chia theo tôn giáo ti theo phong cách, «kẹo cao người thấp» và lúc nào mở miệng ra là nghe nói đến những nguyên tắc», «chế độ», «tiêu chuẩn», «nghị quyết» rồi «báo cáo», «thỉnh thị', «mệnh lệnh' vv.., làm tôi Vốn đã có ác cảm càng sâu hơn.
Sự phân chia tầng thứ, cấp bậc ở đây là một thứ tự nhiên như cơm ăn áo mặc. Phân chia một cách triệt để, hết sức chặt chẽ theo một trật tự mới của cách mạng, làm cho giá trị con người trở thành những loại hàng quy ước sẵn, mà đối với tôi nó xốn xang làm sao.
Giá trị tùy chọn của các loại thành viên hay thành viên hoặc quần chúng. Trong ba loại đó cũng được phân chia lần nữa qua thành phần giai cấp: bần cố nông hay phú nông địa chủ, hoặc tư sản, tiểu tư sản thức thức vv.. Cán bộ thì phân loại theo kiểu sơ cấp, trung cấp, cao cấp, theo kiểu «mùa thu», «mùa đông» về Nam sớm hay ném vv..
Phe Quốc Gia, phe Tư Bản, Đế Quốc cũng có những tôn giáo ti trật tự, những sự phân chia ngồi thứ nhưng có đến nỗi đau mất cái bản ngã và tâm hồn của con người đến như thế này. Nó còn quá quắt, gấp nhiều lần hơn thứ tôn ti trật tự đại phong kiến ​​xa xưa.
Từ ngày về đây, tôi được giao nhiệm vụ mới ở văn phòng 1739 Tức Cục Tham Mưu R. Ba Đình thì đã trở về Khu A làm Tư lệnh công trường 9.
Một lần, nhân lúc dịch hoàn thành việc lấy cắp tài liệu báo cáo của Mỹ ở bất kỳ nơi nào, tôi được lệnh mang đến ngay chương trình cho anh Sáu Vi xem. Lần đó là lần đầu tiên, cũng là lần duy nhất tôi được gặp anh Sáu Vi, tức đại tướng Nguyễn Chí Thanh, bằng xương bằng thịt tại chiến khu này.
Trong bộ đồ pyjama bằng vải đen, cao cổ, loại cao cổ của Trung Quốc làm nước da ngăm ngăm đen của đại tướng càng sâu màu hơn. Anh em trước đây có nói cho tôi biết rằng đại tướng mập mạp, vạm gãy, cao lớn người, có lẽ điều này chỉ đúng khi đại tướng còn ở Hà Nội trong những năm trước đây. Giờ thì đại tướng đã gầy đi nhiều, má hơi cóp lại, nhô lên. Chiếc góc vuông như bạn ra.
Tôi bước vào nhà giữa đại tướng đang nằm trên chiếc nhẫn dù đôi, màu cứt ngựa, giăng ở hàng hiên, mang kính viễn vọng đọc một tập sách bằng chữ Trung quốc. Gương mặt chữ điền với đôi mắt đờ đẫn dưới hàng chân mày đậm nét mặt đại tướng có vẻ mệt mỏi như người mới ngọc dậy. Mái tóc hớt thấp muối tiêu.
Cử chỉ của đại tướng lúc đó từ phong phú, chậm chạp, tôi cố gắng nỗ lực nhưng không sao tìm thấy quatrang dấp bên ngoài đó, một đặc điểm, một nét khác biệt, phi thường nào của một viên đại dù đó là đại tướng về chính trị.
Có lẽ đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã được báo trước việc tôi mang tài liệu dịch đến và nghe giới thiệu sơ lược rõ ràng về tôi là một cựu sinh viên luật khoa ở Sài Gòn. Đại tướng nhìn kỹ tôi một lần nữa, lúc sửa ngồi dậy. Rồi cười nụ, cảm ơn tôi theo kiểu xã giao.
Đoạn đại tướng hỏi tôi mấy câu về chương trình giáo dục ở các đại học Sài Gòn, về đời sống của các giới và ý thức chính trị của nhân dân đô thị.
Trong cuộc nói chuyện gần đây một giờ đồng hồ, lần đó, tôi không hề nghe đại tướng Nguyễn Chí Thanh phát biểu một ý kiến ​​nào. Lẳng lặng ngồi nghe, nghe một cách chăm chú, mời gọi câu hỏi và cười nụ, làm những vết nhăn hai bên khóe cao độ sâu kéo dài ra.
Chỉ lần ấy rồi thôi.
Vào những ngày cận kề Tết đầu năm 1966, Năm Thạch tức thiếu tướng Hoàng Cầm từ công trường 9 về Triển lãm ở Bộ Chỉ huy. Trong lúc ngồi uống trà với anh Ba Long, tình cờ tôi được nghe qua câu chuyện đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã về Hà Nội Hội nghị Bộ chính trị, ở ăn Tết xong mới vào.
Và sau đó, những ngày tháng ba năm 1966, khi phái quân đoàn Cu Ba do nữ ký giả Martha làm trưởng đoàn thăm « chiến khu » lên đường trở về thủ đô La Havane thì, một buổi tối một đồng chí cảnh vệ thì thầm cho tôi biết bà Đại tướng đau nặng lắm.
Tôi hỏi cậu ta:
- Sao cậu biết?
Cậu ta hướng mắt, khoa tay:
- Thì em mới dẫn đường, đưa ông bác sĩ Ba Nhân với ông bác sĩ Ba Kính từ Phòng Thường Trực vào bệnh xá 70 nè. Hai ông đó ở K70 được điện khẩn của Bộ Chỉ huy kêu về gấp. Trên đường đi em nghe hai ổng nói chuyện với nhau.
- À! Tôi trèo lên.
Thì ra, sau Tết từ Hà Nội trở về căn cứ Bộ Chỉ huy Ba Cục, đại tướng Nguyễn Chí Thanh không vào một mình mà còn có cả vợ đi theo. Rồi bà Nguyễn Chí Thanh ngã bệnh. Dĩ nhiên, Bộ chỉ huy, Quânủ phải cung cấp tốc độ hồi phục thầy thuốc đến điều trị.
Dù sao đi nữa, bệnh xá 70 vẫn là loại bệnh xá dã chiến, đặc biệt, dành cho các tướng lãnh trong Bộ Chỉ huy. Từ trước đến nay tuy chưa phải cứu cấp cho một tướng nào, nhưng mạnh mẽ thuốc men không bao giờ thiếu.
Và những phương tiện tối tân tuy không có, ít ra nó cũng có những phương tiện «tự tạo» đủ để làm những cuộc cấp cứu thông thường.
Kể ra, Bộ Chỉ huy gọi Ba Nhân, Ba Kính đến điều trị cho bà Nguyễn Chí Thanh cũng đã quá đủ về phương diện «chuyên viên» rồi.
Ba Nhân tức bác sĩ Nguyễn Thiện Thành mà Đại trước đây từng bảo đó là một trong những sư tổ y khoa. Còn Ba Kính tức bác sĩ Vũ Trọng Kính cũng là một sư tổ y khoa, phó tiến sĩ y học Liên Xô về chấn thương mà tôi đã gặp ở bệnh viện đội 17 của Khu A.
Bây giờ, Kính đã về Khu B, «cư trú» tại bệnh viện K71 cùng với Ba Nhân, cho nên cả hai được triệu hồi về điều trị cho bà Đại tướng.
Không biết kết quả của một cuộc điều trị ra sao và bà Đại tướng thiết bị bệnh gì, để sau đó hai bác sĩ thượng tá Nhân và Kính phải «hộ' bệnh nhân vượt biên giới Mimot đưa đến tận Nam Vang. Rồi bệnh nhân được chuyển thẳng về Hà Nội trên chuyến phi cơ Iliouchine vào ngày thứ sáu của hàng không dân dụng Liên Xô.
Lượt về, vì lý do «chiến thuật» đổi trình bày về qua ngã Sway-riêng, làm khi đến biên giới Tà Băng vệ sĩ của Nhân bị bom B52 Cánh mất xác. Suýt tí nữa, Nhân và Kính cũng phải đi chầu trời sau một lần đi....chữa bệnh cho bà Đại tướng.
Không như Khu A với rừng sâu hoang vu, bóng cả cây già, rừng Khu B toàn rừng sâu, cây thấp, nhiều trảng tranh tiếp nối chạy ngút ngàn, xuyên dọc vùng biên giới. Phần lớn toàn rừng.
Do đó, những con mòng mòn ngang dọc Khu B tiếp nối từ chiến khu Dương Minh Châu từ khu C «tam giác sắt» Long Nguyên, Hố Bình, Núi Cậu cho đến bên kia biên giới Miên là những con đường lộ thiên, luôn luôn được phi theo dõi cơ khí liên tục.
Sau chiến dịch Đồng Xoài tháng 6 năm 1965, địa bàn chiến tranh miền Nam đã chuyển sang một hình thái mới. Cấp độ ác liệt của chiến tranh xung đột leo thang, bằng thang máy, vì sự tham gia trực tiếp quân đội Mỹ và đồng minh Australia, Tân Tây Lan, Đại Hàn vv..
Hơn bao giờ hết, Trung Ương Cục và Quân ủy không ngừng nhắc nhở, đề cao ý thức chịu đựng gian khổ cao độ, đề cao sự hy sinh tuyệt đối cho Đảng. Cuộc chỉnh sửa toàn quân 1966, Quân văn đưa ra tài liệu nghị quyết Trung Ương ra cho từ trên xuống dưới học tập, thảo luận,
Nghị quyết đó có thể bao gồm nhiều quyết định «tình hình mới», «nhiệm vụ mới». Cách mạng miền Nam bước vào giai đoạn khó khăn về mọi mặt nhất là về phương diện hậu cần, phải tổ chức lại, phân tán đinh, phải áp dụng triệt để tư tưởng chiến tranh nhân dân với chiến thuật du kích chiến vv..
Về tình hình căn cứ ở khu chiến tranh, Bộ Chỉ huy cũng báo cho biết bây giờ không có nơi nào được coi là an toàn, là hậu phương vững chắc nữa. Nơi nào cũng có thể là chiến trường. Tiền tuyến và hậu phương lộn vì sức mạnh và lực tối đa của quân đội Mỹ, đồng minh, tham gia vào cuộc chiến.
Lệnh cảnh báo toàn Khu B, cấp một, cấp hai của Cục Tham Mưu (tức B1) cứ thông báo liên miên. Toàn Khu B trong tình trạng chuẩn bị chống càn thường trực. Kế hoạch bảo vệ Khu B, kế hoạch chiến đấu B1 được đưa ra là Ba Long trực tiếp chỉ đạo chung.
Ngoài ra, việc điều động công trường 9 về bảo vệ căn cứ và kết hợp các trung đoàn thực binh từ miền Bắc như Trung đoàn 140, Trung đoàn 116...thành lập công trường 7 để đối phó, Tất cả các quản bộ tham số của B1 được lệnh tập trung phân phối đi khắp cơ quan, đơn vị R đóng ở Khu B để hướng dẫn, huấn luyện tất cả mọi người, mọi đơn vị công tác chiến đấu, bảo vệ, càn,....
Mặt khác, Bộ Chỉ huy R cho một trung đoàn đột phá Mimot xây dựng căn cứ hai cho R, chuẩn bị cho những ngày sẽ tới. B1 cũng nghiên cứu toàn bộ kế hoạch phân phối cơ sở đóng quân cho toàn bộ các đơn vị trực thuộc R đóng trên đất Khu B. Đơn vị nào cũng phải có cơ sở dự phòng. Các đơn vị trực thuộc R, ngoài các đơn vị chiến đấu, bảo vệ, còn vô số cơ quan, bộ phận tĩnh tại Ba Cục. Có nhiều đơn vị trực thuộc nhất là Cục Hậu Cần với các hệ thống tiếp liệu, kho dự trữ, thu mua, hệ thống quân đội y, bệnh viện, vườn dược liệu vv..nhưng Cục cũng có nhiều cơ quan, đơn vị bí mật, ít người biết đến nhất lại là Cục Chính Trị.
Ngoại trừ các Đảng ủy viên của Đảng ủy Ủy trị hay ủy viên Quân ủy, không ai có thể biết được Cục Chính Trị có những cơ quan nào, bộ phận nào, công tác ra sao trong công việc điều hành Quân ủy, quản lý cán bộ, các trường huấn luyện, thông tin quốc nội, quốc ngoại, báo chí, phát thanh, binh chiến đấu, văn công, giáo dục vv..cho đến cả các tù binh, giam an dưỡng. Cán bộ lãnh đạo đơn vị trực tiếp này không biết có thể quản lý các đơn vị trực thuộc khác là điều thường thấy. By chưa bao giờ có chuyện hội nghị toàn Cục Chính Trị. Công tác ai ai biết, thế thôi.
Ngược lại Cục Tham Mưu thì ai cũng biết, có thể bộ cứt xung đột nhau chan chat, đơn vị trực thuộc ý có bao nhiêu, ngoài những Phòng cố định. Duy chỉ có Phòng nghiên cứu quân báo và hệ thống này, đương nhiên vấn đề bí mật là một nguyên tắc bất khả kháng. Bởi nó là vấn đề sinh tử, sống còn, giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh.
bao năm trời qua, kể từ ngọn lửa chiến tranh tái sinh năm 1966 là năm căn cứ mùi sóng gió đầu tiên, bị ảnh hưởng cao độ của chiến tranh. Cái thời vàng son, ung dung, chất ngưởng, nhà hạ của những tướng tá, của thần dân Khu B đã qua rồi.
Chiến tranh thực sự rồi đây.
Song song với những lệnh báo động cấp một, cấp hai, thử nguy hiểm mới làm căng thẳng thần kinh mọi người cho đến cả trong giấc ngủ say, đe dọa trực tiếp từng giờ, từng phút là phi cơ B52.
Tin quân báo hàng ngày điện về cho biết những cuộc oanh kích của B52 cửa cánh từ đảo Guam. Những tin tức đó báo trước cho biết ngày giờ oanh phải cũng như vùng mà phi cơ sẽ đến. Có những chuyến đi tin báo cho biết trước đến 18 giờ.
Thông thường, thông báo chỉ có cách chung, không xác định chi tiết. Nhưng cũng có nhiều lần, những tin trên vẫn xác định giờ phút, vị trí và số lượng phi cơ tham gia vào cuộc oanh kích hoạt hủy diệt. Có lần sai và cũng có nhiều lần đúng. Như vậy, những bí mật trên đây đã có một khe hở để chui qua.
Do đó, Cục Tham Mưu bận rộn không ít phải thông báo hàng ngày, điện đi các nơi lệnh báo động B52, hoặc cho cảnh bảo vệ xe đạp mang tin đến tận tay những đơn vị đóng gần căn cứ thiếu bộ phận điện đài. Một mặt khác còn phải chỉ thị, ra mệnh lệnh đối phó, phòng được cho từng nơi di chuyển, lò sưởi.
° ° °
Đầu tháng năm 1966, một bữa trưa tôi đang đọc tài liệu bằng ngôn ngữ Anh về chiến thuật của Mỹ ứng dụng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên trước khi dịch trở lại, Nhanh Hòa - một bộ có thể tham số trung cấp ở nhà chung từ ngoài sân bước vào. Mặt anh ta nhăn nheo:
- Lại chuẩn bị cho đồ xuống sâu đấy, ông ạ!
Tôi thả tài liệu xuống:
- Gì thế anh? B52 hả?
- Ừ! Quân báo vừa nhận được tin báo 3g15 đến 5g sáng đêm nay B52 sẽ oanh kích khu vực Tây Ninh.
- Mình ở đây đã đi cho toàn Khu B biết rồi chứ?
- Rồi!
Hòa ngồi phi xuống yên, uống một loại nước trà nguội, biên soạn:
- Cả tháng nay nó vắng bóng ở vùng này. Bây giờ lại tới nữa! Kinh nghiệm cho biết, nó không tới thì thôi mà tiếp tục thì nó tới năm bảy ngày liền. Anh đã bị nó làm hỏng bom bao giờ chưa?
- Chưa! Chưa được hạnh phúc. Bất quá cũng như loại B26 thảnh thơi bom dây thời tranh chiến chứ gì?
- Không! Không đâu! Ác lắm! Nó chơi toàn bom đấy. Quả ai là người từ 250 ký ức trở lên. Có kết quả là 500 ký ức là ít. Nơi nào nó oanh kích là nó đào đìa nghiền nát chỗ đó.
- Tôi cũng có nghe nói. Như trước đây, trong chiến dịch Dầu Tiếng hồi đầu năm, mấy anh em Q1 đã được nó rải rác lại năm, bảy loạt, hàng trăm trái nhưng chỉ được thương vong đâu hơn sâu mạng. Thì cũng sẽ có gì ghê gớm lắm. Nếu bom rơi ngay thì mình phải chịu đủ. Nhưng nếu nó rơi vào năm thứ bảy kích thước, thì có hầm tốt, hãy sử dụng sơ sơ tí thôi. Hề gì anh!
Hòa động, ngao ngán:
- Trong chiến dịch Dầu Tiếng, tôi bị nó quần cho hai trận linh hồn. Và anh Tư Thắng, Chủ nhiệm Cục Hậu Cần cũng hy sinh trong hàng loạt ở Hố Đá. Ảnh dưới giao thông hào phóng của tôi không đầy đủ mười bước. Ảnh bị phá hủy xuống ngay giữa hộp sọ. Đầu ảnh nghiền nát.
Hình ảnh của Tư Thắng hiện ra trong đầu tôi đã mồ hôi một lần. Tôi nhớ cái ngày tôi về trình diện Bộ Chỉ huy Tiền Phương, Tư Thắng đã «mượn» tôi về công tác ở Tiểu đoàn I Dân Công. Trong số bốn tướng lãnh có mặt hôm nay, Ba Đình, Năm Thạch, Hải Chân, Tư Thắng, chỉ có Tư Thắng vừa là chủ nhiệm Cục Hậu Cần vừa là chủ tịch Hội đồng Cung Cấp Trung Ương. Tội nghiệp!
Tôi nói với Hoà:
- Vậy mà bất kỳ lúc nào, chuyển xác anh Tư Thắng về chôn ở đây. Bộ chỉ huy ảnh bị sốt rét tính. Chế độ cấp phép truy cập trong vòng một số bộ cấp cao nhất có thể ngừng hoạt động. Ai biết đâu!
- Cũng trong thời gian đó, khi nghe tiếng rù rù như xay có người la lên: «B52 nghe!» thì tôi sẽ xuống giao thông hào phóng. Phía sau tôi là cả một đại quân dân công tự động, vô trật tự. Thế mà qua loạt bom đầu, tôi cứng đầu lên khỏi công sự thì đám dân công đâu mất hết, không tìm thấy một người. Vắng hoe, cả một vùng chung quanh tôi trống hoang. Khói mù mịt. Cây ngã xuống, không còn chỗ nào có thể được. Tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả các gói như vậy. Anh nghĩ coi có kinh khủng không?
Nông một chút, như hồi tưởng lại cảnh tượng dũng sĩ trước đây, Hòa tiếp:
- Cũng có thể, kết quả rơi gần tôi nhất cách phòng ngừa. Tôi đang ngồi dưới chiến hào, luồng hơi dội của nó đi qua tôi sắp xếp. Hai lỗi như một tài liệu đặc biệt. Cả tháng sau vẫn còn mong chờ. Tôi cầm chắc cái chết theo phần trăm. Có thể thiệt hại! Nhưng theo tôi, kinh khủng nhất là tiếng bom rơi.
- Nó thế nào, anh?
- Như một cơn đi qua. Những cánh cánh hậu bom từ trên cao rơi xuống, cùng một lúc như nó xé gió kêu ào ào không khác một cơn giọng nghe bên da gà. Tôi phải lỗi tai lại, không hòa nghe thì anh biết nó ra sao?
Toàn bộ cơ sở chiều hôm đó đã được thông báo khắp nơi. Cũng giống như những lần trước đây, được tin báo có phi cơ B52 thì tất cả các cơ quan, các đơn vị đều cho đồ xuống hầm, xuống giao thông hào. Công cụ ẩn được kiểm tra lại. Tổ chức canh gác báo động được tăng cường, chú ý đặc biệt.
Lần này cũng vậy. Chúng tôi lo khuân đồ thoải mái xuống hầm, xuống giao thông hào. Xe đạp đi xuống giao thông hào trước. Kế đó là bàn ghế, máy đánh chữ, sách sách, tài liệu, máy móc, điện thoại, cho đến cả những thứ lon lớn, lon nhỏ, ngâm nước sôi, bộ chung trà vv..
Riêng bồng bềnh, ba-lô và những tài liệu mật quan trọng thì cho xuống hầm, công sự có Yên đậy để trên những miếng ván kê, tránh được mối mối và những trận mưa.
Và cứ mỗi lần như thế, y như không ai làm công việc gì được, ngồi uống trà nói chuyện tào lao. Thần kinh dao động và căng thẳng cực độ.
Đêm hôm nay mới hai giờ ba mươi sáng tất cả đều được đánh thức bằng những tiếng nòi động, thổi hoét hoét mấy hồi dài. Vì bồng bềnh, đồ đã cho xuống hầm nên không còn ai ngủ trên giường tre nữa mà phải ngủ yên, để có gì thì nhào xuống công sự cho nhanh.
Sau khi thức dậy, cuốn mùng, cuốn cuốn, chúng tôi ra ngồi bên miệng công sự, thuốc hút, chờ đợi trong sự hồi hộp, nao nao, chờ nghe tiếng rù rù của phi cơ B52 là a lê hấp, nhảy xuống, chui tọt vào, kéo tấm vĩ bằng le che công sự lại. Thế là xong.
Sở diên công có tấm bìa kín ở trên cho biết, nhiều nơi B52 thả bom bi, mỗi tác dụng chỉ bằng cổ chân, rơi xuống dày đặt như trấu xay. Do đó tấm vĩ nó vô nghĩa đối với bom thường nhưng với bom bi, nó có hiệu quả lắm, làm cho bom nổ trên mặt đất. Ngồi dưới công sự, nghĩ ra ăn gì.
Tôi nhận ra một điều chưa biết trước đây, những anh em đi công tác ở đồng bằng hay ở bên Khu A về đưa tôi xem vài tờ bươm bướm của Mỹ từ phi cơ xuống. Truyền bươm bướm, trong những hình trái bom nối đuôi nhau rơi ra khỏi bụng phi cơ. Phía dưới viết nhiều hàng đe dọa cho biết B52 bay cao kinh khủng. Cao đến mức độ không được tìm thấy, cũng không nghe được tiếng động cơ. Khả năng ném bom đến hai đợt tấn công thứ hai. Cường độ chiến đấu hết sức tàn bạo như bom rơi xuống bất cứ nơi đâu thì nơi đó không ai còn có thể sống sót.
Việc ném bom cũng hết sức chính xác. Cao bươm bướm đó cho biết phi cơ B52 là tử thần, hiệu năng của nó tăng tốc vô song, say không nghe tiếng phi cơ, không tìm thấy gì hết, thình chắn bom nổ liên hồi bất kỳ tận, thế nào là tan xác không hay.
Tuy tôi chưa từng «nếm mùi» B52 dù bao nhiêu lần, nhưng tôi đã nhiều lần nhìn thấy B52 bay ngang trên đầu. Nó to bố cục, dài ngoằng. Tám cơ sở của nó tôi nhìn rất rõ. Cánh của nó cong cong như cánh cung. Và tiếng động cơ của nó rền rĩ như tiếng ồn xay lúa.
Bao lần tôi nghe, tôi thấy nó đi qua, lần nào nó cũng bay thành nhiều đoàn. Mỗi đoàn luôn là ba chiếc nhẫn xa xa, nên le nhau trên một hàng dọc. Đoàn trước đi qua khoảng 3 phút là đoàn sau lại đến, cũng theo một hàng đọc để le nhau như đường chéo của hình bình hành.
Tôi cũng đã nhìn thấy nó nằm ngang trên đầu tôi về ban đêm. Mỗi chiếc 1 cái đèn đỏ rực rỡ. Ba điều bí mật đỏ cách khoảng nhau xa xa tạo thành một đường chéo bình hành động thật dài.
Này, nó như thế đấy. Vì vậy trong bạch bươm bướm của Mỹ rộng rãi với những lời đe dọa đến buồn cười. Nó có vẻ xấc xược, tăng động sự trả thù, phàn nàn hơn là sợ hãi. Tuy tôi chưa mộc mùi B52 nhưng những người đã «nếm mùi» nó kể lại cho tôi thì kinh khủng quả có kinh khủng thật, nhưng chế độ của nó đưa ra kết quả về tác động tinh thần nhiều hơn là tổn hại về sinh mạng. Những người đã «nếm mùi» ai cũng đào, dao động tinh thần cùng cực vì tiếng bom rơi, tiếng nổ kinh hồn nhưng không phải ai cũng chết. Tỷ lệ chết sau một cuộc ném bom của B52 trên một hàng quân nằm dưới cộng thống kê của Phòng nghiên cứu cho biết, trung bình chỉ đến tỷ lệ thương vong 5 phần trăm. Nhưng ai sẽ là 5% đó?
Chính vì vậy, tác dụng thực sự lớn lao của B52 là tác dụng tâm lý, tác động tinh thần, làm căng thẳng thần kinh kinh mọi người thế thôi.
Vì vậy, chú thích Mỹ lại bảo là không nghe không thấy, thanh mảnh bom nổ rồi lăn đùng ra chết. Rõ ràng là mấy chú thích này ngoại ngôn lắm, thích dùng những danh từ đao to búa lớn để hù nhau chơi. Hay là ngoài địa phận Khu B ra, cái cách oanh tạt B52 có khác đi chăng?
Ngồi ở hầm hầm, chúng tôi cứ chờ chờ, chờ đợi, nói chuyện về tờ truyền đơn, bươm bướm của Mỹ rồi quay hát những chuyện bâng quơ khác cho đến sáng.
Vẫn chưa có chuyện gì xảy ra. Tôi nghĩ chắc chắn là B-52 đã oanh tạc ở một địa điểm nào đó lắm lắm, tuốt dưới đồng bằng không cẩn thận. Ở đây chúng tôi không nghe thấy. Ngay trong ngày hôm đó, vẫn không tìm thấy dạng B52 đâu. Và tin tức quân sự dài lại cho biết, trong đêm qua không có bất kỳ cuộc oanh kích nào.
Hoà cười bảo tôi:
- Chủ thằng Mỹ hù mình chưa đủ «phón» hay sao mà mấy cha nội quân báo còn hù thêm mình nữa. Loại máu não chết này quá ông!
Tôi nói:
- Không nhẹ tại tin báo sai ở nơi khác điện về chứ phải đâu của đám anh em mình tại Cục.
- Quân báo phải chính xác chứ! Ở đâu hay ở đây cũng là quân báo. Báo ấm thiệt hại là báo nguy hại. Hổng mần ăn gì được, thức trắng đờ con mắt ra. Hải quá mạng.
Riêng Bộ Chỉ huy và tướng lãnh của B1, B2, B3 hộ Cục Tham Mưu, Cục Chính Trị, Cục Hậu Cần thì đã gói lên đường tản cư đến căn cứ hai đang xây cửa hàng ở bên kia đất Miên.
Cùng đi với Bộ Chỉ huy có bộ phận Cơ yếu điện từ, một tiểu đoàn của Trung đoàn Bảo vệ căn cứ E70 và con chó berger của anh Chín Vinh - Phó Chính ủy Trần Độ. Đương nhiên trong số các tướng lãnh đó, có thủ trưởng B1 của tôi - Ba Long - và thiếu tướng Năm Thắng vừa ở Hà Nội vào.
Còn bao nhiêu chiến tranh có thể còn lại thì «án binh bất động» tiếp tục công việc thường ngày. Nhưng trong trạng thái «đợi chờ B52», thần kinh căng thẳng, tai luôn chú ý lắng nghe tiếng động từ xa thì lòng dạ nào, trí óc còn có thể làm việc nổi?
Tôi cũng vậy, bồng bềnh, vật tôi vẫn để nguyên dưới đáy, chưa thở lên hít. Như thế «chắc ăn» hơn, B52 chưa đến là nó còn đến. Đêm hôm qua chưa oanh nặng, biết đâu đêm nay nó đến thì sao? Vì vậy, ban đêm có một số bộ phận tôi được đưa lên từ phòng ngủ trên giường ngủ bình thường nên tôi lại ở trong số phòng ngủ, giang ở hàng biên, cách miệng công nghệ không đầy đủ kích thước.
Và đêm nay B52 đến thật.
Tôi đang ngủ ngon giấc chiến thắng mình, bật dậy như cái lò xo vì có tiếng báo động thổi liên hồi cùng với nhiều tiếng la thất thanh vang dây:
- B52 nghe đây! B52 nghe đây!
Tiếng động cơ như xay lúa rền rĩ trên trời từ hướng đông bay xác định tăng dần. Đúng là tiếng động cơ B52 rồi. Tôi tỉnh ngủ mạnh mẽ, tốc độ nhảy xuống đất, một chút phóng khoáng ra miệng hầm.
Đêm tối đen, trời lại không trăng, nằm bàn tay không thấy. Chỉ có những lá mục, cây mục trở thành từng đám lân tinh lấp lánh khắp nơi xung quanh. Và tiếng gầm gần sừng lá móng, bò từng đàn đi ăn trong đêm.
Hoà cũng đã thức dậy đang gọi thất thanh phía sau lưng tôi:
- Tư Hùng ơi! Anh đâu rồi? B52 tới rồi! Công cụ ở đâu?
Quýnh quá, anh ta quên mất cả cái công sự quen thuộc ở ghế nhà. Anh ta không tìm thấy đường, cũng không còn phân chia nỗi khổ phương hướng nữa.
Giọng anh ta như muốn khóc, lạc đi:
- Trời ơi! Công sự đâu, anh Tư Hùng ơi!
Tôi lên tiếng, Hả hả:
- Đây nè! Lẹ đi!
- Đâu? Anh đâu!
- Đây! Lẹ lên!
Tôi nghe tiếng nói cột, va chạm, tiếng Cường té cao «hự» lên một tiếng xuýt xoa. Có thể chạy vào cột đầu tiên, vấp ngã. Nhưng cùng lúc đó, mãi lo âu cổ về phía sau, tôi bị đòn chân ở công sự ngã chúi đập vào khúc gỗ để bên bờ đất, bùng cháy. Sao, đom đóm nẩy lên sáng loà trước mắt. Tôi tưởng tượng nhẹ nhàng như đầu mình đã nứt làm đôi.
Tôi vừa thả mình nhảy xuống công sự thì Hòa cũng vừa ra đến:
- Xuống nhanh lên! Miệng công sự ở đâu? Ở đâu?
- Đây!
Tôi chui vào trong. Tiếng B52 rền rĩ trên đỉnh đầu. Tôi cũng vừa nghe một số tiếng nổ lớn, cách khoảng trống trên không trung. Tôi hồi hộp cực độ, hét Hòa:
- Rồi! Mình đã thành công rồi! Anh góc mặt trận công cộng.
Hòa góc lớn rơi xuống bức tường, hồng vách kính vào tôi. Sau những tiếng nổ lớn trên không trung là một cơn bão với tiếng gió rít rền rĩ. Hình như Hoà run run:
- Bom bi! Nó oanh kích ngay căn cứ của mình rồi.
Đó là những nổ bom liên hồi, không làm sao có thể đếm được, bơi lội trước kính. Thành đất công sự chuyển tiếp không ngừng. Đất, cát, trên nóc công sự rơi xuống đầu tôi như một cơn mưa không dứt.
Không có khí cụ nào được ép vào công sự, như muốn bay bổng lên.
Tôi cúi thấp xuống, tựa trên hai đầu gối thẳng. Hải tay bịt chặt hải tai. Bom vẫn nổ không ngừng.
Có hơn ba phút đồng hồ tiếng nổ thưa dần rồi còn lại một ít tiếng nổ, nổ còn sót lại.
Trong loạt bom vừa qua, phi đoàn chiếc B52 có lẽ đã được ném xuống sáu nghìn trái bom bi. Theo những tài liệu tôi được đọc qua, cũng như kinh nghiệm của những anh em ở chiến trường về cho biết thì bom bi mỗi trái sang bằng cổ chân, lớn hơn trái tay cầm một tí, có sáu cánh làm đuôi, cân nặng vào khoảng một ký hai, sơn màu vàng.
Bom bi cũng tròn quay như lựu đạn, chỉ khác có cánh và lớn hơn. Chung quanh thân bom, nhiều hàng bi tròn, chi chít. Mỗi viên bi, nhỏ hơn hạt tiêu, như những chiếc xe đạp «bạc đạn», nằm trong một lỗi trong khí cụ nhỏ.
Bom bi được bảo vệ trong một thùng vuông, sắp xếp lớp. Mỗi thùng có đến hơn 160 left. Khi ném, mỗi B52 xả ra một loạt hàng bốn thùng. Những thùng đó rơi xuống giữa thì nổ tung ra, bom bi an trong thùng tung toé rồi như người ta nắm thóc rải mạ, rơi thẳng xuống đất, chạm nổ.
Nghe hết tiếng nổ, tôi mở tay ra, Hòa chắc chắn, xuýt xoa:
- Chà! Không biết căn cứ mình, anh em có ai sao không? Không biết nữa!
Chợt Hòa như nhảy neom, la lên:
- Chết cha đi!
- Gì vậy anh? Tôi hỏi.
Hoà thả đèo
- Quần áo, ba-lô, súng đạn bỏ quên trên giường hết rồi. Làm sao giờ, anh?
Thì còn biết làm sao giờ! Loại B52 thứ hai lại tới, rền rĩ trên đầu. Lại một số tiếng nổ trên không trung. Copying miệng
- Còn làm sao nữa. Sau đó lại ném bom xuống rồi ném xuống đó. Anh mà phản xạ ở miệng công sự cũng đủ «qua phần» nói gì tiếc của bò lên đấy. Hủy bỏ, bỏ đi! Kệ nó! Lỡ rồi!
- Ứ tự! Dù thế nào cũng được «cạo» ngồi kiểm tra ngay sau lưng cho coi.
Lại rít lên. Rồi bom bi lại nổ. Tôi đưa tay lên bịt chặt hai lỗi. Hút thuốc nổ nhanh chóng tràn xuống công sự. Tôi nghe tưng cụ ở đệm, khó thở dị thường.
Cái gì cũng phải đi qua. Qua ba loạt bom nổ rừng yên tĩnh trở lại.
Nhưng mời còn vài trái bom bi nổ còn sót lại, có lẽ khi rơi xuống nó lung trên những cành le, những ngọn cây rừng bây giờ mới vừa đủ rơi xuống đất. Do đó, dù B52 đi mất đã lâu, tôi và Hoà vẫn cứ phải ngồi chong cứng dưới công sự. Không ngó đầu lên mặt đất, sợ hãi phải những trái bom nổ.
Và, biết đâu còn vô số bom bi chưa kịp nổ, lăn lóc trên mặt đất, hỗn hợp trong lá rừng, những cánh cây đinh. Trời đen lại. Vô phúc bò lên phải nó thì tan xương là cái chắc.
Tôi nghe nhiều tiếng mới ời gọi nhau, tiếng người la hét vọng xuống, như suy nghe được họ nói gì. Dù không bị hai tai, tôi vẫn trượt.
Cơn hồi hộp, lo sợ tan dần. Đến giờ này, tôi mới biết chắc mình còn sống. May mà B52 nó chỉ ném bom chứ không ném bom đìa thì chưa biết đã ra sao? Nếu có trái bom đìa nó rơi ngay công sự bay gần công sự thì không xác thực cũng mất thở vì hơi ép. Cột này chỉ đánh bom bi. Bom bi mà chui xuống công sự có lớp đất tràn đầy cả thước thì kết quả là bất khả xâm phạm phạm vi, dù có ném hàng ngàn trái trên mặt đất, nóc công sự cũng chả ham lốc gì!
Tôi và Hòa như hai con chuột trong hang, co ro tạo thanh thoải, không biết phải làm gì bây giờ. Lên chưa mở lên, ngồi dưới này thì khó thở khó thở.
Có đến hơn hai mươi phút sau, không còn nghe tiếng nổ nào nữa, Hòa hỏi tôi:
- Anh có máy nào không?
- Có! - Tôi trả lời.
- Anh đưa tôi mượn. Đàn nào cũng phải được lên. Có máy soi đường vào nhà rồi.
Tôi mò vào chiếc bồng:
- Có thể quá! Cái đèn pin có trong tôi nhẹ nhàng nè!
Tôi mở ra, đưa đèn pin cho Hoà, Hòa nhấn đèn bò lên trước tôi theo sau.
Vừa chui lên từ miệng công sự, mùi khói thuốc bom mùi tràn mũi vào tôi. Qua vệt sáng của đèn pin, khói trắng mo. Cảnh cây bẫy, lá rụng đầy đất. Tôi không tìm thấy đường đi. Và gian nhà, giai đoạn đã biến đi đâu.
Hòa kề như mất hồn. Tôi im lặng. Tôi cũng đứng nhìn lười biếng giữa vùng khói trắng với tâm trạng bơ phờ. Phía nhà bếp tôi còn nghe tiếng la ơi mới.
Tôi thở dài, Bộ chỉ huy, các tướng lãnh đã tản đi về căn cứ hai, bên trong đất Miên, cách đây có hơn mười cây số đường chim bay. An toàn quá. Chỉ có chúng tôi, những cán bộ, những chiến tranh trực thuộc vừa trải qua một cơn mưa bom.
Bóng Tối Đi Qua Tập 3 Bóng Tối Đi Qua Tập 3 - Kim Nhật Bóng Tối Đi Qua Tập 3