They say love is blind…and marriage is an institution. Well, I’m not ready for an institution for the blind just yet.

Mae West

 
 
 
 
 
Tác giả: Vân Thảo
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 46
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 44
Cập nhật: 2020-10-20 22:07:34 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4
Đường phố thị xã vào buổi chiều nắng hanh. Cái ánh nắng vừa nhẹ vừa sắc. Thi thoảng một ngọn gió bấc mỏng mảnh lướt qua xua những ngọn lá xà cừ vàng úa xao xác càng tăng thêm vẻ đìu hiu của một thị xã thời chiến. Lề đường đầy hố cá nhân tránh máy bay. Người đi lại thưa thớt. Thỉnh thoảng có mấy người đi xe đạp với dáng điệu vội vã hoặc một chiếc xe bò với nhịp bước đều đều vô tư của con bò kéo xe. Mấy cô tự vệ mặc áo quần, đội mũ công nhân, súng khoác sau lưng đạp xe nói cười rộn rã.
Bà Quê vai đeo tay nải lê từng bước thất thểu trên lề đường. Thỉnh thoảng bà dừng lại trước một ngôi nhà đang mở cửa ngửa tay hỏi xin. Người cho tiền, kẻ cho gạo. Nếu có ai đó buông câu hỏi vô tình con cháu đâu mà không nuôi bà để bà đi ăn xin, bà chỉ đáp lại câu hỏi xót xa đó bằng đôi dòng nước mắt rồi lặng lẽ bước đi. Một anh trung sĩ công an còn trẻ, vai đeo lủng lẳng chiếc xắc cốt bằng da, phanh xe đạp lại trước mặt bà Quê hỏi giọng hách dịch:
- Này bà. Bà ở đâu mà ra phố ăn xin?
Bà Quê lơ láo nhìn anh công an rồi đáp:
- Tôi ở thôn Gia Đạo, xã Đạo Thắng.
- Con cháu bà đâu mà bà đi ăn xin?
- Con cháu ở quê nhưng nhà thiếu ăn nên tôi đi xin ăn để đỡ bớt cho con cháu một miệng ăn.
- Bà có giấy phép của Ủy ban xã không?
Bà Quê ngạc nhiên:
- Tôi đi xin ăn chứ có đi đâu mà phải được phép của xã hả chú?
- Bà nên nhớ chế độ ta không có người đi ăn xin, bà có biết không?
Bà Quê nở nụ cười méo mó:
- Tôi già cả, chỉ biết đói thì phải lần đi ăn xin thôi chú ạ.
- Bà đừng có cái kiểu ăn nói xuyên tạc ấy. Chế độ ta không để cho ai đói cả.
Bà Quê nhìn anh công an một lát rồi thủng thẳng:
- Có khi chú là người thành thị thành ra chú chẳng biết bà con nông dân chúng tôi đang sống như thế nào đâu. Một ngày công chưa đầy hai lạng thóc, nấu cháo cũng không đủ chú ạ. Tuy không đói như năm Ất Dậu nhưng cả xã tôi đang đói rã họng ra vì thiếu ăn đấy.
Thấy một bà già tỏ ra ương ngạnh với mình, anh công an đe:
- Bà đã không biết cái sai của mình mà còn nói liều. Nếu vậy xin mời bà về đồn công an giải quyết.
Ông Kim đạp xe đi qua, thấy bà Quê và anh công an đang giằng co nhau, ông dừng xe lại hỏi:
- Có chuyện gì thế đồng chí?
Nhận ra ông Kim, anh công an kính cẩn:
- Báo cáo đồng chí bí thư. Tôi gặp bà này đang đi đến các nhà ngửa tay ra ăn xin, tôi bảo bà ta đang bôi nhọ chế độ Xã hội Chủ nghĩa và yêu cầu bà ta trở về quê nhưng bà ta không chịu.
Ông Kim hỏi bà Quê:
- Bà người đâu?
- Thưa ông, tôi người thôn Gia Đạo, xã Đạo Thắng ạ.
- Bà từ dưới ấy mà lên tận đây ăn xin kia à?
- Người ta bảo đói thì đầu gối phải bò. Chỗ nào có thì tìm đến xin ăn. Ông nghĩ xin ở quê nơi nào cũng thiếu đói, lấy đâu người ta cho mình.
Anh công an nói với ông Kim:
- Đồng chí bí thư thấy chưa. Nói rặt giọng điệu của bọn chiến tranh tâm lí. Thời này mà dám bảo nơi nào cũng thiếu đói, có khác gì luận điệu phản động.
Ông Kim cười, hỏi lại anh công an:
- Nếu tôi nói với đồng chí hiện nay đúng là nơi nào cũng đang thiếu ăn, đồng chí có cho giọng điệu tôi là giọng điệu của bọn phản động không?
Anh công an lúng búng trả lời:
- Dạ… nhưng chế độ ta làm sao mà có chuyện thiếu đói được ạ.
Ông Kim hỏi:
- Đồng chí quê ở đâu?
- Thưa đồng chí, em người Đồng Xá, huyện Thạch Sơn ạ.
- Lâu nay đồng chí có về thăm quê không?
- Thưa đồng chí bí thư, do tình hình thời chiến nên lâu lắm em không về thăm nhà ạ.
Ông Kim nói giọng nhẹ nhàng:
- Tôi vừa về quê đồng chí tuần vừa rồi. Ở quê đồng chí cũng không no đủ như đồng chí tưởng tượng đâu. Tỉnh ta đang thiếu ăn trầm trọng là chuyện có thật chứ chẳng có thằng địch nào xuyên tạc cả. Chế độ chúng ta tốt đẹp, rất tốt đẹp nữa là đằng khác. Nhưng trong chế độ tốt đẹp đó mà để cho dân thiếu đói thì tôi và đồng chí đều là những người có lỗi với dân và với chế độ. Thôi, đồng chí đi làm việc đi. Nhớ lần sau tiếp xúc với dân phải có thái độ đúng mực và tìm hiểu cặn kẽ mọi việc trước khi nói nghe chưa.
Anh công an ngượng ngùng:
- Vâng. Báo cáo đồng chí bí thư em đi làm việc.
Ông Kim đáp lại bằng một cái gật đầu rồi quay sang bảo bà Quê:
– Bà ngồi lên xe tôi đèo về nhà tôi nghỉ ngơi ăn cơm.
- Tôi xin cám ơn ông. Ông không phải lo cho tôi đâu. Bà con phố xá thương tình nên tôi cũng sống được, không dám làm phiền ông.
- Đang có chiến tranh. Chưa biết địch ném bom vào thị xã lúc nào. Bà đi lang thang như thế này hết sức nguy hiểm, có chuyện gì con cháu không biết đâu mà tìm. Tôi cũng có việc cần hỏi bà nên mời bà về nhà tôi, đừng ngại. Bà lên xe đi tôi đèo. Tôi còn khoẻ lắm, bà không lo ngã đâu. Từ đây về nhà tôi chỉ một đoạn ngắn thôi mà.
Bà Quê chần chừ giây lát rồi ngồi lên xe để ông Kim đèo đi. Ông Kim hỏi:
- Bà năm nay bao nhiêu rồi?
- Sáu mươi hai ông ạ.
- Bà hơn tôi những mười hai tuổi. Bà có mấy anh mấy chị?
- Cám ơn ông đã hỏi. Tôi có ba người con, hai trai một gái. Con gái lấy chồng xa, tôi ở với thằng út. Khi nãy nghe anh công an xưng hô với ông là bí thư. Vậy ông bí thư xã hay huyện?
- Tôi là bí thư tỉnh ủy.
Bà Quê hốt hoảng kêu lên:
- Ấy! Ấy! Ông dừng xe lại đi. Thế này thì không phải với ông quá!
Ông Kim nói đùa để bà Quê yên lòng:
- Có gì mà không phải. Bà xem tôi có giống mọi người không hay chân tay tôi dài như vượn, móng tay sắc như vuốt hổ, lông lá đầy mặt, mồm đầy răng nanh nào.
- Vẫn biết cán bộ cũng từ dân mà ra. Nhưng mà… nói ông bỏ quá cho chứ đừng cho tôi nói xấu cán bộ. Ở xã tôi mấy ông cán bộ từ Chủ nhiệm hợp tác cho đến ủy ban xã, trừ bà con dòng họ của họ ra thì chẳng còn ai coi dân ra gì.
- Chỗ nào mà chẳng có người thế này người thế khác hả bà.
Đến khu vực cơ quan tỉnh ủy, ông Kim cho xe chạy chậm lại rồi dùng chân lê lê dưới đất hãm xe lại:
- Đến nơi rồi đấy bà ạ. Bà xuống từ từ thôi kẻo ngã đấy.
Bà Quê xuống xe. Ông Kim dắt xe đạp đi trước, bà Quê mang đãy đi theo sau. Vào đến cơ quan, ông Kim gặp bà Thường từ trong phòng đi ra.
- Chào bà – Bà Quê nhanh nhẩu chào bà Thường.
- Vâng chào bà – Bà Thường đáp lại – Bà ở trên quê xuống thăm chú Kim đấy ạ?
Bà Quê đang lúng túng chưa biết nói sao thì ông Kim đỡ lời:
- Khách đặc biệt đấy chị ạ. Lát nữa chị lấy suất cơm của chị ở nhà bếp xuống nhà tôi ăn cơm với khách của tôi cho vui – Ông Kim giới thiệu bà Thường với bà Quê – Đây là chị Thường, trưởng ban kiểm tra tỉnh ủy đấy bà ạ. Chị Thường người gốc chị Hai quan họ đấy.
Bà Quê xuýt xoa:
- Quý hóa quá.
Ông Kim nhắc bà Thường:
- Chị nhớ lấy cơm về nhà tôi ăn cho vui nhé.
- Đã có gì đãi khách chưa?
- Cô Lê nhà tôi sẽ xoay xở, chị khỏi lo. Tôi đưa khách về nhà đây.
Buổi tối tại nhà ông Kim. Mọi người quây quần bên mâm cơm trong không khí đầm ấm. Bà Quê đã trở lại với con người chân chất tự nhiên của bà. Bà Lê gắp thức ăn bỏ lên bát bà Quê:
- Bác ăn đi, đừng có làm khách. Gọi là ăn cơm của nhà bí thư tỉnh ủy nhưng chẳng có món nào thuộc sơn hào hải vị. Chỉ có rau là nhiều.
Nói xong bà Lê gắp một miếng thịt bỏ vào bát cho bà Quê. Bà Quê bưng bát cơm lên ngồi lặng yên. Bỗng nhiên nước mắt bà chảy giàn giụa. Mọi người không hiểu chuyện gì, đưa mắt nhìn bà Quê. Bà Quê cười ngượng ngập:
- Ấy chết. Tôi lại làm phiền các ông các bà rồi.
- Sao đang ăn cơm bà lại khóc? Nhớ các con, các cháu à? – Bà Thường hỏi.
Bà Quê thở dài:
- Vâng. Bữa cơm của ông bà tuy không mâm cao cỗ đầy gì, nhưng nhìn lát thịt của bà bỏ lên bát cho tôi, tôi bỗng thấy thương và nhớ mấy đứa cháu tôi quá. Cả năm chỉ hong hóng chờ đến dịp Tết Hợp tác xã mổ lợn chia cho xã viên hai cân thịt vừa xương vừa lòng. Gói bánh chưng rồi còn được vài lạng. Cháu có thèm thì cũng chờ cúng tổ tiên ông bà xong mới được ăn.
Bà Thường an ủi:
- Bà mời cơm đi. Hôm nào bà về, tôi còn mấy lạng phiếu sẽ ra cửa hàng thực phẩm mua biếu bà để bà đem về cho cháu.
Bà Quê lùa hết bát cơm rồi đặt bát xuống:
- Xin phép ông và hai bà.
- Ấy, bà ăn thêm bát nữa. Gạo tem phiếu nhưng không thiếu đâu, bà đừng lo – Nói xong, bà Lê lấy cái bát trên tay bà Quê định xới cơm cho bà Quê. Bà Quê giằng lại:
- Tôi đủ rồi. Ở nhà tôi cũng ăn từng ấy thôi bà ạ.
Ông Kim cũng bỏ đũa đứng lên:
- Bà qua ngồi uống nước.
- Ông để mặc tôi.
Sau bữa cơm, mọi người ngồi quây quần nói chuyện quanh bàn uống nước.
Ông Kim hỏi bà Quê:
- Khi nãy tôi nghe bà bảo ở dưới quê một năm chỉ ăn thịt lợn một lần vào dịp Tết thôi à?
- Đúng thế đấy ông ạ. Nhà ai có việc xin mổ một con lợn cũng khó lắm, phải đơn từ chạy đi chạy lại khắp các cửa quan may ra mới được mổ. Chợ búa thì rặt cá vụn với cua đồng. Thỉnh thoảng cũng có người mổ lợn chui đưa đi các chợ bán nhưng phải trốn chui trốn lủi. Lợn của nhà mình mà cứ như bắt trộm của ai mổ thịt đi bán không bằng. Tôi kể cho ông và hai bà nghe chuyện này, ông và các bà đừng cười. Một lần thằng cháu nội tôi đi học về, khi đi ngang qua cái chợ xép đầu làng thấy người ta bán thịt lợn chui, nó chạy vội chạy vàng về nhà bảo tôi. Bà ơi, khi nãy con đi học về đi qua chợ thấy người ta đang bán thịt lợn cháu thấy thèm quá bà ạ. Ước gì nhà ta cũng mua được như họ để ăn một bữa cho đỡ thèm. Tôi nhìn cháu mà thấy xót xa quá ông ạ. Thế là tôi vào buồng xúc hai bơ gạo cho vào cái túi vải con con rồi le te đi ra cái chợ xép đầu làng. Biết thịt lợn chỉ được bán chui nên tôi thu kín túi gạo vào trong người, đi rảo một vòng quanh chợ xem người bán thịt lợn ngồi ở đâu.
Đảo hết chợ không thấy, tôi mới hỏi cô Thoa bán hàng xén, cô liền chỉ cho tôi một cô đang ngồi bán rau ở góc chợ và bảo, bà muốn mua thịt lợn thì đến rỉ tai chị ta bán cho. Tôi đi đến thì thầm vào tai cô bán rau bảo đổi cho tôi mấy lạng thịt, cô ấy bảo chỉ bán chứ không đổi. Tôi nói dối là cháu tôi bị ốm mà nhà không có tiền. Thấy tôi nói vậy cô bán thịt thương tình bảo đưa gạo cho cô ta. Họa vô đơn chí. Tôi vừa cầm miếng thịt lên thì từ đâu mấy anh trật tự xông ra thổi còi inh ỏi. Cô bán thịt nhanh chân bê rổ thịt chạy. Hai anh đuổi theo, còn một anh đứng lại bảo tôi, ai cho phép bà mua thịt lợn của bọn con buôn? Tôi bảo cháu tôi ốm nên lấy gạo đổi mấy lạng thịt nấu cháo cho cháu chứ có mua bán gì đâu. Anh trật tự bảo tôi mua hay đổi gì cũng là tiếp tay cho con buôn, chúng tôi có nhiệm vụ tịch thu để sung vào công quỹ.
Nghe bà Quê kể đến đó, ông Kim kêu lên:
- Thế này thì quá đáng quá.
Bà Lê hỏi:
- Thế mấy cái anh trật tự ấy có tịch thu mấy lạng thịt bà mua không bà?
- Có bà ạ. Để tôi kể tiếp cho ông và hai bà nghe. Khi nghe anh trật tự ấy đòi tịch thu miếng thịt tôi đang cầm trên tay, tôi van lạy anh ta, bảo tôi già cả không biết cái luật lệ ấy nên xin anh tha. Nghe tôi nói thế mặt anh ta rắn đanh lại bảo: Không phải xin xỏ, anh ta làm theo lệnh ủy ban, muốn xin thì theo anh ta lên ủy ban mà xin. Nói xong, anh ta lấy luôn miếng thịt tôi đang cầm trên tay đưa lên săm soi rồi bảo: Đây là thịt loại một. Loại này chỉ được cân cho Nhà nước. Tôi phải tịch thu về nộp cho ủy ban. Nếu bà cần xin lại thì làm đơn trình bày với ủy ban rồi cầm đơn lên để ủy ban xét. Nói xong, anh trật tự cầm miếng thịt trên tay bỏ đi. Tôi lạy lục kiểu nào cũng không được đành lau nước mắt đi về. Cuộc sống của nông dân chúng tôi khổ thế đấy.
Bà Thường vốn tính nóng nảy nên khi nghe bà Quê kể xong, bà căm phẫn kêu lên:
- Quá cái thời đế quốc sài lang với bọn trương tuần lính dõng. Lúc nào chú Kim xuống công tác ở Đạo Thắng tìm xem thằng nào ăn mấy lạng thịt lợn, nọc ra đánh cho chúng một trận để chừa cái thói lộng hành.
Ông Kim cười:
- Chị bảo làm bí thư tỉnh ủy muốn nọc ai ra đánh cũng được hay sao – Quay sang hỏi bà Quê – Tôi hỏi bà, có gì không phải bà bỏ quá đi cho. Chiều nay bà bảo bà có ba người con, hai trai một gái. Bà ở với vợ chồng chú út. Ba người con mà không nuôi nổi mẹ hay sao mà bà phải đi ăn xin?
Bà Quê rơm rớm nước mắt:
- Người ta bảo một mẹ nuôi được mười con nhưng mười con chưa chắc nuôi nổi một mẹ ông ạ. Nói thật với ông là bà con dưới quê tôi khổ thì có khổ nhưng chưa đến nỗi phải xách bị đi ăn xin. Nhưng từ ngày Hợp tác xã ra cái điều lệ lao động phụ, lao động chính thì lắm chuyện nhiêu khê xảy ra lắm ông ạ. Như tôi đây đẻ ra trên đồng ruộng, biết đi cày đi cấy từ khi tóc còn để chỏm, thế mà bây giờ ngồi nhà đuổi gà để cho con trai, con dâu đi làm để nuôi. Hai người làm nuôi sáu miệng ăn nhiều khi mệt quá hóa ra bẳn tính rồi cắn xé lẫn nhau. Cô con dâu tôi nhiều lần nặng lời với tôi nhưng tôi nghĩ nó mệt quá hóa mất khôn nên tôi một điều nhịn, hai điều nhịn.
Bà Quê sụt sùi kể lại chuyện bỏ nhà đi rồi bảo:
- Thương con nhớ cháu lắm đôi lúc muốn quay về. Nhưng nghĩ giận chúng nó bỏ ra đi, giờ quay về cũng xấu hổ. Thế là đành nhắm mắt đưa chân, đến đâu thì đến.
- Con trai và con dâu bà chẳng có lỗi gì – Ông Kim nói – Lỗi là ở chúng tôi. Làm lãnh đạo mà để dân thiếu, dân đói là có tội với dân. Sáng mai tôi xuống công tác ở Tam Bình, tôi sẽ đưa bà về tận nhà.
- Chiều nay ông đã đèo xe đưa tôi về đây cho ăn uống tử tế, tôi không dám phiền ông thêm nữa. Tự tôi về là được rồi ông ạ.
Ông Kim đùa:
- Đây về Đạo Thắng những hơn hai chục cây số, bà đi bộ bao giờ đến. Sáng mai tôi lại tiếp tục đèo bà về Đạo Thắng bằng xe đạp. Bà thấy chiều nay tôi đèo bà có giỏi không?
Bà Quê chối đây đẩy:
- Tôi không dám làm phiền ông nữa đâu. Ông mà làm thế tôi chẳng biết lấy gì để đền ơn ông đâu.
Bà Lê cười bảo:
- Nhà cháu nói đùa đấy. Sáng mai ông nhà cháu đưa bà về bằng ô-tô.
Bà Quê cười:
- Tôi cứ ngỡ ông nói thật nên lo quá.
Ông Kim hỏi:
- Tôi bận đi nhiều nơi nên từ hôm cấy vụ chiêm đến giờ chưa về được Gia Đạo. Tình hình lúa má vụ này ra sao hả bà?
Bà Quê ối dào một tiếng rồi nói:
- Ông tính làm ăn bây giờ có ra gì đâu mà bảo lúa má tốt được. Năm nay tôi đã sáu mươi hai tuổi rồi mà chưa thấy thời nào làm ăn dối dá như bây giờ. Ấy thế mà có được thong dong đâu ông. Sáng gà mới te te gáy đã chân sấp chân ngửa chạy ra đồng làm ruộng phần trăm. Nghe kẻng Hợp tác đánh lại chân sấp chân ngửa chạy về đi làm để lấy điểm. Về chậm là bị phạt. Tối lại đội mưa đội gió bê đèn ra sân Hợp tác bình điểm chấm điểm rồi tị nạnh nhau cãi vã ầm cả làng. Cực lắm.
Ông Kim thở dài:
- Thế xã viên không có ý kiến gì với cung cách làm ăn dối trá, bận bịu ấy hay sao?
- Mở miệng ra nói là lãnh đạo Hợp tác bảo trên đã quy định thế rồi, cứ thế mà làm, không phải thắc mắc.
- Tôi hỏi cho vui thôi. Nếu để cho bà làm chủ nhiệm Hợp tác và để cho bà tự do điều hành công việc, không có ai thúc ép, cấm đoán thì bà sẽ cho Hợp tác làm ăn như thế nào?
Bà Quê cười giòn giã:
- Tôi cho mọi người đi lao động tất, chẳng phân biệt lao động phụ lao động chính gì sất. Ai làm tốt tôi chia cho nhiều thóc, ai làm không tốt thì nhận ít thóc. Thế là công bằng, chẳng cãi vã tị nạnh nhau.
- Làm sao bà biết người này lao động tốt, người kia lao động không tốt?
- Cứ làm ăn như mấy ông chủ nhiệm và đội trưởng hiện nay đánh kẻng xong kéo nhau đi uống rượu, chẳng biết ruộng đồng là cái gì thì đúng là không biết ai làm tốt, ai làm xấu thật. Còn tôi thì đừng hòng ai qua được mắt tôi.
- Hàng ngày bà vẫn cho đánh kẻng để xã viên đi làm, và tối đến vẫn tập họp ở sân Hợp tác để bình điểm?
Bà Quê hào hứng trả lời:
- Chuyện ấy làm sao bỏ được. Không đánh kẻng thì người đi trước, người đi sau làm sao mà phân công được công việc. Tối đến cũng phải họp mọi người lại để thông báo ai làm tốt, ai làm không tốt trong ngày chứ ông.
Ông Kim cười:
- Nếu tôi là xã viên mà thấy bà chưa bỏ được hiệu lệnh của kẻng và bắt xã viên đêm nào cũng đi họp để nghe bình điểm thì tôi không khi nào bầu bà làm chủ nhiệm cả.
- Không đánh kẻng, không họp để bình điểm thì làm sao điều hành được Hợp tác hả ông?
- Tôi tính thế này xem bà có nghe được không nhé. Nếu tôi làm chủ nhiệm thì tôi sẽ tính toán công việc rồi giao cho đội sản xuất. Trên cơ sở công việc được giao, đội trưởng sản xuất tính toán cụ thể mỗi việc cần giao cho bao nhiêu xã viên rồi cứ thế đi đến từng nhà thông báo công việc cho họ. Nói rõ họ cần làm bao nhiêu thời gian, mỗi việc làm tốt được bao nhiêu điểm, làm chưa đúng yêu cầu thì hoặc bắt làm lại hoặc trừ điểm lao động. Làm xong báo cho đội trưởng biết và chấm luôn điểm vào đó. Nếu xã viên đồng ý thì ký vào. Như vậy việc gì tôi phải đánh kẻng và họp đêm để bình điểm. Bà thấy tôi làm chủ nhiệm như vậy có được không?
- Làm được như ông thì còn gì phải nói nữa. Nhưng khó lắm ông ạ.
- Khó ở chỗ nào?
- Như tôi nói với ông khi nãy ấy. Hễ ai muốn làm khác đi thì người ta bảo làm như vậy là vi phạm điều lệ, quy định, rồi còn gì gì nữa. Thấp cổ bé họng như chúng tôi có nói thì người ta vẫn làm ngơ. Mà rồi các ông Chủ nhiệm chẳng ai muốn mua cái bận vào người. Đánh kẻng, ngồi uống rượu vẫn có nhiều điểm hơn xã viên đi làm ngoài đồng, ai dại gì mà thay đổi vừa vất vả, vừa thiệt thòi.
Đêm trở về trong yên tĩnh, chỉ còn nghe tiếng khua xào xạc rất khẽ của lá cây xà cừ quanh nhà. Bà Thường về từ lâu, bà Lê và bà Quê nằm rì rầm trò chuyện ở trong phòng bên, ông Kim đặt lưng nằm xuống nhưng không sao ngủ được. Trằn trọc chán, ông ngồi dậy lấy chiếc khăn len quàng vào cổ, xách cái điếu cày và gói thuốc rón rén mở cửa bước ra hiên mò mẫm tìm cái ghế đòn ngồi xuống ngước mắt nhìn vào cái quãng sáng lờ mờ của đêm trăng cuối tháng hiện ra dưới các chòm lá. Câu chuyện của bà Quê và kế tiếp là những hình ảnh làm ăn mà ông bắt gặp ở Hợp tác xã Hạ Đình cứ lởn vởn trong đầu ông. Lại một vụ chiêm thất bát rành rành hiện ra trước mắt đẩy nông dân đến càng gần bờ vực của đói nghèo. Nguyên nhân vì đâu thì đã nhìn thấy, nhưng làm sao thoát ra được tình cảnh này thì còn lúng túng như gà mắc tóc. Ở đây có cái gì đó giống như trận đánh công đồn. Muốn cho bộ đội xung phong vào phá lô cốt, tiêu diệt địch phải có người ôm bộc phá lên phá hàng rào để mở cửa mở. Nhiệm vụ đó giờ đây thuộc về tập thể tỉnh đảng bộ, trong đó ông là bí thư, người chỉ huy cao nhất. Ông Kim rít một hơi thuốc lào khe khẽ rồi ngước nhìn lên cái khoảng không sâu thẳm nhờ nhờ hiện ra giữa các tầng lá. Gần ba mươi năm hoạt động cách mạng, gian nguy từng trải nhưng chưa khi nào ông thấy tay chân mình bị trói buộc như hôm nay. Đêm nặng nhọc trôi qua. Ông Kim rít thêm một hơi thuốc lào nữa rồi xách điếu đi vào nhà.
2
Chiếc xe com-măng-ca chạy vào sân huyện ủy Tam Bình. Đô nhảy xuống mở cửa xe. Ông Kim bước xuống và đỡ bà Quê xuống theo:
- Bà xuống một lát cho đỡ cuồng chân rồi đi tiếp. Đi xe chưa quen bà có thấy mệt không?
Bà Quê trả lời thật thà:
- Từ thủa cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới biết là đi ô-tô như thế nào ông ạ. Lúc đầu thấy nó chạy nhanh quá toàn sợ ngã thôi. Mãi mới quen được. Khiếp, mỗi lần thấy người đi bộ từ xa sợ người ta không tránh kịp để xe húc phải thì nguy.
Chi từ trong nhà đi ra, chưa đến nơi đã nói loắng thoắng:
- Gớm, bí thư tỉnh ủy đã về đến đây không nghỉ được mấy phút vào cơ quan huyện ủy uống nước hay sao mà đứng cạnh xe chờ em. Hay là chê nước chè huyện Tam Bình?
Chợt nhìn thấy bà Quê, Chi nói vội vã:
- Chào bà. Cháu vô ý quá, bà tha lỗi cho cháu.
- Tôi cũng định chào cô nhưng chưa kịp chào.
- Bà đi chơi đâu mà gặp được xe bí thư tỉnh ủy để nhờ đi về thế này?
Bà Quê lúng túng chưa biết nói sao, ông Kim nói ngay:
- Bà ấy lên kiện tỉnh ủy và huyện ủy Tam Bình lãnh đạo tồi, để dân đói phải đi ăn xin đấy.
Chi ngạc nhiên kêu lên:
- Anh bảo sao! Bác Quê đi ăn xin à?
- Đúng thế đấy. Chiều qua tớ gặp bà ấy mang tay nải đi ăn xin trên đường phố, tớ đón bà ấy về nhà cơm nước. Sáng nay tiện thể xuống làm việc với Đạo Thắng tớ đưa bà ấy về nhà.
Chi hỏi:
- Bác giận vợ chồng anh Tế hay sao mà bác lại bỏ nhà đi ăn xin hả bác?
- Tôi chỉ giận con dâu thôi cô ạ.
- Giận thì mắng chứ việc gì bỏ đi. Nhỡ có chuyện gì thì sao.
- Tôi cũng lẩn thẩn thật cô ạ. Khổ thân con tôi.
Nói xong bà Quê kéo áo lên lau nước mắt.
- Đi được chưa hay còn đứng đây con cà con kê? – Ông Kim hỏi Chi.
- Anh chờ em vào lấy cái nón.
Chi đi được mấy bước. ông Kim nói với theo:
- Hôm nay bọn tớ không đem theo cơm nắm, trưa báo hộ ba suất cơm nhé. Nhà bếp ăn thế nào, chúng tớ ăn thế chứ thấy món gì khác đi là tớ bỏ lại đấy.
Xe đến cái chợ xép đầu thôn Gia Đạo, ông Kim bảo Hành cho xe dừng lại. Mọi người xuống xe. Có mấy người trong thôn nhìn thấy bà Quê liền chạy lại. Chị Khuê, cháu họ gọi bà Quê bằng bác reo lên:
- Bác về đây rồi! Khiếp, bác đi đâu mà để vợ chồng anh Nam, anh Tế khóc hết nước mắt, bỏ cả công việc đi tìm bác khắp nơi.
Một chị nhận ra ông Kim kêu lên:
- Bác là bác Kim, bí thư tỉnh ủy chứ gì. Mấy lần bác về đây em còn nhớ mặt.
Ông Kim cười:
- Hoá ra mặt tôi cũng dễ coi nên có nhiều người nhớ đấy nhỉ.
Mọi người đứng cạnh cười vui vẻ. Ông Kim quay sang bảo Đô:
- Cậu và cậu Hành tìm chỗ đỗ xe rồi đưa bao gạo và bác Quê về trước, tớ và cô Chi đi quanh chợ xem bà con ta mua bán ra sao, lát nữa tớ vào.
Chợ lèo tèo mấy cái quán tranh. Thiếu thốn, nghèo nàn được phơi ra dưới mấy mớ cám lợn để trong thúng, mấy mớ rau chỏng chơ trong rổ và những mớ tép, mấy giỏ cua. Cô hàng xén ngồi ngáp ngủ bên các khay hàng chỉ có mấy gói thuốc nhuộm, mấy cái cặp tóc ba lá bằng i-nốc, kim chỉ, mấy vỉ cúc áo. Người mua kẻ bán thưa thớt. Ông Kim dừng lại hỏi cô hàng xén:
- Hàng hóa chỉ có thế này thôi hả cô?
Cô hàng xén nhoẻn miệng cười:
- Thì bác tính thứ gì cũng bán cung cấp và tem phiếu hết, cháu làm sao mua được những thứ ấy mà bán được ạ. Mấy cuộn chỉ này cháu cũng mua lại của những người được cung cấp nhưng người ta không dùng đem bán lại cho cháu, cháu mới có mà bán đấy.
- Hàng ít và nghèo nàn thế này bán hàng làm sao đủ sống?
- Cũng khó khăn lắm nhưng còn dễ thở hơn làm nông nghiệp bác ạ.
- Diêm Thống Nhất người ta cũng bán cung cấp, làm sao cô có để bán?
- Mấy ông cán bộ không hút thuốc lá được phân phối đem ra bán lại cho cháu. Buồn cười bác nhỉ. Người cần thì không được mua, người không cần thì vẫn được phân phối, hay thật đấy.
Ông Kim cúi xuống hỏi nhỏ:
- Người ta bán thịt lợn ở đâu hả cô?
Cô hàng xén đưa mắt nhìn láo liên:
- Bác cần mua à?
- Bác định mua mấy lạng trưa ăn.
Cô hàng xén thì thầm:
- Bác đến chỗ cái chị đang bán gánh rau lợn kia kìa. Chị ta đang giấu thịt dưới rau lợn, cứ hỏi chị ta là có đấy. Bác nhớ hỏi thầm thôi.
Ông Kim cười, chào cô hàng xén rồi đi đến chỗ chị bán rau lợn.
- Cô ơi – Ông Kim thì thầm – cô bán cho tôi mấy lạng thịt lợn.
Cô bán thịt lợn mặt tái mét nhưng vẫn nói thì thầm:
- Ông không thấy tôi đang bán rau lợn đây à. Thịt thà đâu mà ông hỏi mua?
- Tôi biết cô đang có thịt lợn giấu dưới rau. Cô bán cho tôi mấy lạng. Tôi mua thật mà.
Cô bán thịt làm bộ đanh đá nhưng vẫn nói để ông Kim và Chi đủ nghe:
- Ai nói với ông tôi giấu thịt lợn ở dưới rau? Họ nói vớ vẩn đấy, đừng có tin.
Ông Kim dọa:
- Cô mà không bán cho tôi, tôi lật gánh rau lên rồi gọi trật tự đến tịch thu thì đừng có chửi tôi nhé.
Cô bán thịt nhìn ông Kim từ đầu đến chân. Thấy dáng vẻ của ông không phải là con người nanh ác liền hỏi nhỏ:
- Ông mua thật chứ?
- Tôi mà định tịch thu thịt lợn chui của cô thì tôi chỉ cần lật gánh rau của cô lên là thấy ngay chứ việc gì tôi thì thầm với cô như kẻ trộm đêm hả?
- Ông thông cảm. Em phải tuyệt đối cảnh giác như vậy mới không khỏi bị lừa. Ông mua bao nhiêu?
- Bao nhiêu một cân?
- Một đồng hai một cân ông ạ.
- Sao bán đắt thế. Cao gấp ba lần thịt mậu dịch kia à?
- Cháu mua của mấy cô nhân viên cửa hàng thực phẩm của huyện đã một đồng một cân rồi. Cháu chỉ kiếm một cân được hai hào thôi. Hôm nào mà bị tịch thu thì coi như cả nhà nhịn đói.
- Cô cắt bán cho tôi một cân.
Cô bán thịt đảo mắt nhìn quanh mấy vòng. Khi thấy an toàn, cô thò tay vào một đầu gánh rau móc ra một miếng thịt lợn, móc từ đầu gánh rau bên kia một cái cân. Lại nhìn quanh với vẻ mặt đầy lo âu. Ông Kim thấy vậy trấn an:
- Cô cứ cân cho tôi, trật tự có đến tôi sẽ chặn họ lại để cô trốn thoát.
- Cháu phải tuyệt đối cảnh giác như vậy mới chạy kịp bác ạ. Họ hay núp vào mấy cái quán kia kìa. Họ ù ra nhanh lắm.
Chi hỏi:
- Chị gánh cả gánh rau, họ chạy chân không làm sao mà chạy kịp?
- Em chỉ móc thịt và cái cân ù té chạy vào làng, còn gánh rau vứt lại. Đành chịu mất quang gánh và rau chứ biết làm sao.
Đi khỏi chỗ cô bán thịt lợn một đoạn, ông Kim nói với Chi:
- Cô có nghe cô hàng bán thịt chui nói thịt lợn từ đâu ra không? Từ các cửa hàng thực phẩm của huyện đấy.
- Cô ấy không nói thì em cũng biết nhưng không làm sao kiểm soát được việc ấy đâu anh ạ. Móc ngoặc giữa nhân viên mậu dịch với con phe giỏi hơn cả làm ảo thuật. Muốn diệt được tệ nạn này chỉ còn cách hàng hóa làm ra được bán tự do ngoài thị trường thì may ra.
Ông Kim và Chi quay lại xe lấy chiếc điếu cày rồi đi vào làng. Đi một đoạn ông Kim bảo:
- Mua cân thịt vào cho mấy bà cháu bà Quê. Tối qua bà ấy bảo cả năm mới ăn được thịt lợn vào dịp tết. Tội nghiệp quá.
- Sao anh biết chợ có bán thịt lợn mà hỏi cô hàng xén?
- Ra đường hỏi bà già, về nhà hỏi trẻ. Bà Quê kể có lần thương cháu quá bà ấy xúc hai bơ gạo ra chợ đổi thịt, nhưng vừa cầm thịt lên tay thì bọn trật tự, trật trẽo gì đó ập tới. Cô bán thịt nhanh chân bê chạy được, thế là chúng quay ra tịch thu miếng thịt của bà Quê. Bà xin sùi bọt mép nhưng bọn kia bảo lên ủy ban mà nhận. Tôi mà biết những thằng này là đứa nào, tôi vặn trái cổ nó mà không ghê tay.
Chi than thở:
- Em không thể ngờ có những chuyện thương tâm như thế lại xảy ra trên địa bàn huyện của mình.
- Không phải chỉ có những chuyện thương tâm mà còn cả những chuyện đểu cáng nữa. Trong khi những chiến sĩ của mình đổ xương máu ngoài mặt trận mà sao ở hậu phương lại có những thằng táng tận lương tâm như vậy.
Đang đi thì từ đằng xa vợ chồng Tế, vợ chồng Nam kéo nhau đi nhanh về phía ông Kim và Chi. Vừa gặp ông Kim, Nam và Tế nắm tay ông rối rít:
- Chúng em vô cùng cám ơn bác bí thư. Không biết ơn này để đâu cho hết. Nếu bác không gặp u em để đưa về cho chúng em thì coi như chúng em đã mồ côi mẹ rồi.
Ông Kim mắng nhẹ:
- Ơn huệ cái gì. Có một mẹ mà bốn con không nuôi nổi để mẹ phải đi ăn xin thì có mồ côi cũng chẳng ai thương.
Hiền bỗng dưng khóc oà:
- Thưa bác, lỗi này tại em chứ không phải của bác cả và nhà em. Nếu bác mắng thì mắng em chứ đừng mắng bác cả với nhà em mà oan cho họ.
- Tôi nói thế thôi chứ tôi chẳng mắng ai cả. Làm con làm dâu thì phải biết đặt chữ hiếu lên hàng đầu. Quyền cao chức trọng đến mấy mà coi cha coi mẹ không ra gì thì cũng coi như đồ bỏ đi. Đói lòng ăn một quả cà. Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng. Làm được như câu ca dao ấy mới là con với dâu.
- Vâng. Chúng em xin nghe lời dạy bảo của bác bí thư – Nam nói.
- Tôi có làm thầy anh đâu mà dạy anh.
Vào đến sân, Chi đưa gói thịt lợn cho Hiền:
- Thịt lợn của bí thư tỉnh ủy mua cho các cháu đây. Chị cầm lấy lát nữa nấu cho các cháu ăn.
Hiền chối đây đẩy:
- Sao bác bí thư lại làm thế. Đã đưa bà em về tận nhà rồi, lại còn đi mua thịt cho các cháu nữa. Em không dám nhận đâu.
- Tính bác ấy chu đáo. Chị cầm đi. Bác ấy biết chị từ chối bác ấy sẽ mắng cho đấy.
Hiền cầm gói thịt chạy vào bếp. Trong nhà mấy bà cháu bà Quê đang chuyện trò ríu rít. Thấy ông Kim vào, bà Quê bảo hai cháu:
- Hai cháu đến vái sống ông đi. Nếu không gặp được ông ấy thì không biết khi nào mấy bà cháu mình mới gặp được nhau.
Nghe bà Quê nói vậy ông Kim cười bảo:
- Thôi, tôi cho hai cháu nợ. Khi nào tôi chết các cháu lạy tôi một thể.
Uống xong chén nước Tế đưa mời, ông Kim hỏi:
- Lúa má năm nay ra sao?
- Có lẽ năm nay mất mùa to bác ạ. Từ khi đặt cây lúa xuống ruộng đã nhìn thấy đói rồi. Trời rét đậm kéo dài liên miên, phân đạm không cấp đủ nên không làm sao vực cây lúa lên được. Bà con đang lo cái đói giáp hạt lắm bác ạ.
Ông Kim thở dài:
- Đói là chắc.
Bà Quê nói chêm vào:
- Làm thế nào, trời cho ăn thế ấy thôi ông ạ. Chẳng cho thừa ai bao giờ.
Ngồi nói chuyện với mấy mẹ con bà cháu bà Quê một lúc, ông Kim bảo Tế:
- Anh có rỗi dẫn tôi và cô Chi đi xem lúa má thế nào.
- Vâng. Em xin dẫn bác đi.
Dọc đường ông Kim hỏi Tế:
- Tình hình làm ăn của Hợp tác xã như thế nào? Nghĩ sao nói vậy chứ không việc gì mà rào trước đón sau nhé.
Tế không ngần ngại nói luôn:
- Bác bí thư đã hỏi thì em chẳng giấu gì. Tình hình làm ăn của Hợp tác xã chán lắm. Chúng em hiện nay chẳng khác gì người đi làm thuê cho Hợp tác. Ruộng đất, trâu bò, cày cuốc đều nằm trong tay Hợp tác. Mình nuôi trâu mình nhưng mà không phải của mình. Vì thế cũng chẳng thương xót gì nó. Nuôi nó béo thì được thêm mấy điểm, để nó gầy bị phạt mấy điểm. Có nuôi cho nó béo cũng chẳng đi đến đâu mà thêm tốn công mệt sức. Chủ nhiệm và đội trưởng sản xuất cũng chẳng khác gì ông chủ, ngồi mát ăn bát vàng. Năm thì mười họa mới bước chân ra đến ruộng mà thóc thu về bằng năm, bằng mười xã viên. Làm dối làm trá của xã viên cũng một phần từ đó mà ra.
- Vì sao xã viên không mạnh dạn đóng góp ý kiến phê bình Ban quản trị?
- Có phê bình cũng vậy thôi. Không khéo có khi còn bị trù dập.
Ông Kim thốt lên:
- Thế này thì tệ quá.
- Cũng chẳng gì Hợp tác xã của chúng em mà xem ra toàn huyện đều như thế cả.
Ông Kim cười:
- Anh nói thế không sợ mất lòng cô Chi à?
- Thiên hạ có chê lãnh đạo kém thì chê tỉnh trước chứ huyện đâu đến phần – Nói xong Chi cười.
Đứng nhìn bao quát cánh đồng một lúc, ông Kim rầu rĩ:
- Lúa má thế này không biết lấy gì mà ăn đây. Bông lúa chẳng khác gì bông cỏ may.
Ông Kim dừng lại chăm chú nhìn vào một ruộng lúa đang ngậm sữa, hỏi Tế:
- Cùng một ruộng vì sao lúa dọc bờ bông có vẻ dài và chắc hạt hơn là thế nào?
- Do bón phân và làm cỏ đấy ạ.
- Sao lại do bón phân?
Tế giải thích:
- Bón phân chuồng cũng như rắc phân đạm, những người được phân công muốn làm cho nhanh để lấy công điểm nên cứ đứng trên bờ mà vãi chứ không chịu lội xuống ruộng. Làm cỏ sục bùn cũng vậy. Thông thường Ban quản trị có đi kiểm tra thì chỉ đứng trên bờ mà nhìn chứ chẳng mấy khi lội xuống ruộng. Bà con xã viên biết vậy nên sục bùn quanh bờ, còn giữa ruộng thì bỏ mặc. Vì thế lúa hai bên bờ ruộng bao giờ cũng xanh tốt hơn.
Ông Kim đi một vòng quanh đám ruộng, sau đó đưa tay móc cả một khóm lúa lẫn bùn đất đưa lên xem rất chăm chú. Lát sau ông cởi dép cao su, xắn quần, vạch những cây lúa ra hai bên lội bì bõm ra chính giữa ruộng. Ông cúi xuống móc một khóm lúa lẫn đất đem vào để hai khóm lúa cạnh nhau. Khoát nước dưới ruộng rửa chân tay đâu vào đó, ông Kim hỏi:
- Các cậu nhận xét hai khóm lúa này có gì khác nhau không?
Đô nhìn một lúc rồi bảo:
- Khóm sát bờ cây lúa mập mạp và bông dài hơn cây lúa giữa ruộng.
- Chỉ thế thôi à?
Chi nhìn kỹ rồi nhận xét:
- Màu đất hoàn toàn khác nhau. Đất của khóm lúa trong bờ đen thẫm, còn đất của đám lúa giữa ruộng giống như đất bạc màu. Màu sắc hai khóm lúa cũng khác nhau.
- Vấn đề là ở chỗ đó. Bây giờ làm phiền anh Tế. Anh vào tìm ban quản trị và đội trưởng sản xuất ra đây cho tôi. Cứ nói thẳng với họ là bí thư tỉnh ủy đang đứng ngoài ruộng chờ họ.
- Vâng, nhưng bí thư tỉnh ủy và huyện ủy chờ có khi hơi lâu đấy vì chẳng mấy khi họ ngồi ở trụ sở hay ở nhà.
- Thế họ đi đâu?
Tế cười:
- Chờ họ ra rồi bí thư tỉnh ủy hỏi họ chứ em chịu.
- Anh cứ đi đi. Có chờ đến tối tôi cũng chờ – Ông Kim tỏ ra bực dọc – Không thể hiểu ra làm sao nữa.
Nói xong, ông ngồi xổm xuống đường ruộng rít thuốc lào liên tục.
* * *
Noãn ngồi uống rượu suông cùng Lịch, Doanh, Ngọ tại nhà của Lấu. Noãn đặt chén rượu vừa uống cạn xuống chiếu:
- Có khi các ông đi ăn cỗ nhà ông Mẫn đi chứ tớ ngại lắm.
- Ngại gì – Lịch bảo – Ông ấy đã đích thân lên mời ông mà ông không xuống là không hay đâu.
- Nhưng tớ nghĩ đến cái hôm ông ấy đưa lá đơn lên xin mổ lợn, tớ gạt đi. Bây giờ đến ăn cỗ nhà người ta chẳng ra sao cả.
- Ông ấy đã lên mời ông có nghĩa là ông ấy đã hiểu ra chính quyền không cho ông ta mổ lợn là do chấp hành chính sách thôi chứ bụng dạ bọn mình chẳng có gì.
Ngọ tham gia:
- Ông Lịch nói đúng đấy. Người ta đã đích thân lên mời mà ông không đi là dở.
Doanh nhìn ra thấy Tế đứng ở ngoài ngõ nhìn vào liền bảo với mọi người:
- Ai như tay Tế đang đứng rình ngoài kia hay sao các ông ạ.
Mọi người nhìn ra. Tế xồng xộc đi vào:
- Khiếp quá! Tìm các ông đến đứt cả hơi. Bí thư tỉnh ủy và huyện ủy đang đứng chờ các ông ở ngoài ruộng, các ông ra nhanh lên.
- Ông đùa hay thật đấy? – Lịch hỏi.
- Tôi làm sao dám đùa với các ông. Các ông ra hay không tùy các ông. Tôi đi đây.
Noãn kêu lên:
- Bỏ mẹ rồi. Tớ phải về báo cho ở nhà chuẩn bị đón tiếp đây – Nói xong, Noãn bỏ vội chén rượu đang uống dở, đứng dậy vội vàng đạp xe đi ra khỏi nhà Lấu.
Lịch, Doanh, Ngọ cũng xỏ vội xỏ vàng giày, dép của mình không còn phân biệt được chân nào phải, chân nào trái, cứ thế chạy cà nhắc cà nhót trên đường làng. Nhìn thấy ba cán bộ Hợp tác xã đứng trước mặt mình ăn mặc xộc xệch, giày dép nhầm chân nọ sang chân kia, ông Kim không sao nhịn được cười:
- Các anh vừa đi biểu diễn văn nghệ về đấy à?
Ngọ nhanh nhẩu:
- Báo cáo bí thư, chúng tôi đang làm việc với chủ tịch xã thì được lệnh triệu tập của bí thư nên vội vàng ra ngay chứ có văn nghệ văn riềng gì đâu ạ.
- Anh bảo họp với chủ tịch xã, vậy chủ tịch xã ở đâu?
- Báo cáo bí thư, nghe tin bí thư xuống, đồng chí chạy về để chuẩn bị đón tiếp rồi ạ.
Ông Kim nhìn thẳng vào mặt Ngọ rồi hỏi:
- Tôi nói không biết có đúng không. Hình như có mùi rượu phảng phất từ mồm anh ra có phải không?
Ngọ gãi đầu nói lúng búng trong mồm:
- Dạ… chúng em có làm… làm một chén họp cho có… khí thế… ế…
- Rượu đâu các anh uống? Các anh nấu à?
- Dạ con vợ em hôm qua về ăn giỗ bên ngoại, rượu giỗ còn, con vợ em xách về cho em một cút vơi vơi, sáng nay đưa ra mấy anh em uống cho vui.
- Sáng nay họp với chủ tịch xã để bàn việc gì thế đồng chí chủ nhiệm? – Ông Kim hỏi Lịch.
Lịch cụp mắt xuống đáp:
- Báo cáo bí thư họp bàn lãnh đạo thu hoạch vụ chiêm sắp tới ạ.
Ông Kim cười mỉa mai:
- Tích cực quá nhỉ! Lúa mới ngậm đòng mà đã bàn tính chuyện lãnh đạo gặt rồi.
Câu nói của ông Kim khiến Lịch càng lúng túng:
- Dạ… dạ…
- Tôi không muốn dạ, bẩm, thưa. Tôi muốn các anh nói cho tôi biết vụ Đông Xuân năm nay lúa tốt xấu như thế nào thôi?
Không cần suy nghĩ, Doanh nói luôn:
- Báo cáo lúa năm nay tốt lắm ạ. Có khả năng được mùa.
Ông Kim nén cơn giận dữ bằng cách giật chiếc điếu cày trên tay Đô rồi ngồi xổm xuống đường ruộng rít một hơi thuốc rõ dài, ngửa mặt nhìn làn khói thuốc đang lơ lửng bay lên cao. Mãi sau ông nói giọng châm biếm:
- Thưa với ban lãnh đạo Hợp tác xã. Các vị có nhìn thấy đám ruộng trước mắt quý vị có gì lạ không?
Ngọ, Doanh, Lịch đưa mắt nhìn nhau. Ông Kim nhắc lại:
- Tôi hỏi ba vị lãnh đạo có thấy gì lạ ở đám ruộng trước mặt không?
Lịch lắc đầu:
- Báo cáo bí thư. Chúng em không thấy gì ạ.
- Vậy tôi xin hỏi ba vị. Vì sao lúa quanh bờ thì xanh tốt, bông dài như vậy mà lúa giữa ruộng chuột chạy không bén lông là sao hả? Vì sao? – Thấy mấy anh cán bộ Hợp tác xã không nói gì, ông Kim gằn giọng – Sao ba vị im như thóc thế? Có nghĩa là ba vị mang tiếng lãnh đạo Hợp tác mà chẳng biết cái đếch gì có phải thế không? Nếu ba vị không biết thì bỏ giày dép lội ra chính giữa ruộng móc một gốc lúa có cả đất đem vào đây, sau đó bốc một bốc một khóm sát bờ để cạnh nhau rồi nhận xét cho tôi nghe.
Lịch, Doanh và Ngọ không hiểu chuyện gì nên có ý chần chừ. Ông Kim giục:
- Thế nào, các vị quan Hợp tác ngại cởi giày dép à? Nếu vậy để tôi đi làm rồi tôi nói cho các vị nghe.
Nói rồi ông Kim cởi dép cao su, xắn quần lên lội xuống ruộng lần nữa. Lịch, Doanh, Ngọ vội vã cởi giày, tất lội xuống theo ông Kim. Chi, Tế và Đô đứng trên bờ che miệng cười không thành tiếng. Ông Kim móc một nắm đất ở giữa ruộng đem vào bỏ lên bờ ruộng rồi cúi xuống bốc một nắm đất sát bờ bỏ xuống bên cạnh. Lịch, Doanh, Ngọ làm theo như một con rối bị giật dây khiến Chi không sao nhịn được cười nên cười thành tiếng. Ông Kim cũng không kìm chế nổi nên cũng cười. Lịch, Doanh, Ngọ lại cười theo khiến cho Chi càng cười to. Ông Kim hỏi Lịch:
- Vì sao một đám ruộng mà có màu đất khác nhau ông chủ nhiệm có biết không?
Lịch đưa mắt nhìn Doanh và Ngọ cầu cứu.
- Nếu các anh không giải thích được thì để tôi nói cho mà nghe. Nguyên nhân là do suốt ngày bận chè chén không còn thời giờ để ra đồng xem bà con làm ăn ra sao. Không được kiểm tra nhắc nhở, giám sát nên ai muốn làm gì thì làm. Phân thì cứ đi quanh đường ruộng để rải, còn giữa ruộng thì cấy chay. Làm cỏ sục bùn cũng làm loanh quanh trong bờ để che mắt ban quản trị. Làm ăn dối trá nhưng công điểm vẫn được tính đâu vào đó nên chẳng ai muốn làm ăn đứng đắn làm gì cho nhọc sức. Nếu tôi phê bình qua loa, không bốc đất lên để các anh nhìn tận mắt, thế nào các anh cũng bảo tôi chỉ có giỏi đoán mò, là quan liêu, là cấp trên muốn nói sao cũng được. Bây giờ các anh nói gì đây?
Lịch lí nhí trong mồm:
- Báo cáo bí thư, chúng em có khuyết điểm, hứa sẽ khắc phục sửa chữa.
- Lại cái điệu kèn ấy. Tôi nghe mãi chán lắm rồi.
Nói xong ông Kim bỏ đi, lòng nặng trĩu nỗi phiền muộn.
3
Suốt chặng đường từ Gia Đạo về huyện ủy Tam Bình, ông Kim ngồi yên như pho tượng. Những gì ông nghe, ông thấy lâu nay về sản xuất của các Hợp tác xã nông nghiệp và đời sống của người nông dân trong tỉnh khiến ông thực sự bất an. Một loạt câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu ông: Làm sao đưa Hợp tác xã trở về đúng với vị trí vai trò của nó là một đơn vị kinh tế tập thể Xã hội Chủ nghĩa? Ở đó lợi ích của nông dân và lợi ích của Nhà nước phải được coi trọng như nhau, theo phương châm nước nổi, thuyền nổi. Muốn thế thì phải đưa kinh tế hộ trở thành chủ thể song song với vai trò của Hợp tác xã. Nhưng chủ trương khi đưa Hợp tác xã lên quy mô đã tập trung toàn bộ tư liệu sản xuất vào trong tay Hợp tác, làm sao mà gỡ được cái khâu này đây? Nghĩ vẩn vơ, ông Kim bỗng nhớ đến những năm tháng đi làm thuê cho địa chủ Trần Đình. Một mình ông ta có trong tay hàng trăm mẫu ruộng, năm bảy chục kẻ ăn người làm mà công việc đâu vào đó. Một tháng đôi lần cưỡi ngựa đi thăm ruộng, còn lại mọi việc đều giao cho người quản lí. Không kẻng, không còi mà người nào việc nấy. Sáng tinh mơ vác cày dắt trâu ra đồng, tối nhọ mặt người mới nghỉ. Người làm thuê khổ thì có khổ nhưng cái bụng lúc nào cũng no. Vẫn biết rằng ăn một thì phải làm trả mười. Vậy mà giờ đây mình làm cho mình, cho tập thể mà vì sao lại ăn dối làm giả? Là nông dân nhưng chẳng tha thiết với ruộng đồng. Sao vậy? Câu hỏi tưởng giản đơn nhưng khó trả lời.
Thấy ông Kim cứ ngồi trầm tư không vui vẻ tán chuyện như mọi lần, Chi hỏi:
- Anh đang nghĩ gì thế?
- Đi xuống Hợp tác xã thì ngoài việc nghĩ về Hợp tác ra còn nghĩ gì nữa. Cô và tay Đô thử giải thích cho tớ nghe vì sao nông dân lại không muốn làm ruộng?
- Đây cũng là câu hỏi thường xuyên em nghĩ tới. Theo em bây giờ nông dân tự dưng sinh ra đổ đốn như thế là do cái cơ chế của ta còn quá lỏng lẻo trong khâu quản lí. Cây hỏng là do cái gốc. Muốn nông dân trở lại đúng với bản chất cần cù của mình thì phải thay đổi một cái gì đó.
- Theo cô ta bắt đầu thay đổi từ đâu?
- Sai ở đâu thì sửa ở đó.
Đô tham gia:
- Khó lắm chị ơi. Tất cả đều nằm trong đường lối chính sách, chị đừng có dại mà đụng vào.
- Chú bảo không dám đụng vào để ôm nhau chết đói à?
- Thì chị thử đụng vào đi. Rơi cái chức bí thư huyện ủy như chơi.
Ông Kim chuyển qua giọng hào hứng:
- Vừa rồi tự nhiên tớ nghĩ đến chuyện ngày còn đi làm thuê cho địa chủ Trần Đình. Càng nghĩ, tớ càng phục nó sát đất…
- Bí thư tỉnh ủy mà phục địa chủ sát đất, anh không sợ quy tội mất lập trường à? – Hỏi xong Chi cười.
- Cái chết của mình là ở chỗ đó đấy. Cái gì dù hay đến mấy mà đã là của giai cấp tư sản, địa chủ phong kiến thì đều coi là dở, là thủ đoạn mị dân, là phồn hoa giả tạo. Vừa rồi tớ bảo tớ phục sát đất địa chủ Đình là phục cái tài quản lí lao động của ông ta. Trong tay có hàng trăm mẫu ruộng đất mà lại rải ra hai, ba nơi. Có nơi cách nhau đến cả chục cây số. Ngày thời vụ cấy, gặt thì thuê thêm người, còn lại trong nhà lúc nào cũng có hàng chục người ở làm thuê thường xuyên. Chẳng có chi bộ cũng chẳng có Ban quản trị lãnh đạo, chỉ đạo gì, cũng không kẻng, không còi, chỉ có vài anh quản lí, thế mà người nào việc nấy cứ thế mà làm. Chẳng roi chẳng vọt, phạt công, phạt điểm vậy mà cày ra cày, bừa ra bừa, cấy ra cấy. Giữa buổi cày, buổi cấy bao giờ cũng có gánh khoai, gánh sắn và nồi chè xanh đưa ra cho người làm thuê ăn giữa buổi để có sức làm tiếp. Làm gì có phân hóa học, có thuốc trừ sâu như bây giờ, chỉ có phân chuồng, nhưng nhờ làm đất kỹ nên năm nào lúa cũng chất đầy bồ đầy kho. Tất cả đều do công tác quản lí lao động chặt chẽ và khoa học. Tất nhiên cũng có cả bóc lột sức lao động của người làm thuê nữa.
Chi đùa:
- Hay là ta cho các Hợp tác xã học tập cách làm ăn của địa chủ Đình xem sao.
Ông Kim không để ý đến câu nói đùa của Chi. Tâm trí ông trở về với những ưu tư nặng trĩu khi nghĩ đến con đường gập ghềnh của các Hợp tác xã nông nghiệp và những hồi ức xa xăm… Trừ những năm ông được điều vào công tác trong quân đội, thời gian còn lại hầu như ông gắn bó với người nông dân. Làm bí thư huyện ủy Tam Bình ngay trong những ngày đầu tiên của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, sau đó là bí thư huyện ủy Linh Sơn rồi được cử phụ trách công tác kiểm tra và bí thư Nông hội tỉnh. Năm 1950, Trung ương lại điều ông sang Bắc Giang tham gia Thường vụ rồi Phó bí thư Tỉnh ủy. Đầu năm 1952 trở về làm Bí thư Tỉnh ủy Phước Vĩnh cho đến ngày kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chín năm, nhiều huyện, nhiều xã của Phước Vĩnh trở thành vùng trắng. Ruộng đồng bỏ hoang, hệ thống tưới tiêu trở nên hoang phế. Hòa bình lập lại, hàng ngàn gia đình tản cư trở về quê cũ trong cái đói lay lắt. Trong khi đó hàng ngàn gia đình công giáo rục rịch di cư vào Nam. Một núi công việc ụp lên đầu ông. Vừa phải khôi phục lại sản xuất để cứu đói, vừa chống lại âm mưu của Mỹ và Ngô Đình Diệm đang ra sức dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào công giáo di cư. Ông tung toàn bộ tỉnh ủy viên, huyện ủy viên xuống cơ sở để trực tiếp chỉ đạo. Còn ông với chiếc xe đạp Mercier cũ kỹ hôm nay huyện này, ngày mai lại có mặt huyện khác để đôn đốc, kiểm tra, chỉ đạo. Có ngày ông đạp xe đến bảy, tám chục cây số. Bệnh dạ dày của ông cũng bắt đầu đau từ đó. Khó khăn vất vả trong gần hai năm, cuộc sống trong tỉnh mới ổn định. Ông nhớ lại thời ấy tuy khó khăn vất vả là vậy nhưng khí thế lao động của nông dân hừng hực, hết phong trào thi đua này lại phát động tiếp phong trào thi đua khác. Còn giờ đây đang có một trở lực vô hình nào đó lúc nào cũng chen vào trong cái nghĩ cái làm của ông. Muốn gỡ ra mà chưa biết gỡ bằng cách nào…
- Anh đói bụng rồi hay sao mà trông thiểu não thế? – Chi lại hỏi đùa.
- Tớ đang nghĩ có nên cho các Hợp tác xã học tập cách làm ăn của địa chủ Đình theo như đề nghị của cô không – Ông Kim đùa lại.
Chiếc xe com-măng-ca tung bụi mù mịt trên con đường chạy vào phố huyện.
Bí Thư Tỉnh Ủy Bí Thư Tỉnh Ủy - Vân Thảo Bí Thư Tỉnh Ủy