The more that you read, the more things you will know. The more that you learn, the more places you'll go.

Dr. Seuss

 
 
 
 
 
Tác giả: Michel Benoît
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: hoang viet
Số chương: 12
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1719 / 58
Cập nhật: 2015-12-21 16:42:53 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2
inh Phúc âm theo Matthieu và Jea
Ánh mặt trời mới mọc của ngày thứ Bảy Lễ Vượt qua ve vuốt trên mái che hứng nước mưa 1. Ngồi trên gờ bồn phun nước trung tâm, kiệt quệ sau hai ngày chứng kiến biết bao hy vọng tiêu tan, người đàn ông vùng Judee thở dài: ông phải lên thôi. Mười một tông đồ đang ẩn nấp trên phòng lớn, như một bầy cừu sợ sệt. Jesus đã bị giao cho Pilate và bị đóng đinh câu rút vào trưa hôm qua…không chỉ là thua cuộc, mà là thất bại thảm hại.
Cuối cùng ông cũng quyết định, chậm chạp leo lên những bậc cầu thang dẫn lên tầng một và đẩy cánh cửa mà Judas đã bước qua trước mắt ông vào tối thứ Năm. Chỉ có một mẩu nến nhỏ cháy trong căn phòng rộng. Ông nhận ra những bóng người ngồi rải rác trên nền đất. Không ai nói gì. Những người Galilee khiếp sợ và đang lẩn trốn: đây là tất cả những gì còn lại của một đất nước Israel thời kỳ mới.
Một bóng người tách ra khỏi bức tường và tiến về phía ông.
- Thế nào?
Peter ngạo ngễ nhìn ông.
"Hắn sẽ không bao giờ chấp nhận thất bại, không bao giờ chấp nhận là kẻ chịu ơn mình khi phải ẩn nấp trong nhà mình như thế này, cũng như hắn chưa bao giờ chấp nhận mối quan hệ ưu ái mà mình đã có với Jesus."
- Thì Pilate đã cho phép hạ thi thể Jesus khỏi giá chữ thập tối qua. Vì đã quá muộn để làm các nghi lễ cho Người, nên người ta đã đặt tạm Người trong một ngôi mộ gần đó, thuộc sở hữu của Joseph vùng Arimathie, một người có cảm tình với Người.
- Ai đã mang thi thể Người đi?
- Nicodème đỡ phía đầu, Joseph đỡ chân. Và vài phụ nữ đóng vai người than khóc, là nhữn người quen việc mà chúng tôi biết rõ, Marie de Magdala và các bạn của cô ta.
Peter cắn môi dưới và đấm nắm tay vào lòng bàn tay trái.
- Thật là xấu hổ, thật là… thật là sa sút! Việc bày tỏ lòng kính trọng cuối cùng đối với một người đã chết bao giờ cũng phải do các thành viên trong gia đình người đó thực hiện! Thế mà cả Marie, cả em trai Người là Jacques đều không có ở đó… chỉ có những người có cảm tình với Người! Thầy thực sự đã chết như một con chó.
Người đàn ông vùng Judee nhìn ông với vẻ mỉa mai.
- Có phải là lỗi của bà Marie mẹ Người, của Jacques và ba người anh em khác của Người, và của các chị em Người không, khi mà những việc chuẩn bị cho cuộc nổi dậy của các anh diễn ra trong vòng bí mật nhất? Có phải là lỗi của họ không khi mọi thứ đều bị đổ vỡ trong vòng vài giờ, một cách bi thảm và bất ngờ? Có phải là lỗi của họ không khi Caiphe đã nói dối, khi Jesus bị dẫn đến nhà Pilate sáng hôm qua? Khi Người bị đóng đinh câu rút ngay tức khắc, không qua xử án? Đó là lỗi của ai?
Peter cúi đầu. Chính ông đã giao du với đám bạn cũ là những người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt, chính ông đã thuyết phục Judas chấp nhận vai trò bẩn thỉu của mình, tóm lại chính ông là người phải chịu trách nhiệm về mọi chuyện. Ông biết vậy, nhưng không thể thừa nhận như thế được. Không thể thừa nhận trước mặt gã này, kẻ tiếm quyền, kẻ đang tiếp tục nói một cách hùng hồn:
- Anh đã ở đâu khi bọn chúng đặt Jesus nằm lên xà gỗ, khi chúng đóng đinh vào cổ tay Người? Trưa hôm qua tôi đã ở đó, náu mình trong đám đông. Tôi đã nghe những tiếng nện búa khủng khiếp, tôi đã nhìn thấy máu và nước chảy ra từ thân thể Người khi một tên lính kết liễu Người bằng một nhát giáo. Tôi là người duy nhất ở đây có thể làm chứng rằng Jesus xứ Nazareth đã chết như một người đàn ông, không một lời than thở, không một lời trách móc đối với chúng ta, những kẻ đã khiến Người rơi vào cái bẫy đó. Khi đó, tất cả các anh ở đâu?
Peter không nói gì. Caiphe phản bội, Jesus bị giao cho người La Mã, những sự kiện bất ngờ này đã khiến mọi việc chuẩn bị cho cuộc nổi dậy biến thành con số không. Cũng như những người khác, vào lúc Thầy hấp hối, ông đang trốn đâu đó trong khu phố thấp. Càng xa đám lính La Mã, càng xa cửa phía Tây của thành Jerusalem và các giá chữ thập của nó càng tốt. Đúng vậy, ông ta là người duy nhất có mặt, là người duy nhất đã nhìn thấy, từ nay trở đi chỉ có mình ông ta là có thể làm chứng cho cái chết của Jesus, về lòng dũng cảm và phẩm cách của Người. Từ giờ trở đi, ông ta sẽ tỏ ra là kẻ thắng thế, sẽ lên mặt sừng sộ, đồ bịp bợm!
Ông phải lấy lại thế chủ động của mình. Người chỉ huy ở đây chính là ông. Ông kéo người đối thoại với mình đến bên một cửa sổ.
- Lại đây, chúng ta cần nói chuyện.
Peter quan sát bóng đêm một lát. Mọi thứ ở Jerusalem đều đen tối, cả bầu trời cũng vậy. Ông quay lại, cắt ngang bầu không khí im lặng nặng nề:
- Có hai vấn đề khẩn cấp. Đầu tiên là thi thể của Jesus: không ai trong chúng ta có thể chấp nhận việc Người bị vứt vào hố chôn chung, như tất cả những kẻ bị kết án tử hình khác. Làm như vậy sẽ là xúc phạm đến danh tiếng của Người.
Người đàn ông vùng Judee đưa mắt nhìn những bóng người không rõ rệt, lả đi dọc những bức tường của căn phòng lớn. Đương nhiên, không người nào trong số họ có thể mang lại cho người bị tử hình một mộ phần tử tế. Joseph vùng Arimathie hẳn sẽ không chấp nhận để thi thể Jesus được an táng lâu dài trong hầm mộ của gia đình mình. Phải tìm chỗ khác.
- Có thể có một cách giải quyết… Người Esseni vẫn luôn coi Jesus là một người trong số họ - mặc dù Người chưa bao giờ chấp nhận là thành viên trong giáo phái của họ. Tôi đã tham gia cộng đồng phi tôn giáo của họ trong một thời gian dài: tôi hiểu họ rất rõ. Chắc chắn họ sẽ chấp nhận để thi thể Người yên nghỉ tại một nghĩa địa của họ trong sa mạc.
- Anh có thể liên hệ ngay với họ không?
- Eliézer ở rất gần đây, tôi sẽ thu xếp việc này. Thế còn vấn đề thứ hai?
Peter nhìn sâu vào mắt người đối thoại: lúc này mặt trăng đã ra khỏi đám mây, và càng làm nổi bật những đường nét thô ráp trên mặt người ấy. Trở lại là một người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt, ông trả lời bằng giọng nghiệt ngã:
- Vấn đề khác là Judas. Và tôi sẽ chịu trách nhiệm về anh ta.
- Judas?
- Anh có biết rằng sáng nay anh ta đã đến Đền thờ và gây ra một vụ ầm ĩ không? Anh có biết rằng anh ta đã tố cáo Giáo chủ là kẻ phản bội, và lấy Chúa trời ra làm nhân chứng giữa Caiphe và anh ta, trước mặt đám đông không? Theo mê tín của người Do Thái, giờ đây một trong hai người sẽ chết trong tay Chúa. Caiphe biết điều đó, và sẽ cho bắt giữ anh ta: thế thì anh ta sẽ nói ra. Anh và tôi, nhất là tôi, sẽ bị vạch mặt. Đối với các Giáo chủ thì điều đó không quan trọng. Nhưng hãy nghĩ đến những người ủng hộ chúng ta, nếu họ biết được rằng vì chúng ta mà Jesus đã bị bắt – mặc dù chúng ta không có ý định nào khác ngoài việc bảo đảm an toàn cho Người – thì tương lai sẽ chấm hết. Anh hiểu chứ?
Kinh ngạc, người đàn ông vùng Judee nhìn chòng chọc vào mặt người đàn ông vùng Galilee: "Tương lai nào, hỡi kẻ thoát nạn khốn khổ, sau một cuộc phiêu lưu thất bại? Còn có tương lai nào khác ngoài việc quay về với những tấm lưới đánh cá của ngươi, thứ mà lẽ ra ngươi không bao giờ nên rời bỏ?"
Ông không nói gì. Peter cúi đầu, gương mặt lại chìm vào bóng tối.
- Anh ta đã rối trí, đã trở thành kẻ nguy hiểm. Cần phải làm gì đó để tránh mối nguy hiểm này. Đừng bận tâm đến điều đó nữa. Tôi sẽ chịu trách nhiệm về Judas.
Và theo bản năng, bàn tay trái ông lướt qua đùi trái nơi có đeo thanh kiếm ngắn sica.
14
Văn tự của các Tông đồ
Để mặc người đàn ông vùng Judee còn đang sững sờ, Peter rời khỏi phòng, đi qua hành lang có mái che và lẻn ra ngoài. Trong buổi bình minh lờ mờ của ngày thứ Bảy Lễ Vượt qua này, chắc là đường phố sẽ vắng vẻ: ông đã biết tìm Judas ở đâu.
Ông luồn lách trong khu phố thấp. Một loạt những con phố nhỏ quanh co rắc rối, càng ngày càng hẹp, không phố nào lát đá: cát lạo xạo dưới dép ông.
Ông gõ vào một cánh cửa.
Gương mặt khiếp sợ của một phụ nữ che mạng hiện ra ở ngưỡng cửa.
- Peter! Nhưng… vào giờ này ư?
- Ta đến không phải để tìm cô, cô gái. Ta tìm Iscariote. Anh ta có ở đây không?
Cô để ông đứng ngoài, và hạ giọng:
- Có, anh ấy đến đây lúc đêm, hốt hoảng. Thực tình, anh ấy dường như không còn là mình nữa… Anh ấy đã cầu xin tôi che giấu anh ấy đến hết dịp lễ này. Anh ấy nói đã công khai tố cáo Giáo chủ Caiphe là kẻ phản bội, và đã xin Chúa làm nhân chứng: bây giờ một trong hai người sẽ phải chết.
- Cô không tin tất cả những điều đó, đúng không?
- Tôi cũng là một học trò của Jesus như ông. Người đã giải phóng chúng ta khỏi tất cả những chuyện hoang đường nhằm chế ngự nhân dân đó.
Peter mỉm cười với cô:
- Vậy thì cô không có gì phải sợ cả, tôi đến đây là để trấn an Judas. Chúa rất công bằng, Người hiểu rõ sự ngay thẳng trong tâm hồn anh ta. Judas đã sai lầm khi lấy Người làm nhân chứng giữa mình và Giáo chủ. Hãy bảo anh ta ra đây, tôi có chuyện muốn nói với anh ta.
Người đàn bà ngập ngừng, nhìn Peter và đóng cửa lại trước mặt ông.
Vị tông đồ bước vài bước: ba căn nhà thấp tạo thành một cái ngõ cụt, tất cả các cửa chớp bên ngoài đều đóng kín. Jerusalem vẫn còn đang ngủ, sau một đêm thức giấc cầu kinh Seder cho lễ Thiên Di.
Một tiếng động làm ông rùng mình quay lại. Judas đang đứng trước mặt ông.
- Peter! Shalom!
Trông anh rất nhợt nhạt, đôi mắt thâm quầng và mái tóc rối bù khiến anh có vẻ nhớn nhác. Anh lo lắng nhìn chòng chọc vào mặt Peter, người không trả lời câu chào của anh mà chỉ gật đầu. Judas liền nói trước.
- Giá mà anh biết được… Chúng ta đã bị phản bội, Peter ạ, bị chính Giáo chủ phản bội. Hắn đã thề rằng sinh mạng của Jesus sẽ được bảo vệ. Thế mà mờ sáng hôm qua tôi đã nhìn thấy Thầy bị dẫn đến nhà Pilate, bị trói. Thế là…
- Thế là mày trở nên điên rồ! Giọng Peter sắc lạnh.
- Thế là tôi muốn nhắc cho Caiphe nhớ thỏa thuận giữa chúng tôi. Và tôi đã nhờ Chúa trời làm nhân chứng giữa tôi với hắn.
- Mày có biết điều đó nghĩa là gì, theo niềm tin vô lý của chúng mày không?
Judas cúi đầu, căng thẳng vặn hai tay vào nhau.
- Mọi lời thề đều gắn với Thượng đế. Caiphe đã thề trước mặt tôi, hắn đã trao cho tôi một khoản coi như tiền cược cho lời hứa của hắn, thế mà Jesus vẫn chết như một kẻ xấu xa! Ồ, đúng, chỉ có Thượng đế mới có thể phán xét một điều bỉ ổi như vậy.
- Chẳng phải Jesus vẫn nhắc đi nhắc lại với chúng ta là không nên thề trước bàn thờ Chúa, vì làm thế là sỉ nhục Người đó sao?
Judas lắc đầu.
- Chúa phán xét, người anh em ạ, Chúa phải phán xét sự bỉ ổi của những kẻ…
"Các Giáo chủ đã biến chúng ta thành thế này đây, Peter nghĩ, nô lệ của những đức tin vô lý. Trước hết phải giải phóng Israel khỏi điều đó và nếu không phải với Jesus, thì sẽ là không có Người. Nhưng Judas đã hoàn toàn hỏng mất rồi. Quá muộn cho anh ta."
- Và thế nào nữa, Judas?
- Thế là mọi chuyện đã kết thúc. Chúng ta chỉ còn cách quay về Galilee, để chuộc lại cái chết của Thầy chừng nào chúng ta còn sống. Tất cả đã kết thúc rồi, Peter ạ!
Vị tông đồ bước một bước về phía Judas, người đang nhìn ông tiến lên với vẻ ngờ vực. Để trấn an, Peter mỉm cười với anh - người này là một nạn nhân của chính quyền Do Thái, hãy để anh ta được chết yên ổn! Rồi ông rút thanh sica ra, và bằng một động tác mau lẹ, như trước đây ông đã từng học từ những người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt, đâm vào bụng dưới Judas. Mặt nhăn lại vì khó chịu, ông kéo lưỡi kiếm lên trên cho đến khi cảm thấy va phải xương ức.
- Chúa đã phán xét, Judas ạ, ông thì thào vào mặt anh. Chúa luôn luôn phán xét. Caiphe sẽ tiếp tục sống, vì sự bất hạnh của Israel.
Mắt mở to hoảng sợ, Judas đổ gục về phía trước không một tiếng kêu, bụng mở phanh, ruột xổ tung trên cát.
Peter chậm rãi lùi lại và xem xét ngõ cụt: không có gì động đậy, hẳn là không có nhân chứng nào. Ông chậm rãi lau thanh kiếm ngắn vào mặt trong áo lót. Rồi ngước mắt lên. Vầng mặt trời vui vẻ của Lễ Vượt qua vừa chiếu sáng vùng đất Israel, nhắc ông nhớ đến khi thoát khỏi ách nô lệ của Ai Cập, và lần lượt vượt qua sóng nước biển Đỏ một cách thần kỳ.
Ngày hôm đó, một dân tộc đã ra đời, Dân tộc của Chúa. Sau đó, mười hai bộ lạc sống du cư trong sa mạc trước khi đến định cư ở Canaan: đất nước Israel cổ xưa, đất nước đã ở vào thời kỳ tàn lụi. Một nước Israel Mới phải được khai sinh, và lần này sẽ do mười hai tông đồ dẫn dắt. Họ chỉ còn lại có mười một người? Chính Chúa trời sẽ chỉ ra người thay thế Judas.
Nhưng không bao giờ gã người vùng Judee kia, kẻ tự xưng là môn đồ cưng, có thể trở thành một trong số Mười hai tông đồ.
Không bao giờ.
Peter bước qua xác Judas. Khi phát hiện ra hắn, tất cả mọi người sẽ nghĩ đến một vụ thanh toán nợ nần giữa những người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt với nhau: mổ bụng kẻ thù là cách ký tên quen thuộc của họ. Ông đưa mắt nhìn cái xác lần cuối:
"Từ nay trở đi, ta sẽ là tảng đá trên đó Giáo hội được dựng lên, và cái chết sẽ không còn khả năng chống lại chúng ta. Tất cả chưa phải là đã kết thúc, Judas ạ."
15
Hai ngày đã trôi qua từ sau cái chết của cha Andrei. Cha Nil ngắm nghía bàn làm việc chất đầy giấy tờ, kết quả của nhiều năm nghiên cứu. Ông nghĩ đã làm sáng tỏ những tình tiết thực sự về cái chết của Judas: tất cả đều liên kết với nhau trong vòng vài ngày trước ngày Jesus bị đóng đinh câu rút. Sau đó Judas đã bị giết, ông ta không treo cổ tự tử. Các sự kiện diễn ra tiếp theo chỉ có thể được giải thích bằng cách lục lọi trong các văn tự để nắm bắt không chỉ điều được nói ra trong đó, mà là những điều phải ngầm hiểu ra từ đó. Lịch sử không phải là một môn khoa học chính xác: sự thật của nó bắt nguồn từ việc đối chiếu các dấu hiệu tích lũy được.
Giờ đây, ông phải áp dụng đúng phương pháp này với vuông giấy bí ẩn phát hiện được trong bàn tay người bạn đã khuất. Để làm được điều đó, ông phải tiếp cận được thư viện lịch sử. Thủ thư mới của tu viện sẽ chỉ được bầu ra sau lễ tang, dự kiến diễn ra vào ngày mai.
Ông nhắm mắt lại, để mình chìm vào quá khứ.
- Cha Nil, tôi vừa được biết rằng trong khi trùng tu lại nhà thờ Germigny, công nhân đã phát hiện ra một bản khắc cổ. Tôi muốn được nhìn thấy bản khắc đó, cha có đi cùng tôi được không? Tôi phải chụp ảnh các bản thảo viết tay ở Orléans, đường đến đó có qua vùng Germigny-des-Prés…
Họ đậu xe tại quảng trường của ngôi làng nhỏ. Cha Nil thích thú được đến lại nhà thờ này: kiến trúc sư của vua Charlemagne đã muốn dựng mô hình thu nhỏ của thánh đường Aix-la-Chapelle, được xây dựng vào khoảng năm 800. Những cửa kính ghép màu quý giá bằng alêbát mang lại cho bên trong nhà thờ một bầu không khí thân mật và tĩnh tâm.
Họ bước vào cửa chính điện.
- Cha xem, dường như bí ẩn vẫn bao trùm nơi đây!
Tiếng thì thầm của cha Andrei lẫn trong tiếng búa đập vào bức tường phía cuối chính điện: để hạ những tấm kính ghép màu xuống, công nhân phải phá bỏ những phần vữa bao quanh. Giữa hai chỗ mở, ngay trong phần kéo dài của gian giữa, có thể thấy một cái hố há hốc miệng trong vùng tranh tối tranh sáng. Chan Andrei tiến lại gần.
- Xin lỗi các ông, tôi muốn xem qua một phiến đá mà hình như các ông đã tìm thấy trong khi tiến hành công việc.
- À, phiến đá à? Đúng vậy, chúng tôi đã thấy cái đó dưới một lớp vữa. Chúng tôi đã lấy nó ra khỏi bức tường và đặt trong gian cánh trái.
- Chúng tôi có thể xem được không?
- Không vấn đề gì, các cha là những người đầu tiên quan tâm đến phiến đá ấy đấy.
Hai thầy tu đi vài bước và nhận ra trên nền đất một phiến đá vuông, trên rìa vẫn còn dấu vết của lớp vữa gắn. Cha Andrei cúi người, rồi quỳ một chân xuống đất.
- A… rõ ràng là ngay từ đầu người ta đã gắn nó lên tường bằng vữa. Được gắn lên tường ở vị trí như vậy, phiến đá này sẽ nằm ngay trong tầm mắt của các tín đồ. Thế nghĩa là nó có một tầm quan trọng đặc biệt… Sau đó, cha nhìn xem, người ta đã che phủ nó bằng một lớp vữa có vẻ mới hơn.
Cha Nil cũng chia sẻ tâm trạng hưng phấn của bạn mình. Những người như hai ông không bao giờ đề cập đến Lịch sử như một thời đại đã trôi qua: quá khứ chính là hiện tại của họ. Đúng lúc này, họ nghe thấy một giọng nói vượt qua nhiều thế kỷ: giọng nói của vị hoàng đế đã ra lệnh khắc chữ lên phiến đá này, và muốn rằng nó được gắn lên một vị trí dễ nhận thấy như vậy.
Cha Andrei rút khăn mùi soa và nhẹ nhàng lau mặt phiến đá.
- Lớp vữa này cùng loại với vữa ở các nhà thờ La Mã. Như vậy, phiến đá này đã bị che phủ đi khoảng hai đến ba thế kỷ sau khi được gắn ở đây. Một ngày nào đó, người ta đã nhận thấy cần che giấu bản khắc này khỏi con mắt của công chúng. Nhưng ai có lợi trong việc che giấu này?
Những ký tự hiện ra dưới lớp vữa bị phủi đi.
- Chữ viết dưới thời Carolingien. Nhưng… chính là văn tự về Tín điều Nicée!
- Văn tự Tín điều Credo?
- Chính thế. Tôi đang tự hỏi tại sao người ta lại muốn nó được đặt một cách công khai, trong tầm mắt tất cả mọi người, trong nhà thờ hoàng tộc này. Nhất là, tôi tự hỏi…
Cha Andrei quỳ một lúc lâu trước bản khắc, sau đó đứng lên, phủi bụi và đặt một tay lên vai cha Nil.
- Bạn của tôi, trong bản sao lại Tín điều Nicée này có điều gì đó mà tôi không hiểu: tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó.
Họ nhanh chóng chụp một bức ảnh bề mặt phiến đá, và ra đi khi công nhân đóng cửa công trường để nghỉ trưa.
Cha Andrei lặng im cho đến tận Orléans. Khi cha Nil chuẩn bị máy ảnh cho buổi làm việc, ông ngăn lại:
- Không, đừng dùng cuộn phim này, đây là cuộn phim chụp phiến đá. Cha hãy để riêng nó ra, và dùng một cuộn phim khác để chụp các bản thảo này.
Chặng đường về buồn tẻ. Trước khi ra khỏi xe, cha Andrei quay sang cha Nil. Ông có vẻ đặc biệt nghiêm trang.
- Chúng ta sẽ in phim chụp ở Germingny ra thành hai bản. Tôi sẽ lấy một bản, và sẽ fax ngay cho một người làm việc ở Thư viện Vatican mà tôi có liên hệ: tôi muốn biết ý kiến của ông ấy, rất ít người có thể hiểu được những nét đặc thù của các bản khắc vào đầu thời kỳ Trung cổ. Bản thứ hai… cha hãy giữ gìn nó cẩn thận trong phòng của cha. Chẳng ai biết chuyện gì sẽ xảy ra.
Mười lăm ngày sau, cha Andrei gọi cha Nil vào văn phòng mình. Ông có vẻ lo lắng:
- Tôi vừa nhận được một lá thư từ Vatican: họ triệu tập tôi đến đó để báo cáo về việc dịch bản thảo tiếng Ai Cập cổ mà tôi đã nói với cha. Tại sao họ lại yêu cầu tôi đi chuyến này? Cùng với lá thư, còn có lời nhắn của người làm ở Vatican, nói với tôi rằng ông ấy đã nhận được bức ảnh chụp phiến đá Germigny. Không bình luận gì thêm.
Cha Nil cũng ngạc nhiên không kém gì bạn mình:
- Khi nào cha đi?
- Sáng nay, Cha tu viện trưởng đã đến đưa cho tôi một vé đi chuyến tàu Roma Express ngày mai. Cha Nil… xin cha, trong khi tôi đi vắng, cha hãy quay lại Germigny. Bức ảnh mà chúng ta đã chụp không được rõ, cha hãy chụp một bức khác ở góc ánh sáng chiếu là là.
- Cha Andrei, có thể nói cho tôi biết cha đang nghĩ đến điều gì không?
- Hôm nay, tôi không nói với cha nhiều hơn được. Hãy tìm một cớ nào đó để ra ngoài, và nhanh chóng chụp bức ảnh ấy. Chúng ta sẽ cùng xem xét khi tôi trở về.
Ngày hôm sau, cha Andrei lên đường đi Roma.
Và không bao giờ trở về tu viện nữa.
Cha Nil mở mắt ra. Ngay khi có thể, ông sẽ đi thực hiện ước nguyện cuối cùng của bạn mình. Nhưng không có ông ấy thì một phim mới chụp bản khắc sẽ dùng làm gì?
Tiếng chuông sầu thảm bắt đầu vang lên liên hồi, thông báo cho toàn thể thung lũng biết rằng ngày mai, một tu sĩ sẽ được trang trọng đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cha Nil hé mở ngăn kéo bàn và lùa tay xuống dưới chồng thư.
Tim ông bắt đầu đập mạnh. Ông kéo hẳn ngăn bàn ra: bức ảnh chụp ở Germigny đã biến mất, cả mảnh giấy của cha Andrei cũng vậy.
"Không thể! Không thể thế được!"
Ông rải hết những thứ đựng trong ngăn kéo lên bàn: không tác dụng gì, cả bức ảnh và mảnh giấy đều không thấy.
Các tu sĩ đều nguyện sống trong cảnh nghèo khổ: vậy nên họ tuyệt đối không sở hữu thứ gì, không được khóa kín bất cứ thứ gì, và không một phòng nào trong tu viện có ổ khóa. Trừ các văn phòng của thủ quỹ, văn phòng của Cha tu viện trưởng - và ba thư viện, nơi mà chìa khóa được phân phát với sự dè sẻn ta đã biết.
Nhưng phòng của một tu sĩ là nơi sự cô độc của người đó không bị xâm phạm: không ai được vào phòng khi chủ nhân vắng mặt, hoặc không được chủ nhân chính thức cho phép. Trừ Cha tu viện trưởng, người ngay khi được bầu lên đã thề danh dự là tôn trọng quy định không thể xâm phạm này, là điều bảo đảm cho sự lựa chọn của các tu sĩ: sống trong cộng đồng nhưng cô độc trước Chúa.
Không chỉ xâm phạm nơi riêng tư của cha Nil, mà người ta còn lục lọi và lấy cắp. Ông liếc nhìn những tập hồ sơ nằm rải rác, lộn xộn trên bàn. Đúng, người ta không bằng lòng với việc chỉ lục lọi trong ngăn bàn: tập dày nhất trong số các hồ sơ của ông, kinh Phúc âm theo Thánh Jean, không còn ở vị trí quen thuộc. Nó đã bị xê dịch đôi chút, và mở ra. Cha Nil, người đã dùng nó hằng ngày từ khi bắt đầu khóa học, nhận ra ngay rằng một số ghi chép của ông không còn ở đúng vị trí mà ông sắp xếp theo logic của riêng mình. Thậm chí hình như một số tờ đã biến mất.
Một nguyên tắc trong cuộc sống của tu viện dòng Benedict vừa bị xâm phạm, ông đã có bằng chứng hiển nhiên. Điều này hẳn phải do một nguyên cớ vô cùng nghiêm trọng. Ông lờ mờ cảm thấy có một mối liên hệ giữa những sự kiến bất thường xảy ra thời gian vừa qua, nhưng đó là gì?
Ông đã chống lại mong muốn của gia đình không theo đạo của ông để trở thành tu sĩ, ông nhớ lại hình ảnh mình khi còn là chàng thanh niên tập tu. Sự thật… ông đã mang cả cuộc đời mình để đi tìm nó. Có hai người hiểu ông: Rembert Leeland, bạn đồng môn của ông trong bốn năm học ở Roma, và cha Andrei. Leeland hiện đang làm việc ở đâu đó tại Vatican, cha Nil thấy mình đơn độc với những vấn đề mà ông không đủ khả năng giải quyết, và một nỗi lo sợ âm thầm vẫn không rời bỏ ông từ cuối mùa hè.
Ông đưa tay vuốt nhẹ lên tập hồ sơ dày về kinh Phúc âm theo Thánh Jean: tất cả là ở đây. Thật ra, cha Andrei đã không ngừng khiến ông hiểu ra điều đó, mặc dù vẫn từ chối nói hết mọi chuyện với ông hoặc cho phép ông tiếp cận thư viện cánh Bắc. Ông ấy không thể làm khác được: phải phục tùng. Nhưng cha Andrei đã chết, có thể là do sự phục tùng của ông ấy. Và căn phòng của chính ông đã bị lục lọi, một sự xâm phạm đến những quy định bất di bất dịch của tu viện.
Phải làm một điều gì đó.
Vẫn còn một giờ trước kinh chiều tối. Ông đứng dậy, đi ra hành lang, và cả quyết bước về phía cầu thang dẫn đến các thư viện.
Nhờ có trí nhớ hình ảnh tốt, ông đã ghi nhận những chi tiết nhỏ nhất trên mảnh giấy của cha Andrei. Bản thảo tiếng Ai Cập cổ (Apoc) chắc chắn là một bản thảo kinh Khải Huyền bằng tiếng Ai Cập cổ. Bức thư của Tông đồ, sau đó là ba ký tự bí ẩn M M M, và phiến đá Germigny. Sợi dây liên kết tất cả các yếu tố bí ẩn này còn đang nằm im đâu đó, trong những cuốn sách của thư viện.
Ông đến trước văn phòng của cha Andrei, nằm ngay bên thư viện Khoa học về Kinh Thánh. Cách đó mười mét là góc cánh Bắc và lối vào thư viện Khoa học lịch sử.
Cánh cửa văn phòng thủ thư cũng không có ổ khóa giống như bất cứ phòng nào khác trong tu viện. Ông bước vào, bật đèn, thả mình xuống chiếc ghế mà ông đã ngồi trong biết bao giờ phút hạnh phúc để trò chuyện với bạn mình. Không có gì thay đổi. Trên tường, những bộ ván giá chất đầy sách dán nhãn mới tinh: những cuốn mới được mang đến, đang chờ được sắp xếp vĩnh viễn vào một trong ba thư viện. Bên dưới là cái tủ bằng kim loại nơi cha Andrei xếp bản sao của các bản thảo viết tay ông đang nghiên cứu. Bản thảo kinh Khải Huyền bằng tiếng Ai Cập cổ hẳn đang nằm đâu đó trong tủ. Liệu có nên bắt đầu từ đó không?
Bỗng ông giật mình. Trên một giá sách, nhiều cuộn phim để lộn xộn: âm bản của những bản thảo viết tay… Trong số đó, ở hàng đầu tiên, ông nhận ra ngay cuộn phim ông đã dùng để chụp phiến đá Germigny. Cha Andrei đã để nó ở đó, không nghĩ đến nữa, trước khi đi Roma.
Người ta vừa đánh cắp bức ảnh của ông, nhưng không nghĩ đến phim âm bản, hoặc chưa có thời gian để khám xét văn phòng của viên thủ thư. Không ngần ngại, cha Nil đứng dậy, lấy cuốn phim trên giá và bỏ vào túi. Những ước nguyện cuối cùng của một người quá cố là thiêng liêng…
Ngay trước mặt ông, trên lưng ghế phô tơi, ông nhận ra áo vest và chiếc quần tu sĩ mà cha Andrei mặc lúc chết. Ngày mai, ông ấy sẽ được chôn cất trong lễ phục thầy tu: sẽ không bao giờ có ai mặc đến bộ quần áo này nữa, chúng đã trở nên vô ích cho việc điều tra. Mắt cha Nil bị một làn nước làm nhòa đi, rồi một ý nghĩ điên rồ bỗng lướt qua đầu ông. Ông cầm lấy chiếc quần, thọc tay vào túi bên trái: ngón tay ông nắm vào một vật bằng da. Ông vội rút nó ra khỏi túi: một túi đựng chìa khóa! Không ngần ngại, ông mở khuy bấm.
Ba chiếc chìa khóa. Chiếc dài nhất hoàn toàn giống với cái của ông, là chìa khóa thư viện cánh giữa: hai cái còn lại hẳn là chìa khóa cánh phía Bắc và cánh phía Nam. Chùm chìa khóa đặc biệt, chùm chìa khóa mà chỉ thủ thư và Cha tu viện trưởng mới có. Rối trí vì những sự kiện bi thảm xảy đến với tu viện của mình, Cha tu viện trưởng chưa kịp nghĩ đến việc lấy lại chùm chìa khóa này - chùm chìa khóa mà ông ấy sẽ trao lại cho người kế vị cha Andrei sau khi đã lựa chọn được ứng cử viên để bầu vào chức vụ tế nhị này.
Cha Nil lưỡng lự một lát. Rồi ông thấy lại khuôn mặt của bạn mình, ngồi đối diện với ông trên chiếc ghế phô tơi. "Sự thật, cha Nil ạ, chính là để biết được sự thật mà cha đã vào tu viện này!" Ông bỏ chùm chìa khóa vào túi, vượt qua mấy mét hành lang ngăn cách ông với cánh phía Bắc và thư viện của ông.
Khoa học lịch sử: nếu bước qua cánh cửa này, ông sẽ trở thành một kẻ phản nghịch.
Ông quay lại nhìn phía sau lưng: hành lang của cánh giữa và cánh phía Bắc vắng hoe.
Ông cả quyết tra một trong hai chiế chìa khóa nhỏ vào ổ khóa: ổ khóa xoay tròn không một tiếng động.
Cha Nil, giảng viên hiền hậu phụ trách môn chú giải Kinh Thánh, tu sĩ mẫu mực chưa bao giờ vi phạm quy định nào của tu viện, dù là nhỏ nhất, mở cửa và bước lên trước một bước: vào trong thư viện phía Bắc này là ông bước vào thế chống đối.
16
Kinh Phúc âm theo Matthieu
- Họ làm gì trên đó?
Họ ngồi trên một trong những chiếc ghế dài bằng đá trong hành lang có mái che. Bình minh ngày Chủ nhật Lễ Vượt qua vừa hé lộ, căn nhà vẫn im lìm. Giống như chủ nhà, Peter cũng mệt nhoài. "Hai đêm không ngủ, bữa ăn thực sự cuối cùng là vào tối thứ Năm, trong căn phòng lớn cùng với Jesus. Sau đó Thầy bị bắt và chết. Rồi Judas bị thủ tiêu."
Hai quầng mắt trũng sâu trên gương mặt ông. Ông nhắc lại câu hỏi:
- Thế họ làm gì trên đó?
- Anh phải biết chứ: chẳng phải hôm qua chính anh cũng đã trốn tịt trên đó cả ngày, trong khi tôi mặc cả với người Esseni hay sao?
Người đàn ông vùng Judee không nhắc đến lần ra ngoài ngắn ngủi của Peter vào sáng hôm trước. Khi thấy ông này lẻn ra phố, bàn tay áp sát đùi trái, ông đã đoán ra. Rồi trong ngày hôm đó, ông nghe thấy những lời đồn đại ở Jerusalem: người vùng Galilee bị một người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt nào đó sát hại chính là kẻ đã viện Chúa trời làm nhân chứng giữa mình và Caiphe ngày hôm qua. Anh ta chết là đúng thôi: Chúa trời đã phán xử, và đã chọn Iscariote.
- Tôi tin rằng, Peter mỉm cười cay đắng, đa số họ đang ngủ. Anh nói xem, người Esseni có sẵn sàng giúp chúng ta không?
- Có, tôi có tin tốt đây. Họ cho rằng Jesus là một Người Israel chân chính, và sẵn sàng dành cho Người một phần mộ tại một trong số các nghĩa địa của họ. Việc chuyển thi thể không thể tiến hành trước khi có tiếng tù và báo hiệu kết thúc Lễ Vượt qua. Anh biết rằng người Esseni rất nghiêm túc trong những vấn đề sạch sẽ trong nghi thức, họ sẽ không bao giờ đụng vào một xác chết chừng nào lễ hội chưa chính thức kết thúc. Trong một giờ nữa.
Peter ném sang ông một cái nhìn thận trọng.
- Họ sẽ chôn Người ở đâu? Ở Qumran ư?
Người đàn ông vùng Judee không vội trả lời. Ông nhìn thẳng vào mặt Peter.
- Tôi không biết gì cả, họ không nói gì với tôi.
"Họ sẽ nói với ta, nhưng ngươi sẽ không biết đâu.
Không phải ngươi, không bao giờ."
17
Cha Nil nhẹ nhàng khép cánh cửa thư viện lại. Ông đã từng tự do vào đây trong một thời gian dài. Nhưng từ khi thành lập học viện, người ta đã thay ổ khóa, ông không đặt chân vào cánh phía Bắc này từ bốn năm nay.
Ông nhận ra mùi hương quen thuộc, và khi nhìn lướt qua, ông thấy dường như không có gì thay đổi. Biết bao lần ông đã đến đây, bị một cuốn sách mới lôi cuốn! Nghĩa là làm quen với một người bạn mới, bắt đầu một cuộc trò chuyện mới. Sách là những người bạn đồng hành tin cậy: chúng hiến dâng hoàn toàn, không giữ gìn, cho những người biết tìm hiểu chúng một cách tế nhị nhưng bền bỉ. Và cha Nil là người vô cùng bền bỉ.
Chìm trong môi trường vật chất chủ nghĩa ngay từ thời thơ ấu, nơi thành công trong xã hội là vị thần duy nhất được sùng bái, một ngày ông đã nhìn thấy một luồng ánh sáng. Như thế nào? Trí nhớ của ông đã để mất dấu vết này. Nhưng ngày đó ông đã biết rằng sự thật trên thế giới này không hạn chế ở cái mà chúng ta nhận thấy, đơn thuần ở cái vỏ bên ngoài. Thế là trong ông nảy sinh một điều hiển nhiên: biết được cái vượt lên trên những vỏ bề ngoài mới là việc phi thường nhất, mới minh chứng được việc một người dốc hết sức lực của mình trong suốt cuộc đời.
Kể từ đó, đối với ông, chuyến phiêu lưu nội tâm dường như đã trở thành điều duy nhất mang lại ý nghĩa cho cuộc đời của một con người tự do. Và việc kiếm tìm điều vượt trên những cái bề ngoài trở thành điều duy nhất không bị gắn với bất kỳ sức ép nào từ bên ngoài.
Điều ông không hề biết khi bước vào thư viện phía Bắc, đó là ông đã nhầm. Bởi vì ông đã phải bước qua cánh cửa này bằng cách lấy trộm chìa khóa, và người bạn duy nhất của ông ở tu viện đã chết, có thể là vì đã bước qua cánh cửa này quá thường xuyên.
Trước mặt ông, hàng tá kệ sách xếp thẳng hàng, chứa trong mình kiến thức lịch sử của toàn thế giới.
- Sách không mang lại hiểu biết, cha Andrei đã từng nói với ông. Chúng là một loại thực phẩm thô. Việc của cha là phải tiêu hóa nó, nghĩa là phá dỡ nó ra trong khi đọc, sau đó xây dựng lại trong chính bản thân cha. Tôi đã nghiên cứu nhiều, cha Nil ạ, nhưng tôi học được ít. Đừng quên điều mà cha tìm kiếm: đó chính là bí ẩn của Chúa, điều nằm bên trên ngôn từ. Ngôn từ và ý tưởng chứa đựng trong sách sẽ dẫn dắt cha theo những hướng rất khác nhau, tùy theo cách cha sắp xếp chúng. Tất cả đều nằm ở đó, có sẵn trong những cuốn sách này: nhưng đa số mọi người chỉ thấy trên giá sách này những tảng đá đặt lộn xộn. Việc của cha là dùng chúng để xây dựng một công trình có cấu trúc chặt chẽ. Chỉ có điều, cha hãy cẩn thận: không phải mọi kiểu kiến trúc đều có thể được chấp nhận, và không phải tất cả các kiểu kiến trúc đều đã được chấp nhận. Chừng nào cha còn ở trong cái được coi là chuẩn mực về mặt tư tưởng, cha sẽ không gặp vấn đề gì. Hãy nhắc lại điều người ta đã nói trước cha, hãy dựng lại công trình đã được quá khứ công nhận, và cha sẽ được tôn vinh. Nhưng nếu cũng với những tảng đá này, cha dựng nên một công trình mới, thì cha hãy cẩn thận…
Cha Nil nhận ra những kệ sách đầu tiên: thế kỷ XX. Viên thủ thư thời kỳ sau chiến tranh - giờ đây ông ấy đang yên nghỉ ở nghĩa trang - đã không tuân thủ chặt chẽ Hệ thống phân loại phổ thông của Dewey, mà theo một cách thức tiện lợi hơn cho các tu sĩ là sắp xếp theo thứ tự niên đại. Như vậy, những kệ sách mà cha Nil quan tâm nằm ở đầu kia. Ông đi tiếp.
Và bỗng mở tròn mắt.
Cách đây bốn năm, chỉ hai kệ là đủ để chứa các tài liệu về thế kỷ I, được sắp xếp theo nguồn gốc địa lý: Palestine, phần còn lại của Trung Đông, phương Tây dùng ngôn ngữ Latin, phương Tây dùng ngôn ngữ Hy Lạp… Thế mà trước mắt ông bây giờ là cả nửa tá kệ sách. Ông bước đến khu vực tài liệu về Palestine: gần hai kệ! Những văn bản mà ông đã uổng công tìm kiếm trong thư viện duy nhất ông có quyền tiếp cận, những tài liệu về cách chú giải Kinh Thánh Midrash trong thời kỳ của người Do Thái sùng nghi thức đạo, những Thánh vịnh và văn tự thông thái không có cả trong kinh Cựu ước lẫn kinh Tân ước…
Bước thêm vài bước nữa, ông đến trước kệ sách chỉ có một nhãn duy nhất: "Qumran". Vừa đưa tay lướt qua các cuốn sách, đột nhiên ông dừng lại. Ở đó, xếp giữa những bản in các bản thảo có nguồn gốc từ vùng biển Chết, ngón tay ông vừa chạm vào một tập dày. Trên gáy tập bản in không hề có tên tác giả hay tên nhà xuất bản, mà chỉ có ba chữ cái do tay cha Andrei viết: M M M.
Tim đập mạnh, cha Nil kéo tập sách về phía mình. M M M, chính là ba chữ cái mà cha Andrei đã viết ngay trước khi chết!
Dưới ánh sáng mờ nhạt hắt xuống từ đèn trần nhà, ông mở tập sách ra. Đây không phải là một cuốn sách, mà chỉ là một tập bản sao: cha Nil nhận ra ngay thuật viết đặc thù của các bản thảo vùng biển Chết. Như vậy, M M M chỉ đơn giản là "Manuscrits de la mer Morte" 2… Những bản thảo này từ đâu đến?
Phía cuối trang đầu tiên, ông luận ra được một con dấu in bằng mực xanh đã phai màu: "Thư viện Huntington, San Marino, California".
Những bản thảo của người Mỹ!
Một hôm, cha Andrei đã nói với ông bằng giọng thì thầm, mặc dù cửa văn phòng của ông đang đóng:
- Các bản thảo vùng biển Chết đã được phát hiện ngay trước khi Nhà nước Israel ra đời, vào năm 1947-1948. Trong bối cảnh lộn xộn khi đó, nơi này là một cái chợ hỗn độn, nơi kẻ nào cũng cố gắng mua - hoặc ăn cắp - những cuộn giấy này càng nhiều càng tốt, vì người ta cho rằng chúng sẽ làm một cuộc cách mạng đối với đạo Cơ Đốc. Người Mỹ đã cuỗm được một số lượng lớn. Từ đó, nhóm nghiên cứu quốc tế phụ trách việc công bố các bản thảo này đã cố gắng hết sức để trì hoãn việc xuất bản. Thấy thế, thư viện Huntington đã quyết định công bố tất cả những gì họ có, bằng cách sao lại và phân phối trong phạm vi bí mật. Tôi hy vọng một ngày nào đó - ông nở một nụ cười ranh mãnh - chúng ta có thể sở hữu một tập ở đây. Đây là bản in lậu những tác phẩm bị kiểm duyệt, cứ như là trong thời kỳ Xô Viết ấy, người ta phải lén lút truyền nhau những bản thảo này!
- Tại sao thế, cha Andrei? Ai ngăn chặn việc xuất bản các bản thảo này? Và tại sao người ta lại lo sợ rằng cuối cùng chúng sẽ bị khám phá?
Như thỉnh thoảng lại xảy ra trong những lần trò chuyện của họ, cha Andrei chìm trong im lặng ngại ngần. Và ông ấy nói sang chuyện khác.
Cha Nil ngần ngại một lúc: đúng ra, ông không thể mượn tập bản thảo này. Mỗi khi một tu sĩ mượn một cuốn sách trên giá, người đó phải đặt vào vị trí cuốn sách một "bóng ma", tức là một lá phiếu có chữ ký của mình và ngày mượn. Hệ thống này nhằm tránh mất sách, nhưng cũng cho phép giám sát công việc trí óc của các tu sĩ. Cha Nil biết rằng, từ một thời gian trở lại đây, việc giám sát này rất chặt chẽ.
Ông nhanh chóng quyết định: "Người thay thế cho cha Andrei còn chưa được chỉ định. Với đôi chút may mắn, sẽ không ai nhận thấy có một cuốn sách biến mất mà không có bóng ma, chỉ trong một đêm duy nhất."
Như một tên trộm, ghì chặt thứ vừa ăn cắp được vào ngực, ông tiến về phía cửa và lẻn ra ngoài thư viện: hành lang cánh Bắc trống trơn.
Ông có một đêm: một đêm dài làm việc bí mật.
Trên kệ "Qumran" của thư viện khoa học lịch sử, một khoảng trống há hốc không có bóng ma cho thấy hôm nay một tu sĩ đã vi phạm một trong những quy định chặt chẽ nhất của tu viện Saint-Martin.
18
Cách đó vài kilomet, trong đêm khuya, khi cha Nil đang lật từng trang bản thảo M M M dưới ánh đèn chụp trong phòng mình (ông đã bịt ô kính trên cửa sổ phòng bằng một cái khăn mặt, hành động chống đối thứ hai trong ngày), hai người đàn ông lặng lẽ bước xuống từ một chiếc xe phủ đầy bụi. Vừa thổi vào những ngón tay bị tê cóng vì cái lạnh tháng Mười một, tên lái xe vừa quan sát nhà thờ nhỏ nơi những ô kính màu bằng alêbát đang nhẹ ánh lên trong đêm. Cảm thấy trong lòng dâng lên một làn sóng phấn khích mạnh mẽ, hắn rùng mình, gương mặt chợt đông cứng lại.
Hành khách còn lại tiến lên trước một bước và xem xét xung quanh: ngôi làng đang ngủ. Đằng trước chúng, hàng rào lỏng lẻo của công trường chắc là có thể kéo ra rất dễ dàng, và chúng sẽ mang phiến đá ra một cách thoải mái. Trò trẻ con thôi!
Hắn quay lại.
- Bismillah, yallah! 3
Người đồng hành của hắn cầm một cái túi bằng da.
- Ken, baruch Adônai! 4
Vài phút sau, chúng quay ra, khệ nệ khiêng theo một phiến đá nặng. Trong khi chúng luồn lách giữa những tấm ván hàng rào, tên lái xe cố chế ngự nhịp tim: "Mình phải trấn tĩnh lại…"
Quảng trường của ngôi làng vẫn vắng vẻ và yên ắng. Chúng dựng phiến đá trong cốp xe, rồi tên lái xe ngồi vào trước tay lái, thở dài: chặng đường đến tận Roma sẽ dài lắm đây… Trước khi đóng cửa, ánh đèn trên trần xe soi sáng mái tóc vàng hoe của hắn, nơi một vết sẹo chạy từ tai trái mất hút vào trong.
Viên ngọc thạch anh có điểm những đốm đỏ và được viền khung bạc của Đức ông Calfo hắt ra một tia sáng, trong khi bàn tay mũm mĩm của ông lướt trên mái tóc rực rỡ của cô gái. Ông những muốn tái tạo lại, vào cuối thế kỷ XX này, những điều tinh tế của thời Cổ đại: tầng hầm của Roma chứng tỏ nhà thổ và đền thờ các vị thần luôn tạo thành một thể thống nhất hữu cơ. Cùng một cánh cửa dẫn đến những ngọn nguồn của cùng một cảm giác ngây ngất.
Trong không khí tĩnh mịch tại căn hộ của ông ở gần lâu đài San Angelo, nơi chỉ nghiêng người là có thể thấy mái vòm uy nghi che trên phần mộ Thánh Peter, ông hài lòng vì tối nay toàn bộ trang phục trên người chỉ bao gồm chiếc nhẫn Giám mục.
"Sự hợp nhất giữa thánh thần và thể xác… Nếu Chúa đã hiển linh trong hình hài Jesus-Christ thì đó là để thực hiện sự hợp nhất này. Nào, người đẹp của ta, hãy khiến ta lên trời đi!"
19
Kinh Phúc âm theo Marc và Luc
Từ Đền thờ, tiếng tù và vang vọng chào đón ánh mặt trời, đánh dấu chấm hết Lễ Vượt qua vào sáng Chủ nhật ngày mồng 9 tháng Tư. Bốn thanh niên cả quyết bước vào nghĩa trang nằm phía trước cửa Tây thành Jerusalem. Một trong số họ mang một cái đòn bẩy: cần phải đẩy tảng đá đặt trên mộ sang một bên, chúng nặng vô cùng. Họ đã quen với việc này.
Khi bước vào trong hầm mộ, họ thấy thi thể một người bị tử hình được đặt sơ sài trên một tảng đá trung tâm, trên mình vẫn còn hằn rõ những vết roi và vết đóng đinh. Bên sườn, một vết thương hở vẫn để rỉ ra một chút máu. Họ buột miệng rên lên:
- Thượng đế ơi! Hãy xem chúng đã làm gì con trai Người, những nhà tiên tri Israel! Hãy để sự trừng phạt của Người vì những giọt máu này giội lên đầu chúng! Người đàn ông chân chính này đã phải chịu biết bao đau đớn!
Sau khi đọc xong kinh Qaddish, họ choàng lên người những chiếc áo dài màu trắng: đối với họ, chuyển một thi hài đến miền đất trong sạch là một hành động tôn giáo, trang phục màu trắng là điều bắt buộc. Hơn nữa trang phục này sẽ khiến những người Do Thái hành hương nhận ra họ - những người này đã quen nhìn thấy người Esseni vận chuyển các thi thể để mai táng lại trong các nghĩa địa của mình.
Hai trong số họ đã sẵn sàng khiêng thi thể. Nhưng vì vào tối thứ Sáu, mọi việc đã diễn ra rất nhanh, nên hôm nay thân quyến của người quá cố hẳn sẽ đến để hoàn tất nghi lễ xức dầu. Nếu họ phát hiện hầm mộ rỗng không thì sẽ hoảng lên mất: cần phải báo cho họ.
Hai người còn lại, vẫn mặc trang phục trắng, đứng luôn ở đầu và cuối tảng đá liệm, trong khi hai người đồng hành của họ bắt đầu chuyến đi dài mang thi thể đến một trong những nghĩa trang của người Essseni trong sa mạc.
Họ không phải chờ đợi lâu: mặt trời vẫn còn thấp ở phía chân trời, họ đã nghe thấy tiếng bước chân lén lút. Những người phụ nữ thân thích với Jesus.
Khi nhìn thấy tảng đá nặng nề đặt trên mộ bị dịch chuyển sang một bên, những người phụ nữ giật nẩy mình. Một trong số họ tiến lên một bước, và kêu lên một tiếng kinh hoàng: hai sinh vật mặc đồ trắng đứng trong hầm tối của ngôi mộ, có vẻ như đang chờ đợi họ. Khiếp sợ, bà lắp bắp hỏi, và được hai người đó trả lời một cách ung dung. Khi hai người này tỏ vẻ sắp bước ra để trả lời họ chi tiết hơn, thì những người phụ nữ quay gót chạy trốn, kêu rối rít như một bầy chim.
Hai người Esseni nhún vai. Tại sao các tông đồ của Jesus lại cử phụ nữ đến đây, trong khi lẽ ra chính họ phải đến? Dù sao, nhiệm vụ của họ đã kết thúc. Chỉ còn việc dọn dẹp lại chỗ này trước khi đi.
Họ cởi áo choàng trắng và định dịch chuyển tảng đá trên mộ: vô ích, vì họ chỉ còn có hai người, mà tảng đá thì quá nặng. Để mặc hầm mộ mở toang, họ ra khỏi khu vườn và ngồi sưởi nắng. Người đàn ông vùng Judee, người đã thu xếp mọi chuyện sẽ đến gặp họ: phải chờ ông ta.
20
Calfo xoay tròn cái roi một lần nữa, nó đập xuống xương bả vai ông. Chiếc roi tự phạt bằng kim loại, theo quy định chỉ được Hội sử dụng trong những dịp hiếm hoi, được tết bằng dây mảnh có dính những hình cầu nhỏ bằng nhôm. Thông thường, máu sẽ chảy ra vào khoảng tiết thứ mười bảy của bài Thánh vịnh Miserere - ở đây cũng được coi như một loại đồng hồ cát cho hình phạt này. Đến tiết thứ hai mươi mốt và cũng là tiết cuối cùng, phải có vài giọt máu đỏ bắn lên bức tường phía sau tu sĩ tự phạt bằng roi.
Nghi lễ hành xác này nhắc đến ba mươi chín roi Jesus phải chịu trước khi bị đóng đinh câu rút. Được một tên lính tráng kiện điều khiển, với những hòn bi bằng chì có kích thước bằng quả ô liu, ngọn roi La Mã xưa rạch nát thịt, thấu đến tận xương, và thường đánh chết người.
Alessandro Calfo không hề có ý định chết vì hình phạt đánh roi mà ông đang bắt mình phải chịu: một kẻ khác sắp phải chết, và nỗi đau đớn này sẽ là một bằng chứng kỳ diệu thể hiện tình đoàn kết anh em. Ông thậm chí còn không có ý định làm xước làn da mịn màng trên vùng lưng mũm mĩm của mình: chắc là cô gái sẽ quay lại vào tối thứ bảy.
"Ba ngày trước khi ‘kết thúc sứ mệnh’ của người anh em đã trở nên già lão của chúng ta"
Khi đưa cô gái đến cho ông, điệp viên người Palestine đã nói trước:
- Sonia là người Rumani, thưa Đức ông, đó là một cô gái đáng tin cậy. Với cô ta, ngài không cần phải lo ngại về những vấn đề cô gái lần trước đã gây ra… Đúng thế, tuyệt đối an toàn, bismillah, lạy Chúa!
Những năm làm công sứ Toà Thánh ở Hy Lạp đã dạy ông sự cần thiết phải có điều đình với những việc khẩn cấp mâu thuẫn với nhau. Ông nhăn mặt và chuẩn bị vung tiếp roi lên phía bả vai: bởi vì điều đình không có nghĩa là nhượng bộ. Mặc dù sắp có một cuối tuần yên ả cùng Sonia, ông vẫn không huỷ bỏ việc thực hiện nghi lễ tự phạt bằng roi, bằng chứng xác thực thể hiện tình đoàn kết đối với một trong các thành viên của Hội. Ông sẽ dàn xếp được giữa tình anh em và yêu cầu phải đảm bảo cho làn da nhung mịn của mình được vẹn toàn: hình phạt roi sẽ chỉ diễn ra trong khoảng thời gian một bài kinh De Profundis.
Đó cũng là một bài kinh sám hối giống như Miserere, và hẳn là sẽ mang lại một giá trị rất thoả đáng cho nỗi đau đớn mà ông bắt mình phải chịu vì đức hạnh Cơ Đốc.
Nhưng kinh De Profundis chỉ gồm có tám tiết, nên chỉ dài bằng một phần ba bài kinh Miserere dài vô tận kia.
21
Cha Nil tháo kính ra, matxa đôi mắt đang cay sè và lùa bàn tay vào mái tóc xám cắt ngắn. Cả một đêm xem xét tỉ mỉ bản sao của các bản thảo M M M! Ông đẩy ghế đẩu, đứng dậy và đến tháo chiếc khăn mặt che kín cửa sổ ra. Những bài kinh mừng của lễ nhật tụng đầu tiên trong buối sáng sắp sửa vang lên: sẽ chẳng còn ai ngạc nhiên khi nhìn thấy ánh sáng trong phòng ông.
Qua ô cửa sổ, ông ngắm nghía một lát nền trời đen của vùng Val–de–Loire vào mùa đông. Mọi thứ đều tối tăm, ở bên ngoài cũng như trong lòng ông.
Ông quay lại bên bàn và nặng nề ngồi xuống. Ông có vóc người mảnh dẻ, nhỏ nhắn: vậy mà ông cảm thấy quá đỗi nặng nề. Trước mặt ông rải rác những chồng giấy ghi chép viết tay, những ghi chép ông đã thực hiện trong suốt đêm dài vừa qua, được sắp xếp cẩn thận thành từng chồng riêng biệt. Ông thở dài.
Những nghiên cứu về kinh Phúc âm theo Thánh Jean đã dẫn ông đến chỗ phát hiện ra một nhân vật bí hiểm, một người đàn ông vùng Judee chỉ xuất hiện thoáng qua trong văn bản và đóng vai trò chủ chốt trong những ngày cuối cùng của Jesus. Người ta không biết gì về ông ta, kể cả tên gọi, nhưng ông ta tự gọi mình là "môn đồ cưng", và nói mình là người đầu tiên gặp Jesus bên bờ sông Jordan, trước cả Peter. Và cũng là một trong số những thực khách tham dự bữa tiệc cuối cùng, trong căn phòng lớn - căn phòng này hẳn là nằm trong chính ngôi nhà của ông ta. Ông ta kể rằng đã nằm cạnh Thầy, vị trí danh dự. Miêu tả việc đóng đinh câu rút, tả nấm mồ trống rỗng, với cách thức và giọng điệu chân thực của một người đã tận mắt chứng kiến sự việc.
Một người chủ chốt biết rõ Jesus và những ngày đầu của nền Cơ Đốc Giáo, một người thân cận mà lời chứng có tầm quan trọng cao nhất. Kỳ lạ là sự tồn tại của nhân chứng quan trọng này đã bị cẩn thận tẩy xoá khỏi tất cả các văn tự của kinh Tân ước. Kể cả kinh Phúc âm khác, những lá thư của Paul, thư của các Tông đồ đều không nói đến sự tồn tại của ông ta.
Tại sao người ta lại quyết liệt mong muốn xoá bỏ một nhân chứng có tầm quan trọng nhường ấy? Phải có một lý do vô cùng nghiêm trọng mới có thể thúc đẩy việc xoá bỏ hoàn toàn dấu vết của người này trong ký ức của đạo Cơ đốc. Và tại sao những người Esseni không bao giờ được nhắc đến trong thời kỳ đầu của Giáo hội? Tất cả những chuyện này hẳn phải liên quan đến nhau: cha Nil chắc chắn về điều đó, và cha Andrei đã khuyến khích ông lần theo sợi dây bí ẩn nối kết những sự kiện đã vĩnh viễn in dấu trong Lịch sử phương Tây.
- Người mà cha phát hiện ra khi nghiên cứu kinh Phúc âm, tôi nghĩ rằng bản thân tôi cũng đã bắt gặp trong lĩnh vực của tôi, những bản thảo từ thế kỷ III đến thế kỷ VII.
Đang ngồi đối diện ông trong văn phòng, cha Nil nảy người lên.
- Cha muốn nói rằng cha đã thấy lại dấu vết của người "môn đồ cưng" trong những văn tự ra đời sau kinh Phúc âm à?
Cha Andrei nheo đôi mắt trên khuôn mặt tròn.
- Ồ, những dấu hiệu này hẳn đã không khiến tôi chú ý nếu chính cha không kể với tôi về những điều cha phát hiện ra! Những dấu vết vô cùng nhỏ, cho đến khi Vatican gửi cho tôi bản thảo tiếng Ai cập cổ tìm thấy được ở Nag Hamadi – ông phác một cử chỉ về phía chiếc cặp xếp giấy tờ của mình.
Ông nhìn người bạn đồng hành của mình với vẻ ngẫm ngợi
- Chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu theo hướng của mỗi người. Hàng chục chuyên gia chú giải và sử học cũng đang làm như vậy mà không hề bị quấy rối chút nào. Tuy nhiên, với một điều kiện: các công trình của họ phải tách biệt nhau, không ai được có ý định kết nối các thông tin này lại. Cha có biết vì sao việc tiếp cận các thư viện của chúng ta lại bị hạn chế không? Chừng nào mỗi người chỉ dừng lại trong chuyên môn của riêng mình, anh ta sẽ không có nguy cơ bị kiểm soát hay trừng phạt và tất cả các Giáo hội có thể tự hào khẳng định rằng trong lãnh địa của mình, quyền tự do suy nghĩ là trọn vẹn.
- Tất cả các Giáo hội?
- Ngoài Giáo hội Công giáo, còn có đông đảo những người theo đạo Tin Lành – và trong số họ là những người theo trào lưu chính thống hiện đang rất mạnh, nhất là ở Mỹ. Rồi còn người Do Thái, và Hồi Giáo…
- Người Do Thái thì có lẽ là chính xác – mặc dù tôi không hiểu vì sao việc chú giải một văn tự trong kinh Tân ước lại liên quan tới họ, vì họ chỉ thừa nhận kinh Cựu ước. Nhưng còn người Hồi giáo thì sao?
- Cha Nil, cha Nil… cha đang sống ở thế kỷ I tại Palestine, nhưng tôi thì đã lần đến thế kỷ VII kia! Muhammad đã viết trong kinh Coran vào năm 632. Cha nhất thiết phải nghiên cứu văn bản này, không chậm trễ. Và cha sẽ phát hiện ra rằng nó có liên quan chặt chẽ đến những biến động và số phận của người đàn ông mà cha đang tìm kiếm dấu vết, nếu ông ta thực sự đã từng tồn tại!
Một lúc im lặng, cha Nil ngẫm nghĩ, không biết tiếp tục câu chuyện từ đâu.
- Nếu ông ta đã từng tồn tại… vậy cha nghi ngờ sự tồn tại của người này bên cạnh Jesus?
- Chắc là tôi sẽ nghi ngờ nếu không theo sát nghiên cứu của cha. Cha đã vô tình thúc đẩy tôi xem xét những đoạn cho đến nay vẫn không được để ý đến trong văn học Cổ đại. Cha đã vô tình giúp tôi hiểu được ý nghĩa của một bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ tối nghĩa mà tôi phải nghiên cứu và báo cáo kết quả về Roma – tôi nhận được bản sao của bản thảo này đã sáu tháng nay, thế mà vẫn chưa biết phải xoay xở thế nào với bản báo cáo, tôi bối rối quá. Roma đã nhắc nhở tôi một lần về việc này, tôi e sẽ bị triệu tập nếu vẫn chậm trễ.
Cha Andrei đã bị triệu về Roma.
Và không bao giờ quay về căn phòng yên tĩnh này nữa.
Chuông điểm từng tiếng trong đêm tháng Mười một, cha Nil đi xuống và bước vào vị trí quen thuộc của mình trong gian thờ của tu viện. Cách ông vài mét về phía bên phải, một chiếc ghế vẫn trống khuyết một cách ngoan cố: cha Andrei…Nhưng tâm trí ông không thể nào tập trung được vào những cung bậc chậm rãi của giai điệu Grégoire mà vẫn chìm trong những bản tháo ông vừa giải mã suốt đêm qua. Một thời gian trở lại đây, điều từng là niềm tin của ông trong suốt cuộc đời bị cắt xén dần, từng mảnh từng mảnh một.
Tuy nhiên, thoạt nhìn, các bản thảo M M M không cho thấy bất kỳ điều gì nhạy cảm. Phần lớn các bản thảo này có nguồn gốc từ thư viện bị phân tán của người Esseni vùng Qumran: những luận bàn về Kinh Thánh theo cách của các pháp sư Do Thái, những đoạn giải thích về cuộc chiến giữa cái Tốt và cái Xấu, giữa những người con của ánh sáng và những người con của bóng tối, vai trò trung gian của một người Thầy Công Lý…Bây giờ người ta biết rằng Jesus không thể là người Thầy Công Lý này. Đã có lúc say sưa với những phát hiện tại biển Chết, công chúng liền nhanh chóng thất vọng. Chẳng có gì ly kỳ hết… và những văn tự mà ông cặm cụi đọc suốt đêm qua cũng không phải ngoại lệ.
Nhưng đối với một trí óc tinh nhanh như của ông, điều ông vừa đọc khẳng định toàn bộ những nhận xét mà ông đã cẩn thận ghi chép lại. Những ghi chép này chưa hề ra khỏi phòng ông, không ai biết đến – trừ cha Andrei, người mà ông không che giấu bất cứ bí mật nào.
Các ghi chép này đặt ra việc xem xét lại toàn bộ những điều cho đến nay vẫn được nói về nguồn gốc của đạo Cơ Đốc, nghĩa là nền văn hoá và văn minh của toàn bộ phương Tây.
"Từ San Francisco đến Vladivostok, mọi thứ đều dựa trên một định thể duy nhất: Christ có lẽ là người sáng lập ra một tôn giáo mới. Thiên chất của Người có lẽ đã được tiết lộ với các tông đồ bởi những lưỡi lửa trùm lên họ vào ngày lễ Hạ Trần. Có thể có một thứ trước ngày đó, kinh Cựu ước, và một thứ sau ngày đó, kinh Tân ước. Thế mà điều này lại không chính xác, thậm chí còn sai!"
Cha Nil bất giác thấy mình đang đứng trong gian thờ, trong khi các đạo hữu của ông vừa rạp người xuống để hát kinh Gloria Patri. Ông nhanh chóng theo tư thế rạp người trong hàng của mình. Từ hàng phía trước, Cha tu viện trưởng ngẩng đầu lên và quan sát ông.
Ông định theo sát hơn diễn biến của buổi lễ, nhưng đầu óc ông lại đang phi nước đại như một con ngựa điên cuồng: "Ta đã phát hiện ra trong các bản thảo vùng biển Chết những khái niệm là cơ sở để thiên chất của Jesus được thực hiện. Nhưng vì không có học nên các tông đồ không đủ khả năng để làm điều đó: họ đã vay mượn những gì người ta nói quanh họ, điều mà tất cả chúng ta đều không biết – cho đến khi phát hiện ra những văn tự ở Qumran."
Lần này, ông là người duy nhất quay mặt vào hàng đối diện, trong khi tất cả mọi người đều đã xoay người xếp thành một khối duy nhất quay mặt về phía điện thờ, để hát kinh Lạy Cha.
Cha tu viện trưởng cũng không nhìn lên điện thờ, ông quay đầu sang phải và nhìn cha Nil vẻ nghĩ ngợi.
Hết lễ kinh mừng, ông bị một sinh viên tóm cổ, anh ta nhất thiết muốn ông cho lời khuyên về khoá luận đang làm. Cuối cùng, vừa được giải phóng khỏi kẻ quấy rầy, ông vội lao như một cơn gió về phòng mình, nhặt tập bản thảo M M M trên mặt bàn đầy ngộn giấy tờ, và không chần chừ luồn xuống dưới khăn choàng vai. Rồi với vẻ tự nhiên nhất, ông tiến về phía thư viện cánh giữa.
Hành lang vắng ngắt. Tim đập mạnh, ông di qua cánh cửa thư viện Khoa học Kinh Thánh, rồi cánh cửa văn phòng cha Andrei, và tiếp tục đi đến tận góc giữa hai cánh của tu viện: dọc hành lang cánh phía Bắc cũng không có một ai.
Cha Nil tiến lại gần cánh cửa mà ông không được phép bước qua – cánh cửa thư viện Khoa học lịch sử - rút từ túi ra chùm chìa khoá của cha Andrei, tra một trong hai chiếc chìa khoá nhỏ vào ổ. Liếc nhìn hành lang một lần cuối: vẫn vắng ngắt.
Ông bước vào.
Không ai đến thư viện vào lúc sáng sớm như thế này. Tuy nhiên, ông không muốn mạo hiểm bật hệ thống chiếu sáng chung, làm thế có thể để lộ ông đang có mặt tại đây. Vài ngọn đèn nhỏ vẫn được thắp thường xuyên và toả ra một thứ ánh sáng yếu ớt vàng vọt. Ông tiến về phía cuối thư viện, rẽ phải đến kệ sách thế kỷ I, và nhanh chóng để lại tập tài liệu M M M vào đúng chỗ mà ông đã lấy tối qua. Sau đó biến đi, không để ai nhìn thấy.
Vừa đến vị trí dành cho các bản thảo ở thế kỷ III, tay phải quờ quạng để định hướng, ông nghe thấy tiếng mở cửa trầm đục ở đầu kia phòng. Gần như ngay lập tức, ánh sáng chói lọi tràn ngập toàn bộ thư viện.
Ông đang đứng ngay giữa lối đi trung tâm, tay phải đưa ra phía trước, một cuốn sách bị cấm dưới cánh tay trái, trong một nơi lẽ ra ông không bao giờ được vào, nơi mà ông không thể có chìa khoá. Dường như các kệ sách ở hai bên đang giãn ra, khiến ông càng trở nên cô độc và phơi mình ra trước những ánh nhìn. Những chiếc đèn chiếu như nhảy ra khỏi tường và trút lên ông những lời trách móc không thương xót: "Cha Nil, cha làm gì ở đây? Làm thế nào mà cha lại có được chiếc chìa khoá này? Cuốn sách này là cái gì? Và tại sao, đúng, tại sao cha lại mượn nó tối qua? Cha đang tìm kiếm gì thế, cha Nil? Đêm qua cha có ngủ không? Tại sao buổi lễ sáng nay cha lại đãng trí như vậy?"
Ông sắp bị phát hiện, và đột nhiên ông nghĩ đến những lời căn dặn thường xuyên của cha Andrei.
Rồi đến thi thể đông cứng bởi cái chết của ông ấy, trên nền đường đá chạy dọc tuyến Roma Express, nắm tay tức giận chỉ lên trời.
Như thể để buộc tội kẻ đã sát hại ông.
22
Kinh Phúc âm theo Jean.
Sáng sớm chủ nhật ấy, những người phụ nữ từ hầm mộ quay về, vẫn kinh hoàng vì thấy nó rỗng không. Họ kể với các tông đồ đang hoài nghi câu chuyện về những người đàn ông mặc đồ trắng, chỉ có thể là các thiên thần mới bí ẩn đến thế. Peter buộc họ im lặng: "Các thiên thần! Đúng là những chuyện lẩn thẩn của đàn bà." Người đàn ông vùng Judee ra hiệu cho ông. Hai người kín đáo ra khỏi nhà.
Lúc đầu, họ lặng lẽ đi, rồi sau đó bắt đầu chạy. Nhanh chóng bị rớt lại sau, Peter mệt đứt hơi mới đến được khu vườn: hai người Esseni đã bỏ đi mà không đợi ông, nhưng người cùng đi với ông, người đến trước, nói với vị tông đồ rằng ông ta đã kịp nói chuyện với họ. Lại một lần nữa ông ta thắng thế, lại một lần nữa ông ta là nhân chứng may mắn.
Giận điên người, Peter một mình quay về căn phòng lớn: không một lời giải thích, người đàn ông vùng Judee rẽ sang đường khác, và đi về phía một ngôi nhà sang trọng trong khu phố Tây.
Giáo phái của người Esseni ra đời từ hai thế kỷ trước. Giáo phái này bao gồm những cộng đồng tu sĩ sống tách biệt khỏi thế giới như cộng đồng ở Qumran, và những cộng đồng vô thần sống lẫn trong xã hội của người Do Thái. Cộng đồng người Esseni ở Jerusalem là đông đảo nhất, thậm chí còn được lấy tên để đặt cho khu phố Tây của thành phố. Eliézer Ben –Akkai là người đứng đầu cộng đồng này.
Ông nồng nhiệt đón chào vị khách viếng thăm.
- Từ lâu ông đã là người của chúng tôi, nếu không trở thành học trò của Jesus, chắc ông sẽ kế vị tôi. Ông biết đấy, người Do Thái dòng Đền ghét chúng tôi và không chấp nhận để chúng tôi chôn người của mình trong các nghĩa trang tách biệt hẳn với nghĩa trang của họ. Một số nghĩa trang của chúng tôi phải giấu ở giữa sa mạc. Những bàn tay dơ bẩn sẽ không bao giờ làm uế tạp được các nấm mồ của chúng tôi.
- Tôi biết tất cả những điều đó, thưa thầy, và tôi chia sẻ nỗi lo lắng của thầy trong việc giữ gìn nơi an nghỉ cuối cùng cho những Người con chân chính của Israel.
- Jesus xứ Nazareth là một trong số những Người con chân chính đó. Vị trí cuối cùng đặt mộ phần của Người phải được giữ bí mật.
- Eliézer… giờ đây thầy đã già rồi. Thầy không thể là người duy nhất biết mộ phần của Jesus đặt ở đâu.
- Hai con trai tôi, Adôn và Oasis chính là người mang thi thể Người đến đó. Cũng như tôi, chúng biết vị trí nấm mộ và chúng sẽ truyền lại bí mật đó.
- Thế nếu có chuyện gì xảy ra với họ? Thầy phải tiết lộ bí mật đó cho cả tôi nữa.
Eliézer Ben –Akkai vuốt chum râu mảnh của mình một lúc lâu. Vị khách của ông nói đúng, nền hoà bình của Roma vô cùng mỏng manh, tất cả đều có thể nổ tung bất cứ lúc nào. Ông đặt hai bàn tay lên vai người khách.
- Người anh em, anh xứng đáng với lòng tin của chúng tôi. Nhưng nên biết rằng nếu ông giao di hài những người đã khuất của chúng tôi vào bàn tay căm hận của kẻ thù chúng tôi, thì chính thượng đế sẽ là người phán xử giữa chúng tôi và ông!
Ông đưa mắt nhìn quanh căn phòng, nơi những người Esseni đang đi lại.Đi tách về phía cửa sổ, ông ra hiệu cho người đối thoại theo mình.
Ghé miệng vào tay người đó, ông thì thầm vài câu.
Khi chia tay trong im lặng, hai người đàn ông nhìn nhau rất lâu. Gương mặt vô cùng nghiêm trang.
Trên đường trở về nhà mình, người đàn ông vùng Judee mỉm cười. Mộ phần của Jesus sẽ không trở thành khoản đặt cược cho quyền lực.
23
Vẫn còn bị loá mắt vì ánh sáng chói loà vừa ngập tràn thư viện, cha Nil liếc nhìn vào dãy giá sách gần nhất: phần giữa của dãy này trống trơn, và trơn nhẵn như lòng bàn tay. Ông bước một bước, tận cuối dãy chứa sách của thế kỷ II, người ta đã đặt hai hộp các tông lớn, những cuốn sách đang chờ được sắp xếp. Ông nhanh nhẹn luồn ra phía sau hai chiếc hộp, trong lúc đó ông nghe thấy tiếng sột soạt đặc trưng của chiếc áo tu sĩ đang mỗi lúc một gần. Một chiếc áo thầy tu bằng vải len bua, hay áo dòng của một trong các sinh viên theo chủ nghĩa nguyên vẹn? Nếu người đó đến tìm một cuốn sách trên kệ thế kỷ II thì ông thua cuộc. Nhưng có thể người đang tiến đến gần ông lúc này không đến để tìm một cuốn sách? Có thể người đó đã nhìn thấy ông vào đây và đang nuôi dưỡng những ý định khác?
Cha Nil rụt cổ sâu vào giữa hai vai.
Người đó đi qua kệ sách thế kỷ II mà không dừng lại. Núp trong vùng bóng tối ở cuối thư viện, phía sau những chiếc hộp các tông, cha Nil nín thở. Ông nghe thấy người đó bước đến bên kệ sách thế kỷ I, nơi ông đánh cắp tập bản thảo M M M hôm qua, và chợt tiếc đã không nghĩ đến việc xê dịch những cuốn sách bên cạnh để lỗ hổng đỡ phô ra.
Một khoảng thời gian chết, rồi ông nhận ra bước chân người đó lướt qua phía trước kệ sách mà ông đang núp và xa dần về phía cửa thư viện. Ông không bị phát hiện. Vị khách không mời mà đến này là ai? Có thể nhận ra bước chân của một tu sĩ trong số hàng ngàn bước chân: họ không bao giờ tiếp đất bằng gót, mà lướt bàn chân về phía trước, và bước đi như đang đi trên một chiếc đệm không khí.
Không phải là một trong số các sinh viên.
Hệ thống chiếu sáng trung tâm đột ngột tắt, và cha Nil nghe thấy tiếng cánh cửa khép lại, ổ khoá cũng tự động khớp lại. Trán xâm xấp ướt, ông chờ một lát rồi đứng dậy. Mọi thứ đều tối và im ắng.
Lúc ông đi ra sau khi đã đặt tập bản thảo M M M vào vị trí của nó, hành lang phía Bắc vắng hoe, bây giờ phải để lại chùm chìa khoá vào nơi ông đã lấy chúng. Cánh cửa văn phòng thủ thư vẫn không khoá. Cha Nil bước vào, bật đèn trần: quần áo cha Andrei vẫn vắt lên lưng ghế phô tơi. Tim đập mạnh, ông cầm chiếc quần lên và bỏ chùm chìa khoá vào trong túi. Ông biết mình sẽ không bao giờ quay lại văn phòng này nữa - không bao giờ như trước đây nữa. Lần cuối cùng, ông đưa mắt nhìn giá sách nơi cha Andrei xếp những cuốn sách ông đã nhận, trước khi đưa chúng vào thư viện.
Trên đỉnh một chồng sách, ông thấy một cuốn không dán nhãn ghi mã phân loại. Nhan đề của nó khiến ông chú ý:
NHỮNG NGỤY TÁC CUỐI CÙNG BẰNG
TIẾNG AI CẬP CỔ TỪ NAG HAMADI
Bản in có kèm lời bình
Của R.P. Andrei Sokolwski, O.S.B.
Nhà xuất bản Gabalda, Paris.
"Bản in những ngụy tác mà ông ấy đã làm từ mười năm nay, cuối cùng nó cũng được phát hành!"
Cha Nil mở cuốn sách: một công trình học thức uyên bác lỗi lạc, được xuất bản dưới sự hỗ trợ của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp CNRS. Các trang bên trái là bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ mà cha Andrei đã kiên nhẫn chép lại, và trên các trang bên phải là bản dịch của ông ấy. Công trình cuối cùng của bạn ông, một bản di chúc.
Ông đã nấn ná quá lâu trong căn phòng này, và bỗng có một quyết định đột ngột. Người ta đã ăn cắp trong phòng ông mảnh giấy cuối cùng của cha Andrei, mảnh giấy chỉ gửi cho mình ông như một lời trăng trối. Vậy thì, cuốn sách mà bạn ông đã nhận được ngay trước khi đi, trong đó ông ấy đã dồn tụ tất cả học thức và tình yêu của mình, phải thuộc về ông, cha Nil. Cuốn sách còn chưa dán nhãn, vậy là chưa được tiếp nhận trong danh mục sách của tu viện, không ai trên thế giới này có thể biết nếu ông chiếm lấy nó hôm nay. Ông muốn cuốn sách này cho riêng mình. Vượt trên cả cái chết, cuốn sách này dường như là bàn tay đưa về phía ông từ một người không bao giờ còn công bố điều gì – không bao giờ còn ngồi trong chiếc ghế phô tơi này để nghe ông nói, đầu nghiêng nghiêng, một tia ranh mãnh ánh lên trong khe mắt hẹp.
Ông cả quyết luồn bản in Các ngụy tác từ Nag Hamadi xuống dưới khăn choàng vai và bước ra hành lang.
Trong khi bước vào cầu thang, đầu óc tràn ngập nỗi cô đơn từ nay sẽ là của riêng ông, ông không nhận thấy một cái bóng áp sát tường, lùi vào trong cánh cửa lớn của Khoa học Kinh thánh. Đó là bóng một chiếc áo len bua của tu sĩ.
Trên mặt vải trơn nhẵn nổi lên chiếc thánh giá dài ngang ngực, một bàn tay phải đang bồn chồn vặn vẹo nó. Trên ngón đeo nhẫn của bàn tay là một chiếc nhẫn rất đơn giản bằng kim loại, không hề lấp lánh tia sáng nào.
Cha Nil vào phòng mình, khép cánh cửa sau lưng và dừng phắt lại. Lúc trước, khi xuống dự lễ kinh mừng, ông đã cẩn thận xếp những ghi chép trong đêm thành từng chồng nhỏ riêng biệt. Giờ đây, những tờ giấy đang nằm rải rác như sau một cơn gió.
Vào một ngày tháng Mười một này, cửa sổ phòng ông đóng kín. Đóng kín từ hôm qua.
Người ta lại đến thăm phòng ông một lần nữa. Thăm viếng và lục lọi. Lục lọi và có thể đã đánh cắp một số tờ ghi chép của ông.
24
Thư của các Tông đồ.
- Peter, điều gì đã xảy ra với thi thể của Jesus?
Peter đưa mắt nhìn quanh. Đã ba tuần kể từ khi Jesus chết, trong suốt thời gian đó ông không rời khỏi căn phòng lớn. Sáng nay, khoảng gần một trăm người ủng hộ đang ở đây, và cùng một câu hỏi được đặt ra từ khắp các phía.
Ở đầu kia của căn phòng, người chủ nhà đang đứng một mình, dựa lưng vào tường. Khoảng hai chục người ngồi quanh ông, đưa mắt hết nhìn ông lại nhìn về phía cửa sổ, dưới đó Mười một người đang kết thành một khối. Có lẽ là những người ủng hộ ông ta chăng? "Bây giờ, Peter nghĩ, là hắn – hoặc ta."
Vị tông đồ nhìn mười người đồng hành của mình, André em ông, người đang cắn môi dưới, Jean và Jacques de Zébédée, Matthieu từng là người thu thuế... Không ai trong số họ có dáng dấp của một vị thủ lĩnh.
Phải có ai đứng dậy giữa đám đông đang mất phương hướng này. Đứng dậy và lên tiếng, đúng vào lúc này, chính là nắm lấy quyền lực.
Peter hít một hơi thật sâu, và đứng dậy. Ánh sáng từ cửa sổ chiếu sáng lưng ông, và mặt ông vẫn ở trong vùng bóng tối.
- Các anh em...
Mặc dù đã cố gắng, ông vẫn không thể biết được những người Esseni đã chôn thi thể của Jesus ở đâu, sau khi đã mang Người ra khỏi hầm mộ. "Và hắn ta, nhân chứng duy nhất cùng với ta, hắn có biết không? Đánh lạc hướng chú ý của những người này, và dứt khoát khẳng định quyền lực của ta." Ông quyết định không đếm xỉa đến câu hỏi của đám đông, và nhìn họ với vẻ khinh bỉ. Ngay bây giờ, họ sẽ biết rằng ông chính là người thực hiện lời phán quyết của Chúa. Chúa đã sử dụng ông, và Chúa sẽ còn sử dụng ông.
- Các anh em, số phận của Judas phải được định đoạt. Hắn từng nằm trong số Mười hai người, và hắn đã phản bội: hắn đã bị ngã về phía trước, bụng phanh ra, ruột gan xổ tung trên cát.
Một bầu không khí im lặng chết chóc bỗng bao trùm căn phòng. Những chi tiết này chỉ có kẻ giết Judas mới có thể biết được. Người đó vừa thú nhận, một cách công khai, rằng bàn tay cầm thanh kiếm đó không phải của bất kỳ một người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt nào: chính là bàn tay của người đó.
Ông nhìn chăm chú vào mặt từng người đã to tiếng yêu cầu ông giải thích về số phận thi thể Jesus: dưới cái nhìn của ông, từng người một cụp mắt xuống.
Đang đứng ở đầu kia căn phòng, môn đồ cưng vẫn không nói gì. Peter giơ tay.
- Chúng ta phải thay thế Judas, phải có một người khác đảm nhận công việc của hắn. Người đó phải được lựa chọn trong số những người đã đi cùng Thầy, từ khi gặp Thầy bên bờ sông Jordan cho đến phút cuối cùng.
Một tiếng thì thầm ủng hộ lan trong đám đông, và tất cả các con mắt đều hướng về phía người môn đồ cưng. Vì chỉ có ông mới có thể bổ sung cho đội ngũ mười hai tông đồ: ông là người đầu tiên gặp Thầy bên bờ sông Jordan, và cũng là người thân cận nhất của Thầy cho đến phút cuối cùng. Chính ông là người thích hợp nhất để thế chỗ Judas.
Peter nhận thấy điều mà đám đông cảm thấy.
- Chúng ta không phải là người lựa chọn! Phải để Chúa chỉ định tông đồ thứ mười hai thông qua việc rút thăm. Matthieu, hãy cầm lấy bút sậy của anh, và viết hai cái tên lên mảnh cỏ cây này.
Trước khi Matthieu thực hiện công việc, Peter nghiêng người về phía anh và thì thầm gì đó vào tai. Cựu nhân viên thu thuế nhìn ông với vẻ ngạc nhiên. Rồi anh gật đầu, ngồi xuống và nhanh chóng viết. Hai mảnh vỏ cây được đặt vào một chiếc khăn rồi Peter túm bốn góc khăn lại.
- Cậu lại đây, và nhặt một trong hai cái tên này lên. Và hãy để Chúa trời lên tiếng với chúng ta!
Một chàng trai trẻ đứng dậy đưa tay ra thọc vào trong cái khăn rồi lấy ra một trong hai mảnh vỏ cây.
Peter cầm lấy đưa lại cho Matthieu.
- Ta không biết đọc, hãy nói với chúng ta điều được viết trên đó.
Matthieu hắng giọng, nhìn vào mảnh vỏ cây và tuyên bố
- Tên của Matthias được viết ra!
Từ trong đám đông những tiếng phản đối bật lên.
- Các anh em. Peter phải hét lên để mọi người nghe thấy – chính Chúa trời vừa chỉ định Matthias đảm nhận vị trí của Judas! Chúng ta lại có mười hai người giống như trong bữa ăn cuối cùng mà Jesus đã ăn trước khi chết, ngay tại đây!
Gần như khắp cả phòng mọi người đều đứng dậy, trong khi Peter kéo Matthias về phía mình, hôn và để anh ngồi xuống giữa Mười một người. Rồi ông chăm chăm nhìn người môn đồ cưng, đang đứng cách ông một đám người ngồi. Lúc đó, một nhóm đông dặc những người ủng hộ đang vây quanh người đó còn người đó vẫn đứng, mặt tối sầm. Át cả tiếng ồn, Peter hét lên:
- Mười hai bộ lạc đã nói thay cho Chúa: mười hai tông đồ sẽ nói thay Jesus, ở vị trí của Người hoặc nhân danh Người. Mười hai, và không thêm một người nào, sẽ không bao giờ có tông đồ thứ mười ba!
Người môn đồ cưng chịu đựng cái nhìn của ông một lúc lâu, rồi nghiêng đầu, thầm thì vài lời vào tai một cậu bé có mái tóc quăn. Đột nhiên cảm thấy lo lắng, Peter luồn tay vào trong đường xẻ áo trong và nắm lấy chuôi thanh sica. Nhưng đối thủ của ông đã ra hiệu cho những người vây quanh mình, rồi lặng lẽ tiến ra phía cửa. Khoảng ba chục người theo gót ông, khuôn mặt không để lộ cảm xúc.
Vừa ra đến phố, ông quay lại: cậu bé đã lách đến bên ông, đưa cho ông mảnh vỏ cây còn lại, bị rơi khỏi chiếc khăn mà Peter đã bỏ đi sau khi cuộc lựa chọn của Chúa được công bố. Ông hỏi cậu bé:
- Iokhanan, không ai có thể nhìn thấy mảnh vỏ cây này chứ?
- Không ai cả, abbou 5, không ai khác ngoài Matthieu, người viết tên, Peter người đã đọc cho anh ta viết, và bây giờ là cha.
- Vậy thì, con của ta, hãy đưa nó cho ta và vĩnh viễn quên nó đi.
Ông đưa mắt nhìn mảnh phiếu bầu thứ hai được dành để Chúa lựa chọn, rồi mỉm cười với Iokhanan: cái tên được viết trên đó không phải của ông.
"Như vậy, Peter, ngươi đã quyết định vĩnh viễn tách ta ra khỏi Israel Mới! Từ nay trở đi, một cuộc chiến đã nổ ra giữa chúng ta: nó có thể không đè nát đứa trẻ này, cũng như những người đến sau nó".
25
Đột ngột bị dứt ra khỏi những nghiên cứu và việc nhẫn nại tái lập quá khứ, thế giới ổn định và bình yên của cha Nil sụp đổ: người ta vừa lục lọi phòng ông lần thứ hai. Và lại có một số giấy tờ biến mất khỏi bàn ông.
Những ghi chép bị lấy cắp sáng nay cho biết tình hình nghiên cứu của ông về thuở ban đầu của Giáo hội. Ông ý thức được rằng mình đang mạo hiểm trên một hướng đi luôn bị cấm đối với tất cả các tín đồ Công giáo. Và giờ đây có ai đó trong tu viện biết điều ông đang tìm kiếm, điều ông đã thấy. Ai đó rình rập ông, đột nhập vào phòng khi ông đi vắng, và không ngần ngại cả việc lấy cắp. Mối nguy hiểm mà ông cảm thấy toả lan từ khắp mọi phía quanh mình đang ngày càng trở nên hiện hữu – và ông không biết nó từ đâu đến, cũng chẳng biết tại sao.
Liệu công việc nghiên cứu có thể trở nên nguy hiểm không?
Tâm trí để đâu đâu, ông máy móc lật các trang của tác phẩm cuối cùng mà bạn ông xuất bản. Càng lúc ông càng đo đếm được nỗi trống trải nảy sinh sau khi ông ấy biến mất: sẽ chẳng còn ai ở đây để nghe ông nói, để hướng dẫn ông... Bị bỏ mặc một mình trong cảnh hiu quạnh ở tu viện, một cảm giác chưa từng biết đến xâm chiếm ông: nỗi sợ.
Ý nghĩ cuối cùng của cha Andrei là hướng về ông, ông ấy đã để lại cho ông một thông điệp: phải vượt qua nỗi sợ này và tiếp tục điều tra bắt đầu chỉ từ một mảnh giấy. Dòng đầu tiên trên mảnh giấy đó nói về một bản thảo kinh Khải Huyền bằng tiếng Ai Cập cổ: hẳn nó phải nằm trong tất cả những thứ mà bạn ông cất giữ trong tủ tại phòng ông ấy. Nhưng người khách bí ẩn viếng thăm thư viện cánh Bắc, người suýt bắt gặp ông sáng nay, chắc chắn đã nhận ra lỗ hổng toang hoác trên giá sách vì tập bản thảo M M M bị mượn. Tập bản thảo này chỉ có thể bị một tu sĩ không được quyền vào thư viện này lấy đi: nếu không, ông ta đã để vào chỗ đó một bóng ma có chữ ký của mình theo quy định.
Hẳn là sau đó người ta đã phát hiện ra chùm chìa khoá bị bỏ quên trong túi quần cha Andrei, và sẽ thu hồi lại: văn phòng của ông ấy lập tức được trang bị một ổ khoá, và cha Nil hẳn là không còn hy vọng có thể vào đó để tìm lại bản thảo bí ẩn kia.
Chán nản, ông gấp cuốn sách lại, luồn ngón trỏ vào giữa bìa sách và trang gác theo thói quen. Và ông giật mình.
Ông vừa cảm thấy có một chỗ gờ lên trên mặt trong bìa sách.
Một lỗi của nhà sản xuất chăng?
Ông đưa cuốn sách lại gần đèn, và mở ra dưới luồng ánh sáng: không phải là một sự cố trong khâu đóng bìa. Mép bìa sách đã bị bóc ra rồi dán lại. Bên trong, có thể cảm thấy sự hiện diện của một vật mảnh hình chữ nhật.
Vô cùng thận trọng, ông cắt ngang trang gác bồi cho phần bìa, tách ra, và nghiêng cuốn sách để ánh sáng chói gắt có thể xuyên vào: bên trong, có một văn bản được gấp làm tư.
Ngay trước khi đi, cha Andrei đã luồn vào trong công trình cuối cùng của mình một tờ giấy mà ông đã cẩn thận cất giấu kỹ càng.
Lấy một cái nhíp nhổ, cha Nil bắt đầu kéo mảnh giấy ra khỏi chỗ cất giấu một cách hết sức cẩn trọng.
Chú thích
(1)Người Do Thái khá giả thường xây nhà theo mô hình của người La Mã: tất cả các phòng ở tầng trệt đều quay ra một hành lang có mái che; mái che này là nơi tập trung toàn bộ nước mưa đổ vào một bồn phun nước trung tâm.
(2)Bản thảo vùng biển Chết.
(3)Vì Chúa, đi thôi! (tiếng Ả rập).
(4)Được, cầu Chúa ban phúc! (tiếng Do Thái)
(5)Cha tinh thần.
Bí Ẩn Tông Đồ Thứ Mười Ba Bí Ẩn Tông Đồ Thứ Mười Ba - Michel Benoît Bí Ẩn Tông Đồ Thứ Mười Ba