The mere brute pleasure of reading - the sort of pleasure a cow must have in grazing.

Lord Chesterfield

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Upload bìa: Hoàng Huyền
Số chương: 18
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 10
Cập nhật: 2023-11-05 19:15:22 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6
nh phi công dời khỏi buồng máy và nói với hành khách giọng lanh lảnh:
- Hãy chú ỷ quan sát vòm trời!
Và anh lại biến mất trong buồng máy. Ác-tê-mi-ép suốt đêm không nhắm mắt và có cảm giác vừa mới thiếp đi xong; anh ngạc nhiên nhìn đồng hồ và tì mặt vào cửa kính. Anh ngủ đã được hơn một tiếng. Vòng tròn đỏ của mặt trời đã gần như chạm đường chân trời và bóng đen chiếc máy bay tiến trên mặt đất, phía bên trái - Bóng nó đồ sộ, vì máy bay là là mặt đất; đã đến khu vực máy bay khu trục Nhật có thể tới hoạt động.
Thảo nguyên, một màu nâu xanh um, phủ cỏ màu ngọc bích, với những chấm vàng lớn, những đồng cỏ của năm trước. Thỉnh thoảng một bầy vịt hay ngỗng trời hoảng sợ bay nhanh dưới cánh máy bay. Một đàn dê rừng co chân chạy trốn trong thảo nguyên.
Ác-tê-mi-ép ngáp và mặc dù phi công đã dặn trước, máy bay khu trục Nhật tuy ít hiện ra lúc hoàng hôn nhưng nguy cơ đó có thật, anh vẫn thấy buồn ngủ không cưỡng lại được.
Tất cả những cái đó đợi lâu mới đến rồi sau lại qua đi mới mau làm sao! Đêm qua, nghĩa là thật ra vừa cùng ngày hôm nay, lúc một giờ sáng anh còn cùng với Xa-nai-ép ở Si-ta trong chiêu đãi sở dành cho các sĩ quan đi công tác ghé qua; ngồi trên những chiếc giường giát bị thủng và có những quả kền kếch sù, hai người nói về Bôn-đác-súc và thèm được như anh vì họ vừa đi tiễn anh ra tàu đi Vla-đi-vốt-xtốc. Anh được điều động đến một trung đoàn ở khu vực Pốt-xi-ét, trong khi họ vẫn nằm dài chờ đợi ở Si-ta.
Nhưng họ cùng chẳng phải than phiền về số phận lâu la gì, chuông điện thoại réo lên ngoài hành lang và họ bị gọi hỏa tốc lên ban tham mưu. Một giờ sau, vừa đủ thì giờ khóa lại va-li, họ đã cầm giấy điều động trèo lên chiếc xe nhỏ của ban tham mưu. Cả hai đều phải đến đơn vị số 213, nghĩa là những lực lượng Xô-viết đóng ở Mông-cổ.
Người lái xe phóng hết tốc độ để khỏi nhỡ máy bay, nhưng khi đã đến sân bay, còn phải đợi nửa ngày nữa! Chiếc máy bay phải rời Mông-cổ lúc đêm chưa đến. Người ta đốt mãi lửa trên sân bay cho đến sáng, nhưng vô ích. Sĩ quan trực nhật ở trường bay, vẻ kín đáo và lo lắng, tìm cách lẩn những câu hỏi, nhưng cuối cùng cũng phải nói với một vẻ buồn phiền rằng tự họ cũng phải hiểu lấy rằng anh ta không có lý do gì để giữ họ lại vì chính họ đã có lệnh đi máy bay ở trong tay.
- Khi nào có máy bay đến, lấy đủ xăng xong người ta có bản tin khí tượng, các anh sẽ đi ngay.
Cuối cùng vào ba giờ chiều, một máy bay đến. Đó là một chiếc hai động cơ mới, một chiếc máy bay lớn để chở hành khách. Ác-tê-mi-ép cũng đã trông thấy những máy bay kiểu này, nhưng chưa đi bao giờ.
Chiếc máy bay vừa hạ cánh và đang lăn nhẹ trên đường sân bay, thì một chiếc xe hồng thập tự đã từ những căn nhà của sân bay phóng tới. Người ta dùng cáng chuyển hai người bị thương từ trên máy hay xuống. Ác-tê-mi-ép nhìn thấy, một chiếc mũ phi công, buộc vào bên tay cầm của một chiếc cáng. Người ta đặt cấp tốc những người bị thương vào trong xe và mở máy đi ngay. Phi công và người phụ từ trên máy bay xuống đi về phía đài chỉ huy vừa đi vừa nói chuyện với sĩ quan trực nhật. Khi họ đi gần anh, Ác-tê-mi-ép nghe thấy lõm bõm:
- Chính cái đó hôm qua làm bọn mình đến chậm - anh phi công nói - Người ta vẫn liên lạc được với thành phố chứ? Phải cho biết việc đó.
- Liên lạc chưa bị gián đoạn - sĩ quan trực nhật nói - Còn bay thế nào?
- Tất cả bình thường. Nhưng phải lấy xăng ngay không để chậm trễ được, nếu không, không thể đến Tam-xắc trước lúc trời tối. Chỉ có những người đi Tam-xắc thôi hay lại có cả người đi Un-đuốc-han nữa?
- Cả đi Un-đuốc-han nữa.
- Thế thì lại càng phải làm mau mới kịp.
Hai phi công đi với sĩ quan trực nhật ra xa, và những người thợ máy chuyển xe chở xăng đến gần máy bay.
Trong năm ngày ở Si-ta, Ác-tê-mi-ép và Xa-nai-ép được biết tin có xung đột giữa các lực lượng lục quân ngày 14 tháng năm ở biên giới Mông-cổ và Mãn-châu, trong khu vực sông Khan-khin-Gôn và những trận không chiến gần như ngày nào cùng diễn ra từ ngày 11 tháng năm ở biên giới và vùng tiếp cận. Nhận giấy điều động, Ác-tê-mi-ép và Xa-nai-ép đưa mắt nhìn nhau, hai người đều vui mừng được cùng đi và nhất là vì triển vọng được tham dự những sự kiện quyết định nếu có diễn ra ở Mông-cổ. Nhưng chỉ đến sân bay Ác-tê-mi-ép và Xa-nai-ép, mặc dù một người đã mười và một người mười hai năm tại ngũ, lần đầu tiên trong đời nhìn thấy những người bị thương, họ mới cảm thấy chiến tranh đang đến gần.
Máy bay chẳng mấy chốc đã cất cánh, đầy hành khách; hai giờ sau có một nửa xuống Uu-đuốc-han. Máy bay không tắt máy, phi công vội đi và Ác-tê-mi-ép, những muốn xuống xem Un-đuốc-han ra sao, cùng không có ngay cả thời giờ để từ biệt Xa-nai-ép
Lệnh điều động vẫn thảo bằng cùng một công thức «Thuộc quyền của...» và cùng một con số đơn vị quân sự được điền thêm bằng những con số khác phù hợp với địa điểm công tác rõ rệt: Un-đuốc-nan với Xa-nai-ép và Tam-xắc - Bu-lắc với Ác-tê-mi-ép.
Lúc nhận lệnh điều động và ngay cả lúc thấy Xa-nai-ép xuống máy bay ở Un-đuốc-han, Ác-tê-mi-ép vẫn nghĩ hai người sẽ cùng ở với nhau. Nhưng bây giờ máy bay, bỏ Un-đuốc-han lại đằng sau bay đã hai giờ về phía Đông, và Ác-tê-mi-ép nghĩ bụng rằng trong những miền này anh hình như không còn có cơ hội nào gặp lại Xa-nai-ép cũng như Cli-mô-vít và ngay cả Bon-đác-súc vừa đi Pốt-xiết nữa.
Thảo nguyên vẫn lùi nhanh đằng sau cửa kính. Ác-tê-mi-ép xem đồng hồ, nhận thấy còn độ hai mươi phút nữa thì tối và sau đó liếc nhìn người bên cạnh, từ Un-đuốc-han ngồi vào chỗ Xa-nai-ép.
Người hành khách này, người duy nhất mặc thường phục trong số hành khách, là một người mảnh khảnh đội một chiếc cát-két và khoác một chiếc áo ngoài để hở ve áo một chiếc vét màu sáng và một chiếc ca-vát bằng len Tô-cách-lan thắt một cách cẩu thả. Một chiếc mũi to trên một khuôn mặt xấu và dài còn mảnh hơn cả thân hình của anh. Người ta không nhìn thấy mắt anh ta nấp đằng sau cặp kính dầy cộp. Tay anh ta cầm một cuốn sách, thỉnh thoảng lại đặt nó trên đùi, xoa những ngón tay vào nhau như rét lắm và lại tiếp tục đọc.
«Không biết anh chàng này đến Tam-xắc - Bu-lắc để làm trò gì, và nhất là anh ta giúp ích được gì?» Ác-tê-mi-ép nói vừa nhún vai thầm trong bụng.
- Anh không quan sát vòm trời à? - Ác-tê-mi-ép hỏi, quay nửa người về phía ông bạn láng giềng.
Người khách đi đường để cuốn sách xuống, xoa xoa những ngón tay cóng buốt và cũng chậm rãi quay đầu về phía Ác-tê-mi-ép. Ác-tê-mi-ép ngạc nhiên phát hiện ra đằng sau cặp kính, hai con mắt nhìn quả quyết và chế riễu. Cặp mắt đó nhìn anh như muốn nhắc rằng chính bản thân anh cũng vừa ngủ trong suốt một giờ đồng hồ. Sau cùng anh ta lấy một ngón tay chỉ vào kính và nói.
- Anh hiểu cho, mắt như tôi...
- Nhưng anh vẫn đọc sách - Ác-tê-mi-ép nói, cốt để nói một cái gì.
- Tôi đọc vì thường thường tôi chịu đựng máy bay rất tồi và việc đọc sách giúp tôi khuây đi.
- Anh làm nghề gì? Xin lỗi anh vì câu hỏi tò mò của tôi - Ác-tê-mi-ép hỏi, vẻ chú ý.
Người hành khách lại xoa tay và im lặng mấy giây như không biết trả lời thế nào.
- Hiện giờ anh thấy không, tôi ở quân nhu, và cán bộ cấp hai vạch nữa - anh nói vừa nhìn vào chiếc «vạch» độc nhất trên cổ áo Ác-tê-mi-ép, như phiền lòng vì phải thú nhận rằng mình ở cấp bậc trên người bạn láng giềng - Vả lại tôi cũng mới, vẫn chưa có quân phục. Còn anh, chắc là bộ đội chiến đấu? - Anh nói thêm vừa ngắm Ác-tê-mi-ép một cách ung dung từ chân cho đến đầu như là để trừng phạt Ác-tê-mi-ép về tính tò mò của anh ta.
- Phải - Ác-tê-mi-ép nói. Để tránh những câu hỏi khác, anh ngoảnh đầu về phía cửa và nói thêm rằng - thảo nguyên hoang vắng nhưng rất đẹp, và nhìn từ trên máy bay, trông nó nhẵn lỳ như một chiếc bàn.
- Đúng, người láng giềng nói, không những trông nhẵn lỳ, mà nhẵn lỳ thật. Ngày trước, tôi đã đi xe ở đây không phải là ít đường đất!
«Tay này có lẽ là thú y thú yếc gì đây, Ác-tê-mi-ép nghĩ bụng. Không, nếu thế, hắn ta sẽ không phải là cán bộ quân nhu, mà là quân y sĩ. Hay có lẽ là một thương gia hay một anh lái buôn len, điều này thì chắc chắn hơn» anh kết luận sau khi quan sát anh bạn láng giềng một lần nữa.
Anh «lái buôn len», không mảy may để ý đến Ác-tê-mi-ép. lại liếp tục đọc sách. Gù gù, vai hẹp và nhọn, anh ta vừa đọc vừa mấp máy môi nhè nhẹ, như là đánh vần to tiếng.
Nhìn qua vai anh, Ác-tê-mi-ép thấy anh đọc thơ.
- Chú ý! - anh phi công vừa nói vừa ra khỏi buồng máy - Năm phút nữa chúng ta sẽ hạ cánh xuống Tam-xác - Bu-lắc.
Khi máy bay lượn, nghiêng về một bên, Ác-tê-mi-ép nhìn qua cửa thấy mặt đất ngay gần kề với những chiếc mái tròn của những ngôi nhà Mông-cổ, và ở phía đối diện một nền trời gần như đen kịt.
Mặt trời đã lặn, họ đến Tam-xắc - Bu-lắc mấy phút trước khi tối hẳn.
Trên máy bay bước xuống, Ác-tê-mi-ép còn có thời giờ đảo mắt nhìn chung quanh - Không có sân bay theo nghĩa quen thuộc của danh từ đó; máy bay đỗ trên một đồng cỏ rộng, ở đó người ta thấy rất gần, bên một chiếc lều, một chiếc máy bay liên lạc «U 2». Cánh đồng nhăn này thăm thẳm đến tận chân trời. Một dãy cột điện thoại đi về phía đồng. Phía tây sân bay là nơi mà ở Si-ta người ta gọi là thành phố Tam-xắc Bu-lắc. Theo cái mà Ác-tê-mi-ép có thể nhìn thấy, đó là một làng nhỏ với hai hay ba căn nhà thấp bằng đất nện, mấy chục tá «y-uốc-ta» và lều.
Cảnh im lặng chỉ bị phá rối bởi tiếng o o cao vút của một đám mây muỗi lơ lửng trên đầu những người mới đến - Ngoài ra người ta còn nghe rõ, từ phía Tam-xắc - Bu-lắc một tiếng máy xa xa.
Tất cả hành khách, trừ anh «lái buôn len» và Ác-tê-mi-ép đều là những phi công, thiếu úy và trung úy. Họ xuống cấp tốc vây quanh một người mang phù hiệu không quân từ trên ca-bin một chiếc ca-mi-ông nhỏ bước đến gặp họ.
- Thế nào. cuối cùng các anh đến cả rồi phải không? - Anh la nói vừa ngắm nghía họ vẻ thỏa mãn.
- Cũng có thể nói như thế được, đồng chí kỹ sư ạ - một người trong bọn họ trả lời - Người thì đâu vào đấy rồi. Thế còn dụng cụ?
- Thì có dụng cụ chứ sao - kỹ sư trả lời.
- Có, hay sẽ có? - Phi công hỏi.
- Người ta đã có cho một số còn một số khác sẽ có. Đang đến. Nào, các cậu, hãy giúp một tay tháo máy ra rồi chúng ta lên đường.
Những phi công tháo cấp tốc hai cánh quạt và khênh một động cơ máy bay trực tiếp từ máy bay xuống sàn gỗ chiếc xe vận tải nhỏ đã ghé đến gần.
- Nào, ngồi vào chỗ đi, kỹ sư nói - Đóng cửa đằng sau lại, để mình khỏi rơi vãi các cậu dọc đường. Thôi chúng ta đi đây, ông nói thêm, ngoảnh về phía chuẩn úy, đã ra đến máy bay, rồi chiếc xe vùn vụt đi trong thảo nguyên về phía chân trời đen kịt.
- Còn các anh, các anh đi đâu? - Chuẩn úy không quân hỏi Ác-tê-mi-ép và người «lái buôn len».
- Tôi đến ban chính trị - người «lái buôn len» nói.
- Tôi, tôi phải gặp sĩ quan trực nhật - Ác-tê-mi-ép nói.
- Thế thì cả hai anh đều phải đi vào ngôi nhà đằng kia, các anh nhìn thấy không? - chuẩn úy nói - Ngôi nhà thứ nhất về phía này.
Đêm đã xuống và Ác-tê-mi-ép không nhìn thấy ngôi nhà đâu cả, nhưng anh nhớ đại khái phương hướng vì cách đây năm phút anh nhìn đúng về phía ấy.
- Tôi thấy rồi - Ác-tê-mi-ép nói.
- Đến chỗ sĩ quan trực nhật thì đi về phía này - chuẩn úy nói - còn đến ban chính trị thì phải đi vòng ngôi nhà.
- Đi thôi - anh «lái buôn len» nói - tôi có đèn túi đây.
- Đừng bật sáng quá đấy - chuẩn úy kêu lên từ đằng xa - Lúc này thì chúng không bay đêm, nhưng cứ cẩn thận là tốt hơn hết.
Nhưng họ vẫn phải dùng đèn, vì bóng tối trở nên dầy đặc không nhìn thấy gì - Cuối cùng họ đến một căn nhà nhỏ một tầng, rèm cửa kéo xuống.
- Tôi nghĩ là anh đã đến nơi, anh «lái buôn len» nói, còn tôi, tôi phải đi vòng quanh ngôi nhà này. Và vẫn bấm đèn túi soi đường, anh tiếp tục đi.
Ác-tê-mi-ép đẩy trong tối, cánh cửa bằng gỗ chưa bào nhẵn và bước vào một gian phòng trần thấp lè tè và tường trát vôi.
- Đóng cửa lại! - Một người lên tiếng - Muỗi đấy! Trong buồng có một chiếc phản, ba chiếc bàn và nhiều ghế mà chỉ mỗi một chiếc là có một trung úy ngồi. Trung úy đứng dậy đi đến gặp Ác-tê-mi-ép. Trên bàn, một bóng đèn nhỏ mắc vào một chiếc đinh, tỏa ánh sáng yếu ớt vàng vọt.
- Đồng chí nói đi, đồng chí đại úy.
- Anh có phải là sĩ quan trực nhật không? - Ác-tê-mi-ép hỏi.
- Đúng, đề nghị đồng chí cho xem giấy tờ.
Ác-tê-mi-ép đưa ra lệnh điều động và lý lịch sĩ quan. Vẫn đứng, sĩ quan trực nhật chăm chú xem những giấy tờ đó một hồi lâu.
- Đồng chí ngồi xuống, đồng chí ngồi xuống - sĩ quan trực nhật nói như để xin lỗi, nhưng anh ta vẫn tiếp tục xem lệnh điều động. Cuối cùng anh ta ngồi xuống, ghi mấy chữ vào công lệnh và vào sổ công tác để mở bên máy điện thoại, rồi trả lại giấy tờ cho Ác-tê-mi-ép.
- Như thế có nghĩa là đồng chí được điều động đến 213/4… Ác-tê-mi-ép gật đầu.
- Nghĩa là... - sĩ quan trực nhật nói dài giọng và như có gì lúng túng.
- Tôi phải đi đâu bây giờ? - Ác-tê-mi-ép sốt ruột hỏi.
- Đi xa đấy - sĩ quan trực nhật nói - anh không thể đi bộ đến được đâu.
Anh ta ngừng lại, nghĩ một lát và sau cùng nói:
- Có lẽ anh nên nghỉ đêm ở đây.
- Sao, ban tham mưu 213/4 không ở đây à? - Ác-tê-mi-ép hỏi.
- Phải, ở đây - sĩ quan trực nhật giọng ngập ngừng - Và tôi thường trực - anh nói thêm tay chỉ chiếc máy điện thoại - Nhưng ban tham mưu lúc này... lưu động. Nó đang tiến... Còn ban tác chiến, thì đã ở Kha-mác-đáp. Đồng chí trưởng ban tham mưu ở đây buổi chiều, nhưng cũng đi Kha-mác-đáp rồi.
- Kha-mác-đáp ở đâu. Có xa không? - Ác-tê-mi-ép hỏi tò mò vì giọng nói của sĩ quan trực nhật hình như giấu một điều gì.
- Khoảng trăm cây số, sĩ quan trực nhật nói. Đêm nay đồng chí nên nghỉ lại đây. Sớm mai có xe đi đến đó, tôi sẽ tin đồng chí biết. Nhưng, không biết xếp chỗ cho đồng chí ở đâu bây giờ?
- Tôi có thể ở đây - Ác-tê-mi-ép nói.
Nhưng sĩ quan trực nhật hình như không có vẻ muốn nhường chiếc giường của mình và anh do dự không muốn để người đại úy mới đến phải ngủ đất.
- Không được, phải tìm cho đồng chí một chỗ - anh ta nói vẻ suy nghĩ. Anh để tay vào chỗ tay quay máy nói, nhưng bỗng đột nhiên nảy ra một ý kiến - tôi tìm thấy rồi, đồng chí sẽ đến ngủ ở chiếc y-uốc-ta của bệnh viện.
- Theo tôi biết thì tôi không có bệnh.
- Không phải, đây là chiếc y-uốc-ta của nhân viên có lẽ hôm nay hầu như không có ai ở lại thì phải - Muốn đi đến đấy...
Anh đứng lên với ý định mở cửa và chỉ đường cho Ác-tê-mi-ép nhưng chợt nghĩ đến muỗi lại ngừng lại.
- Dù sao đi nữa thì cũng chẳng nhìn thấy gì - Để tôi nói rõ cho đồng chí: ở đây ra đồng chí đi thẳng về phía trước mặt - tìm chiếc y-uốc-ta thứ ba ở bên trái. Đồng chí có thể để va-li ở đây được, nếu đồng chí muốn.
- Không, vì thật ra cũng chẳng có ích gì hơn! Ác-tê-mi-ép xách va-li - nhưng lại đặt xuống, cuối cùng quyết định hỏi một câu về vấn đề anh quan tâm nhất:
- Nói chung tình hình thế nào?
- Hôm nay có thể nói là đã bắt đầu - sĩ quan trực nhật nói, giọng dè dặt.
- Nói thật ra, đã bắt đầu từ ngày mười bốn - Ác-tê-mi-ép nói, vội vã muốn tỏ ra mình am hiểu tình hình.
- Hiện lúc này tôi không biết gì về những chi tiết của tình hình cả - trung úy nói như con sên ấn vào trong vỏ - Ngày mai, đến Kha-mác-đáp, chắc đồng chí sẽ biết hơn tôi nhiều.
Ác-tê-mi-ép từ biệt, xách va-li và nghĩ đến muỗi, anh khép vội cửa lại.
Sau khi đi lần đường dọc hai chiếc y-uốc-ta trong đó lách cách tiếng máy chữ, đến chiếc thứ ba, Ác-tê-mi-ép vấp chân vào một chiếc cọc khổng lồ, đau điếng người, bật ra một lời rủa và nghe thấy một tiếng nói:
- Đồng chí quên đèn túi à, đồng chí bác sĩ?
- Tôi không phải bác sĩ - Ác-tê-mi-ép nói vừa lần vào theo hướng người vô hình đó - Người ta bảo tôi đến ngủ ở chiếc y-uốc-ta của bệnh viện, có phải đây không?
- Chỗ đồng chí A-púc-tin phải không? - có tiếng người hỏi.
- Tôi không biết chỗ đồng chí nào - Ác-tê-mi-ép nói, vừa tức mình vì thấy đầu gối đau quá - Người ta chỉ nói với tôi là đến y-uốc-ta của bệnh viện thôi.
- Vào đây - vẫn giọng nói đó - nhưng đồng chí A-púc-tin chưa về, vậy anh phải đợi.
Người đó nhấc một góc vải bạt dùng làm cửa và để Ác-tê-mi-ép đi qua trước mặt mình. Ác-tê-mi-ép khom lưng chui vào lều, đặt va-li xuống đất, và nặng nề ngồi phịch lên trên. Chiếc bàn kê ở giữa lều, chung quanh có năm chiếc cáng, trong số đó chỉ có mỗi một chiếc là có giải chăn đệm đầy đủ. Một mẩu nến cháy trên một hộp sữa bò.
Người đứng tuổi nói chuyện với Ác-tê-mi-ép là một chuẩn úy: anh ta đeo trên ve áo xanh sẫm của bộ quần áo quân y bốn tam giác.
Chuẩn úy cũng nhìn ve cổ áo Ác-tê-mi-ép.
- Thế anh không phải bác sĩ à - chuẩn úy nói như tiếc đã để Ác-tê-mi-ép vào lều - tưởng anh là bác sĩ.
- Không tôi không phải bác sĩ - Ác-tê-mi-ép trả lời vừa xoa xoa đầu gối đau nhức một cách giận dữ - nhưng tôi vẫn cứ ở lại lều của anh.
- Đó không phải là việc của tôi, đại úy ạ. Đồng chí A-púc-tin sẽ quyết định. Anh có muốn uống nước không?
- Thế nào!
- Tôi đi kiếm nước cho đồng chí A-púc-tin - chuẩn úy nói - tôi sẽ lấy nhiều thêm để anh cũng có thể uống được.
Anh ta xách một chiếc ấm men, cặp tay một chiếc phích, nhét vào túi quần một gói trà nhỏ để trên bàn và trước khi đi còn liếc về phía Ác-tê-mi-ép một cái nhìn ngập ngừng như phân vân giữa sự cần thiết phải đi kiếm trà và việc để anh chàng đại úy không quen biết này ở đây mà chưa được đồng chí A-púc-tin cho phép.
Ác-tê-mi-ép chuyển từ chiếc va-li qua ngồi trên một chiếc cáng. Chỉ cho đến lúc ấy anh mới cảm thấy mặt mình nóng ran như lửa đốt. Đi trong tối đêm của Tam-xắc - Bu-lắc với chiếc va-li, anh không chú ý đến muỗi đốt. Anh mở va-li, lấy ra một lọ nước hoa Cô-lô-nhơ, đổ đầy gan bàn tay xoa lên mặt và cổ.
- Không nên làm thế với nước Cô-lô-nhơ - có tiếng nói ở phía sau anh.
Ác-tê-mi-ép quay đầu lại. Một bác sĩ quân y, thân hình cao lớn với ba «vạch» ở ve áo, đứng ở cửa lều, một tay vẫn còn để trên mảnh bạt anh vừa bỏ xuống đằng sau. Thân hình cao lớn của anh mặc một chiếc áo dài gấp nếp cẩn thận, thít chặt trong một chiếc thắt lưng kèm chiếc bao súng nhỏ. Mặt anh trẻ, nét kiên quyết. Tóc mầu sáng, rẽ đường ngôi chải kỹ. Anh phe phẩy quạt bằng chiếc mũ kê-pi cầm trên tay.
- Anh thấy đấy, ở trong này cũng vẫn có muỗi, anh nói, tai vừa lắng nghe tiếng muỗi vo ve. Anh đặt chiếc kê-pi xuống bàn và đưa tay cho Ác-tê-mi-ép.
- A-púc-tin.
Ác-tê-mi-ép đứng dậy và tự giới thiệu.
- Anh cứ ngồi - bác sĩ quân y nói - Anh vừa mới đến phải không?
- Vâng.
- Người ta bảo anh đến đây ngủ phải không?
- Vâng.
- Người ta biết rằng chúng tôi đã rút khỏi cả rồi, chứ gì.
- Rút khỏi?
- Nghĩa là rút lên tiền tuyến - A-púc-tin cười - Bệnh viện đã chuyển lên gần phía đó, anh nói thêm với một cử chỉ lửng lơ về phía vách lều. Gửi đi hết cả rồi. Tôi chẳng biết lấy gì cho anh đắp, đêm ở đây lạnh.
- Không sao, tôi sẽ lấy ca-pốt đắp - Ác-tê-mi-ép nói - Miễn là có một chiếc giường.
- Cũng chẳng thể làm khác được, bác sĩ nói. Hôm nay ở đây chỉ còn có bốn người bị thương nặng. Thật ra chính vì họ mà tôi ở lại. Tôi đã gửi họ đi hồi gần sáng đến Si-ta cùng một chuyến máy bay đã mang anh đến đây, và tôi cũng sắp chuyển đến địa điểm mới. Nhân viên chúng tôi chưa đủ, tôi vừa là trưởng ban quân y vừa là bác sĩ giải phẫu phụ trách. Thế nào xoa nước Cô-lô-nhơ không kết quả phải không?
- Không - Ác-tê-mi-ép nói - lúc đầu thì cũng đỡ nhưng bây giờ tôi lại thấy rát như cũ.
- Thật ra không gì làm bớt được, - A-púc-tin nói - Phương thuốc duy nhất là sự kiên nhẫn lúc ban ngày và cẩn thận khép tất cả các cửa lại lúc ban đêm.
- Hôm nay lúc ở Si-ta, tôi thấy hai chiến sĩ bị thương nặng - Ác-tê-mi-ép nói - chắc là họ ở đây đến,
- Đúng - A-púc-tin gật đầu - Tôi không tin rằng một trong hai người có thể qua khỏi, mặc dù tôi đã hết sức cố gắng. Một phi công. Nhưng từ sớm hôm nay, bộ binh đã vào cuộc.
- Có đánh nhau à?
A-púc-tin nhìn anh, ngạc nhiên, nhưng sực nhớ ra rằng Ác-tê-mi-ép vừa mới đến, A-púc-tin nói vắn tắt cho anh biết hồi sớm quân Nhật mở một đợt tấn công và vào lúc ba giờ chiều, đã có đến chín mươi người bị thương khênh vào bệnh viện.
- Đúng vào ngày di chuyển - anh nói thêm, chua chát - Ba bác sĩ giải phẫu đã đi rồi, chỉ còn tôi ở đây. Tôi nhìn thấy tôi, như người ta vẫn nói trong tiểu thuyết, máu ngập đến khuỷu tay. Cuối cùng, nói tóm lại, đến tối thì mệt lử. Lúc đến đây, anh không thấy ai hay sao?
- Một chuẩn úy - Anh ta đang đi kiếm trà.
- May quá! tôi đã tự hỏi không biết Vát-xi-li Áp-dê-ít của tôi đi đâu rồi.
- Đây có phải là lần đầu tiên không? - Ác-tê-mi-ép hỏi. Anh muốn hỏi bác sĩ xem có phải đối với anh ta đây là lần chiến đấu đầu tiên không, nhưng không hiểu sao cuối cùng anh lại hỏi một câu ngớ ngẩn:
- Có phải lần đầu tiên anh mổ không?
Nhưng A-púc-tin hiểu nội dung thật của câu hỏi.
- Không, không phải là lần đầu tiên, tôi đã tham dự ở hồ Hát-xan. Vả lại, nghề nghiệp của chúng tôi luôn luôn tiếp xúc với máu nên chiến tranh đối với chúng tôi không phải là một việc gì mới lạ và kỳ quái như đối với những người khác. Với anh, thì là lần đầu phải không?
- Lần đầu.
- Anh ở lại Tam-xắc đây, hay đi Kha-mác-đáp?
- Tôi đi sáng sớm mai. Anh có đi đến đó không?
A-púc-tin suy nghĩ một lát.
- Anh có thể đi với tôi đến tận bệnh viện. Cũng không hẳn là con đường ngắn nhất đâu, nhưng ngược lại một xe hồng thập tự có thể chở anh từ đó thẳng đến tiền tuyến.
- Tôi rất cảm ơn anh - Ác-tê-mi-ép thật ra như thế rất tiện cho Ác-tê-mi-ép, anh không muốn hôm sau lại phải tìm kiếm hay chờ đợi một người nào đấy.
- Có gì mà ơn với huệ, A-púc-tin cười, Tôi có đem anh đi nghỉ mát đâu. Dầu sao, tuy tôi rất thích có thời giờ để làm quen với anh thêm, tôi cũng rất mong anh ngày mai đến thăm bệnh viện của tôi lần đầu tiên và lần cuối cùng.
Anh lấy một chiếc gối trên chiếc giường duy nhất có chuẩn bị chăn đệm và ném sang chiếc cáng Ác-tê-mi-ép đang ngồi
- Anh hãy nằm nghỉ trong lúc đợi trà. Nếu anh ngủ, tôi sẽ đánh thức.
Ác-tê-mi-ép để chiếc gối dưới đầu và chùm ca-pốt lên đến cằm. Anh nhắm mắt và bắt đầu nghĩ đến ngày hôm sau, nhưng kỷ niệm như thác lũ đến cắt đứt giòng ý nghĩ của anh, như có một sức mạnh kỳ dị nào hối hả muốn nhắc lại anh những sự kiện chính trong đời.
Anh nhớ lại đầy đủ mọi chi tiết, cái ngày mồng tám tháng năm vừa qua. Ngày ấy, hình như đối với anh đã quá xa; gian phòng lớn của điện Krem-lanh trong ngày 12 trọng thể bế mạc lớp học, khi đồng chí giám đốc trường Phơ-run-dê, đứng cách Xta-lin ba bước chân, nhân danh tất cả các viên trình bày bản báo cáo.
«Hai nghìn một trăm bốn mươi ba học sinh mãn khóa trong những trường đại học của Hồng quân công nông, trọng số đó bốn trăm ba mươi nhăm người được điểm ưu».
Nghe đọc những câu đó, Ác-tê-mi-ép nghĩ rằng trong số bốn trăm ba mươi nhăm người đó có đại úy Ác-tê-mi-ép và anh ngước mắt nhìn Xta-lin.
Anh thấy hình như Xta-lin cũng nhìn hai nghìn con người họp ở trong phòng với một con mắt ân cần. Người nhìn họ chăm chú, mặt đăm chiêu.
Người nghĩ gì? Hàng năm, trong mỗi một trung đoàn trong mỗi một tiểu đoàn, trong mỗi một đại đội, những hạ sĩ quan ở lại sau khi hết hạn tại ngũ. Mỗi năm, hàng nghìn thiếu úy, chuẩn úy tốt nghiệp các trường quân sự - Mỗi năm, hơn hai nghìn đại úy, thiếu tá, trung tá, chính trị viên, cán bộ quân pháp, kỹ sư, cán bộ quân nhu tốt nghiệp ở các trường đại học, đến trong phòng này dưới cặp mắt Xta-lin.
Người nghĩ gì khi Người nhìn khóa học 1939 này? Cách đây bốn năm, năm 1935, cũng vào dịp này Người đã đọc bài diễn văn nổi tiếng: «Cán bộ quyết định hết thảy» - Ác-tê-mi-ép gần như thuộc lòng bài diễn văn này. Đoạn cuối, Xta-lin nói rằng trường đại học chỉ là một bước thử thách đầu tiên, bước thử thách chính là ở ngoài những bức tường của nhà trường, trong sự vật lộn với những khó khăn.
«Những khó khăn gì?» Ác-tê-mi-ép tự hỏi vừa nghe đoạn tiếp của báo cáo - Đối với quân nhân thì có những khó khăn gì? Đúng ra, những khó khăn lớn, và thật sự đối với họ chỉ hiện ra trong chiến tranh.
Chắc chắn đây là điều Xta-lin nghĩ khi người nhìn chăm chú như thế những sĩ quan tập họp ở trong phòng: «Họ sẽ làm gì trước những khó khăn?» Nhớ lại buổi lễ và cảm giác của mình hôm đó, Ác-tê-mi-ép nhận thấy mình vẫn còn một cảm giác tương tự, như Xta-lin bây giờ vẫn nhìn anh giữa đám sĩ quan và đặt với anh câu hỏi thầm lặng «Đồng chí liệu có biết chiến thắng những khó khăn không?» Câu hỏi ngày đó anh phỏng đoán trong gian phòng lớn của điện Krem-lanh, giờ đây anh lại cảm thấy một lần nữa, trong chiếc lều Mông-cổ này, và anh biết rằng cũng cảm giác ấy sẽ theo anh ngày mai trên hỏa tuyến mà từ đó bệnh viện của A-púc-tin đã nhận được thương binh gửi về, ở đó người ta đã đang chiến đấu hôm nay và ở đó ngày mai bản thân anh sẽ đến chiến đấu để chiến thắng vô số những khó khăn to lớn mà toàn bộ hợp thành cái gọi là chiến tranh.
- Dậy thôi, đại úy!
Ác-tê-mi-ép cho chân xuống đất nhổm dậy trên chiếc cáng và mở mắt. Còn ngái ngủ, anh cảm thấy quái lạ việc mẩu nến trên hộp đồ hộp, không những không lụi đi mà còn cao lên. Anh lấy hai tay dụi mắt đứng lên và chỉ lúc đó anh mới nhìn thấy A-púc-tin bên cạnh mình, Áo ca-pốt và kê-pi đâu vào đấy cả rồi.
- Phải đi thôi - A-púc-tin nói - ba giờ sáng rồi.
- Đã phải đi rồi cơ à? - Ác-tê-mi-ép vừa hỏi vừa liếc nhìn đồng hồ và khoác vội chiếc ca-pốt vào người.
- Ở Mạc-tư-khoa thì chưa đến nửa đêm - A-púc-tin nói - nhưng chúng ta hiện đang ở Mông-cổ. Hãy uống chút nước trà đi, anh nói thêm, tay chỉ vào chiếc phích trên bàn.
- Không, ta đi thôi, tôi không muốn làm anh phải chậm trễ vì tôi.
- Thì hãy uống đi nào, quái chửa!
A-púc-tin ấn chiếc phích vào tay anh. Ác-tê-mi-ép vặn chiếc nắp kền, rót đầy nước trà, uống từng ngụm nhỏ, hai tay cầm lấy chiếc nắp và thú vị thấy tay mình được sưởi ấm. Sau khi uống cạn, anh vặn nắp vào phích, và tự nhiên đưa mắt nhìn chỗ để.
- Anh cầm nó theo - A-púc-tin nói:
Anh nhấc bạt cửa và đi ra trước. Ác-tê-mi-ép theo sau, một tay cắp chiếc phích, một tay xách va-li.
Bình minh trên thảo nguyên. Nền trời một màu xanh thẳm, phía xa chuyển thành màu lục và cách với mặt đất ở đường chân mây bằng một giải ánh sáng màu vàng.
Một chiếc Em-ka sơn đen đợi trước cửa lều. A-púc-tin đã lên ngồi ghế phía trước, cạnh người lái xe. Ác-tê-me-ép cũng tự thu xếp chỗ cho mình ở phía sau trong khoảng trống va-li, túi, súng và mũ còn chừa lại. Anh cũng tìm được một chỗ để va-li và phích.
- Ổn chưa? - A-púc-tin hỏi.
- Ổn lắm rồi.
Thảo nguyên bắt đầu ngay sau căn lều. Những vệt bánh xe cày ngang dọc khắp các ngả. Một số trong những vệt đó, thuộc loại ít nhất, làm ta nghĩ đến một sự vận chuyển đều đặn; ở những chỗ khác, cỏ mới rạp xuống, như chỉ có mỗi một chiếc xe qua. Sự thật đúng là như thế, vì những người lái xe có thể đi theo bất cứ hướng nào trên mặt phẳng của thảo nguyên, lượn tất cả các thứ đường vòng có thể tưởng tượng được Và ngay cả kéo dài thêm đường đất mặc dù ý định là rút ngắn lại, như các vết loằng ngoằng nhiều vô tận la liệt trên mặt đất đã chứng tỏ rõ - Người lái xe của A-púc-tin cũng muốn đi theo con đường riêng của anh. Nhưng những vết bánh cuối cùng rồi cũng gần nhau lại và hòa vào một, con đường tạo nên bởi hai vệt bánh hằn sâu mà do xe cộ đi lại nhiều nên có chỗ gần như bóng nhẫy, tiến xa mãi về phía chân trời như hai đường ray, cách nhau không phải bằng những chiếc tà-vẹt, mà bằng một giải đất nhờ nhờ đỏ, khô khốc và rạn nứt vì trời nóng mặc dù vừa mới vào hè.
Dọc theo con đường này, một hàng cột giây thép mà Ác-tê-mi-ép đã nhìn thấy tối hôm trước, thăm thăm đi về phía đông. «Thật ra, anh nghĩ thầm, không phải cột theo đường đi, mà đường đi theo cột - Con đường dây thép thẳng tắp cuối cùng đã ghép vào kỷ luật, nhích gần và hòa lẫn tất cả những vệt bánh xe trên thảo nguyên. Gỗ đối với vùng này rất quý, nhác trông cũng thấy.
- Thảo nguyên, kể cũng ngộ thật! - A-púc-tin nói, vừa quay một nửa người về phía Ác-tê-mi-ép sau khi đã im lặng ngồi trên xe đi một chục cây số không gặp một chiếc xe nào từ phía trước đi lại hoặc đi cùng chiều - Tôi ở đây thế là được gần hai năm rồi. Thoạt đầu, tôi thấy nó hình như nhạt nhẽo và buồn tẻ đến độ, nếu tôi không phải đang tại ngũ thì ngay hôm sau tôi sẽ cuốn gói đi thẳng. Không một bóng cây! Không cả một chiếc lá để người ta có thể vò nhàu! Những ngày đầu đúng là một thứ ám ảnh. Và rồi, một ngày kia, tôi dậy sớm hơn thường lệ và tôi thấy mặt trời mọc. Bình minh và hoàng hôn ở đây đẹp kỳ lạ. Đây là một mảnh đất vĩ đại mà khắc khổ. Cũng như phong cảnh và khí hậu. Cũng như đường trường. Kể cả đối với nhân dân ở đây nữa, họ cũng được nuôi nấng trong tinh thần đó. Tôi đã có dịp mổ cho hơn hai mươi người Mông-cổ không người nào lộ ra một mảy may yếu đuối, không người nào nhỏ một giọt nước mắt. Không một người nào. Nó làm cho tôi cảm thấy hiện nay như một chân lý do bản thân mình tìm ra, điều Mô-lô-tốp nói: «Chúng ta bảo vệ biên giới của họ như chính biên giới của chúng ta». Tôi thích được phục vụ những con người thầm lặng làm chủ được tình cảm của mình này. Có lẽ vì thế mà tôi yêu xứ sở của họ, những đất đai đẹp đẽ một cách im lặng. Vả lại, họ kia kìa - anh nói thêm.
Phía trước mặt, nhưng không phải trên đường đi, một toán người Mông-cổ tiến về phía xe. Gạt cho túi và mũ bịt mất cửa kính xe bên trái, Ác-tê-mi-ép nhìn ra nhận ngay thấy đó là một đoàn người nhỏ - nhiều kỵ sĩ ngồi trên lưng những con ngựa thấp bé, và ba con lạc đà, hai ở phía trước, một ở phía sau, đóng vào một cỗ xe một chiếc ác-ba- dài và cao. Trong số kỵ sĩ, hai là thiếu niên và người thứ ba là một ông già râu thưa và dài, tóc hoa râm, đầu đội mũ lông. Một người đàn bà ẵm một đứa nhỏ ngồi trong ác-ba và một người nữa đi bên, tay đặt trên thành xe. Xa xa, cách đường cái, người ta nhìn thấy trong thảo nguyên một kỵ sĩ đơn độc với một đàn cừu.
- Họ bỏ vùng này đi về phía tây - A-púc-tin nói.
Đó là lệnh của chính phủ Mông-cổ để tránh cho họ những tai nạn. Thảo nguyên rộng mênh mông, không có cách gì bảo vệ tất cả mọi người chống máy bay khu trục của địch - Phi công Nhật đã lợi dụng điểm đó để tiến hành những hoạt động kẻ cướp. Trong hai tuần qua, nhiều gia đình như gia đình này đã bị chúng xả súng bắn.
- Hãm lại một chút - A-púc-tin vừa nói vừa đặt tay mình lên cánh tay người lái xe.
Người lái xe hãm máy; chiếc xe, theo đà, tiếp tục lăn đi không tiếng động - A-púc-tin mở cửa và thò người ra ngoài. Trong im lặng, Ác-tê-mi-ép nghe rõ tiếng vù vù của máy bay.
- Của ta đấy - A-púc-tin nói - bay về Khan-khin-Gon. Đến lượt Ác-tê-mi-ép nhìn, sau khi mở cửa phía bên anh - Cao tít tắp trên vòm trời sáu chiếc phóng pháo và một phi đội khu trục.
- Lên đường - A-púc-tin nói.
- Hôm qua anh nhận được tất cả bao nhiêu thương binh? - Ác-tê-mi-ép hỏi.
- Một trăm bốn mươi bảy người trong hai mươi bốn giờ cả người mình lẫn người Mông-cổ. Chắc là ban đêm còn về nữa.
- Trời! - Ác-tê-mi-ép nói.
- Tôi không rõ rệt chi tiết, A-púc-tin nói, nhưng ngày hôm qua hình như có vẻ gay go lắm thì phải. Chúng chọn đúng chỗ, bọn chó ấy - anh nói thêm, giận dữ - Chỗ xa lắc xa lơ này! Để chuyển đến đây tất cả những thứ cần thiết, chỉ nói riêng về dụng cụ y tế không thôi, cũng là cả một vấn đề!
Lần này không ra lệnh cho người lái xe ngừng máy, anh mở cửa một lần nữa và mắt theo dõi một phi đội ba chiếc khu trục khác đang bay xa xa về phía Khan-khin Gon.
- Anh không buồn ngủ à? - A-púc-tin hỏi, sau mấy phút im lặng.
- Không, hôm nay thì hết buồn ngủ rồi.
- Thế à, còn tôi, tôi lại buồn ngủ, tôi thức gần trọn đêm hôm qua. Nếu không phiền lắm, anh đưa giúp tôi cái chăn.
Ác-tê-mi-ép đưa chăn cho anh, để ở ghế đằng sau, gập tư. A-púc-tin gập nó lại một lần nữa, làm như cái gối, bỏ mũ để trên đùi, đặt chiếc chăn giữa cửa sổ xe và chỗ tựa ghế trước và thoáng một cái đã ngủ ngay, mặc dù đường ổ gà.
Người lái xe bỗng cho xe đi từ từ: chiếc xe lúc này rất chậm và mỗi lúc một lắc dữ hơn.
- Phải đi giữa một cây số đất muối - người lái xe không quay đầu, nói khẽ.
Xe xóc hơn, nhưng A-púc-tin vẫn ngủ. Ra khỏi khoảng đất muối, đường đi trở lại bình thường.
- Anh có nhìn thấy những điểm trắng đằng kia không - người lái xe nói nhỏ, vẫn không quay đầu lại-Những hồ nước mặn đấy. Nước ở đó không uống được, nặng mùi lắm. Một lần tôi đã đi săn vịt trên một hồ như thế. Tôi bắn rơi ba con mà không tìm cách nào lấy được. Khi tôi lội nước đến đầu gối, tôi sợ không dám đi xa nữa. Không sâu lắm, nhưng mà lầy và muối ăn da. Những giếng nước tốt ở đây hiếm lắm - anh nói tiếp - Người ta đào. Người ta thấy nước, nhưng nước mặn. Anh cho phép tôi hút thuốc chứ?
- Sao lại không? - Ác-tê-mi-ép nói.
Người lái xe châm một điếu thuốc và lái một giờ đằng đẵng, không nói. Khoảng bốn mươi phút sau, không phải phía trên đường cái mà phía xa bên cạnh, lần này thấp nhiều hơn lần họ gặp những máy bay trở về vị trí. Không phải hai nhóm như trước mà một nhóm, và chỉ có năm phóng pháo và năm khu trục, thiếu mất hai chiếc.
Ác-tê-mi-ép nhìn đăm đăm lên trời hồi lâu, chờ hai chiếc máy bay còn lại xuất hiện.
«Có lẽ nó bay đường khác», anh tự nhủ, cố tin như vậy, nhưng trong thâm tâm vẫn nghĩ rằng hai chiếc máy bay chưa trở về đó sẽ không trở về nữa. «Số này trở về, anh tự nhủ số khác thiếu mất và sẽ không bao giờ trở về nữa. Đó là chiến tranh, đơn giản thế thôi».
- Sắp đến nơi rồi - người lái xe đột nhiên nói lớn. Anh ta không chăm sóc giấc ngủ của A-púc-tin nữa. Trái lại, tay phải bỏ tay lái, anh còn đẩy nhẹ vào vai A-púc-tin.
- Đến nơi rồi, đồng chí bác sĩ.
A-púc-tin vắt chăn trên ghế sau và đội mũ. Lố nhố nhiều chiếc y-uốc-ta và hai chiếc lều lớn in rõ nét trước mắt họ. Mấy phút sau họ đi vào làng - bệnh viện. Không phải chỉ có hai chiếc lều lớn, như Ác-tê-mi-ép tưởng, mà ba chiếc, và người ta đã đóng cọc chiếc thứ tư, mảnh bạt xanh rộng còn nằm bẹp trên mặt đất. Người ta thấy bên cạnh hàng đống nỉ và khung gỗ cho những chiếc lều Mông-cổ còn phải dựng thêm nữa. Giữa tất cả những chiếc lều đó, có nhiều xe vận tải va một xe Hồng thập tự phủ bạt xanh.
Khi chiếc Em-ka của A-púc-tin ngừng lại, người lái xe Hồng thập tự đã chuẩn bị lùi xe giữa những đám len để ra đi. A-púc-tin, nhảy ra ngoài, giơ tay lên mồm làm loa gọi:
- Này! Xô-lô-vi-ốp, ngừng xe lại!
Chiếc xe Hồng thập tự ngừng lại. Ác-tê-mi-ép từ trên chiếc Em-ka bước xuống.
- Đồng chí bác sĩ, đột nhiên có một người thầy thuốc nhà binh lùn và béo, với hai «vạch» trên ve cổ vừa nói, vừa đưa ngay báo cáo.
- Nghỉ đã, nghỉ đã, Bo-rít Gri-gô-ri-ê-vít - A-púc-tin ngắt lời - lát nữa ta sẽ nói chuyện.
Và anh chuẩn bị cho Ác-tê-mi-ép đi ngay.
- Chúc anh may mắn nhé, A-púc-tin vừa nói vừa nắm chặt tay Ác-tê-mi-ép. Anh trèo lên xe và đi thôi.
Rồi ngay sau đó, A-púc-tin quay về phía người thầy thuốc béo tròn như hạt mít và cầm lấy tay anh.
- Bây giờ, đồng chí hãy kể chi tiết cho tôi...
Ác-tê-mi-ép chỉ nghe thấy mẩu đầu câu nói đó. Tay xách va-li, anh đi về phía xe Hồng thập tự định mở cửa sau trèo vào trong.
- Không, không, đồng chí đại úy - anh lái xe nói - đừng trèo lên đấy, chưa được cọ rửa sạch dầu. Trèo lên ca-bin này, tôi chỉ có một mình, y tá ở ngoài ấy; Ngoài ấy...
Người lái xe lấy tay làm một cử chỉ muốn nói rằng cái ngoài ấy thật khó mà có thể cắt nghĩa được.
Ác-tê-mi-ép trèo lên ca-bin và có thời giờ nhìn thấy một vệt máu tươi ở trên bục bước lên.
- Đấy là một thiếu úy bị thương ở chân - anh lái xe nói, khi bắt gặp cái nhìn của Ác-tê-mi-ép - nói chung, thảo nguyên bằng phẳng nhưng có hai chỗ đất muối, tôi rất khổ tâm nghĩ đến nó mỗi lần đến gần.
Một phút sau, bệnh viện đã khuất khỏi tầm mắt.
- Hôm nay có nhiều thương binh không? - Ác-tê-mi-ép hỏi.
- Không đếm xuể nữa! - Anh lái xe nói vừa nhìn vào mắt Ác-tê-mi-ép không muốn dấu sự xót xa của mình - Thấy họ đau như thết tôi muốn khóc quá. Đồng chí đại úy, đồng chí là quân nhân, đồng chí đã quen. Nhưng tôi, tôi làm nghề lái xe... Anh lấy tay chỉ vào chiếc áo nhà binh. Tôi vừa mới mặc nó được hai tuần, tôi tình nguyện đến cơ sở xe hơi của một hợp tác xã. Và hai tuần vừa rồi, tôi còn chờ một chiếc xe có thùng chứa, vận tải nước. Tôi chỉ mới thấy một trận ném bom. Nhưng từ tối hôm qua, tôi ở trên chiếc xe Hồng thập tự này và đây là chuyến thứ tư vừa đi vừa về! Mười sáu giờ liền ở tay lái mi mắt cứ nặng như đeo đá... Và máu! trước tôi không thể chịu được khi nhìn thấy máu - Tôi mà có xây sát chỗ nào đó thì cũng không sao, nhưng chỉ cần ai đứt ngón tay là tôi không tài nào chịu được.
- Nhưng chắc rồi anh cũng quen đi chứ gì? - Ác-tê-mi-ép hỏi.
- Không - anh lái xe nói gần như nấc lên - Nhưng dù sao tôi cũng chẳng bỏ xe và thương binh ở lại mà chạy trốn trong thảo nguyên. Và còn cái anh chàng y tá nữa, anh ta cứ bảo tôi «cậu giúp mình một tay». Anh ta chẳng cần phải nói, tôi cũng thấy! Người ta cố gắng hết sức để kéo họ lên xe không làm cho bọ đau quá mà rồi người ta cứ làm cho họ đau. Thật khủng khiếp!
Anh ta lại nhìn Ác-tê-mi-ép, cặp mắt đầy tươi trẻ và nhân hậu, rồi nói thêm như để xin lỗi về tất cả những điều mình vừa nói:
- Lẽ dĩ nhiên, nếu tôi là một quân nhân như đồng chí... Mặc dù thật ra tôi cũng là một quân nhân, anh nói chữa lại, tôi là một người lính - Thật ra, lẽ dĩ nhiên là tôi không nên nói tất cả điều đó...
Với dáng điệu mệt mỏi, anh đưa một tay lên vuốt mặt và rồi cúi gập xuống như nằm trên tay lái.
«Anh ta tưởng mình không phải đến đây lần này là lần đầu mà tưởng mình đã thấy hết cả, biết hết cả, làm quen với hết cả và, mình không sợ một cái gì, Ác-tê-mi-ép nghĩ thầm, chua chát. Và anh ta vừa xin lỗi, không phải vì sự hèn nhát của anh ta, vì nom anh không có vẻ là một thằng hèn mà chỉ vì sự xót xa của anh khi đứng trước máu và những đau đớn của con người, như anh ta biết trước rằng mình, mình sẽ không cảm thấy sự xót xa ấy... Vậy mà mình chưa nhìn thấy gì cả, và cũng chẳng có gì chứng tỏ là mình sẽ can đảm khi ra ngoài ấy, nơi từ đó anh trở về và mình thì chưa đến. Người lái xe này sợ, nhưng anh vẫn làm nhiệm vụ - Còn mình? Mình có sợ không? Có, anh thành thật tự thú nhận - Nhưng mình, mình cũng sẽ làm tất cả những điều cần phải làm, mười năm trong quân đội đã chuẩn bị cho mình, nhưng người ta thường nói rằng có những người, không ai ngờ và bản thân họ cũng không ngờ, bỗng tỏ ra hèn nhát trong chiến đấu - Trong y học, cũng có cả một danh từ riêng cho trạng thái đó, một sự sợ hãi...
Anh không làm sao nhớ được danh từ «thuộc về bệnh lý»
«Nhưng mọi thứ đó đều vô lý, không thể nào đến với mình được», anh nhất quyết như thế, vẫn chưa tìm ra danh từ trên.
- Thế nào, đồng chí đại úy, ta xuống chứ? - anh lái xe bỗng hỏi đột nhiên - đồng chí có thấy cần không?
- Để làm gì?
- Đồng chí có nhìn thấy không? - Anh lái xe nói vừa giơ một tay về phía trên miếng kính chắn, tay kia vẫn tiếp tục cầm lái.
Ác-tê-mi-ép nhìn qua miếng kính chắn và thấy trên trời không xa quá, không cao quá, ba chiếc máy bay hình mỗi lúc một to mãi ra, một cách nhanh chóng.
- Bọn Nhật đấy! anh lái xe nói, không quay đầu lại - Nó bắn dọc đường. Làm gì bây giờ?
- Thế nào, làm gì à? Cứ tiếp tục! - Ác-tê-mi-ép nói tức giận với chính bản thân vì những ý nghĩ của mình hồi nãy hơn là với anh lái xe - Thương binh đang đợi xe hồng thập tự mà chúng ta ngừng lại ư? Cứ đi!
Anh lái xe không ngừng lại. Anh dấn ga và lại càng cúi hơn nữa trên tay lái. Máy bay bay trên đầu họ vào khoảng cao ba bay bốn trăm thước, tiếng vù vù điếc tai. Ác-tê-mi-ép chỉ vừa kịp nhìn thấy, với một cảm giác là lạ, chúng mang trên cánh những dấu tròn của cờ Nhật, và rồi thế là hết, máy bay đã ở đằng sau họ và xe tiếp tục lên đường, vừa lúc ấy hai máy bay nữa hiện ra.
Anh lái xe, lần này không hỏi gì cả, nắm chặt lấy tay lái và lao hết tốc độ. Khi máy bay đến gần, Ác-tê-mi-ép lấy tay trái kéo vành mũ kê-pi của anh ấn tụt xuống đầu như là nó có thể bảo vệ cho anh chống được với đạn đại liên. Cử chỉ này làm anh không thấy những máy bay đó mang sao đỏ.
Anh lái xe cho máy chậm lại và lần lượt lau hai tay vào chiếc áo quân phục.
- Máy bay của ta! - Anh nói vừa quay lại phía Ác-tê-mi-ép với một nụ cười sung sướng và mệt mỏi.
- Của ta à?
- Phải, của ta! Máy bay khu trục. Có hình sao. Chính vì thế mà chúng không bắn chúng ta, những chiếc kia, anh lái xe nói thêm, tay chỉ về đằng sau, máy bay ta đang đuổi theo.
- Có thật của ta không? - Ác-tê-mi-ép hỏi.
- Anh không trông thấy à? Đó là những chiếc I - 16. Đồng chí đại úy, đồng chí đừng nghĩ rằng - anh lái xe nói thêm sau một lát im lặng và không phải cùng một giọng nói như anh đã dùng đề kể lại những ấn tượng của anh khi nhìn thấy thương binh, mà giọng bình tĩnh và vững vàng - đồng chí đừng nghĩ rằng tôi làm thể vì lo cho bản thân tôi và tôi quên mất thương binh đâu. Tôi là một người lính, và tôi có nhiệm vụ phải nói với đồng chí rằng, tôi phải chăm sóc đến sinh mạng của các sĩ quan. Ngay cả những phi công họ cũng phòng bị. Tôi đã mang nước đến cho họ trong một trận ném bom, tôi nhìn thấy rõ lắm.
Ác-tê-mi-ép hiểu rằng anh lái xe nói đến các phi công để dùng một bằng chứng có tính chất thuyết phục nhất đồng thời tế nhị nhất.
- Không sao - anh trả lời, trong bụng tiếc là đã không tự chủ được trong mấy phút trước đây - Chúng ta cùng sẽ nằm xuống, nếu cần thiết. Lần này không cần thiết - anh nói thêm với giọng của một người đã từng chứng kiến khá nhiều trường hợp, tương tự, nên không muốn nói nhiều về chuyện này - Chúng ta còn ở cách Kha-mác-đáp bao nhiêu?
- Gần ba mươi cây số nữa. Nhưng tôi không đến Kha-mác-đáp, đồng chí đại úy ạ. Một cây số trước khi đến nơi, tôi phải rẽ bên trái về phía sông.
Ác-tê-mi-ép suýt buột mồm trả lời là xe rất có thể đi nốt cây số thừa ấy, nhưng nghĩ đến thương binh anh lại thôi.
- Được, đến chỗ rẽ tôi sẽ xuống.
Họ tiếp tục đi, im lặng trong mấy phút. Người lái xe bắt đầu gà gà ngủ.
- Anh ngừng xe lại - Ác-tê-mi-ép nói.
Người lái xe nhìn anh ngạc nhiên nhưng cũng ngừng xe lại.
- Thôi để tay lái đấy - Anh xuống ngồi vào chỗ tôi và ngủ đi một lát.
- Thưa đồng chí đại úy, không thể được.
- Tôi biết lái, tôi có giấy phép đấy.
Ác-tê-mi-ép cho tay vào túi áo, anh có giấy phép lái xe thật.
- Để lúc về, khi anh có thương binh trong xe, anh không ngủ gật còn tốt hơn. Anh xuống đi - Ác-tê-mi-ép nhắc lại lần này như một mệnh lệnh.
Anh lái xe đi xuống. Ác-tê-mi-ép ngồi vào chỗ của anh ta và người lái xe, vòng quanh xe rồi, ngồi vào chỗ của Ác-tê-mi-ép và đặt va-li của anh lên đùi. Trong mấy phút anh theo dõi tò mò và không phải không lo ngại xem Ác-tê-mi-ép cầm lái thế nào và sau, yên trí, anh tựa vào thành ca-bin đánh một giấc không còn biết trời đất gì nữa.
Ác-tê-mi-ép lái xe cẩn thận, cố làm quen với xe, sung sướng thấy mình được cầm lái, sung sướng nghĩ thầm rằng máy bay đã đi qua mà không bắt buộc mình phải xuống xe và nhất là nhận thấy những ý nghĩ vừa rồi lúc này đối với mình hoàn toàn vô nghĩa.
Anh không tưởng tượng được quang cảnh của nơi có cái tên reo vang là Kha-mác-đáp, mà hai người đương đến gần, có thể sẽ ra sao. Anh cũng chẳng biết rõ ràng nó là cái gì nữa; một làng, một đống đổ vỡ, một thung lũng hay một vùng đồi núi.
Khi xe đã đi được gần ba mươi cây số (anh cũng không xem công tơ tốc độ một cách chính xác), anh thấy hình như có một con đường rẽ về bên trái. Anh định đánh thức người lái xe dậy, nhưng cuối cùng anh nghĩ bụng những vết xe lờ mờ này trên thảo nguyên không thể dẫn đến đầu cầu được.
Một lát sau, độ hai cây số đường nữa, anh thấy rõ ba chiếc xe bọc sắt nhỏ. Càng ngày càng thấy nhiều vết bánh xe tách khỏi đường, trẽ sang bên trái và bên phải, nhưng không vết nào chứng tỏ là có xe đi lại vận chuyển nhiều. Cuối cùng, anh thấy một đường có vết bánh hằn sâu đi về phía bên trái và từ đó một chiếc xe hồng thập tự đi về phía hai người. Anh hãm máy và đập vào vai người lái xe.
- Anh lại cầm lái đi, đến nơi rồi.
Ác-tê-mi-ép nhẩy một bước xuống đất, đi vòng quanh xe, lấy va-li và để xuống mặt đường.
- Thôi từ biệt nhé. Anh có thể đi được rồi - anh nói vừa sập mạnh cửa buồng máy.
Người lái xe để tay lên mũ ca-lô chào và mở máy. Khi xe đi được độ mấy chục thước và tiếng động cơ đã im bặt. Ác-tê-mi-ép nghe mơ hồ thấy những tiếng súng xa xa.
Con đường leo thoai thoải sườn đồi rồi mất hút đằng sau. Xa hơn, cách độ một cây số, người ta nhìn thấy những mỏm đồi trọc khác.
«Kha-mác-đáp, chắc là ở phía ấy», Ác-tê-mi-ép nghĩ bụng, và tay xách va-li, anh bắt đầu lên đường.
Bạn Chiến Đấu Bạn Chiến Đấu - Công-Stăng-Tanh Xi-Mô-Nốp Bạn Chiến Đấu