Số lần đọc/download: 3045 / 77
Cập nhật: 2015-08-06 19:09:55 +0700
Chương 4: Tôi Lên Đường Sang Nga
N
ghe tôi than thở, chắc chắn toàn thể giống đực trên trái đất sẽ la ầm lên:
-Đồ xạo! Được yêu đương rả rích với người đẹp Lôlô mà bảo là đêm khổ nhất đời!
Oan tôi lắm, vì sự thật là thế. Sự thật là vẻ đẹp của nàng không thua vẻ đẹp của minh tinh điện ảnh Lôlô là bao. Tôi chưa được vinh dự biết tài của minh tinh Lôlô trong phòng the, nhưng theo linh tính thì đến Lôlô chính hiệu cũng thua Lôlô của tôi đêm ấy tại Nữu ước.
Vậy mà đêm ấy, cái đêm có thể trở thành thần tiên ấy, lại là đêm khổ nhất đời tôi… Vì thưa các bạn, tình báo Tây Đức và CIA cố ý quên ghi một số chi tiết vào chương trình. Họ trả nhiều tiền tất họ cũng có quyền nói dối với tôi. Họ đã làm tôi bực mình và tẽn tò đêm ấy.
Đêm ấy, sau một trận mưa hôn vũ bão, Lôlô kéo tôi nằm xuống để làm chuyện vợ chồng. Thường lệ, tôi thuyết phục đàn bà, thỉnh thoảng đàn bà mới phải thuyết phục tôi. Đêm ấy, Lôlô lại hoàn toàn bắt tôi theo sở thích của nàng.
Thân thể tôi đang sửa soạn thì tai tôi bỗng nghe một âm thanh lạ. Đó là một tiếng ‘’tách’’ nho nhỏ. Nhờ biết phân biệt tiếng động, tôi biết ngay là tiếng ‘’tách’’ của máy chụp hình. Tài phân biệt tiếng động của tôi đã vượt khỏi trình độ cao cấp, tôi chỉ nghe hơi thở cũng đủ đoán được người núp sau cửa là đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ, biết võ nghệ hay không biết võ nghệ nữa. Tôi còn có khả năng nghe được một số tiếng động siêu thanh. Về tiếng ‘’tách’’ này, tôi đã có dịp nghe một lúc gần 50 tiếng tương tự trong phòng thí nghiệm của Sở Mật Vụ. Mỗi máy ảnh có một tiếng ‘’tách’’ riêng, nên tiếng ‘’tách’’ vừa lọt vào tai tôi là âm thanh của máy Rollei.
Máy Rollei khét tiếng thế giới về nét hình sắc và rõ. Chắc người lạ đã dùng phim hồng ngoại tuyến, loại phim bắt nhanh để chụp.
Tiếng ‘’tách’’ này làm tôi lồm cồm bò dậy. Lôlô kêu lên một tiếng sửng sốt:
-Anh?
Nàng tưởng tôi điên hoặc tôi bị trúng gió. Nàng đâu biết rằng tôi chẳng điên, chẳng trúng gió gì hết. Sở dĩ tôi hấp tấp buông nàng ra vì tiếng ‘’tách’’ của máy ảnh Rollei là nhát búa tạ giáng vào đầu tôi. Họ đã lén chụp hình tôi và Lôlô vào giữa cái lúc không nên chụp hình nhất. Chụp hình ban đêm trong phòng kín bằng phim hồng ngoại tuyến là để … săng-ta. Chỉ có các cơ quan gián điệp mới chơi cái trò săng ta đốn mạt ấy (trên thực tế, ông Hoàng cũng đã săng ta như vậy nhiều lấn, nhưng riêng tôi, tôi vẫn cho cái trò săng ta này là đốn mạt). Trong những năm, những tháng đi khuya về tối, tôi đã hết sức thận trọng để tránh lọt bẫy săng ta bằng phim nhựa. Chẳng phải vì tôi là người danh giá mà vì tôi sợ bạn gái của tôi bị liên lụy.
Nhưng đêm ấy tại Nữu ước, tôi lại không sợ bạn gái Lôlô bị liên lụy, mà là sợ cho chính bản thân tôi. Nếu nhân viên KGB chụp được tấm hình tôi đang sửa soạn làm tình với Lôlô thì vai trò của tôi sẽ bị bại lộ ngay từ khi chưa xuất đầu lộ diện. Tôi sẽ bị CIA và tình báo Tây Đức mời… về vườn. Các cô đồng nghiệp ác khẩu trong ban Biệt Vụ sẽ cho rửa hàng chục tấm hình thất đức ấy, mỗi tấm lớn bằng nửa cái giường và treo trong phòng bí thư để mỗi khi vào gặp ông tổng giám đốc tôi phải chiêm ngưỡng.
Lôlô cũng choàng dậy:
-Anh đau ư?
Tôi nhảy xuống đất:
-Cẩn thận. Có người chụp hình trộm.
Lôlô kêu lên tiếng ‘’vậy hả, chết em rồi‘’ rồi cũng nhảy phóc xuống theo.
Nhưng từ góc phòng tiếng người chụp hình trộm đã cất lên:
-Tôi đây mà… anh đừng sợ.
Lúc ấy, tôi có cảm giác thân thể tôi đang biến thành cây đuốc, chạm vào đâu là gây hỏa hoạn. Té ra thằng cha chụp hình không phải là nhân viên KGB không đội trời chung mà là thàng bạn phải gió của CIA. Thằng bạn có nhiệm vụ chờ tôi dưới đường.
Hắn vội nói lớn:
-Đừng bật đèn, Lôlô.
Nàng dựa vào người tôi:
-Ai hả anh?
Tôi thở dài:
-CIA.
Nàng chửi thề một tiếng thật tục tĩu rồi nói:
-Em không ngờ… em không ngờ anh lừa dối em ăn nằm với em để cho bạn anh chụp hình.
Tôi định nói thẳng vào mặt nàng rằng tôi không hề lừa nàng, vì chính tôi đã bị nàng lôi kéo vào vòng ân ái, và chính tôi cũng không hề biết CIA bố trí chụp hình lén lút. Nhưng tôi chưa kịp giải bầy oan khuất thì gã nhân viên CIA khốn nạn đã nói:
-Mặc quần áo vào ngay đi, ông nội. Ông muốn biểu diễn bắp thịt lực sĩ thế vận cho KGB chụp hình nữa phải không.
Tôi muốn tát vào mặt hắn một cái song tôi phải tự chế vì hai lý do. Lý do thứ nhất: CIA và Tây Đức trả tiền, tôi là người làm công. Tôi đánh hắn thì hết hy vọng nhận tiền, vả lại thân hình hắn mảnh dẻ như vậy, sợ chỉ ăn cái tát của tôi là táng mạng. Lý do thứ hai: biết đâu hắn chụp hình trộm là để ngăn chặn Lôlô có thái độ hàng hai.
Tôi đành riu ríu mặc quần áo. Trong khi đó, Lôlô vẫn để nguyên tấm thân lõa lồ, hai tay vẫn tiếp tục xỉa xói và miệng vẫn tiếp tục tuôn ra những danh từ không lấy gì làm đẹp. Gã nhân viên CIA đeo máy ảnh Rollei vào vai rồi dằn giọng với nàng:
-Cô nói nhiều quá. Tôi xin xác nhận rằng vụ chụp hình này đã được thi hành theo lệnh của ông tổng giám đốc CIA. Chúng tôi chấp thuận cho cô sang Liên Sô, bề ngoài là để thăm Fabien, nhưng bên trong là để tìm cách đưa Fabien về nước. Cô đã hứa giúp đỡ chúng tôi, tuy nhiên lời hứa của đàn bà, nhất lại là đàn bà như cô, khác nào trái cam ai biết được ngọt chua trong lòng, có thể cô qua đấy rồi ở luôn. Faben vốn yêu cô, nếu có cô bên mình Faben sẽ không bao giờ chịu hồi hương nữa.
Lôlô rít lên:
-À ra các ông săng ta cả tôi.
-Làm nghề này, muốn khỏi thất bại thì phải nắm vững đầu cán. Trong trường hợp cô định lưu lại Liên Sô, chúng tôi sẽ chuồi tấm hình ân ái của cô cho Faben. Hẳn cô cũng biết Faben là con người phá kỷ lục về ghen. Ông ta sẽ ăn thịt cô nếu thấy cô tằng tịu thể xác với người đàn ông khác, trẻ trung hơn, khỏe mạnh hơn và khôi ngô hơn ông ta…
-Đồ đểu!
-Ha ha, lâu lắm không nghe đàn bà nói tục, giờ đây nghe cô chửi rủa tôi lại thấy khoan khoái. Lôlô ơi, cô cứ chửi nữa đi… Dầu sao cô cũng đã nhận tiền của những người mà cô gọi tên là ‘’ đồ đểu‘’. Hai chục ngàn đô la đâu phải ít, hả cô?
-Tôi không thèm. Tôi sẽ vứt trả lại ngay bây giờ.
-Trản tiền là dại vì ai biết dò vào đâu. Lúc cô nhận tiền, CIA đã bắt cô hạ bút ký. CIA lại đã chụp hình và ghi âm đầy đủ. Nhưng thôi, cô Lôlô ơi, cô nên bớt giận làm lành, chúng tôi chỉ muốn giúp cô chứ không muốn phá cô. Như đã hẹn trước, nếu có thuyết phục được Faben trở về, cô sẽ được biếu riêng một triệu đô la. Cô sẽ trở thành vợ chính thức của Faben. Mọi hồ sơ và tài liệu về quá khứ không lấy gì làm danh giá của cô sẽ được thiêu hủy, hoàn toàn thiêu hủy.
Lôlô chộp cái gạt tàn thuốc lá định ném vào mặt gã nhân viên CIA. Hắn nhoẻn miệng cười:
-Sao cô lại làm vậy? Bọn KGB dưới đường nghe trong nhà ồn ào sẽ vác mặt tới. Cô sẽ không đi Mạc tư Khoa nữa.
Lôlô thở dài:
-Đồ đểu. Cút ngay đi. Nếu không tôi sẽ cào nát mặt bây giờ.
Gã nhân viên CIA cong miệng:
-Đi thì đi.
Hắn bước ra cửa rồi đứng lại, nói với tôi:
-Mời anh.
Lôlô nắm tay tôi, như không muốn buông nữa:
-Anh phải đi với hắn ư?
-Vâng, tôi phải đi. Hẹn gặp em ở Mạc tư Khoa.
-Anh đã biết em ngụ tại khách sạn nào chưa?
-Em khỏi lo. Em ở đâu CIA cũng biết.
Trước khi cho phép tôi thoát ra ngoài, nàng còn bắt tôi hôn nàng nữa. Không phải hôn một cái mà là hôn luôn một hơi. Nàng ép tôi mạnh đến nỗi tôi là võ sĩ xương đồng da sắt mà cũng ngộp thở.
Lôlô vẫn chẳng mặc gì hết, giơ tay vẫy tôi. Tôi cắm đầu đi một mạch, sợ vẫy lại nàng sẽ xà tới đòi hôn thêm. Và biết đâu nàng còn đòi tôi làm chuyện khác nữa. Töi đã gặp nhiều phụ nữ nhưng phụ nữ như nàng rất hiếm.
Trong chốc lát, chúng tôi đã nhảy hàng rào sang nhà bên. Té ra nhà bên là cơ sở CIA. Bọn KGB túc trực ngoài đường có mắt thông thiên cũng không thể nhìn thấy chúng tôi chuồn vào ga ra, trèo lên một chiếc xe Ford to tướng, và lái ra một con đường khác.
Trong khi hắn lái, tôi véo tai hắn, giọng hăm dọa:
-Tại sao anh không cho tôi biết trước?
Hắn cười ruồi:
-Lệnh trên, anh ơi!
-Khôn hồn, anh đưa cuộn phim cho tôi.
-Anh muốn lấy cả máy ảnh tôi cũng đưa, huống hồ cuộn phim. Nhưng thú thật với anh là chẳng có cuộn phim nào cả.
-Nghĩa là anh chụp không?
-Vâng.
-Anh điên hả?
-Tôi không điên. Văn phòng tổng giám đốc gọi điện thoại vô tuyến cho tôi, nói là phi cơ đang chờ. Họ đoán là anh đang hú hí với Lôlô nên cho phép tôi vào làm cái trò chụp hình. Anh mới dính với nàng lần đầu nên chưa biết đấy thôi. Nàng là con hồ ly kinh khủng nhất Nữu ước. Đàn ông nào tò tí với nàng là mất sạch vốn liếng. Chúng tôi muốn anh còn nguyên thân thể, sức khỏe và trí khôn để sang Mạc tư Khoa nên đành phải cắt đứt ngang xương màn tình ái cụp lạc.
-Hồi nãy anh nói là CIA có hồ sơ bất hảo về nàng. Nàng là gái giang hồ phải không?
-Không. Nàng là con nhà quý phái nhưng phải cái giao du bừa bãi, làm ăn với bọn buôn lậu ma túy khét tiếng. Nàng là con người tham lam số một. Đêm nào nàng cũng phải yêu. Không yêu không chịu được. Chưa ai đối địch lại nổi nàng. Có lẽ thượng cấp chọn anh vì vậy. Tôi hy vọng anh trở về không đến nỗi phải chống nạng gỗ.
Tôi ngắt lời hắn:
-Ra phi trường quốc tế Nữu ước phải không?
Hắn lắc đầu:
-Không. Phi trường quân sự.
-Đi đâu?
-Dĩ nhiên là Liên sô. Nhưng cuộc hành trình được chia ra làm nhiều chặng. Tôi chỉ có nhiệm vụ đưa anh ra phi trường. Lành lặn khỏe khoắn, không bị sứt mẻ hoặc nhức đầu sổ mũi. Còn anh đi đâu, đi bằng cách nào, đó là nhiệm vụ của người khác.
*
Thế là một lần nữa tôi lại lên đường đến thăm quê hương của Lênin và Sítalin.
Cách đây không lâu, tôi giả làm chuyên viên quảng cáo Hạ uy di, đáp máy thẳng từ Hoa kỳ đến Liên sô, nghênh ngang bước vào bằng cửa trước, và ngụ tại đại khách sạn quốc doanh Metropole giữa đám nhân viên mật vụ KGB, rồi nghênh ngang đi Anbani 1. Lần này, tôi chỉ đưọc biết là đi Liên sô, chứ không được biết sẽ tàng nhập bằng cửa trước hay cửa sau, bằng cách ung dung trình thông hành tại sân bay, hay vượt hàng rào kẽm gai, nhảy dù ban đêm xuống lãnh thổ Nga lần nữa.
Lúc tôi đến phi trường quân sự, một người mặc quân phục đã đợi sẵn. Tôi mừng rơn vì người này là đại tá Pít, bạn tri kỷ của tôi 2. Pít reo ầm lên khi nhận ra tôi. Tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:
-Anh không ngờ là tôi ư?
Pít đáp:
-Nếu ngờ là anh thì tôi đã mang theo bịch thuốc Salem và thùng huýt ky hạng tốt, và nhất là an bom ảnh mới nhất về những người đẹp có kích thước lớn nhất thế giới. Té ra vị anh hùng sang Nga là anh. Hồi tối ông Sì-mít kêu tôi lên văn phòng và dặn ra đây đón một phái viên của tình báo Tây Đức. Nếu ông Sì-mít nói là đón phái viên của ông Hoàng thì tôi biết là anh. Gớm, cái ông già Sì-mít kín miệng quá … Dạo này anh đầu quân cho Tây Đức rồi ư?
-Không. Làm thuê.
-Thế này nhá! Anh sẽ đội lốt một công dân Libăng.
-Libăng? Tôi chẳng nói được tiếng Libăng nào cả.
-Nhưng anh đã đến Libăng lần nào chưa?
-Rồi, độ 4, 5 lần.
-Vậy anh còn hơn tôi. Ba tháng trước, tôi cũng đội lốt công dân Libăng như anh mặc dầu tôi chỉ mới biết Libăng tlần đầu tiên trên bản đồ địa dư thế giới. Thế mà cũng chẳng sao cả.
Thật ra tôi chưa hề hoạt động tại Libăng nhưng xứ này không xa lạ lắm đối với tôi. Khu vực Trung Đông được thiên hạ biết nhiều sau những trận chiến chớp nhoáng bằng máy bay, xe tăng, nhưng Trung Đông cũng được thiên hạ biết nhiều về những thú vui ban đêm. Có người cho rằng nói đến thú vui là nói đến đàn bà, mà đàn bà ở đâu cũng giống nhau thì thú vui phải giống nhau. Tôi không đồng ý như vây. Đàn bà giống nhau thật đấy song chỉ giống nhau dưới con mắt của nhà khoa học với đấy đủ bộ phận cơ thể, còn trong tình yêu mỗi người là một vũ trụ riêng.
Trung Đông có rất nhiều sa mạc, tình yêu ở Trung Đông cũng hiếm như giếng nước trên sa mạc, nhưng hễ có thì hết sức thần tiên. Lý do là truyền thống đạo Hồi. Theo đạo này, phụ nữ phải đeo mạng, ngay cả ở trong nhà cũng không được phép nhìn ai ngoại trừ nhìn chồng, thậm chí để hở cái miệng cho người lạ ngó thấy cũng không được nữa. Phụ nữ Hồi giáo bị dồn ép mạnh mẽ nên khi được giải phóng họ ùa ra ánh sáng văn minh như người bị giam hàng năm dưới hầm tối, tình yêu của họ trở nên những cơn bão táp lạc thú bất tận.
Trên sa mạc Trung Đông, có 4 ốc đảo tình yêu: Bêrút, Kerô, Ít tan bun và Telavi. Tôi đã đến tận nơi và nhận thấy Telavi, thủ đô Do Thái, quá kênh kiệu vì người Do Thái, còn lo đánh nhau ngày đêm với Árập, đàn bà cũng phải đi lính, nam nữ chỉ ưa đại hòa tấu, ca vũ và chiếu bóng.
Thú nhất là Bêrút, thủ đô Libăng. Xứ này chỉ có 3 triệu dân, nửa Hồi giáo, nửa Công giáo, có lối sống phóng khoáng của người Pháp, cái duyên mặn mà của phụ nữ Árập bên bờ biển Địa trung Hải, và túi tiền vô tận của những giếng dầu trên bãi cát. Tôi đã miệt mài đêm này qua đêm khác tại Bêrút trong những hộp đêm kỳ lạ để thưởng thức tài nghệ uốn éo của các vũ nữ múa bụng, luôn luôn đeo mạng che miệng song lại công khai phô trương từ miệng trở xuống… Cách bờ biển 20 cây số, có một thiên đường hạ giới mang tên là Maamaltein với những người đẹp tứ chiếng, và sòng bạc lớn nhất Âu Á.
Trên nguyên tắc, nhân viên do thám Tây phương tàng nhập các quốc gia cộng sản thường cải trang làm công dân một nước trung lập khuynh tả. Tại Liên sô, giả làm công dân Cuba là tốt nhất vì Cuba bồ bịch với Liên sô, lại được o bế để quấy rầy Hoa Kỳ. Không hiểu sao mấy ông bự tình báo Tây Đức và Mỹ lại muốn tôi đội lốt công dân Libăng để qua Mạc tư Khoa vì Libăng không được Mạc tư Khoa trọng đãi. Năm 1958, thủy quân lục chiến Mỹ đã đổ bộ lên xứ này để ngăn chặn nội loạn thân cộng. Bởi vậy khi nghe đại tá Pít nhắc đến Libăng tôi ngẩn tò te như cô gái tiền sử lạc vào … phòng ngủ gồm giường nệm ấn nút điện của nhà tỷ phú đa tình thế kỷ hai mươi mốt.
Đại tá Pít vỗ vai tôi:
-Sướng nhé!
Tôi ngẩn tò te thêm:
-Cái gì mà sướng hả anh?
-Thôi, tôi xin ông, ông còn giả vờ mãi. Được du hí với Lôlô tại Mạc tư Khoa là sướng nhất đời. Tôi thèm địa vị ông mà ông Sì-mít không cho phép.
-Anh hết râu quặp rồi ư?
-Ồ, mới lấy vợ là khác, bây giờ là khác. Mới đó tôi sắp ba con rồi. Anh tính...
Tôi không kịp tri kỷ vụn với đại tá Pít thêm nữa vì phi cơ đã sửa soạn cất cánh. Trong chiếc phản lực cơ rộng thênh thang, ngoài phi hành đoàn, chỉ có một mình tôi. Vâng, tôi là hành khách độc nhất. Thế mới biết họ lắm tiền! Chẳng bù với sở Mật vụ của ông Hoàng, nhân viên di chuyển phải dùng phi cơ thương mãi, và trong số nhân viên xuất ngoại thường trực có lẽ chỉ có tôi dám mua vé hạng nhất... Thật ra, đã có lần tôi được ngồi một mình trên phi cơ, song đó chỉ là phi cơ cánh quạt. Những chuyến nhảy dù xuống miền Bắc, tôi mang tiếng là hành khách độc nhất nhưng phi cơ lại chở theo hàng tấn ‘’hàng hóa‘’ để nhảy dù xuống với tôi, nhất cử lưỡng tiện. Tính tôi vốn thích tiện nghi nên một số cơ quan điệp báo Tây phương đã dụng ý đưa ra những điều kiện ngon lành để kéo tôi về với họ nhưng tôi vẫn cứ ở lại với ông Hoàng.
Nếu tôi ưa khuếch đại, tôi sẽ giải thích rằng đó là hành động yêu nước, ‘’ta về ta tắm ao ta, dầu trong dầu đục ao nhà vẫn hơn’’. Nhưng trong thâm tâm, chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến những mục phiêu cao quý và to tát như vậy. Tôi chỉ nghĩ đến ông Hoàng. Các bạn có thể trách tôi nhưng sự thật là thế, mà tôi là con người tôn trọng sự thật.
Thế là một lần nữa tôi lại lên đường đến quê hương của Lênin và Sítalin...
Phi cơ quân sự vừa cất cánh tôi đã nằm lăn ra ngủ trên tấm nệm dầy. Có lẽ tấm nệm này do đại tá Pít mang lên cho tôi. Vì Pít biết tôi mắc bệnh đau lưng, rất ghét và sợ nằm trên giường cứng. Phần vì mệt nhoài, phần khác vì nệm cao su quá êm nên tôi ngáy o o. Chẳng còn biết trời đất gì nữa.
Mãi đến khi viên trung tá Mỹ lay dậy tôi mới chịu mở mắt. Tuy nhiên tôi vẫn nằm ì trên nệm và hỏi:
-Đến chưa?
Viên trung tá cười:
-Rồi.
Cửa phi cơ mở rộng. Té ra bên ngoài là ban đêm. Ban đêm ở mọi phi trường trên thế giới đều ngập tràn ánh sáng và âm thanh nhưng ở đây lại tối hoàn toàn, và im lặng hoàn toàn. Viên trung tá thân mật bắt tay tôi:
-Chào ông và chúc ông thượng lộ bình an.
Tôi hỏi y:
-Trung tá không xuống ư?
-Không. Nhiệm vụ của chúng tôi đến cửa phi cơ này là hết. Bên dưới đã có người đón ông. Sau khi ông xuống, chúng tôi sẽ lấy nhiên liệu và lái phi cơ trống trở về Mỹ.
-Đây là đâu?
-Thổ nhĩ Kỳ.
Té ra tôi đã ngủ một giấc quá dài. Đối với tôi, Thổ không phải là vùng đất xa lạ. Tôi đã đến đấy nhiều lần, tôi còn có nhiều bạn gái địa phương kiều diễm và ngoan ngoãn nữa. Nếu có thời giờ tôi sẽ đến thăm họ.
Nói ra thì ít ai tin nhưng phong tục đất Thổ rất hợp với đàn ông đa tình. Thổ theo đạo Hồi mà đạo Hồi lại cho phép đa thê. Đấng Giáo chủ Môhammét có đến mười một bà vợ, người dân thường cũng có thể lấy bốn vợ. Tuy có nhiều vợ, đàn ông vẫn được tự do, không bị bứt tóc, nắm tai như ở Việt Nam vì theo tập quán không có vợ chính, vợ phụ, toàn thể đều bình đẳng. Vấn đề hưởng thụ được chia đồng đều nên nạn tranh giành, ghen tuông không xảy ra.
Tôi thích nuớc Thổ vì tại một vài vùng dân gian còn theo một lề thói cổ xưa vô cùng thi vị: đó là du khách có quyền thuê vợ. Nghĩa là tôi có thể mời một thiếu nữ về ở chung một thời gian, đối xử mặn mà như vợ, nàng sẽ chăm nom cơm nước, quần áo cho tôi, và sau đó tôi có thể xách va li ra trường bay, không sợ nàng níu lại đòi tiền … bồi thường.
Tôi thích nước Thổ vì ở đó ái tình được trọng vọng, trước khi yêu cũng như sau khi yêu, và cả trong khi yêu nam nữ đều cầu kinh một cách nghiêm trang. Chứ không yêu lén lút theo kiểu ‘’tắt đèn nhà ngói cũng như nhà tranh’’ ở nhiều nước châu Á.
Ngọn gió phi trường quạt hơi lạnh ban đêm vào mặt tôi. Tôi phồng ngực thở khoan khoái. Dường như không khí ở Thổ được pha trộn một hóa chất đặc biệt khiến các thớ phổi nở rộng, dưỡng khí chạy ùn ùn trong huyết quản, mắt tôi sáng ra, và chân tay tôi trở nên thoải mái như vừa được tắm hơi nước nóng và đấm bóp đúng phương pháp Nhật bản.
Dưới chân cầu thang chỉ có một người đàn ông độc nhất. Y là người Mỹ, căn cứ vào giọng nói chào hỏi. Y mặc đồ không quân, đeo lon thiếu úy. Y rập chân chào tôi theo nghi lễ quân cách đoạn mời tôi lên xe díp.
Xe chạy được một quãng tôi mới thấy tòa nhà đồ sộ của phi trường. Hồi nãy, tôi không nhìn thấy ánh điện vì phản lực cơ đậu phía sau giãy nhà kho cao ngất, cửa đóng then cài kín mít. Tòa nhà phi trường cũng đóng cửa im ỉm, tầng dưới hắt ra một ánh sánh vàng vàng.
Tài xế đậu lại và lễ phép mời tôi xuống. Song tôi đã nhảy xuống trước khi được mời. Vì qua cánh cửa mở rộng tôi vừa nhìn thấy một giãy tủ lạnh nhỏ, loại tủ lạnh tự động bán nước ngọt và la ve. Té ra viên thiếu úy mời tôi vào căn tin giải khát. Trong căn tin không có ai mặc dầu đèn thắp sáng chưng, cái máy hát dĩa tự động ở góc đang ong ỏng tuôn ra một điệu nhạc pốp giật gân, và trên quầy kẽm có mấy chai huýt ky chưa khui và một đống ly cốc sặc sỡ.
Viên thiếu úy mở chai côca và ngước mắt ngó tôi, tôi lắc đầu. Hiểu ý, y chỉ chai huýt ky, tôi gật đầu. Y toan bỏ đá lạnh vào ly, tôi giằng lấy. Tôi chọn cái ly lớn nhất, loại ly dùng uống la ve, và rót đầy ắp huýt ky. Viên thiếu úy le lưỡi, tôi nhún vai làm luôn một hơi. Một ly chưa đủ, tôi tiếp theo ly thứ hai, ly thứ ba.
Thấy tôi quăng ly xuống quầy tỏ vẻ đã uống say sưa, y mới nghiêng mình:
-Mời ông ra xe.
Tôi hỏi:
-Căn cứ Ađana phải không?
-Thưa phải.
-Nhân viên căn cứ đi đâu cả mà tôi không thấy ai hết?
-Vì hôm nay có ông đến nên đại tá phó tư lệnh tập trung mọi người lại trong phòng họp để chiếu phim. Một phim tình hay kinh khủng.
-Họ không được phép gặp tôi?
-Thưa không. Mọi lần có nhân viên điệp báo từ Hoa thịnh Đốn tới, họ vẫn được đi lại tự do. Hồi đại tá Pao-ớt lái phi cơ thám thính U-2 từ đây bay qua Liên Sô, nhiều người còn đến bắt tay và mời uống rượu nữa. Nếu được phép gặp ông chắc chắn phần đông nhân viên của căn cứ đã bỏ dở cuốn phim mà rủ nhau ra đây. Vì họ có cảm nghĩ rằng những ai dám vượt biên giới vào Liên sô phải là con người siêu đẳng.
-Hừ… thiếu úy có thấy tôi khác mọi người ở điểm nào không?
-Thưa không. Vì vậy khi ông từ phi cơ bước xuống, tôi đã có thái độ kinh ngạc. Lệ thường tôi là đứa nói cười luôn miệng nhưng sau khi gặp ông, tôi trở thành cấm khẩu. Tôi đoán ông phải là một người có hành tung bí mật, mắt đeo kiếng đen to tướng, đội mũ dạ xụp xuống trán, mặc ba-đờ-suy kín mít, vai và lưng đeo đầy súng ngắn, súng dài, và đặc biệt là mặt đầy thẹo ngang, thẹo dọc hậu quả của những cuộc đấu võ, còn bàn tay thì lớn gấp đôi bàn tay người thường. Trái lại, ông chẳng có nét nào đáng sợ.
-Thì có gì để thiếu úy kinh ngạc đâu?
-Tôi kinh ngạc vì … vì ông quá đẹp trai. Thoạt thấy ông, tôi tưởng ông là tài tử màn bạc, chứ không phải là nhân viên gián điệp cao cấp.
-Tại sao thiếu úy biết tôi là nhân viên gián điệp cao cấp?
-Đại tá tư lệnh phó dặn tôi là Hoa thịnh Đốn gửi mật điện ra lệnh tổ chức đón tiếp thật kín đáo nhưng cũng thật trang trọng. Mời ông ra xe, đại tá đang đợi ông để đưa ông về thành phố.
Thành phố đây là Ađana, ở miền đông nam nước Thổ, một trong các căn cứ quan trọng của Hoa Kỳ và khối Minh ước phòng thủ Trung Đông, dọc theo bức màn sắt sô viết.
Viên thiếu úy chạy vòng một hồi lâu rồi tắt máy bên cạnh một chiếc Falcon kiểu mới sơn đen đậu ngoài phi trường. Từ trên xe Falcon bước xuống một thanh niên cao lớn mà tôi đoán là viên đại tá phó tư lệnh.
Y chờ cho viên thiếu úy lái xe lộn lại vào căn cứ rồi mới chìa tay bắt, giọng thân mật:
-Tôi là bạn của đại tá Pít. Hân hạnh được biết ông.
Y rút thuốc Salem mời tôi:
-Tôi cũng hút Salem như ông. Song lại uống huýt ky rất kém. Đại tá Pít nói là ông uống bao nhiêu cũng không say, càng uống càng tỉnh ra nữa nên tôi để sẵn trong thùng xe một két huýt ky thượng hạng.
-Ông cũng là nhân viên CIA?
-Trước kia tôi là đại diện CIA tại vùng này. Nhưng bây giờ thì không. Tôi chán cái nghề điệp báo một cách kinh khủng. Vì tôi có vợ, lại có con. Người vợ thứ nhất đã bỏ tôi đi theo gã đàn ông khác vì quanh năm suốt tháng tôi phải sống xa nhà. Bây giờ là người vợ thứ hai. Vợ tôi dọa ly dị nếu tôi tiếp tục đèo bòng công tác gián điệp, nên tôi phải xin rút khỏi CIA để trở về quân đội. Thú thật với ông nếu vợ tôi không mè nheo, tôi cũng phải bỏ nghề vì thần kinh tôi đã bị căng thẳng quá độ, tôi có thể loạn trí bất cứ lúc nào. Tôi lấy làm lạ tại sao ông hoạt động thường trực như vậy mà vẫn không loạn trí.
-Ông tập uống huýt ky đi. Trong rượu huýt ky có một chất làm nhân viên giám điệp giữ được quân bình thần kinh hệ.
-Tôi không tin. Y sĩ nói là uống rượu sẽ đau gan. Hàng năm trên thế giới có hàng vạn dân nhậu chết về đau gan.
-Vậy ông hãy yêu thật nhiều.
-Chịu thôi. Tôi có mấy ông bạn mới hơn ba chục tuổi mà đầu đã bạc phơ như ông cụ ngũ tuần. Đàn bà là món làm đàn ông chóng già, và chóng chết nhất.
Viên đại tá cười. Tôi cũng cười theo. Tuy nhiên y cười thành thật. Tôi có cảm tưởng là tình báo Tây Đức và Trung ương Tình báo CIA đang gài bẫy tôi. Tại sao đại tá Pít lại nói cho viên đại tá này biết về tôi? Đại tá Pít không phải là hạng người bô bô cái miệng. Trừ phi ông Sì-mít cho phép hắn bô bô cho thiên hạ biết.
Khi ấy tôi muốn nói thẳng vào mặt viên đại tá hiểu rằng tôi cũng chán ngấy hơn y nữa. Sở dĩ tôi vẫn phải đa mang nghề gián điệp bạc bẽo, lật lọng và bẩn thỉu này là vì ông Hoàng cần tiền.
Đường từ phi trường về trung tâm thị trấn dài độ 12 cây số, cũng ngoằn ngoèo như khúc đường gần Tân sơn nhất. Nhưng lại khác Tân sơn nhất vì nó gồm hai con đường song song. Trời tối mà xe cộ chạy rất ít.
Viên đại tá phó tư lệnh lái đến ngoại ô thành phố thì cho xe chạy chậm lại trước khi tạt vào bên lề. Y vẫn để máy nổ, quay sang nói với tôi:
-Tôi chỉ có nhiệm vụ đưa ông đến đây. Trong giây lát ông sẽ gặp người khác.
Từ khi bắt tay vào việc, tôi đã nghe nhiều lần cái điệp khúc cũ rích này. Kira chỉ có nhiệm vụ thử năng lực tôi trên triền núi Hy mã lạp sơn. Gã nhân viên CIA chỉ có nhiệm vụ đưa tôi từ phi trường Nữu ước về nhà người đẹp Lôlô. Đại tá Pít chỉ có nhiệm vụ tiễn tôi ra phi cơ. Viên trung tá Mỹ chỉ có nhiệm vụ mời tôi xuống thang phi cơ, đặt chân lên nền bê tông. Viên thiếu úy Mỹ chỉ có nhiệm vụ lái xe cho tôi uống huýt ky và gặp đại tá phó tư lệnh và đại tá phó tư lệnh cũng chỉ có nhiệm vụ đưa tôi đến ngoại ô Ađana. Người ta cố tình gây ra những sự phiền phức ấy để làm gì?
Tại sao không giản dị hóa bằng cách dặn mật khẩu cho tôi tiếp xúc với Kira tại Mạc tư Khoa, khỏi phải cất công đến tận núi Hy mã? Tại sao họ không để đại tá Pít đón tôi ỏ Nữu ước, đưa tôi về phòng Lôlô, chờ lái tôi ra phi trường rồi hộ tống tôi đến Ađana? Dĩ nhiên, điệp báo là hàng trăm, hàng ngàn sự phiền phức, lẽ ra đi thẳng người ta lại theo đường vòng. Chẳng hạn từ Tân sơn nhất về trụ sở của ông Hoàng gần bờ sông Sàigòn, nhân viên từ nước ngoài trở về không được dùng đường thẳng Công Lý - Lê Lợi - Nguyễn Huệ mà là Phú Thọ - Chợ Lớn - Trần Hưng Đaọ hoặc Phú Nhuận - Hai Bà Trưng hoặc Gia Định - Xa lộ. Nhưng ông Hoàng bắt nhân viên dưới quyền phải đi vòng là để bảo vệ an ninh trong trường hợp bị đối phương theo dõi, còn trong hoàn cảnh tôi thì ‘’vòng vo Tam quốc’’ lại nguy hiểm vì càng gặp nhiều người, tôi càng dễ bị lộ.
Trước chiếc Falcon độ 20 thước có hai ngọn đèn đỏ vừa sáng lên rồi tắt. Rồi sáng lên một lần nữa. Thì ra một chiếc xe hơi lớn đã đợi sẵn và tài xế vừa mở đèn hậu để báo hiệu. Viên đại tá cựu nhân viên CIA bắt tay vồn vã:
-Chuyến về, nếu được đáp xuống Ađana, ông nhớ tạt qua tôi chơi nhé. Vợ tôi ở lại Mỹ, không qua đây, nên tôi có thể tiếp rước ông theo kiểu đàn ông chưa vợ. Đàn bà Thổ kháu khỉnh và ngoan ngoãn lắm, ông biết chứ?
Tôi lí nhí cám ơn rồi nhảy xuống. Y dặn vói theo:
-Tôi không phải trao mật khẩu cho ông nên tôi có cảm tưởng là người ông sắp gặp đã quen mặt. Thôi, chào ông nhé!
Y quay đầu xe, phóng ngược về căn cứ Ađana. Tôi xách cái va li mỏng lét, một tay thọc túi quần, ung dung tiến tới xe hơi phía trước. Mỗi lần xuất ngoại tôi có thói quen mang theo rất ít quần áo. Thiếu đến đâu tôi mua sắm đến đó. Dùng xong tôi lại vứt bỏ ở khách sạn, trở về một mình với cái cạc táp nhỏ xíu. Chuyến đi này, tôi lại hạn chế tối đa, không phải vì lười biếng mà vì bà Côrin đã yêu cầu. Không hiểu sao trên con đường nhựa vắng tanh dưới trời tối này tôi lại có linh tính là sắp tái ngộ bà Côrin, đặc phái viên của Tình báo liên bang Tây Đức.
Tôi không ngạc nhiên khi thấy một cái rờ mọt hạng trung do chiếc Fiat 1500L kéo. Từ ít lâu nay, các cuộc tiếp xúc gián điệp thường diễn ra trong xe rờ mọt vì loại xe này có đầy đủ dụng cụ nghề nghiệp và tiện nghi sinh hoạt không kém văn phòng.
Chiếc rờ mọt này do công ty Elnach ở Milan chế tạo, mang cái tên thi vị là Pôke, bên trong khá rộng rãi tuy chỉ nặng 635 kí. Nhắm 1 mắt lại, tôi cũng có thể biết rõ cách trang trí, một phòng ăn kiêm phòng khách có bàn và ghế nệm, một phòng bếp đủ tủ ga, tủ lạnh, tủ đông để chứa đồ ăn, tủ rửa bát đĩa, tủ hong khô quần áo, một phòng tắm cẩn gạch men sang trọng có nước lạnh nước nóng, và sau cùng là một phòng ngủ có giường gấp, nệm 10 phân, đủ nằm hai người.
Tôi vốn khoái loại rờ mọt Pôke vì nó có thể chạy nhanh, leo giốc, thắng điện rất ăn, ống nhún lại êm, giá tiền phải chăng. Cái rờ mọt đang đứng sừng sững trước mặt còn làm tôi khoái hơn nữa nhờ được gắn máy điều hòa khí hậu, trời nóng trời lạnh chỉ cần bấm nút là không khí trong xe trở nên mát hoặc ấm.
Linh tính của tôi không đến nỗi xa rời thực tế vì người mở cửa rờ mọt đón tôi là bà Côrin. Bà mỉm cười chào nhưng không nói thành tiếng, tôi cũng mỉm cười lặng lẽ chào bà.
Bà mời tôi trèo vào phòng ngủ ở cuối rờ mọt. Tôi không nhìn được bên trong chiếc Fiat 1500L ở đằng trước nhưng đoán chắc là có người, ngoài tài xế ra còn ít nhất một người khác nữa.
Phòng ngủ trong rờ mọt đã được biến thành phòng làm việc, cái giường lớn được dựng lên, giấu sau tấm riềm nhung đỏ. Có một cái bàn nhỏ trên đặt điện thoại và một số dụng cụ thu thanh, phát tuyến và phiên dịch mật điện. Đối diện cái bàn nhỏ là cái ghế xô pha êm ái gắn vào vách sắt của rờ mọt.
Bà Côrin nhìn đồng hồ báo thức trên bàn rồi nói:
-Người mà ông đội lốt đang ngụ tái khách sạn Metropole trong thị trấn. Tên hắn là Bêra, công dân Libăng.
Tôi nhắc lại lời đã nói với đại tá Pít tại Nữu ước:
-Xin thưa bà rõ là tôi không biết nói tiếng và cũng không quen với nước Libăng.
-Điều này không quan trọng. Người trí thức Libăng thường nói tiếng Pháp. Vả lại, tôi hy vọng là ông chẳng phải nói một tiếng Libăng nào cả ở Mạc tư Khoa. Chúng tôi bố trí cho ông đến Liên sô vào ngày cuối tuần. Ông sẽ không tiếp xúc với tòa đại sứ Libăng. Đến khi họ nghe nói đến ông thì ông đã rời Mạc tư Khoa.
-Thưa bà, nếu tôi không lầm sở dĩ tình báo nước bà chọn Bêra vì hiện nay Liên sô ra sức o bế các công dân Libăng quen lớn nhà cầm quyền nước này…
-Ông không lầm chút nào. Trước đây, chúng tôi định dùng lốt công dân Cuba nhưng nhận thấy đại sứ Cuba có vẻ hục hặc với một số nhân viên KGB về chuyện riêng nên phải đổi ý kiến. Vụ tranh chấp ở Trung Đông giữa hai khối quốc gia Árập và Do Thái có thể bùng nổ thành chiến tranh võ trang với sự xuất hiện của các tổ chức du kích Pa-lét-tin chống Do Thái đã mang lại cho chúng tôi một cơ hội mới. Ông hẳn biết tin Al-Fatah, tổ chức du kích chiến Pa-lét-tin lớn nhất, đụng độ với quân đội Libăng? Al-Fatah muốn dùng nước này làm bàn đạp để tấn công Do Thái song bị cản trở nên súng đã nổ. Cuộc thương thuyết đang diễn ra giữa đại diện phe du lích và chính phủ Libăng. Chính phủ Libăng bị lâm vào thế trên đe dưới búa: nếu không cho du kích mượn đường thì du kích sẽ đánh phá, nhưng nếu bắt tay du kích thì bị Do Thái trả đũa. Vừa rồi, tướng Bustani, đại diện Libăng đã gặp Arafat, lãnh tụ phe du kích, để tiến hành cuộc điều đình. Liên sô không nắm được các tướng lãnh Libăng, mặt khác, lại không thể giúp đỡ du kích Al-Fatah một cách quá lộ liễu. Vì vậy họ mới gia tăng nỗ lực chinh phục cảm tình của nhà cầm quyền Libăng.
Ông đã thấy chưa? Bêra là một trong những người có liên hệ mật thiết và có ảnh hưởng mạnh mẽ với giới tướng lãnh Libăng. Hắn chỉ là một thương gia nên không bị để ý. Bêra được mời sang Mạc tư Khoa để nghiên cứu việc xuất nhập cảng.
-Hơi rầy rà… vì thưa bà, bộ Ngoại thương Sô viết đã quen mặt tôi, khách sạn Metropole ở Mạc tư Khoa cũng quen mặt tôi. Tôi mới đến đó năm ngoái, và làm nhiều chuyện kinh thiên động địa… Tôi sợ là họ bắt tôi ngay tại phi trường. Xin bà hiểu giùm là tôi không sợ chết mà chỉ sợ công việc thất bại trước khi khởi đầu.
-Chúng tôi đã nghĩ đến chuyện ấy trước khi mời ông. Nhà cầm quyền Sô viết qua trung gian tòa đại sứ Libăng ngỏ ý đón tiếp Bêra một cách long trọng song Bêra đã từ chối. Hắn đặt điều kiện là có được du hành kín đáo và thoải mái hắn mới chịu sang Mạc tư Khoa. Hắn bằng lòng gặp gỡ viên chức Nga để bàn việc móc nối các tướng lãnh Libăng nhưng lại nhấn mạnh là hắn chỉ bằng lòng gặp gỡ sau khi đi thăm Lêningờrát và Hắc Hải trở về. Hắn dự định lưu lại Mạc tư Khoa một tuần trước khi đi Lêningờrát. Như vậy nghĩa là ông có một tuần lễ để hoàn thành công tác. Nhưng tôi không tin ông cần một thời gian quá dài như vậy. Vì càng dài càng dễ lộ. Vả lại, giờ này Lôlô đã đến nơi, và nàng đang sửa soạn các thủ tục để được tái ngộ bác sĩ Faben.
-Tôi đến Mạc tư Khoa bằng cách nào?
-Bằng phi cơ thương mãi kiểu nhỏ từ đây đến Adétbêzan. Rồi từ đó thẳng tới Mạc tư Khoa bằng phi cơ phản lực Sô viết. Về những vấn đề liên quan đến việc giải cứu Faben, ông sẽ liên lạc sau với Kira. Tôi gặp ông hôm nay là để hướng dẫn ông loại trừ Bêra và đội lốt hắn để lên phi trường. Ông đã đến Ađana tất biết lữ quán Metropole.
Dĩ nhiên, đến Ađana mà không biết lữ quán Metropole thì cũng như đến Sàigòn mà không biết Caravelle vậy. Tôi không quá quen lữ quán Metropole của Ađana như lữ quán Metropole của Mạc tư Khoa nhưng ít ra cũng quen cách dúi tiền cho bồi và hé cửa ban đêm để đón giai nhân Thổ ‘’nhảy dù‘’.
Tôi gật đầu. Bà Côrin tiếp:
-Trong vòng 30 phút nữa, một tắc xi riêng sẽ đến chở Bêra rời khách sạn. Ông…
Tôi ngắt lời:
-Xin lỗi bà, tôi có điều này cần hỏi. Tôi giống Bêra độ bao nhiêu phần trăm?
-Nhìn chung, chừng 50 phần trăm. Ông cao hơn Bêra 4 phân, cân cũng nặng hơn nhưng lối đi đứng rất giống. Quan trọng là lối đi đứng, nên không đáng lo. Về diện mạo ông không giống lắm, song ông sẽ đeo kiếng đen, đội mũ phớt vành to và mặc ba-đờ-suy kéo cao cổ áo.
-Còn vấn đề thông hành?
-Chúng tôi đã làm sẵn cho ông. Thông hành chính hiệu do công an Libăng cung cấp.
Bà Côrin lại nhìn đồng hồ. Có tiếng động cơ nổ ròn. Rờ mọt từ từ chuyển bánh. Bà Côrin nói:
-Tôi sẽ đưa ông đến gần khách sạn. Ông sẽ ngồi chờ Bêra.
-Từ khách sạn ra?
-Không. Cách khách sạn một trăm thước có một tiệm ăn Thổ. Giờ này Bêra đang ăn với một người đẹp.
-Con mồi của bà?
-Vâng, người đàn bà này là nhân viên dưới quyền tôi. Ngay sau khi Bêra đến Ađana, nàng đã chài được hắn. Nàng sẽ lừa hắn trèo lên tắc xi do ông lái. Rờ mọt của tôi chạy trước, ông sẽ theo sau. Khi nào rờ mọt đậu lại, ông sẽ đánh cho Bêra mê man. Sau đó, ông để mặc Bêra cho chúng tôi xử trí.
Rờ mọt đã vào đến trung tâm thị trấn. Ađana là một thành phố gần 300.000 dân, đa số là tín đồ Hồi giáo. Làn gió cách mạng sau thế chiến đã canh tân nếp sống của người Thổ nên thỉnh thoảng tôi mới gặp đàn bà che mạng. Dáng đi của họ mềm mại và hút cuốn như dạo nào tôi dừng chân ở Ađana. Tôi đinh ninh được lưu lại một đêm hoặc ít ra vài ba giờ để hẹn hò với phái yếu bản xứ mà tôi vẫn có cảm tình thắm thiết. Tôi không ngờ bà Côrin lại bắt tôi đi ngay.
Rờ mọt đậu lại. Bà Côrin kéo riềm che phía sau chỉ chiếc tắc xi Rờnô 4 ngựa ngoan ngoãn nằm sát lề dưới bóng cây um tùm. Ánh đèn của tiệm ăn chỉ chiếu ra đến nửa vỉa hè, bóng cây và xe tắc xi chìm trong cảnh nửa tối, nửa sáng. Bà Côrin nói:
-Ông cứ hoạt động tự do, cảnh sát Thổ ít khi quan tâm đến ngoại kiều. Tôi sẽ theo dõi việc ông làm tại Mạc tư Khoa qua trung gian của Kira. Và tôi chờ ông ở Tây Bá Linh.
-Nếu tôi còn sống…
-Tôi không nói dối ông và ông cũng đã biết rằng công tác này rất nguy hiểm. Đi đã khó mà về còn khó hơn nữa. Nếu không khó lắm thì có lẽ chúng tôi không nhờ đến ông. Vì vậy, ông nên lấy làm hãnh diện, không những hãnh diện cho riêng ông mà còn hãnh diện cả cho nước ông nữa. Chúng tôi đã bàn luận kỹ càng và mang cho óc điện tử IBM tính toán. Căn cứ vào thành tích của ông từ trước đến nay, máy IBM đã kết luận cho phép tính sác xuất 3 rằng ông có 80% hy vọng trở về. Phàm trong nghề này, nhiều khi hy vọng chỉ có 5 hoặc 10% mà người ta còn làm, huống hồ ông có những 80%.
Tôi bước xuống đường. Rờ mọt chạy thêm một quãng nữa rồi tạt vào lề. Cửa tắc xi không đóng, tôi ung dung trèo lên, chìa khóa công tắc đã treo tòng teng ở đề-ma-rơ. Ngồi sau vô lăng tôi quan sát tiệm ăn. Bảng hiệu chữ Árập ngòng ngoèo như con giun, tôi phải đọc hồi lâu mới hiểu được nghĩa. Tên tiệm ăn này là ‘’pátima‘’, trong tiếng Thổ nghĩa là ‘’thịt bò tẩm ớt đỏ và phơi khô‘’. Thịt bò pátima khá ngon, có lẽ còn ngon hơn thịt bò khô của các chú con Trời ở Sàigòn nữa.
Tôi rệu nước miếng vì mùi thịt nướng thơm phức. Dân Thổ chuyên ăn thịt cừu. Thịt cừu nấu nước có vị gây gây nhưng thịt cừu nướng chả thì ngon tuyệt. Cái ngon của nó ngang với cái ngon của ‘’nai đồng quê‘’ mặc dầu khi ăn vào miệng nó tiết ra một vị khác. Tôi ngửi được mùi thịt cừu nướng với cà tím, hành tây và cà chua nên đoán là món chả unkar bevendi. Cà tím, hành tây, cà chua, rau thơm, tất cả đều chiên vàng ngậy, nghiền nát ra nước, lấy thịt cừu cắt từng miếng nhúng vào nước này rồi đem xóc thành gắp dài, cứ một miếng thịt lại xen vào một miếng mỡ đuôi con cừu. Nướng thịt trên lò than đỏ, mỡ cháy xèo xèo, với bình rượu một bên thì ăn xuốt đêm cũng không no. Nếu ăn unkar bevendi, nhắm với rượu raki của Thổ xong rồi tìm một tổ ấm nào để tình tự thì trên đời này không còn thú nào hơn nữa.
Tôi bừng tỉnh mộng. Vì Bêra vừa xô cửa tiệm ăn khệnh khạng bước ra.
Lẽ ra tôi phải quan sát Bêra trước tiên, vì hắn là người tôi có bổn phận triệt hạ để thay thế. Vậy mà cặp mắt của tôi lại dán chặt vào bóng người mảnh mai cặp kè bên hắn. Bà Côrin đáng là lãnh tụ gián điệp mà tôi tôn kính nhất đời. Lúc ấy, tôi còn quý bà Côrin hơn cả ông Hoàng nữa. Nhờ bà tôi mới có cơ hội làm quen một số giai nhân sinh sống bên triền núi Hy mã lạp sơn.
Kira là người Ấn. Cô gái cùng đi với Bêra cũng là người Ấn. Nàng giống Kira như tạc. Thoạt nhìn, tôi suýt lầm nàng là Kira. Nhưng nhìn kỹ, tôi thấy nàng có vẻ trẻ hơn Kira, thân thể không cân đối và nảy nở bằng thân thể Kira, mắt mũi miệng cũng không đều đặn và quyến rũ bằng mắt mũi miệng của Kira. Có lẽ nàng là em gái ruột của Kira.
Gã đàn ông có vẻ say nên phải vịn vào vai nàng. Mặt hắn đỏ như tô phẩm tường. Hắn khá đẹp trai, nhưng cặp mắt và cái miệng lại có vẻ điếm đàng và dâm dật. Bà Côrin nói rằng tôi giống hắn 50 phần trăm, nhưng sau khi quan sát hắn tôi nhận thấy chỉ giống độ 20 phần trăm là cùng. Môi hắn mỏng hơn môi tôi nhiều, loại môi ‘’đi nói dối cha, về nói dối chú‘’, răng hắn lại thưa mà răng thưa là người ‘’ăn không nói có‘’.
Về lối đi đứng tôi cũng không giống Bêra chút nào. Hắn có tướng đi của con lật đật, đầu luôn luôn chúi về phía trước, hai cánh tay đưa lên đưa xuống như đánh võng. Tôi có cảm tưởng là bà Côrin không thành thật.
Gã đàn ông ra đến nửa vỉa hè thì dừng lại, giọng lè nhè (lè nhè để vòi vĩnh hơn là lè nhè vì say):
-Tắc xi đâu?
Cô gái chỉ cái xe Rờnô 4 ngựa:
-Đây.
Bêra cười hô hố:
-Có đúng là tắc xi không đấy?
Cô gái cười lại, hàm răng đều và nhỏ hiện rõ giữa cặp môi đỏ chót hình trái tim cong:
-Anh say quá!
Hắn bóp bàn tay nàng:
-Mới uống nửa chai, anh say thế nào được?
Tôi mở cửa sau, chờ đợi. Cô gái dìu Bêra vào trước. Qua bóng tối, nàng thoáng nhìn tôi. Mắt nàng đẹp và sáng như mắt Kira. Lòng tôi xao xuyến lạ thường. Dưới ánh đèn táp lô, tôi nhận thấy diện mạo nàng có vẻ bình thản. Điều này chứng tỏ nàng không còn là tay mơ trong nghề gián điệp.
Bêra lại lè nhè:
-Đi đâu?
Cô gái đáp:
-Ra ngoại ô một lát cho giã rượu.
-Đã đến giờ rồi, anh phải về khách sạn.
-Còn sớm. Còn những 20 phút nữa.
Bêra gieo mình xuống nệm xe:
-Ừ, đi đâu cũng được. Miễn hồ em đừng lái anh xuống âm phủ.
Cô gái cười nửa miệng. Tôi bắt gặp cái cười chết chóc của nàng trong kính chiếu hậu. Nàng biết là tôi đang nhìn nàng trên gương. Không biết nàng dành nụ cười kỳ bí ấy cho ai. Cho Bêra hay cho tôi? Nếu không có Bêra tôi đã ôm nàng, hôn vũ bão vào miệng, vào mắt nàng.
Tôi xả ga xăng, lái theo chiếc rờ mọt. Tôi không phải chờ đợi lâu vì chỉ 5 phút sau rờ mọt quẹo sang bên trái rồi đậu lại. Tôi cũng tốp lại theo. Tắc xi của tôi cách rờ mọt độ 10 thước.
Thấy tắc xi đậu lại, Bêra chồm dậy:
-Ô kìa, tại sao không đi nữa?
Lẽ ra tôi bắt hắn câm họng ngay từ khi mở miệng. Nhưng vì bản tính lịch sự, tôi không muốn có thái độ thô bạo này. Bản tính lịch sự trước mặt phái yếu là sở đoản của tôi. Bêra vừa dứt lời tôi quạt atémi vào yết hầu hắn. Hắn ngã gục xuống, không kịp rên lên một tiếng. Cô gái đặt bàn tay nõn nà lên vai tôi:
-Chúa ơi, anh đánh atémi ngon quá!
Phát atémi của tôi ngon sao bằng bộ ngực núng nẩy và đôi môi cong cong thơm ngát của nàng. Khi ấy, tôi quên cả bà Côrin, quên cả thời khắc, quên cả công việc tại Mạc tư Khoa. Tôi chỉ nghĩ đến tình yêu. Trước mắt tôi chỉ có cái miệng chúm chím và đôi gò bồng đảo phập phồng là trung tâm điểm vũ trụ. Không suy nghĩ, không rụt rè, tôi kéo nàng vào sát người. Tôi ngồi băng trước, nàng ngồi băng sau, xe tắc xi Rờnô lại chật chội nên nàng phải chồm lên mới lọt được vào vòng tay tôi. Tội nghiệp cho Bêra, gót giầy bằng nhôm nhọn hoắt của nàng đã đạp lên ngực hắn. Trong cơn mê man tình ái, nàng lầm tưởng khối thịt bất tỉnh của hắn là cái thảm trái sàn nhà.
Bà Côrin mở cửa xe, và đập mạnh vào lưng tôi mấy cái tôi mới bừng tỉnh và buông nàng ra. Nàng còn tiếc rẻ hôn gỡ thêm cái nữa. Bà Côrin quát cô gái:
-Như vậy cũng chưa đủ ư?
Tôi cười:
-Thưa bà, hết đêm nay cũng vẫn chưa đủ.
Bà Côrin tỏ vẻ khó chịu:
-Nếu còn thời giờ, tôi chẳng hẹp hòi với ông. Nhưng vì xe đón Bêra sắp đến trước khách sạn. Ông là người đàn ông ham hố bậc nhất trên thế giới mà tôi được gặp.
Tôi tiếp tục cười ‘’ngoại giao‘’:
-Nhân viên của bà toàn là người đẹp. Tôi tiếc là không được hân hanh làm việc dưới quyền bà.
Bà Côrin đáp:
-Ông không nên tiếc. Vì tiếc là dại dột. Ông là tân khách, tôi mới đối xử dễ dãi, chừng nào ông làm việc dưới quyền tôi ông mới thấy tôi nghiêm khắc. Ông là người ham hố nhưng lại ham hố một cách khả ái. Dưới quyền tôi đã có một số thanh niên ham hố phũ phàng, ham hố liều lĩnh mà tôi còn chế ngự được dễ dàng, huống hồ là ông. Nói để ông biết, chúng tôi có đủ phương tiện trừng trị đàn ông ham hố sai nguyên tắc.
-Bà sẽ bắt giam? Hoặc ‘’dần’’ cho một trận thừa sống thiếu chết? Hoặc thải hồi?
-Đó là cách xử trí của những cơ quan điệp báo mang tự ti mặc cảm. Chúng tôi giải quyết nhẹ nhàng hơn. Vả lại, chúng tôi không thể bắt giam nam nhân viên về tội đào hoa với nữ nhân viên. Áp dụng võ thuật còn khó hơn vì nam nhân viên có bệnh đào hoa thường là võ sĩ nhu đạo thượng thặng. Thải hồi họ còn khó hơn nữa vì thải hồi họ rồi lấy ai mà làm… Cho nên chúng tôi phải nghĩ ra những phương tiện trừng trị khoa học. Ông biết loại súng bắn hơi ép hoặc súng lục phát ra tiếng kêu báo động của phụ nữ không? Chúng tôi thay đạn hơi ép bằng đạn hơi, một thứ đạn hơi đặc biệt. Nó chỉ làm nạn nhân tê liệt trong khoảnh khắc, đủ thời gian cho nữ nhân viên chạy trốn. Tác dụng của nó rất hiệu nghiệm, nó làm cho đàn ông nguội hết tình dục. Không những nguội ngay khi ấy mà còn nguội luôn 5, 7 tháng nữa… Nữ nhân viên của tôi đều được võ trang súng lục kiểu này. Chúng tôi đặt tên là súng phản dục. Ông nên coi chừng, đừng xớ rớ quá đáng đến nữ nhân viên tình báo liên bang Đức để rồi trở thành đàn ông bất lực.
Nghe bà Côrin nói, tôi toát bồ hôi. Giọng nói của bà vẫn lạnh như băng tuyết trên đỉnh núi Êvơrét:
-Mời ông lái xe về khách sạn. Ông lên phòng 128. Đúng giờ đã định, tài xế lên kêu ông.
Bà Côrin biến vào bóng đêm. Cô gái mảnh dẻ có khuôn mặt và thân mình bốc lửa như Kira đã xốc khối thịt cứng đơ của Bêra lên vai. Nàng bước đi thoăn thoắt như thể mang trên vai một con búp bê bằng lát-tích. Bồ hôi lạnh ở sau gáy tôi bỗng đông lại thành đá. Té người đẹp còn là võ sĩ tuyệt luân! Phải mất nhiều công phu tập luyện nàng mới có thể ung dung vác gã đàn ông nặng chình chịch trên vai như vậy. May mà hồi nãy nàng có cảm tình với tôi, chứ nếu nàng ghét tôi, nàng đã cho tôi một atémi rụng mất hàm răng.
Lát sau tôi đã về đến lữ quán Metropole.
Đêm bắt đầu khuya. Tầng dưới vắng tanh, lão thư ký già đội mũ fez, loại mũ tròn cụt đầu của người Árập, đang ngáy ro ro ở góc phòng, bên cạnh bàn giấy. Tôi thản nhiên trèo thang, lên phòng số 128.
Phòng số 128 của khách sạn Metropole tại Ađana cũng giống như mọi phòng của khách sạn bậc trung ở châu Á nghĩa là giường nệm đều sạch sẽ song thiếu vẻ ấm cúng cần thiết. Tôi mở cái va li, đặt trên bàn ra xem xét.
Bêra là kẻ khoái ăn diện nên áo quần của hắn thuộc hạng tốt, may tận Ba Lê. Đống cà vạt đều mang màu xẫm và to bản, nghĩa là cà vạt kiểu mới. Hắn theo đạo Hồi lẽ ra không hút thuốc và uống rượu, vậy mà trong va li tôi thấy một tút thuốc lá xì gà và một chai cỏ nhát do Pháp sản xuất.
Cặp da đựng giấy tờ của hắn được giấu dưới đáy va li. Khóa va li thuộc loại dễ mở, nhưng khóa cạt táp thuộc loại an toàn của Đức. Lại Đức. Cái gì cũng Đức. Tôi đâm ra sợ nước Đức. Tôi sợ động cơ xe hơi Đức vì nó chạy quanh năm suốt tháng không hề suy xuyển, và mỗi khi đuổi bắt trên xa lộ, xe hơi Đức thường chiếm phần thắng. Xe Porsche từng khét tiếng về bền bỉ và phóng nhanh. Hợp tác với bà Côrin, tôi lại sợ thêm vì tình báo Tây Đức đã chế tạo súng bắn đạn hơi … bất lực để trừng trị bọn đàn ông ham hố. Cái khóa cạt táp Đức này là một kỳ công an toàn. Nó trông giản dị, hiền lành nhưng 98% gian phi trên thế giới phải bó tay. Cũng may tôi lại ở trong số 2% còn lại này nên tôi chỉ đổ bồ hôi trong vòng 120 giây đồng hồ.
Giấy tờ đựng trong cặp được viết bằng nhiều thứ tiếng, Árập, Pháp và Nga. Tôi bỏ qua tài liệu tiếng Árập mà chỉ đọc tài liệu tiếng Pháp và tiếng Nga. Mấy phút sau tôi đã có thể biết rõ địa vị xã hội và ý định của Bêra.
Nghe tiếng giầy ngoài hành lang và tiếng gõ cửa, tôi lên tiếng:
-Ai?
Cửa được xô vào, một gã đàn ông Thổ đội mũ fez ló bộ mặt đen đủi qua khung cửa hé, chào tôi. Chẳng nói chẳng rằng tôi theo hắn ra hành lang. Hắn xách va li của Bêra, khom lưng vượt qua mặt tôi và rảo bước ra thang gác.
Tắc xi đón Bêra là một chiếc Cọt-ve khá rộng rãi. Tài xế đặt va li lên băng trước, đóng cửa sau lại cẩn thận trước khi mở máy. Hắn lái loanh quanh một hồi rồi phóng ra ngoại ô. Sau cùng hắn đưa tôi vào một phi trường nhỏ cách thị trấn chừng 15 cây số.
Tôi đoán là phi trường vì thấy một bãi xi măng lớn. Tài xế chạy thẳng ra giữa bãi, thắng lại, đoạn mở đèn báo hiệu. Thái độ của hắn có vẻ bí mật, tôi đã ngờ bà Côrin nên càng ngờ thêm. Nếu Bêra là thương gia quang minh chính đại, tại sao lại lần mò đến xó phi trường vắng vẻ này, tại sao phi cơ lại cất cánh ban đêm như phi cơ của bọn buôn lậu quốc tế?
Tôi thấy phía trước một chiếc máy bay cỡ nhỏ, tuy nhỏ nhưng cũng lớn bằng hai chiếc Cessna, loại phi cơ nhẹ được dùng làm phi cơ tắc xi.
Tài xế tiếp tục lái xe đến sát chiếc phi cơ nhẹ. Hắn trao va li cho viên hoa tiêu vừa từ phi cơ bước xuống. Rồi hắn nghiêng đầu chào tôi. Từ lúc gặp tôi trên lầu khách sạn đến khi từ biệt hắn không hề nói với tôi nửa lời. Khi chào tôi hắn cũng ngậm miệng như thể sợ há miệng sẽ bị gió độc thổi vào lục phủ ngũ tạng.
Gã hoa tiêu có vẻ nhanh nhẩu và nồng nhiệt hơn tên tài xế. Hắn bắt tay tôi rồi nói:
-Mời ông lên.
Tôi chỉ là hành khách duy nhất. Hắn cũng là nhân viên phi hành đoàn duy nhất.
Trong chớp mắt, động cơ phi cơ nổ đều và con chim sắt bé nhỏ cất cánh khỏi sân bê tông. Trong chớp mắt, những ánh điện cuối cùng của thị trấn Ađana chìm vào màn tối mù mịt.
Mảnh trăng cuối tháng hiện ra phía sau rặng núi trùng điệp. Đây là núi Côcadơ. Tôi không quan sát được vì phi cơ bay khá cao, bên dưới lại toàn là đồng ruộng và đồi núi xa lạ trước khi đến rặng Côcadơ. Lệ thường, tôi lên máy bay là ngủ. Không phải ngủ gà ngủ gật mà là ngủ hẳn hoi, ngủ thẳng một giấc dài. Nhưng lần này tôi lại không ngủ được. Tôi bỗng xốn xang ở bao tử và đau nhói ở màng tang như người mới đi phi cơ cánh quạt lần đầu trong đời.
Dọc đường tôi không hề nghe hoa tiêu liên lạc với các đài kiểm soát không lưu bên dưới. Hắn tắt máy vô tuyến, thay đổi hướng bay và độ cao luôn luôn. Đang bay thật cao hắn xà xuống thật thấp, như sắp đụng ngọn cây trong rừng. Có lúc hắn bay dọc theo sườn núi chỉ lệch tay lái một li là húc vào vách đá dựng đứng, cả tôi lẫn hắn đều theo máy bay lao xuống vực thẳm đen ngòm. Quan sát cách lái của hắn tôi biết hắn là phi công giỏi, và đây không phải lần thứ nhất hắn bay từ căn cứ Ađana vượt qua biên giới Sô viết.
Trước khi đến vùng trời Sô viết, phi cơ bay dọc biên giới Syri và Irắc. Biên giới thường là khu vực được canh phòng nghiêm mật. Súng cao xạ của Thổ nhĩ kỳ, Syri và Irắc ở nơi này không phải là súng bắn nước của trẻ con. Vậy mà chiếc phi cơ nhẹ vẫn lướt gió bình thản, cũng bình thản như phi cơ riêng của nhà triệu phú Mỹ chở chủ nhân về miền quê câu cá một đêm cuối tuần.
4 giờ đồng hồ sau khi cất cánh khỏi Adana, hoa tiêu mới mở máy liên lạc siêu tần số. Hắn nói chuyện với một số người dưới đất. Tuy hắn dùng thổ ngữ Nga tôi vẫn hiểu được lõm bõm. Đại để hắn xin đáp xuống.
Hắn quay sang phía tôi:
-Ông có khát không?
Tôi lắc đầu. Biết đâu hắn chẳng lợi dụng ly rượu làm quen để bỏ thuốc mê. Thấy tôi từ chối, hắn rút trong túi ra hộp xì gà Ha-van cỡ trung bình:
-Ông hút thuốc?
Tôi lại tiếp tục lắc đầu. Hắn ngó tôi bằng đôi mắt kinh ngạc pha lẫn thất vọng:
-Xin ông tha lỗi. Vậy mà người ta nói rằng ông theo đạo Hồi nhưng vẫn dùng rượu và thuốc lá.
Tôi cười thân mật:
-Tôi chỉ uống rượu và hút thuốc khi người khỏe khoắn. Phi cơ bị xóc nên tôi hơi mệt.
Hoa tiêu nhún vai:
-Đêm nay trời tốt, nếu trời xấu như mọi hôm thì ông còn mệt hơn nữa.
Qua ánh sáng táp lô mờ mờ, tôi chạm phải tia mắt sắc nư dao của hắn. Hắn là người Thổ nhưng người Thổ lai Nga. Giọng nói ấm áp và nhanh nhẩu của người Thổ vẫn không khỏa lấp được bản chất lạnh lùng và thận trọng của người Nga sống dưới chế độ cộng sản Sô viết từ hơn nửa thế kỷ.
Trời dần dần sáng. Phi cơ lượn vòng tròn rồi hạ xuống. Đây là một sân bay lớn thuộc Adétbêzan ở miền nam Liên sô.
Chiếc phi cơ nhẹ đáp xuống êm ru như được một người khổng lồ bế đặt trên tấm nệm bông dầy. Tôi không nghe tiếng bánh cao su chạm nền bê tông. Bay trên một đoạn đường dài từ nửa đêm đến sáng mà hoa tiêu vẫn khỏe khoắn, tươi tỉnh, nơi khóe mắt không vướng một hột ghèn, mớ tóc nửa dài nửa ngắn vẫn nằm ép ngoan ngoãn, không một sợi xõa xuống trán, cái trán khá cao chứng tỏ sự thông minh song lại có nhiều nếp răn bị đứt, có nghĩa là hắn sống cuộc đời ba chìm, bảy nổi, thành công đã nhiều mà thất bại cũng lắm.
Gã hoa tiêu cũng quay mặt lại nhìn tôi. Luồng mắt tôi chạm phải luồng mắt hắn. Tôi nheo mắt lại để giảm bớt cường độ của nhỡn tuyến vì tôi sợ hắn nghi ngờ song không kịp nữa, hắn đã đập nhẹ vào vai tôi:
-Nói thế này ông đừng giận nhé! Ông có đôi mắt sáng lạ lùng. Tôi là con nhà võ nên biết rằng nội công của ông rất thâm hậu.
Tôi cười xòa:
-Ông nói đúng mà không đúng. Đúng vì tôi có học võ, thỉnh thoảng cũng mang găng tay nhảy lên đài, đấm đá cho đỡ buồn. Nhưng không đúng vì từ ngày học võ đến giờ tôi chưa thắng được trận nào nên thân.
Gã hoa tiêu nín lặng. Thái độ câm lì của hắn khi ấy làm tôi lo sợ. Có lẽ hắn đã khám phá ra anh chàng Libăng theo đạo Hồi không có cốt cách của nhà buôn.
Tuy nhiên, tôi không còn cách nào khác đối phó được nữa. Nếu phi cơ đang bay, tôi có thể giết gã hoa tiêu, đoạt tay lái để quay về căn cứ Ađana. Nhưng tôi đã đến hang hùm. Thượng sách là tiếp tục lao đầu vào, phó thác cho thần may rủi và cho tổ chức khoa học của tình báo Tây Đức và Hoa Kỳ.
Gã hoa tiêu nhảy xuống trước. Hắn đứng dưới cánh phi cơ, thân mật chào tôi và nói:
-Hy vọng sẽ được chở ông về Ađana.
Tôi bèn hỏi:
-Ông chờ tôi ở đây hay bay trở về bên ấy?
Hắn đáp:
-Không, tôi chờ lấy xăng nhớt rồi bay về ngay. Tôi cũng không biết là bao giờ ông về và tôi có được đón ông nữa hay không.
Cách chỗ tôi gần trăm thước đã có một phi cơ phản lực nằm chềnh ềnh trên phi đạo láng bóng. Loại phản lực cơ trung bình này được dùng trong hệ thống nội địa nên bay chậm và kém tiện nghi. Một người đàn ông mặc thường phục tiến tới, trò truyện với gã hoa tiêu rồi mời tôi trèo lên phản lực cơ.
Trên đó hành khách đã ngồi sẵn. Họ đã buộc dây lưng ghế, có lẽ chỉ chờ tôi nữa là phi cơ cất cánh. Tôi thản nhiên ngồi xuống cái ghế trống ở phía trước, sát cửa phòng phi hành. Khi lên phi cơ, tôi nhìn thẳng, không chào hỏi ai cũng không liếc mắt hai bên. Qua đuôi mắt, tôi biết rằng trong đám hành khách có mấy người đàn bà còn trẻ, phục sức sang trọng. Lệ thường, tôi đã dừng lại tặng mỗi người một nụ cười. Nhưng tôi không làm gì hết. Tôi đang nghĩ đến Kira. Nghĩ đến Lôlô. Nghĩ đến hang hùm Mạc tư Khoa...
Chú thích:
1 xin đọc Bóng ma trên Công trường Đỏ.
2 xin đọc Cạm bẫy trên giòng Chao Phya.
3 tức là calcul des probabilités.