Love is like a glass door… sometimes you don’t see it, and it smacks you right in your face.

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Walden
Dịch giả: Hiếu Tân
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 32
Cập nhật: 2023-06-22 21:34:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
4.Những Âm Thanh
hưng chừng nào chúng ta còn tự hạn chế trong việc đọc sách, dù là sách cổ điển và chọn lọc, nếu chỉ đọc trong những ngôn ngữ viết mà bản thân chúng là những phương ngữ quê mùa, chúng ta có nguy cơ quên mất thứ ngôn ngữ mà mọi sự vật và sự kiện nói-không-ẩn-dụ, chỉ riêng nó đã thừa phong phú và hiệu quả. Công bố thì ầm ĩ, nhưng ít được in ra. Ai còn nhớ đến những tia sáng lọt qua khe cửa chớp khi cửa chớp đã được mở toang ra? Không phương pháp khoa học nào có thể thay cho sự cần thiết thường xuyên chăm chú nhìn. Một khóa học lịch sử, hay triết học, hay thơ ca, dù được chọn lọc tốt đến mấy, hay là xã hội tốt nhất, hay một tập tục đáng ngưỡng mộ của cuộc sống, không thể sánh với cái khả năng biết luôn luôn chăm chú nhìn mọi thứ mà cuộc sống bày ra trước mắt chúng ta. Bạn muốn sẽ là gì: sẽ chỉ đọc sách, tức là độc giả, hay chỉ là sinh viên, hay là một nhà tiên tri? Hãy đọc số phận của bạn, biết những gì đang ở trước mắt bạn, và bước vào tương lai.
Tôi không đọc sách trong mùa hè đầu tiên; tôi chăm bón đậu. Không, tôi thường làm tốt hơn thế. Có những lúc tôi không nỡ hi sinh cái rực rỡ của khoảnh khắc hiện tại cho bất kì công việc nào, chân tay hay trí óc. Tôi thích để một lề rộng [208] cho những trang đời tôi. Đôi khi, vào một buổi sáng mùa hè, sau khi tắm như thường lệ [209], tôi ngồi trên khung cửa dưới nắng từ sáng đến trưa, khoan khoái trọng trầm tư mặc tưởng, giữa những cây thông, cây mại châu và cây sơn, trong cảnh cô tịch và bằng lặng, trong khi những con chim hót xung quanh hoặc bay vụt qua nhà, cho đến khi mặt trời lặn xuống qua cửa kính hướng tây nhà tôi, hay tiếng ồn của những toa khách từ xa vọng lại, nhắc tôi thời gian đã trôi đi. Trong những giờ ấy tôi lớn lên như cây ngô [210] trong đêm, và chúng có lợi hơn bất kì công việc tay chân nào. Chúng không phải là những quãng thời gian bị trừ đi khỏi cuộc sống của tôi, mà ở trên, cao thời gian thường nhật của tôi. Tôi nhận ra ý nghĩa của thiền định và vô vi của người phương Đông. Phần lớn tôi không để ý thời gian trôi qua như thế nào. Mặt trời như thể chiếu sáng cho công việc của tôi; vừa mới buổi sáng đó, thì lùa, đã buổi tối rồi, mà chẳng làm được việc gì đáng nhớ. Thay vì hót như chim, tôi im lặng mỉm cười với niềm hạnh phúc thường hằng. Như con chim sẻ có tiếng láy rền của nó, tôi ngồi trên cây mại châu trước cửa, tôi có nụ cười lặng lẽ của tôi hay cố nén tiếng líu lo mà tôi nghe thấy từ trong tổ của tôi. Những ngày của tôi không phải là những ngày của tuần lễ, mang tên hiệu của bất cứ vị thần ngoại đạo nào [211], cũng không bị cắt ra thành những giờ và bị làm phiền bởi tiếng tích tắc của đồng hồ; vì tôi sống đơn giản như người Anhđiêng Puri [212], người ta nói về họ rằng "họ chỉ có một từ để chỉ ngày hôm qua, hôm nay, ngày mai, và họ phân biệt ý nghĩa khác nhau bằng cách chỉ ra đằng sau để nói hôm qua, chỉ ra trước để nói ngày mai, và chỉ lên trời để nói hôm nay". Đối với những đồng hương của tôi thì đấy đúng là một sự lười nhác, nhưng nếu chim và hoa thử tôi bằng chuẩn mực của chúng, thì chúng sẽ không thấy là tôi kém, không làm được. Một người đàn ông phải biết tìm cơ hội trong chính bản thân mình, thật thế. Trong thiên nhiên ngày trôi đi rất êm đềm, và chẳng ai có thể trách ai lười nhác.
Trong lối sống của tôi, ít nhất tôi có cái thuận lợi này, hơn hẳn những ai buộc phải ngó ra ngoài, ra xã hội và nhà hát để tìm thú tiêu khiển, vì bản thân cuộc sống của tôi đã là thú vui và không bao giờ ngừng đổi mới. Nó là một vở kịch nhiều màn, và không có hồi kết. Nếu quả thực chúng ta được sống thật, và điều hoà cuộc sống của chúng ta theo cách mới nhất và tốt nhất mà chúng ta đã biết, thì chúng ta không bao giờ biết buồn chán. Nếu bạn theo sát tài năng của bạn, thì nó sẽ không bao giờ bỏ qua không mở ra trước bạn quang cảnh tươi mới từng giờ. Công việc nhà là một tiêu khiển thú vị. Khi sàn nhà của tôi bẩn, tôi dậy sớm, đưa tất cả đồ đạc ra ngoài trời, bỏ trên bãi cỏ, giường và khung giường xếp thành một đống, xịt nước lên sàn, rải cát trắng lấy từ đầm lên, rồi dùng chổi cọ rửa cho sạch và trắng, và vào lúc dân làng ăn xong bữa sáng thì mặt trời buổi sáng đã hong khô trong nhà để tôi có thể dọn vào, và những suy ngẫm của tôi hầu như không hề đứt quãng. Thật thú vị khi thấy toàn bộ đồ đạc của nhà tôi phơi ra trên cỏ, làm thành một đống nhỏ giống như đống đồ của dân gypsy, và chiếc bàn ba chân của tôi, trên đó tôi vẫn để nguyên cả sách, bút, và mực, đứng giữa những cây thông và cây mại châu. Chúng có vẻ như vui mừng được ra đó, và như thể miễn cưỡng bị đưa vào lại. Đôi khi tôi định trải một tấm vải bạt và ngồi ở đó. Thật đáng ngắm xem mặt trời chiếu rọi trên những đồ vật này, và nghe gió thổi tự do qua chúng; phần lớn những đồ đạc quen thuộc nhìn ngoài trời thú vị hơn trong nhà nhiều. Một con chim đậu trên cành cây bên cạnh, dây thường xuân mọc dưới bàn, những dây mâm xôi leo quanh các chân bàn, quả thông, quả hạt dẻ, lá dâu tây rải xung quanh. Tôi ngắm nhìn như thể những hình dáng này sắp sửa được biến thành đồ đạc của chúng ta, thành những chiếc bàn, ghế, khung giường, bởi vì chúng đã có lần đứng giữa những đồ vật ấy.
Ngôi nhà của tôi ở trên một sườn đồi, ngay bên mép một khu rừng lớn, ở giữa một vạt rừng non gồm những cây thông cứng, những cây mại châu, cách đầm khoảng ba chục mét, có một con đường nhỏ dẫn xuống đó. Ở sân trước nhà tôi, mọc dâu tây, cây mâm xôi, dây thường xuân, cây thuốc John'wort, golden-rod [213], những khóm sồi và anh đào cát (Cerasus pumila), việt quất và lạc. Gần cuối tháng Năm, anh đào cát, tô điểm hai bên đường bằng những bông hoa thanh nhã trên một tán hình trụ quanh những thân ngắn của nó, cuối cùng vào mùa thu, những thân này trĩu nặng những trái anh đào to và đẹp, rụng xuống như mưa khắp mọi phía. Tôi nếm chúng vì muốn ca ngợi thiên nhiên, mặc dù chúng chẳng ngon. Cây sơn (Rhus glabra,) mọc um tùm bên nhà, vươn lên qua đoạn đường mà tôi đắp cao lên, cao đến năm sáu foot trong mùa đầu. Lá của nó rộng như lá cây vùng nhiệt đới, xẻ lông chim, trông thích mắt tuy hơi lạ. Những chồi to, nảy ra muộn màng vào mùa xuân từ những cành khô như chết, phát triển như nhờ có phép mầu thành những cành xanh mềm thanh nhã đường kính đến một inch; và đôi khi, tôi ngồi bên cửa sổ, chúng lớn lên một cách lơ đễnh đến thế và dồn sức nặng lên những mấu đốt yếu ớt của chúng, tôi nghe một cành tươi và mềm bỗng nhiên rơi xuống đất như một cái quạt, khi không hề có gió rung mà vẫn bị gãy do trọng lượng của chính nó. Vào tháng Tám, những đống lớn trái cây mọng mà khi còn là hoa đã hấp dẫn những bầy ong rừng, dần dần khoác lấy màu đỏ thẫm như nhung, và do trọng lượng của chúng lại oằn xuống làm gãy những cành cây dễ gãy.
Khi tôi ngồi bên cửa sổ buổi chiều hè ấy, những con diều hâu đang lượn vòng quanh khu đất trống của tôi; những con bồ câu bay nhanh thành từng đôi hoặc ba con ngang qua tầm mắt của tôi, hay liên tục đậu xuống những cành thông trắng sau nhà tôi, buông vào không trung một tiếng kêu; một con chim ó làm mặt nước phẳng như gương của đầm gợn sóng lăn tăn; một con chồn vizon lúi nhanh ra khỏi đầm lầy ngay trước cửa nhà tôi và vồ được một con ếch bên bờ, cây lách uốn cong dưới sức nặng của một con chim reed bunting [214] bay chuyền qua lại, trong nửa giờ cuối cùng tôi đã nghe tiếng rầm rầm của những toa tàu lúc lặng đi lúc nổi lên giống như tiếng vỗ cánh của một con gà rừng, chở khách từ Boston về nông thôn. Vì tôi không sống bên ngoài xã hội như thằng bé mà tôi nghe kể, bị đuổi đến nhà một nông dân ở bên phía đông thành phố, nhưng chẳng bao lâu đã bỏ trốn và về nhà, quần áo tả tơi và nhớ nha. Nó chưa bao giờ thấy một chỗ buồn tẻ hẻo lánh và hiu quạnh như thế này; người bỏ đi hết, ôi, thậm chí bạn không thể nghe thấy một tiếng còi! Tôi không tin bây giờ có một chỗ như thế ở Massachusetts.
"Đúng là làng ta đã trở thành tấm bia
Cho những đoàn tàu lao đến như tên bắn,
Và trên cánh đồng thanh bình của chúng ta.
Cái tên dịu dàng của nó là - Concord" [215].
Tuyến đường sắt Fitchburg chạm đầm năm trăm mét về hướng nam của nhà tôi. Tôi thường vào làng theo con đường nhỏ đắp cao, và liên hệ với xã hội bằng đường nối kết này. Những người trên những chuyến tàu hàng, những người đi hết chiều dài quãng đường, cúi chào tôi như chào một người quen cũ, họ thường xuyên đi ngang qua tôi và rõ ràng họ nghĩ tôi là một viên chức; ừ thì tôi làm nhân viên vậy. Tôi sẵn lòng làm một thợ sửa chữa đường ray tại một nơi nào đó trong quỹ đạo của trái đất.
Tiếng còi từ đầu máy xuyên qua những khu rừng của tôi cả mùa hè lẫn mùa đông, rít lên như tiếng kêu của một con diều hâu đang chao liệng trên sân nhà người nông dân, báo cho tôi biết rằng nhiều thương gia đô thị chộn rộn đang đến thành phố hay những nhà buôn nông thôn ưa mạo hiểm đến từ phía khác. Khi họ chạm trán nhau, họ thét lên đòi người khác nhường đường, đôi khi nghe thấy tiếng thét ấy ở cả hai thành phố. Chúng tôi đã đến đây, những người bán hàng tạp phẩm cho vùng nông thôn của bạn; những người mang đến khẩu phần cho các bạn, hỡi các bạn nông dân! Chẳng có người nào trong trại của mình đủ tự túc đến mức có thể nói không với họ. Và đấy, bạn trả cho họ. Huýt lên tiếng còi của người nông thôn, cây gỗ dài như cây đòn phá thành ngày xưa lao hai mươi dặm một giờ vào tường thành, và những chiếc ghế đủ cho tất cả những ai mệt mỏi và gánh nặng [216] ngồi. Với phép lịch sự vượt bậc và ì ạch như thế, nông thôn đưa một chiếc ghế cho thành thị. Bông đưa lên, vải bông đưa xuống, lụa đưa lên, len đưa xuống, sách đưa lên, nhưng đưa xuống là nhà thông thái đã viết ra chúng.
Khi tôi gặp đầu máy với dãy toa chạy đi với vận tốc trần gian, - hay đúng hơn, giống như một sao chổi, vì người xem không biết với vận tốc ấy và hướng ấy nó có về thăm lại cái thế giới này không, vì quỹ đạo của nó dường như không có đường quay về, - với đám mây hơi nước của nó như một lá cờ phấp phới đằng sau trong vành hoa vàng và bạc, giống như những đám mây lô xô mà tôi đã thấy, cao tít trên trời, phơi mở thân mình của nó ra dưới nắng, - như thể vị á thánh du hành này, ông thần sấm này, chẳng bao lâu nữa sẽ lấy bầu trời hoàng hôn làm chế phục cho đoàn tùy tùng của mình; khi tôi nghe con chiến mã [217] sắt thép này làm cho các dãy đồi vọng lại như sấm rền tiếng thở phì phì của nó, làm cho mặt đất rung lên dưới vó của nó, và từ lỗ mũi của nó phì ra lửa và khói (Tôi không biết loại ngựa có cánh hay rồng lửa nào họ sẽ đưa vào thiên Huyền thoại mới này) tôi thấy như thể bây giờ trái đất đã có một loài vật mới xứng đáng cư trú trên nó. Nếu tất cả cái vẻ ngoài của nó là thật, thì những con người đã biến những nguyên tố [218] này thành đầy tớ của họ vì những mục đích cao quý. Nếu đám mây lơ lửng phía trên đầu máy là mồ hôi toát ra từ những kì công vĩ đại, hay ban phúc cho con người như những đám mây lơ lửng phía trên những cánh đồng của người nông dân, thì những yếu tố này và bản thân Thiên nhiên sẽ vui vẻ tháp tùng con người đến những mục đích của họ và làm đoàn hộ tống cho họ.
Tôi nhìn đoàn tàu buổi sáng đi qua với cùng cảm giác như khi nhìn mặt trời lên, mặt trời hiếm khi đều đặn như nó. Cái đuôi lê thê những đám khói như mây của nó còn trải dài phía sau và bốc lên cao, cao mãi, lên đến bầu trời trong khi đoàn tàu chạy về Boston, che mặt trời đi trong chốc lát và phủ bóng râm lên những cánh đồng của tôi, dải mây trên bầu trời mà so với nó đoàn tàu đang ôm lấy đất chỉ giống như cái ngạnh của ngọn giáo. Người chăn con chiến mã thép buổi sáng mùa đông này dậy sớm nhờ ánh sao giữa những dãy núi, mang cỏ cho nó ăn và đóng yên cương cho nó. Lửa cũng dậy sớm như vậy để đưa luồng nhiệt mãnh liệt vào cho nó và thúc nó lao đi. Giá như hoạt động mãnh liệt này sớm sủa thế nào thì cũng ngây thơ hiền lành như thế. Nếu tuyết sâu, người ta đóng những thanh gạt tuyết cho nó, và chiếc cày vĩ đại ấy cày một đường từ các ngọn núi đến tận bờ biển, với những toa tàu giống như những máy gieo hạt theo sau, đem rải những con người không ngơi nghi và những hàng hóa nổi trôi ra khắp đất nước như rải những hạt giống. Suốt ngày con vật thép lửa phóng như bay trên đất nước, chỉ dừng ở chỗ nào ông chủ của nó muốn nghỉ ngơi, và nửa đêm tôi bị đánh thức bởi tiếng thở phì phì đầy thách thức của nó, khi trong một thung lũng hẹp hoang vắng của rừng nó kéo theo một đoàn những yếu tố nguyên thủy [219] đã đóng thành những thùng băng và tuyết; và nó chỉ về đến chuồng của nó vào lúc sao mai mọc, để lại bắt đầu một lần nữa cuộc lãng du không ngơi nghỉ và không hề chợp mắt của nó. Đôi khi vào buổi tối, tôi nghe tiếng xì xì của nó xả ra những năng lượng thừa trong ngày, để nó làm nguôi dịu đi hệ thần kinh và làm mát lá gan và bộ não của nó để cho sắt thép ngủ vài giờ. Giá như cái khối rầm rộ này kéo dài và không biết mệt thế nào thì cũng quả cảm và oai phong như thế!
Xa xa xuyên qua những khu rừng hẻo lánh trên ranh giới của những thành phố làng mạc, noi chỉ một lần người thợ săn xâm nhập vào ban ngày, trong đêm tối trời nhất những toa khách sáng choang lao như tên bắn mà những cư dân của chúng không hề hay biết; lúc này dừng lại tại một nhà ga trong làng hay thành phố, nơi một đám đông đủ loại tụ tập, lúc sau lại dừng bên Dismal Swamp (Đầm lầy Buồn thảm), vì sợ cú và cáo. Bây giờ đi và đến của những đoàn tàu là những sự kiện trong ngày của làng. Chúng đi và đến, đều đặn và chính xác, và tiếng còi của chúng có thể nghe thấy từ rất xa, đến mức dân làng chỉnh lại đồng hồ của họ theo những tiếng còi ấy, và như vậy toàn bộ khu vực này tuân theo cái nhịp độ khắt khe ấy. Chẳng phải từ khi đường sắt được phát minh ra, con người đã trở nên đúng giờ giấc hơn nhiều đó sao? Chẳng phải trong ga xép họ nói và nghĩ nhanh hơn khi họ ở bưu điện đó sao? Trong không khí của những ga ấy có cái gì đó thật hào hứng. Tôi đã phải ngạc nhiên trước những điều kì diệu mà nó đã tạo ra, khi thấy những hàng xóm của tôi, những người mà tôi cam đoan chưa bao giờ đến Boston bằng một chuyến đi mau mắn như thế, lại sẵn sàng có mặt ngay khi chuông reo. Làm việc "theo cung cách đường sắt" bây giờ là câu cửa miệng; và việc thường xuyên và cương quyết nhắc nhở mọi người ra khỏi khu vực đường ray là điều cực kì hữu ích. Trong trường hợp này không có dừng lại để đọc sắc lệnh cấm tập trung gây rối loạn [220], không có bắn chỉ thiên trên đầu đám đông cuồng loạn. Chúng ta tự chuốc lấy một số phận, một Atropos [221] không bao giờ đi trật khỏi đường của mình. Bởi vậy, hãy lấy nó đặt tên cho đầu máy xe lửa. Người ta được thông báo rằng vào một giờ một phút nào đó, những mũi tên sẽ được bắn theo những hướng nào đó; nhưng không ảnh hưởng đến công việc của bất cứ ai, và trẻ con đến trường trên đường ray khác. Chúng ta sống vững vàng hơn vì nó. Tất cả chúng ta được giáo dục như vậy để thành những người con của Tell [222]. Không trung đầy những mũi tên vô hình. Mọi con đường trừ những con đường của riêng anh đều là đường đi của số phận. Vậy hãy nhớ đi đúng đường của anh.
Trong thương mại tôi học được tính táo bạo và tháo vát. Không chắp tay cầu khấn Jupiter. Tôi thấy những con người này hằng ngày lao vào công việc kinh doanh của họ với ít nhiều can đảm và hài lòng, làm nhiều hơn họ có thể ngờ, và có ích hơn họ có thể suy tính một cách có ý thức. Tôi ít ngưỡng mộ tính anh hùng của những con người đứng nửa giờ trên trận tiền ở Buena Vista [223], hơn là sự dũng cảm điềm tĩnh và vui vẻ của những người đứng trên thanh gạt tuyết ở đầu tàu suốt mùa đông giá buốt, không chỉ có lòng can đảm lúc ba giờ sáng mà Bonaparte [224] cho là hiếm hoi nhất, nhưng lòng can đảm của họ không rút về nghỉ ngơi sớm thế, những người chỉ đi ngủ khi cơn bão đã ngủ, hay cơ bắp con chiến mã thép của họ đã đông cứng lại. Có khi, trong buổi sáng có trận mưa tuyết lớn, máu người ta như đóng băng lại, tôi nghe xuyên qua màn tuyết mù mịt tiếng còi đầu máy như nghẹt thở, báo rằng đoàn tàu đang tới, không trễ lâu, mặc dù bị trận bão tuyết đông bắc New England cản trở, và tôi trông thấy những người thợ cày bị bọc trong băng tuyết, những cái đầu của họ nhô ra bên trên lưỡi cày đang lật những đám cúc dại và những ổ chuột đồng, phơi ra trong không gian, như những tảng đá mòn của Sierra Nevada.
Thương mại là tin cậy và trong sáng đến không ngờ, linh lợi, mạo hiểm và không biết mệt. Nó thật tự nhiên trong các phương pháp của nó, đồng thời tự nhiên hơn nhiều công cuộc và những thí nghiệm đa cảm, và vì thế những thành công phi thường của nó cũng là tự nhiên. Tôi cảm thấy sảng khoái và nở nang khi những đoàn tàu hàng rầm rập chạy qua, và tôi ngửi thấy những kho hàng tỏa những mùi thơm của chúng suốt từ bờ Long Wharf đến Hồ Champlain, nhắc tôi nhớ đến những phụ kiện nước ngoài, những vỉa san hô, và những đại dương miền Ấn Độ, những vùng nhiệt đới, và tầm rộng lớn của địa cầu. Tôi cảm thấy mình giống một công dân của thế giới trong cảnh tượng một tàu lá cọ mùa hè sẽ che những cái đầu [225] New England vàng hoe, sợi gai dầu và xơ dừa [226] Manila, thừng chão cũ, những bị cói, sắt vụn, và đinh gỉ. Cả một xe những buồm rách [227] bây giờ còn dễ đọc và thú vị hơn là khi chúng bị nghiền thành giấy và làm thành những quyển sách in. Ai có thể viết lịch sử những cơn bão đã xé chúng tơi bời sinh động hơn những vết rách nát kia? Chúng là những tờ in thử không cần sửa. Đã đến đây gỗ xẻ từ những khu rừng Maine, chúng không bị trận lũ cuối cùng quét ra biển, nâng lên bốn đô la một nghìn cây cho những cây đã đẵn hay được xẻ ra; thông, vân sam, tuyết tùng, hạng nhất, hạng nhì, hạng ba và hạng tư, mới đây tất cả còn đồng hạng, để làm chốn nương thân cho gấu, nai, tuần lộc. Rồi đến vôi Thomaston, một lô hạng nhất, sẽ đi thật xa giữa những quả đồi trước khi chúng được tôi. Những quần áo cũ, giẻ rách được đóng thành kiện, đủ mọi màu sắc và thứ hạng, tình trạng tồi tệ nhất mà vải bông và lanh rơi vào, tình trạng cuối cùng của quần áo, - những mẫu mã bây giờ không còn được ai khen ngợi nữa, trừ phi ở Milwaukie, khi những món đồ lộng lẫy ấy, vài hoa in, vải bông kẻ, vải mutxơlin Anh, Pháp, Mĩ, v.v., thu lượm từ mọi xó xỉnh của cả giới phong lưu lẫn nghèo túng, chuẩn bị để biến thành giấy chỉ một màu hay vài ba dạng, trên đó chắc chắn sẽ được viết những câu chuyện của đời thực, cao hay thấp, và dựa trên sự thật! Toa xe kín này bốc mùi cá muối, thứ mùi buôn bán mạnh mẽ của New England, nhắc tôi nhớ đến Grand Banks [228] và nghề cá. Ai mà cả đời chưa từng thấy cá muối, được ướp phơi sấy lỡ càng để không thứ gì làm ươn thối được nó, khiến cho các vị thánh kiên nhẫn cũng phải đỏ mặt? Nó cứng đến nỗi bạn có thể dùng nó quét hay lát đường phố, chẻ củi, và những người đánh xe tìm chỗ ẩn náu cho bản thân và hàng hóa của họ đằng sau nó, tránh mưa và nắng gió, - và một nhà buôn, như một nhà buôn Concord có lần đã làm, treo nó lên cửa làm biển hiệu khi anh ta mở cửa hàng, đến nỗi người khách hàng già dặn nhất của anh ta cũng không phân biệt nổi nó là động vật, thực vật hay khoáng vật nữa, tuy vậy nó vẫn thanh khiết như một bông tuyết, và khi cho vào nồi nấu lên, nó hiện nguyên hình là một con cá màu nâu thơm phức cho bữa ăn ngày thứ Bảy. Rồi đến những bộ da thú Tây Ban Nha, với những cái đuôi vẫn còn giữ nguyên dạng xoắn và vểnh lên của chúng khi con thú còn mang chúng lao vun vút trên những đồng cỏ của Tây Ban Nha, một kiểu bướng bỉnh chứng tỏ những thói tật thể chất vô phương chữa trị như thế nào. Tôi thú thật rằng, nói cho ngay, khi tôi đã biết rõ tính khí của một người, tôi không có hi vọng thay đổi nó cho tốt hơn hay xấu hơn, so với tình trạng hiện nay của nó. Người phương Đông nói "một cái đuôi chó có thể được sấy khô, được ép phẳng, được cuộn chặt lại và buộc bằng dây, rồi sau mười hai năm với mọi nỗ lực tác động lên nó, nó vẫn giữ nguyên hình dạng ban đầu". Cách trị duy nhất có hiệu quả đối với những cái đuôi để lâu năm như thế, là lấy keo dán chúng, mà tôi nghĩ đó là cách làm thông thường với chúng, thì sau đó chúng sẽ giữ nguyên và dính. Đây là hai trăm lít mật đường [229] hay rượu mạnh, gửi cho John Smith, Cuttingsville, Vermont, một nhà buôn vùng Green Mountains, ông ta đã nhập chỗ này để bán cho những nông dân lân cận trong khoảng rừng thưa của ông, và nay có lẽ đang đứng trong căn phòng của ông và nghĩ về chuyến hàng cuối cùng vừa đến bờ biển, nó có thể tác động đến giá cả của ông như thế nào, và bảo với khách hàng của ông lúc đó, như ông đã bảo họ hai mươi lần trước buổi sáng đó, rằng ông chờ đợi loại thượng hạng vào chuyến tàu sau. Điều này được quảng cáo trong tờ Cuttingsville Times.
Trong khi những thứ hàng này được đưa lên thì những thứ kia đưa xuống. Bị một âm thanh vèo vèo làm giật mình, tôi rời mắt khỏi cuốn sách đang đọc ngẩng đầu nhìn lên, và thấy một cây thông thanh mảnh, bị đốn từ những ngọn đồi xa phía bắc, đã bay vèo theo cách của nó trên Green Mountains và Connecticut, bắn như một mũi tên qua thị trấn trong vòng mười phút, và hiếm có con mắt nào nhìn thấy nó, khi nó còn chưa biến...
"...thành cột buồm
của một soái hạm vĩ đại" [230].
Và nghe này! Đến đây đoàn tàu chở trâu bò ngựa từ một ngàn quả đồi [231], những cũi nhốt cừu, những chuồng ngựa, những sân nuôi gia súc trên không, những người lùa gia súc với những cây gậy của họ, và lũ trẻ chăn cừu giữa bầy cừu của chúng, tất cả chỉ trừ những bãi cỏ, lao đi vun vút giống như những chiếc lá bị cơn gió mạnh tháng Chín thổi bay từ những ngọn núi. Không gian đầy những tiếng be be của bê và cừu, tiếng xô đẩy rầm rập của bò, như thể một thung lũng đầy cỏ tươi đang trôi qua bên cạnh. Khi con cừu già có đeo chuông [232] trên cổ rung chuông của nó lên, những quả núi thật sự nhảy lên như những con cừu đực, còn những quả đồi nhỏ giống lũ cừu con [233].
Cả một toa người chăn nữa, ở giữa, trên cùng một tầng với đàn súc vật của mình, bây giờ nghề nghiệp đã không còn cần nữa, nhưng vẫn bám lấy những cây gậy vô dụng của mình, như những phù hiệu cấp bậc vậy. Nhưng còn những con chó, chúng ở đâu? Chúng bị bỏ lại đột ngột, lạc bầy, hoàn toàn mất dấu. Tôi tưởng như nghe thấy tiếng chúng sủa sau những quả đồi Peterboro [234] hay thở hổn hển trên những sườn dốc phía tây của Green Mountains [235]. Chúng sẽ không phải chứng kiến cái chết. Năng khiếu của chúng cũng không còn cần thiết nữa. Sự khôn ngoan và lòng trung thành của chúng bây giờ mất hết giá trị. Chúng sẽ lẻn vào cũi của chúng một cách nhục nhã, hoặc chạy hoang hoặc tìm đến làm bạn với sói và cáo. Cuộc sống mục đồng của bạn trôi đi và biến mất như vậy đấy. Nhưng chuông đã reo, và tôi phải rời khỏi đường ray để đoàn tàu lao qua;
Với tôi đường sắt có nghĩa gì?
Tôi chưa bao giờ đi xem nó kết thúc ở đâu,
Nó lấp đầy một ít khoảng trống
Và làm những đụn mây cho những con chim én
Nó làm ngọn gió cuốn tung cát lên,
Và cho những bụi mâm xôi sinh trưởng [236].
Nhưng tôi đã băng qua nó như một con đường trong rừng cho xe bò đi. Tôi sẽ không để mắt tôi lồi ra, và tai tôi ù đặc vì khói và hơi nước và tiếng rít.
Bây giờ khi những toa tàu đã đi qua, và tất cả cái thế giới náo động cùng đi theo luôn với chúng, và những con cá dưới đầm không còn cảm thấy tiếng ầm ầm của chúng, thì tôi lại cảm thấy cô độc hơn bao giờ hết. Trong phần còn lại của buổi chiều dài dặc ấy, có lẽ những trầm tư của tôi chỉ bị gián đoạn bởi tiếng huyên náo mơ hồ của những chuyến xe ngựa từ đường cái xa xa vọng tới.
Đôi khi vào thứ Bảy, tôi nghe những tiếng chuông, từ Lincoln, Acton, Bedford, hay Concord, khi thuận gió, một giai điệu mơ hồ, ngọt ngào, và tự nhiên như nó vốn thế, xâm nhập một cách quý giá vào vùng hoang dã này. Ở một khoảng cách đủ để xuyên qua rừng, âm thanh này tạo thành một tiếng rung ngân nga, như thể những lá kim của thông ở phía chân trời đang vuốt những dây tơ của một cây đàn hạc. Toàn bộ âm thanh nghe từ khoảng cách lớn nhất có thể nghe được tạo ra một và cùng một hiệu quả, một tiếng rung của cây đàn lia vũ trụ, đúng như bầu không khí trung gian tạo cho một rặng núi ở xa một sắc xanh da trời làm khoan khoái con mắt chúng ta. Lần này đến với tôi một giai điệu mà không khí đã căng ra, nó ngược với mọi lá bản lá kim của rừng, mà âm thanh chúng tạo ra được các nguyên tố [237] đưa đi và điều hưởng và làm vang vọng qua các thung lũng. Trong mức độ nào đó, tiếng vọng ấy là một âm thanh nguyên sơ, có cái vẻ huyền diệu và mê hoặc của nó. Nó không phải chỉ là sự nhắc lại những gì đáng nhắc lại trong tiếng chuông, mà phần nào nó là giọng nói của rừng; vẫn là những lời những nốt tầm thường ấy được hát lên bởi một nữ thần rừng.
Buổi tối, tiếng rống từ xa của một con bò cái ở phía chân trời bên kia cánh rừng vọng đến ngọt ngào và êm ái, và lúc đầu tôi lầm với tiếng của những người hát rong mà đôi khi tôi được nghe họ hát, những người có thể đi lạc trên đồi và thung lũng; nhưng liền đó tôi không còn phải thất vọng một cách bực bội, khi nó kéo dài ra thành thứ âm nhạc rẻ tiền và tự nhiên của bò cái. Tôi không có ý châm biếm, mà chỉ biểu lộ sự cảm kích của tôi với những tiếng hát của tuổi trẻ, khi tôi tuyên bố tôi cảm thấy rõ ràng rằng nó giống âm nhạc của bò cái, và nói cho cùng chúng là sáng tạo của Tự nhiên.
Vào mùa hè, đều đặn cứ đến bảy rưỡi tối, sau khi chuyến tàu tối chạy qua, lũ chim đớp muỗi [238] đậu trên một gốc cây bên cửa nhà tôi, hoặc trên nóc nhà, cất giọng ca bài nguyện chiều của chúng trong nửa giờ. Chúng bắt đầu hót hầu như với sự chính xác của một chiếc đồng hồ, sớm muộn chỉ trong vòng năm phút so với giờ mặt trời lặn, mỗi buổi tối. Tôi đã có một cơ hội hiếm hoi được làm quen với những thói quen của chúng. Đôi khi cùng lúc tôi nghe bốn hoặc năm giọng ở những chỗ khác nhau trong rừng, ngẫu nhiên một giọng trầm hơn giọng khác, và gần tôi đến nỗi tôi có thể phân biệt tiếng cục cục sau mỗi nốt, mà thường nghe tiếng vo vo kì quặc ấy giống như tiếng con ruồi trong một mạng nhện, chỉ có điều to hơn. Đôi khi trong rừng một con lượn vòng mãi quanh tôi ở khoảng cách vài foot, như thể có dây buộc, khi tôi có lẽ ở gần những quả trứng của nó. Chúng hót cách quãng suốt đêm, và giọng hót trở nên du dương hơn bao giờ hết vào quãng gần rạng đông.
Khi những giống chim khác vẫn còn im ngủ thì loài cú mèo cất tiếng, giống như những người đàn bà đưa tang hú lên tiếng hú cổ xưa của họ. Tiếng gào buồn thảm của chúng thật có giọng Ben Jonson [239]. Những mụ phù thủy quỷ quyệt lúc nửa đêm [240]! Nó không phải là tiếng kêu tơ-huýt-tơ-hu [241] lương thiện và mờ đục của các nhà thơ, mà là, không nói đùa, một đoản khúc tha ma trầm thống, những lời an ủi lẫn nhau của những cặp tình nhân quyên sinh nhớ lại những nỗi đau đớn và những niềm hoan lạc của mối tình cao thượng trong những khu rừng địa ngục. Tuy nhiên tôi thích nghe tiếng than khóc của chúng, những câu trả lời sầu thảm của chúng, rung lên dọc mép rừng, đôi khi nhắc tôi nhớ đến âm nhạc và những con chim hót, như thể nó là khía cạnh tối tăm và đẫm lệ của âm nhạc, những nỗi ân hận và những tiếng thở dài được hát lên. Chúng là những linh hồn, những linh hồn thấp bé và những điềm báo u uất của những linh hồn sa đọa từng có hình dạng con người bước đi mộng du trên mặt đất và thực hiện những hành vi đen tối, nay chuộc tội của chúng bằng những bài thánh ca than vãn hay những bài điếu ca trong khung cảnh những tội lỗi mà chúng đã phạm. Chúng cho tôi một cảm giác mới về cái muôn màu muôn vẻ và những khả năng của tự nhiên vốn là nơi trú ngụ chung của chúng ta. Ôi-i-i-i tôi chưa bao giờ được sinh ra-a-a-a! [242]. Một con bên này đầm thở dài, và bay lượn tròn với sự bồn chồn thất vọng tới một chỗ đậu khác trên những cây sồi xám. Rồi - chưa bao giờ được sinh ra-a-a-a! Con khác lặp lại ở phía xa hơn với giọng run rẩy ngay thật, và ra-a-a-a! Một giọng thoảng đến từ khu rừng Lincoln xa xôi.
Tôi cũng được một con cú hát cho nghe khúc chiều tà. Nghe gần bạn có thể cho rằng đó là âm thanh buồn bã nhất trong Tự nhiên, như thể nó định dùng tiếng kêu này làm nguyên mẫu vĩnh cửu trong ca đoàn của nó cho tiếng của một con người khóc người chết, một di tích yếu ớt tội nghiệp của người chết, kẻ đã để lại đằng sau mọi hi vọng [243], và tru lên như một con vật, tuy bằng những tiếng nức nở của người, hoặc đi vào thung lũng tối tăm, làm cho khủng khiếp hơn bằng tiếng ùng ục - tôi thấy tôi bắt đầu với âm "u" khi tôi cố bắt chước nó - của một trí tuệ đã đạt tới giai đoạn mốc meo nhớp nhúa trong sự hành xác của tất cả những tư tưởng lành mạnh và can đảm. Chúng nhắc tôi nhớ đến tiếng tru của những con ma cà rồng, những thằng dở người và những thằng điên. Nhưng lúc này một con trả lời từ khu rừng xa bằng một giọng mà khoảng cách đã làm cho thật sự du dương, - hu hu hu, hu rơ hu; và quả thật phần lớn nó gợi lên những liên tưởng dễ chịu, dù được nghe vào ban ngày hay ban đêm, mùa hạ hay mùa đông.
Tôi vui mừng vì có những con cú. Cứ để chúng kêu những tiếng kêu ngu xuẩn hay điên rồ cho con người. Đó là một âm thanh thích hợp kì lạ với những khu rừng ngập nước và tranh tối tranh sáng, vốn không có ngày minh họa, gợi lên một thiên nhiên rộng lớn và chưa phát triển mà con người còn chưa nhận ra. Chúng biểu lộ cảnh nhá nhem ảm đạm và những ý tưởng không thoả mãn mà ai ai cũng có. Cả ngày mặt trời chiếu trên bề mặt của những đầm lầy hoang dại, nơi cây vân sam đứng đơn độc với những địa y bám trên nó, và những con diều hâu nhỏ lượn tròn bên trên, con chickadee [244] líu ríu giữa đám vạn niên thanh, gà gô và thỏ lẩn lút bên dưới; nhưng bây giờ một ngày buồn bã hơn đang ló rạng, và một giống vật khác đã thức giấc để biểu lộ ý nghĩa của Thiên nhiên ở đó.
Khuya, tôi nghe tiếng rầm rầm của những toa tàu qua cầu, một âm thanh ban đêm nghe xa vắng hơn các âm thanh khác, tiếng tru của những con chó, và đôi khi lại cả tiếng rống của những con bò cái buồn phiền từ một sân nuôi gia súc xa xa. Trong lúc đó cả vùng bờ đầm rộn lên tiếng ễnh ương, tinh thần ngoan cố của những gã nghiện và những tay bợm rượu lâu năm, không hề ăn năn, đang cố hát một một khúc hát âu sầu về dòng sông địa ngục [245] của họ - xin các nữ thần Walden tha thứ cho so sánh đường đột này, vì dù không có những đám tang ở đó vẫn có ếch nhái - họ sẽ hăm hở theo đúng những quy tắc vui nhộn của những bàn nhậu cũ, dù giọng họ đã khản đặc và rượu đã bay mất mùi, chỉ còn là thứ chất lỏng làm căng phồng bụng họ, và trạng thái say sưa dìu dịu không bao giờ chịu đến để dìm chết kí ức về quá khứ, mà chỉ có sự no nê, căng phồng và sũng nước. Người có cái bụng phệ nhất [246], cằm tì trên một nắm lá heart-leaf [247], dùng làm khăn ăn cho đôi má đầy nhớt dãi của lão, nốc một ngụm thật sâu thứ nước đã từng bị khinh bỉ ấy, rồi vừa chuyển quanh chén rượu vừa thốt lên tr-r-r-unc, tr-r- r-unc, tr-r-r-runc! Và ngay lập tức nước (rượu) từ một gã ngồi ở xa cùng mật khẩu ấy được nhắc lại, và người tiếp theo, theo thứ tự tuổi tác và vòng bụng, uống một hơi đến vạch dấu của mình; rồi khi đã xoay hết một vòng, thì ông chủ xị thốt lên thỏa mãn tr-r-r-unc! Và mỗi người đến lượt mình cùng nhắc lại câu đó cho đến cái bụng ít phệ nhất, và nhũn nhẽo nhất, không bao giờ sai lượt; rồi chén rượu lại được quay vòng quay vòng mãi, cho đến khi mặt trời xua tan sương buổi sáng, và chỉ có vị trưởng lão là không ở dưới gầm bàn, nhưng đang rống lên một cách vô hiệu trunc hết lần này đến lần khác, với những khoảng tạm ngưng để chờ có kẻ đáp lại.
Tôi không chắc có nghe tiếng gà gáy từ khoảng rừng thưa của tôi không, và tôi nghĩ củng đáng nuôi một con gà trống non chỉ để nghe nhạc của chú ta, như một con chim hót. Có lần một con gà lôi hoang chắc chắn là xuất sắc nhất trong số chim và nếu chúng có thể thích nghi với môi trường tự nhiên mà không cần nuôi thuần dưỡng, thì nó sẽ thành âm thanh nổi tiếng nhất trong những khu rừng của chúng tôi, vượt hẳn tiếng chói tai của ngỗng và tiếng rúc của con cú; và rồi hãy tưởng tượng tiếng cục tác của gà mái trong khi tiếng gáy oai vệ của chúa tể của chúng tạm ngưng! Không có gì ngạc nhiên sao con người lại bổ sung thứ chim này vào hàng ngũ các loài vật được thuần dưỡng, chưa nói gì đến trứng và đùi gà quay. Buổi sáng mùa đông đi bộ trong rừng nơi lúc nhúc những loại chim này, rừng là bản quán của chúng, và nghe một chú gà trống non hoang dại gáy trên cây, tiếng gáy trong veo và lảnh lót vang xa tới nhiều dặm của những vùng đất xung quanh, nhấn chìm những giọng yếu ớt hơn của các loài chim khác, thử nghĩ xem! Nó có thể đánh thức các dân tộc. Ai mà không muốn dậy sớm, rồi sớm hơn, sớm hơn nữa trong những ngày kế tiếp sau đó của cuộc đời mình, cho đến khi trở nên mạnh khỏe, khôn ngoan, giàu có khôn tả [248]? Giọng hót của con chim ngoại quốc này được các nhà thơ của tất cả các nước ca ngợi cùng với giọng hát của các ca sĩ đất nước họ. Mọi khí hậu đều hợp với gã Gà trống hào hoa. Gã thậm chí còn bản xứ hơn cả những người bản xứ. Sức lực của gã lúc nào cũng tráng kiện, những lá phổi của gã lành mạnh, tinh thần gã không bao giờ sa sút. Ngay cả những thủy thủ trên Đại Tây Dương và Thái Bình Dương cũng được đánh thức bằng tiếng gáy của gã; nhưng âm thanh chói tai của nó chưa bao giờ khuấy động giấc ngủ của tôi. Tôi không nuôi chó, mèo, bò, lợn, cũng không nuôi gà mái, do đó bạn có thể bảo tôi thiếu những âm thanh trong nhà; cũng không có thùng đánh sữa, guồng quay tơ, không có tiếng reo của ấm đun nước, cũng không có tiếng xì xì của bình trà, không có tiếng trẻ con khóc để mà dỗ nín. Một người đàn ông cổ lỗ chắc sẽ mất hết mọi cảm giác và chết vì buồn chán trước cảnh này. Thậm chí tôi không có chuột trong tường, vì chúng đã chết đói hết, hay có khi chúng chưa bao giờ được nhử vào, chỉ có những con sóc trên mái nhà hay dưới sàn, một con chim đớp muỗi trên nóc, một con chim giẻ cùi kêu inh ỏi dưới cửa sổ, một con thỏ rừng hay chuột chũi dưới nhà, một con cú rúc hay một con cú mèo đằng sau nhà, một bầy ngỗng trời hay một con chim lặn gavia trên đầm, và một con cáo kêu gào ban đêm. Không có cả một con chim chiền chiên hay vàng anh, những con chim dịu dàng trong vườn cây ấy, từng đến thăm tôi ở khu rừng thưa. Không có gà trống non để gáy, không có gà mái để cục tác trong sân. Không có sân! Nhưng Thiên nhiên không-rào-ngăn vào đến tận ngưỡng cửa nhà bạn. Một khu rừng non lớn lên dưới cửa sổ nhà bạn, những cây sơn dại và những dây mâm xôi leo đột nhập vào căn phòng của bạn, những cây thông nhựa pitch- pine do chật chội thân của chúng cọ vào những ván ốp kêu cót két, rễ của chúng đâm xuống bên dưới nhà. Khi có cơn gió mạnh, không phải chỉ có tấm rèn hay cái nắp cửa sổ bị thổi bay đi, mà một cây thông đằng sau nhà tôi dành làm củi đun bị bẻ bị gãy hay bật rễ. Chẳng phải chỉ không có lối ra cổng sân trước trong trận Bão tuyết Lớn, mà còn không có cả cổng, không sân trước, và không có đường tới thế giới văn minh!
Walden - Một Mình Sống Trong Rừng Walden - Một Mình Sống Trong Rừng - Henry David Thoreau Walden - Một Mình Sống Trong Rừng