Số lần đọc/download: 202 / 19
Cập nhật: 2020-01-25 21:22:13 +0700
Chương 4 - Cửa Đóng Cửa Mở
T
ấm biển Đảo Calypso lười biếng đu đưa trong làn gió nhẹ thổi vào từ cảng. Julia đẩy cửa để bước vào hiệu sách, nhưng nó đã bị khóa.
“Tiếc thật!” Julia thốt lên. Cô bé hy vọng hiệu sách mở cửa để được đặt tay lên cuốn Người lữ hành tò mò, cuốn sách hướng dẫn du lịch về Kilmore Cove và bên trong đó, mới ngày hôm trước, cô bé đã tìm thấy một tờ giấy có những ghi chép kỳ lạ. Ai đó muốn báo rằng đường ray của ngôi làng chẳng dẫn tới đâu cả và ở quảng trường có bức tượng của một vị vua chưa từng tồn tại... Hơn nữa, ông Nestor cũng đã khẳng định điều này là sự thật.
Julia áp mặt vào cửa kính để quan sát bên trong nhưng đột nhiên cô bé giật mình lùi lại. Julia có cảm giác ai đó đang nhìnmình từ phía bên kia cánh cửa. “Ngốc thật!” Cô bé tự nhủ ngay khi trấn tĩnh trở lại.
“Cô Calypso ơi?” Julia cất tiếng gọi.
Sau đó cô bé lùi ra xa, đứng dưới cái nắng chói chang. Bầu trời xanh được điểm xuyết vài đám mây. Tháp chuông nhà thờ ngân lên theo nhịp chậm rãi, khiến bầy chim tung cánh bay đi.
“Phải rồi!” Julia nhìn đồng hồ. Hiệu sách đúng ra vẫn còn mở cửa.
Cô bé cố gắng lần cuối, băng qua quảng trường và bước vào Bưu điện nằm ở phía bên kia. Đúng như cô bé hình dung, cô thủ thư đang bận rộn trong vai trò thứ hai của mình: người đưa thư. Với tấm vành lưỡi trai màu xanh lá cây trên trán, cô ngồi phía sau quầy bưu phẩm gửi bảo đảm.
“Chào cô Calypso!”
Cô ngẩng đầu khỏi những bức thư mang đầy dấu bưu điện.
“Cô gái trẻ nhà Covenant! Ta có thể giúp gì cho cháu nào?”
“Thực ra, cháu mong gặp được cô ở tiệm sách...”
Người phụ nữ chỉ tay vào những chiếc túi bằng vải bố thô ráp chất đống phía sau như đống gỗ sưởi.
“Cô rất tiếc, nhưng... thứ hai nào cô cũng ở đây.”
Cô nhìn chăm chú vào địa chỉ được viết trên một chiếc phong bì, sau khi quyết định rằng bức thư ấy có thể gửi đi cô ném nó vào một trong những tiếc túi sau lưng mình.
“Với những máy móc hiện đại đọc bưu phẩm bằng tia la-ze này, vẫn phải kiểm tra lại tất cả các địa chỉ. Nếu không những cái máy ngớ ngẩn này sẽ loại đi vô ích một đống thư từ... Ôi, công nghệ! Vài năm trước, cháu có thể viết một tấm bưu thiếp đề ‘Gửi thầy hiệu trưởng trường Kilmore Cove’, và nó vẫn đến tay thầy ấy bình thường. Bởi vì chính người đưa thư phải đọc địa chỉ. Còn bây giờ, nếu cháu không viết mã bưu chính và địa chỉ chính xác của người cháu muốn gửi thì nó sẽ không bao giờ đến được...”
“Mã bưu chính của Kilmore Cove là gì ạ?” Julia bỗng hỏi.
Cô Calypso nâng tấm lưỡi trai lên.
“Cháu thì cần gì mã bưu chính? Cháu đã ở Kilmore Cove rồi mà, còn ở đây đã có cô lo phân loại bưu phẩm. Mã bưu chính chỉ dành cho ai phải viết thư cho người ở Kilmore Cove... từ bên ngoài. Dẫu sao thì, nếu không nhầm,” cô Calypso đột ngột nói tiếp với giọng điệu hối hả. “Tiếng chuông báo hiệu buổi sáng làm việc tại bưu điện của cô đã hết.”
Cô thủ thư đứng dậy khỏi chiếc ghế đẩu, gần như hoàn toàn biến mất phía sau quầy và xuất hiện ở một cánh cửa gỗ nhỏ sau chốc lát.
“Cháu vừa bảo cháu cần một quyển sách phải không? Cháu đã đọc xong cuốn cô đưa chưa?”
“À... ừm...” Julia lắp bắp, thấy có lỗi vì đã lờ tịt việc đọc cuốn Đồi gió hú. “Thực ra cháu vẫn chưa đọc xong, nhưng...”
Cô Calypso đóng cánh cửa chớp của Bưu điện với một tiếng động chói tai.
“Vậy cô có thể giúp gì cho cháu nào?”
“Cô có nhớ lần cuối bọn cháu đến chỗ cô để gọi điện thoại không ạ?”
“Vì mới chỉ chiều qua và trí nhớ của cô vẫn hoạt động... nên có. Rồi sao nữa?”
Cô Calypso tra chiếc chìa khóa sáng choang và mỏng dính vào ổ khóa rồi xoay nó.
“Thế này ạ... Trong lúc đang gọi điện, có vẻ cháu đã nhìn thấy cuốn sách mà cháu rất quan tâm.”
“Có vẻ cháu đã thấy hay đã thực sự thấy?” Cô Calypso hỏi dồn, lấn cấn trước cánh cửa vẫn đang đóng kín.
“Cháu đã thấy nó.”
Trong vài giây, cả hai cô cháu đứng bất động bên ngoài hiệu sách. Từ bên trong phát ra một tiếng rầm, giống như tiếng một chồng sách rơi xuống sàn.
Cô Calypso tỏ vẻ không hề nhận ra.
“Cô có thể biết đó là cuốn sách nào để khỏi phải mất cả đêm ở đây không?”
“Nó dày khoảng chừng này và...”
Cô Calypso khúc khích cười.
“Đó hóa ra là điều đầu tiên người ta để ý tới một cuốn sách. Những thông tin như tiêu đề hay tên tác giả dường như chỉ là thứ yếu...”
“Người lữ hành tò mò ạ,” Julia thỏ thẻ. “Một cuốn hướng dẫn du lịch cũ về Kilmore Cove.”
Nếu lúc ấy có con ruồi nào vô tình bay ngang qua mắt của cô Calypso, nó hẳn sẽ bị cháy thành tro. Nhưng chỉ trong chốc lát, cô thủ thư nhỏ bé đã lấy lại ánh nhìn dịu dàng thường ngày của mình.
“Ý cháu là cuốn sách bỏ túi có gáy bằng nhung đỏ?”
“Vâng, là quyển đó ạ!”
“Ôi, tiếc quá! Có lẽ nó đã ở trong cửa hàng ít nhất hai mươi năm rồi, nhưng... ta đã bán nó tối hôm qua, ngay sau khi các cháu ghé qua!”
“Bán rồi ạ?”
“Ừ, cho một ông khách qua đường muốn biết có gì thú vị ở khu vực này. ‘Nếu ông muốn biết ngôi làng này có gì, hãy đi dạo quanh bến cảng với một cuốn sách hay’, ta đã trả lời như vậy. Nhưng ông ấy cứ nài nỉ mãi cho đến khi ta nhớ ra là còn giữ một cuốn sách hướng dẫn. Với những tấm hình đen trắng cũ kỹ, trông cuốn sách cũng chẳng bắt mắt lắm, nhưng ông ấy vẫn ưng nó. Thế là ông ấy đã mua nó.”
“Ông ấy trông như thế nào ạ?”
“Ta phải thừa nhận đó là một người đàn ông đẹp trai,” cô Calypso trả lời, khép hờ cánh cửa hiệu sách. “Ông ấy cao, thanh lịch và có tác phong hào hoa.”
Nhìn khe hở màu đen dẫn lối vào bên trong hiệu sách, Julia cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng.
Lẽ nào việc ai đó tìm thấy cuốn hướng dẫn sau hai mươi năm nằm trên giá sách chỉ đơn thuần là sự trùng hợp? Lại còn ngay sau khi chúng ghé qua? Người đàn ông thanh lịch đã mua nó có thể là ai? Và tại sao lại vào đúng lúc này?
Julia kiểm tra xem bốn chiếc chìa khóa của Cánh cửa Thời gian có còn trong túi không, và đột nhiên cô bé thấy chúng trở nên rất nặng. Cô bé lùi lại vài bước.
“Chúng ta có thể đặt mua một cuốn khác, nếu nhà xuất bản vẫn còn hoạt động...”
Nhưng lúc này Julia chỉ muốn rời xa chỗ đó. Cô bé tới chỗ chiếc xe đạp và lắp bắp.
“Không... không sao đâu, cô Calypso! Cô đừng lo. Chỉ là cháu tò mò thôi mà.”
Rồi cô bé lên xe đạp như bay về nhà.
Rick cũng phóng nhanh về nhà. Cậu chạy lên để chào mẹ, nhưng chỉ dừng lại một lát, rồi lại nhảy xuống bốn bậc thang một chạy nhanh ra khỏi nhà.
Khi ra đến đường cái, cậu bé ngước lên và bắt gặp ánh nhìn lo lắng mơ hồ của mẹ đang chào cậu từ sau khung cửa sổphòng bếp.
Rick vẫy tay và cẩn thận không để bà thấy vết xước trên cánh tay mình. Đó là kỷ niệm mà chiếc xe mô tô của Manfred để lại cho cậu, và cậu cũng đã trả thù hắn thật thích đáng. Sau đó Rich xem giờ trên đồng hồ đeo tay và hướng thẳng tới phía nhà thờ.
Nhà thờ Thánh Jacobs là một công trình cao và hẹp với mái dốc. Rick ngả chiếc xe đạp xuống đất, lưỡng lự không biết có nên bước vào hay không: trong sự im lặng huyền ảo của nhà thờ dường như có rất nhiều gai nhỏ nhọn hoắt vô hình đang buộc Rich nghĩ đến những điều mà cậu không hề muốn. Xua đi ký ức về đám tang của cha mình, cậu mở cửa nhà thờ.
“Ôi, cảm ơn con!” Cha Phoenix, cha xứ của làng thốt lên, trên tay ông đang cầm một chiếc gậy cong queo dài ngoằng, đầu dưới có buộc thêm giẻ lau. Như mọi khi, cha Phoenix rất thẳng thắn và vui tính. “Con tới để giúp ta một tay phải không Banner? Con xách giúp ta cái xô nhé?”
Cái xô ở đây là một thùng lớn chứa đầy nước pha xà phòng. Rick kéo nó ra bên ngoài cùng vị cha xứ đang vui vẻ giải thích cho cậu rằng cha muốn lau chỗ bùn mà trận mưa hai hôm trước để lại trên mặt tiền của nhà thờ.
“Vả lại, ta cũng nên làm việc này nhiều tháng trời rồi...” cha vừa nói vừa nhúng đầu gậy vào nước và nâng nó lên lau dọc mặt tiền.
Rick đứng quan sát đầy ngưỡng mộ: cha Phoenix luôn cống hiến tất cả những gì mình có và không bao giờ than phiền. Cha luôn tươi cười, biết cứng rắn vừa đủ, nói lời đúng đắn, hoặc luôn có thời gian cho một vài lời khuyên. Và cha thường đoán biết được mọi việc.
“Nói cho ta hết đi, cậu Banner trẻ tuổi,” cha gợi ý trong lúc đang nhón chân đưa cây gậy lên lần thứ năm. “Con cứ yên tâm, ở đây chỉ có con và ta. Mọi người đi ăn cả rồi.”
Rick nhìn quanh, sau đó cậu tiến lại gần lưng áo màu đen của vị cha xứ và thầm thì.
“Đó là về ông Moore ạ.”
Cha Phoenix chống cây gậy xuống đất, bóng của nó đổ dài trên quảng trường giống như một chiếc đồng hồ mặt trời.
“Ông Moore ư? Ông Moore thì có liên quan gì đến con?”
Rick kể cho cha về những người bạn mới và việc bán lại ngôi Biệt thự Argo. Vị cha xứ, hiển nhiên đã biết những việc đó, vẫn hài lòng lắng nghe về tình bạn mới của Rick. Cha vui vì làn gió của những con người mới đã thổi tới làng.
Nhưng cuối cùng, khi Rick đặt cho cha câu hỏi cậu vẫn luôn đau đáu, cha Phoenix suýt thì phì cười.
“Con muốn biết về lễ tang của ông ấy ư?”
“Vâng ạ.” Rick lí nhí trả lời vì đang cảm thấy rất bối rối. Cậu đã không hề chợp mắt, cứ nghĩ mãi về việc vợ chồng ông Moore không ai được chôn cất ở nghĩa trang Kilmore Cove. Và cậu nghĩ cả về những lời Jason nói, mấy ngày nay nó cứ nhắc đi nhắc lại rằng có lẽ người chủ cũ vẫn chưa chết, và ở Biệt thự Argo có ai đó đang ẩn náu...
Rick dốc bầu tâm sự về những điều cậu băn khoăn với cha Phoenix, còn cha rất chăm chú lắng nghe.
“Ta không có mặt lúc việc đó xảy ra,” cha giải thích sau khi Rick nói xong. “Gần như chẳng có ai ở làng dự lễ tang, trừ ông Nestor, Minaxo và cô Calypso.”
“Nhưng tại sao ông ấy không được chôn cất trong nghĩa trang của Kilmore Cove ạ?”
“Nếu là vì điều này thì cả ông bà bố mẹ và vợ của ông ấy cũng vậy.” Vị cha xứ trả lời.
Rick điếng người, quả là vậy thật. Thiếu cả tổ tiên của gia đình, những người có chân dung được treo dọc cầu thang và tên được vẽ trên cây phả hệ ở trần thư viện Biệt thự Argo.
“Lời giải thích rất đơn giản, nhà Moore không được chôn cất trong nghĩa trang bởi dòng họ lâu đời ấy có lăng mộ riêng trên đồi.”
“Lăng mộ? Nghĩa là sao ạ?”
“Đó là kiểu lăng mộ cũ của dòng họ, lối vào nằm ở Công viên Rùa. Đó chính là lý do không ai trong số họ được chôn ở nghĩa trang làng.”
“Vậy là họ được chôn cất... riêng ạ?”
“Cứ coi là như vậy đi, nếu con muốn.”
Rick dường như vẫn còn băn khoăn.
“Nhưng họ mất lúc bao nhiêu tuổi ạ? Và họ mất chính xác vào khi nào ạ, thưa cha?”
“Đừng hỏi một cha xứ già về những con số và ngày tháng, chàng trai,” cha Phoenix đùa. “Ta không phải là người thích hợp.”
“Thế ai là người thích hợp ạ?”
“Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ.” Cha xứ nghĩ một lúc rồi đáp lời.
Rick đã từng thấy Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ và cậu biết người đàn ông ấy được đặt biệt danh như vậy vì mọi người bảo chú dành cả ngày để gà gật bên những trang báo. Nhưng cậu chưa từng nói chuyện với chú Fred và không hay biết chú ấy làm việc ở đâu. Cậu hỏi cha Phoenix, và cha trả lời.
“Con thấy tòa nhà ở phía bên kia quảng trường chứ?”
Đó là một toà nhà nhỏ bằng đá, có một thảm cỏ xinh xắn nở hoa trước cửa.
“Có ạ.” Rick trả lời.
“Tốt lắm. Có một cánh cửa nhỏ bên hông trái tòa nhà, nó dẫn tới nơi mà ta gọi là văn phòng giấy vụn. Thực ra đó là văn phòng chứng sinh, chứng tử và hộ tịch của làng mình. Ở đó có tên và ngày tháng của tất những ai sinh ra và mất đi tại thành phố, những người đã kết hôn và những người không còn muốn biết đến điều đó. Nếu tới nhanh, có lẽ con vẫn gặp được Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ đang đọc tờ báo thể thao.”
“Và con phải hỏi gì chú ấy ạ?”
“Chú ấy là người lo liệu mọi giấy chứng nhận và giấy phép của thành phố.” Cha Phoenix nói tiếp. “Hãy nói với chú ấy rằng con cần giấy tờ của dòng họ Moore. Nếu chú ấy từ chối, con cứ nói rằng chính ta là người hỏi những giấy tờ đó. Có chúng trong tay, con sẽ tìm thấy những thông tin con đang đi tìm.”
Rick gật đầu, cậu cảm ơn cha Phoenix và đi tới cánh cửa cậu vừa được chỉ dẫn. Cậu bé đẩy nó và bước vào.
Vị cha xứ đứng im một lúc trước nhà thờ. Sau đó ông mỉm cười và tiếp tục công việc lau chùi đang dang dở với mặt tiền của nhà thờ.
“Này, anh bạn! Tôi có thể giúp gì cho anh không?” Người đàn ông ngồi trên chiếc xe bán tải màu xám kim loại bóng loáng hỏi khi tấp vào lề đường trong một màn bụi.
Có một phương tiện lạ lùng bị hỏng. Đó là chiếc Bọ Cát, loại ô tô hai chỗ không mui, khung xe lộ ra rõ mồn một, bánh xe to vĩ đại và động cơ nằm ngay sau chỗ ngồi. Nó kéo theo một toa vốn để chở ngựa hở mui, và giờ một chiếc xe mô tô thể thao đen và bóng bẩy đang chễm trệ ngự trên đó. Động cơ của chiếc xe kỳ cục đó nhả ra một cột hơi nước đáng sợ.
“Có vấn đề, phải không?”
“Đúng vậy!” Tài xế chiếc Bọ Cát đáp lại và nhìn chiếc xe đang nhả khói của mình đầy phiền muộn. Anh ta mặc một bộ quần áo yếm bằng vải bò và đi đôi ủng cao su giống của ngư dân. Nhưng trông anh ta chẳng có vẻ gì là một ngư dân... mà có khuôn mặt thật đáng e ngại với cặp kính râm quấn băng dính.
Ngược lại, người đàn ông lái chiếc xe bán tải lại khá điển trai trong bộ quần áo bằng vải nhung màu be, dáng người cao ráo, lịch lãm, đầu đội một chiếc mũ đi săn kiểu Scotland.
“Nguy cơ bị lún trên mấy con đường nhỏ này đấy. Xe mô tô đẹp quá, của anh à?”
“Không.” Tay xã hội đen đẩy kính lên và trả lời cộc lốc. Có thể thấy rõ gã đang bực mình, hay đúng hơn là giận dữ. Giọng nói của người lạ mặt kia quá thân thiện so với kiểu của gã.
“Tôi không muốn can dự vào việc của anh, nhưng... chiếc Bọ Cát này có vẻ không đủ khỏe để tải sau mình cái rơ-moóc kia.”
Gã kia khẽ làu bàu điều gì đó.
Người đội mũ Scotland lại nói tiếp, vẫn với vẻ thân thiện.
“Đấy là chưa tính đến cái mô tô ở phía sau cũng bị hư theo.”
“Tôi chẳng còn cách nào khác. Có kẻ đã chọc thủng lốp xe của tôi.”
“Ồ, tiếc thật!”
Tay xã hội đen có một cảm giác kỳ lạ rằng người đàn ông lạ mặt kia đã biết trước sự việc.
“Anh định làm gì?”
“Nhờ ai đó trong làng thay chúng.”
“Kilmore Cove ư? Thật tình cờ, tôi cũng đang đến đó. Anh có muốn đi nhờ không?”
Người đàn ông có vẻ mặt xã hội đen nghĩ ngợi một lúc. Gã cân nhắc giả thiết sẽ cho kẻ kia ăn vài quả đấm và đánh cắp luôn chiếc xe jeep bóng loáng của ông ta, nhưng rồi gã trả lời.
“Ông kéo giúp tôi đến cuối đoạn dốc. Đó là con dốc cuối rồi, sau đó tự tôi sẽ lo được mọi việc.”
“Chiếc Bọ Cát của anh có móc kéo chứ?”
“Chắc hẳn là có.”
“Được rồi, tôi sẽ lấy một cái dây và cho anh đi ké.”
“Cảm ơn ông.” Tay xã hội đen làu bàu.
“Chắc hẳn có chuyện rắc rối đã xảy ra với anh.” Người đàn ông đội mũ Scotland vẫn kiên trì nói, trước khi leo lên chiếc bán xe tải của mình.
“Ông không thể hình dung nổi đâu.” Manfred, gã tài xế của Oblivia Newton đáp lời và trở lại sau vô lăng chiếc Bọ Cát của hắn.