Số lần đọc/download: 168 / 18
Cập nhật: 2020-01-25 21:21:26 +0700
Chương 3 - Những Thợ Săn Bí Mật
R
ick ngả xe đạp của mình xuống mặt sỏi giống như một bệnh nhân cần phải phẫu thuật. Cậu bày khắp xung quanh một loạt những dụng cụ được Nestor cung cấp: tuốc-nơ-vít, búa, vít sáu cạnh và kìm.
“Ừmmm..., sau khi khám toàn diện cho bệnh nhân đặc biệt,” Rick phán. “Tệ hơn những gì mình nghĩ.”
“Nó hỏng nặng lắm à?” Julia hỏi.
Hai chị em nhà Covenant đứng bất lực hoàn toàn sau cậu bạn. Năng lực thực hành của Jason chấm dứt ở đó, những gì cậu đọc được trong những cuốn truyện tranh cũng dừng lại ở đó, trong khi Julia chưa từng lo lắng chăm chú quan sát chức năng hoạt động của một chiếc xe đạp đến như thế.
Rick cầm dây xích, thử lắp nó vào hộp số.
“Mình nghĩ là vậy: có lẽ mình cần một giờ, hoặc nhiều hơn thế.”
Jason gật đầu bí xị. Sự bế tắc đó đã làm thay đổi cơ bản chương trình của chúng...
“Bọn mình có thể giúp cậu không?”
“Bây giờ thì chưa. Nhưng lát nữa các cậu có thể giúp mình sửa những cái kia...,” Rick chỉ vào hai chiếc xe đạp cũ của ông bà Moore mà ông Nestor đưa cho chúng chiều hôm trước. “Những chiếc xe đó chỉ gặp vấn đề nhỏ với cái khung. Nhưng để nắn cho nó thẳng phải cần ít nhất ba người.”
Jason bắt đầu lục lọi các túi.
“Mình để tờ giấy ghi danh sách những việc cần làm ở đâu ấy nhỉ?”
Nó lộn trái hết túi này đến túi khác, nhưng mảnh giấy đã không cánh mà bay, cứ như ai đó đã lấy cắp nó. Julia nghĩ sẽ là khôn ngoan nếu không bình luận gì về nỗ lực đáng thương của cậu em trai khi cố nhớ lại đã để mẩu giấy ở đâu.
Nestor, đứng cách chúng không xa, dốc ngược xe cút kít đầy lá và cành cây khô thành đống rồi khó nhọc cúi xuống châm lửa.
Rick chọn cái tuốc-nơ-vít bốn cạnh và dùng nó để giữ cho sợi xích cố định trên bánh răng của hộp số.
“Như bố mình vẫn thường nói, khi không biết phải bắt đầu từ đâu, hãy bắt đầu từ chỗ mình muốn.”
Hộp số phát ra một tiếng kêu khủng khiếp, nhưng Rick không hề nao núng.
“Chúng mình hy vọng là bố cậu đã đúng...,” Jason lầm bầm.
Biệt thự Argo sừng sững phía trên chúng với những cánh cửa chớp mở tung và những căn phòng đầy ắp đủ loại đồ đạc.
“Trong khi cậu xử lý những chiếc xe đạp, Julia và mình có thể đi khám phá những căn phòng của ngôi nhà mà bọn mình vẫn chưa kịp xem.”
“Còn xe đạp?” Rick càu nhàu. “Phải nói rõ là mình sẽ sửa cái của mình, còn hai cậu sẽ giúp mình sửa những cái còn lại!”
“Chính xác,” Jason đồng tình. “Trong lúc đó bọn mình sẽ lục từng phòng một để xem có tìm thêm được manh mối nào khác có ích cho chúng ta không. Đi thôi chứ, chị gái?”
Julia chẳng muốn quay trở vào trong lắm. Cô bé vẫn còn run rẩy khi nghĩ tới người đàn ông mà cô tin là đã nhìn thấy, đang đứng tựa người bên cửa sổ ở phòng áp mái. Lần đầu tiên kể từ khi đến Kilmore Cove, ý nghĩ đi khám phá ngôi nhà làm cô hoảng sợ.
Julia định trả lời rằng thích ở lại giúp Rick hơn, nhưng sau đó cô buộc mình phải thừa nhận: chính Jason mới là đứa khùng, đứa đọc truyện tranh và nhìn thấy ma sau mỗi cánh cửa. Trên thực tế, cô tự nhủ, mình không nhìn thấy ai cả. Cửa sổ phòng áp mái ở tít trên cao, nên chỉ cần một cái bóng, một trò đùa của ánh sáng, một tia nắng chói chang cũng đủ để khiến nhầm tưởng rằng có ai đó sau cánh cửa đang rình rập chúng.
“Vấn đề là hắn đội mũ,” Julia nhớ lại và thốt lên thành tiếng.
“Ai đội mũ cơ?” Jason hỏi.
“Các cậu chuyển cho mình cây vít sáu cạnh số năm được không?” Rick lý nhí hỏi, hai bàn tay cậu nhóc dính đầy dầu.
Hai chị em sinh đôi đi vào bếp, rồi từ đó chúng vào phòng ăn. Jason vén những tấm rèm hoa lên và nhìn những bức tranh treo trên tường. Đó là bốn bản in từ thế kỷ 19 mô phỏng những cảnh trong cuốn Kinh Cựu ước. Nó mở một cái lò sưởi cũ: trống trơn. Trong ngăn kéo của chiếc tủ duy nhất cũng chỉ có mỗi khăn trải bàn và khăn ăn.
“Em thấy ở đây chẳng có thứ gì bí mật.”
Julia vặn lại.
“Chúng ta đang tìm kiếm điều gì bí mật ư?”
“Hiển nhiên rồi.”
Jason cũng sục sạo tìm kiếm ở phòng khách liền kề. Nó chui hẳn vào bên trong lò sưởi, xê dịch mấy chồng sách và tìm kiếm bên dưới bức tượng một chú chó đua màu đen như mực. Cuối cùng cậu nhóc miễn cưỡng quyết định rằng trong căn phòng đó chẳng có gì bí mật.
Julia hỏi lại lần thứ hai:
“Theo em chúng ta phải tìm thứ gì?”
“Một chi tiết mà chúng ta đã bỏ sót,” Jason ngẫm nghĩ. “Có gì đó không ổn. Có gì đó không khớp. Một bằng chứng giúp chúng ta hiểu thêm về những hành trình của ông chủ cũ, về cánh cửa và vai trò của Oblivia trong tất cả chuyện này.”
Trong lúc cùng lục soát phòng ăn thứ hai rồi phòng điện thoại, Julia tua lại tất cả những gì ông Nestor kể cho cô bé về những chuyến đi của ngài Ulysses Moore và vợ.
“Ông ấy nói rằng ông bà Moore đã mắc sai lầm trầm trọng khi mời Oblivia Newton đến nhà. Nhưng chị không nghĩ ông ấy biết gì hơn thế.”
Chúng vào căn phòng bằng đá và dừng lại trước Cánh cửa Thời gian.
“Nếu em tìm kiếm một bí mật, chắc chắn nó sẽ ở đây,” Julia nói, cố kìm một cơn rùng mình.
Jason cúi xuống bốc một nắm cát rồi xòe tay để chúng lọt xuống qua kẽ ngón tay.
“Những hạt cát này chứng tỏ rằng chúng ta không hề điên rồ...,” cậu thầm thì.
Rồi quay sang phía chị gái, cậu nói:
“Chị có mang chìa khóa không?”
Julia ra hiệu là có.
“Em muốn làm gì?”
Jason bảo chị đưa chìa khóa.
“Ông Nestor nói cánh cửa chỉ có thể mở ra lần nữa khi người bước vào đó đã quay trở về... Hoặc không thể quay về được nữa.”
Jason cắm vào ổ khóa trên cao chiếc chìa khóa đầu tiên: chiếc hình mèo rừng.
“Điều em tự hỏi là: liệu có ai đó trở về thay cho em và Rick không nhỉ?”
Nó cắm chìa khóa thứ hai và thứ ba: chiếc hình ốc sên và rắn.
“Jason... Chúng ta không nên...”
“Gì cơ?”
Cuối cùng là chìa khóa của ổ khóa thấp nhất: chiếc hình ác là.
“Ý chị là việc mở cánh cửa ra lần nữa.”
Cạch, cạch, cạch, cạch, tiếng ổ khoá vang lên... Cánh cửa Thời gian mở toang.
Jason và Julia đứng lặng trên ngưỡng cửa. Ánh sáng từ căn phòng khách nhỏ rọi sáng căn phòng hình tròn. Dưới sàn là một dòng chữ đọc xuôi và ngược đều giống nhau đang chạy quanh. Nếu quan sát kỹ có thể nhìn thấy ba lối đi với những hành lang dẫn xuống bên dưới, trong số đó có cả hành lang, phía sau con dốc dẫn đến hang động nằm dưới lòng đất, nơi con tàu Metis đang neo đậu.
“Manfred có trong tay một chiếc chìa khóa giống của chúng ta,” đột nhiên Julia nói.
Cô bé lấy lại mấy chiếc chìa khóa từ tay em trai và vuốt ve chuôi của chúng.
“Thế nhưng chị không nhìn rõ... Lúc ấy trời mưa, và chị quá hoảng sợ.”
“Một chiếc chìa khóa,” Jason lẩm bẩm. “Hắn muốn vào Biệt thự Argo để sử dụng nó ư?”
“Có vẻ như vậy,” Julia đồng tình.
“Còn ông Nestor?”
“Ông ấy nói với chị đó là bản sao chìa khóa của Biệt thự Argo.”
Jason gật gù. Nó suy đoán là Manfred vào trong nhà phụ của người làm vườn, ăn trộm chiếc chìa khóa để mở cửa vào Biệt thự Argo, và cố đột nhập vào bên trong ngôi nhà.
“Thế chị có tin ông ấy không?”
“Có.”
“Em có cảm giác hôm qua chị không tin ông ấy lắm.”
“Em làm gì có nhà, Jason! Ông Nestor đã liều mạng để bảo vệ ngôi nhà. Manfred giống như một kẻ điên, hắn quá nguy hiểm... Ông Nestor tính tình hơi khó chịu nhưng là người tốt. Và tất cả những gì ông ấy kể cho chúng ta đến giờ đều là thật.”
“Vậy thì kể cả việc ông Ulysses Moore không còn ở đây nữa cũng là thật,” Jason thở dài. “Chúng ta phải tìm ông ấy, chị Julia... Giờ bọn mình chẳng có manh mối nào. Sau khi đánh mất tấm bản đồ, bọn mình chẳng còn dấu vết nào để lần theo, như thể mối liên hệ giữa chúng ta và người chủ cũ bị đứt đoạn đột ngột.”
Cậu nhóc nghiên cứu kỹ lưỡng không gian tối tăm của căn phòng hình tròn.
“Em tò mò không biết liệu con tàu có quay trở lại phía bên này bến tàu không nhỉ? Và liệu bọn đom đóm có còn đang bay quanh hang...”
Cô chị chặn cậu em lại trước khi nó kịp bước tiếp:
“Dừng lại. Nếu chúng ta bước qua ngưỡng cửa này, chúng ta sẽ buộc phải lên con tàu Metis.”
“Làm sao chị dám chắc điều đó?”
“Ông Nestor đã giải thích cho chị,” Julia nói dối, đơn giản là vì cô bé không muốn Jason lại phiêu lưu lần nữa trong hang. “Nếu em vào trong, em sẽ phải đi đến cùng.”
Jason nhích mũi giày lên ngưỡng cửa và thêm vào:
“Như vậy đây chính là giới hạn của việc di chuyển xuyên thời gian. Chỉ cần thêm một bước nữa thì...”
Julia tựa người vào Cánh cửa Thời gian và khép nó lại nhẹ nhàng trước mặt em trai.
“Giờ vẫn chưa được,” cô bé nói. “Bọn mình còn nhiều việc phải làm ở Kilmore Cove.”
Hai đứa lên tầng trên, vừa đi vừa xem xét thật cẩn thận ảnh chân dung của những người chủ cũ được treo trên tường bằng rất nhiều sợi dây nhỏ. Đến đầu cầu thang, thay vì đi ngay vào phòng tháp chúng chọn đi một vòng trong thư viện.
Mặc dù cửa chớp đã mở to, căn phòng vẫn chìm trong thứ ánh sáng lờ mờ. Có lẽ những giá sách và màu sơn trên trần khiến nơi này có vẻ hơi ngột ngạt. Thế nhưng, từ một trong hai ô cửa sổ có thể nhìn thấy những ngọn cây trong hoa viên, trong khi từ ô cửa còn lại có thể trông thấy khoảng sân lát sỏi và cánh cổng ra vào.
Các bức tường bị những giá sách bằng gỗ tối màu án ngữ, vài giá sách còn bị một tấm lưới đồng che đi khiến người ta có cảm giác căn phòng nhỏ và ngột ngạt. Những tấm biển nhỏ bằng đồng thau phân chia các tủ sách theo nhiều chủ đề.
Ở chính giữa căn phòng, treo một chùm đèn bằng đồng hình chim diệc, chiếu ánh sáng xuống chiếc bàn nhỏ bằng pha lê và một cái đi-văng bọc da. Chưa kể còn có một cặp ghế bành nhỏ xinh có thể xoay tròn và một chiếc đàn piano cánh đứng.
Trong khi Julia say sưa chiêm ngưỡng những cuốn sách cũ kỹ mạ vàng trên giá đựng những quyển quý giá nhất, thì Jason nhấc nắp đàn bằng gỗ lên định dạo vài phím ngẫu nhiên khiến một âm thanh chói tai phát lên làm cả hai đứa đều sợ hãi.
“Em đừng bao giờ thử chơi đàn nữa!” Cô chị nửa đùa nửa than phiền.
“Tuân lệnh!” Cậu nhóc trả lời.
Trên giá sách được đánh dấu bởi tấm biển Cổ tự học, có một chỗ trống đáng kể, chính là nơi bọn trẻ lấy cuốn Từ điển những ngôn ngữ bị lãng quên.
“Để hiểu rõ về lịch sử nơi này,” Jason gợi ý, “chúng ta cần biết cặn kẽ về chủ nhân cuối cùng của nó.”
“Ông Nestor nói với chị trong phòng này chắc phải có gia phả của dòng họ Moore...” Julia nói. “Nhưng chị chẳng tìm thấy gì cả.”
Chúng tìm kiếm trên các giá sách vì cứ đinh ninh sẽ phải đi tìm một cuốn sách dày cộp bám đầy bụi. Nhưng sau khi tìm qua một lượt, chúng mở tấm lưới đồng che chắn một hàng sách được buộc với nhau trong vải bạt màu đen. Trên gáy mỗi cuốn sách đều có khắc những con số bằng ký tự mạ vàng.
“Có thể là những cuốn này...” Julia phỏng đoán trong khi cầm quyển sách trông có vẻ mới nhất lên.
Trên trang bìa chẳng có một dòng chữ nào.
Bên trong, sau vài trang trắng, có hình vẽ phác thảo một cây phả hệ, kế tiếp là bức hình đen trắng của một người đàn ông có ánh mắt nghiêm nghị, với hai hàng tóc mai dày và bạc trắng, mặc bộ quân phục hoàng gia Anh và một chiếc ngà voi ở hậu cảnh.
Dòng chữ bên dưới tấm ảnh xác định danh tính của ông là Mercury Malcom Moore cùng ngày sinh và ngày mất vào đầu thế kỷ trước.
Kèm theo tấm ảnh là những bức thư và tài liệu đủ loại buộc chung với nhau để khỏi bị thất lạc và đặt cách nhau bằng những tờ giấy pơ-luya, loại thường dùng để bảo quản ảnh. Có những bức thư được đóng dấu bưu điện cũ kỹ, và có cả những con tem nước ngoài.
“Chị nghĩ ông Mercury này từng sống ở Ấn Độ, hoặc đâu đó xa hơn...” Julia đoán mò trong lúc giở nhanh qua các trang.
Sau Mercury Malcolm Moore và thư từ của ông là ảnh của Thomas và Annabelle Moore, trong trang phục đi săn. Cả họ cũng có riêng một tập ảnh, thư và tài liệu được bảo quản cẩn thận.
Jason lấy từ giá sách xuống một cuốn khác trong số những cuốn màu đen và bắt đầu lật xem.
Cậu nhóc tìm thấy những cái tên và tài liệu khác, tất cả đều được buộc lại và sắp xếp theo thứ tự.
Hai chị em sinh đôi ngồi xuống đi-văng để đọc kỹ hơn.
“Không biết ông ấy tốn bao nhiêu thời gian để sắp xếp những thứ này...,” Jason lẩm bẩm.
Rồi cậu gấp quyển sách lại và nói thêm:
“Nhưng cái này không phải là gia phả! Nó giống một bộ sưu tập bút tích và thư từ của tổ tiên dòng họ hơn...”
“Em nghĩ vậy sao?” Julia nói chen vào. “Thế thì thử ngước lên nhìn đi!”
Jason nhìn lên trần nhà sơn màu của thư viện.
Năm tấm mề đay lớn được nối với nhau bằng những cành nhánh của một cái cây lớn vẽ trên trần nhà. Trên cành cây là hình vẽ những con thú và quả trái kỳ lạ nhất trên đời, tất cả đều kèm theo một cái tên.
“Ôi trời, một cây gia phả hẳn hoi!” Jason thốt lên ngay khi nhận ra. “Cantarellus Moore... Tiberius và Adriana Moore... Xavier Moore...”
Hai đứa bắt đầu đọc những cái tên, hết cành này đến cành kia, cho đến cành cao hơn tất thảy, trên đó chỉ thấy đề hai cái tên: hai con chim mòng biển trắng tên Ulysses và Penelope, những đại diện cuối cùng của dòng họ.
“Thật kỳ diệu!” Julia vừa thốt lên vừa há hốc miệng dõi theo những con thú đang quây quần trên cái cây kỳ lạ kia.
“Em không tài nào hiểu nổi sao chị em mình lại không nhận ra cái cây này từ trước...” Jason thầm thì.
“Tại bọn mình chưa từng ngước lên nhìn.”
Julia và Jason nhanh chóng tìm thấy trên cây phả hệ tên của những người có chân dung trong những cuốn sách nhỏ màu đen và chúng phát hiện ra rằng có thể dùng cái cây vẽ trên trần nhà như một manh mối quan trọng để tra cứu những tập sách kia.
“Nhìn kìa!” Đột nhiên Jason la lên khi đang quan sát bộ rễ ăn sâu vào một trong số những cái mề đay. “Cây phả hệ nhà họ Moore ra đời từ lưng của ba con rùa! Lại là biểu tượng đó...”
“Lại à?”
“Đó là biểu tượng trên cánh cửa trong hang đá ấy. Và nó còn có cả ở Xứ Punt nữa, trong Căn phòng không tồn tại, dưới chân bức tượng những Người Sáng Lập.”
Jason say mê ngắm nghía hình vẽ trên trần. Rồi nó quan sát kỹ hơn những chiếc mề đay: bên trong chúng đều có hình những con thú có mặt trên bốn chiếc chìa khóa của Cánh cửa Thời gian.
“Cuối cùng cũng có một manh mối!”
Julia cũng tin là vậy, dù cô không hình dung nổi nó sẽ dẫn chúng tới điều gì.
Jason nhận ra trong bức bích họa đường nét của con tàu Metis và một chiếc giống như là thuyền buồm. Bất chợt cậu nhớ tới những mô hình đồ chơi bằng gỗ trong phòng tháp. Cậu sực tỉnh và vội ra khỏi thư viện.
Cậu mở cánh cửa gương và bước vào căn phòng mà từ đó có thể thấy toàn cảnh vịnh Kilmore Cove.
Ngọn tháp vẫn nguyên si như lúc Nestor bỏ lại tối hôm trước. Ông lão làm vườn già đã tìm cách bịt ô cửa sổ bị hỏng, nhưng gió vẫn lùa được vào trong. Những cuốn nhật ký và sách vở chất đống trên mặt đất, còn các mô hình thuyền được đặt trên chiếc rương. Jason cầm lên mô hình chiếc Con mắt của Nefertiti và nghĩ về Thuyền trưởng Scriba vĩ đại, người đã đóng nên tàu đó, rồi cậu chuyển qua xem xét những chiếc khác: một chiếc thuyền độc mộc, một chiếc thuyền gondola (1), một chiếc thuyền buồm nhỏ, một con tàu chiến... Tại sao một số trong những chiếc thuyền kia lại được vẽ trên gia phả?
1. Một loại thuyền đáy bằng, biểu tượng của thành phố Venice (Ý).
Julia đã bắt kịp em trai, cô dạo một vòng quanh những ô cửa sổ. Rick trông thấy cô từ dưới sân: cậu nhóc giơ cánh tay lên vẫy chào và gọi:
“Mình sửa xong xe của mình rồi! Các cậu xuống giúp mình sửa những cái còn lại chứ?”
Cô ra hiệu đồng ý rồi gọi em trai.
“Rick gần xong rồi đó!”
Jason lắc đầu.
“Có lẽ em đã nhầm. Có lẽ chúng ta đã khám phá ra tất cả những thứ cần phải khám phá ở Biệt thự Argo.”
Julia ngạc nhiên. Chính lúc này câu chuyện về ngôi nhà đang càng lúc càng cuốn hút cô...
“Nghe lạ nhỉ, điều này lại do em thốt ra cơ đấy. Vẫn còn hàng trăm cuốn sách cần phải đọc... những cuốn nhật ký và những cuốn sổ tay.”
“Chúng ta không có thời gian để đọc tất cả chỗ đó.”
“Vậy thì bây giờ em muốn làm gì?”
“Đạp xe!”