Số lần đọc/download: 1025 / 8
Cập nhật: 2016-03-20 21:01:46 +0700
Chương 4
L
úc nào về nhà tôi cũng chọn đường xa. Lên Willow từ Pierrepont. Qua các phố của Brooklyn cổ. Những gì còn sót lại của nó. Rồi tôi rẽ phải trên phố nhà mình, Cranberry. Nhưng tối nay tôi co ro dưới trời lạnh, đầu cúi xuống, ngón tay mải chơi bản Suite no.1 đến nỗi tôi lại đi lên Henry.
Thầy Nathan và tôi chơi nhiều giờ liền. Trước khi chúng tôi bắt đầu, thầy lấy khăn trong túi ra và đưa cho tôi. “Bị làm sao thế?” thầy hỏi. “Em ngã.” Thầy nhìn tôi qua kính – cái nhìn đòi nghe sự thật. “Cô Beezemeyer nói về Truman. Và chuyện khép lại quá khứ. Mọi thứ trở nên hỏng bét kể từ đó,” tôi nói.
Thầy Nathan gật đầu, rồi thầy nói, “Cái từ khép lại… nó là một từ ngu xuẩn, nhỉ? Bach không tin vào cái gọi là khép lại. Handel không. Beethoven không. Chỉ có người Mỹ mới tin vào chuyện khép lại bởi vì người Mỹ như bọn con nít – dễ bị lừa. Bach tin vào chuyện tạo ra âm nhạc, nhỉ?” Thầy vẫn nhìn tôi, chờ đợi một câu trả lời.
“Vâng,” tôi dịu dàng đáp. Rồi chúng tôi chơi. Mặc dù tôi bị thương, thầy cũng không thương tình và chửi bới như cướp biển khi tôi chơi nhanh một đoạn hoặc không tạo được âm rung. Lúc tôi về là đã tám giờ tối. Phố xá mùa đông vừa tối tăm vừa lạnh lẽo. Đang kỳ lễ, đèn xung quanh sáng nhấp nháy.
Xanh và đỏ cho Santa. Xanh da trời cho Judah Mccabee. Trắng cho Martha Stewart. Cảm giác khí lạnh trên mặt thật dễ chịu. Tôi mệt phờ. Tôi thanh thản. Và tôi không để ý tới gì cả. Vì đột nhiên, nó ở đó, ngay trước mặt tôi – Templeton. Nó là một cao ốc căn hộ, xây dựng từ nơi từng là khách sạn St.
George cũ. Nó cao tám tầng, hai khối vuông, và tỏa cái bóng xấu xí của nó xuống khắp mọi thứ, ngay cả vào ban đêm. Các cửa hàng ở tầng trệt lúc nào cũng sáng chói, dù cho ngay cả lúc đóng cửa. Họ bán kem húng quế, mứt mộc qua và hàng tỉ những thứ khác không ai muốn mua. Tầng trên là nhà ở.
Giá từ nửa triệu trở lên. Phải gần hai năm rồi tôi mới đến gần chỗ này như vậy. Tôi đứng yên, nhìn thẳng vào nó mà lại không thấy nó. Thay vào đó tôi lại thấy George. Chú Jimmy Shoes bảo với tôi rằng trước đây nó là khách sạn hạng sang. Hồi những năm ba mươi. Chú bảo nó có bể bơi nước mặn trên tầng thượng, và cả đèn pha rọi nữa.
Đội Dodgers ăn ở đó, bọn găng-tơ tay ôm gái nhảy bước vào, và các ban nhạc chơi tới tận sáng mai. Hai năm trước thì nó chẳng đẹp đẽ gì. Nó đang đổ nát. Một phần của nó bị thiêu rụi. Phần còn lại là chỗ trú cho những kẻ vô gia cư và nghiện ngập. Bọn bán ma túy lởn vởn phía ngoài.
Bọn trộm cắp lò dò ở hành lang. Cửa ra vào lúc nào cũng mở, như một cái miệng dâm dật, và tôi có thể ngửi thấy mùi hơi thở hôi thối của nó mỗi khi tôi đi ngang qua – một hỗn hợp của nước đái mèo, nấm mốc và nỗi buồn. Tôi cũng nghe được âm thanh phát ra từ nó. Tôi nghe tiếng nhạc giận dữ vọng ra từ những chiếc radio, nghe bà Orgeta quát tháo lũ con, nghe trận đấu Yankees trên chiếc đài cổ lỗ sĩ của bà Flynn, và Max.
Tôi vẫn nghe thấy hắn. Hắn ở trong đầu tôi và tôi không thể bắt hắn ra ngoài. “Maximilien R. Peters! Liêm khiết, tất lẽ dĩ ngẫu và bất biến!” Hắn hét lên. “Đây là lúc bắt đầu cuộc cách mạng, bé con ạ!” Tôi đứng chết trân và nhìn chằm chằm vỉa hè. Tôi không muốn nhưng không ngăn được mình.
Nó ở đó, ngay đó, cách tôi hơn một mét, bởi cái kẽ nứt dài nham nhở đó, nơi Max lao vào phố. Và mang Truman đi. Mưa xóa sạch vết máu không lâu sau đó nhưng tôi vẫn thấy nó. Chảy dài dưới cơ thể nhỏ bé gãy nát của em trai tôi như những cánh hoa hồng đỏ. Và đột nhiên cái nỗi đau lúc nào cũng ở bên trong tôi, vốn cuộn chặt, giờ nở bung ra mạnh mẽ và dữ dội đến mức có cảm giác như nó sẽ làm nổ tung trái tim tôi, chẻ đôi sọ tôi, và xé tung tôi ra.
“Dừng lại đi,” tôi thì thầm, nhắm chặt hai mắt. Rồi khi mở mắt ra, tôi thấy em trai mình. Nó chưa chết. Nó đang đứng trên phố, nhìn tôi. Không thể nào. Nhưng đúng thế. Chúa ơi, đúng như thế! Tôi chạy trên phố. “Truman! Chị xin lỗi, Tru! Chị xin lỗi em!” Tôi nức nở, vươn tới ôm nó.
Tôi muốn bảo với nó rằng không sao đâu, chỉ là một nhầm lẫn vớ vẩn và nó ổn cả. Nhưng thay vì giọng nói, tôi nghe tiếng bánh xe kít lại. Tôi quay lại và thấy một chiếc ô tô đang sắp sửa lao vào mình. Mọi thứ trong tôi gào lên bảo tôi chạy đi, nhưng tôi không nhúc nhích. Vì tôi muốn điều đó.
Tôi muốn kết thúc nỗi đau. Chiếc xe đánh hướng dữ dội và dừng phắt lại. Tôi ngửi thấy mùi cao su cháy. Mọi người đang gào hét. Người lái xe lập tức đứng trước tôi. Cô ta khóc lóc và run rẩy. Cô túm lấy áo khoác của tôi và lắc tôi. “Cái con điên này!” cô gào lên. “Suýt tí là tao giết mày rồi!” “Xin lỗi,” tôi nói.
“Xin lỗi?” cô ta gào lên. “Trông mày không có vẻ gì là xin lỗi cả. Mày…” “Xin lỗi là cô giết hụt,” tôi nói. Thế là cô ta buông tôi ra. Lùi lại một bước. Những chiếc xe dừng lại sau chúng tôi. Có người bắt đầu bóp còi. Tôi tìm Truman, nhưng nó đã biến mất. Dĩ nhiên là nó biến mất.
Nó không có thật. Nó là trò do những viên thuốc gây ra. Bác sĩ Becker bảo tôi có thể thấy ảo ảnh nếu tôi uống quá nhiều. Tôi cố di chuyển, ra khỏi con phố này, nhưng chân tôi run bần bật đến độ tôi không bước nổi. Có một gã trên vỉa hè trố mắt nhìn tôi. Tôi làm dấu tục tĩu với hắn và loạng choạng bước về nhà.
5. Mẹ ơi?” Tôi gào khi mở cửa nhà. Không có tiếng trả lời. Không ổn rồi. Tôi lội qua đống thư trên sàn. Hóa đơn. Lại hóa đơn. Thư của gã môi giới bất động sản muốn bán căn nhà hộ chúng tôi. Thiếp từ các phòng tranh. Một bản Immolation, thứ tạp chí sinh viên rác rưởi của St.
Anselm’s. Thư gửi cho bố tôi từ những người vẫn chưa nghe tin ông đã chuyển tới Boston hơn một năm trước làm chủ nhiệm khoa di truyền học ở Harvard. Bố tôi là một chuyên gia về gen. Nổi tiếng thế giới. Mẹ tôi thì phát điên. “Mẹ ơi? Mẹ!” Tôi gào. Vẫn không có tiếng trả lời.
Tiếng chuông báo động vang lên trong đầu tôi. Tôi chạy vào phòng khách. Bà đang ở đó. Không phải đang đứng chân không ở sân sau, hai tay vốc đầy tuyết. Không đập nát mọi cái đĩa trong nhà. Không cuộn tròn trên giường của Truman. Chỉ đứng trước giá và vẽ. Tôi hôn lên đầu bà, thở phào.
“Mẹ ổn chứ?” tôi hỏi bà. Bà gật đầu và mỉm cười, chạm tay vào má tôi, và không rời mắt khỏi bức tranh. Tôi muốn bà hỏi tôi có ổn không. Tôi muốn nói với bà chuyện tôi suýt làm. Mấy phút trước trên phố Henry. Tôi muốn bà bảo với tôi đừng bao giờ làm như vậy nữa. Mắng mỏ tôi.
Vòng tay ôm lấy tôi. Nhưng bà không làm vậy. Bà đang vẽ một bức nữa về Truman. Vốn đã có rất nhiều rồi. Treo trên tường. Dựa vào ghế. Đặt trên đàn piano. Chồng ở bậu cửa. Em ở khắp mọi nơi khi tôi đưa mắt nhìn. Trên sàn có các loại dụng cụ. Mùn cưa. Đinh ốc và đinh. Những mẩu vải thừa.
Bà thích tự mình căng lấy tranh. Có những mẩu vải nhàu nhĩ và những ống màu bị nặn bẹp, những đoạn màu trên sàn. Tôi ngửi thấy mùi sơn dầu. Đây là thứ mùi mà tôi yêu thích nhất trên đời. Trong một giây, tôi đứng đó hít hà, và cảm giác như ngày xưa. Trước khi Truman mất. Đó là một buổi tối mùa thu giá lạnh, trời đổ mưa và tất cả chúng tôi tập trung trong phòng khách, ba người, mẹ, tôi, và Truman.
Lửa được nhóm trong lò sưởi và mẹ đang vẽ. Bà vẽ tranh tĩnh vật. Chúng tuyệt đẹp. Nhà phê bình tranh ở tờ Times nói bức tranh trong bộ sưu tập ở bảo tàng Met là “thế giới được thu nhỏ.” Có lần bà vẽ một cái tổ chim nhỏ xíu có một quả trứng màu xanh, nằm dưới một cái máy may màu đen cũ kỹ.
Lần khác nó là một cái hộp đựng đồ may vá màu đỏ, bị nghiêng và những thứ bên trong đổ ra ngoài, cạnh một tách cà phê bị mẻ. Và bức tranh yêu thích của tôi – một bông loa kèn đỏ cạnh hộp nhạc. Truman giống mẹ, em cũng vẽ trong lúc bà vẽ. Tôi chơi guitar. Mưa rơi nặng hạt hơn, bóng tối buông.
Chúng tôi không quan tâm. Cùng nhau ở trong nhà, trong ánh sáng hắt ra của lò sưởi, chúng tôi là thế giới được thu nhỏ. Có vài lần, bố ở cùng chúng tôi. Về nhà muộn, như mọi khi, nhàu nhĩ, mắt mờ và có mùi từ phòng thí nghiệm. Ông sẽ bước vào không gây ra chút tiếng động và ngồi xuống mép sofa như thể ông chỉ ghé thăm.
Xa cách. Khỏi chúng tôi. Một người ngưỡng mộ e thẹn. “Ăn thịt hoa quế mẹ nhé?” Tôi hỏi mẹ. Bà gật đầu, rồi cau mày. “Mắt trông không đúng,” bà nói. “Mẹ cần phải vẽ cho đúng đôi mắt.” “Mẹ vẽ được mà,” tôi nói. Nhưng bà không làm được. Vermeer với Rembrandt và da Vinci có hợp lại cũng không vẽ được.
Dù họ có vẽ được đúng bóng – một màu xanh da trời như nước Windex – họ vẫn không thành công bởi mắt Truman hoàn toàn trong suốt. Cửa sổ tâm hồn ấy? Em chính là thế. Khi nhìn vào mắt em, ta có thể thấy mọi điều em nghĩ, em cảm thấy và em yêu thương. Ta có thể thấy Lyra và Pan. Đền Dendur.
Tên lửa đồ chơi làm từ chai. Garry Kasparov. Beck. Kyuma. Bánh mỳ bơ kẹp xúc xích có ớt. Derek Jeter. Và chúng tôi. Tôi vào bếp và gọi điện thoại đặt món: thịt hoa quế, hai trứng cuộn, mỳ có trộn dầu mè. Willie Chen mang tới. Tôi quen với tất cả những người đưa đồ ăn đến nhà. Tôi làm hai đĩa và phần của mẹ đặt trên bàn cạnh giá vẽ.
Bà không để ý, nhưng bà sẽ ăn một chút lúc nửa đêm. Tôi biết vì tôi thường thức dậy lúc hai giờ đi xuống lầu kiểm tra xem bà thế nào. Thỉnh thoảng bà vẫn vẽ. Thỉnh thoảng bà đứng nhìn ra ngoài cửa sổ. Tối nay tôi ăn bữa tối một mình, như mọi tối. Phòng ăn rộng trống trải.
Cũng không tệ lắm. Tôi có thể nghiền ngẫm nhạc và không ai hỏi tôi về bài thi toán mà tôi bị trượt; hay nhắc tôi nhớ giờ phải về nhà; hay bắt tôi phải biết tên, địa chỉ, và mục đích của cái thằng hư hỏng nằm vạ vật trên giường tôi. “Mẹ ăn chút đi,” nửa tiếng sau tôi nói với mẹ khi hôn bà chúc ngủ ngon.
“Ừ ừ. Mẹ sẽ ăn,” bà nói bằng tiếng Pháp, vẫn cau mày nhìn đôi mắt của Truman. Bà là người Pháp, mẹ tôi. Tên bà là Marianne LaReine. Thỉnh thoảng bà nói tiếng Anh, thỉnh thoảng tiếng Pháp. Phần lớn thời gian bà chẳng nói gì. Tôi lên lầu, iPod trong tay. Tôi định ngủ bằng Pink Floyd.
Nó là bài tập về nhà. Vài hôm trước tôi đưa cho thầy Nathan vài thứ. Demo những bản nhạc tôi viết. Tôi đã dùng nhiều loại nhịp khác nhau và một số ứng dụng hay ho. Tôi tạo chèn giữa các bè guitar và giọng ca bằng hiệu ứng âm thanh vòm. Tôi đặt tên cho nó là Plaster Castle. Tôi nghĩ mấy bài nhạc đó khá ổn.
Kiểu Sonic Youth gặp gỡ Dirty Projectors. Thầy Nathan thì không nghĩ là chúng ổn. “Tồi tệ,” thầy bảo tôi. “Một mớ hỗn độn ồn ào. Em phải học cách tạo ra nhiều hơn với ít tiếng ồn hơn.” “Cám ơn thầy, thầy Nathan. Cám ơn thầy rất nhiều,” tôi nói, thực sự bốc hỏa. “Nói cho em biết bằng cách nào được không?” Lời khuyên tuyệt vời của thầy là nghe đoạn guitar khoảng bốn phút trong bài đầu tiên của “Shine On You Crazy Diamond.” Thầy nói David Gilmour viết nó và nó chỉ dài có bốn nốt, nhưng nghe nó đúng như cảm giác của nỗi buồn.
Tôi bảo thầy tôi không cần một lão già bảo tôi biết nỗi buồn cảm thấy như thế nào. Tôi biết nỗi buồn. “Thế không đủ,” thầy nói. “Chú chó của thầy cũng biết nỗi buồn như thế nào. Quan trọng là: Em có thể diễn tả được cái sự biết đó không? Cảm giác đó? Đó chính là thứ làm em khác biệt.” “Với ai? Với một con chó?” “Làm em khác biệt giữa một nghệ sĩ và một kẻ ngu xuẩn.” “Vậy giờ em là đứa ngu xuẩn à? Đây là lần cuối cùng em đưa cho thầy bài nhạc em sáng tạo ra.” Thầy Nathan đáp lại như thế này: “Một ngày hồi năm 1975, một người đàn ông tên là David Gilmour rất buồn, được chưa? Vậy thì sao? Ai quan tâm? Thầy quan tâm.
Vì sao? Vì cái giai đoạn tuyệt vời đó. Vì nó tồn tại. Khi em có thể viết ra thứ âm nhạc tồn tại được, hoan hô em. Cho đến lúc đó, hãy im lặng và học hỏi tác phẩm của những người làm được sản phẩm tồn tại lâu dài.” Hầu hết mọi giáo viên ở St. Anselm’s bảo tôi là thiên tài.
Rằng tôi có thể làm mọi thứ, trở thành bất kỳ thứ gì. Rằng tiềm năng của tôi là vô hạn và tôi sẽ vươn tới những vì sao. Thầy Nathan là người duy nhất bảo tôi ngu xuẩn và bảo tôi phải luyện tập Chaconne trong bản Sonata giọng Rê thứ của Bach năm trăm lần một đêm nếu cần phải làm như vậy để nó lọt vào cái sọt tối tăm của tôi.
Và thật nhẹ nhõm là tôi khóc được. Lên phòng mình, tôi cởi thắt lưng và quần jean thả xuống sàn. Đi ngủ tôi chỉ mặc đồ lót. Khi băng qua phòng, tôi thoáng nhìn thấy bóng mình trong gương. Gầy giơ xương như thằng con trai, xanh nhợt, mắt thâm quầng, tóc nâu ngắn mọc lỉa chỉa, tết thành những bím nhỏ, và trên người tôi có nhiều kim loại đến mức mỗi bước tôi đi đều gây ra những tiếng xủng xoảng.
Arden Tode sáng tạo ra trò tên là Bị Tráo Đổi Từ Khi Mới Sinh khi nó nhắn tin trên yahoo cho cả lớp tên một ai đó và bảo vừa mới phát hiện ra đứa đó là con nuôi. Rồi mọi người phải nhắn lại cho nó tên bố mẹ ruột của đứa đó. Nó chọn hai cái tên hay nhất và gửi chúng, kèm ảnh nạn nhân của nó lên Facebook.
Bố mẹ tôi là Marilyn Manson và thuyền trưởng Jack Sparrow. Thảo nào nó trượt môn Sinh. Khi tôi kéo áo phông qua đầu, chiếc chìa khóa – mà tôi đeo ở ngực – bị vướng vào tóc. Tôi gỡ ra và thấy nó lóe sáng. Nó tỏa sáng. Dù trong căn phòng mờ tối, nó tỏa sáng. Hệt như Truman. Tôi nhớ lúc em tìm thấy chiếc chìa khóa này.
Buổi tối – một buổi tối thứ bảy – trước khi cha mẹ tôi cãi nhau to. Có tiếng khóc lóc và gào thét. Rất nhiều. Tôi lên lầu vào phòng và bật tivi to lên cố để át đi. Tôi đưa Truman lên theo, hy vọng em sẽ xem chương trình dở tệ hồi tưởng quá khứ về Nick với tôi, nhưng em không xem.
Em đứng ở ngưỡng cửa và nghe. Vẫn là chuyện cũ. Mẹ giận bố vì không bao giờ ở nhà. Bố giận mẹ vì nghĩ rằng mẹ bắt ông phải ở nhà. “Em nghĩ tiền tự nhiên mọc ra à?” ông hét. “Anh làm việc khổ cực để cuộc sống sung túc. Cho em. Cho bọn nhỏ. Để chúng ta được sống trong căn nhà này.
Để Andi và Truman được đi học ở St. Anselm’s…” “Vớ vẩn. Chúng ta có cả đống tiền. Em biết điều đó, ngân hàng biết điều đó, St. Anselm’s biết điều đó, và anh cũng biết điều đó.” “Nghe này, chúng ta thôi đi được không? Muộn rồi. Anh mệt lắm. Anh làm việc cả ngày.” “Và cả đêm nữa! Vấn đề là ở đó!” “Mẹ kiếp, Marianne, em muốn gì ở anh chứ?” “Không.
Anh muốn gì, Lewis? Em nghĩ anh muốn em. Và bọn trẻ. Nhưng em sai rồi. Vậy nói em nghe. Nói đi. Nói ngay đi. Anh muốn gì?” Lần này thì tôi bỏ cuộc ở “Lost in Space”. Tôi cũng đứng ở ngưỡng cửa. Một vài giây im lặng và rồi tôi nghe ông đáp. Giọng ông thẽ thọt. Ông không hét lên nữa.
Ông không cần phải hét. “Anh muốn chìa khóa,” ông nói. “Chìa khóa vào vũ trụ. Vào cuộc sống. Vào tương lai và quá khứ. Vào tình yêu và sự căm thù. Sự thật. Chúa. Nó ở đó. Bên trong chúng ta. Trong gen. Câu trả lời cho mọi câu hỏi. Giá như anh có thể tìm ra nó. Đó là thứ anh muốn,” ông kết thúc, nhẹ nhàng.
“Anh muốn chiếc chìa khóa.” Rồi tôi đóng cửa phòng ngủ lại. Truman và tôi không nói gì với nhau; chúng tôi chỉ ngồi đó trên giường tôi và xem tiến sĩ Smith xuất hiện trong bộ vest không gian của ông. Chúng tôi còn làm được gì cơ chứ? Làm sao chúng tôi cạnh tranh nổi với thời gian và không gian và Chúa và sự thật? Mẹ với những bức tranh vẽ trứng chim và tách cà phê, tôi và Truman với những trò trẻ con ngu xuẩn vớ vẩn của chúng tôi.
Thật nực cười. Bố không thèm quan tâm những ban nhạc tôi yêu thích hay nhân vật hoạt hình yêu thích gần đây của Truman. Tại sao ông lại cần quan tâm chứ? Ông có những lựa chọn tốt hơn. Ý tôi là, bạn sẽ chơi với ai nếu bạn có quyền – Johnny Ramone, Magneto, hay Chúa? Sáng hôm sau mẹ dậy sớm.
Tôi nghĩ là mẹ không hề chợp mắt. Mắt bà đỏ ngầu, khi tôi và Truman xuống bếp ăn sáng, chúng tôi ngửi thấy nồng nặc mùi thuốc lá. “Đi chợ trời nhé. Con muốn đi không?” Bà hỏi. Bà thích chợ trời Brooklyn. Bà tìm thấy cảm hứng ở đó. Trong tất cả những thứ vỡ nát và buồn thảm.
Ruy băng cũ, những bức tranh nhàu nát và đồ chơi hỏng. Tất cả chúng đều có quá khứ và bà thích tưởng tượng ra chúng như thế nào, rồi kể chuyện cho chúng tôi nghe. Chúng tôi lên xe và đi về phía Fort Greene. Hôm đó bà tìm được một chậu hoa ba chân. Bà bảo chậu hoa đó đặt trong phòng của Elizabeth Tudor, bà còn tìm được một cái kính lúp mà thám tử Sherlock Holmes đã dùng ở Baskerville Hall, và một cái nhẫn khắc hình con rồng bằng bạc mà Mata Hari đã đeo khi bà đối mặt với đội tử hình.
Tôi tìm thấy một chiếc áo phông Clash cổ điển. Còn Truman, em lục tìm mọi cái thùng đựng đồ đồng nát – xới tìm những cái khóa cũ, những cây bút mực gãy, và những cái mở nắp chai – cho đến khi em tìm thấy cái mình đang tìm: một cái chìa khóa, đen xỉn, dài cỡ năm phân. Lúc em tìm thấy chìa khóa tôi đang ở cùng em.
Em mua với giá một đô. Người bán bảo cô tìm thấy nó ở Bowery trong thùng đựng đồng nát quẳng bên vệ đường bên ngoài rạp hát cũ Paradise. “Chủ bỏ đi còn trần nhà rơi xuống,” bà nói. “Giờ thành phố sẽ phá đi để lấy chỗ xây một phòng tập thể thao. Lão thị trưởng mắc dịch.
Cái rạp hát đó xây dựng hồi 1808. Ai sẽ sử dụng hết cái đống nhà thể thao đó chứ? Cái thế giới này béo ú hết rồi hay sao?” “Nhà mình có thứ đánh bóng đồ bạc không ạ?” Truman hỏi khi chúng tôi về lại xe. “Ở dưới bồn rửa,” mẹ nói. “Nhìn này, Tru, có hoa thị ở trên đầu.
Một dấu thể hiện sự trung thành. Mẹ cá là nó thuộc về vua Louis XIV.” Bà bắt đầu kể một câu chuyện về chiếc chìa khóa, nhưng Truman bắt bà dừng lại. “Đây không phải là đồ giả đâu mẹ. Nó là thật đấy,” em nói. Khi chúng tôi về nhà, em đánh bóng nó cho tới khi nó sáng lóa lên.
“Đẹp quá!” mẹ nói khi nó đã sáng bóng. “Nhìn này, có chữ L khảm trên cùng. Mẹ nói đúng mà! Viết tắt của Louis, con có nghĩ thế không?” Truman không trả lời. Em bỏ chìa khóa vào túi và hai ngày sau chúng tôi mới nhìn thấy lại nó. Đó là tối thứ ba. Cả nhà ngồi trong phòng khách – tôi và Truman làm bài tập về nhà, mẹ thì vẽ.
Và đột nhiên chúng tôi nghe tiếng cửa trước mở. Bố về. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn nhau. Bố bước vào cầm theo một bó hoa. Ngượng nghịu. Như thể ông là con trai của ông chủ cối xay đến tán tỉnh công chúa, nghĩ là mình bị sẽ cười chê trong cung điện. Nhưng công chúa không cười chê.
Nàng chỉ mỉm cười và vào bếp lấy một cái bình. Khi bà đi, bố nhìn những phân số của Truman và thuật toán của tôi. Tìm kiếm gì đó để làm. Để ông không phải nói chuyện với chúng tôi. Rồi ông ngồi xuống sofa và xoa mặt. “Bố mệt ạ?” Truman hỏi ông. Bố bỏ tay xuống và gật đầu.
“Quá nhiều T và A ạ?” Bố bật cười. Khi Truman còn nhỏ, em nghe bố nói chuyện về DNA, nhưng khi True cố phát âm từ đó, nó lại hóa thành “T và A”. Kể từ đó em cứ gọi như thế. “Quá nhiều, Tru ạ. Nhưng bọn bố gần làm được rồi. Rất gần.” “Được cái gì?” “Giải mã bộ gen.
Tìm ra câu trả lời. Chìa khóa.” “Nhưng bố không phải làm như thế nữa.” “Không phải gì cơ?” Truman cho tay vào túi quần, lấy chiếc chìa khóa nhỏ bằng bạc ra, và đặt lên tay bố. Ông nhìn chằm chằm vào nó. “Nó là một chiếc chìa khóa,” Truman nói. “Bố có thấy.” “Một chiếc chìa khóa đặc biệt.” “Sao lại thế?” “Nó có chữ L ở trên đó.
L là tình yêu. Bố thấy không? Nó là chìa khóa vào vũ trụ, bố ạ. Bố bảo bố đang đi tìm nó. Bố bảo với mẹ thế. Con đã tìm cho bố để bố không phải đi tìm nữa. Để tối bố có thể về nhà.” Bố cầm chìa khóa trong tay. Ông nắm tay lại và siết chặt nó. “Cám ơn con, Tru,” ông nói, giọng khan khan.
Và rồi ông kéo em trai tôi lại và ôm nó. “Bố yêu con. Cả hai đứa. Các con biết điều đó chứ?” ông nói, ôm Truman và nhìn tôi. Có một tiếng vâng nghèn nghẹt từ phía Truman. Tôi gật đầu, hơi xấu hổ. Cảm giác thật là kỳ quặc, như thể nhận một món quà quá đẹp từ một người họ hàng mình gần như không quen biết.
Tôi nghe thấy tiếng sụt sịt. Mẹ đứng ở ngưỡng cửa. Mắt bà đẫm lệ. Mọi chuyện tốt đẹp. Trong một hai tháng gì đó. Và rồi ông đã làm được – giải mã bộ gen. Ông nhận giải Nobel và rồi gần như không về nhà nữa. Các chuyến công tác đến Stockholm, Paris, London, và Moscow. Ngay cả khi ông ở New York, ông cũng về nhà sau khi bọn tôi đi ngủ, và ông lại đi trước khi bọn tôi thức dậy.
Thêm nhiều chuyến bay xa. Và rồi, một đêm, sau hai tuần chúng tôi không nhìn thấy ông, Truman vào phòng làm việc của ông và lấy chiếc chìa khóa lại. Tôi thấy em ngoài sân sau, siết chặt chìa khóa trong tay và nhìn lên ngôi sao đầu tiên của buổi tối. Em không cần phải nói cho tôi biết em đang ước điều gì.
Tôi biết. Tôi cũng biết nó sẽ không bao giờ thành sự thật. Thiên tài không là một môn thể thao đồng đội. Chiếc chìa khóa ở trên người em khi em mất. Tôi đã lục quần áo của em sau khi một ông ở phòng khám nghiệm tử thi mang chúng lại. Nó nằm trong túi trước quần jean của em. Tôi rửa sạch máu, cột vào một sợi ruy băng, và đeo quanh cổ.
Tôi chưa bao giờ tháo nó ra. Giờ tôi uống thuốc. Một viên Qwellify 25 milligram một ngày hai lần. Trên chai thuốc viết thế. Tôi uống 50 milligram một ngày hai lần. Và đôi khi là 75. Bởi vì 25 Qwelling giờ chẳng là gì cả − không phải cơn giận hay nỗi buồn hay cái hành động bộc phát khiến tôi bước ra trước những chiếc xe đang chạy.
Tuy vậy nó lại rất nguy hiểm. Không đủ thì tôi không thể ra khỏi giường, quá nhiều thì tôi bắt đầu nhìn thấy ảo ảnh. Những thứ nhỏ nhặt, hầu hết là thế – như nhện bò trên tường. Nhưng thỉnh thoảng cũng có những thứ lớn – như đứa em trai đã chết của tôi đứng trên đường.
Tôi tắt đèn, nằm xuống giường, bật Floyd trên iPod, và nghe bài tập về nhà của mình. Chừng hai phút hoặc hơn, các nhạc cụ điện tử, tiếng guitar rầu rĩ xuất hiện, một đoạn ngắt, và rồi bốn nốt, rõ ràng và ấn tượng: Xi giáng, Fa, Sol, Mi. Tôi chơi theo trong bóng tối, tay nhấn vào bảng vô hình.
Bốn nốt. Thầy Nathan nói đúng. David Gilmour chuyển được nỗi buồn chỉ trong bốn nốt. Tôi tiếp tục nghe. Những bài hát về sự giận dữ, tình yêu và nỗi mất mát. Tôi nghe đi nghe lại. Cho đến khi ngủ thiếp đi. Và mơ. Mơ thấy bố tôi cầm một tổ chim đầy những quả trứng màu xanh.
Mơ thấy một thằng bé con chơi violon với những người đàn ông có mắt như những lỗ đen trên bầu trời. Mơ thấy Truman. Em ở trong phòng khách, bước ra từ một bức tranh. Em băng qua phòng về phía tôi, bước chậm rãi, kỳ lạ. Lưng em bị gãy. Em cúi đầu xuống đầu tôi, hôn lên má tôi.