Số lần đọc/download: 2681 / 179
Cập nhật: 2017-08-30 02:58:13 +0700
Tự Do Phi Lý
G
iờ chuyện chính đã xét xong, tôi quy tụ được một số nền tảng không thể tách rời. Những gì tôi biết, những gì là chắc chắn, những gì tôi không thể phủ nhận, những gì tôi không thể gạt bỏ – đây là những điều đáng kể. Tôi có thể phủ nhận toàn bộ cái phần trong tôi muốn sống với nỗi hoài vọng mơ hồ, ngoại trừ mong muốn về sự hợp nhất, khát khao làm sáng tỏ mọi điều và nhu cầu thấy thế giới này là rõ ràng và gắn kết. Tòi có thể bác bỏ tất cả mọi thứ phạm đến tôi hoặc khiến tôi say mê trong thế giới xung quanh mình, ngoại trừ sự hỗn loạn này, cơ hội thần diệu này và phép tương đương thần thánh sinh ra từ chính tình trạng hỗn loạn. Tôi không rõ thế giới này có hay không một ý nghĩa vượt cao hơn nó. Nhưng tôi biết rằng nếu có thì tôi cũng không biết, và ngay lúc này tôi không có cách nào tìm biết. Làm sao tôi cảm thấu được một ý nghĩa siêu nghiệm vượt ngoài bối cảnh nhân sinh? Tôi chỉ có thể hiểu những gì trong giới hạn con người. Tôi hiểu được thứ tôi chạm được vào, những thứ chống kháng lại tôi. Tôi cũng biết mình không thể nào dung hòa hai điều chắc chắn như nhau: là nỗi khao khát hướng về sự tuyệt đối và nhất nguyên, cũng như nỗi bất lực không thể quy giản thế giới này về một nguyên tắc lý trí duy nhất mà (con người) có thể lý giải được. Tôi có thể thừa nhận sự thật nào khác mà không phải dối trá, mà không làm nảy lên niềm hy vọng tôi vốn thiếu và cũng chẳng có ý nghĩa gì trong hoàn cảnh của tôi?
Giả như tôi là một cái cây giữa rừng, giả như tôi là một con mèo giữa muôn loài động vật, thì cuộc sống này sẽ có một ý nghĩa, hay đúng hơn là vấn đề này sẽ không được đặt ra, bởi vì tôi thuộc về thế giới này. Khi đó tôi sẽ là thế giới này, cái thế giới mà giờ tôi chống lại với toàn bộ ý thức của mình lẫn nỗi khăng khăng hướng về những gì thân thuộc. Chính lý trí lố bịch này đặt tôi vào thế đối lập với tất cả tạo vật. Tôi không thể đơn giản lấy bút gạch bỏ nó đi. Tôi phải bảo vệ lấy điều tôi tin là đúng. Tôi phải ủng hộ tới cùng điều tôi thấy rõ rành rành, cho dù nó chống lại tôi. Và nếu không phải là nhận thức, thì còn có thứ gì tạo nên cơ sở của xung đột đó, cho sự rạn nứt giữa thế giới và tâm trí tôi? Vì thế, nếu tôi muốn bảo toàn nó, nhận thức của tôi sẽ trong tình trạng luôn luôn tỉnh thức, luôn luôn được khuấy động. Tại lúc này, tôi phải nhớ như vậy. Tại lúc này, sự phi lý, đã quá rõ ràng và vì thế khó lòng giành chiến thắng, quay về cuộc sống bình thường của con người và tìm thấy chốn nương náu của nó. Cũng chính tại thời điểm này, tâm trí có thể rời con đường cằn kiệt và vô vị hướng tới mục tiêu soi tỏ mọi điều. Con đường đó bây giờ mở ra trong cuộc sống hằng ngày. Nó chạm trán với thế giới “người ta” vô danh vô tính, nhưng cũng từ đó trở đi con người dự phần vào cùng sự nổi dậy và sáng suốt của mình. Anh ta đã quên cách hy vọng. Địa ngục ngay phút hiện tại này chính là Nước Trời cùng tận. Mọi vấn đề tái phục hồi khía cạnh sắc bén của chúng. Chứng cứ trừu tượng lui bước trước chất thơ của các hình thái và màu sắc. Các xung đột tinh thần nên hình nên dạng, quay về chốn trú ẩn bé mọn mà tráng lệ nơi trái tim con người. Không mối xung đột tinh thần nào được giải quyết. Nhưng tất cả đều được tôn cao nổi rõ. Phải chăng người ta sẽ chết đi, đào thoát bằng bước nhảy, rồi xây dựng lại dinh thự nguy nga của các ý niệm và hình thái theo chuẩn mực của riêng mình? Hay ngược lại, phải chăng người ta sẽ tiếp tục gánh lấy thách thức thống khổ mà tuyệt diệu của sự phi lý? Chúng ta hãy nỗ lực lần cuối cùng và rút ra mọi kết luận liên quan. Xác thân, tình cảm, sáng tạo, hành động, sự cao quý của con người sau đó sẽ lấy lại vị trí của chúng trong thế giới điên rồ này. Ở đó, con người cuối cùng sẽ một lần nữa tìm thấy thứ rượu vang phi lý và món bánh mì của sự thờ ơ mà anh ta dùng nó nuôi dưỡng sự vĩ đại của mình.
Xin nhấn mạnh một lần nữa về phương pháp: quan trọng là phải kiên trì bền bỉ. Đến một điểm nhất định trên con đường của mình, con người phi lý thấy mình bị cám dỗ. Lịch sử không thiếu các loại tôn giáo lẫn những đấng tiên tri, thậm chí cả khi không có thánh thần. Con người phi lý bị thôi thúc phải nhảy. Khi đó anh ta chỉ có thể đáp trả rằng anh không hiểu hết, rằng cú nhảy ấy không rõ ràng. Thật vậy, anh ta không muốn làm bất cứ điều gì ngoài những gì anh ta hoàn toàn hiểu rõ. Con người phi lý lại nghe khẳng định rằng thái độ đó là tội lỗi sinh ra từ thói kiêu ngạo, nhưng anh ta vốn không hiểu khái niệm tội lỗi; có thể sau này anh phải xuống địa ngục thật, nhưng hiện giờ anh ta không đủ trí tưởng tượng để hình dung ra tương lai kỳ lạ đó; rồi anh ta lại bị thuyết giáo rằng anh đang tự tay đánh mất cuộc sống bất tử về sau, nhưng điều đó đối với anh xem ra chỉ là cách nhìn nhận không căn cứ. Ta có thể thấy được bao nhiêu nỗ lực để bắt anh phải thừa nhận tội lỗi của mình. Còn bản thân con người phi lý thấy mình vô tội. Thật ra, tất cả những gì anh ta cảm thấy là sự vô tội không gì suy suyển được. Điều đó cho phép anh ta làm mọi điều. Vậy là anh yêu cầu bản thân là chỉ sống theo những gì mình biết, để thích nghi với ngoại giới như nó vốn thế, và không xét đến bất kỳ điều gì không chắc chắn. Anh được rao giảng rằng vạn sự đều là hư không, nhưng nói vậy thì ít nhất bản thân câu khẳng định đó cũng là một điều chắc chắn. Và đó chính là điều khiến con người phi lý quan tâm: anh ta muốn tìm hiểu xem có thể sống mà không viện cầu hay không.
Giờ xin bắt đầu đi vào khái niệm tự sát. Bên trên đã nhắc tới giải pháp nó đưa lại. Còn ở đây vấn đề được lật lại. Ban đầu là tìm hiểu xem để sống trên đời, liệu cuộc sống có cần mang một ý nghĩa nào đó không. Giờ đã rõ rằng, ngược lại, cuộc sống tốt hơn nhiều nếu nó không phải gánh ý nghĩa nào cả. Đi qua một trải nghiệm, sống hết số phận cụ thể của mình, chính là chấp nhận nó hoàn toàn. Giờ không ai chấp nhận số phận một khi đã biết nó là phi lý, trừ khi người đó làm tất cả mọi cách để giữ trước mặt mình sự phi lý được soi tỏ dưới ánh sáng nhận thức đó. Phủ nhận một trong hai vế đối lập đặt nền cho cuộc sống của anh đồng nghĩa với trốn tránh nó. Dập đi sự nổi dậy của ý thức là thoái thác vấn đề. Cuộc nổi dậy lâu dài đó vì thế được chuyển vào trải nghiệm sống của mỗi cá nhân. Quá trình sống chính là quá trình giữ cho sự phi lý sống động. Mà làm như vậy, trên hết, là để suy ngẫm về nó. Không như Eurydice, sự phi lý chỉ chết khi ta quay lưng lại với nó. Cũng vì vậy, một trong những lập trường triết học chặt chẽ liền mạch hiếm hoi chính là sự nổi dậy. Nó là cuộc đối đầu liên tục giữa con người và sự u minh của chính mình. Nó đại diện cho thái độ khăng khăng hướng về sự minh bạch rõ ràng không thể nào đạt tới. Nó thách thức thế giới trong từng giây từng phút. Cũng giống như hoàn cảnh hiểm nghèo là thời khắc có một không hai khiến nhận thức con người bừng tỉnh, thì cuộc nổi dậy siêu hình đó khai mở cho nhận thức vươn phủ hết tầm trải nghiệm trong kiếp nhân sinh. Nó đại diện cho sự hiện diện liên tục của con người trong mắt chính anh ta. Nó không phải là khát vọng, bởi nó không chứa đựng hy vọng. Cuộc nổi dậy đó là điều chắc chắn xuyên suốt kiếp mệnh nhân sinh sớm muộn cũng bị cái chết nghiền nát, và dù cho như thế, (con người phi lý) không chấp nhận cam chịu.
Cũng ngay điểm này ta có thể chứng kiến trải nghiệm phi lý cách xa hành động tự sát đến mức nào. Có thể có người cho rằng tự sát là hệ quả kéo theo từ sự nổi dậy — không phải vậy. Vì tự sát không phải là kết quả hợp lý của quá trình nổi dậy. Nó chỉ trái ngược với sự đồng tình mà nó phỏng định trước đó. Tự sát, cũng như bước nhảy, là sự chấp nhận ở mức tột cùng. Mọi thứ kết thúc, con người tự ghi tên vào trang sử đời mình. Tương lai của người đó, cái tương lai đáng sợ của riêng mình — anh ta thấy rõ và lao về phía nó. Tự sát dẹp yên sự phi lý theo cách của nó. Nó nhấn chìm phi lý trong cái chết. Nhưng tôi biết rằng để phi lý vẫn tiếp tục tồn tại, thì nó không được phép nguôi lắng. Nó tránh khỏi kết cục tự sát, ở chừng mức rằng nó nhận thức được và khước từ cái chết. Sự phi lý chính là sợi dây giày con người sắp tự sát nhìn thấy trong vệt lóe nhận thức tột cùng, giữa bao nhiêu thứ khác, ngay sát bờ vực của cú nhảy choáng váng. Thật ra điều đối ngược với hành động tự sát chính là con người bị kết án tử.
Cuộc nổi dậy đó đem lại giá trị cho cuộc sống. Nó lấy lại vẻ cao quý cho cuộc đời nó tồn tại xuyên suốt. Người nào không muốn sống trong mù lòa, thì tầm nhìn tốt nhất dành cho anh ta chính là tầm nhìn của trí tuệ khi hòa bện với cái thực tế vốn vượt ngoài tầm nó. Tầm nhìn của lòng kiêu hãnh nhân loại là vô song. Không gì có thể làm ô danh nó. Nếp kỷ luật mà tâm trí tự khép mình vào, cái ý chí sinh ra dù vô căn vô cội, cuộc đấu tranh trực diện đó, tất cả đều vô cùng đặc biệt. Nghèo kiệt hóa cái thực tế mà chính khía cạnh phi nhân lạnh lùng của nó tôn lên vẻ uy nghi của con người cũng chính là làm nghèo kiệt chính bản thân người đó. Tôi giờ đã hiểu vì sao những nguyên tắc giáo điều vốn giúp tôi lý giải mọi điều trong ngoại giới cũng đồng thời khiến cho tôi trở nên yếu nhược. Chúng đỡ khỏi tôi gánh nặng cuộc đời mình, nhưng tôi vốn phải tự mình gánh lấy. Ở điểm này, tôi không dám tướng tượng rằng phép siêu hình đầy hoài nghi đó có chút gì liên hệ với hành động hy sinh quên mình.
Ý thức và cuộc nổi dậy, những sự khước từ ấy, là thái cực trái với sự hy sinh. Ngược lại, chính niềm say mê và tinh thần không cam khuất phục trong trái tim con người thôi thúc hai điều ấy. Điều cốt yếu là chết mà không cam chịu và không tự nguyện. Tự sát là sự phản đối. Con người phi lý chỉ có thể bòn vắt mọi thứ cho đến tận kết thúc kiệt cùng cay đắng, và rút cạn cả chính mình. Cái phi lý chính là sự căng thẳng tột độ mà anh ta một mình cố gắng duy trì liên tục, vì anh biết trong nhận thức và trong cuộc nổi dậy từng ngày từng giờ đó, anh đang tiếp thêm bằng chứng cho sự thật duy nhất đối với anh, là sự kháng cự không cam chịu. Đây là kết quả đầu tiên.
***
Nếu còn nán lại vị trí dọn sẵn để rút ra mọi kết luận (và không gì khác nữa) liên quan đến một khái niệm mới vừa khám phá, thì tôi phải đối mặt với nghịch lý thứ hai. Để vẫn trung thành với phương pháp của mình, tôi không xét đến sự tự do siêu hình. Tôi không quan tâm đến chuyện con người có được tự do hay không. Tôi chỉ có thể trải nghiệm sự tự do của riêng mình. Đối với nó, tôi không xây dựng các khái niệm tổng quát, mà chỉ đưa ra được một số chiêm nghiệm sâu. Luận đề “tự do đúng nghĩa” chảng có ý nghĩa gì, vì nó liên quan đến Thượng đế, dù theo một cách rất khác. Tìm hiểu xem con người có tự do hay không sẽ liên quan đến việc tìm hiểu xem người đó có bị đấng bề trên nào chi phối hay không. Sự phi lý ở đây là: chính khái niệm bồi đắp nên luận đề tự do đã tước đi ý nghĩa của tự do. Vì trong sự hiện diện của Thượng đế, xem ra cái xấu được ưu tiên hơn tự do. Ta đã biết có hai khả năng thay thế nhau: Hoặc là chúng ta không tự do, và đấng Thượng đế toàn năng phải chịu trách nhiệm cho mọi cái xấu cái ác trên đời. Hoặc là chúng ta tự do và chịu trách nhiệm về những điều xấu đã làm, nhưng như vậy thì Thượng đế không phải toàn năng. Mọi quan điểm kinh viện tinh vi đều tránh không thêm gì cũng chẳng bớt gì vào nghịch lý gay gắt đó.
Cũng vì vậy mà tôi không thể đi theo hướng vinh danh đấng tối cao hay tin vào định nghĩa thuần túy của khái niệm (tự do) vốn vượt quá tầm hiểu biết của tôi, và sẽ mất đi ý nghĩa ngay khi nó vượt khỏi cái khung tham chiếu là trải nghiệm tự thân của tôi. Tói không hiểu thứ tự do gì sẽ được trao cho mình bởi một đấng cao hơn mình. Tỏi đã mất đi ý thức về thứ bậc. Cách hiểu duy nhất về tự do mà tôi biết là cách hiểu về tự do của một người tù hay của một cá nhân trong lãnh thổ có Nhà nước. Tự do duy nhất tôi biết là tự do trong tư tưởng và hành động. Cho dù sự phi lý tước đi mọi cơ hội đến với tự do vĩnh cửu của tôi, thì mặt khác nó phục hồi và mở rộng tự do của tôi trong hành động. Thiếu vắng hy vọng và tương lai chính là tăng tính sẵn sàng trong hiện tại của con người.
Trước khi chạm trán sự phi lý, hằng ngày con người vẫn sống với những mục tiêu, mải bận tâm cho tương lai hoặc một cơ sở để cậy mong (ở đây không xét đến trông cậy vào ai hay thứ gì). Người đó tính toán những khả năng, trông mong vào “một ngày nào đó”, lúc nghỉ hưu hay việc làm cho lũ con trai trong nhà. Anh ta vẫn nghĩ rằng mình định hướng được phần nào đó trong cuộc đời mình. Thật ra, anh ta hành động như thể anh ta có tự do, ngay cả khi tất cả mọi sự diễn ra đều chứng minh điều ngược lại. Nhưng sau khi vấp phải sự phi lý, mọi thứ đảo lộn. Hình dung của tôi về bản thân, cách tôi hành xử như thể mọi điều đều có một ý nghĩa nhất định (dù thảng hoặc tôi cũng kêu lên rằng mọi thứ thật vô nghĩa) — tất cả đều bị gán cho một niềm tin sai lạc đến choáng váng bởi sự phi lý trong cái chết sau này. Nhưng tới thời điếm đó, tôi nhận ra rằng sự tự do ở mức cao hơn, cái tự do sẽ có sau này, vốn tự nó đủ trở thành nền tảng cho một sự thật, không hề tồn tại. Cái chết ở phút lâm tử là thực tại duy nhất. Sau cái chết, ván bài đến hồi lật ngửa. Chính tôi cũng không được tự do để làm cho bản thân mình bất diệt, mà tôi là một nô lệ, hơn nữa còn là kẻ nô lệ không có hy vọng nhưng vẫn phải duy trì cuộc nổi dậy không ngừng nghỉ, và không viện đến sự hạ mình. Và ai còn có thể là nô lệ một khi không còn đấu tranh và không phải hạ mình? Thứ tự do gì có thể hiện hữu theo nghĩa trọn vẹn nhất nếu không có sự bảo đảm đời đời?
Nhưng đồng thời con người phi lý nhận ra rằng cho đến lúc đó anh ta vẫn bị gắn chặt với định đề về tự do vốn dựng trên những ảo tưởng mà anh ta đang chung sống. Xét theo một nghĩa nào đó, điều đó cản trở anh ta. Chừng nào anh ta còn tưởng tượng đến một mục đích trong đời, thì anh ta còn uốn mình theo các đòi hỏi để đạt được yêu cầu đó, và trở thành nô lệ của chính sự tự do. Như vậy ta chỉ có thể cư xử như một người cha (hoặc người kỹ sư hoặc người lãnh đạo của một quốc gia hoặc một tay thư ký quèn ở bưu điện), tức vai trò mà ta đang chuẩn bị để đảm đương. Ta nghĩ mình có thể chọn trở thành như vậy, chứ không phải là bất cứ gì khác. Tôi nghĩ vậy một cách vô thức, chắc chắn là thế. Nhưng đồng thời tôi cũng đang củng cố định đề của mình bằng niềm tin về những gì xung quanh tôi, bằng những giả định về môi trường tôi sống (Những người khác đều chắc mẩm là họ đang được tự do, mà thái độ lạc quan đó rất dễ lây lan!) Dù cho một người có giữ được cự ly bao xa khỏi những giả định về mặt đạo đức hay xã hội, thì người đó dù sao cũng phần nào chịu ảnh hướng từ chúng; và thậm chí, trước giả định mạnh nhất trong số đó (có giả định tốt và giả định xấu), người đó còn điều chỉnh cuộc đời mình theo chúng. Khi đó con người phi lý nhận ra anh ta đã không thực sự tự do. Để nói rõ, trong chừng mức tôi gây niềm hy vọng, trong chừng mức tôi lo nghĩ về sự thật trong cách thức tồn tại hay sáng tạo – cái sự thật có lẽ chỉ riêng dành cho tôi, trong chừng mức tôi xếp đặt đời mình và qua quá trình ấy chứng minh rằng tôi thừa nhận cuộc đời mang một ý nghĩa; thì tôi đang tự dựng nên những hàng rào hãm đời mình trong đó. Tôi hành động hệt như bao nhiêu “tay chức việc” quan liêu điều khiển tâm trí và trái tim tôi, vốn toàn nhồi vào tôi những điều kinh tởm và nết xấu xa duy nhất của họ, như bây giờ tôi đã nhận rõ, là đã chủ tâm xét định tự do của con người.
Phi lý soi sáng cho tôi nhận rõ điểm này: không có tương lai. Từ lúc đó, đây chính là lý lẽ để tôi vươn đến tự do nội tại. Ở đây xin nêu ra hai so sánh như sau: Trước hết là những người tin theo tâm linh thần bí, họ tìm thấy tự do khi hiến mình. Khi đánh mất bản thân vào tay vị thánh thần của họ, khi chấp nhận những quy tắc của đấng ấy, họ lặng thầm có được tự do. Khi tự nguyện chấp nhận tình trạng nô lệ, họ có được sự độc lập sâu xa hơn. Nhưng sự tự do ấy có ý nghĩa gì? Có thể nói rằng, trên hết, họ cảm thấy được tự do trước chính mình, chứ không phải tự do vì được giải phóng. Tương tự, khi toàn tâm hướng về cái chết (mà ở đây được coi là sự phi lý rõ rệt nhất), con người phi lý cảm thấy được giải thoát khỏi mọi thứ trong ngoại giới mà sự say mê trước chúng đã kết tinh trong lòng anh ta. Anh tận hưởng sự tự do trước những hàng rào quy tắc hợp lẽ thường. Ở điểm này có thể thấy rằng những chủ đề khởi điểm của triết học hiện sinh vẫn vẹn nguyên giá trị của nó. Quay về với nhận thức, đào thoát khỏi giấc ngủ triền miên ngày qua ngày, tất cả tượng trưng cho những bước đầu tiên hướng tới tự do phi lý. Nhưng như thế cũng là ám chỉ đến sự rao truyền của chủ nghĩa hiện sinh, và cùng với đó là bước nhảy tinh thần thoát khỏi nhận thức. Theo cùng cách như vậy (đây là sự so sánh thứ hai của tôi), những nô lệ thời cổ đại cũng không làm chủ chính họ. Nhưng họ biết tự do chính là ở chỗ không cảm thấy phải gánh trách nhiệm. Cái chết cũng mang những bàn tay quý tộc, trong khi nghiền nát cũng đồng thời giải phóng người ta.
Thả mình trong sự chắc chắn vô tận, cảm thấy từ nay trở đi đã lùi đủ xa khỏi cuộc sống của chính mình để phát triển nó và quan sát nó từ góc nhìn rộng mở – điều này bao hàm nguyên tắc cơ bản của sự giải phóng. Sự độc lập mới có được đó giới hạn về mặt thời gian, cũng như bất kỳ sự tự do nào trong hành động. Nó không hứa hẹn sự vĩnh hằng. Nhưng nó thế chỗ cho những ảo tưởng về tự do, vốn sẽ tiêu tan cùng với cái chết. Thái độ sẵn sàng cung hiến thiêng liêng của con người bị kết án trước cánh cửa ngục mở ra trước mặt anh ta vào một sớm mai nào đó, sự ơ hờ khó tin trước mọi sự ngoại trừ ngọn lửa tinh khiết của cuộc sống – rõ ràng cái chết và sự phi lý là những nguyên tắc đưa tới sự tự do duy nhất có thể lý giải: thứ tự do mà trái tim con người có thể thực sự sống và trải nghiệm. Đây chính là kết quả thứ hai. Từ đó con người phi lý có thể thấu suốt vũ trụ hữu hạn vừa cháy bỏng vừa giá băng, trong đó mọi điều đều bất khả nhưng đồng thời mọi thứ đều được phô bày, và vượt ngoài vũ trụ đó chỉ có sụp đổ và hư vô. Con người phi lý khi đó quyết định chấp nhận vũ trụ này và trích rút từ nó sức mạnh, sự khước từ trước hy vọng và bằng chứng đanh thép về một cuộc đời không cần được xoa dịu.
***
Nhưng trong một vũ trụ như vậy thì cuộc sống mang ý nghĩa gì? Không có gì khác ngoài sự dửng dưng trước tương lai và mong muốn tận dụng tất cả mọi thứ được trao cho. Niềm tin vào ý nghĩa của cuộc sống luôn luôn đồng thời ngụ ý một thang giá trị, một sự lựa chọn, và những sở thích. Còn niềm tin vào phi lý, theo định nghĩa của chúng ta ở đây, chủ trương điều ngược lại. Điều này đáng để xét kỹ.
Tất cả những gì tôi quan tâm là tìm hiểu xem liệu người ta có thể sống mà không viện cầu hay không. Tôi không muốn làm điều quá tầm hiểu biết của mình. Khía cạnh này của cuộc sống được hé lộ cho tôi, liệu tôi có điều chỉnh mình để thích nghi với nó? Trước mối quan tâm cụ thể này, niềm tin vào sự phi lý chẳng khác nào thay thế số lượng trải nghiệm bằng chất lượng trải nghiệm. Nếu tôi thuyết phục bản thân mình rằng cuộc sống này không có khía cạnh nào khác hơn sự phi lý; nếu tôi cảm thấy rằng toàn bộ trạng thái cân bằng của nó phụ thuộc vào sự đối lập vĩnh viễn giữa cuộc nổi dậy trong ý thức của tôi và sự tăm tối nó đấu tranh chống lại; nếu tôi thừa nhận rằng sự tự do của mình không có ý nghĩa gì trừ khi đặt trong mối liên hệ với phận người hữu hạn, vậy thì tôi phải nói rằng điều quan trọng không phải là sống cuộc đời lý tưởng nhất mà là sống trọn vẹn nhất. Tôi không cần phải tự hỏi điều này là thô tục hay ghê tởm, cao nhã hay tồi tệ. Một lần cho mãi mãi, các đánh giá về giá trị bị loại bỏ, nhường chỗ cho đánh giá dựa trên thực tế. Tôi chỉ rút ra kết luận từ những gì mình thấy chứ không bao giờ từ giả định. Nếu như lối sống như vậy chẳng có gì danh giá, thì sự đúng đắn đích thực buộc tôi phải trở nên vô danh giá như vậy.
Sống trọn vẹn nhất, hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này, coi quy tắc là vô nghĩa. Nó đòi hỏi định nghĩa mọi diều. Chừng như nó xuất phát từ lập luận rằng khái niệm số lượng hãy còn chưa được khám phá đầy đủ. Vì nó có thể chiếm một phần lớn trong toàn bộ trải nghiệm nhân sinh. Quy tắc ứng xử và thang giá trị của một người không có ý nghĩa gì nếu không nhờ có số lượng cũng như sự đa dạng của các trải nghiệm mà người đó tích lũy. Giờ bối cảnh sống hiện đại áp đặt lên phần lớn mọi người cùng một lượng sự kiện và do đó trải nghiệm mỗi người cũng nông sâu tương đương nhau. Chắc hẳn còn phải xét đến phần đóng góp tự nguyện của mỗi cá nhân, tức yếu tố “dâng hiến” trong anh ta. Nhưng tôi không lượng xét được điều đó, và xin nhắc lại rằng quy tắc của tôi là chỉ dựa trên bằng chứng trực tiếp trước mắt. Tôi thấy rằng bản chất của chuẩn mực đạo đức thông thường không đặt trong mức độ quan trọng của những nguyên tắc cơ bản nó bao hàm, mà nằm nhiều hơn ở chuẩn mực trải nghiệm nó có thể đo lường. Suy xa thêm một chút, người Hy Lạp khi xưa có chuẩn mực giải trí của họ cũng như chúng ta có chuẩn mực làm việc tám giờ một ngày. Nhưng đã nhiều ví dụ bi kịch trong loài người khiến ta đi đến dự báo rằng kẻ có trải nghiệm dài lâu hơn sẽ thay đổi bảng giá trị này. Những người đó khiến ta hình dung rằng kẻ chỉ đơn thuần trải qua những biến cố hàng ngày, sẽ phá vỡ mọi kỷ lục (tôi cố tình dùng cách diễn đạt trong thể thao ở đây) nhờ số lượng trải nghiệm và được trao quy tắc đạo đức của riêng mình. Nhưng ta hãy tránh sa vào chủ nghĩa lãng mạn ở đây, và nên tự hỏi rằng thái độ đó có ý nghĩa gì với một người, khi mà tâm trí của anh ta được dọn sẵn để chấp nhận vụ đánh cược và đồng thời để giám sát nghiêm ngặt xem anh chọn luật chơi là gì.
Phá vỡ tất cả các kỷ lục, đầu tiên và trên hết, chính là đối mặt với thế giới một cách thường xuyên nhất có thể. Làm sao đạt được điều đó mà né tránh được những mâu thuẫn và không vận dụng đến trò lắt léo của chữ nghĩa? Bởi vì một mặt phi lý chủ trương rằng mọi sự kiện trải nghiệm đều không quan trọng, mặt khác phi lý lại thúc giục ta trải nghiệm càng nhiều càng tốt. Làm thế nào tránh khỏi vết xe của bao nhiêu người mà tôi đã nhắc tới ở phần trước – rằng một mặt chọn lối sống cho ta nhiều chất liệu nhân sinh nhất có thể, trong khi mặt khác lối sống đó lại thể hiện ra thang giá trị mà người đó đồng thời tuyên bố không chấp nhận?
Một lần nữa lại chính phi lý và cuộc đời phi lý đầy mâu thuẫn chỉ lối cho ta. Vì thật sai lầm khi cho rằng số lượng trải nghiệm phụ thuộc vào những hoàn cảnh ta trải qua trong cuộc sống, trong khi thật ra nó chỉ phụ thuộc vào chúng ta. Ở đây chúng ta phải thật tối giản. Thế giới trao cho hai người có cùng số năm sống trên đời số lượng trải nghiệm như nhau. Nhận thức được chúng hay không là tùy ở ta. Nhận thức được về cuộc sống, về sự nổi dậy, về tự do, đến hết mức, chính là sống và sống trọn vẹn hết mức. Một khi sự sáng suốt đã lên ngôi, thì thang giá trị trở thành vô dụng. Hãy gắng tinh giản hơn nữa. Rằng trở lực duy nhất, thiếu sót duy nhất để làm được như vậy là cái chết sớm. Như vậy trong mắt con người phi lý, không chiều sâu hiểu biết nào, không tình cảm hay niềm say mê nào, không sự hy sinh nào có thể khiến cuộc đời tỉnh thức trong bốn mươi năm trở nên ngang bằng được với hơn sáu mươi năm minh mẫn (dù cho anh ta từng muốn thế). Tình trạng điên rồ và cái chết là điều không thể cải sửa được. Con người không chọn. Phi lý và cuộc sống trọn đầy hơn nó đem lại không bảo vệ cho ý chí con người mà chính là đối cực của nó: cái chết. Nếu cẩn thận chọn từ ngữ diễn đạt, thì đó hoàn toàn là chuyện may rủi. Người ta chỉ có thể chấp nhận. Không có gì thay thế được cho hai mươi năm sống và trải nghiệm.
Rồi theo sau mâu thuẫn kỳ quặc trong cuộc đua tỉnh thức đó, người Hy Lạp tuyên bố rằng những người chết trẻ là những người được các vị thần yêu quý. Điều đó chỉ đúng nếu ta sẵn lòng tin tưởng rằng bước vào thế giới vô lý của các vị thần là mãi mãi mất đi niềm vui tinh khiết nhất, chính là cảm giác, thứ ta chỉ có được trên trái đất này. Hiện tại và các hiện tại tiếp nối liên tục trước linh hồn luôn luôn tỉnh thức là lý tưởng của con người phi lý. Nhưng từ “lý tưởng” là nốt nhạc vang sai trong mối liên hệ này. Nó thậm chí không phải là thiên hướng của con người phi lý, mà chỉ đơn thuần là kết quả thứ ba từ lý luận của anh ta. Khởi đầu từ nhận thức đớn đau về cái phi nhân tính, suy ngẫm về sự phi lý khi đến cuối cuộc hành trình liền quay về ngay tâm điểm ngọn lửa đam mê bùng cháy cuộc nổi dậy của con người.
***
Vậy tôi đã rút ra ba kết quả từ sự phi lý, đó là cuộc nổi dậy của tôi, tự do của tôi, và niềm đam mê của tôi. Bằng hoạt động ý thức đơn thuần, tôi biến lời mời tiến vào cõi chết thành quy tắc của sự sống – và tôi khước từ hành vi tự sát. Tôi rất biết những phản hồi âm ỉ rung lên trong suốt thời đại này. Nhưng tôi vẫn chỉ nói một lời: như thế là cần thiết. Khi Nietzsche viết: “Rõ ràng điều cốt yếu trên thiên đàng cũng như địa giới là phải tuân phục trong thời gian dài và chỉ theo một hướng: rồi sau cùng sẽ hình thành nên thứ gì đó đáng để ta gắng sống tiếp, ví như đức hạnh, nghệ thuật, âm nhạc, điệu nhảy, lý trí, tâm trí — những thứ được tôn cao nổi rõ, những thứ tinh tế, điên rồ hay thiêng liêng,” ông giải thích rõ quy luật của một chuẩn mực đạo đức thực sự xuất sắc. Đồng thời ông cũng chỉ ra con đường cho con người phi lý. Tuân theo ngọn lửa cuộc sống là điều dễ nhất mà cũng là điều khó nhất. Dù sao, thi thoảng tự phán xét chính mình cũng là điều tốt. Vì chỉ mình ta có thể làm điều đó.
Như Alain nói: “cầu nguyện, là khi màn đêm phủ trên tư tưởng.”
“Nhưng tâm trí vẫn phải gặp màn đêm”, những người theo thuyết thần bí và hiện sinh đáp trả. Phải, quá thực như vậy, nhưng không phải là thứ bóng đêm sinh ra dưới mi mắt nhắm và chỉ duy bởi ý chí con người – cái đêm đen dày đặc không thể xuyên thủng mà tâm trí triệu hồi để lao mình vào đó. Nếu phải đương đầu với màn đêm, thì chẳng thà đương đầu với nỗi tuyệt vọng, vì khi dù sao vẫn giữ được sáng suốt — cái đêm nơi địa cực, đêm canh thức của tâm trí, từ đó có lẽ sẽ nảy sinh ánh chói ngời tinh khiết bao viền lấy mọi khách thể trong ánh sáng trí tuệ. Ở tầm mức đó, sự say mê hiểu biết được cân bằng. Khi đó thậm chí việc đánh giá bước nhảy hiện sinh không còn là vấn đề cần bàn nữa. Nó trở lại vị trí của mình, là một phần trong bức bích họa cũ xưa thể hiện muôn vàn quan điểm con người. Còn từ góc độ người quan sát, nếu đủ tỉnh táo, anh ta sẽ nhận ra bước nhảy ấy dù sao vẫn phi lý. Khi nó nghĩ đã giải quyết được nghịch lý, nó phục hồi lại nguyên vẹn chính mình, về mặt này, nó vẫn đang vận động, về mặt này, mọi thứ lại tiếp tục vị trí của nó và thế giới phi lý được tái sinh trong vẻ huy hoàng và đa dạng.
Nhưng thật đáng buồn khi ngừng lại tại đây, thật khó hài lòng với lối nhìn nhận duy nhất, thật sai lầm khi tiếp tục mà không còn mâu thuẫn, lực lượng tinh thần có thể coi là tinh tế nhất. Những điều nói trên chỉ vạch ra con đường tư duy. Điều cốt yếu là phải sống.