Nguyên tác: The Thief And The Dogs
Số lần đọc/download: 0 / 11
Cập nhật: 2020-11-02 22:25:37 +0700
Chương 2
V
ừa đi vừa ngắm nhìn cái cửa mở rộng, mở từ lâu lắm rồi không ai nhớ, Saít càng tiến lên theo con đường leo qua các ngọn đồi thì càng thấy rằng đường còn xa hơn là anh nghĩ. Nơi này là mảnh đất của nhớ thương và của lòng nhân từ nằm ở giữa khu phố Đaratxa với hai dãy đồi Múccatam vươn ra ôm lấy chung quanh. Trẻ con thường đến đây đùa nghịch trên cát bụi cùng những gia súc và Saít thì thở dốc vì mệt mỏi và xúc động. Đôi mắt anh dõi theo những đứa bé gái không rời. Rất đông những kẻ lười biếng nằm dài trên những tường thành ven đồi, tránh ánh nắng chiếu xiên khoai.
Anh dừng lại trước một khuôn cửa mở, ngắm nhìn và hồi tưởng lại xem lần cuối cùng bước qua ngưỡng cửa này là bao giờ? Đây là một ngôi nhà giản dị như thời xa xưa. Một khoảng sân rộng rãi trống trơn. Tại góc trái, một cây cọ cao lớn, thân cong cong, phía phải của hành lang là cửa dẫn vào gian phòng duy nhất. Trong gian nhà kỳ lạ này, không có cửa nào bị khép lại. Trái tim Saít đập rộn lên và dẫn anh lui lại những ngày xa xưa của thời thiếu niên, vô tư lự, mơ màng, tình thương yêu của cha và ảo mộng về Thượng đế. Những người đàn ông tràn vào đầy sân, lòng rung động trong tiết tấu của các bài thánh ca và tên thánh Ala được xưng tụng từ đáy lòng mọi người. Hãy nhìn, nghe cho tỏ, học tập và mở rộng trái tim của ngươi. Cha của Saít đã từng nói như thế. Và niềm vui ấy giống như chất men say sưa do trí tưởng tượng, niềm tin, bài thánh ca và nước chè xanh mang lại.
Giáo trưởng Ali Ghêniđi, bây giờ người đã như thế nào, người là thầy của những người đang sống? Từ phía trong gian phòng vẳng đến tiếng của ai đó vừa chấm dứt cầu kinh. Saít mỉm cười và đi vào phòng mang theo chồng sách vở. Giáo trưởng ngồi đó, xếp chân bằng tròn trên thảm cầu nguyện hoàn toàn bị cuốn hút vào việc làm lễ nguyện. Và kia là cái phòng xưa cũ, không có thay đổi chút nào. Những chiếc chiếu đã cũ mòn được các tín đồ thay đi và chiếc giường giản dị vẫn nằm sát vào tường phía Tây, còn những phía tường khác, chân tường đều bị những chồng sách che kín. Và mùi hương vẫn phảng phất thơm tho như chưa bao giờ tản hết cả… Saít bỏ chồng sách của mình xuống và tiến gần về phía Giao trưởng.
- Con kính chào Chúa và Đấng tôn sư!
Người Giáo trưởng dừng cầu nguyện rồi ngẩng đầu lên để lộ bộ mặt mỏng mảnh đầy sức sống, có bộ râu viền quanh như vòng nguyệt quế. Đầu Giáo trưởng đội một chiếc mũ vải mềm trắng chụp lấy bộ tóc dày đã ngả màu sương tuyết. Giáo trưởng nhìn anh chằm chằm bằng đôi mắt mà trong suốt tám mươi năm vẫn chăm chú nhìn cuộc sống dưới mặt đất và ở ngoài trái đất nữa, nhưng không hề mất đi sức quyến rũ, vẻ hấp dẫn và cả nét duyên dáng của đôi mắt ấy.
Saít không kìm được mình, lao vào hôn lên bàn tay Giáo trưởng, lòng tràn ngập nhớ thương… người cha, hy vọng, Thượng đế và tất cả quá khứ làm anh mủi lòng rơi nước mắt.
- Cầu Chúa ban cho con phước lành và sự an bình.
Đúng tiếng nói của ngày xưa! Thế còn giọng nói của cha mình thế nào? Mọi điều xảy ra từ cái vẻ mấp máy của đôi môi đến khuôn mặt đều hợp lại thành một hình ảnh gợn lên về người cha của Saít. Mà những tín đồ đâu, cả những người hát lễ Dich-kơ đâu rồi? Hỡi đấng tiên tri Môhamết, con cúi lạy Người. Saít ngồi sụp xuống chiếu trước mặt Giáo trưởng:
- Con ngồi mà không xin phép Người, con nhớ rằng đức ông muốn như thế.
Anh có cảm giác rằng Giáo trưởng mỉm cười dù không có nét cười trên đôi môi trắng bệch như làn da của Người.Liệu Người có còn nhớ đến mình không?
- Đừng có giận con thưa đức ông, ngôi nhà của Người là chỗ trú ngụ cuối cùng của con trên đời này.
Giáo trưởng ngả đầu trên ngực mình và thì thào:
- Con nói nơi trú ngụ sau tường, không phải nơi trú ngụ của trái tim…
Saít thở dài, trong phút thoáng qua anh không hiểu gì hết.
Đột nhiên anh thốt ra:
- Trình đức ông, con vừa ra khỏi nhà tù hôm nay.
Giáo trưởng khép đôi mắt lại và buôn ra lời nói:
- Từ nhà tù?
- Trình đức ông, vâng. Người đã không nhìn thấy mặt con từ mười năm nay. Trong thời gian đó, đã có nhiều điều xảy ra rất kỳ lạ, có thể là một vài tín đồ nào của Người đã trình lại với đức ông rồi.
- Ta nghe nhiều quá về biết bao điều, nên ta chẳng còn nghe thấy gì hết…
- Dù thế nào con cũng thích đến với đức ông và không giấu giếm điều gì nên con đã thú thực với Người rằng con vừa ra tù ngày hôm nay.
Giáo trưởng từ từ ngẩng đầu lên và mở đôi mắt nhìn anh thở dài:
- Từ nhà tù ra, anh chưa thoát nợ.
Saít mỉm cười. Những lời nói tốt đẹp thời xưa đã trở lại. Mỗi từ thốt ra chứa đựng một ý nghĩa thầm kín khác hẳn với nghĩa đen của từ…
- Thưa tôn sư, bất cứ nhà tù nào cũng còn tốt hơn là ngục tù của Nhà nước.
Giáo trưởng ngắm nhìn Saít với cặp mắt trong suốt và thì thào khe khẽ:
- Chúa nói rằng bất cứ nhà tù nào cũng tốt hơn là ngục tù của Nhà nước!
Saít lại mỉm cười.Anh gần như thất vọng về cuộc gặp gỡ này. Rồi anh lại hỏi tiếp một cách nồng nhiệt:
- Thưa Giáo trưởng, vậy Người còn nhớ đến con chăng?
Giáo trưởng lại thì thào một cách uể oải:
- Con hãy bằng lòng với hiện tại con ạ.
Mặc dù anh không còn nghi ngờ gì nữa về người Giáo trưởng nhớ đến mình hay không, Saít vẫn cứ hỏi lại cho chắc chắn.
- Và cha tôi là lão già Mara mà Chúa đã mở lượng nhân từ, Người có còn nhớ chứ?
- Xin Chúa hãy mở lượng nhân từ cho mọi người chúng ta.
- Chao ơi! Thời ấy sao mà đẹp thế!
- Bây giờ, con hãy nói chuyện hiện nay đi.
- Thưa, nhưng mà…
- Xin Chúa hãy ban phước lành cho mọi người.
- Thưa, con đã trình với Giáo trưởng là con mới ra khỏi nhà tù hôm nay.
Giáo trưởng lắc lư đầu với một niềm vui bất chợt rồi cất lời thánh ca:
“Bị đóng đinh trên cọc
“Người vẫn mỉm cười hát ca
“Thượng đế đã an bài
“Ta gặp Người theo cách ấy…”
- Thưa Giáo trưởng, cha tôi, mới hiểu được Người… Người đã nhiều lần ruồng bỏ ta, cuối cùng ta tin rằng chính Người quyết định đuổi ta ra ngoài. Bây giờ chính ta, thằng bé Saít này lại tự mình quay lại nơi này trong không khí nhiễm mùi hương khói và lo ngại. Đó là số phận của kẻ vô gia cư có lòng thành nguyện gặp lại Người.
- Thưa tôn sư, con đến thăm Người vào lúc con gái con đã chối từ con.
Giáo trưởng thở dài thốt lên:
- Chúa đặt những huyền bí của Người vào trong các sinh vật nhỏ nhất của Người.
- Con vẫn thường tự nhủ rằng: Nếu Chúa đã ban cho con cuộc sống đến lúc này, thì con sẽ thấy cửa của Chúa mở rộng.
Giáo trưởng đáp lại bình tĩnh:
- Thế còn cửa thiên đường thì con thấy thế nào?
- Thưa, ngay dưới trái đất này cũng không có chỗ cho con nữa và con gái con đã từ chối.
- Con của con thực rất giống bố.
- Thưa đức ông, sao lại thế ạ?
- Con đang muốn hỏi ta một chỗ trú ngụ, không phải con muốn ta trả lời về đứa bé.
Saít gục cái đầu có mái tóc hoa râm của mình vào đôi bàn tay nổi đầy những mạch máu màu nâu.
- Thưa, cha con dạy rằng khi nào gặp khó khăn thì đến cầu xin Người. Con đã làm như vậy…
Giáo trưởng với vẻ bình tĩnh bất biến ngắt lời anh:
- Đúng là con muốn xin ta một chỗ trú ngụ, không có gì khác.
Người Giáo trưởng tỏ ra thêm thân thiện với anh ta, tuy nhiên Saít cảm thấy có một cái gì đó lo ngại tăng lên trong tâm trí, mà không có nguyên nhân gì rõ rệt.
- Thưa, con không phải chỉ mong có một mái nhà che thân, con còn muốn cầu xin Chúa ban cho con phước lành của Người.
Giáo trưởng đáp lại, giọng như hát ca:
- Vậy thì các Bà Thánh trên trời nói rằng: “Vậy con không hổ thẹn khi cầu xin Chúa ban phước lành mà con lại chẳng làm gì để xứng đáng lời cầu xin ấy sao?”
Không gian tĩnh lặng bên ngoài giáo đường bỗng bị tiếng con lừa hí lên phá vỡ và kết thúc bằng một tiếng ré khàn khàn đứt quãng tựa như tiếng nứt nở. Có một giọng hát của ai đó ê a răng: “Ơi hỡi vận may và số phận, biết tìm nơi đâu”.
Nhớ lại ngày trước có lần cha anh bắt gặp Saít hát véo von: “Đố người đoán được ta là ai, hãy thè lưỡi ra cho chú mèo…” nên đã quở mắng nhẹ nhàng rằng không phải là lúc hát như vậy, khi chúng ta đang trên đường đến với Đức giáo trưởng thánh thiện. Cha anh đã tham gia vào đàn hát thánh ca, mắt nhắm nghiền, giọng kéo dài, mồ hôi nhễ nhại.Còn anh ngồi nghỉ dưới gốc cây cọ ngắm nhìn hai dòng tín đồ dưới anh đèn dâu, miệng nhấm quả chà là khô. Anh cảm thấy sung sướng lạ lùng. Đó là thời kỳ trước khi bén hơi men tình yêu.
Bây giờ thì người Giáo trưởng đã nhắm mắt như ngủ.Còn Saít thì đã quen thuộc với khung cảnh này đến mức anh không còn cảm giác gì với mùi hương khói.Anh nhận thức ra rằng thói quen là nguồn gốc của bệnh lười biếng, sự chán ngán và chết chóc.Chính thói quen là nguyên nhân gây ra những bất hạnh cho anh, phản bội, vô ơn bạc nghĩa.Tóm lại mọi cố gắng của một đời người đã bị vung phí. Anh cất tiếng hỏi để đánh thức Giáo trưởng:
- Thưa, Người vẫn khuyến khích các buổi hát thánh ca đấy chứ?
Người Giáo trưởng không đáp. Điều đó làm cho anh lo lắng và anh lại tiếp tục:
- Thưa, Người không bằng lòng cho con tới gặp Ngươi ư?
Giáo trưởng mở mắt đáp:
- Người đi cầu xin cũng như người được thỉnh cầu đều yếu đuối cả. (Kinh thánh đạo Hồi)
- Nhưng thưa đức ông, người là chủ nhân ở đây.
- Chủ nhân nơi này chúc mừng con giống như mọi người khác, - Giáo trưởng đáp với giọng hào hứng.
Saít mỉm cười, phấn chấn trong lòng, nhưng giáo trưởng tiếp ngay:
- Riêng tôi, thì tôi chẳng phải là chủ nhân của cái gì hết.
Vệt nắng của mặt trời lọt vào chiếu trên tường đã dịch lên cao.
- Thưa Đấng bề trên, dù sao con cũng được ở đây như ở nhà con vậy, giống như mọi người đã đến thỉnh cầu. Và trình với đức ông, Người xứng đáng với mọi lời cảm ơn.
- Lạy Chúa, Người biết con không có đủ sức để cảm tạ Người, vậy xin Người hãy thay lời con. Đấy chính là lời của những người biết ơn vậy.
Saít van nài:
- Thưa Giáo trưởng, con rất cần vài lời an ủi.
- Đừng có nói dối thế.Giáo trưởng nhẹ nhàng quở trách. Giáo trưởng cúi đầu, bộ râu trải lên ngực và lại đắm mình trong tư thế suy ngẫm. Saít ngồi chờ kiên nhẫn, lúc sau anh lui lại ngồi tựa vào một chồng sách ngắm nghía người Giáo trưởng tôn kính. Khi thấy ngồi chờ đã quá lâu, Saít lại hỏi:
- Thưa, có việc gì cho con làm không ạ?
Giáo trưởng không để ý đến những lời nói của anh. Và yên lặng trở lại như cũ. Saít phát hiện ra một bầy kiến xếp thành hàng đang tìm cách kiếm lấy một lối đi qua những nếp chiếu bị gấp. Đột nhiên Giáo trưởng phá tan sự im lặng:
- Con hãy cầm lấy quyển kinh (Đạo Hồi) Coran và đọc đi.
- Thưa, con mới ra khỏi nhà tù hôm này và con chưa làm lễ rửa tội.
- Vậy thì hãy làm lễ đi rồi đọc kinh.
Saít than phiền:
- Con giá con đã chối từ con, nó đã sợ con, coi con như một quỷ dữ và trước đó thì mẹ nó đã lừa dối con.
Giáo trưởng nhẹ nhàng nhắc lại:
- Con hãy làm lễ rửa tội đi và đọc kinh sau.
- Vợ con đã lừa dối con để lấy một kẻ khốn nạn trong đám đàn em của con, nó là một thằng vô tích sự, như một con chó đần độn. Sau đó cô ta lại dựa vào việc con bị giam giữ trong tù mà xin ly hôn để lấy nó.
- Con hãy làm lễ rửa tôi đi và đọc kinh.
- Thưa, tài sản, tiền bạc và các đồ châu báu của con bị nó chiếm lấy hết. Nó đã trở thành đầu đảng và tất cả bọn trộm cắp trong khu phố đều là tay chân nó cả.
- Con hãy làm lễ rửa tội đi và đọc kinh. Giáo trưởng nhăn mặt và các mạch máu hằn rõ trên trán.
- Con không phải bị bắt vì cảnh sát tìm ra. Không, con tin chắc rằng sẽ thoát như thường, nhưng thằng chó chết đó đã báo cảnh sát với sự đồng tình của vợ con. Sau đó là các tai vạ liên tiếp ập đến và con gái con đã chối từ con.
Giáo trưởng nhắc lại với giọng khiển trách:
- Con hãy đọc lời rửa tội rồi đọc kinh đi. Hãy nói:
“Hãy theo ta, nếu ngươi yêu Chúa,
“Chúa sẽ yêu quý ngươi.”
Con hãy đọc cầu kinh: “Tôi đã chọn Người cho chính tôi” và nhắc lại những câu kinh:
“Yêu quý Chúa trên trời tức là chấp thuận, tuân theo lời phán bảo của NGƯỜI, từ bỏ những điều NGƯỜI đã ngăn cấm và chịu theo như NGƯỜI đã an bài,”
Đấy đúng là điều cha tôi vẫn thường nghe và lắc lư đầu nhịp nhàng. Cha thường nhìn tôi chăm chú và mỉm cười như có ý bảo hãy nghe kỹ và học đi. Tôi rất thích và tôi muốn mọi người quên tôi đi để tôi có thể trèo lên cây cọ. Hoặc ném một viên sỏi trúng làm rơi một quả chà là. Hoặc có khi cùng hát với các tín đồ mà họ không hay biết. Một hôm Saít khi trở về khu nhà sinh viên ở Ghidếch, trông thấy cô ta cầm giỏ đi tới. Cô ta xinh đẹp và dễ thương và tấm thân cô ta đã hội đủ tất cả các niềm vui thú dành cho ta trên thiên đường và những nỗi thống khổ dưới địa ngục. Điều gì làm ta bị quyến rũ đến thế trong tiếng hát của các tín đồ?
Nhìn thấy khuôn mặt của Giáo trưởng, ta trông thấy đường sống và đã thấy lấp ló ánh trăng và khuôn mặt người thương yêu. Tuy nhiên mặt trời chưa tắt bóng. Tia nắng cuối cùng vẫn còn rọi qua khung cửa tò vò. Đêm dài đang đợi ta. Đây là đêm tự do đầu tiên. Trước đêm tối ra vẫn đơn lẻ. Hay nói cho đúng ra là đơn lẻ cùng Giáo trưởng đang lưu lạc trên thiên cung, người lại đang nhắc lại những lời nói khó hiểu cho một người đã bị kết án dưới lửa của Âm cung.
Liệu có một chỗ nào khác để trú thân không?