Số lần đọc/download: 0 / 32
Cập nhật: 2020-11-30 17:54:09 +0700
Phần Thứ Hai: Bắc Tiến
Ngô Cầu đã rụng đầu!
Bản đồ Thuận Quảng đã bôi lại màu sắc.
Keo thứ nhất vật Trịnh đã hái được những tiếng hò reo đắc thắng lẫy lừng!
Nguyễn Huệ, từ đây, tự do nhẩy múa quát thét trên vũ đài quân sự và chính trị…
Đứng bên Huệ, Cống Chỉnh “lên dây cót” cho “đồng hồ thời cục” một phen xoay chuyển…
Chỉnh nói với Nguyễn Huệ:
– Việc binh, cốt quý thần tốc. Tướng quân mới đánh một trận đã lấy được Thuận Hóa: cái oai thần võ ấy làm cho mảnh đất Bắc Hà đã phải rung động! Tình thế dễ dàng như giương thẳng dao chẻ tre! Tướng quân nên thừa thắng, cứ đánh dấn đi, thì lấy thiên hạ chắc dễ như trở bàn tay. Vả, hành binh có ba điều: “thời”, “thế” và “cơ”. Nếu gặp dịp có đủ ba điều ấy thì đâu chẳng nắm được phần thắng? Ngoài Bắc bây giờ: tướng biếng nhác, quân kiêu rông, triều đình không có kỷ cương gì cả! Ta nhân dịp đại thắng này mà kéo quân ra diệt kẻ loạn vong, có khó gì? Xin Tướng quân đừng bỏ qua “cơ”, “thời”, “thế” này!
Huệ trầm ngâm:
– Bắc Hà nhân tài còn nhiều, coi khinh thế nào đặng?
– Nhân tài ngoài Bắc chỉ có một Chỉnh này thôi. Chỉnh đã đi rồi, thì nước rỗng không! Xin Tướng quân đừng ngờ.
Huệ cười:
– Chẳng đáng ngờ người nào khác, có chăng chỉ đáng ngờ ông.
Chỉnh thất sắc, xin lỗi:
– Ý tôi muốn nói quá đi như thế: Chỉnh đã là một tên ngu đần hèn mọn, vậy mà ngoài Bắc không ai hơn Chỉnh, đủ biết trong nước vô tài đến thế là cùng!
Huệ lại ngọt ngào yên ủi:
– Chốc lát đi giựt lấy cái nước đã vài trăm năm kia, người ta sẽ cho quân mình là vin vào cái danh nghĩa chi mà làm vậy?
– Nay, Bắc Hà đã có vua, lại có chúa: thật là việc đại biến xưa nay chưa từng có. Họ Trịnh tiếng rằng phụ chính, nhưng kỳ thực hiếp đáp nhà vua! Người trong nước, từ lâu vẫn cho làm thế là quấy! Sở dĩ họ không dám cựa lên chẳng qua vì sức không nổi. Tướng quân quả hay vin lấy cái danh “phò Lê, diệt Trịnh” mà hiệu triệu thiên hạ thì ai người chẳng hưởng ứng? Nghìn năm mới có một dịp này.
– Ông nói phải lắm! Song le mang tiếng là kiểu mạng thì sao? (Ý nói chưa được Nguyễn Nhạc sai đi, mình đã tự tiện đem quân ra Bắc: bị cho là mạn phép làm liều thì sao?)
– Trong Xuân Thu truyện có nói: “Kiểu là chuyện nhỏ, nhưng lập được công lại là việc lớn.” Thế là có công, sao lại gọi là “kiểu” được? Huống chi ngài không nghe nói ư: “Ông tướng cầm quân ở ngoài dù có mạng lịnh nhà vua truyền ra cũng mặc?”
Cuộc trao đổi ý kiến này là một chương trình, một phương lược xoay lại thời cuộc hồi cuối Lê trung hưng, là những nhát thuổng, nhát cuốc sắp bổ trên nền tảng mà chúa Trịnh Kiểm đã xây bằng những viên đá “tái tạo nhà Lê” rất kiên cố, cũng lại là cái thang để Nguyễn Huệ từ nấc Long Nhương Tướng quân trèo lên bực Bắc Bình vương, rồi leo lên cái nấc Quang Trung Hoàng đế.
Bốn chữ “phò Lê diệt Trịnh” thật là cái lá nhãn “chính trị” để Tây Sơn lợi dụng mà diễn tấn hài kịch “thay họ đổi ngôi!”
Cái động cơ Chỉnh khuyên Huệ kéo quân ra lấy Bắc Hà, có người bảo, là do Chỉnh muốn báo thù cho Hoàng Đình Bảo và muốn tiện bề quay về cố hương nên mượn thế lực Tây Sơn để đạp đổ Trịnh Tông, diệt phăng họ Trịnh.
Nói vậy không phải là người biết Chỉnh. Chỉnh là một tay gian hùng. Cái gì có lợi cho Chỉnh thì Chỉnh mới làm, chứ có nghĩ gì đến tình với nghĩa. Cái khẩu hiệu “phò Lê” của Chỉnh chỉ là chuyện nhân nghĩa hão để phỉnh gạt dân chúng Bắc Hà bấy giờ đấy thôi. Chứng cớ: sau được vua Lê Chiêu Thống vời Chỉnh vào kinh hộ vệ, Chỉnh lại theo gót chúa Trịnh, hết sức hiếp đáp vua Lê. Chỉnh, đối với vua Lê còn thế, huống chi Đình Bảo? Vậy có thể nói: Việc Chỉnh vạch đường “Bắc tiến” cho Tây Sơn quyết không phải vì lòng muốn đền bồi Đình Bảo, cố đánh Trịnh Tông để trả thù cho chủ nhân xưa nay vậy!
Nguyễn Huệ, sau khi bị Chỉnh uốn lưỡi thuyết siêu, không ngần ngại gì mà không gươm, cờ thẳng chỉ ra Bắc.
Công việc Bắc tiến tức thì sắp đặt: Chỉnh làm thủy quân tiên phong, sửa soạn chiến thuyền, đem thủy quân vượt biển đi trước. Huệ hẹn với Chỉnh: khi đến Vị Hoàng (nay là Nam Định) thì cướp lấy kho lương ở đó, rồi đốt lửa làm hiệu để báo tin cho Huệ biết.
Để Nguyễn Lữ đóng giữ Thuận Hóa, Huệ viết thư về Quy Nhơn báo cáo cho Nhạc biết, rồi gươm sai, cờ vía, Huệ đốc suất hai mặt thủy lục ầm ầm rần rộ kéo ra.
Chỉnh đem quân đi, trước ra cửa Việt Hải61, rồi vào bến Nghệ An. Đến đâu cũng sai vài trăm du binh lên bộ đánh phá ở đó, làm cho quân thanh thêm mạnh, chiến khí thêm hăng và khiến dân tình bên Trịnh càng thêm xao xuyến, khiếp sợ.
Chậy! Chậy! Bọn Bùi Thế Tụy62, Tạ Danh Thùy, là những trấn tướng ở Thanh, Nghệ đều bỏ thành chạy!
Chỉnh đến Vị Hoàng trước nhất, lấy được trăm vạn hộc63 thóc dùng làm quân lương, (ngày mồng 6 tháng sáu năm Bính Ngọ, 1786).
Đồn binh bên Trịnh đóng ở đấy cũng theo mấy tướng Thanh, Nghệ mà chạy trốn nốt!
Xa xa thấy lửa hiệu bốc lên từ khoảng sông Vị, non Côi, Nguyễn Huệ biết quân Chỉnh đã hái được bông hoa “thắng lợi” đầu mùa, lại càng nức lòng hăng hái, tức thì dẫn một nghìn chiến thuyền, vượt biển ra Bắc.
Gió đông nam thổi… thổi mạnh!
Cưỡi gió thuận, lướt dòng xuôi, đại đội chiến thuyền cứ vùn vụt tiến.
Trên trời, dưới nước mênh mông, cái nhuệ khí của quân Tây Sơn bấy giờ có lẽ đánh bạt cả loài thủy tộc!
Viết đến đây, kẻ cầm bút này lại chạnh nhớ đến mấy câu của nhà văn Tô Thức tả cái hào hùng của Tào Mạnh Đức trên sông Xích Bích đầy oai thanh:
“… Phương kỳ phá Kinh Châu, hạ Giang Lăng, thuận lưu nhi Đông dã: Trục lư thiên lý, tinh kỳ tế không… cố nhất thế chi hùng dã!...”64
Mấy câu này, không ngờ ngót ngàn năm sau lại hợp như in vào cảnh anh hùng Nguyễn Huệ khi cưỡi gió đông nam, kéo thủy binh từ Nam ra Bắc dưới những bóng cờ rợp trời và giữa những tiếng hò reo vui vẻ của toán hùng binh đắc thắng.
Kéo quân đến Vị Hoàng, Nguyễn Huệ họp binh với Chỉnh: thanh thế càng thêm mạnh lắm.
Thực lực bên Trịnh?
Bao nhiêu những cái ươn hèn, đớn kém của các tướng trấn thủ ở biên thùy đã kéo hết tấm màn “màu mỡ” để lộ cho người ngoài trông thấy những cái ẩn tình “thối nát” ở trong mà bấy nay họ vẫn giữ rất bí mật.
“Đùng! đùng! đùng…” Tiếng súng quân Tây Sơn đã ầm ĩ ở cửa ngõ!
“Loạn to! Loạn to! Loạn to…!” nhân dân nhìn nhau bằng con mắt kinh hoảng, thất vọng! Họ là hạng người sống không được bảo đảm. Bấy lâu họ, đối với triều đình, chỉ phải làm nghĩa vụ chứ không được hưởng quyền lợi tí gì! Trông về tương lai, ai sẽ là người nâng đỡ họ?
Trước đó, vấn đề “Phú Xuân” là một việc rất quan trọng trong chương trình nghị sự của Chính phủ.
Trong đám phủ liêu65 nhiều người đề nghị:
– Thuận Hóa xa xôi vốn không phải là bờ cõi của triều đình, Tiên triều vì không suy kỹ, nghĩ sâu, nên mới nay đi chinh phạt, mai đặt thú binh (quân đóng canh giữ), rầm rầm rộ rộ, rút cục chỉ hao công, tốn của, chẳng được ích gì! Bây giờ phe địch lấy mất Thuận Hóa cũng là một cái may cho ta, vì ta khỏi phải đặt thú binh cho thêm nhọc nữa. Thiết tưởng nay ta chỉ nên định rõ cái cương giới cũ, rồi cắt quân đóng giữ từ Nghệ An trở ra Bắc là hơn. Vì Thanh Hoa có lăng tẩm cần phải giữ và ở đó có địa hiểm có thể giữ vững được. Ta cho mất Thuận Hóa là may, thì họ chắc cũng lấy sự xâm lấn ta làm gương răn lại. Vả, “quân mọi phản nghịch” kia được ăn miếng ấy đã no nê rồi, nó đâu dám đột nhiên xông ra nữa?
Luận điệu đó đánh ngay vào chỗ yếu của những bộ óc lười biếng nhút nhát và cầu an, được cả triều đình tán đồng.
Từ đó, ai nấy yên tâm trong giấc mơ màng: hình ảnh Tây Sơn bị xóa nhòa trong trí nghĩ.
Nay?
Trấn Nghệ An đã tan!
Trấn thủ Bùi Thế Tụy đã chạy trốn sau khi đốt cháy dinh trại.
Nguyễn Như Thái đã được Nguyễn Huệ đặt lên ngồi ghế trấn thủ Nghệ An. Trấn Thanh Hoa cũng vỡ: Thùy Trung hầu Tạ Danh Thùy, trấn thủ ở đó, cũng chạy nốt!
Những tin sét đánh đó choáng tai Trịnh Khải.
Làn sóng “kinh hoàng” tràn ngập khắp cả đô thành!
Để đối phó với tình hình gắt gao, Trịnh Khải sai Thái Đình hầu Trịnh Tự Quyền làm thống lĩnh, đem quan quân trong 27 cơ hiệu đi Thanh Nghệ
nghinh chiến.
Quyền, chùng chình hơn 10 ngày, mới gắng gượng cất quân ra đi. Khi Quyền vừa kéo quân lìa khỏi Hoàng Thành được 30 dặm, quân Tây Sơn đã kéo gió đông nam, “bay” đến Vị Hoàng với cái thắng lợi oanh liệt (Bính Ngọ, 1786).
Chúa Trịnh phải đổi lại mệnh lệnh điều khiển:
Ra giữ Sơn Nam: Trịnh Tự Quyền.
Đốc suất thủy đạo: Đinh Tích Nhưỡng66.
Để gây thế “ỷ dốc” với lục quân của Quyền, Nhưỡng đem các đội thuyền Vệ tả, Vệ hữu, Ngũ hầu, Ngũ thiện và Ngũ Trung trạch đến đóng ở cửa sông Lục Môn67.
Hoàng Tư Quyền đóng đại đội ở Kim Động (nay thuộc Hưng Yên).
Chướng Trung hầu Đỗ Thế Dận68 trấn thủ Sơn Nam, đem bộ binh dàn ở bờ sông Phù Sa69.
Đinh Tích Nhưỡng dàn chu sư trong sông Lỗ Giang, bày thành trận thế chữ “nhất”.
Gió đông nam dào dạt thổi70.
Nước lụt mới rút cạn.
Đội tiền phong Tây Sơn giương buồm thẳng tiến…
Theo sau năm chiếc thuyền mông xung71, đại quân “Đàng Trong” cứ mạnh mẽ lướt sóng.
Thấy thuyền mông xung bên địch xông đến, Nhưỡng hô quân nạp đạn vào súng “bảo lân” ùa ạt bắn…
Để tránh trận mưa đạn, quân Tây Sơn tạm lui vào bến sông.
Đàn dơi chao chát đớp muỗi trên mặt sông.
Màn tối cuốn cảnh vật vào trong đêm trường rùng rợn.
Khác với lúc thường, khúc sông Lục Môn đêm nay “sống” trong cảnh tượng hoạt động dưới bóng đèn đuốc lập lòe.
Lừ đừ vài mươi chiếc thuyền, nghênh ngang kẻ vác giáo, người cầm kích, thuận buồm cứ tiến… tiến bức đến tận tiền đội bên quân Trịnh.
Nhưỡng thúc quân hăng hái bắn. Xa xa nhận thấy một chiếc thuyền Tây Sơn bị đắm chìm.
Nhưng còn các thuyền khác? Càng bắn, càng thấy im lặng, im lặng như tờ, không một ai bắn lại. Cũng không một ai theo giọng chế giễu của quân Đông Ngô xưa mà hô lớn: “Tạ ơn Thừa tướng cho tên”!
Trời đã sáng. Trí Nhưỡng bấy giờ mới sáng.
Mấy chục chiếc thuyền ấy? Rặt thuyền không!
Bọn quân bơi chèo, cầm binh khí kia? Toàn bồ nhìn!
Thôi, mắc mưu Nguyễn Huệ rồi! Đinh Tích Nhưỡng đã hi sinh hết cả thuốc đạn để đổi lấy mớ xác “bồ nhìn”!
Phải bỏ thuyền, quân Nhưỡng chạy lên cạn!
Đại đội binh thuyền Tây Sơn kế tiếp sấn đến.
Đạn súng đại bác vèo vèo bay.
Nhiều cây cổ thụ trên bờ răng rắc gẫy!
Trước cái sức mạnh đó của súng đạn Tây Sơn, quân Nhưỡng hoảng sợ.
Nguyễn Huệ thúc toàn quân lanh lẹ xông lên bờ, hăng hái đuổi đánh…
Quan quân Bắc Hà chết như ngả rạ! Người nọ gối lên người kia! Đinh Tích Nhưỡng? Chiếc thân chạy thoát!
Quân Đỗ Thế Dận? Bỏ trận chạy trốn!
Quân Trịnh Tự Quyền! Chưa đánh chác gì đã tự tan vỡ trước!
Thuyền Tây Sơn cứ tiến và tiến mãi đến Hiến doanh.
Thế là trấn Sơn Nam hoàn toàn lọt vào tay Nguyễn Huệ (ngày 24, tháng sáu năm Bính Ngọ, 1786).
Vấn đề “chiến thủ” lại được Trịnh phủ rối rít gấp rút bàn.
Một phương sách sau này nếu được ứng dụng có lẽ Long Nhương Tướng quân Nguyễn Huệ chưa chắc đã cắm cờ thắng trận trên thành Thăng Long một cách dễ dàng:
Nguyễn Lệ72: cựu Tham tụng! Hớt hải đến từ Nghệ An dâng kế cho Trịnh Khải:
– Nên cắt tướng giữ lấy kinh thành. Còn chúa thì hộ giá Lê Hoàng lánh đi Sơn Tây: nắm giữ lấy miền thượng du để tính nước đi về sau. Ở khúc sông bên bãi Tự Nhiên nên thả chông chà để át thuyền bè bên địch. Bổ đồn đóng bộ binh ở hai bên bờ sông để giữ cho khỏi xổng xểnh. Lại dùng và ban quan tước cho bọn thủy phỉ (giặc cướp trên đường thủy) khiến chúng khuấy rối mặt sau thủy quân của Tây Sơn. Tây Sơn mượn tiếng tôn phù, nếu không níu được vua Lê thì lui tới đều bất lợi. “Quân mọi”, lương hết, thế tất không ở lâu được. Ta nên truyền hịch cho các hào mục ở miền Thanh, Nghệ dấy binh chẹn lối họ về. Như thế dù không bắt sống được Nguyễn Huệ, cũng làm Tây Sơn phải bị trọng thương. Chứ giờ đánh với họ thì tất nhất bại đồ địa, vì tụi kiêu binh của ta không thể dùng được.
Chiến thuật ấy của Nguyễn Lệ suýt được chúa Trịnh làm theo nhưng lại bị kiêu binh phá đám!
Vu vạ cho Lệ dắt “giặc”về nhà, bọn kiêu binh tụ họp lại, ồn ào, rầm rĩ, thả hơi huyên náo vào bầu không khí rối ren. Rồi chúng sùng sục chực bắt giết Lệ. Lệ phải chạy lên Sơn Tây.
Tình hình Bắc Hà càng phút càng trầm trọng!
Nhân dân ngong ngóng đón ngày tương lai, tốt đẹp hơn…
Một lá hịch giết một đời vương
Nguyễn Huệ, sau khi hạ được Sơn Nam, truyền hịch đi khắp các lộ, tỏ bày công việc diệt Trịnh, phò Lê.
Như mưa trút, gió giựt, tin quân tấp nập từ biên thùy bay về Trịnh phủ, làm cho các “ngài” mão cao áo rộng trống ngực thình thình!...
Chiến?
Thủ?
Tính sao đây?
Chẳng một ai dám thò tay gỡ mối tơ vò ấy! Cũng chẳng một ai muốn đeo đá vào mình!
Quan võ cũng như quan văn, thảy đều bối rối hoảng sợ, tất tả lo việc gia đình: giữ vợ gìn con, chôn tiền, giấu của… Quân sự? Mặc! Việc dân, việc nước? Cũng thây!
Chạy loạn!...
Dân chúng nhôn nhao chạy loạn! Cõng trẻ, dắt già, rình rịch luôn mấy ngày, họ bỏ thành chạy trốn. Nhưng trốn vào đâu? Vào lối tiền đồ tối tăm, không đảm bảo!
Trong cơn gấp rút, Trịnh Khải cố đi một nước để gỡ thế cờ bí: với quận Thạc Hoàng Phùng Cơ đem năm trăm quân nghĩa dũng từ Sơn Tây về kinh hộ vệ.
Mấy lời hăng hái của quận Thạc, khi vào ra mắt, làm cho chúa Trịnh càng thêm phấn khởi tinh thần:
– Chín cha con nhà tôi xin đem cái chết để đền ơn nước, chứ quyết không chịu cùng sống với giặc!
Trầm trồ khen, rồi chúa Trịnh ban cho 5.000 lạng bạc để Phùng Cơ dùng vào việc binh.
Lấy tư cách vị lão tướng, gánh công viêc “phi thường”, Cơ xách túi bạc ra, lo việc binh bị. Trong một ngày “bạo vì tiền”, Cơ mộ được hơn nghìn thủ hạ.
Quận Thạc, cùng tám con (kể cả rể)73, đem binh ra đóng ở hồ Vạn Xuân74.
Tứ thị thủy sự dàn thuyền ở bến Thúy Ái75.
Còn chúa Trịnh? Mặc nhung phục, cưỡi voi, đem hết binh lính trong thành ra ngoài cửa Tây Long76, bày trận ở dưới Ngũ Long lâu: hỏa pháo bắc, binh trượng bày, quân hộ vệ san sát… (ngày 25, tháng sáu, năm Bính Ngọ, 1786).
Gió đông nam vẫn lộng!
Mặt thủy vô cùng xung yếu!
Đánh tan chu sư của Đinh Tích Nhưỡng, Tây Sơn làm chủ suốt cả một dải trường giang.
Thừa thắng, Nguyễn Huệ kéo quân thẳng tiến kinh kỳ.
Cờ rợp trời. Trống trận lay động sóng. Quân Tây Sơn cặp bến Nam Dư.77
Bỏ thuyền, lên cạn, họ đánh úp quân tứ thị thủy hiệu của Trịnh ở cửa sông Thúy Ái (ngày 26, tháng sáu, năm Bính Ngọ, 1786).
Trận đánh úp này cực kỳ thần tốc, nên quân Trịnh không kịp trở mình, phải đại bại dưới bóng cờ Long Nhương Tướng quân.
Số là, lầm tưởng quân Tây Sơn vẫn còn ở xa, quân Trịnh không để ý đề phòng, cứ việc phóng tâm: neo thuyền, lên bãi, tỏ vẻ ung dung trong lúc đáng phải cơ cảnh cẩn mật. Chẳng dè đại đội chu sư “Đàng Trong” ập đến, đánh rốc vào chiến tuyến Thúy Ái ở Thanh Trì. Quân Trịnh bối rối hoảng hốt, không kịp xuống thuyền, tán loạn chạy!
Quân Nam vặn súng cự thuần ầm ầm bắn… bắn chết được người chiến sĩ can đảm nhất bên Trịnh: Ngô Cảnh Hoàn78, quản tiền phong cơ.
Thuận dao chẻ tre, Tây Sơn bắt được hết cả thuyền mành và khí giới của Trịnh.
Trước đó, thấy đồng bạn tan vỡ, tình thế nguy ngập, Ngô Cảnh Hoàn cứ làm phận sự đến phút cuối cùng: tay cầm thanh đao, đứng ở đầu thuyền Trung Trạch, cự chiến hơn một khắc. Sau thế cô, sức kiệt, trúng đạn của súng cự thuần bên Tây Sơn, Ngô phải gửi mình xuống dòng Thúy Ái trong mát.
Trận thua! Chồng chết! Một cái tang đau đớn cho Phan Thị Thuấn, ái thiếp của Ngô.
Nhưng nàng Phan cứ trấn tĩnh với can đảm và nghị lực, âm thầm trong cảnh sinh hoạt quê mùa, nàng vẫn bận thường phục, có khác chăng chỉ kém lúc thường cái vẻ diêm dúa, óng ả và trau chuốt. Nàng cười nhạt trước những tiếng mai mỉa nông nổi và những cái ngấm nguýt lố lăng! Nàng trả lời họ bằng việc làm sau khi quân Tây Sơn rút khỏi Bắc Hà: Mặc đồ tang, nàng đến bên sông Thúy Ái, tế một tuần, khóc một đêm rồi lênh đênh một chiếc thuyền con, dưới vòm trời âm u thảm đạm, nàng tìm bạn trăm năm nơi Thủy phủ!
Thanh danh nàng đã rửa mặt cho quân Trịnh: cái nhục thua trận ở sông Thúy Ái này.
Sau khi bắn chết được Ngô Cảnh Hoàn, quân Tây Sơn đổ xô lên cạn, xông đánh vòng trận Phùng Cơ.
Quân Phùng Cơ, bấy giờ, đang ăn. Thấy quân Nam ập đến, ai nấy kinh khiếp rụng rời, không kịp xếp thành hàng ngũ, chạy hoảng như đàn cừu trước miệng sói hung hăng!
Xông ra chận đường quân Tây Sơn, Mai Thế Pháp79, thuộc tướng của Phùng Cơ, vác đao, thúc ngựa, tỏ gan mật trên chiến trường. Pháp vẫn đánh và cứ đánh mặc dầu bộ thuộc đều tan vỡ cả.
Giết được hơn 10 người quân “Đàng Trong” bằng cái khí lực vụt hăng vì sắp tàn tạ, Pháp túng thế quá, phải nhảy tùm xuống sông với thanh đại đao vẫn khư khư vác.
Quận Thạc, thấy quân Tây Sơn đánh rát tới nơi, sáu con đã phải làm mồi cho đạn súng và mấy chục thủ hạ cũng đã chết tại trận rồi, bất đắc dĩ phải cùng con trai là Hoàng Phùng Gia và con rể là Nguyễn Trọng Thu80 cố sống chết, cướp lấy một đường chạy về Hưng Hóa.
Không đuổi theo Phùng Cơ, quân Tây Sơn được thể, cứ việc xông pha chém giết: quân Trịnh làm mồi cá trong hồ Vạn Xuân không biết bao nhiêu mà kể.
Phá được quân Phùng Cơ rồi, Tây Sơn, trống đánh vang trời, rần rộ kéo thẳng đến bến Tây Long bắn “hỏa hổ” ầm ầm dữ dội…
Trịnh Khải, tay cầm cờ lịnh, cố thúc chư quân xông vào chống đánh, song chẳng ma dại nào dám liều mạng hi sinh!
Tây Sơn bỏ thuốc súng vào ống, đốt lửa ném ra: Quân Trịnh không sao đương nổi.
Họ lại lấy hỏa hổ đốt voi bên Trịnh: voi sợ, chạy cuống81!
Cơn thất bại đang hầm hầm trút xuống! Trịnh Khải thúc voi quay về thành, chực vào vương phủ, nhưng đến cửa Tuyên Võ thì thấy cờ Tây Sơn đã ngạo nghễ bay trên sào huyệt “nhà chúa” rồi. Lật đật do cửa An Hoa, Khải chạy về phía tây. Theo sau chúa Trịnh còn có hơn trăm quân tàn (ngày 26, tháng sáu, năm Bính Ngọ, 1786).
Ngai “chúa” họ Trịnh cũng theo gót Khải đổ từ đây!
Trận này Nguyễn Huệ càng tán thán cái sức hùng cường của quân mình, càng phải ngạc nhiên trước cái bất lực của quân Bắc: đánh chác toàn nhờ Nghĩa binh, còn Ưu binh và Nhất binh ăn hại công khố, bấy lâu đến nay chỉ là đàn vịt chạy dài!
Đắc thắng! Nguyễn Huệ kéo quân vào thành Thăng Long với cái triêu khí đang hăng hái.
Thần Tàn phá đang lù lù xông đến: bao nhiêu nhà cửa quanh Trịnh phủ, sau một cơn khói lửa, chỉ còn mảnh vụn tro tàn.
Để thưởng tướng sĩ cái công vào tử ra sinh, Nguyễn Huệ, nhà chiến thắng, đem phân phát cho họ hết các gấm, vóc và vàng báu trong Trịnh phủ. Rồi lại đó, Nguyễn Huệ đóng quân, sống những phút huy hoàng xán lạn của đời vương giả.
Kho Hữu viên mở rộng: nhân dân ở xung quanh kinh thành nhờ bàn tay “Đức Lệnh” Tây Sơn, được hưởng cái ơn chẩn tế.
Trật tự trong thành hoàn toàn khôi phục, sau khi lệnh chiêu an ban bố khắp nơi.
Bá cáo với dân nước? Nguyễn Huệ, muốn tỏ ý phò Lê, vẫn dùng ấn “Ngự tiền chi bảo” của vua Hiển Tông. Còn hiệu lệnh trong quân, Tây Sơn dùng riêng ấn chương đề chữ “Phụng Thiên thảo tội”.
Những nhà còn lại trong thành, muốn tránh sự cướp phá, đều tỏ ra không phải về phe với Trịnh. Mấy chữ này đề ở cổng ngõ dùng làm cái bùa hộ thân: “Nội điện82 gia thần” hoặc “Hữu quân83 gia thuộc”.
Giữ kỷ luật và theo quân lệnh; quân Tây Sơn rất nghiêm, không hề xâm phạm của dân một mảy tóc.
Khi quân Tây Sơn mới đánh đến Vị Hoàng, nhiều tay trung thần của chúa Trịnh vội ôm hai chữ “Cần vương” đi kêu gào thiên hạ: Chính thần Trương Đăng Quỹ84 và Thiêm Sai tri lại phiên Lý Trần Quán85 đều chạy theo cái mục đích đó.
Nhưng quân Cần vương chưa mộ xong, “vương” (chỉ chúa Trịnh Khải) đã bị bắt làm tù binh và tự
chết rồi!
Nguyên, sau ngày 26, tháng sáu, năm Bính Ngọ (1786), Trịnh Khải thua trận cuối cùng ở Tây Long, phải chạy lên Sơn Tây. Định ẩn náu ở làng Giao Cốc, Khải sẽ liệu tính nước gỡ lại sau này.
Khi qua làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, chư quân đã trốn hết, Khải vào ngồi trong một cái quán, nói vờ là quan Hành tham long đong chạy loạn86.
Rồi người cho gọi Lý Trần Quán đến để bàn việc vì Khải biết Quán đương hoạt động ở vùng đó.
Bái quỵ! Một thứ lễ đã làm cho Khải thêm oai trong bình thì, chẳng dè chính nó lại làm cho Khải bấy giờ – thời loạn – phải chết uổng!
Quả thế, cái lễ nghi “bái quỵ” đã giết Trịnh Khải trong khi chạy loạn!
Nguyên, Lý Trần Quán được triệu đến, thấy Khải đang diễn cái cảnh “mạt lộ” của hạng “vua thua chạy dài”87 tức thì thụp xuống toan làm lễ lạy chào: tỏ lòng “tôi con” trung nghĩa.
Khải tinh ý, vội đưa mắt gạt đi vì sợ người ta nhân đó biết ngay rằng mình là ông “chúa” bại trận.
Món buôn có lời đây! Một dịp làm nên phú quý đây!
Cái cử động giữa Quán và Khải đó đã lọt vào mắt thèm thuồng danh lợi của bọn Nguyễn Trang (tức tuần Trang) và Nho Liễu, người làng Hạ Lôi.
Họ sau khi biết đích “quan Hành tham giả hiệu” ấy chính là chúa Trịnh, tức thì đem vài chục đồ đảng ập đến vây bắt Trịnh Khải khi vừa rời khỏi địa phận làng Hạ Lôi một chút.
Trịnh Khải bấy giờ là một “mối lợi” đối với bọn người hám “miếng lập công”: Tên Ba, người làng Vân Điềm88 cũng xông xáo vào chực cướp lấy chúa Trịnh nhưng không được!
Hay tin chúa Trịnh bị bọn Trang bắt sống, Quán lật đật chạy đến, lấy nghĩa lý khuyên bảo họ, song Trang giội ngay thùng nước lạnh vào lòng sốt sắng của Quán bằng câu tàn nhẫn này:
– Sợ thầy89 không bằng sợ giặc. Yêu chúa không bằng yêu mình.
Lời đạo đức của Quán đã không thuyết nổi Trang!
Giọt nước mắt, tiếng van lơn của Quán lại không xiêu được lòng Trang!
Giữa đêm tối mò mò, khí nóng nồng nàn bức bối, bọn Trang điệu Trịnh Khải xuống thuyền, định trở lên kinh đô Thăng Long để nộp lấy thưởng.
Khi chưa đến bến Tây Long, trong lúc mọi người không để ý, Khải biết cơ không thoát được, liền rút dao tự đâm vào cổ. Vết thương còn nhỏ, sợ chưa chết ngay được, Khải lại thò ngón tay vào móc thêm cho toạc rộng ra (đêm 28, tháng sáu, năm Bính Ngọ, 1786).
Qua ngày 2990, Lý Trần Quán cũng sửa soạn tự chôn sống.
Trước khi chết theo Khải, Quán còn cầm bút viết: “Nước vỡ (!) nhà tan, mình làm chức phủ dụ, chẳng được việc gì, thà chết còn hơn! Chỉ hận một nỗi: không chết trước chúa, lại chết sau chúa!”
Huyệt đã đào xong.
Quan tài đã lù lù đặt.
Lý Trần Quán áo mão chỉnh tề, khảng khái đi tìm cái chết91.
Đậy nắp quan tài rồi! Người ta định luận: Lý Trần Quán chết theo Trịnh Khải!
Xác Khải đã bị nộp. Nguyễn Huệ cho đặt ở ngoài cửa Tuyên Võ, rồi vỗ thây Khải: “Tiếc dữ! Một trang nam nhi như thế này can chi mà phải vội chết! Giả sử biết đàng lui tới, mang mình về với ta đây, đi đâu chẳng giữ được phú quý?”
Quan ván và đồ khâm liệm Trịnh Khải được Nguyễn Huệ lo liệu cho một cách chu đáo. Qua hai ngày sau, Huệ cử hoàng điệt Duy Quyết trông coi việc tang, theo lễ vương giả, táng Trịnh Khải tại đồng Dịch Vọng (thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông).
Đến đây, họ Trịnh hoàn toàn thất bại, người Bắc Hà đua nhau truyền tụng bài hịch do Cống Chỉnh đã thảo dưới cái danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”, trong có những câu sau như:
“Cơn gấp khúc chẳng thương lòng ngoại tộc, đã không rừng đuổi thú thì thôi;
Dấu cưỡi rồng còn đợi đức Tiên quân, lại cuốc lỗ cày sân sao phải!”
Còn Nguyễn Trang? Được bổ làm trấn thủ lộ Sơn Tây, phong Tráng Liệt hầu (hoặc Tráng Nghĩa hầu)92.
Chúa đã chết, nhưng chưa hết chuyện triều đình!
Trận thay nhà đổi họ này là một tai vạ lớn trút trên đầu trên cổ thằng dân thời đó!
Trong khi hỗn quân, hỗn quan, trật tự chưa lấy lại được, dân chúng hạng người không tên, không tuổi phải rốc cạn bao chén cay đắng trong cuộc biển dâu:
Họ kéo nhau xô bồ chạy ra khỏi thành, đi tìm nơi ẩn náu trong cái tương lai đầy bất trắc!
Nhưng, vừa rời khỏi kinh đô Thăng Long, là lò sát sinh chỉ chực làm thịt những kẻ vô tội, họ gặp ngay “hung thần” cướp bóc đứng chận đường: Rắn bắt nhái, chim sẻ mổ bọ ngựa! Bọn “chạy loạn” nay là cái mồi ngon cho những kẻ hung tàn ở phụ cận quanh thành nổi lên như nấm!
Xóm cạnh làng bên tàn phá lẫn nhau.
Quần áo bị bóc lột.
Tiền nong bị cướp giựt.
Tiếng kêu khóc như ri vang động một góc trời đầy sát khí.
Đường xá vắng tanh nhuộm sắc chết.
Gia dĩ, bọn tàn binh, sau cơn thua trận, chạy tản khắp nơi. Chúng cầm gươm, vác súng, kéo đi từng đàn hàng trăm hàng nghìn đứa. Chúng là cái tai vạ ghê gớm cho nhân dân. Trẻ chăn trâu bò hễ thấy chúng kéo đến, thì sợ hãi rụng rời, bỏ của chạy trốn.
Bức tranh loạn ly treo khắp dân gian! Người ta, từng giây, từng phút hồi hộp trong cơn khủng bố kinh hoàng!...
"Đừng lung lạc ta bằng cái danh hão!"
Sau khi thành Thăng Long hoàn toàn lọt vào tay quân Tây Sơn và Trịnh Khải đã cuốn hết cơ đồ vương bá xuống nơi ở cuối cùng, Nguyễn Huệ sai chư tướng đem quân đóng giữ Hoàng Thành, lấy lại trật tự. Quân lính Tây Sơn rất nghiêm, không lấy của ai một mảy tóc. Người Bắc Hà bấy giờ gọi họ là “cha” vì “cha” là tiếng dân tục đương thời dùng kêu quân lính93.
Ngày 26, tháng sáu (Bính Ngọ 1786), Nguyễn Huệ cho người vào nói với vua Lê Hiển Tông: xin đến ngày mai, sẽ vào bệ kiến.
Qua bữa sau, Huệ dẫn các tướng bộ hạ là bọn Cống Chỉnh vào điện Vạn Thọ, xin yết kiến vua Lê94.
Vị quý khách đó được mời lên điện thượng.
Thấy Nguyễn Huệ làm lễ, vua Hiển Tông vội sai người đỡ dậy, rồi mời ngồi ở một cái sập riêng kê ở bên giường ngự. Vua Lê thăm hỏi bằng giọng ôn tồn.
Nguyễn Huệ trước còn rụt rè không dám, sau vì cố ép, mới ghé ngồi vào cuối chiếu.
Nguyễn Huệ nói nhún:
– Tôi vốn là kẻ mặc áo vải ở Tây Sơn, nhân thời thế mà nổi dậy. Bệ hạ tuy không cho cơm ăn, áo mặc, nhưng tôi ở cõi xa xôi, bấy lâu vẫn kính mến thánh đức. Bữa nay được nhìn thấy mặt trời, đủ giãi được tấc lòng khao khát. Họ Trịnh vô đạo, hiếp đáp hoàng gia, nên trời mới mượn tay tôi: một trận phá triệt ngay đặng. Ấy là nhờ oai đức Bệ hạ hết thảy.
Vua Lê úy lạo:
– Ấy là võ công của Tướng quân cả, chứ quả nhân nào có tài đức gì!
– Tôi chỉ cốt tôn phò, chứ dám kể đâu tới công lợi. Việc ngày nay đã xảy ra như thế thiệt bởi lòng trời xui nên hết thảy. Kể đến việc binh thì tôi cất đặt đặng quân lính, điều khiển đặng chiến thuyền; song lẽ tôi có sức chi khiến được nước lụt phải cạn, gió đông nam phải thổi ào ào? Thế là trời có ý xui Bệ hạ phấn chấn kiền cương, thống nhất bờ cõi. Từ giờ xấp đi, Bệ hạ cầm cương, nảy mực, khiến cho trong êm, ngoài ấm, thì tôi đây cũng được ơn nhờ.
Nói dứt, Nguyễn Huệ trỏ Cống Chỉnh mà rằng:
– Người này là cố thần của Bệ hạ! Tôi được tới đây chính là nhờ người này giúp sức đó.
Vua Lê nói lấy lòng:
– Nhưng, Chỉnh được đến đây cũng là nhờ Tướng quân làm thành cho chứ!
Nghe vua Hiển Tông nói vậy, Chỉnh liền khấu đầu lạy tạ.
Chén trà thơm phức bốc một khí nóng hôi hổi, dấu hiệu một cuộc thân thiện đằm thắm nhưng chóng phai tàn.
Nguyễn Huệ nhắp chút hương vị của chén trà “đế vương”, nhưng không nhuần thấm được lòng dục vọng khát cái tương lai vĩ đại.
Nói chuyện hồi lâu, Huệ mới từ tạ lui gót.
Sau cuộc bệ kiến này, Đức Lệnh Tây Sơn không khỏi cười thầm những cách cử động nhỡ nhàng, thưa gửi dớ dẩn của bọn gia thần hậu chực ở điện thượng
vua Lê.
Cái cớ làm cho vị quý khách ấy phải cười? Chỉ vì, trong khi kinh thành tan vỡ, bách quan chạy trốn, không còn ai là người đủ tư cách xứng đáng ứng tiếp vị thượng tân nhà vua!
Vì vậy, sau cuộc hội đàm này, vua Hiển Tông nghe theo lời Chỉnh, phải gọi đến các cựu thần như Trần Công Sán95, Phan Lê Phiên96, Uông Sĩ Điển97…
Đến làm gì?
Sung chân chi hậu, ứng tiếp chủ súy Tây Sơn.
Tia hy vọng ấm áp đã rọi vào lòng lạnh điếng của dân chúng.
Từ đây, lòng người đã yên: chợ lại họp, ruộng lại cầy. Cơn khủng bố bối rối không còn vây phủ trong triều, ngoài nội như trước nữa. Các ông “triều”, mão cao, áo rộng, bấy giờ mới lại mon men đến dần.
Chỉnh nói với chủ tướng Tây Sơn:
– Đức Lệnh đến đây đã lấy tiếng là tôn phù thì phải nên làm cho ra sự thực. Chuyến vào ra mắt vua Lê hôm nọ chỉ là một buổi tư yết. Việc làm ấy còn chưa tỏ rõ với đời. Vây, tôi tưởng Đức Lệnh nên lựa ngày làm lễ triều kiến, khiến cho cả nước đều biết, mới là cử động quang minh.
Mồng 7 tháng bảy năm Bính Ngọ (1786), ngày tươi lại trẻ lại của cây “Lê” đã già cỗi! Ngày oanh liệt nhất của một ông vua 70 tuổi, ôm cái ngai mốc ngồi làm vì trong 47 năm! Nhưng cái tươi đó, cái trẻ đó, cái oanh liệt đó không phải tự tay mình làm nên được, nên chẳng mấy chốc, nó cũng vạc dần rồi tắt theo cái sinh lực hầu tàn của vua Lê Hiển Tông.
Ngày đó, chủ tướng Tây Sơn Nguyễn Huệ xin Hiển Tông Hoàng đế nhà Lê thiết lễ đại trào ở điện Kính Thiên.
Dưới bóng cờ quạt la liệt và giữa những tiếng chuông trống inh ỏi, chủ súy Tây Sơn, cầm đầu chư tướng, từ cửa Đoan Môn, bước vào điện Kính Thiên với cái trịnh trọng nhưng ngầm chứa vẻ “ngạo nghễ” của con nhà chiến thắng.
Lễ “Ngu bái tam khấu” của Nguyễn Huệ làm tăng vẻ oai nghiêm hách dịch của cái triều đình đương khặc khừ!
Sổ quân dân do Tây Sơn đệ trình trước vua Hiển Tông bỗng làm cặp mắt lờ đờ yếu đuối của cụ già gượng bịnh này vụt nảy tia sáng vui mừng: ngọn đèn cạn dầu bật sáng phừn phựt trước khi tắt ngấm!
Quang cảnh ngoài cửa Đại Hưng ngày đó bỗng khác hẳn mọi khi: Phá tan cái vẻ âm thầm vắng ngắt bấy lâu, bản chiếu thư “nhất thống” ban cho thiên hạ kéo được nhiều người đến xem, đọc hoặc thì thầm…
Đó là cái kết quả đẹp đẽ nhưng chóng “thui” sau khi chủ tướng Nguyễn Huệ làm lễ triều yết và vua Lê Hiển nhận quân dân bạ tịch của Tây Sơn.
Qua hôm sau, Nguyễn Huệ được vua Lê Hiển Tông sai người sang tận nơi quân thứ Tây Sơn, tức bên Trịnh thuở trước, phong làm Nguyên súy Dực chính Phù vận Uy Quốc công (元帥翊正扶運威國公) (có sách viết là Nguyên súy Phù chính Dực võ Uy Quốc công, lại có sách chép là Đại nguyên súy Phù chính Dực vận Uy Quốc công).
Nhận xong, Nguyễn Huệ sai người sang hoàng cung tạ ơn vua Lê. Rồi xẵng tiếng nói với Cống Chỉnh:
– Ta mang vài vạn quân ra đây, một trận dẹp yên Bắc Hà. Vậy thì một thước đất, một người dân, bây giờ không phải là của ta thì là của ai vào đây nữa? Dầu ta muốn xưng đế, xưng vương chi chi, coi ai còn dám làm gì ta đặng? Thế mà ta còn nhường nhịn không làm, chẳng qua ta hậu đãi nhà Lê đó thôi! Cái danh mạng Nguyên soái Quốc công nó có làm cho ta hơn gì! Các đình thần Bắc Hà muốn lấy nước miếng cho cái danh hão, chực lung lạc ta sao? Đừng bảo ta là mán mọi được thế đã lấy làm vinh rồi đâu! Ta không nhận lấy, chắc người ta bảo ta là thất lễ; ta nhận mà không nói ra, người ta lại cho ta là không biết gì!
Dứt lời, chủ súy Tây Sơn “nổi xung”: hầm hầm trừng trợn…, dường muốn phá phách cho hả cơn nóng giận…
Nhưng mấy lời can khéo của Chỉnh làm nguôi lòng Huệ dần dần.
Anh hùng với giai nhân
Nguyễn Huệ, sau khi nhận được cái tước hão của vua Lê phong cho, trong lòng bất mãn, nói toạc cho Nguyễn Hữu Chỉnh biết rằng ông không chịu để người ta lung lạc bằng cái Nguyên súy hay Quốc công ấy được, vì nó, thực ra đối với ông, chỉ là một cái “tẹp nhẹp”, không làm cho ông thêm danh giá gì!
Chỉnh biết Huệ không thỏa lòng dưới trận mưa móc “giỏ giọt” đó của vua Lê, lật đật sang bên hoàng cung tâu bày dàn xếp, tìm hết cách làm đẹp lòng một người đương cầm vận mệnh cả triều đình, cả xã tắc, cả thành quách giang sơn của nhà Lê.
Sau một cuộc trao đổi ý kiến với Chỉnh, vua Lê Hiển Tông thuận gả cho chủ soái Tây Sơn Nguyễn Huệ cô gái thứ 21, Ngọc Hân Công chúa98, mới 16 cái xuân tơ, yêu kiều và diễm lệ.
Đức Lệnh Tây Sơn đưa đồ sính lễ rất hậu: 10 thỏi vàng, 1.000 thỏi bạc, 100.000 quan tiền. Nguyễn Thời Thấu99 người đời bấy giờ, có một bài vận văn ký thuật sự trạng đương thời, trong có mấy câu này chỉ việc nhân duyên của Ngọc Hân Công chúa:
…Ngựa thồ(?) thay mối xích thằng,
Ông Tơ, bà Nguyệt dẫu giằng chẳng ra,
Một ngày một vắng quê nhà,
Sáng từng từng nhớ, tối tà tà trông…
Bữa làm lễ cưới “chúa Tiên”100, vua Lê đương “se mình”, cũng phải gắng bịnh thiết trào nhận mừng, vui gượng trước cái tương lai đầy bấp bênh.
Qua bữa sau, bệnh tình nhà vua quá nặng, Công chúa Ngọc Hân giục phò mã Nguyễn Huệ vào hỏi thăm, song ông từ chối: “Tôi, chẳng sớm thì chầy, rồi cũng về Nam; việc nước, không dám dự đến. Vả, tôi xa lạ tới đây, chắc người ngoài Bắc hãy còn chưa tin mấy. Nếu vô nội viếng vua cha, muôn một xa giá chầu trời, chẳng hóa ra tự mình chác lấy cái tiếng hiềm nghi không bao giờ giãi tỏ đặng?”
Bầu trời sầm tối. Suốt đêm 17, dân thành Thăng Long sống trong cảnh “chờn chợn”, mưa như trút! Gió rợn rùng!
Trong thành ngập nước đến một thước!
Với 70 tuổi thọ, vua Lê Hiển Tông băng nhằm ngày 17101 tháng bảy, năm Bính Ngọ (1786) sau khi trối lại mấy lời cho Hoàng tôn Duy Kỳ: “Khách binh đương đóng ở đấy; truyền nối là việc quan trọng, cháu nên bàn cùng Nguyên súy (chỉ Nguyễn Huệ), chứ đừng tự tiện làm một mình.”
Suốt 47 năm ngồi làm vì trên ngai vàng, vua Lê Hiển Tông cứ nhắm mắt, cứ che tai, cứ thản nhiên tự tại.
Chúa Trịnh làm trời? Mặc! Làm đất? Cũng thây! Vì vua theo đúng câu “châm ngôn” này của ngài đã đặt: “Vương (chỉ chúa Trịnh) mang lấy cái lo; ta hưởng lấy cái sướng, can gì chẳng vui?” Vậy mà nhân dân đương thời không biết tự trông vào mình, tự giúp lấy mình, song cứ mơ hồ trách vọng vào ngài, chẳng những oan cho ngài lắm?
Một vấn đề khó giải quyết “lăn lóc” giữa đình thần và tôn thất nhà Lê sau khi vua Hiển Tông thăng hà: lập Tự quân!
Trái với phái muốn lập Hoàng tôn Duy Kỳ, Công chúa Ngọc Hân hết sức phản đối, lấy cớ rằng Duy Kỳ không đủ tư cách. Ngọc Hân muốn lập Duy Cận, hết lời khen Duy Cận là người hiền.
Nghe vợ ngăn, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đăng cực.
Cả triều nao nao. Bầu không khí “ngờ vực” phủ khắp Hoàng Thành.
Các tôn thất nhà Lê đổ riệt cho Công chúa Ngọc Hân cái tội “làm lỡ việc lớn”!
Ngọc Hân sợ, lật đật nói với Nguyễn Huệ thu xếp cho Duy Kỳ được nối ngôi ngay102.
Làm lễ đăng quang Duy Kỳ lấy niên hiệu là Chiêu Thống (sau mất ở Tàu, tên thụy là Mãn Đế) vì đang có tang vua Hiển Tông, nên mọi việc đều tỉnh giảm cả.
Đèn sáp lèo lẹt, khói trầm xen khói hương, tỏa mờ gian nội điện thâm nghiêm, u ẩn. Chủ súy Tây Sơn lấy tư cách con rể, mặc áo tang trắng, đứng ở nơi điện tả, dự lễ tế thành phục vua Hiển Tông.
Một viên tiểu lại, trong bọn người chấp sự, hơi mủm mỉm cười khi hành lễ. Nguyễn Huệ liếc mắt bắt gặp, cho thế là khinh mạn, bất kính, liền truyền lính lôi ra chém ngay103.
Triều đình, từ đó, len lét khiếp oai!
Ngày 25, đưa tử cung xuống thuyền để đem đi làm lễ Ninh lăng104 ở Thanh Hoa, Nguyễn Huệ cũng mặc tang phục, thân đi hộ tang đến tận bên sông. Lại sai bộ tướng là Nguyễn Văn Kỷ105 và Nguyễn Hữu Chỉnh, mặc áo trắng, đi hộ tống đến Bàn Thạch lăng (thuộc huyện Lôi Dương, trấn Thanh Hoa), nơi ở cuối cùng của ông vua được hân hạnh làm bố vợ một trang anh hùng cái thế.
Làm xong mọi việc với vua Hiển Tông rồi, Nguyễn Huệ, với giọng tự phụ, nói nửa thật nửa bỡn với Ngọc Hân: “Tiên đế có 30 người con, thế mà không một người nào bằng một mình mình là gái! Trong việc tang Tiên đế, mình với các anh em, chị em khác, ai hơn nào?”
Ngơ nhau!
Sau khi Huệ đã kéo quân ra Bắc. Nguyễn Nhạc, ở Quy Nhơn, nhờ bức thư của Huệ106 đưa về, mới hay tin “đại cử Bắc phạt” đó. Trước cái cử động ấy của Huệ, Nhạc rất không đẹp lòng vì cho rằng Huệ tự tiện làm việc như thế, là Huệ tỏ ra không thèm đếm xỉa đến vua anh. Nếu Huệ thành công, tất vua anh không thể kiềm chế được nữa. Hối hả, Nhạc sai người đến Phú Xuân để ngăn lại. Nhưng đã muộn rồi! Khi được tin Huệ đã hạ xong thành Thăng Long, Nhạc đâm lo sợ quá.
Huệ vốn là tay ngang tàng sắc sảo, nay lại đóng binh ở ngoài sau một trận thành công lớn, Nhạc biết không thể gọi về bằng cách viết mấy chữ trên mảnh giấy được.
Tháng tám, năm Bính Ngọ (1786), Nhạc đem 500 thân binh và 100 voi, lật đật từ Quy Nhơn trẩy ra Phú Xuân, lựa lấy thêm quân tinh nhuệ107, rồi lại đi gấp ra Thăng Long, lót miệng bằng tiếng đem quân ra tiếp ứng chú Thơm (tên tục của Huệ) đương ở
Bắc Hà.
Tin đó rung động gần xa: ai nấy nao nao, vừa ngờ, vừa sợ! Có người khuyên vua Chiêu Thống, để giữ vững chiếc ngai Hoàng đế, nên đưa biểu xin hàng.
Việc còn chùng chình, gót ngựa Thái Đức (Nguyễn Nhạc), sau bảy ngày đêm, đã từ Phú Xuân lộp cộp nên trên mảnh đất đế đô.
Vua Chiêu Thống, cầm đầu bách quan, thân ra tận ngoài cửa Nam Giao, đón tiếp với thái độ của một kẻ “lép vế”: mặc!
Tụng quan quỳ đón ở bên đường: cũng mặc!
Thái Đức sai người mời vua Lê hãy cứ về cung, rồi ruổi quân đi thẳng, bỏ lại đằng sau cái khí ngạo nghễ lạnh lùng!
Tuy được Thái Đức hẹn đến bữa khác sẽ tương kiến, nhưng, qua hôm sau, vua Lê đã phải lóp ngóp sang tận chỗ vua Thái Đức đương đóng để tỏ
cảm tình.
Nghe lời Chỉnh khuyên, Thái Đức tiếp Chiêu Thống bằng lễ “hai vua tương kiến”, chứ không “lậy lục” theo lễ hạ thần.
Thoạt thấy Chiêu Thống đến nơi, Thái Đức đứng trên thềm, sai em là Nguyễn Huệ xuống thềm đón.
Rồi Thái Đức ngự ở ghế giữa, mời Chiêu Thống ngồi ghế bên tây. Nguyễn Huệ ngồi ghế bên đông.
Giữa bầu không khí thân mật nhưng giả dối, Chiêu Thống nói lấy lòng khách bằng những lời yên ủi và cảm ơn.
Thấy vua Lê tỏ ý muốn cắt đất để làm lễ khao quân, Thái Đức vội gạt: “Giận họ Trịnh chuyên chính, anh em chúng tôi mới làm việc tôn phù này. Đất đai, nếu của họ Trịnh, một tấc chúng tôi không để; nhưng nếu của nhà Lê, một tấc cũng không lấy. Chúng tôi chỉ mong Tự hoàng cầm vững kiên cường, giữ yên bờ cõi; hai nước chúng ta đời đời hòa mục giao hiếu với nhau: thế là phúc!”
Hai nhà “ngoại giao” lại diễn một trò giả dối trong sự chèo kéo mời mọc nữa:
Chiêu Thống mời Thái Đức ở lại ít lâu để giúp mình.
Thái Đức nhận lời và hứa cột chặt hai nước bằng sợi dây liên lạc mật thiết.
Bấy giờ tướng sĩ Tây Sơn đóng lâu ở Thăng Long, lòng quê ai nấy không khỏi gửi đám mây xa những tứ nhớ nhung man mác.
Tả quân Vũ Văn Nhậm, vì ghét Hữu Chỉnh là người tráo trở, hay vơ lấy quyền bính, nhân gièm Chỉnh ở trước mặt Nguyễn Huệ rằng:
– Chỉnh là kẻ bô thần, cùng đường phải về với ta. Hắn muốn cam tâm với cố quốc, nhờ sức ta làm được thành công. Nay ta lại phí hàng vài vạn người để làm vây cánh cho hắn thì còn gì bất trí hơn nữa! Vả, hắn thường nói: Ở Bắc Hà, chỉ có một mình hắn là nhân tài. Bây giờ chi bằng ta kéo về bỏ hắn lại. Người Bắc oán hắn đến tận xương tủy; ta mượn tay họ để giết hắn đi. Khi Chỉnh chết rồi, ta sẽ lấy Bắc Hà cho rảnh.
Nguyễn Huệ lấy làm phải, đã ngầm có ý bỏ Chỉnh rồi, lại gặp Nguyễn Nhạc vừa ở Nam ra, bèn ngày đêm mật tính đường về, mà Chỉnh bấy giờ đương đóng ở chùa Tiên Tích108, say sưa trong cảnh tôn vinh, vẫn mơ màng không biết.
Về phần Chỉnh, thấy Nguyễn Nhạc sai chọn ngày tốt, sắm lễ vật để yết nhà Thái Miếu, Chỉnh cứ đồ chừng rằng anh em Tây Sơn chắc chưa rút lui.
Trong khi anh em Tây Sơn cùng ở Thăng Long, họ nhường nhịn nhau rất khôn khéo. Phàm việc, Nhạc muốn làm thế nào thì nên thế ấy. Huệ nhất nhất thuận nghe và các tướng sĩ cũng đều vâng theo mệnh lệnh của Nhạc.
Suốt ngày 17, tháng tám, năm Bính Ngọ (1786), Huệ với thái độ vồn vã niềm nở, giữ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại trong dinh, nói chuyện lan man, không hề hở ra cho biết sắp lìa non Nùng, sông Nhị.
Nhưng, giữa trống canh ba đêm hôm đó, một ám hiệu truyền ra, quân gia Tây Sơn nai nịt đâu đấy, cả thủy lẫn lục thẩy đều lặng lẽ kéo đi. Lẽ cố nhiên là bao nhiêu của cải trong kho đụn đều cuốn đi sạch.
Sai người từ giã vua Chiêu Thống, anh em Tây Sơn vội vã về Nam, bỏ Chỉnh ở lại đất Bắc.
Qua sớm sau, Chỉnh có cái cảm giác như một cô gái “theo trai” bỗng bị tình lang phụ bạc! Rất bối rối bâng khuâng, Chỉnh chưa biết xoay trở ra sao cả.
Vì không dám ở lại Thăng Long sợ chác oán mua thù với người Bắc, Chỉnh liền “dày mặt” quyết theo để bám lấy anh em Tây Sơn.
Lập tức sáng sớm 18, Chỉnh cùng với vài mươi thủ hạ lật đật chạy ra bến sông, cướp được một chiếc thuyền buôn, quẳng hết đồ đạc của người ta đi, giương buồm để vô Nghệ109.
Trong khi đó nhiều người Kẻ Chợ đuổi theo, tranh nhau lấy gạch ngói ném Chỉnh. Chỉnh phải chính tay giết chết vài người mới đi thoát được.
Dọc đường, anh em Tây Sơn lần lượt dập tắt được những ngọn lửa “biến cố”.
Số là, khi quân Tây Sơn kéo đến Nghệ An, có gặp mấy cuộc tập công của những phần tử phản động.
Lê Hân, cựu quản Hậu thắng cơ ở Nghệ An và Lê Đình Hoán, cựu quản Hữu uy cơ ở Nghệ An, đứng lên chiêu mộ binh phu ở Nộn Liễu huyện Nam Đường (Nghệ An), chận đường, cứ hiểm, chẹn đánh ở núi Đại Huệ thuộc địa phận làng Sa Nam, huyện Nam Đường. Nhưng Tây Sơn dong quân tràn qua núi: quân bọn Lê Hân thua lớn, bị giết đến 8, 9 phần 10.
Rồi ung dung đem quân vào trấn doanh Nghệ An, Nguyễn Huệ đóng lại hơn mười ngày, thu xếp mọi việc: giao trách nhiệm đóng giữ trấn đó cho bộ tướng là Nguyễn Văn Duệ. Lại cắt đô đốc Vũ110 Chiêu Viễn đóng ở Hà Trung, Vũ Văn Nhậm cầm trọng binh đóng ở Đông Hải, làm thế ỷ dốc với Duệ.
Khi Chỉnh theo kịp đến Nghệ, Nguyễn Huệ bề trong tuy không bằng lòng, nhưng ngoài mặt vẫn vồn vã yên ủi. Huệ bảo Chỉnh:
– Hiện nay tướng Trịnh là Hoàng Phùng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng hãy còn, thì ngoài Bắc không có ông ở lại không xong.
20 lạng vàng, 200 lạng bạc, Huệ dùng món quà đó tặng Chỉnh và khuyên đóng lại ở Nghệ An cùng làm việc với Nguyễn Văn Duệ.
Để trinh thám những hành động của Chỉnh, Nguyễn Huệ dặn ngầm với Vũ Văn Nhậm:
– Chỉnh vốn là tên vong mạng. Túng thế, hắn mới chịu về với ta. Hắn quyệt lắm! Không thể tin cậy đặng. Vả, người Bắc oán giận hắn dữ. Ta muốn bỏ hắn cho họ thịt đi, nên chi lúc về Nam, giấu bặt không cho hắn biết. Chẳng dè hắn lại trốn chết, theo về tận đây. Kể về tình nghĩa, ta không lẽ không dung hắn. Giờ ta cho hắn ở lại Nghệ An là quê hương hắn. Vậy thì các ngươi phải hiệp lòng, đậu cật, phòng giữ cho cẩn thận. Hễ hắn làm chi, và lòng người yêu hay ghét hắn ra sao, các ngươi phải dò xét cho kỹ. Thấy có sự chi khác, thì phải tức tốc báo cho ta hay.
Diều biển xổ lồng
Sau khi về Nam, Nguyễn Huệ được Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc phong làm Bắc Bình vương (Đinh Mùi, 1787), đóng ở Quảng Nam, một trong ba chân kiềng đối lập với Quy Nhơn, địa bàn của Nhạc và Gia Định, đất phân phong của Đông Định vương Nguyễn Lữ. Anh em một nhà chia ba non nước111: một thời kỳ rất thịnh trong bộ lịch sử Tây Sơn!
Bắc Bình vương, thân ở Quảng Nam, nhưng tai mắt vẫn nghe ngóng ở Nghệ An, nơi thả lỏng con “Diều biển” Nguyễn Hữu Chỉnh.
Quả như Bắc Bình vương đã liệu trước, Chỉnh từ khi ở lại Nghệ An, không quên kiếm cách để phá lồng để bay nhảy.
Bị Bắc Bình vương “ly dị”, Chỉnh, một mặt thu dùng bọn lưu vong, một mặt luyện tập quân hương dũng, ngấm ngầm có chí chiếm lấy Nghệ An.
Ở Thăng Long, sau khi quân Tây Sơn rút khỏi, tình hình trở nên nghiêm trọng. Vua Lê vội vời các triều thần bàn rằng: bây giờ trong nước hư không, nếu có biến động cần kíp gì thì lấy chi mà trị được? Vua Lê bèn bay thư đi các nơi, triệu các cố thần trong các thế gia dấy binh vào vệ. Các hào mục các nơi đều chiếm giữ từng địa bàn, chiêu tập binh mã, lót miệng bằng tiếng bảo vệ nhà vua. Các cựu thần họ Trịnh cũng ló ra, hoạt động về chính trị và quân sự.
Nhân dịp ấy, bọn vô lại cũng nổi lên đánh giết lẫn nhau, làm ồn ào rối ren cả một nước.
Có hai đảng tranh nhau giựt lại ngôi chúa: ấy là đảng Trịnh Lệ và đảng Trịnh Bồng.
“Công kênh” Trịnh Lệ, Dương Trọng Tế đem binh từ Kinh Bắc sang Thăng Long, hiệu triệu bách quan lập Trịnh Lệ lên nối ngôi chúa.
Trịnh Bồng với một số đông thủ hạ, từ Chương Đức về kinh, xin vua Lê Chiêu Thống cho nối nghiệp vương.
Trước tình hình ấy, vua Chiêu Thống vốn nhu nhược và lép vế, rất khó xử.
Lá chiếu vặn hỏi Trịnh Lệ tự tiện làm chúa vừa ban ra, liền bị Trọng Tế xé bỏ trước mặt sứ giả.
Tình thế găng!
Sau vua Lê phải liệu chiều lui tới: phong Trịnh Bồng làm Nguyên súy Yến Đô vương vì nhà vua bị uy hiếp bởi Đinh Tích Nhưỡng và Hoàng Phùng Cơ.
Còn Trịnh Lệ, sau trận đại bại ở Cầu Muống (ở gần Khâm Thiên, Hà Nội), phải chạy về mạn Bắc.
Trịnh Bồng từ bữa được lên làm chúa, lại đi theo vết chân của các chúa trước, vơ nhặt cho kỳ hết các quyền chính mà vì khúc ngoẹo trên lịch sử, tình cờ đã lọt qua tay vua Chiêu Thống nhà Lê.
Vào hồi này, theo như các giáo sĩ đã tả trong quyển Sử ký Đại Nam Việt thì dân gian, bấy giờ, phải sống trong cảnh rối ren mất trật tự và ngoắc ngoải hoặc chết chóc vì cơ cận, dịch lệ:
Làng nọ đánh làng kia, chẳng biết cậy ai cứu giúp… Đâu đó cũng có kẻ cướp, người ta giết lộn nhau… Vả lại, năm ấy, phải đại hạn, đoạn phải bão cùng lụt cả thể. Các đảng đê… về xứ Nam Định vữa (vỡ) hết, hai huyện Quỳnh Lưu và Đông Thành thì càng khốn nạn hơn nữa. Bão lớn lắm, cửa nhà sập hết; cây cối cùng sanh hoa đẳng vật hao hại tận tuyệt chẳng còn giống gì… Nước biển tràn ra làm hư hỏng lúa, còn bao nhiêu khỏi lụt hư thì lại phải sâu keo (hoàng trùng). Năm ấy chẳng có ai gặt được, mà lúa năm trước còn lại ít nhiều thì kẻ cướp lấy hết, cho nên thiên hạ đói khát quá lẽ. Dầu có tiền bạc cũng chẳng biết liệu làm sao mà mua ăn, vì chẳng còn đồ ăn gì nữa. Kẻ đã chết đói thì vô ngần vô số kể chẳng xiết. Người ta chỉ ăn cỏ như bò (?) hay là ăn những rễ cây, gốc chuối, thì lại sinh bịnh dịch mà càng thêm chết hơn nữa… Trong xứ Nghệ An có xã chẳng còn sót người nào, hoặc chết đói, hoặc chết bịnh hết. (Sử ký Đại Nam Việt, trang 60, 61).
Dẫn nguyên văn đoạn Sử ký trên, tôi muốn tỏ cho độc giả biết rõ những trạng thái về chính trị, về kinh tế và về xã hội ở xứ ta hồi đó đương thối nát và tối tăm là thế nào! Các nhà đương cục bấy giờ chỉ chuyên tâm chú ý vào cuộc nội tranh, nhìn đâu đến nỗi đau khổ ở nơi hang cùng, ngõ hẻm!
Càng lầm than thảm đạm, dân chúng càng khát khao một cuộc đời sung sướng hơn. Lẽ tất nhiên họ phải mong tìm cho được bàn tay “tế độ” cứu họ ra khỏi biển khổ.
Nguyễn Huệ đại biểu cho cái khuynh hướng ấy của dân gian, nên dễ thành công trong những công cuộc phi thường: diệt Trịnh, thay Lê, quét sạch 20 vạn quân Tôn Sĩ Nghị.
Đáp lại tiếng gọi của Lê Chiêu Thống, Chỉnh đem binh từ Nghệ An vào kinh Thăng Long hộ vệ, để đồ đảng là Lê Duật ở lại làm việc với Duệ.
Chỉnh tỏ ý quyến luyến Duệ bằng lời đường mật; Duệ nâng chén tiễn chân Chỉnh bằng cái thái độ ân cần. Cảm tình trong cuộc khứ lưu này đã gieo cái mầm thông đồng âm mưu vào lòng phản trắc của hai người đó.
Chỉnh phất cờ “hộ vệ” đến đâu, thế lực và địa vị Trịnh Bồng đổ bẹp đến đó. Ngai vương tôn quý của họ Trịnh, sau cơn bại vong của ông chúa cuối cùng này, phải nhường chỗ cho con “Diều biển”!
Vì có công đuổi Trịnh Bồng, Chỉnh được Lê Chiêu Thống phong chức Bình chương Quân quốc Trọng sự, Đại tư đồ, Bằng Trung công.
Từ đó, lộng lẫy uy quyền, Chỉnh đem vây cánh chia giữ các yếu chức trong triều đình và ngoài các trấn. Phàm việc, Chỉnh cứ tự tiện quyết định, chẳng cần bàn hỏi vua Lê.
Chỉnh đi theo vết chân họ Trịnh còn in lại: lập trại quân Võ Thành, đóng tướng doanh ở Trịnh phủ, cho con là Nguyễn Hữu Du lập phủ “Thế tử”ở phía đông dinh mình. Chỉnh sống một thời hách dịch, lẫm liệt.
Thấy Chỉnh lăng bức như vậy, vua Chiêu Thống phát chán, bèn mật mưu với bọn nội hàn Ngô Vi Quý112 định vời Hữu Chỉnh vào tiện điện (đền tư để vua ngự trong lúc bình cư) để bàn việc rồi nhân dịp đánh thuốc độc mà giết đi.
Một hôm, Vũ Trinh113 vào yết kiến; vua Lê đem việc đó nói với Trinh. Trinh giật mình, tâu rằng: “Ai bày mưu ấy cho Bệ hạ thế? Thần trộm lấy làm nguy lắm đấy. Vì nay cường địch (chỉ Tây Sơn) đương lăng bức, tin cảnh báo ngoài biên thùy đương gấp rút, triều đình chưa hòa, lòng người chưa yên, chính là lúc Bệ hạ nên dựa vào Chỉnh mà dùng làm móng vuốt, chứ Chỉnh chưa lộ hình tích là người gian trá và bất tín, sao Bệ hạ lại vội đón trước, đoán phỏng mà chực giết kẻ cường thần? Muôn một thủ hạ của Chỉnh nổi dậy làm biến thì xã tắc sẽ ra sao?”
Chiêu Thống nghe ra, bấy giờ mới thôi.
Nghe biết việc đó, Chỉnh từ đấy trở đi, luôn bỏ lễ triều yết, cứ buông rộng thả dài cho bọn thủ hạ muốn làm gì thì làm.
Hào kiệt bốn phương ai cũng ôm mối thất vọng. Nơi này chốn khác lồng dậy, bốc lên, đâu cũng nêu cao một danh nghĩa: khôi phục Trịnh, diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.
Cầm quyền ở Thăng Long, Chỉnh thường trao đổi thư từ với Duệ và, để mua lòng Duệ, Chỉnh hay dùng quà “ngoại giao” biếu bạn rất hậu.
Muốn dò tình thế Tây Sơn và ý hướng của Duệ, Chỉnh lại mật gọi Lê Duật, tay sai, vào kinh.
Dịp tốt đã đến với Chỉnh:
Ở Bắc, Chiêu Thống, ông vua quá nhu nhược, tha hồ dễ vần như quả lăn tròn!
Ở Nam, anh em Tây Sơn bất hòa, xáo thịt nhau bằng nồi da, nứt một khe hở cho người dòm dỏ!
Chỉnh lại tiếp đươc thư Duệ báo tin cho biết cái ngày vô Nam khởi sự: chực vật Tây Sơn.
Mừng! Chỉnh mừng phen này quyết bỏ Nghệ An vào “túi”!
Chỉnh liền sai Duật đem biếu Duệ 10 lạng vàng, 10 tấm gấm và dặn thuyết Duệ bằng cách dụ dỗ lợi, hại, họa, phúc để Duệ trở giáo, chiếm lấy Nghệ An, chận đường Chiêu Viễn kéo ra. Một khi làm được thành công, Chỉnh sẽ noi theo dấu cũ tiền triều đã vạch: đắp lũy ở Hoành Sơn, chia sông Gianh (Linh Giang) làm giới hạn, diễn lại tấn tuồng “Nam Bắc phân trị” như xưa.
Khi đó, Vũ Văn Nhậm, một tướng thân tín của Tây Sơn, đã dò biết hết câu chuyện. Nhậm dùng binh phù (ấn tín của nhà binh) gọi Duệ, song bị Duệ cự lại:
– Ông tướng cầm quân ở ngoài, dầu có mạng lệnh nhà vua cũng không theo. Khi Đại vương (chỉ Nguyễn Huệ) về Nam giao ta đóng giữ đất này, vậy không thể lìa bỏ mà đi đâu được.
Trước khi về Nam, anh em Tây Sơn có để Nguyễn Duệ ở lại đóng giữ Nghệ An. Đến nay, Tây Sơn có việc “huých tưởng”, là một dịp để cho Nguyễn Duệ ngờ, sợ. Đó vì Duệ thấy mình là tướng cũ của Nhạc, e chuyến này sẽ không được Huệ dùng chăng.
Duệ bèn mật kết với Tiền tham nghị Nguyễn Đình Viện và bảo Viện ngầm thông với Hữu Chỉnh, hẹn nhau họp sức cùng đánh Bắc Bình vương: nếu việc xong xuôi thì Duệ sẽ giao trả đất Nghệ An, đời đời cố kết cái tình lân hiếu.
Đình Viễn đem việc đó vào nói với Chỉnh. Chỉnh còn ngần ngừ chưa trả lời, thì tin mưu phản ấy của Nguyễn Duệ đã lọt đến tai Vũ Văn Nhậm.
Vũ Văn Nhậm lập tức báo thư vào Nam, trình bày sự biến ấy với Bắc Bình vương: “Ngày trước dùng Chỉnh, khác nào chứa cọp trong nhà; nay lưu dụng Duệ, cũng tựa nuôi ong tay áo! Xin Đại vương kíp đem binh ra Bắc: trước giết Duệ ở Nghệ, sau bắt Chỉnh ở Thăng Long. Thật là một dịp dẹp loạn, yên nước, xin Đại vương đừng bỏ qua…”
Bấy giờ Nguyễn Huệ đương đứng “giữa hai luồng lửa”: Chỉnh phản ở ngoài Bắc; gia biến xảy ở trong Nam! Phải dùng toàn lực để giữ bên trong, lẽ tất nhiên không thể trì khu114 ra ngoài ngay được.
Dẫu vậy, từ mùa đông năm ngoái (1786), hay tin Cống Chỉnh đem quân vào phò vua Lê, Bắc Bình vương đã phải hành động để đề phòng trước: Sai Nguyễn Văn Đức kéo binh ra đóng Diễn Châu, cùng gánh công việc trấn thủ với Duệ115.
Nay tiếp được thư Nhậm, Bắc Bình vương vội sai người ra bảo Nhậm: “Hãy ập ra Nghệ An, bắt sống Duệ, tịch thu lấy quân và lương, rồi chia binh đóng giữ những nơi hiểm yếu. Bấy giờ mới đưa thư hỏi Chỉnh về tội thông mưu với Duệ, xem Chỉnh nói sao. Nếu Chỉnh còn biết sợ oai, kiếm lời chối chữa, thì hãy để sau sẽ liệu, không cần trị vội làm gì. Bằng hắn chống lại, thì vin cớ đó kéo quân ra đánh lập tức!”
Được lệnh, Nhậm đem đại binh đi gấp, một ngày đêm đến trại Kỳ Hòa.
Khi Nhậm sắp đến, bọn Duệ, vì biết tin trước, đã vội bỏ xứ Nghệ, đi đường tắt, trốn về với Nhạc, và dặn Đình Viện chiếm giữ lấy Nghệ An.
Bộ tướng của Duệ là Nguyễn Thuyên ở làng Sa Nam (thuộc huyện Nam Đường, trấn Nghệ An) không theo Duệ, lại đánh Đình Viện. Viện thế côi, cùng với mấy con là Ngọc Liễn, Ngọc Triệu, Ngọc Chấn và rể là Thiều Tôn Hiệp đều chết vì đánh trận.
Còn Đức là đồng đảng của Duệ, khi thấy Duệ đã về Nam rồi, liền trốn sang Xiêm.
Tới Nghệ An, Nhậm điểm binh, thu thuế, sửa khí giới, kinh lý mọi nơi, xếp đặt mọi việc thiện hậu.
Sứ bộ đi đòi đất Nghệ
Nguyễn Hữu Chỉnh, từ khi vào kinh hộ vệ, sống một mẩu đời “ông chúa” đầy oai quyền.
Đường trời mở rộng thênh thênh,
Ta đây cũng một triều đình, kém ai?
Người ta cho hai câu đó là của ông Cống Chỉnh “trả lời” Bắc Bình vương sau khi bị bỏ ở Bắc.
Cuộc nội tranh của nhà Tây Sơn hé một kẽ hở cho Chỉnh ngấp nghé nom dòm!
Sứ bộ Bắc Hà, gồm có Trần Công Sán116, Ngô Nho117 và Hoàng thân Lê Duy Hiên118, mạo hiểm vô Nam, “đòi” đất tỉnh Nghệ (Đinh Mùi, 1787).
Khi sứ bộ đi, Chỉnh tiễn Công Sán, ngủ một đêm ở chùa Thịnh Liệt (Sét).
Công Sán bảo Hữu Chỉnh rằng:
– Nguyễn Huệ là người sâu hiểm và tráo trở, rất khó dò lường. Đi chuyến này tôi dù cố nói cũng chưa chắc ông ta chịu nghe đâu. Nhưng tôi xin gắng tranh biện ráo riết, dù chết cũng cam. Sau khi tôi đi, ngài nên để ý càng hơn, chứ đừng coi thường. Những miền giáp núi ở vùng Thanh Hoa, nên chia quân đóng đồn để át bộ binh, và các nơi cửa bể ở mạn Sơn Nam, nên đóng cọc cắm rào để chặn quân thủy bên địch. Nếu họ bội ước đến đánh thì ta đã có sẵn sàng để chế trị rồi. Như vậy không đến nỗi nước đến chân mới nhảy, lâm khi có việc, cuống quít vội vàng.
Chỉnh đáp
– Xin cứ đi, đừng lo ngại. Từ lệnh của tiên sinh nói ai mà chẳng chuyển? Bằng việc chẳng xong thì cái ngón trị quân lữ của tiểu sinh đây tưởng chưa mấy kẻ đã ăn đứt! Muôn một có biến thì tiểu sinh há lại không làm được một phen sấm vang, chớp bủa, biển lệch, non nghiêng cho hả lòng? Nguyễn Huệ dẫu kiệt hiệt đến đâu, cũng chưa dễ đã giở được thủ đoạn gì. Tiên sinh chẳng cần phải căn dặn kỹ quá.
Khi Sán đến huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), Vũ Văn Nhậm bên Tây Sơn sai đồn tướng kiểm soát các phẩm vật của sứ bộ, chỉ cho đi 3 vị sứ thần, 18 người hành giới; còn vàng, đoạn, lụa, vải này khác đều bắt đem trở về cả.
Tại Vĩnh Doanh119, Nhậm đặt tiệc thết sứ bộ, rồi bảo Công Sán: “Văn võ ngoài Bắc Hà có mấy người được như lão ông? Lê Tự quân giao nước cho bạn thần120, Chỉnh, chẳng hay ý nghĩ thế nào? Bản chức cầm binh phù, vác gươm ra Thăng Long, sẽ chém đầu Chỉnh và hỏi Lê Tự quân cớ sao lại bội đức, dung nạp kẻ bạn thần! Rồi bảo rõ cho thân sĩ Bắc Hà biết cái bản ý phải dụng binh là thế. Tự quân không giữ nổi quốc gia, thì đến cả Thanh Hoa trở ra Bắc, nếu ta không lấy, chung quy cũng đến lọt vào họ khác mất thôi! Nghệ An là ấp cỏn con, có cắt hay không cũng chẳng quan hệ gì đến đại cục còn mất. Các ông từ xa đến kêu xin chẳng qua chỉ chác lấy cái khổ lặn lội! Chỉ e chim đã lìa tổ, khi bay về, không còn cành nào đậu nữa!”
Ngô Nho cả sợ, bàn với Công Sán: đổi quốc thư đòi đất Nghệ An làm bức thư cầu Tây Sơn cho vua Lê được tập phong, song Sán không nghe121.
Khi đến Phú Xuân, sứ bộ Bắc Hà vào yết kiến Bắc Bình vương và dâng trình “quốc thư” một cách trịnh trọng.
Với vẻ ghẻ lạnh, Bắc Bình vương cầm xem lá thư của vua Lê Chiêu Thống do Chỉnh nấp sau xúi làm.
Đại ý:
Nghệ An, đất căn bản trong đời trung hưng của bản triều, liền nối với Thanh Hoa như chân với tay. Tại đó nảy được nhiều tay văn võ. Cũng tại đó, lựa chọn và rèn luyện được quân túc vệ. Nếu dùng người, bỏ đất, để đến nỗi họ hàng phải chia lìa, quê hương phải xa cách thì thật không hợp với lòng người!
Quý quốc vương122 vốn giàu lòng tin thực, trọng tình mục lân123. Suy bụng ta ra bụng người, dẫu việc nhỏ nhặt đến đâu cũng còn soi xét biết được; huống chi việc này rõ rệt sờ sờ là thế.
Lại nghĩ: hồi mới ra Bắc, Quý quốc vẫn lấy việc “tôn phù” làm nghĩa cốt nhất. Tiên đế (chỉ vua Lê Hiển Tông), khi còn, đã từng mời Quý vương ngồi chơi ở sập, cầm tay nói chuyện ân cần. Tiếng ngọc hãy còn văng vẳng bên tai, đã quên sao được?
Kịp khi dựa ghế trối trăng, Tiên đế áy náy chỉ lo quả nhân trẻ người non dạ, nên muốn nương tựa Quý quốc để nhờ chút phúc.
Gần nay, nghe thấy Quý quốc sai tướng ra giữ Nghệ An, nhiều người trong nước đem lòng ngờ vực. Có lẽ là do biên thần gây sự, chứ không phải thật ra từ ý Quý vương.
Quý quốc vin cớ mùa thu năm ngoái (Bính Ngọ, 1786) tệ quốc muốn cắt đất khao quân, nên nay Quý quốc mới làm ra sự thật.
Quả nhân mới lên trị vì, không rõ nguyên nhân ngày trước ra sao. Vậy đã sai đình thần xét lại bản ước nhường đất, thì thấy chỉ là hai châu Bố Chính124 và Ma Linh125 thôi, chứ không dính dáng đến bờ cõi xứ Nghệ. Khi đó, Quý vương đã dạy: đất đai nếu của nhà Lê thì một tấc cũng không lấy.
Nhưng, khao quân bằng đất sao bằng khao quân bằng tiền? Vậy xin tính theo số đất, xem tổng số mỗi năm thu được bao nhiêu, bèn đùng làm lễ khao lạo. Rồi hằng năm cứ dâng nộp Quý quốc, giữ thành lệ lâu dài.
Xin Đại vương lượng xét, khiến cho tình nghĩa hai nước được vẹn tuyền…
Bắc Bình vương xem sơ một lượt, cả giận, ném thư xuống đất, quát ầm: “Đứa nào làm cái thư này thế? Nói ròng những lời vô nghĩa, vô lý! Có phải tự mưu thằng Chỉnh không? Hắn là một tên cùng đinh lạc phách, nhờ ta tô mày vẽ mặt mới được ra người. Chừ (giờ) hắn bay nhảy ở Bắc Hà, hiệu lệnh một nước, nghiễm nhiên làm như chúa Trịnh xưa. Nay hắn lại dám chống nghịch cùng ta, muốn tranh lấy cả xứ Nghệ. Không giết thằng cha này, còn trị đặng ai nữa? Hắn chỉ quen múa mép lừa người! Ta có phải là con nít đâu mà các ngươi chực phỉnh gạt đặng?”
Cộng Sán không biến nét mặt, ung dung thưa:
– Xin Đại vương chớ vội nóng. Để tôi nói cạn một lời, rồi muốn giết tôi, tôi xin chịu chết.
Bắc Bình vương nhớ lại, khi ở Thăng Long, vào yết kiến vua Lê Hiển Tông, được nhà vua cho quần thần theo thứ tự đến ra mắt. Vương đã lấy làm lạ trước những cử chỉ ung dung và tự nhiên của Công Sán. Lúc bấy giờ, vương luôn hỏi Công Sán về việc Bắc Hà: hễ hỏi đến đâu thì Sán tùy liệu mà đối đáp đến đó với những giọng rào đón biện luận, không hề chịu khuất một chút nào.
Vốn trọng Công Sán từ đó, nên nay Bắc Bình vương mới đấu dịu:
– Xưa ta vượt biển ra Bắc: phá Thăng Long, diệt họ Trịnh, cả trào suốt nước, ai cũng sởn ốc, bó tay hết, có dám làm chi đặng ta đâu! Khi đó nếu ta chiếm lấy cả nước, xưng đế, xưng vương, muốn chi chẳng được? Song ta chỉ kính mến ân đức Tiên đế (chỉ vua Lê Hiển), nên mới trao lại hết cả bờ cõi cho nhà Lê. Bản đồ nhất thống chính ta tái tạo cho đó, triều đình nhà Lê hòng báo đáp ta bằng cái danh hiệu hão: tước Thượng công! “Thượng công” là cái chi? Đeo cái “Thượng công”, ta có hơn chi hả?
Bắc Bình vương cứ tiếp:
– Rồi đến Tiên đế (chỉ vua Lê Hiển) thăng hà, ta phải lo liệu cho lễ Ninh lăng; Tự vương (chỉ vua Chiêu Thống) nối ngôi, ta lại phải thu xếp cho việc sách lập. Nay nhà Lê đã không biết đền ơn trả nghĩa, lại còn thu dùng tên bạn thần (chỉ Cống Chỉnh), hằn học, tranh giành, chực đòi lấy đất xứ Nghệ! Các ngươi làm vậy, có ai nhịn đặng không? Ta đã phái hai vạn binh mã ra tuột Thăng Long để lấy đầu cha con thằng Chỉnh đó! Thấy quân ta kéo tới, có lẽ Chỉnh đã bức bách Tự tôn (Chiêu Thống) rồi! Trong chỗ tên bay đạn lạc, ngọc đá xô bồ, chẳng hay Tự tôn có hề chi không. Người nước chẳng rõ, không khéo lại oán giận ta đấy!
Với vẻ trấn tĩnh, lý sự và khảng khái, Công Sán phản đối lại từng khoản một:
– Xưa vua Lê Thái Tổ đánh đuổi giặc Ngô, khôi phục đất Việt: công đức to như núi, cao như giời. Truyền đến vua Thánh Tông: giời Nam một dải, tô điểm thái bình, làm rạng công nghiệp thuở trước, mở rộng đường lối cho đời sau. Từ Thạch Bi126 lên Bắc, Đại Lĩnh127 về Nam, thần dân một nước ai cũng một dạ yêu mến kính tôn cả.
Sau đó hơn trăm năm, họ Mạc tiếm nghịch, người nước thảy đều đau lòng. Tiên vương (chỉ ông Nguyễn Kim) bèn liên hiệp đồng chí, lập lại nhà Lê. Về sau, họ Trịnh nổi lên, cũng lót miệng bằng tiếng phù Lê, nên mới hiệu lệnh được bốn phương, khiến cho ai cũng hưởng ứng.
Vài đời sau dẫu bị họ Trịnh hiếp đáp, song chính sóc vẫn chính sóc Lê, non sông vẫn non sông cũ.
Đại vương (chỉ Bắc Bình vương) một phen lên ngựa, đến thẳng kinh thành. Đó dẫu bởi ngài có danh lớn, oai to, nhưng cũng vì Ngài vin vào nghĩa cả tôn phù, nên lòng người mới chịu tin phục. Bằng chẳng, bước chân vào đất nước người, sao được dễ thế?
Đức Tiên đế tiếp đãi Đại vương, lễ mạo rất long trọng: trước phong công, sau phong vương, đó là điển lễ vốn có của bản triều. Đền bồi như thế, không phải không hậu. Xin Đại vương đừng coi rẻ.
Một nước cũ hơn ba trăm năm đã được giời tựa, người mến, Đại vương lấy rồi trả lại đất đai, chính là làm một việc thuận ý giời, theo lòng người, chứ sao kể là ơn đức được?
Khi Tiên đế sắp băng. Tự hoàng lên trị vì, mọi việc đều bẩm bạch ngài. Vậy Đại vương không chủ trương, còn để ai vào đấy? Đã đến bước không sao đừng được thì cũng là lý thế tất phải như thế. Quả tôi không dám bợ đỡ nói khen Ngài đâu.
Vẫn giọng trôi chảy và mạnh dạn ấy, Công Sán cứ cãi lý:
– Hồi đại quân về Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh đi theo, được Đại vương để cho ở lại Nghệ An, sao gọi là phản bạn được? Nghệ An vốn là đất cũ của bản triều, sao gọi là tranh giành được? Đại vương phái binh mã ra Bắc để tiện thỉnh an, thì bản triều vẫn có điển lễ đón tiếp. Nếu không, người xưa đã nói: nước nhớn có quân chinh phạt, thì nước nhỏ cũng có cách chống giữ. Tôi đã ra khỏi bờ cõi, sự đó không dám biết đến. Tự hoàng nước tôi đã có chân mệnh đế vương thì tên đạn tưởng cũng phải kiêng nể. Xin Đại vương đừng lo.
Đại vương làm theo chiều thuận: cứu lúc nguy, giúp khúc gấp, phù tá cho nhà Lê, thì thần dân trong nước ai chẳng kính mến? Công đức còn chẳng dám quên, dám đâu oán giận?
Nếu không thế, thì cuộc đời xoay chuyển, công việc đổi thay, rồi sau sẽ ra thế nào, ý chúng tôi thật không thể đoán trước được.
Uốn lưỡi hùng biện, Công Sán hết sức chống cãi, đón trước, rào sau, không chịu lún một lời nào.
Hoàng hôn! Vạn vật dần chìm trong bóng tối.
Bắc Bình vương bảo Sán bằng giọng dìu dịu.
– Vậy thì ông hãy cứ vô quán khách nghỉ ngơi, để ta nghĩ kỹ ba lần, rồi sẽ liệu định.
Níu được câu ấy của vương, Công Sán đánh ngay vào chỗ yếu:
– Nghĩ một lần cũng đã đủ chán. Nghĩ đến ba lần, e lại lẫn chăng. Tôi đây xin liều một chết cho rồi chuyện.
Bắc Bình vương cả giận, truyền nhốt Công Sán vô khám.
Còn Hiên và Nho? Hai viên Phó sứ này cũng chịu chung một số phận như Chánh sứ Công Sán, song mỗi người bị giam một nơi.
Bề ngoài tuy ra oai nộ nạt, nhưng trong lòng vốn trọng Công Sán là người trung trực, dũng cảm, Bắc Bình vương vẫn muốn thu dùng, nên sau khi truyền giam Công Sán, ngài luôn cho người dò xét động tĩnh của viên Chánh sứ ây.
Thì một câu đối của Công Sán đề ở nhà giam đã tỏ được lòng sắt son, chí khảng khái làm tiêu biểu cho sĩ phu Bắc Hà:
達德有三縱未能之願學
小心無二行其素也何尤
Đạt đức hữu tam, túng vị năng chi, nguyện học.
Tiểu tâm vô nhị, hành kỳ tố dã, hà vưu?
Dịch:
Ba đức được tôn, dẫu chưa hay, xin thử học.
Một lòng không đổi, cứ để mộc, dám trách ai?
Một cuộc hội đàm giữa Bắc Bình vương và Tư mã Ngô Văn Sở. Sở xin giết Công Sán. Song vương còn ngần ngừ vì tiếc Sán là người có tài, muốn giữ lại để trọng dụng.
Sán đương nằm thừ trong cùm, nhưng vẻ mặt vẫn trấn tĩnh, tự nhiên, bỗng thấy Trung thư Trần Văn Kỷ và Lễ bộ Vũ Văn Trụ vâng mật lệnh của Bắc Bình vương, đến “thuyết” Công Sán. Họ nói khích:
– Cụ ơi, sao cụ tự làm khổ mình thế?
Sán nghiêm nghị:
– Thôi, thế nào cũng là số mệnh cả.
– Đã là người quân tử, tự mình phải liệu cơ xoay xở, chứ sao lại chịu bó tay phó mặc số mệnh? Ví như đánh sóc đĩa, có chẵn, có lẻ; ta phải nghe chiều mà đánh “mặt dền” mới là tay “lõi bạc”.
– Thế là mánh khóe con bạc, chứ không phải là đạo người quân tử. Sán này nghe người xưa có nói: “Làm tôi phải chết vì trung.”
Biết không thể dỗ nổi, Kỷ và Trụ trở ra, nói với nhau: “Trần Công Sán nhà Lê khác nào Tô Tử Khanh nhà Hán: đáng ghét nhưng cũng đáng thương!”
Nhà Tây Sơn bấy giờ đương có nội chiến. Bắc Bình vương sợ sứ bộ nhà Lê ở lâu, tai vách, mạch giừng128, biết rõ nội tình, ngộ họ bày kế phản gián, gây chuyện rối ren thì cũng đáng ngại! Nếu thả bổng cho về, họ sẽ làm lộ công chuyện Đàng Trong, chẳng cũng mang tiếng với Đàng Ngoài? Chi bằng thả họ ra biển, rồi liệu bài tính đi là hơn hết.
Nét hồng tía trong vườn hoa đã phai tàn; cây đào xanh rờn những lá non và đã kết trái li ti bằng khuy áo một. Nay đã là cuối xuân Đinh Mùi (1787).
Bắc Bình vương căn dặn sứ bộ nhà Lê với vẻ mặt niềm nở: “Các ông hãy cứ về trước, đợi khi ra Bắc, ta sẽ liệu khu xử việc này… Trăm lạng bạc đây là đồ lễ của Công chúa (Ngọc Hân) gửi tặng, xin chớ từ chối.”
Gió xuân già dào dạt thổi.
Vũ Văn Nguyệt, Đô đốc Tây Sơn, giương buồm vài chiếc thuyền biển, bắt đầu vào hồi tháng ba, đi từ cửa biển Tư Dung, “tiễn đưa” sứ bộ về Bắc. Dưới vòm trời xanh lợt, con thuyền “cô trung” của Công Sán lướt sóng vèo vèo trôi… Những lúc “nắng mới” phản chiếu ánh chiều xuống từng đợt nước trong trắng, chói lòa, dễ gợi lòng viên Chánh sứ muốn phơi gan dạ sắt son dưới bóng thanh thiên bạch nhật!
Đi được mươi ngày, thuyền đến cửa biển Đan Nhai thuộc Nghệ An, bỗng dưng cả đoàn sứ bộ nhà Lê Công Sán và 20 người ôm bầu máu nóng, theo thuyền chìm lỉm xuống dòng biển trong!
Đã làm tròn phận sự ngầm đục thuyền, giết sứ bộ rồi, Nguyệt, với vẻ tươi cười của phái đắc thắng, quay chiếc thuyền giả đò sống sót lên bờ, nhưng không quên nói phao phao những lời đã soạn thành bài sẵn: “Sứ bộ đi biển, gặp bão, không may chết đuối mất cả!”
Bấy giờ Cống Chỉnh mới phục lời Công Sán nói từ giã Chỉnh khi cầm cờ tiết đi sứ: “Minh công nên lưu tâm đến việc nước. Tôi chỉ có đi, không có về!”
Những biến cố xảy ra sau vụ Công Sán
Sau khi sứ bộ Công Sán bị hại, Bắc Hà có xảy mấy biến cố, xin ghi chép ra đây để các bạn thấy rõ những tấn tuồng rối loạn trước khi Tây Sơn ra Bắc lần thứ 2.
1) Việc Dương Trọng Khiêm, tức Trọng Tế, mưu khôi phục họ Trịnh, nhưng thất bại, bị giết hồi mùa hạ năm Đinh Mùi (1787).
Nguyên trước đây, Trọng Khiêm từ Bình Vọng chạy đến làng Lạc Đạo129 cùng với cháu Dương Vân, học trò Nguyễn Mậu Nễ mộ binh ở huyện Gia Lâm, đắp lũy từ làng Như Kinh130 đến làng Phú Thị131 chia quân đóng giữ. Rồi Trọng Khiêm truyền hịch đi các huyện, hẹn cùng khôi phục họ Trịnh.
Hữu Chỉnh sai tướng Hoàng Viết Tuyển đem binh đi đánh Khiêm. Viết Tuyển lùa quân rần rộ tiến lên, bốn mặt cùng bắn. Khiêm thua, đang đêm phải chạy trốn, bị dân làng Ngọc Xá132 bắt sống, đưa về kinh sư. Vua Lê Chiêu Thống hạ chiếu kể tội Trọng Khiêm, đại lược: “Là tội mà phản vua, tội ấy thực khôn dung trong giời đất; làm giặc đã có tiếng, tên này đáng giết chết bởi quốc dân.” (Nguyên văn chữ Hán là: Dĩ thần bạn quân, vô sở dung ư thiên địa; kỳ danh vi tặc, đắc cộng chu vu quốc nhân.)
Rồi vua Lê sai giết Trọng Khiêm ở nhà Thái Học.
2) Việc Hoàng Phùng Cơ mưu cắt quân bảo vệ, nhưng bị Hữu Chỉnh đánh bại rồi giết chết hồi tháng tám năm Đinh Mùi (1787).
Bấy giờ Phùng Cơ ở trấn Sơn Tây, truyền hịch đi các lộ Quảng Oai và Quốc Oai, mưu kéo quân vào Thăng Long để giết Hữu Chỉnh.
Chỉnh sai tướng Nguyễn Duật133 đón đánh ở làng Đại Phùng134, còn mình thì đốc suất đại quân tiếp chiến.
Mới giao phong với Phùng Cơ, Duật đã rút binh kéo lui. Con Cơ là Gia khuyên Cơ nên thừa thắng, ruổi dài, thẳng đến kinh thành cho khỏi bỏ lỡ dịp tốt; song Cơ không nghe. Khi quân Phùng Cơ tạm nghỉ và đang ăn, thì Duật thu quân quay lại, kết trận xông lên mà phản công, làm cho quân Phùng Cơ trở tay không kịp, cuống quýt tan chạy. Cơ và con trơ trọi trên mình voi, cố sức chiến đấu, trong khi quân Duật bốn mặt bổ vây.
Bấy giờ Hữu Chỉnh ập đến, thúc quân thiết kỵ bắn dồn vào chỗ Phùng Cơ. Cơ từ trên bành voi ngã xuống, bị bắt đưa về Thăng Long: Sắp sửa đem chém, thì vua Lê cho Cơ được uống thuốc độc để tự tử vì lấy cớ rằng trước đây Cơ có công đánh lui Mậu Nễ.
3) Việc Trịnh Bồng mưu lấy lại quyền vị, nhưng bị Hoàng Viết Tuyển và Hoàng đệ Lê Duy Lưu đánh bại ở huyện Đông Quan135 hồi cuối thu, năm Đinh Mùi (1787).
Trước đây, Trịnh Bồng chạy đến làng Quế Ổ136 cùng bọn Nguyễn Trọng Mại chia đồn cố giữ để mưu toan khôi phục lấy quyền vị của nhà chúa xưa. Bồng lại sai thuộc tướng là Đắc Võ (không rõ họ của Võ là gì) giữ lũy Đông Triều để làm phên giậu che đỡ cho được củng cố.
Thấy vậy, Hữu Chỉnh sai bọn Nguyễn Như Thái tiến công Trịnh Bồng.
Bồng thua, chạy về Hải Dương, được Đinh Tích Nhưỡng ủng hộ bằng một lực lượng khá mạnh.
Sau Hữu Chỉnh sai Hoàng Viết Tuyển, trấn thủ Sơn Nam, tiến đánh. Tích Nhưỡng đại bại, chỉ chạy được thoát thân, bỏ lại Trịnh Bồng cho Lân Dương hầu Phạm Đình Thiện đem đến huyện Đông Quan rồi lại vào đóng đồn ở ấp Bái Hạ137.
Trải mấy tháng tiến công, bọn Hoàng Viết Tuyển không hạ được Đông Quan. Sau nhân thấy Hoàng đệ Duy Lưu đem cấm vệ thân quân đi đốc chiến, Viết Tuyển bèn họp binh với Nguyễn Như Thái cùng giáp công, rồi rong quân đốt phá Đông Quan: Trịnh Bồng trước còn lẩn ở Yên Quảng, rồi trốn lên Lạng Sơn, rồi chạy đi Hữu Lũng138, sau không biết đi đâu và kết cục ra sao.
Vì những cuộc thắng trận ấy đã đem lại cho Bằng Trung công bao cái vẻ vang rực rỡ, nên Chỉnh lại càng dương dương “ta đây”; nhưng cũng vì những trận nội chiến ấy đã làm cho Bắc Hà càng thêm mục nát liệt tê, nên rồi ra, quân Tây Sơn ra đánh lại càng dễ dàng như vào cái thành “bỏ ngỏ”.
***
Chỉnh đang đắc chí, bỗng tiếp được thư Vũ Văn Nhậm hạch hỏi về tội âm mưu với Duệ. Chỉnh phải phúc đáp bằng giọng trần tình và tạ lỗi:
Trước kia vào Nam qui phụ, tôi được Đại vương (chỉ Nguyễn Huệ) quá yêu, cất dùng ở bên màn trướng, cho theo đòi cung kiếm trải bốn, năm thu. Mùa thu năm ngoái (Bính Ngọ 1786), Đại vương rút quân về Nam, không cho tôi biết. Chính ý Đại vương muốn thử xem tôi lui tới thế nào đấy. Khi đó, người Bắc cố nèo tôi ở lại, nhưng tôi cũng cứ quyết tâm đi theo. Tấm lòng trung thành này, tưởng bậc cao minh cũng đã xét thấu.
Khi theo đến Nghệ An, tôi vào ra mắt Đại vương ở Vĩnh Doanh, xin đi tòng quân, thì Đại vương lại dạy: Các tướng bên Trịnh là bọn Thạc139, Nhưỡng140 hãy còn khuấy rối, thế tất phải trừ. Vậy hãy cho ở lại để trị tiệt bọn họ đi. Lẽ nào tôi dám trái mạng?
Dâng thân hèn mọn, hết sức xông pha tên đạn, tôi quyết “sống mái” với bọn Thạc, Nhưỡng, nào dám quản ngại gì đâu? Chỉ mong trị xong hai tên giặc đó, tôi sẽ một người, một ngựa, vào Nam tỏ tình.
Ngờ đâu, tháng trước, đánh vùng Sơn Tây, mới bắt được quân Thạc. Còn Nhưỡng hãy còn vùng vẫy ở miền Hải Dương, chưa dẹp yên được; nên tôi chưa kịp về hầu đó thôi.
Thấy tôi ở lại Bắc Hà, lắm kẻ đem lòng ghen ghét, nói vu thế nọ, thế kia…
Xin xét tình cho: sau khi Đại vương về Nam, tôi ở lại Nghệ có hơn mười ngày, rồi ra Bắc ngay, còn kịp đâu âm mưu với Duệ? Vả, từ đó trở đi, kẻ Nam người Bắc, mỗi đằng một việc, có từng đi lại với nhau nữa đâu?
Tình thật, lòng ngay tưởng cũng không cần phải cãi. Huống chi tôi với Tướng quân (chỉ Vũ Văn Nhậm) đồng sự đã lâu, nếu có lòng nào thì giấu sao được?
Xin nhờ, Tướng quân thưa giùm với Đại vương cho, tôi đội ơn lắm.
Đọc kỹ bức thư trên, Nhậm thấy lời lẽ khiêm tốn, biết Chỉnh còn có ý sợ. Để làm cho Chỉnh yên lòng, Nhậm viết phúc thư yên ủi Chỉnh bằng lời ôn tồn thân mật. Nhậm lại khuyên Chỉnh cố đánh dẹp nốt Nhưỡng, khi nào thành công thì kéo quân vào Nam để tỏ lòng ngay thật.
Hỏi tội Cống Chỉnh
Ai mang con sáo sang sông?
Để cho nay sáo xổ lồng bay cao!
Bay cao thì mặc bay cao,
Lưới giời đã rộng thoát nào được đâu?
Bốn câu đó, người ta nói là chỉ về việc Bắc Bình vương căm hờn Cống Chỉnh, một “con sáo” đang bay nhảy trên đất Bắc Hà!
Cuộc giảng hòa trong Nam đã hàn lại vết thương “cốt nhục” giữa Nhạc và Huệ.
Rảnh việc trong, Bắc Bình vương, từ đây, có thể dùng toàn lực để đối phó với việc ngoài.
Một kỳ quân sự hội nghị nhóm giữa Quảng Nam
Ngồi ghế chủ tịch, Bắc Bình vương kể tội Cống Chỉnh trước mặt các tướng chân tay:
– Chỉnh là một thằng sa cơ lỡ bước. Nhờ tay ta, hắn mới ra người. Giờ hắn được ôm chân vua Lê, vẫy vùng ở đất Bắc Hà, hắn dám mưu mô tranh lấy Nghệ An, chực đặt trọng trấn tại đó, hòng lại Nam xâm như chúa Trịnh xưa! Thằng giặc này, ta phải giết chết mới đặng. Chẳng hay hắn có bao nhiêu binh mã? Liệu có chọi nổi một trận với ta?
Ý định giết Chỉnh đó liền được thực hiện.
Vâng lệnh Bắc Bình vương, bọn Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đem quân ra Nghệ An, họp bàn với Vũ Văn Nhậm, viên tướng trấn thủ xứ ấy, lo việc Bắc phạt.
Khi bọn Văn Sở đi, Bắc Bình vương dặn ngầm họ: “Nhậm là một tay tướng tài, song ta vẫn không tin hắn. Chuyến này cho hắn giữ ấn Tiết chế, cầm trọng binh, coi chư tướng, gánh vác quân quốc trọng sự, chưa chắc không khỏi sinh biến đâu! Ta chỉ ngại một mình hắn, chứ có lo gì Bắc Hà. Các ngươi nên xét nét cho thật kỹ, hễ có điều chi, phải lập tức mật báo cho ta biết.”
Gió đông vi vút thổi. “Bột” mưa đòi cơn rây rắc ngang mày chinh phu!
Vũ Văn Nhậm kéo quân trảy qua Thổ Sơn, thuộc xã Văn Trai, huyện Ngọc Sơn (Thanh Hoa) (tháng mười một, năm Đinh Mùi,1787) để tiến công đất Bắc.
Lê Duật thủ hạ của Chỉnh, bấy giờ đang đóng ở Thanh Hoa, không dám chống cự, đã vội thu quân lui giữ Trinh Sơn giang, thuộc địa phận làng Trinh Sơn, huyện Mỹ Hóa (Thanh Hoa).
Đang ngự trên ngôi quyền quý, thánh thần Nguyễn Hữu Chỉnh, trong một ngày, 9 lần nhận được tin gấp rút từ biên thùy mặt Nam báo đến!
Ngựa trạm tấp nập, rình rịch ngoài đường!
Kinh đô Thăng Long bị cuốn vào luồng “nước xoáy” kinh động!
Lòng người càng giờ càng nôn nao!
Tấn náo kịch “dắt díu, bồng bế chạy loạn” cảnh nọ tiếp cảnh kia, cứ diễn ra một cách đau khổ ê chề trên các đường nối đô thành với các làng mạc!
Màu tang nhuộm đẫm đế đô. Các cửa hàng im ỉm đóng, âm thầm, rùng rợn, khép nép trước oai thần Chiến tranh sắp xông vào!
Phố xá dần dần vắng tanh: không mấy người còn can đảm dám qua lại. Chỉ các đương chức, vì công việc bó buộc, phải ở lại trong các tòa, các dinh.
Để đối phó với tình hình nguy ngập, vua Chiêu Thống nhóm quân sự hội nghị ở trong dinh quận Bằng Nguyễn Hữu Chỉnh.
Mọi người bàn:
– Văn Nhậm đem toán cô quân thình lình kéo đến như thế, ta nên kíp điều khiển lấy trọng binh mà quyết chiến với chúng. Thành hay bại, là ở chuyến này. Có điều cần là ta chớ đem binh lương mà nuôi béo chúng để gây thành thế lực cho bên địch.
Chỉnh, với vẻ nhơn nhơn, ung dung nói: “Cần phải trấn tĩnh, đừng nên bối rối kinh hoàng, làm cho lòng người náo động. Lê Duật giữ đất, thấy giặc đến, phải phi báo, đó là phận sự của hắn ta. Nhưng hắn cũng là một tay tướng tài, Văn Nhậm chưa dễ đã nuốt được nổi. Vả, hai sông Trinh Giang141 và Thanh Quyết142, lòng sâu, nước cả, dầu có muôn ngựa ngàn binh cũng khó vượt qua được! Phương lược đánh giữ, tự tôi đã định liệu cả rồi; can chi phải sợ hãi, cuống quýt?”
Bề ngoài Chỉnh tuy nói thế để cố trấn tĩnh lòng người, nhưng thực ra, Chỉnh vẫn sợ sệt Văn Nhậm. Vả, vì vợ con Chỉnh bây giờ còn ở bên Tây Sơn143, khác nào một loạt con tin bị giữ làm vật đảm bảo, nên Chỉnh chỉ muốn ủy khúc hòa nghị cho xong chuyện thôi.
Sau một chập thảo luận việc lựa tướng đi ứng chiến, Chỉnh nhất định cử Nguyễn Hữu Thái làm thống lĩnh. Mà Thái cũng nghị nhiên xin đi. Còn Ninh Tốn được cử làm Tham tán quân vụ, cùng Thái đem quân vào Thanh.
Bên Tây Sơn, quân Văn Nhậm kéo đến đóng ở phía nam sông Trinh Giang, sau khi đã dồn được Lê Duật rút lui tới đó.
Nhậm mật phái Ngô Văn Sở đem một toán quân đi men núi, lén qua sông Tất Mã144 để đánh tập hậu Lê Duật.
Duật bấy giờ, tuy đã phòng thủ cẩn mật, song vẫn không khỏi chột dạ trước sức tấn công mãnh liệt của các tướng Tây Sơn. Duật rất phân vân đối với mấy lời kiêu ngạo trong chiến thư của tướng Văn Nhậm: “Ngày mai, quân ta sẽ qua sông. Ngươi có dám đánh thì cho bày trận trước mà đợi. Nếu không thì bó tay trước mà hàng đi!” Nào ngờ, trong khi Duật còn đương bối rối ngờ sợ ấy, thì quân Văn Sở đang đi để ập đến sau lưng mà chẹn Duật đấy.
Dưới vòm trời vẩn đục cẩn một vài nét sao mờ, quân Lê Duật, vì tự liệu không giữ nổi Trinh Giang, phải lật đật trong bóng tối, trốn lên con đường đầy gian nan! Nhưng sau đêm rùng rợn, lại tiếp luôn đến ngày khủng khiếp: Vừa chạy đến Cao Động, đã thấy quân Văn Sở đóng đầy ở cả đó rồi! Duật trước mặt sau lưng đều thụ địch, bị giết chết ngay trong vòng loạn quân! Còn quân gia? Tan vỡ trong cơn hoang mang kinh khiếp. Khí giới và quân nhu của phái chiến bại ấy đều bị Tây Sơn chiếm được ráo.
Nguyễn Như Thái, được quận Bằng Nguyễn Hữu Chỉnh phát cho quân tinh nhuệ ở bản đạo và điều bát binh các đạo khác tất cả được hơn hai vạn người. Kéo quân đến Châu Cầu, hay tin Lê Duật đã chết trận, Thái vội họp Ninh Tốn bàn việc quân cơ.
Tốn nói: “Theo Binh pháp, hễ ai tranh được núi, chiếm được hiểm thì tất thắng lợi. Núi Tam Điệp (đèo Ba Dội) ở Thanh Hoa là một bức rào ngăn cách trong, ngoài có bề hiểm yếu thiên nhiên do bàn tay thợ Tạo xếp đặt. Ta nên kíp đem binh đến đóng giữ núi đó, đừng để bên Tây Sơn chiếm mất. Nếu được thế, thì từ Tràng Yên145 trở ra Bắc hãy còn là địa phận của ta. Nhược bằng bỏ mất cái địa lợi ấy thì một dải Sơn Nam, đất phẳng, đường liền, khó lòng tranh hùng với chúng được nữa. Muôn một rủi ro ra sao, việc nước tất hỏng bét!”
Trước lý luận ấy, Thái thấy làm phải.
Quân Bắc bị khua lùa thúc giục, kiền kiệt suốt đêm, gấp đường thẳng tiến. Tảng sáng đã qua đò Gián Khẩu146 rồi.
Thái sai một viên tướng giữ bến đò Gián Khẩu; còn mình dẫn đại quân do đường tắt đến bến đò Nghệ147, chực đánh úp vào đằng sau quân địch. Nhưng đến Điềm Sá148 thì gặp Quỳnh149, tướng Tây Sơn. Hai bên giao chiến, Thái đại bại, phải chạy đi Sơn Minh150.
Trước đó, bên Tây Sơn thừa dịp đánh thắng Lê Duật, đã vượt qua núi Tam Điệp từ lâu rồi. Văn Lân thúc quân tuyển phong đến đóng ở Đa Mai trước chờ giao phong với quân Bắc Hà.
Chưa kịp tới Tam Điệp, Thái đã bất lợi ngay từ trận đầu, lại thấy phe địch ập lại gần mình chỉ còn cách độ vài dặm, Thái kinh ngạc vô cùng!
Thái đấm ngực, la lớn: “Thôi chết rồi! Sao chúng nó nhanh thế!”
Bên quân Bắc vừa bày trận cách nước xong, thì bên Tây Sơn đã ầm ầm kéo đến chia đường đánh phá rất hăng.
Thế đã cô, lại không có quân cứu, Thái phải tế ngựa chạy, sau một trận kịch chiến từ sáng đến trưa, thuốc đạn hết sạch.
Văn Nhậm thúc quân đuổi riết, bắn chết cả Thái lẫn quân gia!
Riêng Ninh Tốn được thoát vì trốn ẩn ở nơi dân gian.
Văn Nhậm đánh tan bọn Thái rồi, cứ việc kéo quân thẳng tiến…
Bốn ngựa xé xác Chỉnh
Nguyễn Như Thái đã làm mồi cho súng đạn!
Toán quân ứng chiến ấy đã hoàn toàn bại vong!
Tin dữ ấy đã lọt đến tai Bằng Quận công Nguyễn Hữu Chỉnh.
Ném đũa đứng dậy, Chỉnh, với vẻ bàng hoàng thất sắc, chạy vào nhà trong, bảo con là Nguyễn Hữu Du: “Ta chỉ có bốn tay chiến tướng: nay Duật và Thái đã không may chết cả rồi! Tuyển ở Sơn Nam, Thước ở Kinh Bắc, giờ muốn gọi về cũng không sao kịp. Nước đã đến chân! Chính ta phải làm tướng cầm quân ra trận. Còn con? Con phải sửa soạn binh lương, cùng đi với cha mới được…”
Tỏ dáng hăng hái, can đảm, Hữu Du nói: “Con xin đi trước, quyết một phen kịch chiến với chúng nó, chứ không dám để phiền đến cha. Cha cứ đi sau đốc chiến…”
Rồi, với thái độ kiêu căng, Du khoác lác: “Con xin đi lấy đầu thằng Vũ Văn Nhậm đem về nộp cha!”
Tin bại trận ấy đồn dậy kinh đô, ai nấy nôn nao sợ hãi. Vua Lê Chiêu Thống trao cho Chỉnh cờ tiết và cây việt mà dụ rằng:
– Chuyến này khanh đi, quan hệ đến cuộc an nguy của xã tắc. Mong khanh sớm báo tin thắng trận cho trẫm được yên lòng!
Bằng giọng gian hùng, Chỉnh cố làm cho vua Lê vững tâm và tin cậy ở tài thao lược của Chỉnh:
-Văn Nhậm không phải là địch thủ của thần. Thần chỉ đi đốc chiến, chứ để bắt sống Văn Nhậm, thần sai tì tướng đi cũng đủ rồi.
Thế rồi từ biệt vua Lê, Chỉnh kéo hơn ba vạn quân (gồm cả binh ở Thăng Long và binh tướng ở các đạo khác) đi… đi đến con đường thất bại!
Kéo đến Hoàng Mai, Chỉnh sai Hữu Du cầm đầu Ngũ nhuệ cơ quân đi trước, hi vọng đón lấy bó hoa chiến thắng ở tương lai.
Du đến sông Thanh Quyết đắp lũy đất ở bờ bên bắc sông ấy, bổ đóng 18 đồn, phòng giữ có vẻ cẩn mật.
Tháng chạp, vài khóm lau sậy xơ xác đứng bên sông, nhọc mệt cựa mình trước cơn gió đông vi vút. Đêm ấy, cóc nhái khiếp oai thần Rét, không dám hòa ca cùng đàn giun dế nép mình trong hang sâu.
Vây quanh những đống lửa lèo lẹt, quân bên Hữu Du, từng tốp, từng chòm, đương sưởi ấm. Trước làn khói cay nồng mở tỏa, họ nói chuyện, họ bông đùa…
Cơn kinh khiếp thình lình xông đến: bao nhiêu những chỗ có lửa sáng đều có đạn súng vèo vèo bay!
Vô số quân toi mạng trong lúc không phòng bị!
Té ra, giữa đêm đông trời rét như cắt ấy, Văn Nhậm chia quân ra từng toán, bắc cầu phao, vượt qua sông, lẳng lặng đào khoét lũy đất bên địch, chĩa súng vào những chỗ có lửa sáng, bắn loạn xạ.
Không đủ tài lực đối phó với cuộc nguy biến ấy, quân Bắc tan vỡ lập tức.
Du vội nổi hiệu thu quân, chỉ còn 2, 3 phần mười!
Du phải lui giữ Châu Kiều151. Giùng giằng chờ đợi hậu quân cứu viện. Du không dám đánh, cũng chưa dám chạy về152.
Chỉnh đang đóng ở Bình Vọng153, giật mình sợ hãi khi thấy bại binh về báo: Du đã thua vỡ, quân Tây Sơn sắp đuổi đến nơi!
Trước cơn khó khăn đó, Chỉnh bối rối không biết lui tới ra sao!
Tướng sĩ bộ hạ cũng đều rủn chí, ngã lòng, đua nhau nói: “Thế giặc mạnh lắm! Ta khó tranh phong với chúng được. Vả, kinh thành ít binh, sợ không giữ nổi. Chi bằng ta hãy kéo về, chia quân đóng giữ Kinh Bắc, lấy sông Nhĩ Hà154 làm giới hạn; rồi sẽ liệu chước đánh giữ là hơn cả.”
Sau đó, thấy Du chạy đến, Chỉnh bèn cùng con kéo quân về, đang đêm vào thành, sai Nguyễn Khuê bảo vua Lê Chiêu Thống: Sớm mai, phải chạy đi Kinh Bắc để lánh nạn!
Xăm xăm vào thẳng trong phủ, Chỉnh sai người hộ vệ vợ con, qua sông chạy trước.
Từ đây, vua Lê sẽ sa vào bước đường cùng!
Cũng từ đây, cha con Hữu Chỉnh sẽ sống trong cơn ác mộng!
Không khí khủng bố vây bọc khắp cả hoàng cung!
Hay tin gia quyến quận Bằng đã trốn trước, vua Chiêu Thống tất tả, bệu rệch chạy sang Soái phủ, nắm lấy tay Cống Chỉnh mà hỏi: “Nông nỗi đã đến thế này, tính làm sao giờ?”
Chỉnh vẫn tỏ vẻ cứng cáp, vững vàng: “Tâu Bệ hạ, ở kinh đô này, trừ cửa ô, mặt tây nam chưa có hào lũy. Trống trải như thế, đánh đã không xong, mà giữ cũng khó. Phen này Tây Sơn thừa thắng kéo ra, ta lấy gì làm rào giậu để tự toàn được?”
Trầm ngâm một lát, Chỉnh lại tiếp: “Hiện nay Kinh Bắc (tức Bắc Ninh bây giờ) có Nguyễn Cảnh Thước là tay dũng lược đáng tin cậy. Vả, ở đấy có thành trì kiên cố để ẩn náu, sông lớn để ngăn ngừa, có thể giữ thế thủ được.
Xin Bệ hạ hãy đi giá sang Kinh Bắc, rồi hạ chiếu cần vương: truyền thông khí mạch suốt từ Thái Nguyên, Sơn Tây đến Hải Dương, Sơn Nam (nay là Nam Định), thì chẳng bao lâu, chắc sẽ triệu tập được một đạo binh lớn. Bấy giờ ta sẽ liệu cơ làm việc, mới mong khôi phục được cơ đồ.”
Lại lên mặt “biết người, biết mình” Chỉnh quả quyết: “Phải đi xa, quân Tây Sơn đã mỏi; lại có sông sâu cách trở, chắc chúng không dám đuổi ta đâu.”
Rồi Chỉnh nói qua quít cho xong chuyện: “Xin Bệ hạ về cung, cứ mời Hoàng thái hậu đi trước. Thần sẽ thân đem tướng sĩ đến đợi ở bến sông.”
Trông về tương lai đầy những nét mây ảm đạm, vua Chiêu Thống bấy giờ chẳng những ngờ vực người, mà cũng không tin đến cả mình nữa.
Hối hả đi bộ từ bên phủ quận Bằng trở về hoàng cung, vua Lê nhận rõ từng nét “kinh khủng” đang in trên bức tranh “biển dâu”, không khỏi mủi lòng trước tấn bi kịch thay triều đổi họ!
Màu tang đã nhuộm trắng phố xá! Hung thần “Chiến tranh” đang đe dọa hiếp đáp bọn dân chạy loạn! Bọn côn đồ mặc sức thả câu trong hồi nước đục: chúng cướp đường, chúng bóc lột, chúng cầm quyền sinh sát giữa kinh đô đương “sốt rét”.
Trong lúc “hỗn quân, hỗn quan” đó, Chiêu Thống chỉ là một “nạn nhân” chờ đội “mũ gai” đau đớn. Quả thế, khi nhà vua đang nheo nhóc chân đăm đá chân chiêu ở dọc đường, thì có kẻ xông ra, túm lấy, khám túi, lần lưng, thấy không có gì, bấy giờ mới “sinh phúc” cho đi thoát.
Thoát nạn về đến hoàng cung, vua Chiêu Thống vội hiệu triệu lính thị vệ, nhưng chỉ được 17, 18 tên! Còn đâu cả? Chúng đi trốn sạch!
Lạch đạch, khệ nệ, ùy oạch, chật vật theo sau Hoàng thái hậu và Nguyên tử, một bọn tôn thất và cung nhân giẵm trên gió bụi, lầm than.
Vất vả lắm mới tới được bến sông, họ tranh nhau xuống thuyền.
Hết thảy sống trong cảnh xô bồ, hỗn độn. Chỉ có sức khỏe là lá bùa thứ nhất để hộ thân, mạnh ai nấy tranh được trước, bấy giờ không còn đạo đức lễ độ gì nữa! Người ta xô đẩy nhau trên bãi cát, chen chúc nhau trong các thuyền. Tiếng kêu vì ngã bị giẵm bẹp hòa với tiếng cầu cứu vì thuyền đắm: oai oái thảm thê155.
Sông ơi! Biển ơi! Sao mi không yên, không lặng, lại cứ nay sóng, mai gió, cuốn mất của người ta biết bao hạnh phúc vào trong lòng mi!
Chập tối Văn Nhậm kéo quân vào thành Thăng Long: Một mặt kéo bảng chiêu an, một mặt sai bộ tướng là Nguyễn Văn Hòa đuổi đánh Cống Chỉnh.
Chạy! Chạy!... Cống Chỉnh và các văn thần đem vua Chiêu Thống chạy về phía bắc. Quân lính đi đứng lộn xộn, không còn bộ ngũ trật tự gì nữa!
Đến trấn Kinh Bắc, quân lính đã trốn mất quá nửa, chỉ còn hơn 430 đầu người và 60 cỗ ngựa.
Chỉnh đem tàn binh qua sông Như Nguyệt156, vừa thoạt đóng đồn ở núi Tam Tằng157, thì Nguyễn Văn Hòa, tướng Tây Sơn đã kéo binh ập đến.
Một cuộc giao chiến định rõ số phận Nam, Bắc.
Văn Hòa chia binh làm đôi: sai một toán đi vòng sau núi, đánh tập hậu.
Rối loạn, quân Chỉnh tan vỡ! Hữu Du bị bắt và bị chặt đầu. Chỉnh tế ngựa chạy trốn, bỗng ngã vật xuống vì ngựa bị thương. Đường đường quận Bằng nay phải làm tù binh trong lúc cùng đường, kiệt sức!
Sau khi bắt sống được Chỉnh, quân gia Tây Sơn tranh nhau toan chặt lấy đầu; song Chỉnh la lớn bảo chúng: “Cứ bắt sống tớ mà nộp lấy công, chứ đừng giết tớ ở đây vội!”
Xúm lại, chúng trói Chỉnh đóng vào cũi, và treo đầu Hữu Du ở bên cũi Chỉnh, khiêng về Thăng Long.
Trước là bạn, nay là tù, Chỉnh với Văn Nhậm bây giờ cách nhau như trời với vực.
Với giọng bệ vệ, oai nghiêm của phái chiến thắng, Nhậm kể tội Chỉnh không sót kẽ tóc, chân tơ. Nhưng gọn thon lỏn, Chỉnh chỉ đáp lại mấy lời cứng cáp khi Nhậm vặn hỏi tại sao làm phản:
– Chỉ vì cái “thế” mà thôi!
Rồi, Nhậm “cảm ơn” bạn đã làm mình giựt được cái chiến công lừng lẫy này bằng cách khép Chỉnh vào một thảm hình: buộc chân tay Chỉnh vào bốn con ngựa, xé xác ra làm mấy mảnh158.
Chỉnh khi mới lọt lòng mẹ, oe oe mấy tiếng khóc, đã làm cho ông giám sinh họ Đỗ ở Thanh Chương (Nghệ An) phải thốt ra lời kinh hãi lúc qua cổng nhà Chỉnh ở Đông Hải, huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An: “Đứa trẻ khóc đấy sẽ là một tên gian hùng đời loạn”159! Quả nhiên, từ một ông Hương cống (tức Cử nhân), Chỉnh đã xoay hẳn lại thời cục Bắc Hà và đại thế nước Đại Việt ở cuối thế kỷ XVIII. Như trước đã nói, Chỉnh nguyên làm gia khách Hoàng Ngũ Phúc, sau lại nương dựa Hoàng Đình Bảo, cháu của Phúc. Hồi quân Tam phủ nhà Lê nổi loạn, Bảo bị giết bởi lưỡi gươm của bọn kiêu binh ấy! Chực lợi dụng thời cơ, Chỉnh xui Vũ Tá Giao, chồng của em gái Đình Bảo giữ trấn, chống lại triều đình Bắc Hà. Thấy Giao không nghe, Chỉnh sợ mắc vạ, phải chạy theo Tây Sơn.
Trong hai năm trời, Chỉnh đạp đổ chúa Trịnh, xoay tít vua Lê, làm khó dễ với Bắc Bình vương, những thủ đoạn gian hùng ấy kém gì “ông cử” Tào Tháo!
Ngoài ngón thao lược, Chỉnh còn có tài về văn nôm nữa. Dưới đây là một bài thơ Chỉnh làm khi nhàn rỗi trong một ngày mưa xuân:
Lửa hồng từ dậy mái thành đô,
Đòi chốn lầm than thuở được thua!
Xanh biếc cảnh xen người ẩn dật,
Bạc đen đường vẩn khách bôn xu!160
Cái cớ Cống Chỉnh sở dĩ thất bại, gồm trong ba chữ “tham, bạo, kiêu” như lời Đinh Nhạ Hành đã viết trong tờ biểu tạ Lê Chiêu Thống:
Từ khi đem quân vào hộ vệ, Nguyễn Chỉnh tham, bạo và kiêu, khiến cho trên dưới nghi ngờ, lắm người ta oán. Lúc được cầm quyền, Chỉnh lại ra tay tàn sát: những huân thần, túc tướng, lệnh tộc và thế gia bị giết hại rất nhiều! Cho nên quân Tây Sơn, khi ra lần nữa, mới đánh một trận, thế mà ba quân bên ta (Lê) đã tan vỡ, đến nỗi Kinh thành thất thủ, xã tắc điên nguy! Cứ kể cái tội hại nước hại dân ấy; dầu băm chém Chỉnh làm muôn nghìn mảnh cũng chưa đáng!
Giết Đại tướng
Hạ xong Thăng Long, Vũ Văn Nhậm vẻ vang hát bài chiến thắng, khỏa lấp những lời than, tiếng khóc của Trịnh Lê!...
Nào ngờ nấp sau cánh cửa “Khải hoàn”, thần Chết vẫn rình đợi Tướng quân họ Vũ!
Vũ Văn Nhậm nguyên xưa làm Tiết chế bên chúa Nguyễn, nên người bấy giờ thường kêu là Chế Nhậm. Hồi tháng năm, năm Bính Ngọ (1786), Nhậm thua trận Gia Định, bị Tây Sơn bắt sống, toan tự vẫn, nhưng rồi nghe lời Đức Lệnh (Nguyễn Huệ) dụ hàng, Nhậm theo Tây Sơn từ đó. Nay Nhậm tuy là tả tướng ở Súy phủ Bắc Bình vương, nhưng là con rể của vua Thái Đức. Mà từ năm ngoái tới giờ, Nhậm chỉ huy quân sự, cũng tỏ ra cậy mình là quốc tế. Dạo anh em Tây Sơn thất hòa161, Nhậm vẫn trung lập và vâng theo mệnh lệnh của Bắc Bình vương, nhưng vẫn không quên cái tình ông nhạc và con rể. Khi ở Động Hải, nghe tin nội biến, Nhậm xin về triều cận, song Bắc Bình vương không cho, truyền phải đi thẳng ra Nghệ. Sau trận ra Bắc Hà, giết Hữu Chỉnh, Nhậm càng lập được kỳ công, Vương càng ngờ sợ! Ngờ sợ vì Nhậm là một tay tướng tài.
Vả, theo Thanh triều sử lược, quyển VI, tờ 19b (tác giả là Tá Đằng Sở Tài, người Nhật Bản), thì sau khi chiếm cứ Đông Kinh (Bắc Hà), Nhậm (trong sách này chép là họ Nguyễn: Nguyễn Nhậm) “giữ bốn mặt hiểm yếu, cũng có chí tự vương”162. Vì vậy, Nhậm đối với Bắc Bình vương, lại càng như cái gai trong mắt.
Dòm thấy cái khe hở đó, bọn Sở hết sức tìm cách thêu dệt, miễn sao cho Nhậm mau chết theo Chỉnh, họ mới hả lòng.
Sau khi Bắc Hà đã yên, có người nói với Văn Nhậm: “Ngoài Bắc dẫu oán Cống Chỉnh, nhưng lòng người vẫn nhớ nhà Lê. Nay vua Chiêu Thống đã đi rồi, chưa biết bao giờ lại về được. Sùng Nhượng công Lê Duy Cận, con thứ 4 vua Hiển Tông, khi còn Tiên đế (chỉ vua Hiển Tông) đã được lập làm Đông cung, nhưng qua năm Nhâm Dần (1782), bị quân Tam phủ truất bỏ. Nếu bây giờ Tướng quân (chỉ Văn Nhậm) lại lập Sùng Nhượng công lên ngôi chính thống, rồi yết bảng ra cửa Đại Hưng, hiệu triệu triều thần thì, độ vài ngày, văn võ bách quan sẽ lại quay về răm rắp, làm việc nước sẽ dễ như trở bàn tay.”
Đề nghị ấy được Nhậm tán thành.
Rồi việc ấy thực hiện: Duy Cận được đón lập làm Giám quốc đóng ở điện Cần Chính.
Đã bất mãn lối độc đoán của Nhậm, lại không ưng cái tư cách của Duy Cận, Ngô Văn Sở nói riêng với Nhậm:
– Tôi xem bộ dạng Duy Cận như vậy, còn hòng cai trị được ai? Nên lấy, ta cứ lấy phắt đi, cần chi phải mượn thằng cầu bơ cầu bất ở đâu về làm bồ nhìn, rồi chúng mình lại đóng quân trong thành, canh cửa cho nó!
Nhậm lạnh lùng:
– Lòng người Bắc Hà vẫn còn nhớ Lê; nên nay hãy cứ làm theo dân vọng. Việc đó, đã có tôi chủ trương. Các ông chỉ việc đánh khỏe là đủ.
Làm thinh, Sở ra bảo Văn Lân:
– Lão Chế Nhậm khinh người quá! Chẳng hay lão có tài đức chi mà dám coi ta như một tên lính!
Đinh ninh nhớ nhời dặn ngầm của Bắc Bình vương, Sở, từ khi bước chân đi Bắc, vẫn chăm chăm rình miếng vật Nhậm để tâng công.
Cơ hội đã đến rồi. Mấy nhời Nhậm nói nặng Sở kia đủ làm tàn lửa đốt thùng thuốc súng!
Từ đó, công thành ra tội, việc làm phải lẽ hóa ra phản trạng nặng nề: Nhậm sẽ chung một mối oán với Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Tất (người cuối Trần)!
Vẫn biết Văn Nhậm ngang tài với mình, song muốn lợi dụng cho được việc một lúc, rồi sẽ liệu bài trừ sau: Bắc Bình vương nghĩ thế. Khi cho Nhậm ra Bắc, vương đã dặn bọn Sở phải coi chừng. Nay bỗng tiếp được tin Sở mật báo, lại thấy Văn Lân đứng làm chứng, vương càng quả quyết giết Nhậm, không tha.
Lập tức hạ lệnh động binh, Bắc Bình vương, thanh gươm, yên ngựa, lên đường, ngày đêm đi gấp ra Bắc163...
Vượt suối, lách rừng, leo núi…, hơn mười ngày, Bắc Bình vương đã đến Thăng Long.
Đêm tháng tư, cảnh vật như bị nấu chín trong lò lửa hạ! Tiếng dế khóc cuộc hưng vong dưới chân Hoàng Thành mờ phủ lớp rêu cằn cỗi bỗng bị khỏa lấp vì trống canh tư chậm rãi điểm hồi.
Nằm trên oai quyền lẫm liệt, Tiết chế Vũ Văn Nhậm đang nồng giấc “chinh phu”.
“Tôi có tội gì?” Tiếng kêu chưa dứt, Nhậm đã âm thầm ôm mộng thác oan!
Ai giết Nhậm?
Thì ra, nhân lúc không ngờ, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ đang đêm ập vào trong quân thứ, sai võ sĩ Hoàng Văn Lợi đâm chết Chế Nhậm, rồi chôn xác ngay ở sau phủ, vùi sâu sự nghiệp một đời tướng tài164!
Sáng ra, vương cải tổ lại quân ngũ, nhắc Ngô Văn Sở lên thế chân, cầm binh quyền.
Chỉ vì chén thuốc độc
Ở Nam đã hòa với vua Thái Đức; ra Bắc, lại “sửa” xong Vũ Văn Nhậm, Bắc Bình vương, lúc này, có thể rảnh tay để lo việc thiện hậu ở Bắc Hà.
Muốn được mời lên ngự chiếc ngai vàng, vương sai triệu tập các tôi cũ nhà Lê, ép phải làm biểu liên danh khuyến tiến.
Nhưng việc ấy bị thất bại vì chén thuốc độc của Tham tri chính sự Nguyễn Huy Trạc, người chỉ trông thấy có ba chữ “Lê Thái Tổ”, chứ không sợ uy võ của Tân trào!
Không muốn “già néo”, Bắc Bình vương dùng cái chiến thuật “làm dần”. Trước hết hãy chia chức, đặt quan, khiến cho bộ máy cai trị cứ quay chuyển đã: Đô đốc Hòa Nghĩa hầu trấn thủ Sơn Nam; Lôi Quang hầu trấn thủ Sơn Tây; Nguyệt Quang hầu trấn thủ Kinh Bắc; Hám Hổ hầu165 trấn thủ Hải Dương. Giác Hòa hầu giữ Lại bộ; Lộc Tài hầu giữ Hình bộ; cả bốn hầu này cùng ngồi ghế hiệp trấn.
Vương lại ra lệnh cho bách quan làm việc “cử tri”: tiến cử người mình biết là hiền năng để Tân trào bổ đi cai trị các huyện. Mỗi huyện đặt hai viên văn võ cầm đầu: văn phân tri và võ phân suất. Còn ty thuộc trong các trấn? Ngô Văn Sở được tùy tài bổ dụng, rồi bẩm lên để cấp văn bằng.
Trong đám Lê thần xoay về với Tây Sơn đây, có Phan Huy Ích166 và Ngô Thì Nhậm là những tay rất đắc lực về việc tử lệnh giao thiệp với nhà Mãn Thanh sau này.
Ngô Thì Nhậm suýt bị Lễ quan Vũ Văn Ước bắt đem trị tội “dám” ngồi cùng chiếu với Ước, khi Ước sắp dẫn các cựu thần nhà Lê vào ra mắt Bắc Bình vương.
Trốn được thoát, Ngô tự đến yết Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ, nhờ Kỷ tiến dẫn lên Bắc Bình vương.
Gặp Ngô, vương yên ủi:
– Trước kia, chúa Trịnh không dùng khanh, khanh phải trốn tránh: nghĩ cũng đáng buồn! Nếu ta không tới đây, khanh đâu được có cái may mắn này? Có lẽ trời có ý để dành lại cho ta dùng đó?
Ngô lạy tạ.
Vương ngoảnh lại bảo Kỷ:
– Ngô Thì Nhậm là người được ta tái tạo cho đó!
Vương lập tức sai thảo chế, phong Ngô làm Lại bộ Tả thị lang Tình Phái hầu, cho với Ước cùng quản lĩnh các viên chức văn võ ban thuộc triều Lê.
Phá tan quang cảnh lạnh lẽo, tiêu điều, đền Chính trung bữa nay trở nên náo nhiệt, oai nghi, tấp nập. Đưa mắt nhìn bọn đương e dè tiến lên điện để lạy chào kia, Bắc Bình vương hỏi thử một người:
– Ngươi làm chi.
Người ấy đáp:
– Thưa Thám hoa.
– Thám Hoa là cái chi? Có làm đặng tổng trưởng (tức Chánh tổng) không?
Rồi vương truyền cho mọi người lên cả trên thềm, dụ họ bằng giọng sang sảng như tiếng chuông:
– Lê Tự hoàng dầu do ta lập lên thật, song Tự hoàng là người ngu muội, ươn hèn, không cáng đáng nổi trọng trách. Khi ta về Nam, Tự hoàng bị Cống Chỉnh nó xoay đến nỗi tự chuốc lấy vạ, thật không đáng thương! Nay lập Sùng Nhượng công làm việc Giám quốc giữ việc thờ cúng nhà Lê: chính phải lắm. Các khanh nên gắng ở lại giúp đỡ thì hơn. Mai kia ta lại vô Nam, thật không lấy Bắc Hà làm lợi. Song, vì sợ Tự hoàng tranh giành với Giám quốc, người nước lại đổ lỗi tại ta gây ra mối loạn, nên chi phải để Đại tư mã Ngô Văn Sở hãy tạm đóng binh coi giữ; đợi khi bốn phương yên ổn, bấy giờ ta sẽ triệu về.
Ăn kết quả của cuộc chiến thắng, Bắc Bình vương nhấp “chén” thành công mua vui với thân thần; trước khi trở về Thuận Quảng.
Nồng như rượu, đậm đà như món ăn, vương ngọt ngào dặn bảo bọn họ:
– Ngô Văn Sở (Đại tư mã), Phan Văn Lân (Nội hầu): nanh vuốt của ta; Nguyễn Văn Dụng (Chưởng phủ), Trần Thuận Ngôn (Hộ bộ Thị lang) tâm phúc của ta, Ngô Thì Nhậm (Lại bộ Thị lang) tuy là mới nhưng là bậc tân thần (賓臣) ta coi như khách. Nay ta giao cho các khanh hết thẩy mọi việc quân quốc, coi quản 11 trấn trong toàn hạt. Hễ có điều chi, ta cho cứ được tiện nghi làm việc. Song các khanh cần phải họp bàn với nhau, chứ đừng phân bì kẻ mới, người cũ, miễn sao làm cho được việc, ta mới yên lòng…
"Người mới vui cười, người cũ khóc"
Vua Lê Chiêu Thống, sau khi bỏ thành Thăng Long, chạy sang Kinh Bắc: chẳng những không được dung nạp, lại bị thủ hạ của Nguyễn Cảnh Thước, trấn thủ xứ Bắc, lột lấy áo bào!
Sau trận Cống Chỉnh bị bắt ở Mục Sơn167, Chiêu Thống lại phải trốn vào sơn trại huyện Bảo Lộc168!
Bấy giờ Thăng Long còn đương nép dưới “cây gậy tiết chế” của Vũ Văn Nhậm. Thấy Nguyễn Văn Hòa loay hoay trước bức lũy ở phía bắc sông Nguyệt Đức169 do Nguyễn Trọng Linh, thổ mục Bảo Lộc đắp lên để hộ vệ cho cá thể Chiêu Thống, Nhậm cho là một vết không vinh dự cho nhà binh Tây Sơn. Lập tức đại binh từ Thăng Long kéo đến, do Nhậm cầm đầu, đánh thắng được Linh sau một ngày một đêm kịch chiến.
Trải cơn thất bại ở Bảo Lộc, Chiêu Thống đọc rõ những nét “muốn phản” trên mặt Linh, phải quay về Chí Linh170 nương nhờ Trần Quang Châu và Lê Ban, mưu đánh trấn Hải Dương làm đất căn cứ.
Quân nghĩa dũng nhiều nơi nổi dậy, đáp theo tiếng gọi của lá chiếu cần vương.
Thay chân Nhậm, Văn Sở đang sống trong những phút tưng bừng ở kinh đô Thăng Long, càng khấp khởi mừng khi thấy Trần Liên do Đinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương sai đến cáo tỏ chỗ Chiêu Thống đang trốn tránh.
Sắc đêm nhuộm đẫm cảnh vật. Trăm tên lính Tây Sơn, theo tay chỉ điểm của Liên, giẵm bóng tối, vin rễ cây, bám hốc đá, vượt núi định vào bắt sống vua Lê phen này! Chẳng dè cả lũ đều toi mạng dưới tay làm việc có phòng bị của Châu và Ban.
Sở hay tin tức đó, tức tốc phái binh lùng bắt Chiêu Thống, một nạn nhân long đong nay Chí Linh, mai Hiệp Sơn, mốt Chân Định.
Mặt khác, Sở sai bộ tướng đi dẹp những nơi hễ có làn khói phản đối Tân trào: đã đánh quỵ Việt Tuyển ở Hoàng Giang171, lại đuổi bắt bọn Châu, Ban ở mạn xứ Đông, khiến cho Chiêu Thống phải đúng với sước hiệu172 là vua “Mống Siêu” từ đó.
Dưới vòm trời nặng trĩu mây tối, chiếc thuyền bôn ba của vua Lê vừa chèo đến Đông Ngạn để tới Hoàng Giang thì đùng một cái, tin Viết Tuyển thua173 chạy về Nghệ An làm rụng rời khách lưu ly điên bái!
Như nước, lòng vua Lê cồn cộn! Như con thuyền, thân thế vua Lê lênh đênh! Phó mặc may rủi, Chiêu Thống cứ xuôi theo dòng nước đi liều về phía nam. Rồi, theo gió, thuyền nhà vua cứ “đi phiếm” ra biển khơi. Mây trôi hờ hững. Đàn sóng vật nhau trên mặt biển mông mênh. Chiêu Thống cảm thấy thân mình là bọt biển dạt dào, gia đình mình là những hoa sóng tan tác!
Thuyền đến hải phận Biện Sơn, Chiêu Thống gặp Lê Ban, lại kéo nhau quay về Thanh Hoa. Rồi lúc lén đi Kim Bảng, lúc vi phục về Kinh Bắc, lúc tạm ẩn ở Lạng Giang, lúc lẩn quất vùng Từ Sơn, ông vua cuối đời Lê trung hưng này nếm trải đủ mùi đắng cay trong cơn gió bụi. Hai câu trong bài thơ Chiêu Thống gửi cho Trần Danh Án đã chứng rõ nỗi gian truân ấy:
社稷有懷常鬱結
江湖飽歷苦流連
“Xã tắc hữu hoài, thường uất kết!
Giang hồ bão lịch, khổ lưu liên!”
Dịch:
Xã tắc ngửa nghiêng, lòng nghẽn thắt!
Giang hồ lây lất, cảnh long đong!
Đường đã cùng, sức đã kiệt, Chiêu Thống không còn xoay được chiến thuật gì khác, ngoài kế rước voi! Nằm chờ ở vùng Phượng Nhỡn, Chiêu Thống gửi hết hy vọng hưng phục vào chú Mãn Thanh, khi đã sai Lê Duy Đản và Trần Danh Án sang Tàu cầu viện.
Mặt khác, Thái hậu và Nguyên tử nhà Lê cùng bọn thị thần Lê Quýnh, sau khi chạy được lên đến Cao Bằng, nương dựa Đốc đồng Nguyễn Huy Túc, cũng gõ cửa nhà Thanh, van lơn cầu cứu.
Trước đó, Nguyễn Huy Túc và Lê Quýnh hộ vệ Thái hậu và Nguyên tử trốn đến xã Bác Sơn174 giáp đất Tàu, thì bị quân Tây Sơn đuổi tới (mồng 9 tháng năm năm Mậu Thân, 1778). Bọn Túc chạy đến bến sông, cầu người Thanh cứu giúp và xin cho vào trong quan ải.
Khi các nhà chuyên trách bên Thanh giữ việc tuần phòng cửa ải đang xét hỏi bọn Túc thì bên này sông Phất Mê, có đến hơn trăm quân Tây Sơn chực xông sang bắt. Nhưng vì thấy chỗ đối cửa ải bên Tàu có quân lính Mãn Thanh, nên bọn hơn trăm quân đó lại rút lui, chứ không qua sông nữa. Vì vậy, bọn Túc mới dẫn tất cả đàn ông, đàn bà cộng tới hơn 62 người175 vượt được qua sông.
Chịu qua một lượt tra xét, kiểm điểm, bọn Túc được các chú cho vào trong ải mà ở đậu176.
Thấy Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh tâu lên Thanh đình việc bọn Túc đem quyến thuộc vua Lê sang nương nhờ đất Tàu ấy, vua Càn Long (1736-1795) nhà Thanh liền truyền Tôn Vĩnh Thanh cứ mật xét hỏi bọn Túc, chứ không cần đợi Tôn Sĩ Nghị đến rồi mới làm177.
Rồi vua nhà Thanh xuống dụ rằng: “… Hiện nay quyến thuộc Duy Kỳ cần phải an sáp cho được thỏa đáng, dẫu tốn bao nhiêu của kho Nhà nước cũng không nên tiếc…”178
Bấy giờ quân Tây Sơn tràn sang biên giới đất Tàu, triều đình nhà Thanh không khỏi nao nao hồi hộp, tính ngay đến việc phòng thủ. Vua Thanh tức tốc hạ lệnh: ở nơi quan ải bên Tàu tuy đã điều bát đến 1.000 binh chia đồn đóng giữ, nhưng sợ số quân như thế chưa được nhiều, nhỡ quân Tây Sơn ở đối diện bờ sông bên này thấy quân Thanh còn ít mà sinh sự ra chăng, vậy cần phải điều bát thêm lấy hai, ba nghìn lính nữa, mà chia đóng rải rác trong quan ải để làm cho mạnh thêm thanh thế179.
Nguyễn Hữu Túc, sau khi sang lọt Long Châu180, nhờ người bạn Tàu là Ngô Sơn Tiều Ẩn (không rõ tên thật là gì) giới thiệu với viên Đô tư Trần Hồng Thuận ở Long Bằng doanh. Rồi, như trên đã nói, việc cầu viện đó được đạt đến Tôn Vĩnh Thanh, sau lại lên tới Thang Hùng Nghiệp, Tả giang Binh bị đạo, và Tôn Sĩ Nghị, Lưỡng Quảng Tổng đốc.