Nguyên tác: Interviewwith The Vampire (The Vampire Chronicles Series , Book 1)
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-22 21:33:27 +0700
Chương 4
“S
uốt đêm dài, ta đứng trên boong con tàu Pháp Mariana để quan sát ván cầu tàu. Bờ đê dài rất đông đúc, những cuộc vui kéo dài trong các cabin hạng sang, khắp boong tàu nhộn nhịp các hành khách và khách mời. Nhưng cuối cùng, khi bình minh đến gần, các bữa tiệc lần lượt kết thúc và những cỗ xe ngựa rời khỏi con đường hẹp dọc theo bờ sông. Vài hành khách đến muộn đang vội vã lên tàu, một cặp tình nhân quấn quýt hàng giờ đồng hồ bên lan can gần đó. Nhưng Lestat và học trò của hắn, giả như vẫn còn sống sót sau cơn hỏa hoạn (và ta tin rằng chúng vẫn còn sống) đã không lần được theo dấu vết của bọn ta đến tàu. Hành lý của bọn ta đã được chuyển đi từ trước đó; và nếu còn lại dấu vết nào để cho chúng biết đích đến của bọn ta, thì ta dám chắc nó cũng đã được xóa sạch. Tuy nhiên ta vẫn cảnh giác. Claudia đã ngồi an toàn trong cabin khóa kín của bọn ta, mắt vẫn dán chặt vào ô cửa sổ nhìn về phía bờ sông. Nhưng Lestat không xuất hiện.”
“Cuối cùng, đúng như ta mong đợi, con tàu đã nổ máy để chuẩn bị rời bến trước khi bình minh đến. Một vài người đang vẫy tay chào trên bến tàu và mô đất đầy cỏ ven sông, trong khi con tàu khổng lồ rung rung rồi một bên mạn tàu giật xốc lên và con tàu từ từ trượt đi một cách oai nghiêm trên dòng sông Mississippi.”
“Những ngọn đèn của New Orleans nhỏ đi và mờ dần cho đến khi phía sau bọn ta chỉ còn là một khoảng lấp lánh mờ nhạt trên những áng mây đang sáng dần. Ta vô cùng mỏi mệt nhưng vẫn cố nán lại trên boong tàu lâu hết mức có thể để ngắm nhìn ánh sáng đó, vì ta biết rất có thể ta sẽ không bao giờ thấy lại nó được nữa. Chẳng mấy chốc con tàu đã xuôi xuống vùng hạ lưu, ngang qua cầu tàu của đồn điền Freniere và Pointe du Lac, và khi nhìn thấy bức tường của những cây dương và bách đang chuyển sang màu xanh từ trong bóng đêm dọc theo bờ sông, ta nhận ra bình minh đã đến rất gần. Gần một cách đáng ngại.”
“Và khi tra chìa vào ổ khóa ca bin, ta cảm thấy một cơn mệt mỏi có lẽ là khủng khiếp nhất mà ta từng biết. Trong suốt những năm sống cùng gia đình chọn lọc này, chưa bao giờ ta biết đến nỗi hoảng loạn mà ta đã trải nghiệm trong đêm nay, sự yếu ớt, nỗi khiếp sợ tuyệt đối. Và không phải đột nhiên mà được giải thoát khỏi nó. Không phải đột nhiên cảm thấy an toàn. Chỉ có sự giải thoát khi đã mệt mỏi đến cực hạn, khi cả tâm hồn lẫn thể xác ta đều không thể chịu đựng nỗi đọa đày lâu hơn được nữa. Dù bây giờ Lestat đã cách xa bọn ta đến cả trăm dặm, nhưng sự hồi sinh của hắn đã khơi dậy trong ta một nỗi lo sợ vô cùng phức tạp mà ta không thể chạy thoát. Ngay cả khi Claudia nói với ta, “Chúng ta được an toàn rồi, Louis, an toàn rồi,” và ta thì thầm với em là đúng thế, ta vẫn thấy hình ảnh Lestat tựa người vào ngưỡng cửa với đôi mắt đỏ ngầu và thân thể chằng chịt sẹo. Làm thế nào hắn có thể quay trở lại, làm thế nào hắn có thể chiến thắng cái chết? Làm thế nào mà một sinh vật lại có thể hồi sinh khi cơ thể đã teo rút và rúm ró đến vậy? Dù câu trả lời có là gì đi nữa thì nó cũng nghĩa lý gì đâu - không chỉ với hắn mà còn với cả ta và Claudia? Bọn ta đã được an toàn trước hắn, nhưng bọn ta có được an toàn trước chính mình?”
“Con tàu đã bị một dịch ‘sốt’ kỳ lạ tấn công. Tàu sạch bóng chuột bọ, mặc dù thỉnh thoảng người ta vẫn tìm thấy xác chúng khô cong và nhẹ bẫng, như thể đã chết nhiều ngày. Và dịch sốt vẫn hoành hành. Triệu chứng là hành khách thấy yếu mệt và cổ họng hơi đau; đôi khi có những vết cắn trên cổ, đôi khi những vết cắn lại xuất hiện ở chỗ khác; và đôi khi không thấy vết cắn nào cả, nhưng vết thương cũ đã lành miệng lại bị toét ra đau nhức. Đôi khi có những bệnh nhân gục xuống ngủ li bì trong suốt cuộc hành trình và cơn sốt đã cướp đi sinh mạng của họ trong giấc ngủ. Vậy nên đã có nhiều lễ mai táng trên biển trong chuyến vượt Đại Tây Dương. Lấy cớ sợ bị lây bệnh, ta lánh xa các hành khách khác, không muốn nhập hội với họ trong phòng hút thuốc, không muốn nghe những câu chuyện, hoài bão và mơ tưởng của họ. Ta ‘ăn’ một mình. Nhưng Claudia lại thích quan sát các hành khách khác, thích đứng trên boong tàu để ngắm nhìn người ta đi qua đi lại lúc trời vừa ngả tối và nhẹ nhàng nói với ta khi ta ngồi bên cửa sổ, “Em nghĩ cô gái đó sẽ thành con mồi đêm nay...”
“Ta sẽ đặt cuốn sách xuống và nhìn ra ngoài cửa sổ, cảm nhận từng nhịp đẩy đưa của đại dương, ngắm muôn vì tinh tú sáng rõ hơn nhiều lần so với trên đất liền đang sà xuống để chạm lên những con sóng. Có những lúc, khi ta đang ngồi một mình trong cabin tăm tối, dường như bầu trời đã hạ xuống để gặp đại dương và một bí mật lớn đã được tiết lộ trong cuộc hội ngộ đó, một hố sâu thăm thẳm sẽ vĩnh viễn khép lại một cách diệu kỳ. Nhưng khi trời và biển vẫn chưa phân tách rạch ròi, cũng như khi trần gian còn trong thuở hỗn mang, ai sẽ tiết lộ bí mật vĩ đại đó? Chúa ư? Hay Satan? Ta bỗng nghĩ sẽ thật khuây khỏa biết bao khi được gặp Satan, được nhìn thẳng vào khuôn mặt hắn, cho dù khuôn mặt đó kinh dị tới mức nào, để biết mình hoàn toàn thuộc về hắn, và vì vậy sẽ được giải thoát hoàn toàn khỏi nỗi thống khổ vì sự ngu dốt này. Để được bước qua bức màn đã chia cắt ta vĩnh viễn với cái gọi là nhân tính.”
“Ta cảm thấy con tàu đang tiến đến ngày một gần với bí mật đó. Bầu trời dường như không có điểm kết thúc; nó bao trùm lấy chúng ta bằng vẻ đẹp huy hoàng và sự tĩnh lặng không cùng. Nhưng rồi hai từ yên lòng trở nên đáng sợ. Bởi làm gì có sự yên lòng cho kẻ đã bị nguyền rủa vĩnh viễn, không thể yên lòng được; và nỗi đau khổ này có là gì khi so sánh với những ngọn lửa vĩnh cửu của địa ngục? Những con sóng cuồn cuộn dưới muôn vì tinh tú vĩnh hằng kia - chính những vì tinh tú ấy - thì liên quan gì tới Satan? Và những hình ảnh chúng ta tưởng là bất biến hồi ta còn thơ dại, khi chúng ta còn đang mải mê vật lộn với những khát vọng cuồng điên của kiếp người đến nỗi chẳng thấy chúng có gì đáng mơ ước: những thiên thần tối cao vĩnh viễn ngước nhìn khuôn mặt Chúa - và cả khuôn mặt Chúa - tất cả những hình ảnh ấy là sự thanh thản vĩnh hằng, mà chiếc nôi đại dương dịu dàng này chẳng qua chỉ là một sự hứa hẹn nhỏ nhoi cho sự thanh thản ấy mà thôi.”
“Nhưng ngay cả trong những giây phút này, khi con tàu và cả trần gian đều đang say ngủ, những nghĩ suy về thiên đường và địa ngục dường như không hơn gì một viễn tưởng đọa đày. Được hiểu biết, được ôm ấp đức tin vào cả thiên đường lẫn địa ngục hoặc chỉ một trong hai thôi... có lẽ là sự cứu chuộc duy nhất mà ta dám mơ ước.”
“Claudia, với niềm yêu thích ánh sáng giống Lestat, luôn thắp đèn ngay khi thức dậy. Cô bé đã mua lại một hộp bài rất đẹp từ một phụ nữ trên tàu; hình trên bài vẽ theo kiểu Marie Antoinette, mặt sau mỗi lá bài đều có in biểu tượng hoa bách hợp màu vàng trên nền tím óng ánh. Cô bé chơi trò bài đơn, các lá bài xếp thành các số trên đồng hồ. Và cô bé không ngừng hỏi cho đến khi ta buộc phải trả lời em, rằng Lestat đã sống sót bằng cách nào. Cô bé không còn sợ nữa. Kể cả có nhớ ra mình đã từng la hét trong ngọn lửa thì em cũng không để tâm. Và kể cả có nhớ ra rằng, trước trận cháy, em đã từng khóc trong vòng tay ta, nhỏ những giọt nước mắt thật sự, thì ký ức đó cũng chẳng tác động gì lên em; em vẫn như xưa, vẫn là một người ít khi do dự, một người mà sự im lặng theo thói quen không có nghĩa là lo sợ hay hối tiếc.”
“Lẽ ra chúng ta nên thiêu rụi hắn,” cô bé nói. “Chúng ta quá ngớ ngẩn khi mới nhìn vẻ ngoài đã vội cho ràng hắn đã chết.”
“Những làm sao hắn vẫn còn sống được?” ta hỏi cô bé. Em đã nhìn thấy hắn, em biết hắn đã biến thành cái gì mà. Thực lòng, ta chẳng thích thú gì cuộc nói chuyện này. Ta sẵn sàng đẩy nó vào sâu trong tâm trí, nhưng tâm trí ta không cho phép. Và bây giờ chính cô bé lại cho ta câu trả lời, vì thực ra cuộc nói chuyện là cuộc độc thoại của em. Đoán thử xem, có lẽ hắn đã cố ý ngừng chống trả chúng ta, em giải thích, có lẽ lúc ấy hắn vẫn còn sống, bị mắc kẹt trong thể xác khô héo bất lực đó nhưng vẫn tỉnh táo và đang ngầm toan tính...
“Vẫn còn tỉnh táo được trong tình trạng đó ư!” ta thì thầm.
“Và có lẽ khi đến đầm lầy, khi nghe tiếng xe chúng ta rời đi hắn đã dùng chút sức tàn cuối cùng để cử động tay chân. Có rất nhiều sinh vật vây quanh hắn trong bóng đêm. Em đã từng thấy hắn ngắt đầu một con thằn lằn nhỏ trong vườn và nhìn máu nó chảy xuống ly. Anh có thể tưởng tượng được lòng khát sống ngoan cường của hắn khi hắn phải quờ quạng tay trong nước và bắt lấy bất cứ con vật nào đang di chuyển không?”
“Khát sống? Ngoan cường?” ta lẩm bẩm. “Lỡ là một điều khác thì sao...”
“Và sau đó, khi cảm thấy sinh lực đã bắt đầu hồi phục, vừa đủ để có thể lết ra đường, hắn đã tìm được một con người nào đó. Có thể hắn đã nấp trong lùm cây, chờ một chiếc xe ngựa đi qua; có thể hắn đã cố hết khả năng thu gom từng giọt máu cho đến khi mò tới được khu lều của người nhập cư hoặc những ngôi nhà rải rác ở vùng ngoại ô. Và dáng vẻ của hắn chắc đã khiến họ chết khiếp!” Em nhìn chằm chằm vào ngọn đèn treo trên trần, mắt nheo lại, giọng nhỏ đi, vô cảm. Rồi sau đó hắn đã làm gì? Rất rõ ràng. Nếu không kịp trở lại New Orleans, hắn chắc chắn sẽ đến được nghĩa trang Old Bayou. Mỗi ngày các bệnh viện từ thiện đều đẩy ra đó rất nhiều quan tài mới. Và em có thể tưởng tượng ra cảnh hắn đào xới mặt đất còn ẩm tơi để tìm những chiếc quan tài đó, ném cái xác bên trong xuống đầm lấy, rồi chui vào chỗ an toàn cho đến đêm hôm sau trong những nấm mồ nông, nơi không con người nào có thể quấy rầy hắn. Phải... hắn đã làm thế, em chắc chắn như vậy.”
“Ta đã nghĩ về điều này trong một thời gian dài, cố tưởng tượng thật chi tiết và nhận thấy diễn biến tất yếu phải là như vậy. Rồi ta nghe thấy cô bé trầm ngâm nói thêm, trong khi em đặt một lá bài xuống và chăm chú nhìn hình ông vua đội tóc giả màu trắng trên đó, “Lẽ ra em phải làm cho tới nơi tới chốn.”
“Sao anh lại nhìn em như vậy?” cô bé hỏi và thu những lá bài về, những ngón tay nhỏ bé của em phải khó khăn lắm mới sắp gọn được bộ bài và xáo lên một lần nữa.
“Những em có tin là... nếu chúng ta thiêu rụi hắn thì hắn sẽ chết thật?” ta hỏi.
“Tất nhiên rồi. Nếu không còn thân xác để hồi sinh thì hắn sẽ không thể hồi sinh được. Anh định nói gì vậy?” Cô bé đang chia bài, chia cả cho ta, ta đang ngồi trên chiếc bàn gỗ sồi nhỏ. Ta nhìn những lá bài nhưng không chạm vào chúng.
“Ta không biết nữa...” ta thì thầm với em. “Chỉ là có lẽ không có lòng khát sống hay sự ngoan cường nào hết... đơn giản là vì cả hai thứ đó đều không cần thiết.”
“Cô bé nhìn ta chăm chú, không để lộ bất cứ suy nghĩ nào và cũng không tỏ vẻ là em hiểu những điều ta vừa nói.”
“Có lẽ là vì hắn không thể chết được... có lẽ là hắn, cũng như chúng ta... thực sự bất tử?”
“Cô bé cứ ngồi đó nhìn ta một lúc lâu.”
“Vẫn tỉnh táo được trong tình trạng đó...” cuối cùng ta nói thêm khi quay mặt đi tránh ánh mắt em. “Nếu đã vậy thì chẳng phải hắn vẫn có thể giữ nguyên ý thức trong tình trạng khác? Lửa, ánh mặt trời... những thứ đó có nghĩa lý gì?”
“Louis,” cô bé nhẹ nhàng nói. “Anh đang sợ. Anh không cảnh giác trước nỗi sợ. Anh không hiểu được sự nguy hiểm của nỗi sợ. Chúng ta sẽ biết câu trả lời khi tìm được những người có thể trả lời, những người đã có vốn sống tích lũy qua hàng thế kỷ, qua khoảng thời gian lâu hết mức những sinh vật như chúng ta có thể sống được. Kiến thức đó là di sản mà chúng ta có quyền kế thừa và hắn đã tước đoạt khỏi chúng ta. Hắn đã tự chuốc lấy cái chết cho mình.”
“Nhưng hắn đâu có chết...” ta nói.
“Hắn đã chết rồi,” cô bé đáp lại. “Không ai có thể thoát khỏi căn nhà đó, trừ phi chạy ra cùng lúc với chúng ta. Không. Hắn đã chết và anh bạn nghệ sĩ run lẩy bẩy của hắn cũng vậy. Ý thức cái đó thì có nghĩa lý gì?”
“Cô bé lại gom bài về và để sang một bên, ra hiệu nhờ ta lấy giúp chồng sách đang đặt trên chiếc bàn kê cạnh giường, những cuốn sách đã được em lấy ra khỏi rương hành lý ngay khi vừa lên tàu, những tài liệu chọn lọc về truyền thuyết ma cà rồng được em coi là kim chỉ nam. Trong đó không có những câu chuyện lãng mạn hoang dã từ nước Anh, không có truyện của Edgar Allan Poe, không có những chuyện viển vông. Chỉ có một vài bài viết về ma cà rồng ở Đông Âu đã dần trở thành một dạng Kinh Thánh đối với em. Ở tất cả các quốc gia đó, quả thực họ đều thiêu xác ma cà rồng, đóng cọc vào tim và cắt rời đầu. Cô bé sẽ đọc những cuốn sách này trong hàng giờ, những cuốn sách cổ đã được đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần từ trước khi chúng vượt Đại Tây Dương; chúng là truyện của những lữ khách, là ghi chép của các linh mục và học giả. Và cô bé lên kế hoạch cho chuyến đi của bọn ta, không viết ra trên giấy trắng mực đen mà chỉ lưu trong tâm trí em. Bọn ta sẽ nhanh chóng rời khỏi những thủ đô hoa lệ của châu Âu để tiến tới Biển Đen, cập bến Varna và bắt đầu cuộc tìm kiếm vùng nông thôn bao quanh dãy núi Carpathian.”
“Đối với ta, đó là một viễn cảnh ảm đạm dù ta bị ràng buộc với nó, vì ta vẫn khát khao tìm đến những vùng đất khác và lĩnh hội những kiến thức mà Claudia thậm chí còn chưa bắt đầu nhận thức được. Hạt giống của khát vọng đó đã nảy mầm trong ta từ nhiều năm trước, và hạt giống đó đã nở thành một đóa hoa cay đắng khi con tàu đi qua eo biển Gibraltar, tiến vào vùng Địa Trung Hải.”
“Ta đã kỳ vọng vùng biển này sẽ xanh biếc. Nhưng chúng không xanh. Đó là mặt biển buổi đêm, và ta đã đau khổ xiết bao, chật vật nhớ lại những vùng biển khác mà giác quan dốt nát của một gã trai trẻ đã phớt lờ, mà một trí não không được rèn luyện đã để chúng mãi mãi trượt mất. Biển Địa Trung Hải đen sì, đen từ bờ biển Ý, đen từ biển Hy Lạp, luôn luôn là màu đen, đen thẳm trong những khoảnh khắc lạnh lẽo khi bình minh sắp đến. Khi Claudia ngủ thiếp đi vì đã mệt với chồng sách và bữa ăn ít ỏi thận trọng, chỉ tạm xoa dịu cơn đói của ma cà rồng trong em, ta sẽ hạ một ngọn đèn xuống, hạ nó xuyên qua màn sương lạnh lẽo tới gần mặt nước, cho đến khi ngọn lửa chiếu sáng những con sóng đang vỗ dập dềnh; và chẳng có gì hiện ra trên mặt nước ngoài ánh đèn, ánh phản chiếu của tia sáng luôn đồng hành cùng ta, tựa như một con mắt sắc sảo nhìn vào ta từ lòng biển sâu thẳm và nói, Louis, cuộc săn lùng của ngươi chỉ nhắm vào bóng đêm mà thôi. Vùng biển này không dành cho ngươi. Thần thoại của con người không phải thần thoại của ngươi. Kho báu của con người cũng không phải của ngươi.”
“Than ôi, trong những khoảnh khắc ấy, khao khát tìm được những ma cà rồng của Cựu Thế giới đã trở thành nỗi cay đắng phủ ngập hồn ta, một nỗi cay đắng mà ta gần như nếm được như thể chính không khí xung quanh ta đã mất sự trong lành. Những sinh vật ma quái của bóng đêm đó có thể tiết lộ cho bọn ta bí mật gì, sự thật gì đây? Kể cả bọn ta có tìm thấy họ chăng nữa, nhỡ đâu điều bọn ta muốn biết lại vượt quá giới hạn được phép tiết lộ của họ thì sao? Rốt cuộc thì những kẻ bị nguyền rủa có thể nói gì với những kẻ bị nguyền rủa đây?”
“Tại cảng Piraeus, ta không hề đặt chân lên bờ. Thế nhưng tâm trí ta đã phiêu lưu khắp thành phòng thủ Acropolis của Athens, ngắm nhìn mặt trăng mọc lên trên mái lộ thiên của đền Parthenon, so chiều cao của mình với những cột trụ vĩ đại đó, dạo bước trên các con phố của những người Hy Lạp đã bỏ mạng ở Marathon, lắng tai nghe tiếng gió thổi xào xạc qua những rặng ô liu ngàn năm. Những thứ này là đài tưởng niệm những người không thể chết, chứ không phải bia mộ của những người chết đang sống; nơi đây chứa đựng những bí mật đã trường tồn theo thời gian, những bí mật mà ta chỉ mới lơ mơ hiểu được. Tuy nhiên, không có gì đã và sẽ có thể khiến ta quay lưng với nhiệm vụ của mình, nhưng hết lần này tới lần khác, dù quyết tâm đến mấy, ta vẫn băn khoăn về mối nguy trong những câu hỏi của bọn ta, mối nguy của bất kỳ câu hỏi nào được đặt ra một cách thành thực, bởi vì câu trả lời chắc chắn phải có cái giá khôn lường, phải mang đến một hiểm nguy bi thảm. Ai có thể hiểu điều đó tường tận hơn ta, kẻ đã chủ trì cái chết của chính cơ thể mình, chứng kiến tất cả những cái ta gọi là nhân tính khô héo và chết đi chỉ để tạo thành một sợi xích không thể phá vỡ, sợi xích đã gắn chặt ta với thế giới này nhưng đồng thời cũng khiến ta bị nó ruồng rẫy, như một hồn ma với quả tim đang đập?”
“Biển cả ru ta vào những cơn ác mộng, những hồi ức sắc nét. Một đêm mùa đông ở New Orleans, khi ta đi qua nghĩa trang St. Louis và thấy em gái mình, già nua, lưng còng, tay ôm bó hồng trắng, những nhành gai được bọc lại cẩn thận trong một miếng giấy da cũ, mái đầu đã ngả bạc của nó cúi xuống, bước từng bước nhẫn nại trên con đường gập ghềnh mờ tối, đi tới ngôi mộ đặt tấm bia đá của người anh trai Louis, ngay cạnh mộ của đứa em trai. Louis, người đã thiệt mạng trong trận hỏa hoạn ở Pointe du Lac và để lại một tài sản khổng lồ cho đứa con đỡ đầu cùng tên nào đó mà em gái chưa từng biết. Những bông hồng trắng dành tặng Louis, như thể không phải nửa thế kỷ đã trôi qua từ ngày anh ra đi, như thể ký ức của cô em gái cũng như ký ức của Louis chưa từng có một phút yên bình từ ngày đó. Nỗi muộn phiền in hằn trên khuôn mặt đẹp nhợt nhạt và trên cái lưng nhỏ nhắn đang cúi xuống của nó. Và khi lặng lẽ quan sát em gái, ta sẵn sàng đánh đổi tất cả để được chạm vào mái tóc bạc của nó, thì thầm rằng ta yêu nó, nếu lời yêu thương ấy không khiến nó phải sống những ngày còn lại trong nỗi kinh hoàng còn khủng khiếp hơn cả nỗi đau buồn. Ta để nó lại cùng nỗi đau buồn. Một lần nữa, một lần nữa, lại một lần nữa.”
“Lúc bấy giờ ta mơ rất nhiều. Ta mơ rất dài, trong nhà tù của con tàu vượt biển, trong nhà tù của chính cơ thể mình, đồng điệu với mỗi bình minh hơn bất cứ cơ thể con người nào. Và trái tim ta đập nhanh hơn khi con tàu cuối cùng cũng tiến gần tới những dãy núi của Đông Âu, đập nhanh hơn với hy vọng có thể tìm thấy đâu đó nơi vùng nông thôn hoang sơ kia đáp án cho câu hỏi của mình, rằng vì sao Chúa lại cho phép nỗi khổ đau này tồn tại và có cách nào dưới quyền năng của Người có thể chấm dứt được nó hay không. Ta biết mình không có đủ can đảm để kết thúc nó nếu vẫn chưa có câu trả lời. Và trong lúc đó, con tàu từ từ rời khỏi vùng biển Địa Trung Hải, tiến vào vùng Biển Đen.”