Số lần đọc/download: 105 / 24
Cập nhật: 2020-06-17 09:38:34 +0700
Chương 5 - Mưu Gia Cát...
D
iều Triệu Dung nhìn thấy có thể làm nhiều người khác đứng tim. Vì cách chàng một quãng ngắn, chiếc VTOL bóng loáng đang đâm đầu xuống biển, sau những tràng đạn đại liên chát chúa từ hông trực thăng phát ra.
Tuy không biết phi công VTOL là ai, Triệu Dung đã có linh tính chắc chắn là Văn Bình. Triệu Dung bèn cắm cổ chạy miết. Đường ra bãi biển không xa, nhưng vì bụi rậm, giốc lên xuống bất thường, nên chàng chạy mãi vẫn chưa tới.
Dưới sức công phá kinh khủng của loạt đạn chí tử, chiếc VTOL quí giá tan ra làm nhiều mảnh. Địch không ngờ - và cả Văn Bình cũng không ngờ - là phi cơ thí nghiệm được trang bị một hệ thống cấp cứu tân kỳ và bén nhạy. Trong trường hợp phi cơ bị nguy - bộ óc điện tử gắn trong phòng lái đã tính sẵn - ghế hoa tiêu sẽ tự động phóng ra ngoài.
Vì vậy, Văn Bình không bị nát thây cùng với phi cơ. Chiếc ghế vọt ra ở độ thấp nên dù không mở kịp, Văn Bình nhào luôn xuống biển. Một lần nữa, nhờ sự trục trặc oái oăm nầy, chàng thoát chết. Vì nếu dù mở ra, súng đui-sết sẽ không ngần ngại bắn theo một tràng nữa.
Tuy nhiên, tiếng nổ dữ dội làm Văn Bình bất tỉnh. Do bản năng tự nhiên, chân chàng đạp mạnh, toàn thân chàng trồi lên mặt nước. Và chàng gặp con chow-chow.
Cũng như chàng, nó thoát nạn trong đường tơ, kẽ tóc. Song nó không mê man như chàng. Mùi nước mặn như thần được gia tăng sức khỏe của con chó Tây tạng trung thành. Thấy Văn Bình, nó vội vã bơi lại. Phi cơ rơi gần biển, nên sóng không cao. Con chow-chow lại gần, Văn Bình vẫn chẳng biết gì hết. Nó ngoạm lấy áo gi-lê cấp cứu của chàng rồi kéo trên mặt nước.
Sức đẩy của nước làm Văn Bình nhẹ bỗng, nhưng chỉ mấy phút sau, con chó đã mệt nhoài. May thay, Văn Bình bắt đầu tỉnh lại. Có lẽ vì do nước lạnh, song cũng có lẽ vì số chàng chưa tận. Vì chàng chỉ ngất thêm vài phút phù du nữa là mất mạng.
Mất mạng trong bụng cá.
Một con cá mập có cái lưng đen sì và cái bụng trắn hếu đang quẫy mình, rẽ nước, phăng phăng tiến tới.
Trong chớp mắt, Văn Bình đã lấy lại tư thế bình thường. Con vật trước mắt thuộc loại cá xà vô cùng nguy hiểm, chuyên kiếm mồi dọc bờ biển Úc-Đại-Lợi, răng nhọn và sắt như lưỡi dao cạo, bề ngoài ngót nghét một tấc tây. Thổ dân ở nam Thái-Bình dương sợ giống cá mập này còn hơn đồng bao miền núi sợ cọp gấm nữa.
Vì gặp cọp gấm còn hy vọng thoát chết, nhưng đụng đầu với cá nhà táng Úc[49] thì hy vọng tan tành bọt biển. Nó không cần dùng sức, vì nó bơi nhanh với tốc độ phi thường, vô địch bơi thế giới cũng thua xa. Đến nơi, nó ngoạm nhẹ một miếng là nạn nhân bị tiện ra làm đôi, ngọt sớt như lưỡi dao chém vào tảng bơ.
Đặc điểm của cá ăn thịt người là thèm mùi tanh của máu. Trong lúc phóng ra ngoài phi cơ, Văn Bình đụng phải miễng kim khí, ống quần bị rách sạt, đồng thời gây ra vết thương lớn, máu tuôn xối xả. Văn Bình cảm thấy buôn buốt ở ống chân thì đã muộn.
Con cá mập khổng lồ chỉ còn cách chàng một quãng ngắn, Văn Bình buông con chow-chow, nghĩ cách đối phó. Nhưng con chó Tây tạng đã ra tay trước.
Quên bẵng nó chỉ là trò chơi đối với con cá mập bách chiến, bách thắng, nó quay đâu lại, sẵn sàng làm pháo đài để bảo vệ chủ. Tuy nhiên, con cá mập không quan tâm đến con chow-chow.
Nó chỉ thích mùi máu. Nó rẽ sang bên, rượt theo Văn Bình. Biết là không còn lối thoát nào nữa, chàng đành sống mái với con vật giết người. Từ lâu, mỗi lần công tác trên biển Thái-Bình, chàng đều được chuyên viên hải học ở Sở dặn dò về tính đa sát của cá mập. Trước kia, giống cá nguy hiểm này hoành hành ở miền Nam, nhưng trong thời gian gần đây, chúng nó lại mò mẫm qua đường xích đạo, lang thang trên Nam-Hải.
Bình thường, Văn Bình có đủ khả năng và kinh nghiệm để đối phó với kình ngư. Về khả năng, cú đấm của chàng dư sức quật ngã những khối thịt trăm cân, hoặc chàng có thể đánh nát đầu cá mập bằng phát atémi thần sầu quỷ khốc. Nhưng tai nạn vừa qua đã làm chàng mất sức rất nhiều.
Văn Bình chỉ còn biết nhớ cậy vào kinh nghiệm của nhiều năm huấn luyện và hoạt động. Trong đại chiến thứ hai, có lần chàng đã học lớp người nhái của tình báo OSS, và theo sát thành tích của đơn vị K[50] quốc xã. Những ngày ở trường, có đêm chàng bị dựng dậy, ba bốn lần không báo trước. Hoặc càng được lôi vào rừng, bắt trèo một bứt tường cao trong bóng tối dầy đặc, xòe bàn tay không thấy rõ năm ngón, nhưng khi trèo đến đỉnh thì huấn luyện viên lại ra lịnh cho chàng nhảy xuống, qua những bụi cấy um tùm. Phía dưới là rắn rết, đá dặm nhọn, hay ố sâu, sình lầy, chành không được biết. Ra lịnh là nhảy, thế thôi. Môn tập luyện này giúp cho chàng phát huy được linh tính trước sự nguy hiểm.
Hoặc cả toán 8, 9 sinh viên được gọi ra sân tập hợp nửa đêm, tuyết rơi lạnh buốt, nằm áp mặt xuống đất, châu đầu vào nhau như cánh hoa, rồi ở giữa, huấn luyện viên thả một quả lựu đạn. Mặc dầu toàn thể đều đội mũ sắt, tiếng nổ đủ làm vỡ màng tang. Đó là chưa kể đến miễng lựu đạn. Nằm kém nghệ thuật là đi vào bịnh viện như chơi.
Nhờ phương pháp đào tạo đặc biệt, người nhái có thể đối phó với những hoàn cảnh bất ngờ dưới biển sâu. Cá mập là thần Chết đối với người đi biển, song đối với người nhái thì cũng như mọi đối thủ đáng gờm khác. Với lưỡi dao quắm đeo ở thắt lưng, người nhái có thể thanh toán đối thủ trong vòng vai ba phút.
Nhưng hiện thời, Văn Bình chỉ có hai bàn tay trắng. Cá mập lừ lừ tiến tới, chàng lách sang bên, rồi đập chân, đập tay thật mạnh, nhằm mục đích gây khuyấy động. Chàng trồi lên mặt nước, hai bàn tay đều vung lên khỏi đầu và cùng giáng xuống như búa tạ.
Phát atémi đôi trúng mõm con vật.
Ít khi lâm trận, Văn Bình đánh atémi đôi. Vì một phát atémi đơn độc của chàng cũng đủ để thuyết phục những võ sĩ cao tuổi nghề từ Đông sang Tây.
Bị tấn công bất ngờ và mạnh mẽ, con cá nhà táng xoay ngược một vòng. Có lẽ nó bị ngạc nhiên, vì từ trước đến nay, ăn hàng nghênh ngang trên biển cả, nó chưa bao giờ gặp kẻ đồng cân, đồng lạng, dám hạ độc thủ trước. Và chắc chắn là nó bị đau. Cú đấm của Văn Bình từng làm chúa sơn lâm ngã lăng chiêng thì dầu khỏe hơn, da dầy hơn, con cá mập cũng bị đau xiểng niểng.
Tuy nhiên, sự thối lui của cá mập chỉ có tíng cách tạm thời. Văn Bình không lạ gì điều đó. Ống chân bị thương, chảy máu xối xả của chàng là hòn đá Nam châm hút nó tới và làm nó liều mạng. Mùi máu biến no thành con vật điên cuồng, sẵn sàng lao tới, với sức lực tăng gấp năm, gấp mười.
Trong khi ấy, sức lực của Văn Bình lại giảm bớt. Mắt chàng bắt đầu nổ đom đóm. Song chàng vẫn tỉnh táo và sáng suốt hơn bao giờ hết. Chàng biết là lần nầy, con cá mập tinh khôn sẽ không trật mồi. Hơn 70 kí-lô thịt xương rắn chắc của chàng sẽ cung cấp cho dạ dày của nó một bữa no nê. Hàm răng nhọn hoắc chỉ cần chĩa ra là chàng điệp viên hào hoa, hơn 10 năm vẫy vùng khắp năm châu, trở thành cái xác không hồn.
Chàng thở dài nhè nhẹ:
- Hừ, đáng tiếc...
Chàng tiếc vì không mang theo khí giới. Nếu có một tấc sắt, phải, chỉ cần một tấc sắt mà thôi trong tay, chàng đã chuyển bại thành thắng dễ dàng.
Con cá mập khổng lồ đã ngoắc mình tiến lại. Nhưng Văn Bình lại vừa tìm ra cách đối phó.
Từ nãy đến giờ, chàng có một võ khí siêu việt mà quên bẵng. Võ khí này là một viên thuốc vuông, hơi dẹt, vất trong áo gi-lê cấp cứu. Lẽ ra, chàng phải cổi gi-lê để được thoải mái, quần thảo với cá mập. Và khi ấy, viên thuốc kỳ diệu đã tan ra nước...
Đó là thuốc đuổi cá mập[51].
Loại thuốc thông thường này được bày bán ở Âu-châu, bất cứ phi công nào cũng không quên bỏ thuốc trong áo. Nó đã tỏ ra rất kiến hiệu và đã cứu sống rất nhiều người bị đắm tàu ở những vùng biển cá mập.
Văn Bình bỏ tay vào túi. May thay, viên thuốc cứu tử vẫn còn nguyên. Chàng vung tay ném ra...
Như bị một bức tường bê-tông vô hình ngăn cản, con cá mập hung dữ và thèm thịt sống đang rẽ sóng tiến tới, bỗng dừng lại. Nó ngoe nguẩy cái mõm trong một phút, rồi hốt hoảng quay lui...
Văn Bình thở phào ra. Con chow-chow thân yêu đã bơi đến bên chàng. Chàng đánh vào mõm nó, nhưng đánh nhẹ nhàng, đánh để biểu lộ tình thương vô tận.
Con chow-chow gâu lên một tiếng rồi bơi về hướng bờ biển. Văn Bình xảy tay bơi theo. Nếu con chó không thúc giục, chàng cũng không thể trì chậm them một phút nào nữa. Theo kinh nghiệm, bọ, cá mập ăn thịt người ít khi hoạt động lẻ loi. Có con đực, thế nào cũng có con cái. Rồi còn những cặp đực cái, còn gia đình, thân quyến của chúng nữa. Mà Văn Bình chỉ có vỏn vẹn một viên thuốc cải tử hoàn sanh độc nhất mà thôi.
Bờ biển chỉ còn cách chàng hai trăm thước.
Nền trời vẫn xanh ngắt, ánh nắng dát vàng trên mặt biển mênh mông.
Ngẩng đầu lên trong khi bơi crawl, một lối bơi đặc biệt, khác với kiểu úp mặt thông thường, Văn Bình thấy một con chim lông trắng như tuyết, mỏ nhọn, dài, chân cũng dài, vỗ cánh quàng quạc bay sạt qua đầu chàng, tiến về bãi cát trắng hến.
Chàng không biết đó là chim gì. Người đi biển cho là cò biển. Nhưng theo chàng thì nó là thiên nga. Chàng thích dùng tiếng thiên nga hơn cò biển, mặc dầu giống thiên nga hiếm có - hoặc dường như không có - vì đời chim thiên nga gần giống đời chàng, đời kẻ giang hồ luôn luôn cô độc, luôn luôn buồn bã. Cũng như chim thiên nga tự mỗ bụng lấy ruột gan ra cho đàn con đói ăn, Văn Bình mang tâm hồn và thể xác dâng cho nghề nghiệp, để rồi trọn đời vẫn thất vọng. Lắm mối, tối nằm không... Cô gái trinh nguyên ở Đà-Nẵng đang chờ. Như Luyến đang chờ. Nhưng chẳng qua chỉ là hư ảnh...
Chàng không mong tái ngộ cô gái Đà-Nẵng nữa. Nguyệt Hằng đang nằm trên giường bịnh. Như Luyến tan xác trên mẫy hạm ZZ...
Văn Bình đã tới gần bờ biển...
Hồi nãy, ngồi trên phi cơ với Triệu Dung, nhìn xuống bên dưới, Văn Bình đã tấm tắc khen ngợi phong cảnh hữu tình. Hữu tình nhất là hồ Vệ thần giống như cô gái khỏa thân, xõa tóc nằm dài trong tư thế mời mọc dưới ánh nắng rực rỡ. Bãi cát cũng vậy, nó cũng co những đường cong, nở phình ra, và lõm vào sâu, trông không khác người đàn bà thân hình căng cứng nằm nghiên, lưng quay ra biển rộng trùng điệp.
Lang thang nhiều nơi trên trái đất, chàng đã nghe hàng trăm lần thiên hạ khen tụng phong cảnh quê hương. Du khách đều có cảm tưởng sông nước, núi non Việt-Nam là báu vật phải yêu, hòn Trống Mái, cửa biển Sầm sơn như thần Vệ-Nữ phô bài giang sơn ngà ngọc. Nha-Trang, Đồ-Sơn... Hà-Tiên... nơi nào cũng là hình tượng giai nhân. Giờ đây, Văn Bình mới thấy đúng. Bờ biển đẹp quá, khêu gợi quá, nếu không bận việc trọng đại, chàng đã ở lại, biến thành thổ dân, sống xa hẳn thế giới ô trọc loài người...
Nhưng thực tế ô trọc vẫn hiện ra sừng sững...
Vì Văn Bình vừa thoáng thấy bóng người. Bóng người đó cô đơn trên bãi cát trắng như cái phao dật dờ trên đại dương hung dữ... Chàng nhận được ngay. Đó là Triệu Dung.
Và Triệu Dung cũng nhận được Văn Bình.
Con chow-chow lồm cồm từ dưới nước lên, ba chân bốn cẳng chạy về phía rặng dừa xanh um. Triệu Dung cất tiếng kêu:
-Văn Bình!
Văn Bình giơ tay vẫy bạn. Triệu Dung kéo bạn ngồi xuống cát. Toàn thân Văn Bình ê ảm như vừa trải cua một cuộc tra tấ. Song chàng không dám nghĩ mệt. Bằng giọng rõ ràng, chàng thuật lại cho Triệu Dung nghe sự việc xẩy ra.
Triệu Dung ngắt lời:
- Lạ thật! Anh vừa nói là phi cơ VTOL bị rơi xuống biển, tan vụn như cám. Như vậy nghĩa là chiếc VTOL vẫn ở nguyên bên hồ Vệ thần. Trong khi ấy, ban An ninh của mẫu hạm lại phút trình dứt khoác rằng nó đã tan nát khi khu trục cơ ngộ nạn trên boong hôm qua. Tôi quen anh từ lâu và biết rõ anh mất tinh thần sau khi bị hút chết, tuy nhiên...
- Anh không tin tôi?
- Tôi không hẳn nói như vậy. Nhưng nếu ở vào địa vị tôi, anh cũng phải đặt nghi vấn.
- Một lần nữa, tôi xin đoan quyết là sự thật, sự thật trăm phần trăm, sự thật không thể phủ nhận được. Tự tay tôi lái chiếc VTOL, nếu không bị địch bắn theo thì tôi đã bay thoát vế pháo đài ZZ.
- Tại sao chiếc VTOL lại được đậu lại ở đây? Theo nguyên tắc, mỗi lần thí nghiệm xong, các nhà bác học đều mang nó về pháo đài. Như Luyến đã được lịnh phải làm như vậy. Mà tôi thì không thể tin rằng nàng phản. Thế tất bên trong có một vài điểm bí mật...
- Đúng. Cụ thể hơn, địch đã làm chủ tình hình từ đầu đến cuối. Địch bố trí cho phái đoàn bác học trở về pháo đài, để chiếc VTOL vô giá lại trên hải đảo, rồi mang trực thăng lại lấy.
Triệu Dung phủi tay áo đứng dậy:
- Bây giờ đến lượt chúng ta làm chủ tình hình. Anh đồng ý như vậy không?
Văn Bình gật đầu, song không nói gì hết. Chàng đã đọc được ý nghĩ thầm kính của bạn.
Vưa khi ấy, tiếng động cơ vang lên, át hẳn tiếng sóng réo. Một đoàn khu trục cơ nhẹ bay tới, xà trên đầu hai người,nhưng không đáp xuống. Xa xa, một khinh hạm đang xã hết tốc lực. Ban cấp cứu của hàng không mẫu hạm đã can thiệp kịp thời. Chỉ tiếc là trực thăng của địch đã biến mất vào chân trời xanh ngắt.
5 phút sau, khoái đĩnh tiến sát tới bờ biển. Hạm trưởng pháo đài ZZ - người chỉ huy của DIA có bộ mặt và mái tóc hóa trang thành già khằng - đạt chân lên bãi cát trước tiên.
Gặp Văn Bình và Triệu Dung, hạm trưởng chạy vội lại, giọng đon đả:
- Chào hai anh. Thế nào, hai anh có bị gì không?
Triệu Dung trả lời:
- Tôi không sao hết. Duy Văn Bình bị thương ở chân.
Hạm trưởng khoát tay:
- Đoán trước, tôi đã mang y sĩ theo. Nếu anh Văn Bình không đi được, tôi sẽ cho thủy thủ khiêng băng-ca tới.
Văn Bình mỉm cười:
- Ồ, tôi chỉ bị xây xát xoàng. Anh đừng tưởng bở, tôi chạy đua với anh vẫn còn ăn đứt. Nhưng thôi, đùa mãi, toán người nhái có đi theo với anh tới đây không?
Hạm trưởng đáp:
- Có.
- May lắm. Chiếc VTOL đang nằm dưới biển, ở chỗ nước không lấy gì làm sâu. Anh cho họ lặn xuống kéo lên.
- Chiếc VTOL của mình ấy à?
- Phải. Nó còn nguyên vẹn, không bị tan nát như ban An ninh báo cáo. Nhân viên của địch đang tìm cách chở lên trực thăng thì chúng tôi tới.
- Thảo nào... Tôi khờ quá... Đứng trên boong, tôi nhìn thấy trực thăng bay về hướng đông. Khi ấy, nếu tôi ra lịnh cho phi cơ khu trục thì chắc chắn hạ được.
- Anh quên là chúng ta đang ở hải phận quốc tế. Dầu sao, chúng ta cũng phải tôn trọng công pháp... Nhưng anh yên tâm, tôi nghĩ ra kế hoạch đối phó rồi.
Sực nhớ, hạm trưởng nói nhanh với Văn Bình:
- Anh nghi cho ai chưa?
Văn Bình đáp:
- Rồi.
Ngần ngừ giấy lát, hạm trưởng nói:
- Chắc là nhân viên An ninh của mẫu hạm.
Văn Bình không đáp, bâng khuâng nhìn ra khơi. Hạm trưởng sốt ruột, nắm cánh tay chàng, hỏi lại.
Cũng như lần trước, Văn Bình không trả lời. Song chàng quay nhìn hạm trưởng, vẻ mặt trở nên nghiêm trọng:
- Trưởng ban An ninh của mẫu hạm đi đâu?
Hạm trưởng giật mình trước câu hỏi đột ngột và gần như trịch thượng của Văn Bình. Song thái độ kẻ cả của người bạn mới quen không làm hạm trưởng tức giận. Từ cặp mắt sáng quắc và bắp thịt rắn rõi của viên đại tá điệp báo Việt-Nam hào hoa đã toát ra một mãnh lực khác thường, khiến người bi quan nhất cũng phải tin tưởng sắt đá.
Hạm trưởng đáp:
- Đi vắng. Đúng ra, được gọi về Sàigòn, cách đây hai tuần.
Triệu Dung xen vào:
- Gọi về Sàigòn có việc gì?
- Không biết. Dường như để tiếp xúc với một phái đoàn tình báo từ Hoa-Kỳ tới.
Văn Bình nói:
- Trưởng ban An ninh công xuất, anh cử Tim lên thay thế...
Hạm trưởng lắc đầu:
- Tôi hơi ngạc nhiên vì các anh đặt ra nhiều câu hỏi lạ lùng. Nếu tôi không phải là kẻ ở lâu năm trong nghề thì đã cho đó là hoàn toàn ngoại đề. Tôi chắc các anh đã nắm được đầu mối quan trọng. Anh nghi cho Tim, phải không?
- Dĩ nhiên... Vì sự thật đã quá rõ. Nhưng cũng vì sự thật đã quá rõ...
Chàng ngưng bặt.
Khoái đĩnh đang rập rình trên mặt biển xanh ngắt. Dường như tạo hóa đang nín thở để nghe trộm cuộc bàn bạn giữa ba chuyên viên tình báo đã tới giai đoạn gây cấn trong khoảnh khắc sóng biển im lặng, gió khơi êm lặng, một sự yên lặng kinh khủng.
Hạm trưởng nói:
- Hừ, tôi bắt đầu hiểu rồi.
Văn Bình gạt phắt:
- Anh hiểu, song chúng tôi chưa hiểu hoàn toàn. Anh cử Tim lên thay, phải không?
Hạm trưởng lắc đầu:
- Các nhân viên an ninh nòng cốt đều thuộc quyền sai phái trực tiếp của Trung ương. Khi ra lịnh cho Trưởng ban về Sài gòn, Trung ương đã cử Tim lên tạm quyền.
- Tim giữ chức Phó Trưởng ban lâu chưa?
- Mới.
- Mới, nghĩa là cách đây bao lâu?
- Ba tuần.
Văn Bình phá lên cười:
- Phái đoàn bác học bắt tay vào cuộc thí nghiệm phi cơ VTOL được mấy tuần rồi?
- Hai tuần.
- Trước ngày Trưởng ban An ninh công xuất?
- Không. Sau một ngày.
Vẫn cười, Văn Bình vỗ vai Triệu Dung:
- Lão Hoàng của anh em mình gớm thật!
Triệu Dung cũng cười. Không hiểu sao, hạm trưởng cũng cười theo.
Khoái đĩnh đã ra khơi, hạm trưởng nói:
- Tôi gọi vô tuyến về mẫu hạm ra lịnh bắt Tim, hai anh bằng lòng không?
Văn Bình xua tay:
- Không cần.
Hạm trưởng trố mắt:
- Bằng chứng đã rành rành, hắn là thủ phạm. Nếu không ra tay trước, chúng mình sẽ mất mạng như chơi.
Văn Bình giải thích:
- Có thể hắn là thủ phạm. Có thể là không. Trong cả hai trường hợp, chúng ta không nên bắt hắn, vì đứt dây động dừng. Riêng anh, anh thấy Tim ra sao?
Hạm trưởng đáp:
- Tôi hơi sửng sốt khi gặp hắn lần đầu. Kị nhất trong nghề tình báo là uống rượu mạnh. Vậy mà hắn uống như hũ chìm.
Văn Bình hỏi:
- Thường thường, hắn uống bao nhiêu?
- Độ nửa chai Úyt-ky.
- Ồ, nửa chai có gì là nhiều. Bọn uống rượu nửa chai mỗi bữa chỉ là hạng bét. Nhân viên tình báo cừ khôi phải uống hàng chai trở lên.
- Rượu vào, lời ra, trong cơn say sưa, phun hết bí mật còn gì nữa... Các anh nghĩ coi, Tim say tối ngày. Sáng rượu, trưa rượu, tối rượu. Mỗi lần uống, hắn ngồi lầm lì hàng giờ.
- Tại sao anh không xin Trung ương lôi hắn về?
- Tôi đa đánh điện khẩn khoảng yêu cầu. Không thấy trả lời, tôi liền viết công văn chánh thức. Nhưng Trung ương vẫn làm thinh. Tôi có cảm tưởng hắn được ông bự nào ở Trung ương che chở. Mấy ngày sau, Trung ương mới trả lời vẻn vẹn một câu: vấn đề bổ nhiệm nhân viên An ninh là do cấp trên quyết định, yêu cầu hạm trưởng tuân theo chỉ thị. Tôi tức ức máu, có thể chết được mà phải ngậm miệng. Tôi có cảm tưởng là họ đang dùng tôi đóng một trò hề. Tuy nhiên, đó lại là trò hề nguy hiểm, vô cùng nguy hiểm. Hàng chục người đã chết vì trò hề vô cùng nguy hiểm nầy. Đó là chưa nói tới hàng ngàn triệu đô-la. Hàng trăm triệu người có thể mất mạng nếu chương trình thí nghiệm phi cơ VTOL bị rơi vào tay địch.
Văn Bình đánh diêm châm thuốc Salem, giọng rắn rỏi:
- Anh là chủ, chúng tôi chỉ là khách. Bắt hay không bắt hắn là quyền của anh. Nhưng nếu anh hỏi ý kiến thì chúng tôi xin nói là chưa nên.
Hạm trưởng nhăn mặt:
- Lý do?
Văn Bình đáp:
- Trong cái nghề chết dầm nầy, nhiều khi người ta không nói được lý do.
Mặt hạm trưởng lộ vẻ bực bội:
- Nghĩa là các anh không tin cả tôi.
Văn Bình cười xòa:
- Anh là người phương Tây có khác. Sinh trưởng ở xứ có tuyết nên thường phải nóng giận cho bớt lạnh. Tôi xin cắt nghĩa ngay để anh khỏi phải hiểu lầm. Chúng tôi không nói được lý do, vì lẽ giản dị chúng tôi chưa tìm ra lý do ấy.
Hạm trưởng không có thì giờ tiếp tục tình cảm vụn nữa. Vì phi đội khu trục rượt theo trực thăng khả nghi gọi về báo cáo. Giọng nói khàn khàn quen thuộc rền vang trong phòng chỉ huy khoái đĩnh:
- Alô Zulu Lima... Alô, Zulu Lima kêu Zulu Kilô[52].
Hạm trưởng đáp:
- Zulu Kilô đây... Zulu Lima nói đi.
- Thưa, trực thăng đang hạ cánh xuống một tàu đánh cá.
- Tàu đánh cá? Còn đợi gì mà không cho nó ăn rốc-kết?
- Không được. Vì hiện tàu đang đậu ngoài hải phận quốc tế. Tuy nhiên, chúng tôi xin chờ lịnh. Nếu hạm trưởng cho phép, phi đội sẽ oanh kích luôn con tàu. Chỉ trong mấy phút là nó chìm xuống đáy biển.
- À, à! Nó đang ở trên hải phận quốc tế hả? Vậy thì thôi. Các anh ráng chụp hình rồi quay về.
- Tuân lịnh.
- Tàu đánh cá của nước nào?
- Thưa, tàu sơn trắng toát. Cột buồm không treo cờ. Thân tàu cũng không có gì hết.
-Thấy ai trên boong không?
- Thưa thấy. Toàn là người phương Đông. Có lẽ người Tàu. Dầu sao, lát nữa xem không ảnh sẽ rõ hơn. Bọn người lố nhố trên boong lại giơ tay vẫy chúng tôi.
- Họ tưởng lầm các anh là bạn ư?
- Không. Ngàn lần không. Họ vẫy chúng tôi rồi cười đùa một cách khoái trá. Dường như họ biết chúng tôi không dám động tới chân lông của họ. Thưa hạm trưởng, tức quá... tức chết đi mất.
Hạm trưởng giận tái mặt nhưng vẫn phải dịu giọng:
- Thôi, các anh tha cho họ lần nầy.
Cuộc đàm thoại chấm dứt. Song, một nhân viên phụ tá đã tiến tới, trao tận tay hạm trưởng một bức điện. Liếc đọc, hạm trưởng rú lên như đứa trẻ bị ong đốt:
- Trời ơi, tôi đã bảo mà...
Giọng Văn Bình vẫn bình thản như nước mặt hồ một ngày lặng gió đầu thu.
- Chắc là chuyện Tim.
Hạm trưởng nhìn Văn Bình bằng luồng mắt nửa sửng sốt, nửa sợ hãi:
- Phải, bức điện nói về Tim. À, mà tại sao anh biết?
- Tim chết rồi, phải không?
Hạm trưởng đáp nhát gừng:
- Phải, Tim đã chết... À, à, tại sao anh biết?
- Chẳng qua đó là diễn biến tất nhiên của cự việc. Tôi không tin Tim là nhân viên thật thụ và tín cẩn của địch. Trung ương cất nhắc Tim lên thay Trưởng ban có lẽ vì nghi ngờ từ trước, muốn mượn hắn làm cái mồi thơm ngon dẫn đến tay sai chính cống của địch trà trộn trong giới bác học và thủy thủ ở mẫu hạm. Không dè địch nhanh tay hơn ta... Nhưng cũng không sao, còn nước còn tát, lo gì.
- Tại sao địch giết Tim?
- Dễ hiểu lắm. Tim làm bản phúc trình về vụ vận tải cơ ngộ nạn, nói rõ là chiếc VTOL đã bị tan nát. Giờ đây, chiếc VTOL vẫn còn nguyên, không thiếu một mảnh. Tất nhiên, địch phải bịt miệng Tim. Vì nếu hắn còn sống, nội vụ sẽ bại lộ. Tôi bắt đầu hiểu rồi. Thảo nào, anh băng khuăng khi thấy Tim nghiện rượu. Đáng tiếc là hắn không được sống thêm vài ba giờ nữa... chờ chúng ta trở về.
- Theo anh, địch hạ lịnh giết Tim, sau khi biết chúng ta khám phá ra chiếc VTOL trên đảo Hoàng sa, phải không?
- Phải.
- Khiếp thật. Nghĩa là địch liên lạc với nhân viên trên mẫu hạm bằng vô tuyến.
- Phải.
- Vậy thì chúng sẽ chết với tôi. Tôi có một ban đặc biệt, chuyên ghi băng mọi liên lạc vô tuyến điện. Chúng ta có nhiều hy vọng phăng ra manh mối.
- Hy vọng là chuyện hữu lý. Song, tôi không tin là địch để lại dấu vết. Từ mấy năm nay, điệp viên cộng sản đều được trang bị điện đài đặc biệt, với làn sóng lên thẳng, ngoài họ ra, không ai nghe được. Mà dẫu nghe được cũng không đi đến đâu. Vì như anh đã biết, kỹ thuật mật mã của nghành điệp báo quốc tế đã phát triển tới mức độ tinh vi.
Văn Bình định nói thêm nữa, nhưng vội ngưng lại.. Chàng sực nhớ là hôm nay nói quá nhiều. Chàng nhận thấy hơi lố bịch vì đã giải thích điều sơ đẵng mà bất cứ nhân viên tình báo nào vào nghề đều am hiểu. Phương chi hạm trưởng là nhân viên trung cấp DIA... Ít ra, nếu là quân nhân, phải từ đại tá trở lên...
Dường như đọc được tư tưởng của Văn Bình, Triệu Dung nheo mắt một cách đầy ý nghĩa. Triệu Dung xứng đáng là "Anh Cả"; đúng đắn, cân nhắc, khôn ngoan, lịch thiệp. Chàng biết rất nhiều mà nói rất ít. Nhiều khi, chàng chỉ chăm chú ngồi nghe.
Thốt nhiên, Văn Bình nắm tay bạn.
Hai người xích lại gần nhau như cặp nhân tình trẻ. Tuy không hẹn nhau, cả hai đều dựa lan can khoái đĩnh nhìn ra khơi. Sóng vỗ nhấp nhô, đại dương xanh ngắt một màu ngoạn mục.
Những con tàu biển in bóng đen sì li ti trên chân trời biếc xa xa.
Trong số những con tàu biển lảng vảng gần đảo Hoàng sa - lảng vảng vô tình hay cố ý - có con tàu đánh cá kỳ dị, mang bí danh "Ngọc-Bích" của đại tá Tze, thuộc Quốc Tế Tình Báo Sở Bắc-Kinh.
Lúc Văn Bình và Triệu Dung đặt chân lên khoái đĩnh tiếp cứu cũng là lúc trực thăng Kaman HOK-I bay về gần tới tàu Ngọc-Bích. Như thường lệ, mỗi khi thuộc viên hạ cánh, đại tá Tze đều có mặt trên boong. Tze coi đó là giờ phút thiêng liêng trong đời y.
Thấy thượng cấp có mặt trên boong, ai cũng tưởng đại tá Tze muốn săn sóc từng li, từng tí công việc của thuộc viên. Nhưng thật ra, sự săn sóc chỉ là phần nào. Tze thường lên boong là để khỏi cơn ghiền, ghiền trời cao, biển rộng và máy bay.
Bước chân vào binh nghiệp, Tze đã có duyên nợ thắm thiết với ngành phi công hải quân. Rồi từ nghề lái phi cơ, y tiến thẳng vào lãnh vực điệp báo. Sở dĩ, y trở thành sĩ quan điệp báo có lẽ vì nghề phi công hải quân gần giống với nghề hoạt động bóng tối. Cái chết luôn luôn gần kề, chỉ lơ đãng một phần trăm tích tắc đồng hồ là mất mạng. Mọi cử chỉ, hoạt động cần được tính trước, ăn khớp với nhau như trong bộ máy điện tử, không được nhanh và cũng không được chậm.
Không được nhanh và cũng không được chậm, đúng là châm ngôn của phi công hải quân. Boong tàu Ngọc-Bích che đầy lưới ni-lông và máy móc điện tử bí mật, vậy mà đại tá Tze lại có cảm tưởng là rộng thênh thang, không bị đồ vật che khuất như trên sàn mẫu hạm.
Cuốn phim quen thuộc ngày xưa từ từ chiếu lại trong trí, đại tá Tze còn nghe rõ khẩu lịnh:
- Cất cánh!
Rồi những tiếng hô ngắn ngủi khác:
- Cẩn thận cánh quạt.
- Cho máy nổ đi!
Động cơ máy bay rú lên, những tia lửa màu da cam thụt khỏi ống sáp-măng. Cánh quạt quay một vài vòng đầu tiên, rồi như làm nũng, ngừng lại, trước khi xoay hết tốc lực, biến thành một cái dĩa tròn bằng bạc làm không khí chuyển động. Động cơ máy bay rú lên, lặng xuống để rồi nghe ròn tan, vô cùng tròn trịa.
Đối với phi công thì giây phút cất cánh, thoát khỏi mặt đất bụi bặm, vút lên trời xanh tinh khiết là giây phút kỳ diệu. Người phi công hải quân giữa vùng biển bao la còn cảm thấy kỳ diệu hơn nữa.
Lần nào cũng như lần nào, trèo lên máy bay, Tze cũng ngây ngất. Mũi phi cơ dài ngoằng nên y không nhìn được phía trước, boong tàu chật ních máy bay, khiến cho các phi công có ấn tượng họ là thành phần một ban đại hợp tấu gồm đủ loại đàn, dưới quyến chỉ huy của một nhạc trưởng phi thường, trình diễn không được sai một nốt. Thật vậy, toàn chuyên viên trên boong hoạt động đều đặn như tấu đàn và đoàn chim sắt cũng đều đặn bay lên.
Tze không thể nào quên được những sợi giây cáp bằng thép dài ngoằng, bắt ngang boong, về phía sau. Mỗi sợi dây cáp có thể chịu đựng sức nặng 30 tấn. Phi cơ đáp xuống, chạm vào dây cáp và chạy chậm lại. Khi phi cơ cất cánh thì 10 sợi cáp không lồ nằm rạp xuống ngoan ngoãn để rồi ngóc đầu lên, cách măt boong hơn gang tay. Nếu phi cơ không chạm giây cáp thì còn một hàng rào dấy thép đặc biệt khác nữa. Những dụng cụ giản dị nhưng hữu hiệu này đã ngăn chận tai nạn xẩy ra trên mẫu hạm.
Trong đời phi công hải quân - cũng như sau này trong đời thủ lãnh điệp báo - chưa bao giờ đại tá Tze gặp tao nạn trầm trọng. Có lẽ vì y răm rắp tuân theo lịnh cấp trên.
"Phải hoàn thành kế hoạch Kim Cương với bất cứ giá nào..." Lời nói của Tổng Giám đốc lại gióng giả bên tai đại tá Tze.
Tổng Giám đốc Quốc Tế Tình Báo Sở là người ít nói, ít nói đến nỗi thuộc viên tưởng là cấm khẩu. Hễ đã nói là nói chắc nịch như búa tạ đập xuống thanh sắt trong lò rèn.
Tze đã hiểu tại sao kế hoạch Kim Cương cần được hoàn thàng bằng mọi giá. Tuy nhiên...
Tze giật mình khi thấy cận vệ hối hả tư tầng dưới đi lên, tay xách cái cặp da nhỏ xíu màu đỏ. Chẳng nói, chẳng rằng, y đỡ lấy cái cặp, rút chìa khoá trong túi ra mở. Bên trong là một cái bìa đỏ. Tờ giấy ở chính giữa cũng màu đỏ. Màu đỏ nhạt gần như pha cánh sen.
Tuy nổi tiếng bình tĩnh mà đại tá Tze cũng hoa mắt trước những giòng chữ li ti. Bức mật điện vừa cho biết một biến cố quan trọng, vô cùng quan trọng.
Điều Tze hằng lo ngại đã thành sự thật. Văn Bình, Z.28, gã điệp viên hào hoa và kỳ tài của miền Nam đã nhảy và vòng chiến.
Ruột gan Tze bỗng nóng ran.Y quay lại hỏi cận vệ:
- Nhận được báo cáo của trực thăng chưa?
Cận vệ đáp:
- Thưa, rồi.
Rồi chỉ tay vế bên trái:
- Kia kìa...
Đại tá Tze nâng ống viễn kính cực mạnh lên ngang máy. Tuy trực thăng còn cách tàu đánh cá một quãng xa, Tze vẫn thấy rõ như đang bay trước măt.
Y lẩm bẩm một mình như người điên:
-Chết rồi. Chết thật rồi.
Khi ấy trên trực thăng, phụ tá hoa tiêu cũng lẩm bẩm một mình. Nhìn cái miệng cá ngão của bạn trên khối thịt xấp xỉ 90 kí, hoa tiêu cười ồ lên. Như thường lệ, tiếng cười của hắn vẫn đượm vẻ khinh thị và kiêu căng. Phụ tá hoa tiêu nhúng vai:
- Ừ, thì cứ tiếp tục ngồi đấy mà cười.
Hoa tiêu nói:
- Vậy theo anh, chúng mình nên làm gì?
- Không biết nữa. Nhưng tôi lo quá. Đại tá đã dặn đi, dặn lại nhiều lần là phải mang chiếc VTOL về cho kỳ được. Đằng nầy...
- Dầu sao, chúng mình cũng đã cố gắng... Công việc không thành, lỗi không phải do chúng mình. Chẳng qua vì mấy thằng bên dưới yếu ớt như sên.
- Nếu anh không ngăn cản thì tôi đã xỉa cho nó một băng đạn đui sết. Chúng mình khỏi phải trở về như chó cụp đuôi.
- A, a, a, anh bắt đầu đổ tội cho tôi. Phải, chính tôi đã ngăn cản anh vì đại tá không cho phép dùng võ lực. Anh sẽ được đại tá khen ngợi. Còn tôi...
- Hừ, anh điên ư?
- Tôi không điên.
- Nếu không điên, tại sao anh hiểu lầm tôi? Chúng mình là bạn thân từ lâu, tôi không thể nào bán anh được... Vả lại, anh ngăn cản là đúng. Nhưng mà...
Phụ tá hoa tiêu nín lặng. Hắn muốn thổ lộ một điều quan trọng, song lại rụt rè. Hắn liếc nhìn bạn; hoa tiêu có khuôn mặt trắng toát, như chàng thư sinh không bao giờ dám ra dưới nắng.
Hai luồng mắt chạm nhau. Luồng mắt của hoa tiêu sáng quắc, như đọc thấu lục phủ, ngụ tạng mọi người. Phụ tá hoa tiêu rùng mình, gai ốc nổi đầy người.
Hoa tiêu nhích mép cười:
- Tôi hỏi thật cậu. Cậu muốn trốn, phải không?
Mặt phụ tá hoa tiêu trở nên tái mét. Hắn đáp, giọng run run, hàm răng đập vào nhau lập cập:
- Không... không.
Hoa tiêu nhún vai:
- Cậu đừng nên nói dối nữa. Vô ích, cậu ơi. Tôi có biệt tài hiểu được gan ruột của cậu. Vả lại, tôi coi cậu như anh, em ruột. Dầu sao, chúng mình cũng đã sống bên nhau một thời gian dài. Cậu không tin tôi ư. Cậu cứ nói đi.
Phụ tá hoa tiêu thở dài:
- Vâng, anh nói đúng. Tôi nẩy ý bỏ trốn. Thú thật với anh, tôi không dám gặp mặt đại tá nữa.
- Anh định bỏ trốn từ bao lâu rồi?
- Từ ngày còn ở Hồng-Kông. Nhưng khi ấy, tôi bị kiểm soát chặt chẽ quá, không sao thoát nổi. Đến khi gặp anh, thấy anh là người tâm huyết, tôi định thổ lộ với anh nhiều lần, nhưng không dám. May thay, hôm nay, chúng mình cùng đi với nhau.
- Anh định trốn đi đâu?
- Dễ lắm, cứ bay về phía tây là tới khu vực của pháo đài ZZ. Theo chỗ tôi biết thì những khinh đĩnh của hạm đội thứ 7 Hoa-Kỳ chỉ lảng vảng quanh đây, trong đường kính 100 cây số mà thôi.
- Nghe anh nói, tôi cũng thấy dễ. Nhưng còn một vấn đề quan trọng khác nữa. Vấn đề xăng. Theo chỉ thị, xăng chỉ được đổ dùng cho chuyến bay khứ hồi từ tàu Ngọc-Bích đến đảo Hoàng-Sa.
- Anh khỏi lo. Tôi đã bố trí cẩn thận rồi. Tôi đã đánh lừa thằng cha đổ xăng. Với số xăng trong thùng, anh có thể lái tận tới hàng không mẫu hạm mà không sợ thiếu.
- Giỏi thật, Vậy mà tôi cứ tưởng anh không phải là người đa mưu túc kế. Đồng ý là chúng mình sẽ bỏ trốn, nhưng hỏi thật anh, giả sử họ không tiếp nhận chúng mình thì sao?
- Yên tâm, tôi đã lo liệu đầy đủ.
- Lo liệu đầy đủ? Nghĩa là anh đã liên lạc trước với họ? Và hiện họ đang đợi anh?
- Gớm, anh hỏi nhiều quá, tôi trả lời không kịp. Đúng ra, tôi chưa liên lạc trực tiếp với họ. Tôi chỉ gặp một cô gái làng chơi ở Hồng-Kông. Tuy là điếm, nhưng đẹp tuyệt trần, anh ạ.
- Hừ. Nghe anh nói, tôi đã chảy nước miếng ồng ộc. Nàng rủ anh theo phải không?
- Phải. Không biết tại sao nàng biết tôi là nhân viên của Sở.
- Nàng biết anh hoạt động dưới quyền đại tá Tze không?
- Biết.
Hoa tiêu ngồi yên lặng. Bầu trời vẫn xanh ngắt. Nhìn phía trước, phụ tá hoa tiêu hốt hoảng:
- Ồ, kìa, tại sao anh không quay sang hướng tây?
Hoa tiêu cười gằn:
- Đây nầy...
Phụ tá hoa tiêu chỉ kịp nhận thấy một vật sáng loáng từ túi hoa tiêu vút ra. Viên đạn Strychnine lao vào cuống họng nạn nhân, nhanh như điện xẹt. Nạn nhân ngã ngồi vào lưng ghế.
Tuy nhiên, hắn vẫn cố gắng gào lên thảm thiết:
- Lạ thật, tại sao anh giết tôi?
Hoa tiêu vẫn cười gằn:
- Tại mầy ngu. Mầy ngu như con chó.
- Hừ. Tôi thành thật nên tâm sự với anh. Anh mới là đồ ngu. Lát nữa, anh về tay không, đại tá Tze sẽ giết anh như giết con ruồi.
- Mầy lầm to. Tao đã ghi âm những lời tỉ tê tha thiết của mầy.
- À, thằng đểu.
- Tiếp tục chửi nữa cho sướng miệng. Chỉ vài ba phút nữa là mầy về âm phủ với ông bà. Đạn Strychnine có cái bất tiện là động tác lâu hơn cyanure nhiều... Thôi, vĩnh biệt mầy. Xuống suối vàng, đừng giận tao nhé!
- Tao sẽ hiện hồn về để vặn họng mầy. Nhưng mầy ơi, mầy chỉ khôn mà chưa ngoan. Nghiên cứu bằng ghi âm đại tá Tze sẽ biết là mầy đã ngăn cản tao, không cho tao bắn. Và mầy sẽ ăn đạn trước khi có hân hạnh được ném xuống biển nuôi cá mập.
- Yên tâm. Tao chỉ bấm nút ghi âm từ lúc mầy ngỏ ý đào tẩu.
- Thế à... Thôi, tao chịu thua mầy keo nầy. Trước khi tao chết, tao cầu trời cho mầy bị đại tá làm thịt.
- Ô, đại tá sẽ khen ngợi tao, thăng thưởng tao. Tao sẽ được tin cậy. Nhưng mầy ơi, tao đã chán ngấy công việc, chán ngấy tất cả. Khi tàu trở vế Hồng-Kông, tao sẽ mò lên bộ, liên lạc với con nhân tình lưu manh của mầy. Nó sẽ giúp tao thoát ly dễ dàng. Mầy đúng là đồ ngu như chó: gặp nhân viên CIA mà không biết vồ lấy...
Phụ tá hoa tiêu muốn nói thêm nữa, nhưng một luống điện cực mạnh từ óc phát ra đã giật nẩy toàn thân.
Hắn chỉ ho được một tiếng ngắn khô khan rồi ngẹo đầu trên ghế, mặt sám sịt. Hoa tiêu phá lên cười.
Trực thăng xà xuống dần dần rồi lượn vòng tròn. Đứng trên boong, đại tá Tze mỉm cười ra chiều suy nghĩ. Trực thăng đậu xuống sàn tàu êm ái.
Lặng lẽ, đại tá Tze bước xuống tấng dưới, mở cửa phòng chỉ huy, kéo ghế ngồi đợi. Một thuộc viên hiện ra, Tze hất hàm:
- Dẫn xuống đây.
Khuông mặt trắng trẻo, lún phún râu mép của gã hoa tiêu trực thăng hiện ra ở khung cửa. Đại tá Tze nói, không thèm ngẩng đầu:
- Chiếc VTOL đâu?
Hoa tiêu kính cẩn đáp:
- Thưa, như tôi đã báo cáo hồi nãy, vì anh em canh gát bên dưới kém thận trọng nên địch đã đoạt được chiếc VTOL. Tuy nhiên, tôi đã rượt theo và bắn hạ. Chiếc VTOL hiện còn nằm dưới đáy biển, cách đảo 500 thước về phía tây-nam.
- Anh đã cho phòng chỉ huy biết rõ vị trí của chiếc VTOL bị đắm chưa?
- Trưa, rồi.
Đại tá Tze nhất điện thoại, nhưng ở đầu dây đã có tiếng người:
- Thưa đại tá, khu trục cơ của địch đang lượn vòng tròn trên boong tàu.
Tze hỏi, giọng cụt ngủn:
- Mấy chiếc?
- Thưa, 6. Xin đại tá cho lịnh đối phó.
- Hừ, các anh ra hiệu chào họ. Chào họ một cách thân thiện, thế thôi.
Đại tá Tze gát điện thoại, rồi quay sang phía hoa tiêu đang đứng như cột trồng giữa ca-bin:
- Còn vụ kia thì sao?
Hoa tiêu đáp một hơi, trơn tru như đứa trẻ trả bài học thuộc lòng trên bảng:
- Thưa, tôi bắt buộc phải hạ sát, vì hắn tỏ thái độ chủ bại và phản bội. Tôi đã ghi âm những lời tâm tình của hắn. Cuộn băng đã được nộp cho phòng chỉ huy. Xin đại tá...
Tze gạt ngang:
- Biết rồi. Tại sao anh không mang hắn vế tàu và nộp cho thượng cấp?
Hoa tiêu hơi tái mặt:
- Thưa, hắn rủ tôi bỏ trốn. Trực thăng khi ấy đã về gần tới tào Ngọc-Bích. Tôi sợ trì chậm, hắn sẽ hạ sát tôi để cướp lấy trực thăng.
- Hừ, cướp trực thăng?
- Thưa, đại tá, hắn nặng gần một tạ thịt, nổi tiếng giỏi võ trong số nhân viên của Sở.
- Nhưng hắn chỉ được to xác mà nhỏ trí không, anh biết chưa? Tôi tin là anh biết rõ điều đó.
- Thưa...
- Anh muốn nói gì nữa?
- Thưa, tôi thi hành đúng mệnh lệnh của đại tá.
- Tốt lắm. Gia đình anh, hiện còn những ai?
Viên hoa tiêu bất đầu mất thần, giọng nói biểu lộ sự sợ hãi ghê gớm:
- Thưa, còn mẹ già, vợ và hai con.
- À, tôi nhớ ra rồi. Anh có hai đứa con trai lên 6 và lên 4, ngoan ngoãn và kháu khỉnh. Anh thương con lắm, phải không?
Viên hoa tiêu nuốt nước bọt:
- Vâng.
- À, nghe nói vợ anh đang còn trẻ. Ha,ha, trẻ và lại đẹp nữa. Anh là người chồng, người cha sung sướng nhất đời. Các nhân viên của Sở đều thua anh một trời, một vực. Cả tôi nữa.. Tôi là đại tá, là cấp chỉ huy mà cũng khổ sở hơn anh nhiều.
- Thưa... thưa... Tại sao đại tá hỏi tôi chuyện đó? Từ trước đến nay, chưa bao giờ đại tá nhắc đến chuyện gia đình tôi. Hay là... Tôi hiểu rồi. Xin đại tá xét lại, tôi luôn luôn thi hành đúng mệnh lệnh của đại tá.
- Anh đã nhắc lại hai lần. Phải, anh rất trung thành với tôi. Anh rất trung thành với Sở.Vì vậy, anh được xuất ngoại, phục vụ trên tàu Ngọc-Bích. Duy có một điều...
- Thưa, đại tá nghe cuộn băng ghi âm sẽ thấy. Tôi phải trổ tài khôn ngoan mới đánh lừa được hắn.
- Hà, hà... Anh khôn ngoan lắm, tôi thành thật khen ngợi anh. Sở thành thật với anh mà anh không thành thật với Sở.
- Tôi xin thề.
- Ồ, thề làm gì, vô ích.
- Tôi xin mang mẹ tôi, vợ tôi, con tôi ra thề. Chắc chắn đại tá sẽ tin tôi. Từ bao năm nay, tôi chưa hề thề. Tôi chưa bao giờ mang vợ con ra để chứng minh cho lòng thành thật.
- Làm nghề tình báo này chí có chứng cớ là đáng kể, thề thốt chỉ là trò đùa, anh hiểu chưa? Anh đã tốt nghiệp khóa chiến thuật của Sở, chắc anh còn nhớ là nhân viên tình báo khi bị địch bắt phải vận dụng mọi thủ đoạn gạt phỉnh, từ van xin, khóc lóc thế thốt đến giả vờ mềm yếu, đầu hàng... Dầu sao, tôi cũng là thượng cấp của anh, lại là đàn anh trong nghề, anh đừng mang cái mánh lới sơ đẳng ấy ra ru ngủ tôi nữa.
- Tôi đâu dám... Tôi xin cắn rơm, cắn cỏ, lạy đại tá...
- Nghĩa là anh đã chịu thú nhận?
- Thú nhận gì ạ?
- Lại chối rồi.
- Thưa đại tá, tôi đã nói hết sự thật. Xin đại tá nghe cuộn băng ghi âm rồi sẽ hiểu lòng dạ tôi hơn.
- Nghe rồi, tôi đã nghe rồi.
- Thưa, bước xuống trực thăng, tôi đến đây trình diện ngay với đại tá, cuộn băng nhựa đang nằm trong phòng chỉ huy kia mà...
- Anh khỏi lo. Tôi có thói quen giúp đỡ nhân viên dưới quyền, không muốn họ làm việc mệt nhọc, nên thường đặt máy ghi âm ở mọi nơi. Dĩ nhiên là trên trực thăng cũng có vành tai bén nhạy của tôi.
- Trời ơi!
- Nhờ vậy, tôi khám phá ra mưu mô đốn mạt của anh. Mọi tiếng động trên trực thăng đều được truyền ngay tới tàu Ngọc-Bích. Tôi đã nghe hết, hiểu hết trong khi anh ở trên trực thăng. Anh cần trối trăn những gì, tôi cho phép anh tự do... Và nếu có thể, tôi sẽ giúp anh toại nguyện.
- Thưa, trối trăng... Nghĩa là đại tá sắp hành hình tôi?
- Chậc! Hành hình là một danh từ đao to, búa lớn. Tôi chỉ thích danh từ tầm thường mà thôi. Anh cứ nói đi, mau lên, tôi đang bận nhiều công việc quan trọng.
- Trăm lạy, ngàn lạy đại tá.
- Vô ích.
- Xin đại tá nghĩ đến con tôi, đến...
- À, anh cũng muốn tôi nghĩ đến con anh, đến vợ anh nữa ư? Thú thật với anh, nếu cần nghĩ đến, tôi thích nghĩ đến vợ anh hơn nhiều. Vợ anh khét tiếng đẹp, tôi lại đứng tuổi rồi, đôi khi cũng muốn một người đàn bà mỹ miều nằm gọn trong tay.
Lời nói đểu giã của thượng cấp làm cho viên hoa tiêu quên bẵng nguy hiểm. Hắn trợn mắt đáp lại:
- Tôi ngờ đại tá lại ăn nói sống sượng như vậy. Dầu sao, đại tá cũng là nhân viên chỉ huy. Nếu tôi được tự do, tôi sẽ không tha thứ.
- Anh định đánh tôi ư?
- Dĩ nhiên. Tôi sẽ cho đứa nào định sàm sỡ với vợ tôi một bài học đáng giá.
- Phải. Tôi biết anh rất giỏi võ. Vậy anh còn chờ đợi gì nữa? Anh cứ cho tôi một bài học đáng giá đi.
Viên hoa tiêu thở dài:
- Bây giờ mới biết bọn các anh là quỷ sứ thì đã muộn. Thôi, anh giết tôi đi. Tôi sẵn sàng rồi.
Đại tá Tze cười nửa miệng:
- Đồ hèn! Làm đàn ông mà người ta ti toe với vợ mình, không dám phản ứng là đồ hèn. Hèn như anh thì chết đáng kiếp. Tôi mong vợ anh sẽ kiếm được một tấm chồng đàng hoàng hơn anh.
Viên hoa tiêu thét lơn:
- Đại tá chỉ được quyền giết tôi, chứ không được quyền mắng tôi là đồ hèn.
Đại tá Tze vẫn thản nhiên:
- Hừ, anh mắng phụ tá anh ngu như chó thì sao? Anh còn thua đồ hèn một bậc. Anh là đồ chó.
Máu nóng ngùn ngụt lên cổ, viên hoa tiêu xấn lại, vung hai cánh tay ra một lượt. Ngọn quyền cực hiểm giáng xuống như vũ bão. Không ngờ tấm thân gầy guộc của viên hoa tiêu lại chứa chất một nội lực kinh khủng như vậy.
Tuy nhiên, tài nghệ của đãi tá Tze còn cao siêu hơn nhiều. Chờ đường quyền của đối phưong gần tới nới, y mới xoay người sang bên, rồi phóng chân trái ra nhẹ nhàng, như người đùa nghịch.
Viên hoa tiêu bị đánh bất thần, ngã nhào ra sàn ca-bin. Đại tá Tze cười khanh khách:
- Tao đã dân chủ tột độ với mầy rồi. Chết đừng oán thán nữa nghe!
Viên hoa tiêu lồm cồm ngồi dậy, nhưng đại tá Tze đã bấm chuông. Một cận vệ đeo súng tiến vào.
Đại tá Tze ra lịnh:
- Dẫn nó lên boong, cho một viên đạn vào gáy và xô xuống biển.
Dường như đã quen với những cuộc hành quyết nên tên cận vệ chỉ vâng một tiếng ngắn, rồi lôi hoa tiêu dậy. Nạn nhân vùng vằng trong cố gắng tự vệ tuyệt vọng nhưng tên cận vệ đã giáng bá súng K-50 vào đầu. Nạn nhân lại ngã xuống. Tên cận vệ nắm chân lôi sềnh sệch ra ngoài. Ngồi một mình trong ca-bin, đại tá Tze bâng khuâng hồi lâu như nhà thơ đang gieo vận.
Chuông điện thoại reo. Đại tá Tze không cho người gọi lên tiếng, đã hỏi ngay:
- Sao, có tin tức gì chưa?
Giọng nói trong điện thoại hơi run:
- Thưa đại tá, hắn còn sống.
- Hắn là ai? thằng phụ tá hoa tiêu hả? Cứu hắn làm gì, mất thời giờ. Ném luôn xuống biển đi.
- Thưa, không phải. Đây là tên nhân của địch lái chiếc VTOL bị bắn hạ.
- Văn Bình, Z.28?
- Thưa, căn cứ vào liên lạc vô tuyến giữa khoái đĩnh của địch với mẫu hạm ZZ thì có lẽ hắn là Văn Bình, Z.28.
- Tại sao anh biết hắn còn sống?
- Thưa, địch vừa báo tin về mẫu hạm.
- Rầy rà thật. Đã tiếp xúc được với nhân viên của ta chưa?
- Thưa, rồi.
- Thằng Tim?
- Thưa, giờ nầy, Tim đã chết cứng.
- Anh đoán phỏng hay là có báo cáo cụ thể?
- Thưa, không phải đoán phỏng mà là có báo cáo cụ thể. Nhân viên của ta vừa điện về xong.
- Liệu địch khám phá ra không?
- Thưa, nhân viên của ta tỏ vẻ lo ngại. Nếu địch là người khác thì không đáng sợ lắm. Nhưng lần này lại là Văn Bình, Z.28. Thêm vào đó, lại có Triệu Dung.
- Triệu Dung?
- Vâng, phụ tá đặc biệt của lão Hoàng.
- Lại càng rầy rà hơn nữa... Anh ráng liên lạc với nhân viên của ta nội đêm nay, dặn chờ lịnh tôi. Chờ lịnh tôi, biết chưa? Không được tự động làm gì hết. Bảo hắn rằng tôi đích thân ra lịnh cho hắn. Nghe rõ chưa?
- Dạ, rõ.
- À, anh đánh một mật điện về cho Tổng Giám đốc nói rằng công việc vẫn tiến hành khả quan. Không cần báo cáo sự việc xẩy ra hôm nay.
- Thưa, Trung ương vừa mới gởi một bức điện khẩn.
- Thế à?
Đại tá Tze định nói "mang xuống đây", song lại nín lặng. Như thường lệ, mọi liên lạc giữa tàu đánh cá Ngọc-Bích với Trung ương đều bằng mật mã. Tuy nhiên, đề phòng đối phương xía vào, mật mã được dùng là mật mã kép, vô cùng phức tạp và bí hiểm. Việc dịch mật mã do đại tá Tze đích thân phụ trách, bằng một cái máy điện tử riêng, lớn như va-li xách tay, chỉ cần 60 giây ngắn ngủi là dịch xong bức mật điện dài một trang, mà chuyên viên làm bằng tay phải mất hơn một giời đồng hồ.
Dầu chưa đọc, Tze đã biết mật điện của Trung ương muốn gì. Mặt y bỗng cau lại, rồi sáng rực như vừa nhận lãnh phép tiên mầu nhiệm. Y ngửa cổ, cười ha hả.
Trung tá phụ tá bước vào, đứng nghiêm và nhờ thượng cấp cười no nê mới lên tiếng:
- Đại tá gọi tôi?
Tze quay lại:
- Có tin về cuộc tìm kiếm chiệc VTOL bị đắm chưa?
Viên phụ tá đáp:
- Thưa, người nhái của địch đang vớt. Song, tôi không tin là còn nguyên vẹn. Không ảnh của trực thăng cho thấy sau loạt đạn cuối cùng, chiếc VTOL đã tan ra làm nhiều mảnh.
- Nghĩa là cố gắng của ta từ nhiều ngày nay đã trở thành dã tràng xe cát...
- Thưa, đang còn chiếc VTOL thứ hai.
- Biết rồi... Tôi đã nghĩ tới chiếc thứ hai. Địch bắt buộc phải xúc tiến công việc để hoàn thành chiếc còn lại. Khi ấy, chúng ta tới lấy cũng không muộn.
- Đến tận hành không mẫu hạm lấy chiếc VTOL thứ hai ư? Thưa, tôi không dám lạm bàn nếu đại tá đã quyết định, tuy nhiên...
- Trung tá cứ nói, tôi sẵn sàng nghe.
- Tuy nhiên, mẫu hạm của địch được phòng vệ rất kiên cố, một con muỗi cũng không lọt vào được ca-bin chỉ huy, chớ đừng nói là chúng ta đưa tới một toán biệt kích.
- Ai bảo trung tá rằng chúng ta sẽ dùng biệt kích để chiếm chiếc VTOL còn lại?
- Thưa, tôi phỏng đoán...
- Hừ, làm nghề điệp báo mà phỏng đoán như thầy bói thì mất mạng là chuyện chắc chắn. Có phép phân thân như Tề Thiên Đại Thánh ngày xưa cũng vị tất hy vọng, huống hồ là phải chở biệt kích vào xuống cao-su, đổ bộ lên mẫu hạm, cướp chiếc VTOL, rồi rút lui. Không, không bao giờ chúng ta lại chủ trương như vậy. Tôi sẽ dùng cái này để thắng, trung tá biết chưa?
Đại tá lấy ngón tay chỉ vào đầu, rồi nói tiếp:
- Và nhất định là ta sẽ thắng. Tôi đã mưu kế bắt tên gián điệp Z.28 ba đầu, sáu tay của địch phải mang chiếc VTOL thứ hai tới tận nơi và nộp cho tôi. Nghĩa là chúng ta cứ việc thản nhiên ngồi chờ Z.28 bưng quà đến dâng.
Viên phụ tá ngần ngừ một phút rồi nói:
- Thưa, Z.28 là đứa gớm lắm... Đại tá đã khét tiếng trên toàn cõi đông-Nam Á cho nên địch phải thua. Tuy nhiên...
- Hừ, trung tá bắt đầu dùng chữ "tuy nhiên" hơi nhiều... Đức tính số một của nghề điệp báo là thận trọng, luôn thận trọng, tuyệt đối thận trọng. Không thận trọng thì sẽ đâm đầu vào chỗ chết một cách ngây thơ và ngu xuẩn. Nhưng thận trọng không có nghĩa là rụt rè, là sợ sệt. Tôi có cảm tưởng là trung tá đang rụt rè và sợ sệt.
- Không, đại tá hiểu lầm tâm trạng tôi.
- Ha...ha... trung tá không hiểu được lòng mình thì đúng hơn. Song trung tá đừng ngại, tôi không giận đâu. rụt rè và sợ sệt trước một đối thủ nổi danh thần sầu quỉ khốc như Văn Bình Z.28 là chuyện tất nhiên và thông thường.. Nào, chúng ta cần nâng ly uống mừng thành công. Thành công trăm phần trăm trong những ngày sắp tới. Trung tá muốn dùng gì? Rum nhé?
Viên phụ tá giật mình:
- Thưa đại tá, theo nội qui không ai được hút thuốc lá hoặc uống rượu mạnh trên tàu Ngọc-Bích.
Đại tá Tze nheo một bên mắt:
- Nội qui của ai?
- Do đại tá đích thân thảo ra.
- Ồ, trước kia, tôi đích thân thảo ra thì giờ tôi cũng có thể đích thân gạch bỏ lịnh hút thuốc lá và rượu mạnh Chúng ta chẳng cần giữ gìn nữa, từ nay tha hồ ăn chơi vui vẻ. Trung tá phục với Sở được bao lâu rồi?
Viên phụ tá tái mặt hơi bị hút hết máu. Đại tá Tze có một trí nhớ phi thường. Không những Tze nhớ hết hồ sơ cá nhân của thuộc viên, Tze còn nhớ rõ tính tốt, tật xấu, và nhất là tật xấu của mọi người nữa. Chính đại tá Tze đã yêu cầu Tổng giám đốc bổ nhiệm y làm phụ tá trên tàu Ngọc-Bích, trong kế hoạch Kim-Cương... Tze không thể quên, trừ phi cố tình quên...
Giọng viên phụ tá hơi run:
- Thưa 6 năm... Trước kia, tôi phục vụ trong Phòng Nhì, bộ Tổng tư lịnh, rồi tham chiến tại Triều tiên.
Đại tá Tze gật gù:
- Ừ nhỉ, trung tá đã lập được nhiều thành tích đáng kể tại mặt trận Triều tiên... Vậy mà tôi chẳng nhớ gì cả. Có lẽ vì từ sáng đến giờ chưa được hớp rượu nào vào bao tử... À, trung tá cũng nên biết rằng tôi cấm thuộc viên uống rượu vì sợ ho say sưa, còn tôi, tôi không biết say bao giờ nên uống tha hồ. Một ly rum nguyên chất nhé?
- Thưa...
- Phải rồi, phải rồi, trung tá không phải là đệ tử của Lưu Linh. Sợ thằng Z.28 là đúng vì hắn là bạn sinh tử với thần Rượu. Hắn uống hàng chai vẫn tỉnh khô.
- Thưa, tôi sợ nhất rum nguyên chất.
- Ồ, kém quá! Vậy trung tá uống daiquiri với tôi củng được. Ngọt lật mà phản phất mùi rum. Sống gần đường xích đạo mà chưa biết thưởng thức daiquiri thần tiên thì thật uổng. Giản dị lắm, đổ một đốt ngón tay si-rô đường mía vào 4 đốt rượu rum trắng, và một đốt nước chanh vắt. Xong xuôi bỏ hai viên đá. Phải là đá vuông trong tủ lạnh mới ngon. Và nhất là đừng quên nước sô-đa. Ha...ha... tôi phải bắt thằng Z.28 làm nô lệ mới được... Trần ai chưa có bồi bàn nào pha rượu tài ba như Z.28...
Đại tá Tze vùng lên cười như người điên. Chai rum đầy ấp mới lấy trong tủ ra, y đã tu một hơi dài. Y quên bẵng rượu daiquiri vừa hứa với viên phụ tá. Y quên bẵng thực tại. Mặt y đỏ gay. Y cầm chai rượu rum, quay một vòng, rồi thét lớn một mình - những tiếng thét làm viên phụ tá rợn tóc gáy:
- Gia Cát... Mưu Gia Cát... Ha ha...