Số lần đọc/download: 4643 / 191
Cập nhật: 2014-12-04 16:00:50 +0700
Mười Lăm Giờ Hai Chín
C
uối cùng đời hắn cũng trở thành một vở opera. Trong khung cảnh bề thế của Dinh quốc trưởng, mỗi ngày của Hitler diễn ra theo một kịch bản được căn chỉnh kỹ càng, tham gia vào đó có dàn hợp xướng - một đám đông được Bộ tuyên truyền tuyển chọn và gửi đến, dàn nhạc - những viên chức của Đế chế, từ ông bộ trưởng cho đến anh phụ bếp, các vai phụ - Goebbels, Gôring, Hess, Himmler, Speer, tất cả đều được sắp đặt xung quanh tiếng hát của ca sĩ giọng ténor: Hitler. Không một nốt phô, không lẫn tạp âm, không chơi nhạc ngoại lai. Nghệ sĩ solo duy nhất có quyền ngẫu hứng là Hitler. Trên thực tế, Hitler không bỏ lỡ cơ hội nổi những cơn lôi đình làm rung tường trong dinh, khiến thủ hạ chết điếng, làm các ý tưởng trả thù phải chùn lại và đại sứ các nước sững sờ vì chưa bao giờ thấy một nguyên thủ quốc gia xử sự theo cảm hứng đến thế. Chỉ có một điều làm nó khác với một tác phẩm của Wagner: không cóvai nữ. Hitler không chấp nhận chia sẻ vị trí ngôi sao trong vở diễn. Cuộc đời hắn là một vở opera toàn nam. Nước Đức là một vở opera toàn nam.
Vào mười một giờ sáng, người hầu phòng đến gõ cửa phòng, đặt báo chí và những thông điệp quan trọng trước cửa.
Hitler đau đớn tỉnh giấc khi phải khó nhọc giằng mình khỏi sự hư vô. Hắn kiểm tra ngay lập tức trong gương xem mình có đúng là Hitler không. Trong ánh sáng nhờ nhờ màu xanh lục, tấm gương mạ crôm chỉ cho hắn một hình ảnh tương đối.
- Ôi... càng ngày trông mình càng tệ.
Hắn thoáng thấy một khuôn mặt lờn lợt, phì nộn, bù xù, lằn vết ga giường, một thân hình suy kiệt, béo phị, nhẽo nhợt. Trông hắn giống một cái ao. Hắn lại thấy mình như bùn trong ao. Vả lại, hắn cũng bốc mùi giống thế. Trong đêm, thiên nhiên đến trả thù, nó cướp mất hắn của hắn, nó ngăn hắn được là Hitler, nó trả hắn về trạng thái người. Công việc của một người đánh bùn. Nó lợi dụng lúc hắn ngủ để xóa đi những đường nét trên khuôn mặt hắn, làm da hắn phồng lên, mắt hắn vằn máu, những cơn đau dạ dày nặng hơn, làm hắn thối rữa bởi những giấc mơ rời rạc. Ngày nào cũng phải bất đắc dĩ chịu đựng một thất bại như thế thật đáng khiếp sợ.
Hitler tỉnh dậy mệt mỏi thay vì sảng khoái, phần của hắn trong hắn ít hơn tối hôm trước, khác xa với những bức ảnh đẹp nhất của hắn, gần một cách khủng khiếp với hình ảnh người cha quá cố, người mà hắn hận đến tận xương tủy. Hắn nhìn kẻ xa lạ này mỗi sáng và tự nói với mình:
- Ta có một tiếng nữa.
Hắn có một tiếng để nặn ra ngài Hitler. Đọc thư xong hắn đã bắt đầu hình thành một chút; sau đó, đọc các bài báo nói về mình làm tăng cảm giác hắn là người quan trọng. Khi đó, hắn bước sang phòng tắm nơi người hầu phòng đã vặn đầy nước vào bồn trước khi kín đáo rút lui. Không ai nhìn thấy Hitler trần truồng. Ngay chính hắn cũng vậy. Hắn tránh nhìn cảnh này bằng cách nhắm hờ mắt khi bước vào bồn tắm. “Không có ai là vĩ nhân đối với người hầu phòng của mình.” Ai đã nói câu đó nhỉ? Talleyrand nói về Napoléon? Hay Chateaubriand nói nhỉ? Không quan trọng. Hitler thường nhếch mép cười mỗi khi nhắc lại câu này vì hắn, hắn có thể huênh hoang rằng mình vẫn còn là một vĩ nhân ngay cả đối với người hầu phòng của mình. Karl chưa bao giờ bắt gặp hắn trong một tư thế khó coi. Cạo râu. Chải tóc. Mặc quần áo. Sau một giờ, sai lầm đã được sửa chữa: chất bùn đã biến đi, hắn đã tái tạo lại mình, hắn lại giống Hitler.
Hắn đã có thể rời nhà riêng để đi gặp các trợ thủ, nghe chính phủ điểm báo và xác nhận các cuộc hẹn với chủ nhiệm Văn phòng Quốc trưởng. Ở đó, hắn nói chuyện say sưa quên hết mọi thứ trên đời với một trong những người đối thoại trong khi đi dạo trong vườn kính, cố tình lùi bữa ăn trưa muộn lại. Có bao giờ người quan trọng lại đến ăn đúng giờ không? Khi đã quá giờ nửa tiếng, một tiếng, thậm chí là một tiếng rưỡi hôm nào hắn khỏe, cuối cùng hắn cũng bước chân vào phòng ăn.
Hắn ngự trên ghế, quay lưng về phía cửa sổ để người đối thoại hơi bị chói khi nhìn về phía mình. Hắn lèo lái sao cho cuộc nói chuyện luôn luôn xoay quanh những vấn đề của thế giới vì các chủ đề chung là lĩnh vực trong đó hắn có thể tỏ ra xuất sắc trong khi bao giờ cũng có một chuyên gia giỏi hơn hắn khi đề cập đến những chủ đề cụ thể. Phải cố gắng lắm hắn mới buộc được mình lắng nghe những người khách mời nói chuyện và đặt vài ba câu hỏi cho họ. Dù cảm thấy mình siêu việt hơn những người khác, hắn cho rằng mình phải có nghĩa vụ xóa bỏ khoảng cách này bằng cách cúi xuống phía những kẻ người trần mắt thịt như một người cha cúi xuống đàn con. Thi thoảng, để làm họ vui lòng, để họ thấy hắn tha thứ cho họ vì đã tầm thường đến thế và để họ được hưởng một chút hơi hướm thiên tài, hắn tung ra một bài độc thoại chói lòa ý tưởng. Hắn tiếc là mình đã không mở miệng sớm hơn vì thậm chí sau một giờ đồng hồ nói liên tục, hắn cảm thấy ít mệt hơn mười phút trao đổi với bất kỳ ai. Thời gian hắn nói trôi qua với hắn mới nhanh làm sao nhưng lại cũng lâu làm sao với những người khác. Vì vậy, hắn tự nói chuyện một mình ngày càng thường xuyên hơn, thấy việc bộc lộ suy nghĩ của mình tuôn trào hơn, đỡ mệt mỏi hơn và nhất là đỡ nhàm chán hơn việc để tâm đến sự tầm thường của người khác.
Sau bữa ăn trưa, hắn tiếp các quan chức vài phút trong phòng nhạc rồi rút lui về phòng mình để nghỉ ngơi.
Hắn nghỉ vì sao?
Vì đã quá siêu việt. Hắn thấy mệt mỏi vì lúc nào mình cũng đúng. Điều đó càng làm hắn trở nên cô độc. Lại thêm một điều nghịch lý trong hắn: khi thật sự ở một mình, hắn cảm thấy ít cô độc hơn khi bên cạnh người khác. Việc say sưa trong chiếc phô tơi với ý nghĩ mình là thiên tài, với lòng tin vào số mệnh và ngắm mây trời còn dễ hơn nhiều ở giữa đám thủ hạ, những người mà hắn lại phải biến cảm giác ngây ngất ấy thành mệnh lệnh, thư từ, nghị định, chỉ thị. Như thế đã đủ rồi, nếu lại còn phải chứng minh những thứ ấy thì...
Đôi khi Eva Braun đột nhiên xuất hiện trong nhà hắn. Cô được phép làm như vậy. Thậm chí cô còn có cả một căn phòng nhỏ ở đó. Dân chúng không hay biết gì, đám quan chức cũng vậy, chỉ một vài người thân cận biết chuyện đó. Họ coi Hitler và Eva Braun là một cặp. Sự thực là cô yêu hắn say đắm và hắn khinh bỉ cô ra trò.
Eva Braun là một cô gái trẻ vui tươi và rất ưa sự bất hạnh. Lúc tóc vàng, lúc tóc nâu, lúc nào cũng xinh xắn, cô yêu Quốc trưởng cuồng nhiệt và vì ông ta cưỡng lại điều đó, cô đã nhiều lần tự tử không thành. Điều này làm họ xích lại gần nhau. Chính cái chết hơn là sự sống đã gắn kết hai thực thể này với nhau. Súng lục rồi thuốc ngủ, hai dụng cụ hiến sinh mà Eva Braun đã sử dụng để gào lên nỗi bất hạnh của mình vì bị bỏ mặc làm Hitler nhớ đến Mimi và Geli, những kỷ niệm êm đềm, và thế là hắn lại để mặc Eva Braun bước vào đời mình. Hắn coi tự tử là biểu hiện của tình yêu, đó là chủ đề của truyền thuyết Tristan và Iseult(30), điều đó khẳng định với hắn rằng đây là chuyện tình cảm nghiêm túc. Do đó, hắn đã cho phép Eva Braun có thể lảng vảng trong nhà hắn, ăn ở đó, ngủ ở đó, thỉnh thoảng được gặm một cái xương, ngủ trong cũi của mình. Nói cho cùng, Eva đang thể hiện một sự trìu mến vô tận của một con chó, lúc nào cũng sung sướng khi nhìn thấy chủ, ngay cả khi ông chủ đã chểnh mảng, quát mắng, đánh đập nó. Trong thế giới loài người, Eva là hiện thân của sự tuân phục và quyến luyến.
Nhưng Hitler còn tỏ ra trìu mến với lũ béc giê của mình hơn với Eva xinh đẹp. Eva đã phạm một tội ác không thể gột rửa được, cái tội ác đã trói cô vĩnh viễn vào Hitler và đặt cô vào một vị thế mập mờ giữa sự ghê tởm và sự hấp dẫn, cô có được cái mà Hitler đã không trao cho bất kỳ người đàn bà nào khác: làm tình với hắn.
Cô thư ký trẻ của Hoffmann, nhà nhiếp ảnh chính thức của Hitler từ những ngày đầu, mới mười bảy tuổi khi nhìn thấy Hitler bước vào văn phòng ở Munich. Đó là một sự choáng ngợp. Liệu có phải do ánh nắng, mịn màng, tươi vui, gần như trắng bạch của ngày hôm đó đã tìm đến náu mình trong cặp mắt xanh phớt hồng nổi tiếng của hắn? Hay tại vì trước đó, cô chỉ được nhìn thấy hắn trên ảnh, hai chiều, cỡ nhỏ, đen trắng và đột nhiên cuộc đời tái hiện cả con người hắn bằng xương bằng thịt, với đầy đủ màu sắc, như một vị thần từ đỉnh Olympe xuống trần để liều một cuộc phiêu lưu với đám người trần thế? Liệu có phải vì hắn đã tò mò nhìn chăm chăm vào người con gái mới đến, thế rồi, chỉ chốc lát đã nở một nụ cười vừa ga lăng vừa hoang dại với cô như muốn nói “Cô thật là xinh đẹp”? Liệu có phải vì mọingười đều tất bật xoay quanh hắn như thể đó là một ông hoàng? Có thế hay không thì cũng vậy, vào lúc đó, Eva Braun đã nghĩ “Đây chính là người đàn ông của đời ta”. Thực chất, cô đã yêu một cảnh diễn hơn là một con người. Sau đó, xung năng ấy được giữ gìn luôn tươi mới và sống động bằng những khó khăn triền miên mà cô gặp phải. Do đó, quyết tâm của cô gái trẻ đã được thể hiện qua mọi hình thức cổ điển của các trò ve vãn, giao cấu, tự tử, tái hợp, lăng nhục, tóm lại là tất cả những cung bậc, trạng thái thường cho phép những kẻ bệnh hoạn gọi thái độ ương bướng khốn khổ này là một mối tình vĩ đại.
Ham muốn tồn tại được nhờ không thỏa mãn, Hitler có biệt tài duy trì được một ham muốn bất tận. Eva chẳng bao giờ đạt được điều gì, hoặc có chăng thì cũng nhỏ giọt. Không hề nuông chiều quá mức hoặc kể cả làm vừa lòng cô, hắn liên tục giữ Eva trong một trạng thái thèm khát. Một ít tiền, một vị thế mong manh, không được xuất hiện trước công chúng, không bao giờ được âu yếm.
Một đêm nọ, họ đã ngủ cùng nhau. Đó là ít lâu sau khi Hitler trở thành thủ tướng, xóa bỏ tự do báo chí và thiết lập chế độ độc đảng. Họ đã uống sâm banh, Hitler nằm lên người Eva, quần áo họ nhàu nhĩ, đã có vài sự co giật ở đâu đấy và Hitler lãng quên mình trong thân xác Eva. Đêm ấy, Eva ngỡ rằng mình đã chiến thắng. Về phần mình, Hitler rút ra kết luận từ đó là hắn vĩnh viễn khinh bỉ Eva, hắn cũng khinh bỉ thân thể chính mình như thế, hoàn toàn như thế. Tình dục cũng giống như mọi dạng thức vật chất, xác thịt hay chất lỏng, thuộc về những cái hắn được nhận và sẽ bị lấy lại, tóm lại là những cái sẽ thoát ra khỏi hắn. Hắn chỉ yêu mỗi tinh thần của mình. Như vậy, ở tuổi bốn mươi tư, hắn đã có kinh nghiệm tình dục đầu tiên và với hắn, đó là một lúc thiếu kiềm chế. Đêm đó, hắn đã hiểu là tại sao mình đã coi nhẹ việc đó đến chừng ấy, hắn lấy làm mừng vì điều đó và kết luận rằng hắn thực sự là người xuất chúng.
Thỉnh thoảng, hắn lại có một lúc lơi lỏng như thế. Hay đúng hơn là hắn muốn kiểm tra lại. Hắn nằm lên Eva Braun. Hắn siết lấy cô trong bóng tối vì hắn sợ rằng khi thực sự nhìn thấy điều mình đang làm, hắn sẽ hoàn toàn ghê tởm hành động này; hắn đặc biệt e sợ hình ảnh của cái bộ phận sinh dục tham lam của đàn bà. Trong cơn cực khoái của mình, Eva Braun, người con gái ấy, có vẻ như đang cảm thấy hạnh phúc tột đỉnh. Càng tốt! Cô ta vẫn đê mê hàng giờ thậm chí hàng ngày sau đó. Sự chênh lệch về độ thỏa mãn này giữa hắn và cô giúp Hitler khẳng định rằng đàn bà là một giống vật hạ đẳng.
Buổi tối, hắn rời nhà đi ăn với những người quen biết vì hắn ghê sợ những khuôn mặt mới. Hắn tha hồ nói về những thứ mình thích, nghệ thuật, sân khấu, lịch sử. Cuối cùng, hắn chọn một bộ phim trong danh sách của người cung cấp phim, Goebbels, và mọi người cùng đến xem phim trong phòng nhạc, kể cả đám người hầu và lái xe của những vị khách mời. Hắn đặc biệt thích chuột Mickey và Greta Garbo. Sau đó, tất cả nói chuyện tới hai giờ sáng cho đến khi Hitler về phòng.
Tất cả đều mang tính xã giao, nghi lễ, hình thức. Hitler chặt bỏ mọi liên hệ dù nhỏ nhất theo kiểu người với người. Hắn cai trị. Hắn thống trị. Hắn không hạnh phúc vì điều ấy, hắn hài lòng vì điều ấy bởi thế giới đã được thiết kế để hoạt động như vậy, với hắn ở trung tâm.
Hạnh phúc ư? Ý nghĩ mới nực cười làm sao! Có ai lại đi hỏi mặt trời có hạnh phúc không?
o O o
- Sau bốn mươi tuổi, người nghệ sĩ không còn ảo tưởng về mình. Anh ta biết mình là một nghệ sĩ lớn hay nhỏ.
Những khuôn mặt non tơ say sưa dõi theo Adolf H. Những giờ giảng của ông ở Học viện độc lập Berlin lúc nào cũng đầy ắp người. Người ta đánh giá cao quan điểm cởi mở của vị giáo sư này về nghệ thuật và thời đại ông đang sống. Người ta có thể học ở ông từ những kỹ thuật cổ điển cho đến những trào lưu hiện đại vì ông giảng giải với kiến văn rộng rãi có được trong thời gian sống ở Paris. Picasso, Braque, Léger, Soutine, Chagall, Modigliani, Foujita, van Dongen, Dali, ông đã gần gũi những nghệ sĩ lớn nhất của thời đại và ông nói về chuyện đó với một sự giản dị, gần gũi, thân mật mà riêng bản thân nó đã đủ đảm bảo cho ông một danh tiếng bất tận.
- Lúc hai mươi tuổi, mọi chuyện như trong mơ, treo lơ lửng trên những tầng mây. Năm bốn mươi tuổi, một phần trong số các giấc mơ của ta đã trở thành phần hữu cơ trong cuộc sống. Ta đã vẽ, đã sản xuất những tác phẩm nghệ thuật, đã có thời gian để nhầm, để rút ra bài học kinh nghiệm, ta đã có được niềm vui là đã đẩy ra xa hơn những ranh giới của mình. Ở tuổi bốn mươi, kỹ năng vẽ của người họa sĩ cũng đã thành thục và năng lượng vẫn còn nguyên vẹn: cuối cùng, ta cũng biết mình và biết cái mình còn có thể làm được. Nếu ta chưa làm được một kiệt tác hay kể cả bắt đầu một kiệt tác thì cố nữa cũng chẳng để làm gì.
Giọng Adolf run lên vì xúc động. Hắn không biết tại sao mình lại đề cập đến chủ đề này, nhu cầu phải bộc lộ đã mạnh hơn hắn, hắn tự mình thổ lộ ra những điều mình nghĩ. Một cảm giác u buồn đau đớn xâm chiếm hắn. Còn những sinh viên của hắn, họ hiểu rằng mình không còn đang theo dõi một giờ giảng nữa mà đang nghe những lời tâm sự chân tình. Họ biết rằng thầy giáo của họ là họa sĩ trong những năm hai mươi và vì những lý do chưa được biết đến, ông đã từ bỏ nghiệp vẽ khi quay trở về Đức. Không ai từng có dịp được xem các tác phẩm của ông nhưng rất nhiều người thấy tên ông thường xuyên được dẫn ra trong các cuốn danh mục và các bài báo về trường phái Paris, và một huyền thoại đã hình thành trong trường theo đó Adolf H. là một họa sĩ thiên tài nhanh chóng nổi danh rồi giam kín mình trong im lặng do một nỗi thất vọng huyền bí. Ngày hôm ấy, đám sinh viên dỏng tai lên để nghe bởi họ đoán rằng có thể mình sẽ tìm được chìa khóa giải cho bí ẩn này.
- Đúng thế. Khi một họa sĩ chưa thành tài, người ta bỏ qua việc nét vẽ chưa được rắn rỏi, màu sắc còn e dè, bố cục chưa sắc nét. Đành rằng có những quái kiệt như Picasso hay Bernstein, ở tuổi mười bảy đã đạt tới mức thượng thừa. Nhưng, trước những thành công hiển nhiên này, ta tự nhủ rằng họ sinh ra đã là thiên tài với những năng khiếu thiên bẩm của họ trong khi những người khác mất hàng năm trời để có được những phương tiện thiên tài của mình. Ta chờ đợi, vì thế ta hy vọng. Ta tự hỏi mình sẽ đẻ ra cái gì. Công việc sáng tác sẽ mang lại những gì? Một đứa trẻ đẻ non? Hai đứa trẻ đẻ non? Ba lần sảy thai? Không quan trọng. Cần phải tiếp tục. Người ta phải tự đẻ ra đứa bé. Ta có hẹn với một người không quen biết ở nơi xa xôi, đó là họa sĩ mà ta sẽ trở thành. Ở tuổi bốn mươi, đứa trẻ đã ra đời. Với một số người, đó là một sự ngạc nhiên lớn, là một người khổng lồ. Với một số người khác, thật dễ chịu, đó là một sinh vật sống. Với một số người, thật là một thảm kịch, đó là một đứa trẻ chết ngay lúc sinh ra, một thi thể nhỏ bé nằm lại trên tay họ và hất tất cả những cố gắng trong nhiều năm ròng của họ xuống sông xuống bể.
Adolf có cảm giác máu đang thoát ra khỏi cơ thể như thể hắn vừa tự cắt đứt mạch máu trong một bể nước nóng; tuy thế, sự thẫn thờ này mang lại cho hắn một cảm giác thoải mái, mơ hồ, gần như sung sướng, đến mức hắn để mình nói thoải mái, không giữ gìn gì nữa.
- Tôi là một người trong số đó. Những kẻ bất đắc chí. Những kẻ tuyệt vọng. Tôi đã dành nửa đầu cuộc đời mình để chạy theo một giấc mơ của chính mình, cái sau đó đã cho thấy chỉ là một ảo ảnh. Bất kể việc tôi đã làm việc nhiều, nghiêm túc, bất kể những thành công mà giới phê bình dành cho tôi và những thành công vật chất trong một thời gian, ở tuổi bốn mươi, tôi đã nhận ra rằng mình không phải là một họa sĩ lớn. Thậm chí một bậc thầy nhỏ cũng chẳng phải. Thực chất, tôi chẳng là gì. Chỉ là một cái bong bóng.
Đám sinh viên muốn phản đối, hoặc vì lòng tin của mình vào thầy, hoặc vì thương cảm, nhưng thấy thầy giáo khi dốc bầu tâm sự trở nên mỏng manh và trần trụi đến nhường nào, họ đành giữ im lặng.
- Vậy là, vì yêu hội họa cuồng nhiệt, vì tôi yêu nó hơn nó yêu tôi, tôi đã quyết định trở thành giáo viên. Giảng viên của các bạn. Truyền đạt lại. Tôi đã tìm thấy vị trí của mình. Và giờ đây, tôi là người hạnh phúc.
Nhưng khi nói đến chữ “hạnh phúc”, nước mắt trào ra trên khóe mắt Adolf H. và buộc hắn phải chạy nhanh khỏi bục giảng.
o O o
- Chuyện như thế không thể tiếp diễn được!
Hitler tỏ ra cực kỳ bực dọc từ khi hắn thức dậy. Những bài điểm báo ngoại quốc sáng nay làm hắn điên tiết: “điên, thiếu quyết đoán và vô hại”, đó là những từ ngữ mà báo chí đã dành để nói về hắn. Thông thường, hắn sung sướng khi nghe những lời đánh giá tầm phào vì nhầm lẫn bao giờ cũng che chở cho chân lý như bộ áo giáp bảo vệ chiến binh, nhưng sáng hôm đó, lòng kiêu ngạo của Hitler đã bị đụng chạm. Tại sao? Đêm trước, hắn ngủ không ngon, khốn khổ vì những cơn đau buốt nhói và bồng bềnh trong dạ dày, điều này làm cho hắn một lần nữa tin chắc là hắn đang bị căn bệnh ung thư nuốt chửng như mẹ hắn. Hắn tin là chẳng chóng thì chầy mình sẽ chết.
Như góp phần đẩy tâm trạng cáu bẩn của hắn đến giới hạn cuối cùng, Eva Braun ra khỏi phòng mình, đẹp hơn bao giờ hết - hôm đó cô để mái tóc vàng tẩy màu - đến bên Hitler, cọ mình vào người hắn để nhắc nhở đến điều đã xảy ra hai đêm trước.
- Bao giờ ngài cưới em?
- Ta sẽ cưới em khi không còn bất kỳ tương lai chính trị nào nữa.
- Nhưng ngài đang chẳng có hết tất cả rồi ư! Quyền lực trọn vẹn. Cả nước Đức đang quỳ dưới chân ngài. Cả em nữa.
- Chỉ quyền lực thôi thì không đủ. Ta có một sứ mệnh. Em nghĩ là ta giống như những kẻ ngu đần, một khi đã ngự trên ngai vàng liền lấy làm hài lòng và chỉ còn nghĩ đến việc ngồi mãi ở đấy ư? Em nghĩ là ta sẽ khoanh tay bất động ư?
Eva Braun không nói được câu nào; cô cứ ngỡ rằng Hitler đã được thỏa mãn với sự độc tài của mình. Phừng phừng lửa giận, Hitler sập cửa bỏ đi.
Hắn cho gọi bác sĩ riêng đến. Bác sĩ Morell, phúng phính, đẫy đà, đảm bảo với hắn rằng chế độ ăn chay của hắn giúp loại trừ gần như hoàn toàn khả năng một chứng ung thư có thể phát triển. Khi hiểu rằng tay bác sĩ nói lung tung cốt để trấn an hắn, trả lời nỗi lo lắng của hắn mà không mảy may chú ý đến những triệu chứng và biểu hiện về mặt thể chất, hắn đuổi ông ta ra và yêu cầu đám thư ký gọi nhà chiêm tinh của hắn đến.
Chuyên gia giải mã thông điệp của các vì sao đến gặp hắn trong vườn kính.
- Hãy nói thật cho tôi biết, tôi có thể nghe. Tôi biết là mình sẽ không còn sống được bao lâu nữa.
- Ấy ngài đừng nói vậy...
- A, đừng có nói với tôi như những tay bác sĩ ngu xuẩn nữa. Tôi bị ốm và họ từ chối không thừa nhận điều ấy. Hôm nọ, ông đã ghi một điểm: ông đã nói năm xảy ra chiến tranh. Năm 1943. Điều này hoàn toàn phù hợp cho tôi.
- Tôi có thể nhầm thưa ngài...
- Im đi! Phải nói hết cho tôi. Ông là người có tài tiên tri, tôi có tài cứu được nước Đức, chúng ta chẳng có tội tình gì, chúng ta là như vậy, đó là số mệnh của chúng ta. Bây giờ hãy nói cho tôi biết bao giờ tôi chết.
- Nhưng...
- Nói!
- Mười lăm giờ hai chín phút.
Hitler sững lại. Mặt hắn cắt không còn một giọt máu. Hắn lo lắng nhìn quanh.
- Hôm nay hả?
- Không. Còn rất lâu thưa ngài. Nhưng các vì sao đảm bảo với tôi là mười lăm giờ hai chín phút. Thật kỳ lạ phải không ạ?
- Khi nào?
- Sau này.
- Khi nào?
Nhà chiêm tinh im lặng, khổ sở, vặn vẹo người và đưa mắt tìm một cứu cánh.
- Khi nào?
Hitler hét lên. Ông thầy bói run lên bần bật.
- Tôi... tôi cần phải về nhà xem lại bản đồ thiên tượng.
- Tôi cho ông hai giờ đồng hồ. Sau bữa ăn, vào lúc uống trà, tôi muốn ông cho tôi biết ngày chết của tôi. Hiểu chứ?
- Hiểu ạ.
Hitler không nghe những người khác nói gì trong suốt bữa ăn, hắn để mặc cho Gôring má phệ thế vai mình trong một cuộc độc thoại mà hắn không bỏ vào tai một từ nào.
Vào giờ dùng trà, nhà chiêm tinh quay trở lại và ngồi một mình với Hitler trong khu vườn kính của Dinh quốc trưởng.
- Thế nào?
- Ngài có sẵn sàng nghe sự thật không ạ?
- Có. Nói nhanh lên.
- Tôi đã biết giờ và năm. Không biết ngày nào, tháng nào.
- Tốt. Nói nhanh lên.
- Mười lăm giờ hai chín phút...
- Rồi, biết rồi.
- Năm 1947.
Hitler ngồi phịch xuống sau cơn sốc dữ dội. Mười năm!... Hắn chỉ còn mười năm nữa thôi.
- Tất nhiên, tôi có thể nhầm, nhà bói sao lúng búng khi thấy Hitler lả đi như vậy.
- Không, ông không nhầm đâu. Vả lại, tôi đã biết trước điều đó rồi.
1937-1947. Mười năm. Hitler thử mò mẫm trong đầu mình bề dày của mười năm sống nhưng không được;không có điểm nào chung giữa mười năm đầu tiên khi mới được sinh ra, khoảng thời gian bao la như đạidương với hắn, với con suối nhỏ hẹp của mười năm bận rộn với việc giành chiếm quyền lực.
Mười năm... Còn mười năm nữa...
Hắn cảm ơn nhà chiêm tinh và đi gặp kiến trúc sư của mình.
Khi nhìn thấy Speer, chàng thanh niên lịch lãm, quyến rũ, môi đẹp như vẽ, căng mọng như môi thiếu nữ, lông mày rậm và tinh nghịch, Hitler chợt rúng động.
“Chính là ta đây, hắn tự nhủ, ta hồi trẻ đây.”
Hắn quen Speer từ nhiều năm nay nhưng chỉ tới hôm nay sự tương đồng mới đập vào mắt hắn.
“Đúng, đó là ta! Chân dung của ta! Đó có thể là con trai ta.” Hắn khoan khoái nhắc lại điều ấy mà quên rằng Speer đẹp trai bao nhiêu thì Hitler tầm thường bấy nhiêu. Hắn luôn luôn thích thú những giây phút ngồi bên kiến trúc sư của mình, những cuộc tranh luận say mê quanh những bản vẽ và sơ đồ. Speer là một nghệ sĩ, như hắn. Anh ta có thể trở thành người kế nghiệp ta. Anh ta còn hơn là Gôring, cái đống mỡ kinh tởm nghiện thuốc phiện ấy. Ý nghĩ về người kế nghiệp mình làm hắn sung sướng vì hắn thấy trong đó cơ hội làm cho người này phải ganh tị với người kia. Sau này. Ta còn mười năm nữa...
Speer mang cho hắn xem bản ma két của Berlin mới, Berlin của Đệ tam đế chế, tập hợp của những công trình hoành tráng cho các thế kỷ sau biết về sức mạnh chính trị của Hitler, những đại lộ thênh thang, quảng trường vĩ đại tỏa ra bốn phía, những tòa nhà trụ sở cho các bộ. Cả hai chiêm ngưỡng những tòa kim tự tháp của chủ nghĩa quốc xã. Đỉnh cao là tòa Nhà Vòm, tòa nhà nghị viện mà Hitler, vốn dị ứng với chế độ đại nghị, coi đó như một căn phòng khổng lồ cho hắn diễn thuyết hơn là nơi thảo luận, tòa nhà mà hắn đã phác thảo vào năm 1925. Albert Speer đã phát triển từ bản vẽ phác ấy và ghi ra bên cạnh: “Thiết kế theo ý tưởng của Quốc trưởng,” điều này làm Hitler ngây ngất đến mức diễn vai người khiêm tốn.
- Không, không, anh phải ký tên Albert Speer vào, chính anh mới là nhà kiến trúc, sự đóng góp của anh giá trị hơn bản phác thảo năm 1925 của ta nhiều, đó chỉ là mấy đường nguệch ngoạc mà ta đã vẽ trong tù để khỏi phải suy nghĩ thôi.
Speer đỏ mặt, Hitler cũng vậy. Mọi chuyện tiến triển theo hướng tốt đẹp nhất.
Tòa Nhà Vòm sẽ là phòng họp lớn chưa từng có. Hình dáng của tòa nhà đơn giản nhưng kích thước của chúng làm thành một bài thơ say lòng người: một mái vòm đường kính hai trăm năm mươi mét, cao hai trăm hai mươi mét, vươn đến tận mây; nó có thể chứa một trăm tám mươi nghìn thính giả khi Hitler diễn thuyết ở đó, tức có sức chứa gấp mười bảy lần quảng trường Saint-Pierre ở Roma; một trăm cột trụ vuông bằng đá cẩm thạch cao tám mươi mét; một cái tổ cao năm mươi mét và rộng hai mươi tám mét; một con đại bàng đế chế mạ vàng cao mười bốn mét đang quắp lấy một chữ thập ngoặc được trang hoàng bằng những chiếc lá sồi; vòm của tòa nhà được xây trên một khối vuông bằng đá hoa cương màu sáng dài ba trăm mười lăm mét và cao bảy mươi tư mét, thể tích của công trình này chiếm hai mươi mốt triệu mét khối; từ bên ngoài, công trình có dáng vẻ của một ngọn núi xanh cao hai trăm ba mươi mét vì nó sẽ được phủ ngoài bằng những tấm đồng gỉ xanh; trên đỉnh là một nhà đèn ốp kính cao bốn mươi mét, trên đó cũngđặt một con đại bàng quắp chữ thập ngoặc, sẽ hoàn thiện vẻ huy hoàng của công trình.
Hitler xúc động mạnh. Ảo tưởng của hắn sắp trở thành hiện thực. Đã nhiều lần, hắn quyết định nâng cao các con số; đã nhiều lần, hắn tống cổ viên cố vấn cấp bộ tên là Knipfer, chuyên gia phòng không, người đã than vãn rằng một công trình vươn tới những tầm mây thấp được xây dựng giữa thủ đô sẽ là điểm mốc lý tưởng cho không quân địch oanh tạc; đã nhiều lần, hắn nhún vai gạt đi những ý kiến nghi ngờ đây là một ý muốn ngông cuồng. Tòa Nhà Vòm là minh chứng cho sự vĩ đại của nước Đức, không phải của Hitler. Còn hắn vẫn giữ vẻ tự nhiên và khiêm tốn như những lời rao giảng của Goebbels, chỉ ở trong một ngôi nhà nhỏ giản dị.
- Anh thấy không, Speer thân mến, ta đã có đủ sức mạnh và sự tôn trọng để không cần đến sự hỗ trợ của công trình xa xỉ này. Nhưng những người kế nhiệm ta thì sẽ rất cần đến sự huy hoàng này. Với nhiều người trong số họ, đó thậm chí sẽ là cách duy nhất để trụ lại; ngay cả một cái đầu thiển cận cũng sẽ được lợi từ một sự sắp đặt như vậy. Khi những nơi này khoác trên mình một quá khứ mang tính lịch sử, một sự vĩ đại thực thụ, chúng thậm chí sẽ nâng giá trị cho một người kế nhiệm không mấy nổi bật. Như anh thấy đấy, đó chính là lý do chúng ta phải xây dựng tất cả những thứ đó khi ta còn sống: việc ta đến sống ở đó sẽ mang vàng ròng và vẻ tráng lệ cho những bức tường nơi đó. Ngay cả khi ta chỉ ở đó vài năm, cũng đã đủ rồi(31).
- Thưa Quốc trưởng, mục tiêu duy nhất trong đời tôi là được góp phần thực hiện, dù chỉ là chút ít, những ý tưởng thiên tài của ngài.
- Tốt. Bản vẽ đã xong, theo ước tính của anh là bao nhiêu?
- Năm tỷ mác.
- Không, ta hỏi bao nhiêu lâu.
- Nếu mọi chuyện suôn sẻ thì chúng ta có thể hoàn thành vào năm 1951.
Mặt Hitler tối sầm lại, lạnh lùng và xanh nhợt như đá lát mộ.
- 1951?
- Sớm nhất là vậy, thưa Quốc trưởng.
- Ta có điên không hả Speer?
- Dạ, Quốc trưởng bảo sao ạ?
- Ta hỏi anh có coi ta là thằng điên không?
- Thưa Quốc trưởng, tôi không biết mình đã nói gì để Quốc trưởng nghĩ là...
- Bởi anh có thấy không, Speer, nhiều người trên thế giới cho là ta bị điên. Vậy mà ta chưa thấy ai nhất quán và trung thành với ý tưởng của mình như ta. Ta không chỉ có mục đích rõ ràng trong đầu và bố cáo nó ngay khi bước vào chính trường, mà hơn thế, ta chỉ hành động theo những mục đích ấy. Người ta cho ta là kẻ lỗ mãng, hay nổi giận bất thình lình, người ta nói rằng ta hung tợn quá đáng, trong khi ta luôn sắp đặt rõ ràng và có phương pháp: đám cháy ở Reichstag(32), thiết lập chế độ độc đảng, Đêm dao dài(33), thiêu hủy sách, áp đặt cuộc sống nghiệt ngã cho bọn Do Thái, việc nào ta cũng tuyên bố rồi, chưa bao giờ ta nói khác cả. Ta mà hung tợn ư? Ta chỉ có sức mạnh của sự thẳng thắn thôi. Ta mà tàn bạo ư? Ta chỉ làm mỗi việc là nghĩ theo lô gích. Ta mà hoang dại ư? Ta đã hủy bỏ Hiệp ước Versailles và Hiệp ước Locarno mà các đối thủ không dám ho he gì. Ta mà nông cạn về mặt trí tuệ ư? Người Anh, người Pháp, người Mỹ, người Áo, người Nga thậm chí không dám nghi ngờ trí thông minh của ta. Hãy tưởng tượng cảnh một người sáng mắt cô độc giữa một đám mù xem: lũ mù sẽ không nghĩ là người sáng mắt có thể nhìn được, chúng đánh giá thấp anh ta, chúng sẽ không dự đoán được sức mạnh và khả năng gây phiền nhiễu của anh ta. Ta, Quốc trưởng của nước Đức, trong chính giới quốc tế ta là thế đấy: kẻ sáng mắt duy nhất giữa đám người mù. Điên! Anh hùng rơm! Vô hại! To mồm! Không nhất quán! Bọn ngớ ngẩn ấy mới đáng thương hại làm sao! Làm thế nào mà chúng có thể tưởng tượng được rằng nước Đức, nước Đức vĩ đại, nước đã có những người như Bismarck và Frédéric Đại đế, một ngày nào đó lại không có Adolf Hitler! Ta không thể chịu đựng thêm nữa, chuyện này không thể tiếp diễn được.
- Cái gì không thể tiếp diễn được ạ, thưa Quốc trưởng?
- Cái đó. Cơn ngủ mê này. Tiếng ngáy o o này. Cô nàng Eva Braun muốn cưới ta này. Dự án kiến trúc này. Ta còn chưa về hưu cơ mà.
- Thưa Quốc trưởng, tôi không hiểu. Ngài thất vọng vì bản vẽ của tôi ạ?
Dường như đột nhiên Hitler phát hiện rằng Albert Speer đang đứng trước mặt mình; hắn hốt hoảng nhìn chằm chằm vào mặt anh ta như thể anh ta vừa đột nhập vào phòng.
- Ta rất hài lòng về công việc của anh, Speer thân mến. Chúng ta sẽ xây dựng Berlin vĩ đại của Đệ tam đế chế. Nhưng anh phải đẩy nhanh tiến độ thi công, đó là tất cả những gì ta yêu cầu anh, đẩy nhanh tối đa tiến độ thicông.
- Tôi là người hạnh phúc nhất trên thế giới, thưa Quốc trưởng. Tôi có mười bốn năm lao động cật lực trước mắt mình, nhưng tôi là người hạnh phúc nhất trên thế giới.
- Hãy rút ngắn thời hạn thi công. Được năm 1947 thì tốt.
- Tôi sẽ cố gắng hết mình thưa Quốc trưởng. Năm 1947 ư? Tôi có thể làm được điều ấy nếu chúng ta không có chiến tranh.
- Chiến tranh? Tại sao anh lại muốn chúng ta có chiến tranh? Người Đức yêu ta vì ta đã mang hòa bình và thịnh vượng đến cho họ. Từ nay, ta chỉ nghĩ đến việc tiếp tục, đến việc xây dựng, và chuẩn bị sự kế nhiệm của mình. Tại sao anh lại muốn ta làm điều điên rồ là phát động một cuộc chiến?
Vừa ngay trước đó, hắn đã quyết định mở rộng không chậm trễ không gian sinh tồn của nước Đức, nó sẽ bao gồm Áo, Tiệp Khắc, Ba Lan.
Sau đó, để xem đã... Có thể là Pháp? Nga?
o O o
Adolf H. không chịu để người khác dẫn hai đứa con của mình đến quảng trường. Không ai trong số các cô hầu có thể cướp của hắn công việc mà hắn coi là thanh cao nhất. Vì hắn không chỉ bằng lòng đưa chúng đến đó và để mắt đến chúng, hắn còn chơi với chúng đến mệt rã rời mới thôi, chạy, đào bới, nhảy, trốn tìm, hành đến tơi tả chiếc xích đu đang kêu cót két mà không sợ trầy xước chân tay hay áo phông vướng vào bụi cây rách toác, cũng không sợ mông quần đen bẩn vì đất cát, đầu gối hằn vết cỏ bị giày, cũng không sợ cát lọt vào trong tất và túi mà sau đó còn rơi ra cả những nếp gấp trên đệm.
- Bố ơi, mình chơi trò mèo trèo cao nhé?
Adolf để cho hai đứa con sinh đôi Rembrandt và Sophie chạy đi.
Hắn hòa hợp với hai đứa con của mình đến mức cảm thấy e sợ khi nhìn chúng lớn lên. Ta sẽ vẫn xứng với chúng chứ? Hiện tại, ta là một người cha tốt vì chúng còn bé. Liệu sau này chúng có còn yêu ta như bây giờ nữa không? Chúng sẽ tôn trọng ta chứ? Chúng sẽ trở thành người như thế nào? Ta thì ta biết mình sẽ yêuchúng mãi mãi, nhưng còn chúng thì sao? Ta đã từng căm ghét cha mình.
Việc hắn yêu con tha thiết càng trở nên mãnh liệt hơn vì có cái gì đó tuyệt vọng trong tình cảm ấy. Hắn đã chấp nhận có chúng vào thời điểm hắn từ bỏ nghiệp vẽ. Sự lựa chọn cái thực tế. Đó là cách hắn thường tự giải thích về bước ngoặt mang tính quyết định này của đời mình. Sau khi Mười-một-giờ-rưỡi chết, suốt nhiều tháng liền, hắn không có khả năng cảm nhận, xúc động, suy nghĩ, hành động. Tá túc trong một căn xép nhỏ mà Neumann đã tìm được cho bạn, hắn ngồi lì hàng giờ trước cửa sổ, bất động, đờ đẫn, không ngạc nhiên trước điều gì ngoài việc nhìn thấy mặt trời có can đảm thức dậy mỗi buổi sáng. Xung quanh hắn, ban đầu người ta nghĩ rằng hắn chỉ buông cọ tạm thời. Người ta đã bỏ qua việc hắn tạm thời không làm gì vì cho rằng hắn quá đỗi đau buồn, vì thị trường tranh đã gần như đóng băng từ khi cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra, và vì người chủ gallery chính của hắn thờ ơ, chú trọng đến những nghệ sĩ sung sức hơn và có danh tiếng hơn. Người ta đoán già đoán non bởi không ai tìm ra được đâu là lý do thực sự. Nhưng hắn, dù suy nghĩ rất ít, chỉ chiêm ngưỡng mặt trời hiện lên rồi lại biến mất mỗi ngày, biết rằng có cái gì đó đổ vỡ mà không lấy lại được. Cái gì vậy? Ảo ảnh trữ tình? Nhu cầu biểu đạt? Ý chí thành công? Không. Chỉ đơn thuần là ham muốn.
Ham muốn được vẽ, đến bây giờ hắn vẫn có ham muốn ấy, ở Berlin, hắn vẫn còn miệt mài với nghiệp vẽ trong các giờ giảng. Nhưng ham muốn làm họa sĩ trong hắn thì không còn. Vĩ đại hơn chính mình, mở rộng đường biên năng lực của mình, vật lộn với chất liệu nổi loạn trên toan và sự quẫn bách tinh thần, hắn không còn muốn sống trong những cảm giác ấy nữa. Hắn thích hạnh phúc hơn. Ngay cả khi trong hạnh phúc có pha vị cay đắng.
- Thế nào đấy bố ơi, bố mơ à?
Cô bé kéo tay hắn.
- Mèo! Con chạm vào bố rồi nhé. Đến lượt bố.
Hắn cười thừa nhận rằng mình đã thua cuộc.
- Bây giờ, chúng ta đến chỗ thuyền cát nhé?
- Ôi vâng!
Rembrandt và Sophie nhảy cẫng vì sung sướng. Bố của chúng làm mọi người trên thuyền ngưỡng mộ vì bố biết vẽ những hình đẹp rực rỡ trên cát. Bố làm họ sửng sốt và cùng lúc, làm cho chúng có dịp lên mặt với đám bạn.
Adolf vẽ ngẫu hứng một con thiên nga rồi một con rồng rồi một đàn chim hạc làm thành một đám mây hồng. Mỗi lần như thế đám trẻ và bố mẹ đều vỗ tay tán thưởng.
Khi ấy, Adolf vẽ ra một cảnh tượng thực sự: một cuộc chiến của những con kỳ lân, những con quái vật Goóc-gôn(34) chống lại bầy nhân mã. Cử tọa chăm chú theo dõi đến nín thở.
Một người đàn bà lại gần, cao lớn, mềm mại, tóc tết, kết lẫn ít nhất ba màu tóc vàng khác nhau.
Nàng nhìn bức tranh đang được hình thành và buồn bã thì thầm khi Adolf đi qua trước mặt mình:
- Em ước gì anh không chỉ vẽ trên cát.
o O o
Khi rời khỏi cuộc họp với các tư lệnh quân đội ngày 9 tháng Mười một năm 1937, Hitler biết việc còn lại mình phải làm là gì. Dọn dẹp! Hắn đã phát biểu một bài ngắn trong vòng hai tiếng để giải thích tính chính đáng của những yêu sách về lãnh thổ của Đức nhằm mở rộng không gian sinh tồn, nếu không làm như vậy kinh tế, nông nghiệp và sự ổn định xã hội của nước Đức sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Hắn đã phác thảo nhiều kế hoạch khác nhau khi nói về Áo, Tiệp Khắc, Ba Lan. Hắn chủ ý diễn đạt một cách không rõ ràng bởi hắn muốn thử phản ứng của những người đối thoại, sự mập mờ cho phép hắn phát hiện ra những cái mà họ nghĩ rằng họ hiểu trong khi họ không hiểu gì, làm lộ ra hay đánh bật những lo ngại thầm kín của họ khỏi chỗ nấp. Cuộc đi săn mang tính chất quyết định: cần phải loại bỏ tướng Blomberg và tướng Fritsch.
Những viên sĩ quan truyền thống này leo lên được những cấp bậc cao nhất nhờ thâm niên công tác và sự dũng cảm, một sự nghiệp không có mối liên hệ gì với chủ nghĩa quốc xã, đã dám tỏ ra nghi ngại và phản kháng. Họ cho rằng việc sử dụng vũ lực là quá sớm và e ngại một cuộc trả đũa của nước Anh sẽ kéo nước Đức vào chiến tranh. Tóm lại, họ phản đối chính sách của Hitler.
Hitler đã tỏ ra rất cởi mở, sẵn lòng dung hòa quan điểm và làm vẻ chấp nhận thảo luận cũng như những lời phê bình. Hắn tươi cười. Hắn để họ chui vào bẫy của mình. Hắn thậm chí đã làm một việc xa xỉ là tỏ ra nồng nhiệt vào cuối buổi họp, khẩn khoản yêu cầu tướng Fritsch đừng hủy kế hoạch đi nghỉ mát của mình.
Hắn cần phải hành động một cách kín đáo. Hắn không thể loại bỏ họ như đã làm với tướng Rôhm, một con người thích làm tình qua hậu môn, đầy tham vọng, trong Đêm dao dài vào năm 1934. Bây giờ, cả thế giới đang dõi mắt theo hắn và việc dùng vũ lực một cách lộ liễu để xử lý những vị tướng cứng đầu sẽ ngay lập tức làm cho kẻ thù hiểu rằng họ phải tăng tốc quá trình tái vũ trang.Không bao giờ lặp lại hai lần cùng một thứ, không bao giờ hai lần. Hắn hớn hở. Việc chuẩn bị một cú chơi khăm làm hắn phấn chấn. Một cơn mưa rào mang đến sự tươi trẻ.
Vụ việc xảy ra chỉ vài tuần sau đó.
Một hôm, tướng Blomberg, góa vợ, đã có năm đứa con, tất cả đều đã trưởng thành, gặp một người đàn bà xinh đẹp tên là Margarethe Gruhn trong công viên, trẻ hơn ông ba mươi lăm tuổi, và ngay lập tức ông bị choáng ngợp bởi một niềm đam mê xác thịt mạnh mẽ. Điên lên vì si mê, tạ ơn Trời vì đã mang đến cho mình một cuộc phiêu lưu đẹp đến thế khi tuổi đã xế chiều, ông muốn cưới người đàn bà ấy và đến xin phép Hitler, tư lệnh quân đội tối cao. Quốc trưởng đã lắng nghe lời yêu cầu một cách hào hứng và thậm chí còn đề nghị đích thân làm chứng trong lễ cưới, với điều kiện lễ cưới phải được tổ chức một cách kín đáo; hắn thậm chí còn đề nghị Gôring làm người chứng thứ hai. Blomberg, trước đã bị cấp trên chế nhạo vì muốn cưới một cô gái quá trẻ lại chỉ là nhân viên đánh máy, nay phát khóc vì biết ơnQuốc trưởng, xúc động vì hai nhân vật quan trọng nhất của Đế chế đã tỏ ra ưu ái đến thế với mình khi bỏ ngoài tai những định kiến xã hội. Lễ cưới được tổ chức vào ngày 12 tháng Giêng năm 1938, tại Bộ Chiến tranh với lượng khách mời đặc biệt hạn chế và kín đáo.
Mười ngày sau, Hitler có trong tay một hồ sơ gây chấn động: hồ sơ của Margarethe Gruhn, giờ là phu nhân tướng quân Blomberg, trong đó đầy những bức ảnh khiêu dâm mà cô đã chụp vài năm trước cho một tay người Do Thái gốc Séc cũng như phiếu hành nghề mại dâm của cô ở Berlin.
Hitler khoái trá đóng vai mình phải diễn. Hắn thật vĩ đại. Hắn kể rằng đã không chợp mắt được suốt đêm, đi đi lại lại trong phòng, tay chắp sau lưng và than thở “nếu một vị tướng Đức cưới một con đĩ thì chẳng có chuyện gì trên đời không thể xảy ra!”, cho bọn gia nhân phao tin là hắn đã tắm bảy lần để gột rửa nỗi ô nhục vì đã hôn tay tướng Blomberg. Hắn cũng chơi cả lá bài tuyệt vọng và sỉ nhục: “Ta đã sắm vai người làm chứng trong đám cưới của một con điếm”. Sau đó là lá bài buồn bã và u sầu cho ông bạn Blomberg: “Ông ấy sẽ tự tử, chắc chắn là như vậy, khi biết vợ mình là ai và mình đã bị lừa như thế nào, việc làm của mình đã đặt Bộ chỉ huy quân sự tối cao của Đế chế trong tình thế khó xử ra sao, ông ấy sẽ tự tử bằng súng lục, đó là giải pháp duy nhất. Một sự lãng phí mới đáng buồn làm sao!” Khi hắn đã làm đủ để giải pháp trở nên rõ ràng với mọi người, hắn cử Gôring đến nhà Blomberg vì nghĩ rằng vụ tự tử đã diễn ra vào buổi tối.
Trước sự ngạc nhiên tột độ của hắn, Blomberg xuất hiện bình an vô sự vào sáng hôm sau. Hắn buộc phải tiếp ông ta.
- Tôi biết mình cưới ai, thưa Quốc trưởng, nhưng niềm đam mê của tôi quá lớn. Giờ đây nó vẫn lớn như thế. Tôi không thể rời xa người đàn bà này được. Tôi điên lên vì cô ấy. Tôi xin từ chức. Tôi sẽ đi Ý.
Hitler tỏ ra tuyệt vời trong vai hiểu rõ những đau đớn dằn vặt của tình yêu. Hắn trấn an vị tướng rằng việc từ chức của ông chỉ mang tính tạm thời; ngay khi sự việc trôi vào quên lãng, ông ta sẽ được phục chức. Để chứng minh tình bạn của mình, hắn thậm chí đã tặng năm mươi nghìn mác và toàn bộ tiền lương hưu cho vị tướng. Blomberg rời Dinh quốc trưởng mà không một giây nghi ngờ rằng mình đã bị xỏ mũi.
Vụ của Fritsch, Tư lệnh lục quân, cũng được sắp đặt êm thấm. Himmler trình cho Hitler một hồ sơ trong đó nói bóng gió rằng một tay điếm đực trẻ tuổi người Berlin tên là Otto đang tống tiền tướng Fritsch khi đưa ra những chứng cớ về những cuộc phiêu lưu tình ái đồng tính của ông ta năm 1933. Lại một lần nữa, Hitler giả bộ không thể tin vào điều đó. Tướng Fritsch, khi biết tin, xin giải trình và được Hitler đồng ý tiếp trong thư viện của hắn. Xuất phát từ quan điểm không có lửa làm sao có khói, ông ta đã suy nghĩ và lục lọi trong quá khứ của mình. Chắc chắn tay điếm đực Otto đã bêu xấu thanh danh của ông khi nói đến những quan hệ gần gũi sâu sắc giữa ông và một thành viên của Đoàn thanh niên Hitler vào năm 1933. Việc tự bào chữa của tướng Fritsch đã gây ra một hiệu ứng đầy tai họa. Người ta cho gọi Otto, tay điếm đực, đến thư viện và tay này, theo đúng bài người ta đã trả tiền cho hắn nói, đã xổ ra những lời bẩn thỉu về viên Tư lệnh lục quân và gã người tình xinh xắn của ông ta vào thời ấy. Ai là người đáng tin hơn, một nhân vật khả kính hay tay lính đánh thuê tình dục được ra tù một đêm? Tướng Fritsch từ chức và Hitler buộc phải cải tổ lại cơ cấu lãnh đạo của quân đội: để tránh một vụ xì căng đan mới và thoát khỏi một vụ khủng hoảng trên diện rộng, đích thân Hitler lãnh đạo quân đội Đức - Wehrmacht và không bổ nhiệm bất cứ người kế nhiệm nào tại Bộ chiến tranh.
Cho đến lúc này, mọi cái gai trong quân đội đã bị nhổ sạch, không ai có thể kìm giữ Hitler bằng những lời khuyên thận trọng nữa, vậy là Hitler đã có toàn quyền hành động.
Và hắn cũng cảm thấy ngứa ngáy lắm rồi...
o O o
Người sinh viên đứng đợi trong sân.
- Em không đồng ý với thầy, thưa thầy H.
Adolf H. không hiểu ngay ra người ta đang nói chuyện với mình. Hắn chiêm ngưỡng. Hắn không biết mình cần phải ngưỡng mộ cái gì nhất, chàng sinh viên tóc vàng với sắc da gần như phi thực như sắc màu trong tranh Raphael cách đây bốn trăm năm, hay cây hoa anh đào Nhật Bản, cái cây duy nhất trồi lên khỏi đường nhựa, vung vãi vào ánh nắng muôn ngàn cánh hoa màu hồng của nó.
Chàng sinh viên, lòng ngập tràn những điều chất chứa từ nhiều ngày nay, không để mất bình tĩnh bởi cái vẻ ngoài thản nhiên của ông thầy.
- Tại sao thầy lại nói mình là một họa sĩ tầm thường? Thầy có phải là người phán quyết chính xác hay không? Ai cho phép thầy làm điều ấy?
Adolf giật nảy mình trước cơn tức giận của người thanh niên.
- Heinrich, em bị làm sao vậy?
- Em phẫn nộ vì lời... thú nhận của thầy hôm nọ. Khác với các bạn mình, em đã có may mắn được nhìn thấy các bức vẽ của thầy.
- Ở đâu? Adolf hỏi giọng gay gắt như thể người ta mới nói với hắn rằng đồ đạc cá nhân của hắn vừa bị lục lọi.
- Ở Paris, ở nhà bá tước Beaumont. Ông ấy có ba bức. Em đã rất ấn tượng trước những bức tranh ấy - không dính dáng gì đến việc nó là của thầy - chúng đã làm em suy nghĩ, đặc biệt là bức Gã độc tài đồng trinh.
- Thế à?
Adolf không nhớ ra rằng bức tranh ấy đã được bá tước Beaumont mua. Thật buồn cười là điều đó lại làm hắn yên tâm. Hắn được biết rằng tác phẩm ấy được bảo quản ở nơi đáng tin cậy.
- Thầy H., em nghĩ là thầy đang tự dối mình khi nói rằng thầy đã từ bỏ hội họa vì thấy mình tầm thường.
- Không, tôi không dối mình và tôi không nhầm. Tôi thậm chí không phải là một bậc thầy cỡ nhỏ của chủ nghĩa siêu thực.
- Thầy không phải là người quyết định điều ấy! Heinrich hét lên.
Chàng thanh niên đỏ bừng mặt vì tức giận. Adolf chạnh lòng. Ta cũng vậy, ta cũng như thế ở tuổi này, không chịu lùi bước.
- Người ta không thể một mình làm nên cuộc đời mình, Heinrich tiếp. Không phải thầy là người tự ban cho mình cuộc đời của mình. Không phải thầy là người chọn những khả năng thiên bẩm của mình. Thầy có thể nghĩ là mình có khả năng âm nhạc nhưng hội họa lại thích thầy hơn và chính những người khác mới có thể cho thầy biết sự thực về thầy. “Không, anh không phải là nhà soạn nhạc cừ. Đúng, anh vẽ rất đẹp.” Thế giới thừa nhận thầy, chuẩn đoán thầy, định hướng cho thầy.
- Có thể, Adolf tư lự nói.
- Chắc chắn là như vậy! Thế mà thầy, cái mà thầy không còn chấp nhận trong cuộc đời thầy từ năm bốn mươi tuổi, chính là phần của kẻ khác.
- Đừng tuyệt đối hóa như thế Heinrich. Ngược lại, từ năm bốn mươi tuổi, thầy đã nhường chỗ cho người khác. Thầy đã có con và thầy yêu chúng. Thầy chú tâm dạy dỗ các học trò của mình.
- Thế thì sao ạ? Đó là kiểu “hoặc là... hoặc là...” ư? Hoặc là ta vẽ. Hoặc là ta sống. Cái này loại trừ cái kia?
- Không, Adolf ngần ngừ, thầy không nói vậy.
- Có đấy ạ. Ở tuổi bốn mươi, thầy quyết định có con và thầy quyết định không vẽ nữa. Thực chất, cái thầy muốn là được quyết định. Làm chủ cuộc đời mình. Thống trị nó. Bằng cách bóp nghẹt cái day dứt trong thầy và cái thầy không nắm giữ được. Rất có thể đó mới là cái quý giá hơn. Vậy đó, thầy đã xóa bỏ phần của kẻ khác trongmình cũng như ngoài mình. Và tất cả những cái đó là để có kiểm soát. Nhưng kiểm soát cái gì mới được cơ chứ?
- Heinrich, cậu có quyền gì mà nói năng với tôi như vậy?
Adolf đã hét lên, chứng tỏ câu nói ấy đã chạm đúng chỗ đau trong hắn.
- Quyền của người ngưỡng mộ thầy. Hay đúng hơn là không ngưỡng mộ. Của người ngưỡng mộ thầy giáonhưng còn ngưỡng mộ người họa sĩ ba mươi tuổi ký tên Adolf H. hơn.
Adolf chợt cảm thấy xúc động lạ kỳ. Hắn có cảm giác Mười-một-giờ-rưỡi đang chạy lại và nhảy lên ghì lấy cổ hắn.
Heinrich quay gót và nói câu cuối cùng:
- Tôi giận thầy tôi vì đã giết chết người họa sĩ ấy.
o O o
“Một dân tộc duy nhất, một Đế chế duy nhất, một lãnh tụ duy nhất!”
Hitler đi qua cây cầu nhỏ ở ngôi làng nơi hắn đã sinh ra, ngôi làng đã từng đánh dấu biên giới giữa Đức và Áo, từ nay chỉ còn là một con đường nhỏ liên xã trong một đất nước thống nhất. Chuông nhà thờ rung lên hối hả, hàng nghìn người hân hoan và cuồng nhiệt đứng đầy hai bên đường. Người ta tung hoa, kẹo, những dải giấy nhiều màu sắc về phía hắn, dàn kèn đồng chơi ngẫu hứng một bản tụng ca, người ta bế bổng những đứa trẻ xinh đẹp nhất lên cao để chào mừng.
Hitler vừa chinh phục nước Áo và hắn được tiếp đón như một vị cứu tinh. Braunau am Inn, cái thị trấn nhỏ đỏng đảnh nằm sát đường biên Đức-Áo này, nơi hắn được sinh ra và nơi hắn hình thành từ rất sớm ý tưởng không nên chia cắt hai đất nước, đang kiêu hãnh chào đón hắn như một vĩ nhân xuất thân từ địa phương mình.
- Ngài có muốn chúng ta dừng lại không ạ, thưa Quốc trưởng? Tướng von Bock cất tiếng hỏi, ông này đang ngồi bên nhà độc tài trong chiếc xe Mercedes và xúc động đến rơi nước mắt trước sự đón tiếp nồng nhiệt của dân chúng.
- Không, Hitler đáp khô khốc, việc chúng ta qua đây chủ yếu mang tính tượng trưng.
Thực ra, Hitler không còn nhớ bất cứ điều gì về Braunau am Inn. Điều hắn sợ hơn cả là phải gặp những người có ký ức nhiều hơn hẳn hắn. Và cũng không nên nhầm lẫn, hắn không phải là một vĩ nhân tỉnh lẻ mà là một con người vinh quang tầm cỡ thế giới: hắn không chinh phục Braunau am Inn, hắn xâm chiếm nước Áo.
Đoàn xe tiếp tục cuộc diễu hành chiến thắng của mình tới tận Linz.
Ở đó, Hitler mới thực sự xúc động. Hắn luôn thích Linz hơn Viên vì ở đây hắn đã được hạnh phúc bên mẹ. Màn đêm buông xuống, khi đám đông dày đặc và mê mẩn rầm rĩ hoan nghênh trên quảng trường bên chợ, hét lên“Heil” hay “Một dân tộc duy nhất, một Đế chế duy nhất, một lãnh tụ duy nhất”, hắn mới cảm thấy dòng nước mắt giàn giụa trên má mình và thấm ướt cả cái cổ áo cứng.
Từ ban công tòa thị chính, hắn để mặc mặt sùng tín trong tính cách của mình...
- Hôm nay, tôi biết rằng Định mệnh đã chọn tôi để đưa Tổ quốc của mình vào lòng Đế chế Đức. Các vị là những người đầu tiên được chứng kiến tôi hoàn thành sứ mệnh này.
Đám đông hăng say, cuồng nhiệt đến mức Hitler quyết định hoãn đến Viên để ở lại Linz một ngày.
Ban đêm, ở khách sạn Weinzinger, hắn không tài nào ngủ được, mặc dù mắt đang chăm chắm nhìn vào dòng Danube chậm rãi như ru. Sự việc diễn ra quá dễ dàng. Anh và Pháp đã xẹp hơi trước mặt ta! Ta có được Áo chỉ bằng những lời đe dọa. Không một viên đạn. Điều đó cho thấy việc ta làm hoàn toàn chính đáng. Ai cũng can ta đừng mạo hiểm làm việc đó. Ta đã quyết định cứ làm một mình. Và ta đã có lý. Từ nay, ta sẽ không nghe bất cứ ai. Ngày mai, ta sẽ đi thăm mộ cha mẹ ta. Sẽ rất đẹp. Goebbels đã hứa sẽ đưa đám nhiếp ảnh và quay phim đến. Đó là một hình ảnh rất đẹp, chinh phục nước Áo với một bó hoa trên tay. Rõ ràng đó chỉ rặt một lũ ngu, một lũ thỏ đế, một lũ đần độn. Không bao giờ nghe ai nữa hết. Không bao giờ.
Ngày hôm sau, cảnh tượng diễn ra thật nhàm chán, do Hitler đã tưởng tượng ra tất cả trong đêm nên mọi việc trên thực tế lại làm hắn thất vọng. Hắn chẳng cảm thấy gì khi đến thăm mộ cha mẹ mình; hắn thực hiện chuyến thăm viếng trước mắt các phóng viên như một diễn viên kịch câm, hoảng sợ vì nghĩ điệu bộ của mình không đủ thuyết phục, sau đó lại phải chịu đựng niềm vui và những kỷ niệm của người khác; hắn cảm thấy hoàn toàn dửng dưng.
Hắn lên đường đi Viên, nơi hắn được tiếp đón nồng nhiệt. Viên, thành phố đã sỉ nhục hắn, chối bỏ hắn, ném hắn ra đường, biến hắn thành kẻ ăn xin và bụi đời, thành Viên, nơi hắn đã phải chịu đói rét, nơi hắn nghi ngờ chính mình, thành Viên phù phiếm như xứ Byzantine, thành Viên Á đông, thành Viên Do Thái hóa, thành Viên lẳng lơ, lủng lẳng trang sức, thành Viên nằm lăn như một con mèo cái động đực dưới chân hắn. Đứng trên hai trăm năm mươi nghìn người đang rên lên sung sướng ở quảng trường Anh hùng, hắn thấy quá khứ, thấy những thất bại của mình chết đi, chứng kiến những kẻ đã từng xua đuổi mình đang khúm núm và hắn nhấm nháp, giữa hàm răng nghiến chặt, cái hương vị tuyệt hảo của máu đi kèm với cảm giác mê ly của sự hận thù. Ở Linz, hắn sung sướng vì niềm vui. Ở Viên, hắn sung sướng vì sựbáo thù.
Cuối buổi chiều, hắn dự một cuộc diễu binh rồi hội kiến ngắn với Hồng y Innitzer, cai quản giáo phận Áo, cùng các giám mục và tổng giám mục của ông ta, người mang tới cho hắn sự ủng hộ vô bờ của những người Công giáo Áo với chế độ mới. Trò hề, Hitler thầm nghĩ khi đứng trước vị Hồng y, ngươi không còn sắm vai quan trọng được lâu nữa đâu. Không có chỗ cho tôn giáo của ngươi trong nhà nước quốc xã. Đã đến lúc cũng phải làm cho Cơ đốc giáo chết đi. Năm năm nữa, người ta sẽ không thấy một cây thập tự nào nữa! Hắn nghiêng mình vài lần trước bộ quần áo màu đỏ sẫm rồi lên máy bay về Berlin.
Về lại Dinh quốc trưởng, hắn được báo cáo trong những ngày tiếp đó rằng Gestapo đã hoàn thành rất tốt nhiệm vụ ở Viên: họ đã lấy lại được những hồ sơ của cảnh sát, càn quét đám Xã hội và Cộng sản; các cửa hiệu và nhà ở của người Do Thái bị cướp phá, người Do Thái bị tước đoạt hết tiền, đồ trang sức, áo lông thú và bị tạm giam. Một làn sóng tự tử đến theo những động thái thanh lọc. Những người còn chưa bị động đến nhờ quy chế bảo vệ quốc tế như bác sĩ Sigmund Freud thì đang chuẩn bị ra đi. Như vậy, chế độ mới có thể chống kẻ thù từ bên trong một cách hữu hiệu hơn. Chiến tranh là điều kiện duy nhất đảm bảo tính lô gích và hiệu quả, Hitler vừa có được sự khẳng định ấy.
Rất nhanh, hắn bỏ qua Áo và không nghĩ gì đến nó nữa. Bây giờ, mối quan tâm của hắn chuyển sang Tiệp Khắc.
o O o
Biển hiệu ”Lạc viên”(35) trương lên không xa Bộ chiến tranh là mấy, nhờ đó thêm vào danh sách khách quen hay lui tới cửa hàng các tướng lĩnh và đô đốc, phu nhân các vị tướng, phu nhân các vị đô đốc, nhân tình của các vị tướng, nhân tình của các vị đô đốc. Cái tập hợp thượng lưu này mê đắm các loại nước hoa của SarahRubinstein, trước hết là bởi đó là các loại nước hoa hiếm có, sau là bởi giá bán cao ngất của chúng, cuốicùng là vì Sarah tự tay làm ra các sản phẩm ấy, theo một quy trình thủ công bằng hệ thống nồi đun và bình cổ cong ở phía sau cửa hiệu. Cửa hàng được dựng từ gỗ dát vàng và gỗ mun, với những chiếc lọ pha lê nặng nề có nắp đậy nhiều cạnh lóng lánh màu cầu vồng vĩnh cửu và trên nhãn ghi bằng nét chữ thanh tao những cái tên làm người ta mơ màng: Hoan thủy, Nước của Nàng thơ, Bóng soi Narcisse(36), Dòng lệ Echo(37), không lúc nào ngớt khách từ ngày mở cửa, những bộ quân phục cùng các tà váy thướt tha nối đuôi nhau giữa những bụm hơi nước nhỏ mùi đậu khấu, đàn hương và hoa hồng nghệ phụt ra từ những bình xịt khắp nơi.
Sophie và Rembrandt thực sự có cảm giác ở trong thế giới người lớn khi bước vào cửa hàng nước hoa. Bố chúng, với những hình vẽ của mình, giống một người bạn chơi thuộc về thế giới trẻ thơ bao nhiêu thì mẹ chúng, với những nhân viên, người bán hàng, người kế toán, người giao hàng của mình, những cuộc chiến đấu với dân bán hoa Hà Lan hay miền Nam nước Pháp để họ giao hàng đúng hạn, những chồng tiền xu và tiền giấy mà bà mang về nhà mỗi tối, những cuộc tranh luận om sòm với ông chủ nhà băng về hối phiếu, tín dụng và tỷ lệ lãi suất, lại thuộc về thế giới thực đầy hấp dẫn bấy nhiêu. Sarah Rubinstein trò chuyện với các vị bộ trưởng, các sĩ quan, các nhà quý tộc; nàng tán gẫu với vợ của họ; nàng thường xuyên biết trước cả cánh nhà báo những tin tức mà sau đó sẽ khiến mọi người bình luận xôn xao.
Adolf H. thích đi vào thế giới của vợ mình. Thế giới ấy còn xa lạ với hắn. Cả nàng nữa. Hắn ngưỡng mộ người đàn bà hiện đại, độc lập này; hắn biết ít về nàng và làm tình với nàng rất tuyệt vời; trong thâm tâm, hắn cảm thấy mình như một người tình hơn là chồng nàng, một người tình còn trong thời gian tìm hiểu, khám phá, một người tình không quen thuộc. Hắn tự nhủ rằng một ngày nào đó hắn sẽ hiểu nàng rõ hơn, rằng hắn còn thời gian trước mắt. Hắn đã cưới nàng bởi nàng muốn điều đó và vì Mười-một-giờ-rưỡi đã mong hắn làm như thế trước khi qua đời. Đó không phải là một quyết định cá nhân. Hắn làm vì thuận tình nhiều hơn là mong muốn. Đó chắc chắn là lý do khiến hắn ngạc nhiên về cuộc sống củahắn và vợ, về những đứa con, về sự hòa hợp giữa họ. Có lúc, ý nghĩ mình là kẻ bịp bợm thoáng qua đầu hắn nhưng từ khi Mười-một mất đi, hắn vẫn luôn gặp khó khăn mỗi lần cập bến thực tế.
- Bố ơi, tại sao lúc nào nhìn con bố cũng có vẻ ngạc nhiên?
Sophie hỏi câu ấy nghiêm túc đến mức hắn không thể né tránh câu trả lời được.
- Bố... bố không biết... bởi vì con thay đổi... bởi vì ngày nào cũng vậy, bố khám phá con.
- Ấy vậy mà con thì con lại quá quen với bố.
- Đúng, nhưng người lớn thì không thay đổi. Trong khi trẻ con thì lớn lên từng ngày.
Cô bé chấp nhận lời giải thích nhưng không tin lắm.Con bé có lý. Làm thế nào ta có thể thú nhận với nó rằng ta đặt tên nó là Sophie chỉ bởi vì đó là tên thật của Mười-một-giờ-rưỡi. Vợ hắn có biết điều đó không? Hắn nghi là có. Một trong những điểm quyến rũ ở Sarah là không bao giờ người ta biết được nàng biết những gì.Và làm thế nào ta có thể thú nhận rằng khi gọi con gái là Sophie ta chờ đợi một cô Mười-một-giờ-rưỡi nhỏ lớn dần lên theo năm tháng? Một người y hệt, chỉ có điều nhỏ hơn. Vậy mà Sophie chỉ giống mỗi chính nó, đây là điều quá thành công bởi dù mới lên năm, nó đã có cái gì đó nữ tính một cách sâu sắc, một nét ý nhị, một sự bí ẩn đang báo trước - hơn cả một bản phác thảo - người phụ nữ mà sau này nó sẽ trở thành.
- Adolf, em thực sự lo lắng đấy.
Sarah kéo riêng chồng ra một chỗ và dẫn Adolf về phía cuối cửa hiệu.
- Sao vậy em yêu?
- Tình hình chính trị. Anh biết là ở đây em nghe thấy mọi chuyện mà. Nhờ khách hàng của mình, nhữngngười từ Bộ chiến tranh ra mua hàng, em biết tin trước cả báo giới.
- Thế thì sao?
- Em nghĩ là sắp có chiến tranh.
o O o
Nhà Nâu, ngày 30 tháng Mười năm 1938, hai giờ ba mươi sáng: hiệp ước Munich cuối cùng cũng được kýkết. Không có mặt một đại diện nào của Tiệp, người ta vừa pha đất nước Tiệp Khắc thành nhiều mảnh để cho Hitler ăn. Mussolini, Chamberlain và Daladier - tức là Ý, Anh và Pháp - cúi xuống xem xét tử thi để xoa dịu cơn đói của con yêu tinh và chìa cho nó những miếng ngon nhất.
Tuy vậy Hitler vẫn tức điên người. Hắn muốn toàn bộ nước Tiệp Khắc cơ, kể cả phải trả giá bằng chiến tranh. Vậy mà người ta lại buộc hắn phải đàm phán.
Quay lại Berlin, cảnh hoan nghênh khải hoàn của dân chúng rốt cuộc càng làm hắn nổi cáu: sự hân hoan của người Đức cho thấy trên hết cái thở phào nhẹ nhõm vì đã tránh được phải đi quân dịch. Họ chào mừng Hitler, vị lãnh tụ theo xu hướng quốc gia, đã trả lại mảnh đất Sudètes cho họ, hẳn rồi, nhưng chủ yếu là chào mừng hắn với tư cách vị cứu tinh của hòa bình.
- Vị cứu tinh của hòa bình, ý nghĩ mới lố bịch làm sao! Ta chỉ huy một bọn hèn nhát, mềm yếu, bọn phải gai mồng tơi. Chúng đã mang sẵn tâm thế bại trận.
Nỗi sợ chiến tranh... Những tháng gần đây, hắn vừa hiểu rằng ý nghĩ ấy là cái duy nhất đang ngự trị tâm trí mọi người, cả kẻ thù lẫn những thuộc cấp của hắn. Tránh xung đột vũ trang! Pháp và Anh đã vứt bỏ hiệp ước tương trợ Tiệp Khắc vì họ sợ chiến tranh. Mussolini đã van Hitler đừng đưa xe tăng vào Tiệp Khắc và chấp thuận hội nghị ở Munich vì ông ta sợ chiến tranh. Cánh tay phải của hắn, Gôring, và tất cả các tướng lĩnh của Đế chế, thích giải pháp ngoại giao hơn bởi họ sợ chiến tranh. Nhân dân Đức, nhân dân Anh, nhân dân Pháp và nhân dân Ý thở phào nhẹ nhõm chào đón lãnh đạo của họ bởi họ sợ chiến tranh. Nỗi sợ chiến tranh không phải là gót chân Asin của các quốc gia mà là xương sống của họ!
- Nhưng ta thì ta không sợ chiến tranh. Và ta muốn có nó, cuộc chiến này! Và ta sẽ làm điều ấy.
Hitler bảo người hầu chuẩn bị một bồn tắm đầy bọt. Chỉ khi ngâm mình thật lâu trong nước ấm, đầy xà phòng, dịu dàng từ mẫu, thơm mùi hoa violet, hắn mới cảm thấy được xoa dịu.
- Tuyệt đối không để Eva Braun vào đây. Hãy để ta yên tĩnh!
Người hầu đi ra ngoài, Hitler cởi bỏ quần áo và dù không muốn, vẫn bắt gặp hình ảnh của mình đang trần truồng trong gương. Hắn mỉm cười. Đây, con người làm cả thế giới phải run sợ đây! Thật nực cười! Thế giới thật nực cười!
Hắn biến mất trong làn nước, dưới tác dụng của nước ấm, hắn có cảm giác tan thành nước và đang phồng mình ra theo kích thước của khoang bồn tắm tròn rộng mênh mông.
Hắn chưa bao giờ hiểu tại sao mình không có được một thân hình giống tâm hồn hắn, một thân hình mạnh khỏe, rắn chắc, cường tráng, vạm vỡ, sắt đá như ý chí của hắn, một thân hình lực sĩ Aryen như hắn đã cho đặt khắp nơi trong các công trình của Đế chế.
Hắn thò một chân khỏi mặt nước: không, rõ ràng, đùi hắn không tương xứng với tâm hồn hắn. Hắn lần mò dưới nước: cả cặp mông cũng không. Hắn nhìn đôi cánh tay mềm oặt, lợt lạt, từng nhúm thịt nhỏ rệu xuống trên khung xương khẳng khiu, thịt ở ngực chảy xệ như những con sên bò về phía nách nhão nhẹt, cái bụng nhão nhiều hơn là căng. Hắn tránh làm động tác gây thất vọng là kiểm tra hạ bộ của mình đang ngày càng teo đi dưới sức ép tâm lý, cái bộ phận mà Eva Braun thậm chí không còn được đến gần vì hắn chú trọng giữ toàn bộ năng lượng cho các dự định của mình. Hắn ngày càng căm ghét cái thể xác không giống với mình, không xứng với mình, và chắc chắn sẽ rời bỏ hắn trong thời gian không xa. Từ lâu rồi, mỗi khi nhìn thấy ở một góc phố, trên một tạp chí, trong một cuộc thăm viếng, cái thân thể thực sự của hắn, cái sắc đẹp vô song xứng với con người hắn lại đang chứa tâm hồn ngu ngốc của kẻ khác,hắn lại cảm thấy đau đớn. Những lúc ấy, có một mũi tên xuyên qua và đầu độc trái tim hắn. Phẫn chí. Bất công. Ghen tức. Hắn chỉ thoát khỏi những cảm giác ấy vào kỳ Thế vận hội Berlin năm 1936 khi các vận động viên Mỹ chiến thắng. Thoạt tiên hắn bị sốc vì một nước tự coi là cường quốc như Mỹ lại cử những người da đen đại diện cho mình, nhưng khi quan sát những nhà vô địch này, khách quan mà nói rất cân đối và cơ bắp cuồn cuộn này - dù là người da đen - và khách quan mà nói, cường tráng và xuất sắc, hắn kết luận chắc chắn là thân xác không phản ánh sự thật về tinh thần. Từ đó, hắn khinh bỉ mọi thân xác, của mình cũng như của người khác.
Chỉ có mỗi tâm hồn hắn là đẹp. Hắn yêu tâm hồn mình. Hắn chưa bao giờ biết đến cái gì hấp dẫn hơn thế. Thanh khiết, lý tưởng, không vụ lợi, khinh bỉ tiền tài và tiện nghi vật chất, lúc nào cũng canh cánh việc làm thế nào để làm cuộc đời trở nên thanh cao hơn, đúng đắn hơn, vĩ đại hơn, lúc nào cũng đau đáu nghĩ về quyền lợi chung, tâm hồn đó tỏa ra ánh sáng chói lòa. Hitler chưa gặp ai ít quan tâm đến bản thân và quan tâm tới lợi ích chung nhiều như hắn. Tuy nhiên lợi ích chung không có nghĩa là của “người khác” - bởi “người khác” nhanh chóng làm hắn phát ngấy - mà là những nguyên tắc của xã hội và quốc gia. Hắn có một tâm hồn hào hiệp và khôn ngoan.
Hắn vặn thêm chút nước nóng để duy trì trạng thái ngây ngất.
Chamberlain sợ chiến tranh và muốn chiều lòng dân chúng, đối tượng mà ông ta cũng sợ. Daladier sợ chiến tranh và muốn chiều lòng dân chúng, đối tượng mà ông ta cũng sợ. Còn hắn, Hitler, hắn không sợ chiến tranh, hắn không muốn chiều lòng bất cứ ai. Thế nào là quyền lực tuyệt đối chứ? Làm mọi người sợ còn mình không sợ cái gì cả.
Hitler thở ra khoan khoái.
Từ nay, hắn sẽ không để ai cản bước mình trong cuộc chinh phục vì hắn có sự siêu việt bất khả chiến bại, đó là biết người khác suy nghĩ và hành động như thế nào mà lại không vận hành như họ.
Sẽ có chiến tranh. Chiến tranh khốc liệt.
Chướng ngại vật duy nhất lại đến từ người Đức. Họ muốn hòa bình. Người Đức chắc chắn không xứng vớitầm vóc của nước Đức. Như thân hình của Adolf Hitler không xứng với tâm hồn hắn. Giống hệt. Goebbels cần phải đẩy mạnh hơn nữa những cố gắng về mặt tuyên truyền. Hoặc nếu không làm thay đổi được cách nghĩ của dân chúng thì phải đặt họ trước sự đã rồi và kéo họvào cuộc dù có trong tâm thế miễn cưỡng đi nữa. Một khi đã rơi vào lô gích chiến đấu, họ sẽ không thể lùi bước được nữa. Các nhà lãnh đạo cần sự tán đồng của dân chúng trong thời bình; vào thời chiến, chính chiến tranh là kẻ ra lệnh.
o O o
Adolf H. đi tiễn các sinh viên của mình ở ga. Khi nhìn thấy họ mặc quân phục, cồng kềnh nào mũ, xà cột và súng tiểu liên, hắn hiểu rằng mình sẽ mất họ vĩnh viễn. Ngay cả khi cuộc động viên không kéo dài, ngay cả khi Học viện độc lập sẽ sớm mở cửa lại và trong ba tháng nữa sẽ đón tiếp những người thanh niên này mặc quần áo dân sự, đứng sau giá vẽ, thì họ cũng sẽ không bao giờ giống như trước nữa. Chỉ nội việc họ hăng hái lên đường ra mặt trận Ba Lan đã đủ làm hỏng họ rồi. Sau đó là những kinh nghiệm trận mạc, sự kề cận với tử thần trong nhiều giờ, bị gặm nhấm bởi nỗi sợ hãi, những vết thương, những cái chết. Adolf đã sống qua tất cả những thứ ấy vào thời của mình. Chiến tranh đã từng biến hắn thành người họa sĩ ngày xưa trong những năm hai mươi-ba mươi, yêu hòa bình, tham lam, mất trí, thèm khát cái mới. Dù hắn đã từng căm ghét chiến tranh, nhưng nó đã làm nhiều điều cho hắn cũng ngang với những gì hắn làm cho nó.
Ngay cả Heinrich, học trò cưng của hắn, giống như một thiên thần bị Raphal bỏ quên ở cõi trần, cũng đã mặc quân phục màu xanh xám, cắt tóc ngắn và ngập tràn niềm vui được sống trong kỷ luật.
- Đả đảo hiệp ước Versailles! Beck là tên khốn nạn! Nước Đức muôn năm! Hãy trả lại cho nước Đức những vùng đất bị bọn Ba Lan tiếm đoạt.
Từ đầu những năm ba mươi, nền Cộng hòa đã nhường chỗ cho một chế độ độc tài thiên hữu. Anh bạnNeumann, vẫn về phe đỏ, chửi bới chính phủ mà anh cho là phát xít; nhưng Adolf biết rằng tín điều xấu xacủa đám Bôn sê vich đã đẩy bạn mình đến chỗ bôi xấu đối thủ. Chính quyền thiên hữu ở Đức, dù có dựa trên quân đội, vẫn không có điểm gì giống với chế độ của Mussolini. Độc tài nhưng không toàn trị, bảo thủ và không mang tính cách mạng, dựa trên giới tinh hoa cũ chứ không phải trên lực lượng quần chúng, chế độ ấy biết tận dụng cuộc khủng hoảng kinh tế để lên nắm quyền và khai thác tinh thần quốc gia chủ nghĩa để giữ vị trí. Sau khi bãi bỏ nhiều điều khoản trong hiệp ước đình chiến, lấy lại vùng thung lũng sông Rhine và lấy được quyền tái vũ trang, giờ đây, nước Đức lên án tấm bản đồ được vẽ lại vào năm 1918 ở Versailles. Cả nước Đức lên tiếng đòi lại những vùng đất và dân cư xưa kia vốn thuộc về Đế chế Bismarck đã được trao quá tự tiện và hấp tấp cho Ba Lan.
- Đòi lại! Cái gì của người Đức phải trả cho người Đức!
Chế độ này không có ý định dòm ngó nước Áo, đối tác kinh tế hàng đầu của Đức, cũng như Tiệp Khắc; Đức chỉ đòi lại những vùng lãnh thổ được các nước chiến thắng giao cho Ba Lan.
Ba Lan, dưới quyền tổng thống Beck, không tìm được ai che chở cho mình. Cả Anh và Pháp đều không sẵn sàng cho một cuộc chiến vì vùng lãnh thổ đang tranh chấp này; và Nga thì càng không vì chính nước này cũng muốn lấy lại đất đai ở Ba Lan. Một vài đại sứ, để lẩn tránh vấn đề, thậm chí còn nói đến quyền tự quyết của các dân tộc vùng đó. Vì thế, chế độ đương quyền ở Đức hiểu rằng họ có thể tấn công Ba Lan giữa sự thờ ơ của các nước khác, gần như một việc chính đáng, mà không sợ làm dấy lên một cuộc chiến ở châu Âu.
Người Ba Lan sẽ tự vệ một cách mạnh mẽ.
Đành rằng họ dũng cảm và tinh nhuệ nhưng xét trên bình diện quân số, nước Đức sẽ chiến thắng.
“Trên bình diện quân số... Adolf nghĩ. Ta hy vọng trong số những người ngã xuống không có ai là sinh viên của ta. Và nhất không phải là Heinrich.”
Đoàn tàu đã khởi hành đưa đi người thanh niên, không có người thân nào ở Berlin, đang vẫy tay chào người thầy giáo già của mình.
“Lạy Chúa, xin Người đừng cướp nó đi. Đừng cướp đi người tài năng nhất. Người đã để vuột mất Bernstein. Đừng làm như thế một lần nữa.”
o O o
Sinh nhật lần thứ năm mươi của Hitler.
Các hoạt động chào mừng diễn ra một cách xa hoa và phô trương.
Hitler dẫn đầu một đoàn năm mươi chiếc Limousine đến khánh thành trục giao thông mới Đông-Tây chia Berlin làm hai, bảy ki lô mét đường trải nhựa bóng như sáp, bảy ki lô mét cờ xí quốc xã được chiếu rọi bởi hàng nghìn cây đuốc, bảy ki lô mét đám đông say mê lãnh tụ, bị hàng dây bảo vệ cản lại.
Camera di động trên ray và cáp, như vệ tinh quanh mặt trời, ghi lại những phút giây lịch sử khi quay phim Adolf Hitler.
Ở Dinh quốc trưởng, quà tặng chất đống: nào là tượng khỏa thân bằng đá hoa cương trắng, tượng đồng, đồ sứ vùng Meissen, nào là tranh sơn dầu, thảm, tiền hiếm, nào là vũ khí cổ, gối đệm thêu. Hitler đi giữa đống quà, để mắt tới vài món, buông lời mỉa mai trước một số món khác, lờ đi phần lớn trong số chúng, tỏ ra hững hờ một cách độc đoán cốt chỉ để tỏ ra mình là Quốc trưởng.
Buổi tối, Albert Speer tặng hắn bản ma két của Khải hoàn môn thu nhỏ bằng thạch cao và gỗ cao bốn mét. Nhiều lần trong đêm, Hitler rời phòng ngủ để lại được xúc động trước công trình minh chứng cho sự vĩ đại của hắn trong những thế kỷ tới.
Ngày hôm sau, trong lễ diễu binh, hắn làm mọi người sững sờ khi đứng năm tiếng liền, không mệt mỏi, tay giơ thẳng, cứng đờ, tập trung, điềm tĩnh như thể một bức tượng của chính mình. Hắn quyết định làm cuộc biểu dương lực lượng vĩ đại nhất để cho các cường quốc phương Tây biết điều gì chờ đợi họ nếu cản đường nước Đức. Đương nhiên, ghế dành cho đại sứ của Pháp, Anh, Mỹ và Ba Lan không có người ngồi, nhưng nào có quan trọng gì! Mười nghìn thước phim đã ghi lại sự kiện và sẽ được phát đi nhanh chóng trong các rạp chiếu bóng trên toàn thế giới.
Hắn biết rằng về mặt quân sự, Đức chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến nhưng đã sẵn sàng hơn các nước khác. Hắn tiếp tục tăng cường tái vũ trang và vì cương quyết muốn sáp nhập Ba Lan vào Đức càng nhanh càng tốt nên hắn đã chấp nhận thương thuyết với lãnh tụ cộng sản Stalin.
Mùa hè năm đó, điều tưởng như khó xảy ra đã trở thành sự thực.
Hitler và Stalin, hai kẻ thù không đội trời chung về mặt ý thức hệ hơn là về mặt phương pháp, đã ký hiệp ước bất tương xâm Đức-Xô qua trung gian là hai đại diện, hai vị bộ trưởng Ribbentrop và Molotov.
Tại Berlin, Hitler cho nổ sâm banh ăn mừng. Hắn đập đen đét vào đầu gối như thể vừa diễn một trò vui.
- Bọn Pháp và Anh không tin được vào chuyện này, hắn cười rú lên. Cả các tướng lĩnh của ta nữa!
Ngày 1 tháng Chín, vào bốn giờ bốn mươi lăm sáng, hắn ra lệnh cho quân đội tấn công Ba Lan.
Pháp và Anh mất hai ngày mới hiểu ra rằng Hitler sẽ đi đến cùng trong công cuộc chinh phục thế giới của mình. Ngày 3 tháng Chín, mười một giờ, qua sóng BBC, Chamberlain tuyên chiến với Đức. Mười bảy giờ, Daladier, gần như lùi bước, làm động thái tương tự ở Paris.
Chiều hôm ấy, Hitler, đứng trên sân thượng ở Berchtesgaden, chiêm ngưỡng những ngọn núi. Thiênnhiên đang mở hội bằng cách tặng cho hắn một cảnh tượng mê hồn: ánh rạng đông vào buổi hoàng hôn. Mộtngôi sao băng màu hồng, chói lọi, sáng rực nhuộm lên rừng cây đen như tảo một ánh màu ửng đỏ trong khi bầu trời bày ra tất cả các sắc độ khác nhau của cầu vồng.
Hitler và các thuộc cấp bị hớp hồn bởi cảnh tượng ấy, không nói lên lời. Khuôn mặt và bàn tay của họ đã mang một sắc màu phi thực. Cả vũ trụ dường như đang rơi vào một cơn mơ. Ngay cả sự im lặng tỏa ra từ rừng cây cũng mang vị Wagner.
Hiện tượng ấy diễn ra trong vòng một giờ đồng hồ. Các lãnh đạo quốc xã cao cấp trở về trạng thái trẻ thơ. Vừa chiêm ngưỡng bầu trời vần vũ những luồng sáng xé toang, họ nhìn thấy lãnh tụ của mình như bức tượng ở mũi tàu đang đứng ở ban công như một nhà phù thủy cao tay biết hô phong hoán vũ.
Khi màn đêm khép kín bầu trời, Hitler quay lại phía họ và thì thầm:
- Lần này máu sẽ đổ nhiều đây.
o O o
- Phải có chiến tranh thì chúng ta mới tìm lại được nhau ư?
Sarah vừa nói vừa tuột khỏi giường để vào phòng tắm. Adolf H. nghe tiếng nước chảy ào ào vào bồn tắm và tiếng ống nước khọt khọt. Có phải cái ống nước nổi giận khi người ta đòi hỏi nó hơn mức bình thường một chút?
Chưa gì mùi thơm của sung và thông bá hương trắng đã lan tỏa khắp căn phòng và lan đến tận giường.
- Anh có thể tắm với em được không? Adolf hỏi.
- Em đang đợi anh.
“Phải có chiến tranh thì chúng ta mới tìm lại được nhau ư?” Nàng biết gì? Nàng vừa ám chỉ điều gì? Chỉ bởi vì Adolf ngày càng có nhu cầu kéo vợ khỏi cửa hàng để đi uống cà phê, ăn nhà hàng, đến nhà hát và đặc biệt là để bên nhau hàng giờ, trần truồng trên giường, để tranh luận và chỉ tạm ngừng để làm tình? Hay nàng cũng đã phát hiện ra rằng...
Hắn bước vào căn phòng trên tường treo kín đồ sành đến từ Ma rốc. Hắn đứng thẳng trước gương và quan sát mình từ dưới lên trên.
- Anh yêu em chứ? Sarah vừa hỏi vừa cười.
- Có. Được rồi. Thân xác anh luôn để làm một cái gì đó. Nhất là để sướng. Có thể chính vì thế mà anh đỡ xấu trai hơn nhiều người đàn ông ở tuổi năm mươi.
- Có thể. Dù gì thì em cũng yêu anh.
- Chắc là như thế. Anh già mà vẫn phong độ vì anh già đi trong mắt em.
Hắn bước vào bồn tắm đầy bọt xà phòng và hét lên đau đớn; Sarah rất thích nước nóng đến độ mà hắn không thể chịu được. Hắn đứng nguyên đó, trơ trẽn, dâng hiến, và mỉm cười nhìn nàng.
Nàng có lý. Từ khi những người trai trẻ ngã xuống trên chiến trường Ba Lan, hắn đã thay đổi. Hắn cảm thấy buồn và thèm khát.
Buồn khi nghĩ đến những sinh mệnh bị đốn phạt vì quốc gia, cái giá trị không có chút giá trị này là nguồn gốc của mọi cuộc chém giết. Nhưng đồng thời hắn cũng thèm khát bởi trên ke ga, nơi hắn chứng kiến cảnh những sinh viên ra đi, hắn thấy mình phải sống, sống gấp, sống mãnh liệt để không bỏ lỡ điều gì. Hắn trở nên ích kỷ và quyến rũ. Để cảm thấy hạnh phúc, hắn cần những người khác phải hạnh phúc. Một cái gì đó trong cái triết lý vị tha trước kia của hắn đã tan biến, cái phần chán chường, cái phần suy sụp, cái phần làm cho hắn quan tâm đến thế giới nói chung mà không phải là quan tâm đến lợi ích riêng của hắn.
- Lúc nãy em nói gì hả Sarah?
- Cần phải có một cuộc chiến để ta tìm lại được nhau. Em có cảm giác anh sống động hơn trước.
- Đúng vậy. Đáng lẽ anh phải xấu hổ, có lẽ vậy phải không?
- Có lẽ vậy. Nhưng không quan trọng. Em vui sướng vì điều ấy. Em đã biết là một ngày nào đó anh sẽ thoát khỏi bóng ma ám anh nhưng em không biết là khi nào.
- Bóng ma ám anh?
- Mười-một-giờ-rưỡi. Anh đã dành cho cô ấy một chỗ trong anh lớn hơn cả khi cô ấy còn sống.
Nàng mỉm cười khi nói điều ấy, nàng nghịch những đám bọt xà phòng, để chúng bám lấy kẽ tay, nàng không trách gì hắn cả.
Một làn sóng hạnh phúc tràn qua hắn. Giờ đây, sức nóng của nước không còn quan trọng nữa, hắn trườnvào nước và kéo thân hình ướt đẫm và êm ái của Sarah vào mình.
- Anh rất may mắn với những người phụ nữ của đời anh.
- Cảm ơn vì chữ “những”, nàng thì thầm, giọng nghẹn ngào xúc động.
Nàng tựa người vào Adolf, phiêu diêu, tin tưởng.
- Khi nào anh cho em xem tranh của anh đây?
- Gì cơ? Em đã biết rồi à?
Ra thế, nàng đã biết rồi! Làm thế nào mà nàng biết được hắn lại bắt đầu vẽ vào tất cả các buổi chiều, trong phòng học vắng vẻ ở trường Mỹ thuật?
Một hồi còi báo động vang lên, xé rách không khí bằng thứ tiếng động chói tai, hãi hùng của nó. Adolf và Sarah cứng đờ, người căng lên nghe ngóng. Tất cả hệ thống báo động của Berlin ù ù trên các mái nhà.
Điều đó có nghĩa gì?
o O o
Hitler vừa bị ám sát hụt bởi tay bản sao của mình.
Hắn ngạc nhiên nhiều hơn là sợ hãi. Một sự ngạc nhiên câm nín và đau đớn. Bởi người muốn giết hắn ở Munich không có gì giống với tưởng tượng của Hitler về những kẻ thù của hắn; đúng hơn, hắn nhìn thấy ở đó hình ảnh phản chiếu của mình trong gương.
Một người Đức, một người Đức chính cống, không phải Do Thái, không phải Séc, không phải Digan, không phải Ba Lan, một người lao động quả cảm người Đức, ba mươi lăm tuổi, Georg Elser, một mình, không có sự hỗ trợ của bất cứ đảng phái nào, đã quyết định loại bỏ Hitler, Gôring và Goebbels, ba con quái vật mà anh ta cho là đã kéo nước Đức đến chỗ diệt vong. Anh ta cho rằng, từ năm 1933, mức sống của giai cấp công nhân đã sụt giảm, rằng chế độ quốc xã đã làm tổn hại đến tự do nghiệp đoàn, tự do trong gia đình, tự do cá nhân và tín ngưỡng. Kể từ nghị định ra ngày 4 tháng Chín quy định nền kinh tế thời chiến, mức thuế thì tăng lên, tiền công cho các giờ làm thêm thì giảm đi, người lao động phảilàm tới cả ngày cuối tuần, tiền lương không được trả, cảnh sát thâm nhập vào các nhà máy để dọa đưa những người chống đối vào trại lao dịch. Elser đã từ chối sự lãnh đạo mà đảng Quốc xã đã áp đặt lên đất nước này, từ khi hiệp ước Munich được ký kết, anh biết rằng không gì có thể ngăn cản lòng hiếu chiến sôi sục ở đây, rằng khủng bố sẽ thống trị cho đến tận ngày tận thế và do đó, anh ta quyết định cứu nước Đức bằng những phương tiện hạn hẹp của mình.
Là thợ mộc ở vùng Wurtemberg, anh ta đến Munich, biết rằng hàng năm Hitler sẽ đến đó cùng các quan chức cao cấp của chế độ, đọc diễn văn kỷ niệm vụ đảo chính ngày 8 tháng Mười một năm 1923 và các nạn nhân của sự kiện này. Theo thông lệ, lễ kỷ niệm diễn ra trong nhà hàng bia Bürgerbru. Anh ta đã quyết định cài một quả bom nổ chậm vào cái cột gỗ phía sau khán đài.
Elser xin vào làm trong một nhà máy sản xuất vũ khí để ăn cắp chất nổ, rồi vào làm ở một mỏ đá để lấy thuốc nổ. Với các hiểu biết sơ đẳng về sửa chữa đồng hồ, anh ta đã tự làm phần cơ của quả bom và thử vài quả ở cuối vườn nhà bố mẹ mình. Sau đó, anh ta đã lén lút đến nhà hàng bia ba mươi đêm liền để khoét một cái lỗ trong cột gỗ. Ngày 7 tháng 11, trước hôm Hitler phát biểu, anh ta gài quả bom nổ chậm, chỉnh giờ nổ là hai mươi mốt giờ hai mươi phút rồi lên đường đi Thụy Sĩ.
Hitler thường diễn thuyết từ hai mươi giờ ba mươi đến hai mươi hai giờ. Nhưng tối hôm đó, do bận bịu với chiến trường phía Đông cũng như phía Tây, Hitler không có lòng dạ nào để kỷ niệm nữa và đã ngừng nói vào hai mươi mốt giờ để lên tàu về Berlin.
Vào hai mươi mốt giờ hai mươi, quả bom phát nổ làm tám người chết và sáu mươi người bị thương, gồmnhững người cuồng nhiệt ở lại uống bia và thao thao bất tuyệt cùng nhau, nhưng quả bom đã không đụng chạm đến Hitler và những viên chức cao cấp của chế độ quốcxã.
Bị bắt ở trạm hải quan gần Constance vì đã tìm cách vượt biên trái phép, Georg Elser bị lục soát người và nhanh chóng thú nhận âm mưu ám sát của mình.
Đó là một con người bé nhỏ, mắt sáng, tóc nâu và lượn sóng, bộ ria được cắt tỉa, một người điềm tĩnh, dè dặt, tỉ mẩn trong công việc, anh ta giải thích hành động của mình bằng lý do đạo lý. Đó là một người con của dân tộc như Hitler. Là một người Đức nghĩ về nước Đức trên hết như Hitler. Một người Aryen như Hitler.
Quốc trưởng phủ nhận lẽ hiển nhiên này. Gestapo đã được lệnh tìm kiếm trong vụ việc mọi liên hệ với người Anh, người Pháp hay người Nga, rồi những âm mưu có thể có với các tướng lĩnh hay quý tộc Đức. Không có mối liên hệ nào. Elser đã hành động một mình. Hoàn toàn ý thức được việc mình làm. Điều này không lọt ra ngoài và người ta chỉ được nghe những thông tin chính thống, được soạn ra ngay buổi tối hôm đó, rằng mật vụ Anh là tác giả của vụ ám sát bẩn thỉu này.
Điều đáng ngạc nhiên là Hitler từ chối cho hành quyết Georg Elser. Hắn chỉ cho bỏ tù anh ta. Trên thực tế, hắn mơ được gặp kẻ âm mưu giết mình. Được nói chuyện với anh ta một buổi chiều. Hiện tại, do tình hình chiến trường phía Đông và phía Tây bận bịu, hắn không có thời gian nhưng sẽ để dành sự sung sướng này về sau. Đúng vậy, hắn giữ anh ta được sống, từ chối mọi ý kiến phản đối hay lời khuyên của những người thân tín. Đúng, hắn đợi chiến tranh kết thúc. Trên thực tế, hắn mong muốn thuyết phục được kẻ âm mưu ám sát mình rằng anh ta đã lầm. Hắn thậm chí còn lên kế hoạch hòng khiến anh ta quay lại yêu quý hắn. Dù gì, anh chàng Elser này chính là nước Đức, nước Đức đang lo lắng, nước Đức chưa sẵn sàng, nước Đức không thấu hiểu. Hắn sẽ thuyết phục cả anh ta và nước Đức. Và người ta không đời nào lại giết nước Đức cả.
Nỗi đau đã nguôi, Hitler thoát khỏi vụ ám sát càng vững vàng hơn. Một lần nữa, Định mệnh đã che chở cho hắn. Bằng sự ủng hộ đặc biệt này, Định mệnh làm cho hắn hiểu rằng hắn đúng và hắn phải đi đến tận cùng sứ mệnh của mình. Điều này ngay lập tức được nhà chiêm tinh của hắn khẳng định vào ngày hôm sau; sự bố trí của các hành tinh đã làm thành một lá chắn bất khả chiến bại với hắn trong bốn năm tới; không một viên đạn, không một quả bom hay quả đạn pháo nào có thể sát thương hắn. Hắn được các vì sao bảo vệ. Nhưng để cẩn thận, hắn vẫn yêu cầu Gôring tăng cường gấp đôi lính gác và nói với Goebbels rằng hắn từ chối mọi cuộc xuất hiện chỗ đông người hay đọc diễn văn trước công chúng.
Elser đã cứu mạng hắn...
o O o
Một cuộc chiến chớp nhoáng. Một chiến thắng.
Hắn đã gặp lại Heinrich trên ke ga như một người cha gặp lại con trai mình. Khi ôm Heinrich, hắn nhận ra rằng tình cảm giữa họ đã lớn lên qua suốt thời gian cuộc chiến chia cách họ. Họ có biết bao điều để kể cho nhau, người nói về kinh nghiệm vừa trải qua trên chiến trường, người nói về việc mình đã quay lại cầm cọ. Sau khi hiểm nguy - tức là khả năng không còn được gặp lại nhau nữa - đã qua đi thì dường như với họ, việc thể hiện tình cảm, bộc lộ cảm xúc là chuyện bình thường và kể từ đó, haingười đàn ông vốn hay e thẹn đã có thói quen làm việc này.
Ba Lan đã trả lại các vùng lãnh thổ tranh chấp. Nước Đức đã tìm lại được biên giới của mình như thời Bismarck, đường ranh giới trước khi bị sỉ nhục. Cái giá phải trả cho điều này là ba tháng lửa đạn, gần mười nghìn người chết, nhưng nó cũng mang lại cho nước Đức một niềm tự hào mới, một niềm tự hào trọn vẹn, không giống chút nào với sự hung hăng trước đấy.
- Thầy sẽ thấy, Heinrich nói với Adolf, chính phủ sẽ bắt đầu bằng việc tận dụng thắng lợi của mình nhưng chẳng bao lâu sẽ buộc phải xuống nước và nhượng bộ. Chiến thắng này là lý do của chế độ độc tài này, là đỉnh cao nhất của nó, chính nó sẽ rung lên hồi chuông báo tử cho chế độ.
Sarah đã dành cho Hitler căn nhà phụ, lợp kính, ở phía sau cửa hàng để hắn làm xưởng vẽ. Ngoài các giờ dạy ở Học viện độc lập, hắn ở cửa hàng ”Lạc viên” để nối lại con đường hội họa trong khi cách đó một bức vách, Sarah tiếp tục các thử nghiệm để sáng tạo những loại nước hoa mới nhờ pha trộn các hương liệu khác nhau.
Heinrich thường xuyên đến thăm thầy. Anh chăm chú ngắm nhìn loạt tranh mới của thầy, những bố cục đỏng đảnh và quằn quại mang tên những hương liệu tỏa sang từ xưởng bào chế của Sarah như Rêu, Nhựa hương, Quế hoa, Mộc qua, Lục bạc hà, Cỏ khô mùa thu. Anh ngưỡng mộ những sáng tác của Adolf, khả năng ông kết hợp một con hươu cao cổ với một cái chân nến, đổ lửa vào đại dương hay tái tạo hình dáng giải phẫu học của con người từ những chiếc lá và những bông hoa mang màu sắc không tưởng.
- Thầy đã làm thế nào vậy?
- Thầy mơ. Thầy không còn suy nghĩ theo lô gích nữa. Thầy để mặc mình tưởng tượng. Hơn nữa, nước hoa là một con thuyền lý tưởng cho chuyến du hành siêu thực. Ngược lại, một khi đề tài bức tranh đã hình thành xong trong cơn mê sảng, thầy bắt tay vào làm việc và vẽ tỉ mỉ như Ingres(38).
Tuy nhiên, Adolf để Heinrich đến xưởng của mình và chịu nói chuyện với anh về các tác phẩm đang sáng tác, chủ yếu là để chàng sinh viên làm việc, bởi nếu hắn luôn tự coi mình là một họa sĩ tồi thì hắn lại thấy trong Heinrich những tố chất của một họa sĩ đại tài.
Heinrich nắm được mọi thứ. Anh nhào trộn chúng thành thứ tinh hoa của mình. Anh làm Adolf nhớ lại tay họa sĩ khủng khiếp Picasso, người tài năng nhất trong số họa sĩ Adolf quen ở Paris, và do đó là kẻ đáng ghét nhất. Trong những năm hai mươi, không họa sĩ nào chịu để Picasso đến xưởng vẽ của mình vì biết rằng vào tuần sau, Picasso sẽ làm được ngay từ lần múa bút đầu tiên bức tranh mà anh kia đã phải bỏ ra hàng tháng trời để đạt đến mức đó.
- Không có gì đáng xúc động hơn là được chứng kiến một thiên tài ra đời, một hôm hắn nói với Sarah như vậy. Nếu không yêu quý cậu ấy, anh sẽ căm thù cậu. Cậu ấy khám phá bí quyết thành công của các thiên tài như người ta mở một gói kẹo. Sau ba ngày, cậu ấy đã tường tận đến phát chán một kỹ thuật mà những người như chúng ta, những kẻ người trần mắt thịt đáng thương, phải hàng năm trời lao động. Cậu ấy ngông nghênh chinh phục tất cả, vậy mà điều ấy không cướp đi niềm vui được vẽ của anh. Ngược lại là khác.
- Cậu ấy tôn sùng anh đấy, anh biết không?
- Ấy là quyền được sai lầm của cậu ấy.
- Cậu ấy quả quyết rằng trong mắt cậu ấy, không họa sĩ nào bằng được anh.
- Cậu ấy nói vậy vì đã hình dung đến việc cậu ấy sẽ vượt qua anh như thế nào, cậu ấy sẽ làm được những cái mà anh thất bại như thế nào. Cậu ấy nghĩ rằng mình ngưỡng mộ anh trong khi với anh, chỉ đơn giản là cậu ấy đang lấy đà.
Adolf vuốt ve mái tóc ba màu của Sarah. Hắn nói thêm khi cọ mũi vào cổ vợ:
- Anh thích điều ấy. Niềm tự hào lớn nhất của anh với tư cách người nghệ sĩ là đã gặp cậu ấy trên con đường của mình. Cậu ấy sẽ là tấm giấy thông hành của anh trong hậu thế.
- Anh cứ nói quá thế.
- Cậu ấy sẽ là nghệ sĩ lớn, em biết mà!
Hắn xoắn lấy Sarah và bắt đầu nắn bóp bầu vú nở nang và êm ái của nàng.
- Ôi, anh thì anh quyết tâm sống và quyết tâm hạnh phúc. Thế là đủ lắm rồi. Anh không muốn có tiếng tăm gì cả.
o O o
Một chiếc máy bay nhỏ đáp xuống sân bay Bourget. Lúc ấy là năm giờ ba mươi sáng. Quang cảnh nhợt nhạt, im ắng, say ngủ, và chưa hết nhàu nhĩ. Những hạt sương đâu đấy còn vương giá.
Bấy giờ là mùa hè.
Nước Pháp buông xuôi cho người ta hái như hái một bông hoa bên đường. Chiến thắng dễ dàng đến mức chính Hitler cũng cảm thấy bất ngờ. Tuy vậy hắn vẫn muốn coi thắng lợi của chiến dịch mà hắn đã đề ra phương án tác chiến cùng tướng Guderian là của mình.
- Ta đã được giúp sức rất nhiều nhờ một quyển sách mà ta đã đọc nhiều lần, phải, phải, quyển sách của một tay đại tá de Gaulle nào đó tên là Hướng tới một quân đội chuyên nghiệp, một quyển sách đã dạy ta rất nhiều về khả năng các đội quân có thể được cơ giới hóa hoàn toàn trong chiến tranh hiện đại.
Hitler xuống máy bay, theo sau là một vài họa sĩ Đức trong đó có Albert Speer, kiến trúc sư của hắn. Ba chiếc Mercedes đen đợi sẵn để đưa họ về Paris.
Tim Hitler đập rộn rã. Hắn xúc động như một thiếu nữ lần đầu tiên được tham dự dạ hội. Từ hồi còn thanh niên, hắn đã mơ đến Paris, thành phố mà hắn đã nghiên cứu kiến trúc, quy hoạch, nơi hắn chưa bao giờ được đặt chân đến. Sáng hôm ấy, cuối cùng hắn cũng sắp được khám phá Paris. Và hơn thế nữa, Paris thuộc về hắn. Một chuyến viếng thăm kỳ lạ của chồng chưa cưới với vợ chưa cưới trong khi nàng còn mơ màng giấc điệp. Cứ như thể đó là điều không chính đáng. Cứ như thể người đàn ông không chắc mình sẽ làm vừa lòng mỹ nhân. Cứ như thể anh ta cần phải bước nhón chân mà tán tỉnh.
Trước tiên, hắn đi qua vùng ngoại ô thành phố, những bản nháp làm người ta chán nản trước khi được nhìn thấy kiệt tác. Cuối cùng, đột nhiên, Paris hiện ra, Paris đầy áp đặt. Những mặt tiền cao ngất cười nhạo, mỉa mai, nuốt chửng ba chiếc Mercedes. Hitler choáng ngợp bởi thứ ánh sáng phản chiếu từ những mái nhà lợp tôn màu ghi xấc xược và những viên đá màu be của các ngôi nhà.
Trước cửa nhà hát Opera, đại tá Speidel đang nhong nhóng đợi. Người ta đã dựng ông gác cổng già người Alsace biết nói tiếng Đức khỏi giường để ông ta đưa Hitler đi thăm nhà hát.
Nhưng Hitler ra hiệu cho ông ta không cần nói gì. Hắn thuộc lòng sơ đồ nhà hát bởi đã nghiên cứu nó biết bao lần, hắn thậm chí diễn vai người hướng dẫn tham quan cho đoàn tùy tùng của mình; hắn chỉ nói với ông già vài câu để kiểm tra lại ngày tháng hay một sự thay đổi; còn ông già, hiểu mình đang đối diện với ai, cố gắng che giấu sự chán ghét của mình bằng cách giữ lịch sự, tránh không nói năng gì cả.
Hitler trở nên hào hứng.
- Đây là một giấc mơ bằng đá, như một bản giao hưởng là một giấc mơ của âm thanh. Ta đánh giá âm nhạc và kiến trúc là hai môn nghệ thuật cao hơn tất cả. Bởi chỉ có chúng mới có thể mạnh mẽ thiết lập một trật tự thượng đẳng trong dòng chảy hỗn loạn của vạn vật. Kiến trúc sư lập nên trật tự của vật chất, nhạc sĩ lập nên trật tự của âm thanh; cả hai đều tổ chức được sự hài hòa và kết hợp các yếu tố thô mộc với thi vị của tinh thần.
Hắn sôi sục vì hứng khởi khi đứng trước mặt tiền, khi nhìn thấy cái cầu thang lớn đáng giá đưa đến mọi cuộc biểu diễn ở đây, mê mẩn vì tuy thế, bức tượng nào, bức tranh nào cũng ăn nhập vào một ý tưởng chung tạo nên sự hài hòa.
- Các vị không hiểu đâu, Garnier đã làm được cái mà không ai có thể làm được bởi nhà hát Opera Paris là tác phẩm của một người duy nhất! Ông ta đã biết sử dụng mọi nghệ sĩ của thời đại mình bằng cách đưa họ vào trong thiết kế của mình. Một tư tưởng xuyên suốt, bao trùm mọi phát triển đỉnh cao của các cá nhân riêng lẻ. Đẹp như chính trị.
Hắn ngoảnh lại, ngước mắt nhìn những phần nhô ra, những bức tượng và chi tiết đắp nổi quấn lấy nhau:
- Anh thấy không Speer, tất cả các chi tiết đều đẹp đẽ nhưng chỉ có hiệu quả chung là quan trọng. Rừng bao giờ cũng che mất cây. Đó chính là một xã hội hoàn hảo. Nếu một ngày nào đó ta giảng môn triết học chính trị, ta sẽ đưa các sinh viên đến đây nghiên cứu tuyệt tác này.
Hắn thực sự xúc động trước sự kết hợp của màu sắc trên thực tế mà không có bản vẽ nào trong số những cái hắn đã xem trước đó làm hắn cảm nhận được như thế. Hắn ca ngợi Garnier đã bỏ màu ghi bột mì để làm nổi bật màu của đá, làm cho chúng giống như một dàn nhạc; màu đá hoa cương đỏ vùng Mouzère là kèn trompét, đá xanh Thụy Điển là kèn ôboa, đá pofia là kèn fagô và tất cả các tấm đá hoa cương, vẩn đục, nhiều hình vẻ và lẫn lộn tạo thành bản giao hưởng của bộ dây, đá hoa vàng vân trắng là vĩ cầm, hoa đào màu da là đàn antô, hoa đào tím mạch đen là viôlông xen.
- Speer thân mến, anh có biết là từ bao giờ người ta không xây dựng được các nhà thờ đẹp nữa không?
- Không, thưa Quốc trưởng.
- Từ thời Phục Hưng! Từ khi người ta xây những nhà hát Opera đầu tiên! Về mặt lịch sử, nhà hát Opera thế chỗ cho các nhà thờ khi đưa ra những nghi thức phi tôn giáo, nghi thức của sự hài hòa, cảm xúc và ý tưởng về vẻ đẹp của vũ trụ. Về phần mình, ta sẽ làm tất cả để đẩy nhanh sự tiến bộ của nhân loại và nhanh chóng đưa chúng ta vào một thế giới không còn nhà thờ Thiên chúa, giáo đường Tin lành hay thánh đường Do Thái, thay vào đó sẽ toàn là những nhà hát Opera.
Cuối chuyến thăm, quá hài lòng về những lời bình luận của mình, hắn nhất quyết muốn cho ông gác cổng năm mươi mác tiền boa. Ông này từ chối cương quyết đến mức suýt xảy ra một rắc rối về mặt ngoại giao. Ông ta không bị bắt giữ nhờ lời khẳng định rằng mình chỉ làm đúng bổn phận nên không dám nhận tiền.
Ba chiếc Mercedes lại lên đường trong lòng Paris, thành phố đang mắt nhắm mắt mở với những cánh cửa sắt vừa được kéo lên chút ít, những người lao công đứng đầy trên vỉa hè vắng vẻ, những người bán bánh đang kéo một hơi thuốc, mơ màng đợi mẻ bánh chín.
Đoàn xe đi ngang qua nhà thờ thánh Madeleine, công trình làm thỏa mãn sở thích đồ cổ của Hitler, rồi đi vào đại lộ Champs-Elysées kích cỡ có vẻ nhỏ hơn so với trục giao thông Đông-Tây mới ở Berlin, rồi qua Khải hoàn môn nơi hắn lại thảo luận với Speer về Khải hoàn môn của chính hắn.
Cuối cùng, sau một lúc dừng chân đầy tò mò trước tháp Eiffel, Hitler đến thăm Điện Invalides để viếng lăng mộ của Napoléon.
Ở đó, cảm xúc của hắn mạnh đến mức nó vang lên trong hắn như một linh tính. Một ngày nào đó, hắn,Adolf Hitler, cũng sẽ có một đền thờ lạnh lùng bằng đá với quy mô đồ sộ giống như Napoléon, một lăng mộ khổng lồ mà đứng trước nó người ta phải im lặng, cảm thấy bị chinh phục, cảm thấy mình nhỏ bé, thẫn thờ trước sự vĩ đại không gì chối cãi được. Một người đảo Corse nhỏ bé và một người Áo nhỏ bé! Kỳ lạ không! Những vĩ nhân của các cường quốc lại toàn có xuất thân tầm thường ở những phần lãnh thổ chư hầu nhỏ bé. Napoléon, người sánh ngang với hắn, hắn thậm chí tha thứ cho ông ta cái tội là người Pháp. Trước lăng mộ của Hoàng đế, Hitler sung sướng vì sự tôn thờ dành cho chính mình, hắn tưởng tượng tới hiệu ứng mà mình gây ra cho những người khách thăm tầm thường đến từ khắp nơi trên thế giới trong những thế kỷ tới. Hắn ra khỏi lăng mộ trong trạng thái lâng lâng và rất hài lòng về chính mình.
Hắn còn đôi chút hào hứng khi đứng trước Điện Panthéon, ngôi đền thế tục dành cho những vĩ nhân, nhưng lại ngáp trước quảng trường Vosges, cung điện Louvre và nhà thờ Sainte-Chapelle. Hắn hoạt bát trở lại trước nhà thờ Sacré-Coeur, đồi Montmartre nơi hắn có thể nhìn toàn cảnh Paris.
Tuy nhiên, hắn cần phải lên đường vì cuối cùng người dân Paris sẽ ra khỏi nhà và sẽ nhận ra hắn.
Trong máy bay, hắn ân cần quay sang phía Speer:
- Giấc mơ của đời ta chính là thăm Paris. Ta thực sự hạnh phúc vì hôm nay đã làm được điều ấy.
Nói rồi hắn chau mày và lẩm bẩm thành tiếng:
- Chúng ta cần phải khôi phục ngay lập tức công việc xây dựng ở Berlin. Hãy chuẩn bị một sắc lệnh. Hãy viết thật rõ ràng, Speer ạ, Paris hoành tráng hơn Berlin và đó là điều không thể chấp nhận được. Phải làm việc! Khi chúng ta xây dựng xong Berlin thì Paris sẽ chỉ còn là cái bóng, một lớp kính trong bảo tàng, một di chỉ khảo cổ học, một thứ trang trí lỗi thời, nhân chứng của một thời kỳ đã qua, một cái gì đó như một thành phố ở Ý...
- Ngài nói rất đúng, thưa Quốc trưởng. Ngài là người bảo hộ nghệ thuật và nghệ sĩ mà.
- Cách đây vài ngày ta tự hỏi mình có nên phá hủy Paris hay không. Ta đã từ bỏ ý định này. Làm cho Berlin trở nên đẹp nhất thế giới là cách triệt hạ Paris thực sự.
o O o
Dù đã cố gắng rồi nhượng bộ, Adolf H. vẫn không tài nào làm vừa mắt ông bố vợ Joseph Rubinstein được. Trong cặp mắt xanh da trời nhạt của ông già lúc nào cũng hiện lên sự chán nản mỗi khi chúng vô tình đặt vào hắn.
- Nếu em là anh, Sarah nhún vai nói, em thậm chí sẽ không cố làm gì cả. Ngay cả khi thể hiện rằng mình yêu quý ông hay phủ lên ông hàng núi quà anh cũng chẳng bao giờ bù đắp được khiếm khuyết căn bản của anhđâu.
- Cái gì? Khiếm khuyết nào?
- Anh không phải là người Do Thái.
Mối liên hệ của hắn với gia đình vợ lúc nào cũng chỉ là là ở mức ấy. Dù hắn có làm gì, nói những gì đi nữa, dù Sarah hạnh phúc đến mức nào đi nữa, dù những đứa con có hoàn hảo đến đâu, thì Adolf vẫn không xóa được tì vết vĩnh viễn: hắn không phải là người Do Thái, hắn không sinh ra như người ta cần được sinh ra.
Trong những buổi họp gia đình, Adolf biến mình thành kẻ vô hình trong mắt giáo trưởng Joseph Rubinstein mà dải tóc tết và bộ râu càng làm tăng thêm vẻ uy nghi. Các thành viên trong gia đình nhìn nhau mà ánh mắt không bao giờ dừng lại một giây để chú ý đến sự có mặt hay cơ thể hắn đang chình ình ở đấy. Hắn cảm thấy mình bị xóa khỏi tấm toan. Ngay cả bà Myriam hiền dịu cũng bị lây bệnh mù của ông chồng. Điều này càng đáng ngạc nhiên khi các biểu hiện tình cảm di chuyển, bay trong phòng như những quả bóng tennis, những cái hôn, quà tặng, lời cảm thán, những tiếng gọi trìu mến - “con gái ta, cháu trai ta, cháu gái ta” - lúc nào cũng tránh được hắn. Đôi khi, hắn muốn đứng bật dậy để giữ một quảbóng lại, dựng nên một chướng ngại vật. “Này các người! Tôi đang ở đây đấy! Hai đứa con sinh đôi,Sophie và Rembrandt, đâu phải là cháu các người nếu không có tôi làm bố chúng.” Hắn thậm chí muốn văngtục. “Thế còn dái tôi thì sao? Tinh trùng của tôi thì sao? Các người quên rằng không có những cái ấy thì làm sao các người có cháu bồng cháu bế. Tôi muốn người ta tối thiểu cũng phải tôn trọng mình như người ta tôn trọng một thằng có cái dái tốt.” Nhưng bao giờ hắn cũng kiềm chế vì biết rằng làm thế chỉ tổ làm mối quan hệ giữa Sarah và cha mẹ nàng càng khó khăn hơn. Vợ hắn đã dũng cảm chống chọi với bão tố trong gia đình khi quyết định lấy Adolf, tay người Áo dị giáo khi đó thậm chí còn không vẽ nữa. Gia đình đã dọa sẽ truất quyền thừa kế của nàng, ngăn cản nàng mở cửa hàng, không thừa nhận con nàng nếu nàng điên rồ có con với hắn. Khi thấy những lời đe dọa không ngăn cản được nàng, họ đã đón nhận lại nàng rồi những đứa trẻ - bởi, xét cho cùng, tính Do Thái bao giờ cũng do người mẹ truyền lại, có phải không Myriam? - họ đã chấp nhận cái anh chồng vô dụng của nàng tối đa trong giới hạn cho phép - có nghĩa là cũng cho anh ta một cái ghế để ngồi và một bộ đồ ăn.
Adolf chẳng bao giờ nổi giận với Joseph Rubinstein nhưng đã tìm được cách làm cho ông nổi khùng bằng cách chia sẻ sự đồng cảm với các lý thuyết sionist củaông.
- Bố à, con thấy bố có lý. Cần phải thành lập một nhà nước Do Thái. Theodor Herzl đã mở ra con đường ấy. Vụ án Dreyfus ở Pháp, cuộc tàn sát ở Kichinev, ở Jaffa, những cuộc thảm sát ở Hébron, Safed, tất cả các hành động bài Do Thái này đã đủ để thấy lý tưởng sionist là chính đáng, bất kể nó gây ra vấn đề gì.
Joseph Rubinstein, nhà đấu tranh sionist hàng đầu, không thể chịu được việc gã con rể dị giáo này xướng lên những xác tín máu thịt của ông. Ông gần như muốn phản đối hắn, một cơn tức giận nổi lên trong lòng làm môi ông run lên.
Adolf khoan khoái vì sự trả thù của mình. Hắn bồi thêm cú nữa.
- Thế còn bố, bố đồng ý chọn Uganda hay Palestine?
- Uganda à! Ông già Joseph không kìm được nữa. Nhưng từ năm 1905 đến nay không ai nghĩ đến việcthành lập một nhà nước Do Thái ở Uganda! Đó là lời đề nghị đầy lăng nhục của lũ người Anh. Ở châu Phi đen ư! Không, chúng ta phải đến Palestine.
- Con cũng nghĩ như bố. Israel phải được đặt ở Palestine. Đó cũng chính là điều con tin tưởng.
Sarah buộc phải đá vào chân hắn dưới gầm bàn để hắn dừng lại vì nàng sợ cha mình sẽ hộc máu ra mất.
Sau những bữa ăn nặng nề chiều thứ Sáu này, nàng hỏi hắn:
- Anh đùa hay anh đồng ý với bố em vậy?
- Đương nhiên, mục tiêu đầu tiên của anh là làm ông bực. Nhưng...
- Nói thẳng đi, Adolf?
- Nói thẳng ra anh cũng không biết gì! Anh nghĩ là ý tưởng thành lập nhà nước Israel vừa chính đáng vừa khó thực hiện. Anh không hiểu làm thế nào chuyện đó có thể xảy ra được về mặt lý thuyết. Và nhất là, anh ngạc nhiên là phong trào ấy lại sinh ra ở nước Đức.
- Tại sao?
- Bởi một người vừa là người Đức vừa là người Do Thái cũng chẳng sao cả. Chính em cũng nhận thấy điều ấy mà. Chúng ta sống hòa bình và trong tương lai dài nữa cũng vậy. Đất nước đang hiện đại hóa và tự do hóa. Chủ nghĩa bài Do Thái chỉ chiếm vị trí ngoại vi ở đây, nó là chuyện đáng xấu hổ, trừ đối với tay điên cuồng Goebbels mà thôi, em biết đấy, thằng cha cực hữu này không chiếm nổi một phần trăm phiếu ủng hộ. Là người Do Thái ở Ba Lan, ở Nga, Mỹ hoặc Pháp thì mới khó. Chính các chú, các cậu em chả nói thế là gì.
- Đúng vậy.
- Vậy thì tại sao nó lại sinh ra ở đây? Nước Đức có liên hệ gì với số phận chủ nghĩa phục quốc của Israel? Anh không tài nào hiểu được.
o O o
- Không, chúng ta sẽ không lùi bước!
Hitler nói tràng giang đại hải về chủ đề này hàng tiếng đồng hồ mỗi ngày.
- Không rút quân! Chúng ta không lùi bước trước quân Nga. Chúng ta không lùi bước trước mùa đông. Nếu không chúng ta sẽ có kết cục như Napoléon! Người của ta phải bám giữ những vùng đất mà chúng ta chiếm được, họ phải đào công sự ở chính nơi đó và giữ vững từng mét đất.
- Nhưng mặt đất đóng băng, thưa Quốc trưởng.
- Thế thì sao? Ta cũng từng là lính ở vùng Flandres trong những năm 14-18, lúc đó mặt đất cũng đóng băng, bọn ta đã dùng đạn pháo để tạo thành các hố.
- Nhưng thưa Quốc trưởng, băng phủ dày đến một mét rưỡi. Nga không phải là Bỉ.
- Im ngay! Ông chẳng biết gì cả.
- Tổn thất về người sẽ rất nặng nề.
- Thế ông tưởng những người lính của Frédéric Đại đế nóng lòng muốn chết lắm sao? Họ muốn sống, cả họ nữa, nhưng Nga hoàng yêu cầu họ phải hy sinh. Ta, Adolf Hitler cũng nghĩ vậy, ta cũng có quyền đòi hỏi những người lính Đức phải dâng hiến cuộc sống của họ cho ta.
- Tôi không thể yêu cầu người của mình phải hy sinh.
- Ông không đủ khách quan để hiểu chuyện này, tướng quân ạ. Ông phải lùi xa ra một chút. Hãy tin ta đi, tình hình sáng sủa hơn nhiều nếu xem xét nó từ xa.
Ở Dinh quốc trưởng, các tướng lĩnh bị thay như thay áo. Như người ta dự đoán, hiệp ước trên giấy giữa Hitler và Stalin đã nhanh chóng bị xé rách trước sự hằn thù giữa hai bên. Chiến tranh nổ ra dữ dội. Hitler lần lượt sa thải các vị tướng Fôrster, Sponeck, Hoepner, rồi Strauss... Và có lẽ sa thải thôi vẫn chưa đủ để họ hiểu ra vấn đề, tướng Reichenau bị đột tử còn tướng Sponeck bị xử tử hình.
- Cái lũ ngu này sẽ biến ta thành Napoléon mất nếu ta để mặc chúng muốn làm gì thì làm! Không lùi bước! Không thoái quân! Mùa đông ở nước Đức cũng khắc nghiệt như ở Nga.
Ban đầu, Hitler ngỡ rằng chỉ cần hai tuần là đủ để xâm chiếm nước Nga. Nhưng người khổng lồ Xô Viết đã cầm cự được suốt mùa hè rồi chiếm lại được đất vào mùa đông năm 41-42.
Quốc trưởng Đức giờ đây không rời khỏi chỗ trú ẩn mang tên Hang Sói, một hệ thống boong ke được ngụy trang trong khu rừng tăm tối ở Đông Phổ. Giữa mảnh đất bị gió địa cực hành hạ, giữa những đống đá đen và những cành cây cong queo nhăn nhó trên tuyết, Hitler đã thay đổi. Thân hình hắn đã phô ra những thất bại mà hắn đã phải nhận. Hắn cử động khó khăn và đau đớn, da tái đi, mí mắt dường như khó khăn lắm mới không sung huyết dưới sức nặng của đôi mắt nhòe nhoẹt mà lòng trắng đã ngả sang màu vàng, hắn ăn uống còn khó khăn hơn nữa và hơi thở tỏa ra một mùi đầy lo âu. Đột nhiên hắn trở nên già nua, nhưng già theo cái kiểu chỉ có được ở tuổi năm mươi, khi cuộc đời đã bắt phải chịu đủ điều khổ sở, già vì da thịt phù lên thì đúng hơn là vì khô đi, già vì chối bỏ cuộc đời hơn là vì tuổi tác, già vì thối rữa hơn là chín chắn, hắn già vì sự già nua ngập ứ trong người vốn là một căn bệnh của người trẻ.
Hiện Đức đã có Nhật Bản là đồng minh nhưng Mỹ lại là kẻ thù. Hitler khinh bỉ Mỹ chẳng ích gì vì hắn không biết làm thế nào để đánh bại được đối thủ này. Nếu không tìm ra cách thắng Nga nhanh chóng, hắn ngờ rằng mình sẽ thua trong cuộc chiến này mất. Lúc im lặng thiểu não khi độc thoại gay gắt, chính hắn cũng nhận thấy giữa cơn độc thoại rằng mình đang nhắc lại những câu nói hùng hồn thuở trước, và bắt đầu nhại lại chính mình một cách lố bịch. Hắn khao khát được hành động nhưng bị sa lầy trong một cuộc chiến quá dài đang lan ra toàn thế giới.
Cả trăm lần, hắn đã cố tìm lối thoát. Hắn thậm chí đã bí mật chìa tay với Anh khi đề nghị nước này ngưng chiến và cùng chia nhau châu Âu. Nhưng Luân Đôn đã giảđiếc. Đó là vì Churchill, tay nghị viên bị bọn Do Thái trên thế giới mua chuộc, cái tay họa sĩ nghiệp dư này!Những lời chửi rủa của họa sĩ bất thành Hitler dành cho họa sĩ nghiệp dư Churchill chủ yếu nhằm để che giấu sự tôn trọng. Churchill từ lâu đã trở thành đối thủ duy nhất đáng kể mà Hitler công nhận trong thâm tâm từ nhiều năm nay, nhưng hắn thà chết chứ không chịu thừa nhận điều ấy. Việc Churchill nhất quyết chối bỏ các lời đề nghị càng làm hắn thêm hận thù. Cái thằng Rudolf Hess đốn mạt ấy đang chết gí trong một nhà tù của Anh...Hitler thầm nghĩ, nhưng ngoài mặt, hắn chỉ nhắc đến Rudolf Hess như một kẻ phản bội, kẻ đã làm hắn thất vọng tột cùng bằng hành động điên rồ của mình.
Rudolf Hess, người ủng hộ trung thành từ những ngày đầu tiên, người mà, khi còn ở trong tù năm 1924, Hitler đã đọc cho chép quyển Cuộc chiến đấu của tôi, đã làm gì? Người cựu phi công, sau trở thành bộ trưởng, đã ăn cắp một chiếc máy bay Messerschmitt 110, đổ đầy nhiên liệu rồi bay sang Anh và hạ cánh xuống lãnh địa của công tước Hamilton, một trong các vị lãnh đạo của đảng Bảo thủ tại Thượng nghị viện, người luôn chủ trương hòa giải với Đức. Sau khi hạ cánh, ông ta đã yêu cầu được gặp Churchill để đưa ra đề nghị về một hiệp ước hòa bình Anh-Đức. Churchill đã cho nhốt ông ta vào tù mà không thèm nghe một lời nào.
Ở Đức và Anh, ai cũng nghĩ rằng đó là một cuộc đào thoát mang tính cá nhân do ý muốn của chỉ riêng Hess. Trên thực tế, Hitler đã dàn dựng tất cả, theo thói quen điều khiển những người thân tín một cách riêng lẻ sao cho người khác không được biết, điều này cho phép hắn nhân rộng các toan tính khác nhau, kể cả những toan tính trái ngược, và xác định xem đâu là phương án có tương lai nhất, đâu là phương án không có tương lai. Vì vụ việc đã chìm trong bí mật của các nhà tù Anh, Hitler đã đóng vai người bạn bị phản bội, người bạn thất vọng và để đổi hướng dư luận, hắn rêu rao rằng mỗi khi nghethấy người ta nhắc đến Rudolf Hess là hắn lại đau đớn.
Càng cảm nhận thấy chiến tranh sẽ kéo dài, hắn càng tự hỏi về sứ mệnh lịch sử của mình. Nếu thua, chuyện gì sẽ xảy ra? Không, tất nhiên rồi, hắn sẽ không thua, nhưng nếu chẳng may như thế thì sao? Sự trừng phạt sẽ thật khủng khiếp.
Những kẻ báo thù trong tương lai... Cần phải loại bỏ những kẻ báo thù trong tương lai.
Ngay khi gặp khó khăn trên chiến trường Nga, hắn đã bị ám ảnh bởi ý nghĩ bị báo thù sau này. Họ là ai? Vợ con của những người Do Thái mà người ta đã xả súng bắn chết hàng nghìn ở chiến trường phía Đông...
Vào thời điểm đầu của cuộc xâm chiếm, các đội hành quyết Einsatzgruppen đã tiến hành các hành động hiệu quả và nhất quán, tàn sát, xả súng, đàn áp có hệ thống, tất cả những hành động ấy lên đến đỉnh điểm trong cuộc thảm sát Babi Yar nơi ba mươi ba nghìn bảy trăm bảy mươi mốt đàn ông Do Thái bị giết. Sau đó, ngay từ tháng Tám, Hitler đã yêu cầu đưa cả phụ nữ và trẻ em - “những kẻ báo thù trong tương lai” - vào đối tượng hành quyết. Năm mươi nghìn người Do Thái đã chết vào giữa tháng Tám và sau đó, nhờ các tiến bộ kỹ thuật - súng liên thanh thay vì súng trường - năm trăm nghìn người đã bị hành quyết trong ba tháng sau đó.
Himmler thường xuyên đến Hang Sói báo cáo tình hình tiến triển của công cuộc thanh lọc.
- Chúng ta đã tìm ra phương pháp tốt hơn là cho bọn Do Thái đứng phía trên các hố chôn tập thể nơi chúng sẽ chồng lên nhau khi rơi xuống rồi xả súng liên thanh.
- Rất tốt.
- Vâng thưa Quốc trưởng, nhưng chúng ta còn có thể làm tốt hơn.
Hitler hài lòng nhìn Himmler. Himmler, nhu nhược và béo đến lút cằm, đường nét hay biểu cảm không nhiều hơn một con sên, nhưng con sên này biết cười và dường như là người thân cận duy nhất không để ý đến sự sa sút về thể lực của hắn. Himmler luôn nhìn Hitler như Hitler của những năm ba mươi, Đấng cứu thế xuất hiện trong thời suy đồi cực điểm, nhà tiên tri, “người mà cả nhân loại đang dõi nhìn với lòng tin, như họ đã làm ngày xưa trước chúa Jesus”. Chiếc kính một mắt của hắn giữ lại hình ảnh đã khắc trong tâm khảm và không để một hình nào khác về Hitler lọt vào mắt mình nữa. Hitler ưa cái tham vọng và sự phục tùng trong Himmler. Hai nét tính cách này đều tuyệt đối như nhau. Hắn là mẫu hình một thủ hạ lý tưởng, không bao giờ biết chủ động đưa ra giải pháp nhưng vô cùng tỉ mẩn khi thực thi mệnh lệnh, một con người nhỏ bé đến mức không thể nghĩ ra cho mình một nhiệm vụ to lớn nhưng bao giờ cũng hoàn thành cho kỳ được nhiệm vụ được giao. Bất cứ điều gì được yêu cầu thực thi cũng trở thành một nhiệm vụ với hắn. Hắn sẽ hợp lý hóa các bước tiến hành một cách có hệ thống. Mục tiêu sẽ tổ chức và biện minh cho mọi phương tiện. Hắn được sinh ra với những đặc tính lý tưởng của một tay đồ tể: chính xác, thiển cận và làm việc như viên chức. Cái tầm thường ở những kẻ thi hành.
Mỗi lần Hitler cho gọi, Himmler đều run lên như sắp vào phòng thi. Gã độc tài thích người ta sợ như vậy vì ở đó hắn nhận thấy một dấu hiệu đúng đắn về sự tỏa sáng của mình và hắn nghĩ rằng gã thủ hạ này, trong mọi trường hợp, sẽ không phản bội hắn.
- Anh có chứng kiến cuộc hành quyết ở Minsk không?
- Dạ có, thưa Quốc trưởng.
- Thế nào?
- Đã xong, thưa Quốc trưởng.
- Không, ta hỏi cảm nhận của anh thế nào.
Con sên hoảng sợ suýt rơi mất kính. Himmler chẳng bao giờ tin vào cảm xúc hay phản ứng cả. Hitler biết điều đó và xoáy một cách quái ác vào đáy sâu cất giấu những điều không chắc chắn.
- Thưa Quốc trưởng, bọn đó đều mang hình dạng con người. Chúng có mắt, có mồm, có tay, có chân... nhưng trên thực tế, đó là những sinh vật gớm ghiếc mà ý thức và tâm hồn còn bị vùi sâu hơn cả loài vật. Đó là những sinh vật nguyên thủy. Tôi có cảm nhận giống như đi thăm một lò mổ.
- Rất tốt, rất tốt, Hitler nói, không thích sự so sánh mà Himmler vừa đưa ra vì hắn yêu động vật một cách say mê, nhất là Blondi, con chó mới của hắn, sống bên hắn ở Hang Sói và làm hắn vui hơn rất nhiều so với Eva Braun. Ông bạn Himmler thân mến, ông đã hỏi tôi nhiều lần xem chúng ta phải làm gì với bọn Do Thái ở trong nước, những người Do Thái nói tiếng Đức. Tôi hoãn câu trả lời vì tôi nghĩ việc quan trọng trước mắt là phải thắng được Nga. Bây giờ mọi chuyện đã có tiến triển rồi. Chúng ta sẽ dành ra vài năm để đánh bại quân Nga.
Hắn nghĩ thầm: Chúng ta sẽ chẳng bao giờ thắng được người Nga.
- Nước Mỹ đã bất cẩn bước vào cuộc xung đột này và sẽ bị người Nhật hủy diệt.
Hắn thầm nghĩ: Người Nhật không là gì trước người Mỹ cả.
- Nước Anh đã kiệt lực.
Hắn thầm nghĩ: Churchill rất biết hô hào bọn người Anh quỷ tha ma bắt ấy để chiến thắng.
- Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục công việc đã tiến hành cả ở trong và ngoài nước.
Hãy hoạt động ở trong nước nhanh lên, chúng ta chậm như thế là đủ rồi.
- Bọn Do Thái là kẻ đã gây ra cuộc chiến 14-18. Chúng phải chịu trách nhiệm về cả cuộc chiến hiện nay nữa.
Ta đã tuyên chiến, đúng vậy, nhưng ta đã dự định một cuộc chiến chớp nhoáng kia, nếu nó kéo dài thì đó là do âm mưu toàn cầu của bọn Do Thái.
- Năm 1939, ngày 30 tháng Giêng, trong bài diễn văn của ta ở Reichstag, ta đã cảnh báo rằng nếu chiến tranh nổ ra trên quy mô toàn thế giới thì đó là lỗi của bọn Do Thái và chính chúng sẽ phải trả giá.
Đó không phải là một lời cảnh báo mà là một lời đe dọa. Ta đã giương cao các hình thức trừng phạt để răn đe Mỹ không tham chiến.
- Sự cảnh báo này đã trở thành một lời tiên tri.
Chúng chỉ cần lùi bước là được, cái lũ ngu này, chính bọn chúng muốn vậy mà.
- Chiến tranh sẽ không kết thúc như bọn Do Thái đã tưởng tượng, giống nòi Aryen sẽ không bị tuyệt diệt mà ngược lại, chính chúng, bọn Do Thái sẽ bị hủy diệt.
Nhanh lên, nhanh lên, trước khi việc ngược lại xảy ra.
- Ta sẽ áp dụng câu nói của bọn Do Thái một lần duy nhất: lấy răng trả răng, lấy mắt trả mắt(39).
Tỷ giá sẽ là một trăm cặp mắt đổi một con mắt, một nghìn răng trả cho một răng, đó sẽ là một cuộc tàn sát.
- Chúng ta cần phải áp dụng một chính sách kiên quyết.
Hủy diệt, hủy diệt hoàn toàn.
- Để người ta đừng có nghĩ rằng ta muốn trả thù cho những khó khăn vấp phải trên chiến trường miền Đông...
Chính xác, đúng là như vậy, ta đang trả thù. Hơn nữa, ta đang buồn đến chết đây.
- Ta làm điều đó chỉ để đáp lại áp lực từ phía người dân Đức đang phẫn nộ vì sự phồn thịnh của bọn Do Thái trong thời buổi khốn khó này.
Nhất thiết không để mọi người biết cái chúng ta sẽ làm.
- Để không biến bọn Do Thái thành tay trong của địch ngay trên đất của chúng ta...
Làm sao để người dân Đức đừng biết đến điều ấy.
- Chúng ta sẽ bắt đầu một cách kín đáo...
Bí mật nhất có thể được.
- Chúng ta sẽ nói cho họ biết vào thời điểm thích hợp.
Khi tất cả bọn họ ướt đầm đìa, ngập đến tận cổ và sẽ là quá muộn để rút lui.
- Vậy thì họ sẽ rất hạnh phúc.
Đồng lõa.
- Và sẽ rất biết ơn.
Thủ phạm.
- Tại sao anh không đi cùng tôi cho Blondi đi dạo nhỉ?
Ta muốn chắc chắn rằng không ai nghe lén được.
Hitler và Himmler đưa con chó đi dạo, nó điên lên vì sướng. Sau khi nó đã ra sức chạy ba lần trên con đường trắng xóa nổi đầy rễ cây và đá vụn để mang về cây gậy mà ông chủ đã ném vào các bụi cây, hai người đàn ông tiến vào khu rừng rậm rạp, nhuốm màu xanh da trời. Tiếng răng rắc, lạo xạo vang trong rừng. Mùa đông phả ra mùi nước thum thủm, ngột ngạt. Hitler đi vào chi tiết.
- Tôi từ bỏ hết các ý nghĩ trước đây của mình là cho lưu đày tất cả bọn Do Thái về đảo Madagascar. Hay về Sibéria.
Điều đó sẽ giúp chúng thành lập một nhà nước Do Thái mà bọn sionist đòi hỏi. Không đời nào ta lại đi làm kẻ thành lập nhà nước Israel cho chúng.
- Dù rằng ở Sibéria...
Chúng sẽ chết vì đói và lạnh ở Sibéria.
- Không đời nào. Ta có một ý tưởng.
Thực ra đó không phải của ta mà là của Stalin.
- Chúng ta sẽ lưu đày chúng.
Stalin vừa lưu đày một triệu người Đức khỏi lưu vực sông Volga.
- Bằng tàu hỏa.
Hắn đã dồn họ như những con vật trong các toa tàu.
- Tiến về hướng Đông, đến Ba Lan.
Hắn đã gửi họ đến miền Bắc Kazakhstan.
- Chúng ta sẽ dồn bọn Do Thái vào các trại. Chúng ta sẽ tách những đứa làm việc được và những đứa không.
Chúng ta sẽ giết đàn bà, trẻ con và phần lớn đàn ông.
- Đã đến lúc phải tìm ra giải pháp cuối cùng cho vấn đề này.
Diệt chủng. Một cuộc diệt chủng tới tận gốc rễ. Vĩnh viễn.
- Về chuyện triển khai chi tiết, tôi tin tưởng ở anh, Himmler thân mến.
Xả súng, xả hơi ngạt, thiêu đốt, muốn làm gì chúng thì làm miễn cứ hiệu quả là được.
Himmler tự cho phép mình đưa ra một gợi ý:
- Tôi không nghĩ là chúng ta sẽ dùng lại các toa xe xả hơi ngạt như ở đây, ở Đông Phổ này hồi năm 1940 để tiến hành cuộc kết liễu sự sống. Phương pháp này có quá nhiều nhược điểm. Theo tôi, dùng hơi ngạt nhưng là hơi xả trong các cơ sở cố định thì tốt hơn.
- Đúng, đúng, chắc chắn rồi Himmler, chắc chắn rồi.
Ta mặc xác, ta không thèm quan tâm, làm công việc của ngươi đi và để ta yên. Ta đời nào lại đi kiểm tra công việc của bọn vét bùn, móc cống. Ta chỉ đưa ra đường hướng, không bao giờ ta lại để tay mình vấy bẩn cả.
- Tôi nghĩ là Zyklon B là loại khí ga sẽ làm chúng ta hài lòng.
- Zyklon B?
Ta không muốn nghe nói đến khí ga, ta đã chẳng suýt mù vì khí ga vào năm 1918 đó sao. Cái gã cần mẫn này cứ làm việc của mình đi và đừng làm phiền ta với các chi tiết! Đúng là một gã ngu ngốc hay ra điều quan trọng!
- Tôi tin tưởng tuyệt đối vào anh, Himmler ạ. Anh như là một đứa con tinh thần của tôi.
Vậy đó! Con sên lại mít ướt rồi. Nó, con sên đang xúc động.
- Những thành phố đầu tiên được thanh lọc khỏi bọn Do Thái sẽ là Berlin, Viên và Praha. Sau đó, chúng ta sẽ tính đến nước Pháp. Bọn Do Thái muốn chiến tranh ư? Bây giờ chúng sẽ phải trả giá!
Cuối cùng ta cũng chỉnh nắn được thế giới. Ta là người vĩ đại nhất thế kỷ này. Dù nước Đức thắng hay bại thì ta cũng giúp nhân loại xóa bỏ được bọn Do Thái. Thế nhân sẽ cảm ơn ta trong hàng thế kỷ tới. Ta không tiêu hóa được cái gì nữa khi đang đói mềm người, thật ngu ngốc quá. Thế nếu ta ép con Blondi ăn chay thì sao nhỉ?
- Himmler, anh hãy cạo ngay cái chòm ria kia đi. Trông lố bịch quá...
- Nhưng...
Vào phút cuối, Himmler đã kìm mình được. Hắn suýt buột miệng nói: “Nhưng nó giống hệt của ngài mà, thưa Quốc trưởng.”
o O o
Adolf H. có một cuộc sống bí mật.
Hắn thường nói với gia đình rằng mình đi dạo về phía quảng trường Alexandre “để lấy ý tưởng về các khuôn mặt” trong khi hắn lại nhảy lên xe điện và rời Berlin đi về phía ngoại ô xa xôi, ẩm ướt, nhiều cây cối.
Hắn thấy không thể thú nhận được việc mình đến gặp người phụ nữ này. Không thú nhận được với Sarah và tất nhiên là với Heinrich cũng không. Với Neumann thì có thể thổ lộ được bí mật này nhưng anh ấy đã sống quá lâu ở Moskva với tư cách đại diện đảng Cộng sản Đức đến mức những lần hiếm hoi họ gặp nhau chẳng có mấy thời gian dành cho những chuyện thầm kín thế này. Vả lại, nói thế nào đây? Adolf thậm chí không thể xác định được với chính mình tình cảm mà hắn dành cho người phụ nữ ấy là như thế nào.
- Anh nói với tôi về người thân của anh, nàng nói, nhưng anh không bao giờ nói với họ về tôi cả. Tôi làm anh xấu hổ chăng?
- Không.
- Vậy tại sao?
- Một ngày nào đó, tôi sẽ nói với họ về em. Khi ấy, em sẽ là niềm tự hào của tôi. Trong lúc chờ đợi, em là nơi trú ẩn cho sự thẹn thùng của tôi.
Nàng cười, nụ cười muôn thuở, một nụ cười không có bất kỳ sự chế giễu nào, hoàn toàn là một niềm vui sống. Bí mật của Adolf là gì? Chỉ cần ở bên nàng một giờ hắn đã nạp lại được năng lượng, ý chí và cảm xúc. Hắn thấy mình ấm lên khi tiếp xúc với nàng. Hắn gột rửa. Hắn trẻ lại. Khi rời xa nàng, hắn hít thở sâu hơn. Ngay cả bầu trời dường như cũng cao hơn, quang mây hơn, sáng sủa hơn. Hắn chỉ chia tay nàng khi trời đã về đêm, khi con đường trải nhựa của vùng ngoại ô đã lấp lánh những ánh sao.
Một hôm, vô tình nhặt được một bức thư trong xưởng, Sarah sinh nghi và theo dõi hắn. Nàng đã không theo hắn đến tận điểm cuối của cuộc hành trình. Khi đã kiểm chứng được rằng Adolf nói dối, rằng hắn không đi dạo trên quảng trường Alexandre mà lại đi theo một hành trình dường như đã quen đi, nàng kín đáo rời xe điện và đợi hắn ở nhà.
Adolf về nhà và thấy Sarah đầm đìa nước mắt, cảm thấy bị xúc phạm vì sự phản bội này. Hắn buộc lòng phải thú nhận sự thực với nàng: từ nhiều năm nay, mỗi tháng một hai lần, hắn đi gặp xơ Lucie, người y tá đã chăm sóc hắn năm 1918 ở tu viện.
o O o
Đám thư ký của Hitler không chịu được nữa; họ mơ được giải thoát mỗi khi nhà độc tài cho họ một vài giờ để ngủ.
- Ngay cả trong tù cũng đỡ buồn hơn là ở đây, Johanna nói, bởi ở đó, bọn cai ngục còn tôn trọng giấc ngủ của tù nhân.
- Hơn nữa, Christa nói thêm, ở đó người ta còn được thay đổi bạn tù trong xà lim, còn có người ra, người vào, được đi ra ngoài. Ở đây, chẳng có gì sất.
Hang Sói, nằm giữa vùng rừng ẩm ướt, một cái boong ke xam xám, không màu sắc, bị đầu độc bởi một thứ không khí tẻ nhạt và mùi giày bốt, một tòa nhà hình khối nơi những cánh cửa hiếm hoi chỉ mang lại một thứ ánh sáng phương Bắc nhờn nhợt, không chấp nhận bất cứ khuôn mặt mới nào, không một quyển sách mới, không một đĩa nhạc mới, không một ý tưởng mới, không một quan điểm cá nhân. Hitler cấm nói đến chính trị hay chiến tranh, hắn chỉ cho phép nói những câu chuyện tào lao, tán gẫu bên những tách trà hay những cái bánh ngọt. Nhưng có thể nói gì khi câu chuyện mở đầu bằng những lời ca thán rằng hiện đang thiếu những ca sĩ giọng nam cao hát được Wagner, nhắc đi nhắc lại rằng không có nhạc trưởng nào bằng được cái móng chân của Furtwngler? Ba hoa được gì đây khi bị cắt đứt khỏi thế giới bên ngoài?
Mùa đông đã qua, cuộc chiến chống Liên Xô lại tiếp tục. Nhưng chiến trường Đức, bị kéo giãn vô độ, đang trụ lại hết sức vất vả.
Người ta có thể đọc được tình hình chiến trường khi nhìn vào thân xác Hitler: hắn là tấm bản đồ sống của cuộc chiến, lấy lại năng lượng mỗi khi có chiến thắng, dù là nhỏ nhất, nứt rạn và sưng vù sau mỗi thất bại. Sức khỏe hắn xuống cấp ngày càng nghiêm trọng. Hắn gần như không ngủ được nữa. Để không bị chứng mất ngủ hành hạ, hắn luôn mồm lảm nhảm với Christa và Johanna, khiến họ phải chịu những đêm khốn khổ.
- Các cô sẽ thấy, ngay khi chúng ta chiến thắng Nga, Anh và Mỹ, ta sẽ xử lý nốt những điểm còn đang đau đớn. Không phải vì bọn Do Thái mà chúng ta đã mở các trại lao động để nhét chúng vào, mà là vì những bọn khác. Ta sẽ tiêu diệt các nhà thờ Cơ đốc, không sót cái nào, ta không muốn nhìn thấy dù chỉ một cây thánh giá nữa trên nước Đức. Thời ấy qua rồi. Sau đó, ta sẽ xử lý vấn đề lương thực: ta sẽ buộc mọi người phải ăn chay, chế độ tốt nhất cho sức khỏe. Làm sao người ta có thể ăn được những xác chết thế nhỉ? Thật đáng phẫn nộ phải không?
Christa và Johanna đã luyện được cách ngáp mà không ai biết, một động tác bí mật ngay khi nét mặt và dáng vẻ vẫn tỏ ra hết sức chăm chú. Họ đã thuộc lòng những câu độc thoại này bởi đã phải nghe đến cả nghìn lần, và thú vị hơn hôm nay cả nghìn lần bởi Quốc trưởng hiện đang bơ phờ, không còn đủ sức để làm mới mình và tỏ ra xuất sắc nữa. Hắn nói cốt chỉ để đỡ hoảng sợ.
- Nói là thuốc của ta, Hitler đã nói với các bác sĩ của mình như vậy.
Đó là bệnh của ông ta thì đúng hơn, Christa và Johanna nghĩ, mắt nhớn nhác, mí mắt sưng húp.
Hắn thậm chí không nghe nhạc nữa. Vào thời điểm đầu cuộc chiến, để thư giãn, hắn nhắm mắt lại và yêu cầu bật vài bản nhạc bất di bất dịch: các bản giao hưởng của Beethoven, một trích đoạn Wagner hay vài liđơ của Hugo Wolf; hồi đó Christa và Johanna phải cố chịu đựng mà nghe còn hắn chẳng bao giờ nghe đĩa nào khác cả. Giờ đây, họ tiếc nuối thời gian đó vì ít nhất âm nhạc cũng có quyền lực là mỗi lần nghe mang lại những điều mới mẻ. Hitler thì không. Hắn thậm chí còn không cho phép nghe hết một mặt đĩa 78 vòng và nói lảm nhảm một mình không dứt.
Eva Braun cũng ít đến. Hitler chỉ chịu được cô khi hắn ở Bavaria, ở Berghof. Khi cô nằn nì được ở lại Hang Sói, Hitler đã thóa mạ cô không thương tiếc trước mặt mọi người, lăng nhục cô, làm cô khóc, thậm chí còn trả cô một tệp tiền như thể cô chỉ là gái điếm. Cô bỏ đi.
Christa và Johanna ghen tị với Eva.
Vả lại họ đã thay đổi cách nhìn về Eva Braun. Ban đầu, họ phẫn nộ khi thấy cô gái đẹp như vậy mà lại chấp nhận bị Hitler đối xử tồi tệ như thế, ngay cả khi ông ta là chúa tể nước Đức. Bây giờ, họ biết rằng Hitler từ chối sống với Eva nhưng cũng ngăn cản cô làm lại cuộc đời ở nơi khác. Cũng như họ, Eva đã trở thành tù nhân của nhà độc tài. Không ai có thể thoát khỏi tay hắn ta được. Đằng nào cũng là nạn nhân, cả hai bọn họ đều ước chi bằng mình được là người tình bị đối xử tệ bạc của Hitler bởi Eva Braun ít khi phải gặp Hitler trong khi Christa và Johanna phải chịu đựng hắn cả ngày lẫn đêm.
- Ta ghê tởm loài người, Hitler nói. Loài người chỉ là một thứ vi khuẩn vũ trụ bẩn thỉu.
- Xem này, có lẽ ông ta đã mất cả tiếng đứng trước gương ấy nhỉ, Johanna thì thầm vào tai Christa.
Cả hai cười thầm ngay cả khi đang đứng thẳng, bộ dạng không chê vào đâu được, kính đeo chăm chú trên đầu mũi và sổ ghi ngay ngắn trên tay.
Tháng Mười một năm 1942, quân Mỹ đổ bộ vào Bắc Phi và quân Anh tăng cường ném bom nước Đức vào ban đêm. Munich, Brême, Düsseldorf chịu thiệt hại nặng nề.
- Nhà của ta ở Munich có bị phá hủy không? Hitler hỏi.
Christa không biết có nên nói thật hay không. Ông ta sẽ phản ứng thế nào đây?
Hitler đập bàn quát:
- Cô có điếc không? Ta hỏi nhà của ta ở Munich có bị phá hủy không?
- Có, thưa Quốc trưởng.
- Thật không?
- Nhà bị hỏng nặng.
Hitler lắc lắc đầu vẻ hài lòng và vân vê bộ ria.
- Thế thì càng tốt! Càng tốt! Người dân Đức sẽ biết rằng ngay cả nhà của ta cũng không phải là ngoại lệ. Nếu nhà không hỏng tí nào thì không tốt. Quá vui. Quá vui.
Christa nhìn vào các con số thiệt hại trong bản báo cáo của mình, số lượng thương vong và bị chết. Cái này thì Hitler không quan tâm đến.
- Thực ra, các cuộc oanh kích này rất tốt cho tinh thần mọi người. Nó cho phép người dân Munich hiểu rằng nước Đức đang ở trong tình trạng chiến tranh. Điều đó sẽ mang lại một tác động cứu rỗi với chúng ta. Và sau là, dù sao cũng phải phá hủy các tòa nhà sau khi chiến tranh kết thúc để cải tạo quy hoạch thành phố. Thực chất, bọn Anh đang làm hộ việc của chúng ta.
Chính vào cái ngày ấy Christa hiểu rằng sự điên rồ của Hitler không đến từ những ý nghĩ kỳ quặc, lòng thù hận hay sự quá khích, cũng không đến từ quyết tâm sắt đá muốn bỏ qua mọi trở ngại của thực tế mà có thể nó đến từ sự nhẫn tâm tuyệt đối ở Hitler.
o O o
Chủ nhật nào xơ Lucie cũng đến nhà họ chơi.
Đám trẻ đợi nàng như trẻ con chờ kẹo.
Hoạt bát, vui vẻ, những câu đối đáp đầy bất ngờ thú vị, nụ cười tươi sáng và hồn nhiên, nàng làm chúng sung sướng và nhất là làm chúng có cảm giác độc nhất vô nhị là đang chơi với một người lớn trẻ hơn chúng. Bằng những phản ứng ngạc nhiên của mình, bằng khả năng vô tận trong việc tỏ ra ngưỡng mộ hoặc tức giận, những cơn giận đỉnh điểm, nàng dường như còn bé bỏng hơn chúng rất nhiều trong khi chúng đã có thói quen tự kiềm chế hoặc giữ gìn ý tứ, điều mà chúng đã được luyện ở trường, trong sân chơi, với thầy giáo hoặc bạn bè hay thậm chí là trong cả gia đình.
Về phía mình, Sarah cảm ơn đối thủ vì những đức tính của cô. Ban đầu, nàng cảm thấy yên tâm, sau đó, nàng phát hiện ra sự gắn bó mật thiết, kỳ lạ giữa Lucie và Adolf; lòng ghen tuông đã suýt vọt lên đến khi một người bạn phải kêu lên với nàng:
- Cậu không định ghen với một bà xơ đấy chứ? Nhất là cậu, một phụ nữ Do Thái cơ đấy!
Câu châm chọc lại là một liều thuốc hữu hiệu.
Cuối cùng, an tâm rằng không ai cướp Adolf của mình đi, nàng cam lòng chấp nhận mối liên hệ kỳ quặc của chồng mình với người phụ nữ đã cứu anh khi xưa, mặc dù nàng vẫn không biết được sự thực xa gần thế nào...
Về phần xơ Lucie và Adolf, họ thực sự là những người ít biết rõ nhất tại sao họ đi lại với nhau.
- Tôi thậm chí không chắc là mình tin vào Chúa, Adolf nói.
- Tôi thậm chí không chắc là mình yêu tranh của anh, Lucie trả lời.
Và họ cùng cười.
- Điều đáng chú ý là, Adolf nói tiếp, đôi khi chính tôi cũng không chắc chắn mình thích tranh của mình hay không.
- Còn tôi, không phải ngày nào tôi cũng chắc chắn về Chúa.
Chiều Chủ nhật, trong những thời khắc ủ ê, bất động và chậm chạp khi bọn trẻ mới lớn thường muốn tự tử, hắn dẫn nàng đến xưởng của mình, lấy cớ để xem tranh, họ ngồi nói chuyện riêng với nhau.
- Tôi không chắc về bất cứ điều gì. Không chắc là mình vẽ tốt. Không chắc đã hành động đúng. Không chắc đã yêu vợ con mình đủ như cần thiết.
- Càng tốt! Sự chắc chắn thường làm nên những kẻ ngu ngốc.
- Nói gì thì nói chứ! Đôi khi, trong tôi cũng có một chút tin tưởng, điều đó cho phép tôi đi xa hơn.
- Xa hơn những người khác, Adolf ạ, chỉ thế thôi.
- Nói gì thì nói chứ! Nếu một ngày nào đó tôi có thể hết nghi ngờ...
- Đừng hết nghi ngờ, đó chính là cái đã làm nên con người anh bây giờ. Một con người đáng tôn trọng. Điều đó cho anh cảm giác bất an, đành là vậy, nhưng chính sự bất an ấy là hơi thở của anh, cuộc sống của anh, tính người trong anh. Nếu anh muốn kết thúc sự bất an này, anh sẽ trở thành một kẻ cuồng tín. Cuồng tín vì một sự nghiệp nào đó! Hay tệ hơn: cuồng tín chính mình!
- Nhưng còn xơ, Lucie, xơ không bao giờ tin chắc hay sao?
- Không bao giờ. Tôi có đức tin. Nhưng đó không phải là một xác tín. Đó chỉ là một niềm hy vọng.
- Thế còn năng lượng của xơ? Tôi chưa thấy ai nhiều năng lượng như xơ.
Một Chủ nhật, Adolf bảo Heinrich đến xưởng và giới thiệu anh với xơ Lucie. Hắn sung sướng vì hai người mà hắn yêu thương nhất ngoài gia đình được gặp nhau.
Heinrich cho thấy anh xuất sắc, quyến rũ, đam mê như thế nào. Anh biết cách tiết lộ cho xơ Lucie bí quyết thưởng thức tranh của Adolf H.. Anh làm thầy của mình ngạc nhiên vì những kiến thức về lịch sử tôn giáo và thần học. Khi Heinrich ra về vào ban đêm, Adolf quay lại phía xơ Lucie mà vẫn còn chưa hết choáng váng vì cuộc gặp ngày hôm đó.
- Heinrich thật tuyệt vời phải không? Đó là một thiên thần.
Hitler chưa bao giờ thấy xơ Lucie nhăn mặt như vậy.
- Hắn ấy à? Hắn là quỷ dữ.
o O o
Đêm thánh vô cùng, giây phút tưng bừng
Các gia đình ở Đức xúc động ghé tai vào chiếc đài vào cái đêm 24 tháng Mười hai năm 1942 này. Những người phụ nữ nước mắt lưng tròng khi nghĩ có thể tiếng nói đang thoát ra từ cái hộp gỗ to đặt trên chiếc tủ buýp phê cạnh cây thông là của con mình, chồng mình, anh em mình, cháu trai hay chồng chưa cưới của mình.
Đài phát thanh Đức truyền lại tiếng hát của những người lính ở chiến trường Stalingrad. Dàn hợp xướng của quân Đức tan vào trong tiếng hát của những người lính Nga, cuộc đình chiến nhân dịp Noel giao hòa hai đội quân đang quyết tử với nhau từ nhiều tuần nay bên bờ sông Volga.
Bất chấp những tuyên bố lạc quan của Goebbels, dân chúng vẫn lo lắng; người ta xì xào rằng quân Nga đang bóp chết quân đoàn VI bằng ưu thế về quân số, bằng cái lạnh, cái đói; danh sách người tử trận ngày càng dài trên báo chí.
Tuy nhiên, vào cái đêm tình cảm Cơ đốc đang làm hai kẻ cựu thù xích lại gần nhau ấy, các gia đình ở Đức lấy lại được đôi chút hy vọng rằng xét cho cùng, chiến tranh cũng không man rợ đến thế vì giọng hát của người Nga hòa vào giọng hát của người Đức; xét cho cùng, cuộc xung đột có thể sẽ chấm dứt nay mai; dù thế nào đi nữa tối nay sẽ không có ai phải chết.
Từ Hang Sói, trong màn đêm tối như mực của những cánh rừng miền Đông Phổ, Hitler cũng nghe nhữnggiọng hát đôi đang giao hòa với nhau, loẹt xoẹt phát ra từ đài thu thanh, một cái máng cỏ lấp lánh giữa boongke.
Christa và Johanna đọc cho hắn nghe những bức thư cho thấy tinh thần suy sụp do các hạ sĩ quan ởStalingrad viết và gửi về cho người thân, Hitler bắt họ mở ra đọc trước. Khi khám phá ra quy mô của nỗi ghê rợn và của cuộc chém giết, hắn hiểu rằng hắn sẽ thua trận. Tai họa là điều không thể tránh khỏi. Hắn bảo các cô thư ký không đọc nữa và nghe những nốt nhạc sâu lắng cuối cùng của bản thánh ca Giáng sinh.
- Ý tưởng tốt thật. Đúng vậy, chúng ta dàn dựng như thế này quả là đúng đắn.
Đương nhiên, đây là một trò lừa gạt.
Đêm hôm đó, ở Stalingrad, không có ai hát cả và lại thêm một nghìn ba trăm người lính ngã xuống.
o O o
- Tại sao bố lại nhìn con như vậy?
Adolf quay mặt đi.
- Từ khi con còn bé, mỗi lần nhìn con bố đều có vẻ ngạc nhiên như vậy.
- Đúng thế, bây giờ bố nhìn như vậy chính là vì con không còn là một đứa trẻ nữa.
Sophie khó chịu, dằn cây cọ lên mặt toan. Mới mười ba tuổi nhưng cô trông đã lớn hơn thế nhiều. Tuy còn chưa biết mình sẽ được gì khi trở thành người lớn, cô bé đã tính toán đến những cái mình sẽ mất khi không còn là trẻ thơ. Bố cô không còn đặt cô lên vai nữa, không xoa xoa vào lưng khi cô thức dậy, chần chừ mỗi khi ôm cô vào lòng, không còn cho cô nằm lên người trên chiếc sô pha phủ thảm kilim(40) nơi ông nằm nghỉ, mơ màng vào các buổi chiều.
Adolf ngây ngất chiêm ngưỡng con mình đang trở thành một người xa lạ. Bí mật nằm ở đâu nhỉ? Sophie phổng phao hẳn lên. Sự đầy đặn của nó không đến từ bộ ngực mới nhú làm căng mẩy thân trên, cũng không phải đôi hông đang nở ra trong khi eo thắt lại và dâng lên thành cái bụng phẳng tuyệt đẹp, cũng không đến từ đôi chân dài đến vô tận. Không, bí mật không phải ở thành quả của hoạt động miệt mài, kín đáo và cơ học của giai đoạn dậy thì, hay sự bền bỉ của các loại hoóc môn; Sophie trở nên huyền bí khi nó bắt đầu mơ màng, trầm lặng, vẩn vơ muôn ngàn ý nghĩ trong đầu, những xúc cảm chưa từng biết đến.
Sophie tiếp tục vẽ bên cha mình trên một cái giá vẽ nhỏ mà ông đã đặt cho cô và Rembrandt. Cô vẽ tự nhiên như người ta hít thở bởi từ bé đã nhìn thấy cha mình vẽ và vì cô thích ở bên cha.
Heinrich bước vào, má đỏ hây, thở hổn hển.
- Thật tuyệt vời, anh nói khi tựa lưng vào vách kính. Thầy sẽ đến Paris vào tháng Sáu tới đấy ạ.
- Gì cơ?
Để trả công cho các buổi học với thầy, Heinrich nhận làm thư ký cho ông. Anh giơ bức thư vừa nhận được lên.
- Đại điện Grand Palais(41) tổ chức một triển lãm lớn về trường phái Paris. Thầy không chỉ ở trong đó mà gallery Marceau ở Matignon muốn nhân cơ hội này tổ chức một triển lãm hồi cố tất cả các tác phẩm của thầy.
- Gì cơ?
Adolf gần như nổi đóa. Heinrich và Sophie đang sung sướng vì tin mới này nhìn hắn lạ lẫm.
- Ta sẽ không đi.
Hắn ném bảng màu và bút vẽ xuống đất.
- Bố à, bố sao vậy?
- Bố còn quá trẻ. Bố chưa đến tuổi để người ta tổ chức một triển lãm hồi cố. Bố sẽ không đi.
o O o
Trận chiến Stalingrad đã thất bại.
Sau hàng tháng trời chiến đấu anh dũng, tướng von Paulus đã đầu hàng.
Hitler nổi giận cả tuần liền, một cơn thịnh nộ làm hắn lúc mất tiếng, lúc gầm lên trong Hang Sói.
- Không thể được. Không thể hiểu được. Không thể tha thứ được. Vậy đó, một con người mà ta phong hàm thống chế ngày 30 tháng Giêng lại đầu hàng ngày 1 tháng Hai. Ta phong hàm thống chế cho hắn chỉ vì ta nghĩ rằng hắn sẽ chết trên chiến trường. Kiên cường. Anh dũng. Ta phong hàm cho một anh hùng quá cố cơ mà. Không phải cho một tên phản bội đang nắm quyền lực trong tay. Thật nhục nhã! Một người đã chiến đấu hàng tháng trời đột nhiên lại đầu hàng bọn Bôn sê vich.
Trong đám thủ hạ quanh hắn, có người nghĩ là hai trăm nghìn người chết và một trăm ba mươi nghìn người bị bắt làm tù binh đã là đủ để hiểu rằng chiến bại là điều không thể tránh khỏi và tướng von Paulus đã có lý khi hạn chế đổ máu không cần thiết. Tất nhiên, không ai dám nói thẳng ý nghĩ của mình cả.
- Với ta, chúng ta không thất bại ở Stalingrad mà bị phản bội! Từ nay không ai được phong thống chế trong cuộc chiến này nữa. Cái gã Paulus phản bội này bây giờ đang ở đâu? Bị nhốt trong một nhà tù Xô Viết và đang bị lũ chuột gặm: làm sao người ta có thể hèn nhát đến thế nhỉ? Đã là thống chế thì không đời nào chịu bị cầm tù, ông ta sẽ tự tử. Còn hắn ta thì không những buông xuôi tay mà còn sống nữa chứ! Hắn đã làm ô uế sự anh dũng của tất cả những người khác. Thêm một phút nữa, hắn đã trút bỏ được những thứ khốn nạn này và bước vào vĩnh cửu, vào sự bất tử của quốc gia rồi. Hắn, kẻ đã đầu hàng Stalin! Làm sao có thể xử sự như vậy được nhỉ? Thật là điên rồ. Con người này không có chút ý chí nào cả...
Với hắn, người mà thân thể đang rã rời thêm mỗi ngày một chút, mọi chuyện đều từ ý chí mà ra và chỉ ý chí mà thôi.
- Sức mạnh của ý chí! Đó chính là cái làm nên một số phận, một quốc gia! Trong suốt cuộc đời mình, ta đã trải qua những cơn khủng hoảng thử thách ý chí nhưng lúc nào cũng vượt lên tất cả. Liệu ta có thể khẳng định thiên hướng nghệ thuật của mình mà không có ý chí không? Liệu ta có thể sống sót trong cuộc chiến 14-18 mà không có ý chí không? Liệu ta có thể lên nắm quyền nếu không có ý chí không? Liệu ta có trụ được khi không có ý chí? Máu trong người các tướng lĩnh Đức đều là nước củ cải cả, ý chí của họ không nhiều hơn một cái bản lề cánh cửa!
Trên thực tế, các vị tướng lĩnh cũng nhiều ý chí như hắn nhưng không cùng một loại ý chí. Người dân Đức cũng vậy. Cả đất nước này đã bỏ rơi Hitler và chống lại hắn, kết tội hắn đã kéo họ vào một cuộc chiến vô ích với kết cục tất sẽ bi thảm. Trên những bức tường ở Berlin đã xuất hiện những dòng chữ “Hitler dối trá”, “Hitler sát nhân”. Nhiều nhóm phản kháng đã được thành lập, chủ yếu là trong giới bảo thủ và Cơ đốc giáo, trong đó một số nhóm âm mưu ám sát Quốc trưởng.
Biết vậy nên Hitler tránh mọi sự xuất hiện trước công chúng, chỉ làm mỗi việc thuyết phục và đe dọa thủ hạ. Người ta đồn rằng hắn đang già đi trước tuổi, thường xuyên điên loạn, khi có ai nói trái ý mình thì hắn nổi điên lên đến mức cắn vào khăn trải bàn, dãi rớt lòng thòng.
Để bịt những lời xì xào báng bổ này, bộ trưởng Bộ tuyên truyền Goebbels đề nghị Quốc trưởng xuất hiện trước công chúng Berlin ngày 21 tháng Ba năm 1943. Đây là lễ Tưởng niệm những anh hùng đã ngã xuống cho nước Đức. Lần đầu tiên kể từ trận Stalingrad, Hitler nói chuyện với quốc dân. Hắn kiếm cớ thoái thác viện lý do quân Anh sẽ lợi dụng để oanh tạc Berlin nhưng Goebbels đã thành công khi nói rằng nếu dân chúng không sợ mà vẫn đến thì Quốc trưởng cũng không việc gì phải sợ.
Như thường lệ, Hitler chuẩn bị rất ít, tin vào cảm hứng đến với mình ngay khi thấy đám đông chăm chú nghe và đòi hỏi mình.
Hắn tập trung sức lực để leo lên diễn đàn, nhưng cố gắng ấy làm hắn mệt đến mức hắn đột nhiên xuất hiện trên diễn đàn vụng về như một con rối đứt dây, chỉ kịp luống cuống chụp lấy micro.
Hắn bắt đầu bằng một tràng đả kích chủ nghĩa Bôn sê vich. Bất chấp việc các thành viên Gestapo trà trộn để cổ vũ, đám đông không hào hứng và cuồng nhiệt như xưa. Hitler nói nhầm; mặc dù không hề muốn nhưng hắn lại nhầm chủ nghĩa Bôn sê vich với đạo Do Thái. Trong đầu hắn là hình ảnh một chiếc đĩa hát đã xước mà hắn phải vứt đi. Hắn cố cổ vũ mình khi tự nhủ “Không, ngươi không phải là một tuyên truyền viên già nua” và lại tiếp tục. Nhưng khi cần phải tưởng niệm những nạn nhân của Stalingrad, hắn lại bị cuốn theo một cơn cuồng nộ, chửi bới tướng Paulus và bỏ qua chủ đề này. Sau đó, khi phải nhắc đến tất cả những người Đức đã bỏ mạng từ đầu cuộc chiến, hắn không ngăn được mình rút gọn một cách đầy xúc phạm con số ấy, điều này đã gây ra một sự im lặng, ngờ vực. Cuối cùng, hắn cảm thấy mệt mỏi vô chừng khi nói đến hồi kết, hắn cần phải kêu gọi mọi người hãy sưởi ấm trái tim và đừng đánh mất hy vọng vào chiến thắng cuối cùng; đột nhiên, hắn cảm thấy quá cô độc, quá trần trụi, hắn đả kích một lần cuối âm mưu Do Thái trên toàn thế giới rồi biến mất.
Hôm sau, tin đồn bay khắp nước Đức rằng trên thực tế hôm ấy, Hitler không hề diễn thuyết ở Berlin cũng như trên đài phát thanh. Người ta cho rằng Hitler thật, tự nhốt mình vì suy sụp tinh thần, đã gửi người đóng thế cho mình đến diễn thuyết.
Vì thế, hắn ở lại nhà dưỡng bệnh và không đi đâu cả.
o O o
- Gì cơ? Bà không có bức nào của Adolf H. hả? Tôi ấy à, tôi có những ba bức trong phòng khách.
- Ở Paris, giờ người ta chỉ nói đến cái ông Adolf H. này thôi.
- Hôm nọ, nhà Rothschild thậm chí đã tổ chức một dạ hội dành cho ông ta.
- Nhà Weil cũng sẽ làm như vậy vào tháng tới.
- Ừ, đó là họa sĩ đang mốt mà.
- Ông ta còn hơn cả mốt nữa, bà bạn thân mến ạ, bởi mốt thì sẽ hết thời. Còn ông ta thì ông ta có phong cách.
- Chồng tôi vừa mua một bức khổ lớn của ông ta cho ngôi nhà của chúng tôi ở Normandie. Chúng tôi thật may mắn vì ông ta rất ít vẽ tranh khổ lớn. Chúng tôi chẳng bao giờ biết phải treo cái gì trên cầu thang của căn nhà rộng thênh thang ấy.
- Nếu không có gì bí mật thì ông bà đã trả bao nhiêu?
- Cho cái gì? Ngôi nhà ấy hả? Đó là của thừa kế.
- Tôi nói đến bức tranh cơ.
- Bốn trăm nghìn phrăng. Nhưng nó đáng giá ấy. Tin tôi đi. Đắt nhưng nó đáng giá ấy.
- Dù sao thì... cách đây ba tháng, giá bức tranh ấy chỉ bằng một nửa.
- Nó sẽ tăng gấp đôi trong ba tháng nữa. Giá tranh của Adolf H. đang tăng vọt. Tranh vừa đẹp, vừa dễ thở, không quằn quại quá lại vừa là một khoản đầu tư.
- À mà cái tên này, Adolf H., là tên người Đức hay là người Do Thái nhỉ?
- Cả hai, bà bạn thân mến ạ.
- Số lượng những họa sĩ người Do Thái và Đức đang tung hoành trong hội họa hiện nay thật không thể tin nổi phải không? Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên Do Thái-Đức.
- Bà bạn ơi, không chỉ có hội họa đâu, còn âm nhạc nữa. Những Schônberg, Weill, Hindemith. Và những nhạc trưởng nổi tiếng nhất nữa chứ: Bruno Walter, Otto Klemperer, Furtwngler.
- Furtwngler là người Do Thái? Bà chắc chứ?
- Ồ, chắc chắn là như vậy.
- Dù gì thì chắc chắn Adolf H. là người Do Thái. Bố vợ ông ta không phải ai khác chính là Joseph Rubinstein, một trong các trụ cột của chủ nghĩa phục quốc ở Đức.
- Thảo nào!
- Thảo nào gì?
- Tôi nói thảo nào.
- Đúng vậy nhưng cách nói của bà có ám chỉ điều gì đó.
- Tôi nói thảo nào vì bây giờ tôi đã hiểu mối liên hệ với nhà Rothschild.
- Không. Họ yêu các nghệ sĩ, vậy thôi. Nói như vậy thì Picasso cũng là người Do Thái luôn.
- Gì cơ, thế Picasso không phải người Do Thái à?
- Thế hôm nhà Rothschild mở tiệc bà có ở đó không?
- Tất nhiên rồi.
- Thế trông cái tay Adolf H. này như thế nào?
- Mắt đẹp lắm. Một đôi mắt thôi miên. Còn lại thì không có gì đặc biệt. Thậm chí tầm thường nữa là khác. Nhưng đôi mắt thì...
- Ông ta đi với ai?
- Với một cậu thanh niên, đẹp vô cùng, mặt như một thiên thần. Ông ta đã giới thiệu đó là học trò kiêm thư ký của mình.
- Sao qua nổi mắt tôi! Đó là tình nhân của ông ta đấy, rõ quá rồi còn gì.
- Tại sao bà nói vậy?
- Bởi vì tất cả các nghệ sĩ đều... như thế cả. Tôi chưa thấy họa sĩ nào lại có một cuộc sống bình thường cả.
- Không hề, bà nói lung tung rồi! Nói như thế chẳng nhẽ Picasso cũng là người đồng tính chắc.
- Sao, thế Picasso lại không phải là người đồng tính à?
o O o
- Thưa Quốc trưởng, ngài cần phải xuất hiện trước công chúng.
- Không.
- Nhân dân cần sự hiện diện của ngài.
- Không. Ta chỉ xuất hiện sau khi chúng ta đã chiến thắng. Không chiến thắng thì ta chẳng muốn nói gì cả. Vì sự bất tài của các tướng lĩnh mà ta cũng chẳng còn cơ hội để làm điều ấy nữa. Không và không.
- Thưa Quốc trưởng, với tư cách bộ trưởng Bộ tuyên truyền, tôi cần đến sự hiện diện không gì so sánh được của ngài. Chúng ta cần phải quay phim, chụp ảnh. Ví dụ như cảnh ngài đến thăm các thành phố và vùng bị không quân địch oanh tạc.
- Gì cơ? Ông định ghi hình ta giữa đống đổ nát vĩnh viễn vào các cuộn phim hay sao? Rằng ta thừa nhận các thiệt hại ư? Ông có điên không đấy?
- Dân chúng thích điều đó, họ sẽ có cảm giác rằng ngài chia sẻ nỗi đau với họ. Ngài cũng có thể đến thăm các thương binh. Tất cả những điều đó cho thấy ngài có lòng thương xót đến người khác.
- Lòng cảm thương? Đừng nực cười như thế.
- Không thể lơi là việc quan tâm đến dân chúng quá lâu. Dù gì thì họ cũng là nòng cốt trong các nỗ lực chiến tranh của chúng ta.
- Thôi nào, chính ta mới đang làm tất cả. Ta tàn phá sức khỏe của mình để giữ vững mục tiêu của chúng ta. Mỗi đêm ta chỉ ngủ chưa đầy ba tiếng.
Người hoạt khẩu như Goebbels cũng không thể nói lại Hitler ở điểm này: trông Hitler giờ thật khó coi. Cứng đờ, tím tái, tóc lốm đốm sợi bạc, mắt sưng húp, lưng còng, đôi khi hắn khó nhọc tìm một từ để diễn đạt trong khi tay trái run run không kiểm soát được. Hắn đã bỏ lối sống tài tử trước kia với những đêm dài, những giấc ngủ trưa, những buổi thư giãn hàng ngày khi xem phim chiếu riêng cho mình, tán chuyện về nghệ thuật và những giây phút hứng khởi mơ màng bên ma két các công trình kiến trúc. Từ khi cuộc chiến bị sa lầy và từ khi hắn quyết định sẽ tự mình chỉ huy tất cả các trận đánh, hắn ôm hết mọi việc vào người và do đó, trở nên không hiệu quả. Trong núi ý tưởng lộn xộn ấy, chẳng có cái gì ra hồn cả. Sức ép thần kinh liên tục này làm hắn suy sụp ngay cả khi hắn không muốn thừa nhận điều ấy. Hitler không muốn biết đến giới hạn khả năng của mình là hắn chỉ xuất sắc khi đứng trên diễn đàn và chỉ hiệu quả khi tấn công. Nghiệp dư và phá hoại. Không chuyên nghiệp cũng không biết tự vệ.
- Nhân dân Đức cần những tín hiệu từ phía ngài, thưa Quốc trưởng. Nhân dân Đức nhớ ngài.
- Đủ rồi! Nhân dân Đức làm ta bực mình. Họ không ngang tầm với tình hình. Ta thậm chí còn tự hỏi họ có xứng đáng với ta không.
- Cần phải hiểu rằng...
- Không! Bí mật của thành công nằm trong ý chí. Ý chí của ta sẽ không bao giờ khuất phục. Ta biết rằng một vài người Đức muốn thỏa thuận hòa bình. Không bao giờ. Chiến tranh hết mức! Chiến tranh tổng lực! Không đầu hàng! Một vài người Đức còn chưa hiểu sự bất khoan dung có giá trị tới mức nào. Nhưng họ hãy nhìn vào thiên nhiên xem! Không có chút khoan dung nào trong thế giới động vật và thực vật: thiên nhiên hủy diệt tất cả những gì không sống được. Chúng ta cần trụ vững không nao núng. Hoặc chiến thắng hoặc bị hủy diệt. Hoặc là tất cả hoặc là không gì cả. Trong đời mình, ta chưa bao giờ đầu hàng. Ta làm nên mình từ hai bàn tay trắng, anh nghe rõ chưa, một mình ta từ hai bàn tay trắng. Với ta, tình hình của chúng ta hiện nay không có gì mới mẻ cả. Ta đã trải qua những thứ còn tệ hơn kia. Ta theo đuổi mục tiêu của mình một cách cuồng tín bởi anh là người biết rất rõ, Goebbels thân mến ạ, chỉ có sự cuồng tín mới là quan trọng, chỉ có sự cuồng tín mới có sức mạnh cứu rỗi. Không có cuồng tín thì không có gì vĩ đại diễn ra trên trái đất này.
- Tất nhiên, thưa Quốc trưởng, nhưng...
- Nghe ta nói đây này, Goebbels: nếu dân tộc Đức yếu ớt, họ không xứng với số phận nào khác ngoài bị tiêu diệt bởi một dân tộc khác mạnh hơn. Khi đó, người ta không thể thương hại họ được, trong mọi trường hợp, ta sẽ không thương hại.
Hitler ra hiệu cho Goebbels nhỏ bé và lịch lãm ra về. Khi Goebbels ra đến cửa, Hitler gọi giật lại hỏi thăm con cái của Goebbels. Goebbels nói vắn tắt rằng sáu đứa con của mình vẫn khỏe. Đột nhiên, Hitler tỏ ra dễ chịu, hỏi thêm chi tiết về mỗi đứa. Trong suốt hai mươi phút, Goebbels thao thao kể về những đứa con của mình, dường như có làm Hitler vui lên, rồi Goebbels ra về, nhẹ nhõm, sung sướng vì Quốc trưởng trìu mến đến nhường ấy với mình trong giờ phút khó khăn này.
Hitler quay lại với con chó cái của mình, Blondi, đang rối rít chồm lên người hắn và Hitler kể cho con chó nghe chuyện con cái nhà Goebbels. Hắn rất quý những đứa trẻ này và khi nói chuyện với Blondi, hắn gọi chúng là “những chữ H nhỏ”, coi chúng gần như những bộ phận bổ sung cho mình. Do quá ngưỡng mộ thần tượng, Goebbels đã đặt tên con là Helga, Hilde, Hellmut, Holde, Hedda và Heide, như thế hắn có thể tô điểm tới sáu lần chữ cái đầu của Quốc trưởng tôn kính.
Sau đó, Hitler tiếp Himmler, vừa được phong là bộ trưởng Nội vụ của Đế chế, một nhiệm vụ mà con sênđảm nhiệm rất hiệu quả. Hắn nhận thấy Himmler đã tỉa bớt bộ ria thành hai đường dọc nhưng vẫn chưa cạo hết hẳn. Dù gì, biết đâu làm như thế có thể sẽ giữ vững được vẻ oai phong, thậm chí là cả quyền uy của Himmler đối với thủ hạ, cho dù hắn chỉ có một cái bóng của bộ ria kiểu Hitler?
- Himmler, nước Đức làm tôi lo lắng. Tinh thần của nhân dân Đức đang xuống thấp và quả nho khô Goebbels ở Bộ tuyên truyền dường như đang bất lực trong việc cải thiện tình hình. Chính anh là người sẽ cứu vãn được tình thế.
- Cần phải làm gì, thưa Quốc trưởng?
Những ngày sau đó, Himmler triệu tập tất cả các lãnh đạo SS tại Posen rồi đến các nhân vật cao cấp của Đế chế. Hắn phổ biến một cách thẳng thừng tất cả mọi chuyện về các chuyến tàu chở nghẹt người Do Thái khi đi và trở về trống rỗng. Hắn thừa nhận về hoạt động thực sự của các trại tập trung, chết chóc.
- Với chương trình hủy diệt bọn Do Thái ở châu Âu này, chúng ta vừa thực hiện một trang chói lọi trong lịch sử của chúng ta, cái chưa bao giờ được lưu thành văn bản và cũng sẽ không bao giờ như vậy. Chúng ta có quyền tinh thần và hơn hết, có nghĩa vụ đối với dân tộc là phải hủy diệt chủng tộc đang muốn hủy diệt dân tộc ta. Chúng ta sẽ tận diệt vi khuẩn Do Thái, cái có thể làm ta ngã bệnh hay giết chết chúng ta. Hitler sẽ được ghi tên trong lịch sử như Robert Koch, người đã tận diệt bệnh lao và chúng ta tự hào vì tất cả chúng ta đã là những y tá của loài người.
Hitler xoa xoa tay sau bản báo cáo của Himmler.
- Vậy đó. Bây giờ tất cả bọn họ đều liên lụy. Họ đã biết khá đủ về điều này nên sẽ không muốn biết nhiều hơn về nó nữa.
Hắn lại gần cửa sổ nơi hoàng hôn nhuốm màu đỏ rực.
- Bây giờ, tất cả các lãnh đạo Đức đều đã nhúng chàm. Họ đã bị trúng bẫy. Từ nay, họ sẽ không chỉ ngậm miệng lại mà hơn nữa lại còn phải theo lao.
Im lặng bao trùm căn phòng được sưởi ấm không đủ.
Rất bình thản, Hitler thêm vào một câu nhận xét lần đầu tiên không hề đao to búa lớn:
- Từ nay, sau lưng chúng ta, mọi cây cầu đã bị chặt đứt.
o O o
- Vui lòng cho về khách sạn Ritz.
Adolf H. chui tuột vào trong chiếc taxi. Đúng ra thì hắn đổ người vào đó bởi hắn đã quá say.
Paris đãi tiệc mừng hắn. Người ta yêu tranh của hắn một cách cuồng nhiệt và cảm thấy rất vinh hạnh vì hắn đã từng sống ở Pháp. Một sự quay ngoắt kỳ lạ. Giới nhà báo và thượng lưu tìm hiểu từng chi tiết nhỏ nhặt nhất trong thời gian hắn sống ở Paris những năm hai mươi - phố nào, căn hộ nào, quán ăn nào, nhà hàng nào, cứ như đó là điều thú vị lắm - trong khi vào thời hắn sống ở đó, người ta quay lưng lại với hắn và hắn, một người ngoại quốc không có thu nhập ổn định, phải khó nhọc lắm mới kiếm được một nơi ở hay được ông chủ quán cho chịu vài đồng. Tối nay cũng vậy, hắn về khách sạn Ritz nơi chủ gallery đã thuê cho hắn một phòng suite thêm một tuần nữa để cảm ơn hắn vì giá tranh tăng vọt.
Khách sạn Ritz... khi hắn đến Paris năm 1919 hắn đã ở trong một khách sạn tồi tàn, cao và hẹp, khách sạn Tia chớp gần nhà ga phía Đông; ở đó, nhà vệ sinh trên tầng hắn ở bị vỡ kính, gió lạnh lùa vào làm tê cóng cả mông, gái điếm và khách làng chơi đi lại nườm nượp trên cái cầu thang kẽo kẹt, những tấm thảm cả đời không ai giặt mốc xanh mốc đỏ, hắn đã ở chung với Neumann trong một căn phòng bé xíu; và hồi đó, hắn rất hạnh phúc. Giờ đây, hắn cho Heinrich và Sophie đi theo hắn và ở một phòng suite; mọi thứ đều dát vàng, đồ dùng pha lê, rượu sâm banh và tràng kỷ rộng, êm và tiện nghi, hắn nhìn thấy bộ mặt giàu có của thành phố và hắn cũng hạnh phúc.
Có điều, hạnh phúc ấy không giống trước.
Hắn cảm nhận vị cay đắng của thời gian đã qua. Adolf H. đã chinh phục Paris một thời gian ngắn trước khi Mười-một chết và trước khi cuộc khủng hoảng kinh tế hoành hành; hắn chinh phục nó một lần nữa và điều đó chẳng mang lại cho hắn điều gì lớn lao cả trừ việc cảm thấy mình đã già và thấy những người cách đây mười năm lờ hắn đi, nay lại tôn hắn là thiên tài chỉ là những cái chong chóng, phát ra những lời nhận xét vô bổ và tự hạ mình xuống thành những tiếng xì xào mà chính họ phát ra. Tất cả đều ngắn ngủi, phù phiếm. Cái say khi uống một loại rượu vang ngon. Không hơn. Hắn đã tỏ ra nghiêm khắc với những người ca tụng mình đến mức cảm thấy mình có lỗi. Để chuộc lỗi, hắn dành trọn thời gian của mình ở đây để gây dựng danh tiếng cho Heinrich. Hắn đồng ý đến những cuộc hẹn vô bổ để nói đến Heinrich, hắn đi gặp các chủ gallery để họ quan tâm đến Heinrich, hắn vào thành phố chỉ để giới thiệuHeinrich, biết rằng các vị khách mời sẽ bị vẻ đẹp và sức quyến rũ của Heinrich thuyết phục hơn là những cái nhìn lướt qua dành cho tranh của anh, những tác phẩm mà dù sao họ cũng chẳng nhìn ra cái gì.
Heinrich sung sướng khi ở Paris và Adolf vui vì điều ấy. Hắn có cảm giác đang tặng cả thành phố này cho Heinrich để chúc mừng anh tròn hai mươi lăm tuổi. Những mối liên hệ nghiêm túc với giới nghệ thuật nay đã được thiết lập. Heinrich chỉ còn mỗi việc là vẽ. Đó gần như là con ta, Heinrich, con trai trong hội họa của ta bởi Rembrandt lại được trời phú cho khả năng học toán và Sophie vẫn đang tiếp tục tìm kiếm lối đi cho riêng mình. Ta sẽ là người cha hội họa của Heinrich.Sự hào phóng này của Adolf cũng là phương tiện để vượt qua nỗi đau mà mọi nghệ sĩ phải chịu khi nhìn thấy một thiên tài rất trẻ xuất hiện. Adolf cảm thấy mình bị những khả năng thiên bẩm của Heinrich bỏ xa đến mức hắn hài lòng coi mình là thầy và người đỡ đầu cho nghệ sĩ vĩ đại nhất của nửa sau thế kỷ này.
- Bốn mươi phrăng đây, thưa hoàng tử của tôi.
Adolf không mặc cả dù giá tay lái xe đưa ra cao ngất bởi hắn cảm thấy xấu hổ khi kỳ kèo bốn mươi phrăng trước mặt những người gác cổng của khách sạn Ritz.
Hắn trả tiền và lên phòng. Hắn ở phòng chính rộng nhất, Sophie ở phòng thứ hai và một phòng phía trên cầu thang rất đẹp cho Heinrich.
Adolf cởi quần áo, đứng dưới vòi nước ấm thật lâu để gột hết cơn say rồi khoác chiếc pyjama bằng lụa vào.
Khi đi ngang phòng Sophie, hắn nhìn thấy một tia sáng lọt qua và thấy bực tức theo phản xạ của một người cha tằn tiện nghĩ rằng con mình lại để quên đèn khi ngủ.
Hắn đẩy cửa và thấy trên cái giường nhàu nhĩ, lộn xộn, Heinrich đang trần truồng ôm lấy Sophie, cũng không mảnh vải trên người.
Cả hai mở mắt khi nghe tiếng cửa mở và hoảng sợ nhìn Adolf.
o O o
Hai nhà độc tài ngồi giữa đống đổ nát đang còn bốc khói.
Giữa đống mảnh vụn, Hitler đã tìm thấy một cái hòm chưa bị vụ nổ thổi bay đi. Mussolini tựa vào một cái xà trơ trọi, phần sót lại cuối cùng của khung nhà.
Tro than còn bay vẩn vơ trong không khí, ngơ ngác, rời rạc giữa tòa nhà bị xé toang và Paul Schmidt, người phiên dịch, đang kinh sợ kiểm tra xem giữa đống bàn ghế nát vụn, những mảnh vỡ cửa kính và tường, những mảnh quần áo rách nát loang lổ máu, có cái gì nguy hiểm nữa không.
Quanh họ, cánh rừng thê thảm của vùng đất biên cương đang phả ra từng cơn, từng cơn hơi thở giá băng của nó.
Tóc cháy khét, tay buộc khăn thả trước ngực, Hitler bình tĩnh, mỉm cười khi chỉ cho mọi người xem những thứ còn lại của phòng họp trước kia của hắn.
- Vậy đó. Khi nãy, ta đang ở đó, cúi xuống bàn để xem xét tấm bản đồ không quân thì nhìn thấy, trong một phần tư giây, một ngọn lửa vàng xanh. Sau đó là một tiếng nổ khủng khiếp. Ta chìm trong một đám khói đen, dày đặc, xoáy tròn. Sau đó, một trận mưa mảnh kính và mảnh gỗ rơi xuống người ta. Các mảnh vỡ rơi lạch cạch khắp nơi. Lúc đó có hai mươi tư người trong phòng. Khi màn khói tan đi, ta nhìn thấy những bóng người động đậy, đầu tóc, quần áo bắt lửa. Khi đó ta kiểm tra và nhận thấy mình còn nguyên vẹn và có thể cử động. Một vài mảnh vỡ găm vào tay và đùi, ngoài ra không sao hết. Khi bước về phía có ánh sáng, ta vấp phải một xác chết. Một vài thuộc cấp đã chết, một số bị thương nặng. Khi ta bước chân ra ngoài, tướng Keitel tốt bụng đã lao về phía ta, ôm ta và hét lên “Quốc trưởng ơi, ngài còn sống, ngài còn sống!” Ông ấy đã bật khóc, cái ông Keitel trung hậu này.
Nói đến đó Hitler dừng lại nhỏ vài giọt nước mắt, cảm động vì tình cảm của vị tướng hơn là việc mình đã may mắn thoát chết. Mussolini nghe câu chuyện chậm hơn vì còn phải đợi người dịch, cuối cùng cũng làm ra được một vẻ mặt thương cảm.
- Schmidt, bao nhiêu người bị thương nặng? Hitler hỏi to.
- Thưa Quốc trưởng, mười một người.
- Sao cơ? Hitler gầm lên.
- Mười một người.
- Ông thấy đấy Mussolini: mười một người bị thương nặng, rất nặng, chắc chắn họ sẽ chết trong vài giờ tới.
Hắn tuyên bố điều ấy một cách tự hào như thể người ta nói đến một thắng lợi cá nhân.
- Thưa Quốc trưởng, nhân viên tốc ký của người, anh Berger, đã chết trong xe cứu thương. Anh ấy bị đứt lìa hai chân...
- Ai cơ?
- Berger ạ.
- A, ông thấy đấy, Hitler đắc thắng quay sang Mussolini nói như quát.
- Đại tá Brandt chỉ còn sống được vài tiếng, người phiên dịch nói gần như hết hơi.
- A!
Hitler vui sướng. Hậu quả của cuộc ám sát càng lớn, hắn càng kiêu hãnh vì mình vẫn còn sống; vụ thảm sát càng nhấn mạnh rằng hắn là người ngoại lệ.
Mussolini, già nua, sức khỏe sa sút, từng trải, kiệt sức, không còn biết mình đang ở đây làm gì. Bị người dân Ý lật đổ, bị cầm tù, được Hitler giải thoát, được người Đức dùng sức mạnh dựng lên làm người đứng đầu nước cộng hòa Salo bé nhỏ ở phía Bắc nước Ý, ông ta hỏi người phiên dịch tại sao Hitler lại gào lên như vậy.
- Quốc trưởng bị thủng màng nhĩ vì vụ nổ.
- Ông ấy có biết không?
- Không ai dám nói với ông cả.
Mussolini lắc đầu. Ông ta cũng chẳng dại gì chuốc lấy nguy hiểm để nói với Hitler điều ấy.
Hitler nhìn thấy miệng Mussolini và Schmidt mấp máy nên biết là họ đang nói chuyện.
- Thế nào Schmidt, anh bị làm sao vậy? Anh dám nói chuyện riêng với ngài Công tước à!
- Tôi đang cho ngài Công tước biết những tin tức tốt lành về sức khỏe của ngài, thưa Quốc trưởng, Schmidt hét tướng lên.
- Ta rất khỏe, khỏe vô cùng, chỉ sây sát đôi chút.
Hắn đứng dậy và kiêu hãnh quay một vòng để chứng tỏ mình còn khỏe. Trông cứ như hắn vừa sáng tạo ra chính mình.
Khi ấy, Mussolini nhận ra rằng mắt Hitler lệch về bên phải. Vả lại, cả người hắn cũng nghiêng về cùng bên ấy.
- Chắc chắn là thủng màng nhĩ rồi, Mussolini nói với Schmidt, vẻ tư lự.
- Nói gì cơ?
- Ngài khỏe lắm ạ!
Hitler mỉm cười.
- Công tước thân mến, vụ ám sát này đã làm tôi trẻ lại. Nó chứng minh rằng Định mệnh che chở và bảo vệ tôi cho đến khi tôi hoàn thành sứ mệnh của mình. Chúng ta phải vững tâm bất chấp những thử thách tạm thời gặp phải. Phe Đồng minh bị chia rẽ nhiều hơn lời người ta nói và tôi không nghĩ là chúng có thể hòa hợp với nhau lâu nữa đâu. Làm thế nào mà Anh và Mỹ còn đoàn kết với Liên Xô được? Người theo chủ nghĩa tự do với người Bôn sê vich? Chúng sẽ sớm hiểu ra thôi.
Mussolini suýt buột miệng nói rằng Hitler, chính hắn đã là đồng minh của Stalin trong nhiều tháng. Nhưng rồi, ông ta lại yên lặng.
- Nước Đức vừa gặp phải một số khó khăn ở mặt trận miền Đông, người Mỹ đã đổ bộ vào Pháp nhưng chúng tôi sẽ trụ được. Các tướng lĩnh và chỉ huy, những người không xứng đáng với chức vụ được giữ, chẳng giúp tôi được bao nhiêu nhưng tôi đang tự mình nắm lại mọi việc trong tay. Bằng chứng đây! Ông có biết tôi nghi ai trong vụ ám sát này không? Đại tá Claus Schenk, Grafvon Stauffenberg: hắn ta đã rời bàn họp nửa tiếng trước vụ nổ và trốn chạy bằng ô tô. Quân đội đó! Lại là quân đội! Tôi toàn phải chịu khó khăn từ đám nhà binh ăn hại và phản bội. Nhưng tôi tin tưởng chắc chắn vào tương lai. À mà ông đã nhìn thấy quần của tôi chưa?
- Gì cơ?
- Schmidt, hãy cho Công tước xem quần của ta.
Paul Schmidt ngượng ngùng rút khỏi túi xách cái quần rách bươm mà Hitler mặc vào thời điểm vụ ám sát. Anh ta lần mở từng nếp gấp, trải chiếc quần trước mắt Công tước, người sẽ phải trầm trồ mỗi khi nhìn thấy một lỗ thủng, một vết rách.
- Thật đáng ngưỡng mộ phải không? Hitler rống vào tai Mussolini.
Tay người Ý gật gù tỏ vẻ hiểu biết như thể đang xem xét một loại vũ khí mới.
- Ông có muốn xem quần áo lót của tôi không? Hitler gào tướng lên.
Hắn cầm tay Mussolini kéo về phía boong ke. Bùn đất dính cả vào giày bốt, Mussolini phải đỡ Hitler đang tì cả người lên ông ta mà không biết.
- Đúng vậy, Công tước thân mến, chúng ta vừa trải qua vài thử thách đối với ý chí nhưng chúng ta sẽ vượt qua. Tôi trông đợi rất nhiều vào các loại vũ khí thần kỳ sắp xuất xưởng tại các nhà máy của mình. Giáo sư Willy Messerschmitt đã chế tạo được một loại máy bay phản lực có thể đạt tới vận tốc tám trăm ki lô mét giờ và phá tan máy bay địch. Nhưng vũ khí thú vị nhất sẽ là tên lửa A4, một loại tên lửa tầm xa do nhà sáng chế đại tài von Braun chế tạo, nó có thể cho phép chúng ta hủy diệt toàn bộ Luân Đôn với chương trình Kuschkern. Ông nói gì cơ?
- Không gì cả.
- Gì cơ?
- Thật tuyệt vời!
- Đúng, thật tuyệt vời. Đáng ngạc nhiên. Mang tính quyết định. Churchill sắp bị nướng như một con gà rô ti.
Mussolini thở dài, không còn kiên nhẫn được nữa, mệt lử vì sức nặng của người đồng hành, choáng váng vì những lời gào thét của ông ta.
- Tôi rất yêu ông, Mussolini ạ, và tôi ngưỡng mộ ông. Không có ông làm mẫu, có thể tôi đã không dám làm vụ tấn công nước Đức vào thời điểm ấy. Không có Mussolini sẽ không có Hitler.
- Và rồi, không có Hitler sẽ không có Mussolini, Công tước hét lên, rầu rầu nghĩ đến cái quyền lực cỏn con của mình đang được quân đội Đức duy trì một cách tạm bợ.
- Ra thế sao, khôi hài thật. Thật quá sức khôi hài. Thế mà tôi không biết đấy nhé. Quả là quá sức khôi hài. Xem này, nó làm tôi nghĩ đến chuyện vào năm 31 ở Munich...
Mussolini không bao giờ biết cái mà Hitler nghĩ đến. Ông ta để mặc Hitler gào tướng lên đến nổ cả tĩnh mạch cổ mà không buồn đáp lại một câu. Họ còn lảo đảo cả mười lăm lần nữa trước khi đi đến chỗ ô tô.
Ân cần, thao thao bất tuyệt, Hitler tiễn ông ta ra tận ga, đến tận ke, tận cửa toa xe. Là người tin vào số mệnh, Mussolini nghĩ đến cô bồ của mình, tới những cái sẽ được ăn trên tàu tối nay. Ông ta không còn chú ý đến người đồng nhiệm độc tài của mình nữa. Xét cho cùng, Hitler chẳng bao giờ cần người khác phải nghe mình nói và hắn đã bị điếc từ nhiều năm nay rồi.
o O o
“Xơ Lucie thân mến,
Sự phản bội là một thứ ánh sáng thô mộc mang thực tế đến với mọi thứ mà nó soi rọi. Có thể đó là thứ ánh sáng trung thực duy nhất... Từ khi phát hiện vào cái đêm ghê rợn ấy rằng Heinrich ngủ với con gái mới mười ba tuổi của tôi, tôi đã nhìn rõ chân tướng của nó. Không tài nào chịu nổi.
Hôm đó, khi đã trấn tĩnh lại, tôi đã kéo Heinrich, trần truồng, ra phòng khách.
- Mặc quần áo vào và hãy giải thích cho tôi xem.
Hắn quơ lấy một cái khăn choàng buộc ngang hông rồi nhìn tôi, cười ngạo nghễ.
- Chẳng có gì để nói cả.
- Giải thích cho tôi xem! Làm sao mà cậu lại làm như thế với Sophie được?
Hắn cười phá lên.
- Dễ như lấy đồ trong túi.
- Nó mới mười ba tuổi.
- Thế thì sao? Không ai ép cô ấy cả. Cô ấy yêu tôi.
- Không thể như thế được.
- Thế thầy nghĩ là thế nào? Thầy hỏi cô ấy thì biết. Tôi không hề cưỡng ép cô ấy. Không một phút giây nào. Tôi thậm chí còn mất một thời gian mới nhượng bộ. Thầy cứ hỏi đi thì biết.
- Không thể như thế được.
- Tại sao không? Thế thầy thích một vụ cưỡng bức hơn à?
Hắn nhảy lên nằm dài trên tràng kỷ, dửng dưng, lãnh đạm, mỉa mai. Hắn thậm chí còn không hiểu sự đổ vỡ trong lòng tôi.
- Nhưng Heinrich, làm sao cậu có thể làm như thế với tôi? Với tôi đây?
- Thầy và cô ấy là hai người khác nhau. Tôi không thấy chuyện này có liên hệ gì.
- Đó là con gái tôi, Heinrich, tôi có trách nhiệm với nó, tôi phải bảo vệ nó. Thế còn cậu, cậu gần như là con trai tôi và tôi cứ ngỡ cậu là bạn tôi và cậu cũng bảo vệ nó.
Tôi chờ đợi. Tôi để hắn có thời gian suy nghĩ để nhận ra vấn đề, để xấu hổ, hối tiếc, xin lỗi. Sau mười phút, hắn đứng bật dậy, nhìn tôi sốt ruột nếu không muốn nói là khó chịu, và hỏi cộc lốc:
- Thế nào, đã xong chưa? Tôi ghét cay ghét đắng những cảnh kiểu như thế này. Tôi lên phòng đi tắm đây.
Nói rồi hắn bỏ đi.
Chỉ khi ấy, thực sự là như vậy, tôi mới hiểu ra.
Heinrich không hề có chút ý thức đạo đức hay tình cảm nào cả. Hắn đã ngủ với một con bé con bởi hắn có nhu cầu và con bé muốn như thế. Với hắn, câu chuyện chỉ có vậy.
Tôi quay về phòng Sophie nơi con bé đang khóc trên giường. Tôi muốn ôm nó vào lòng để vỗ về, an ủi rằng tôi vẫn thương nó nhưng nó cứng đờ người và lùi về phía cuối giường. Nó chỉ còn chịu được vòng tay ôm ấp của Heinrich!
Tôi cố thử nói chuyện với nó và phát hiện ra sự tàn phá mà con quỷ ấy đã gây ra. Đúng, nó yêu hắn. Vả lại, cả gia đình tôi yêu quý hắn và cả tôi nữa, bố của nó là người đầu tiên, và đã buộc mọi người phải theo mình. Con bé làm thế thì sai ở đâu? Heinrich đẹp trai và chính tôi, tôi cũng nói, rằng hắn là một thiên tài. Thế thì còn nói được gì?
- Cái nhìn của con và hắn không giống nhau, con gái ạ. Con yêu hắn còn hắn thì không.
- Làm sao bố có thể nói như vậy được? Con là đứa không ai thèm yêu có phải không?
- Ồ có chứ, con là người đáng yêu. Và bố rất yêu con, và mẹ con nữa và anh Rembrandt nữa, cả xơ Lucie và biết bao người khác và trong tương lai sẽ còn nhiều người yêu con nữa, nhưng trong đó không có Heinrich.
- Tại sao?
- Vì Heinrich là một con quái vật. Một con thú tham lam, chỉ nghe theo tiếng gọi của những ham muốn trong mình, không có một hàng rào đạo đức hay ý thức về tình bạn nào cả, nó không thể yêu ai.
- Con ghét bố. Bố nói vậy vì bố ghen với anh ấy.
Xơ Lucie thân mến, tôi không kể với xơ những gì xảy ra sau đó trong đêm ấy. Sophie một mực giữ lấy hình ảnh Heinrich là một chàng hoàng tử quyến rũ, còn tôi, người đã hết mực tin vào điều đó, làm sao tôi có thể thuyết phục nó tin vào điều ngược lại?
Heinrich biến mất vào sáng hôm sau. Không một dòng chữ, không một lời giải thích. Trong số các món quà của hắn, sự đường đột này là món quà tôi thích nhất vì nó cho phép tôi thuyết phục được Sophie rằng tôi đã đúng. Từ đó, nó cứ bỏ nhà đi lang thang.
Sau đó, chúng tôi biết rằng Heinrich ở nhiều nhà - một bà tỷ phú người Mỹ động lòng trước vẻ đẹp như một đồng nam Hy Lạp của hắn, một ông chủ gallery già, độc thân cũng rung động như thế, một cặp vợ chồng nhà báo trẻ của tờ Figaro muốn lăng xê hắn, v.v... - rồi hắn đến tất cả những nơi tôi giới thiệu hắn để nói những điều rác rưởi về tôi. Theo những gì hắn nói, hắn đã phải bỏ đi bởi tôi không chịu được khi bị lu mờ trước tài năng xuất chúng của hắn, rằng tôi đã hiểu ra là vì hắn mà tôi chỉ còn là một tay họa sĩ siêu thực hạng ba. Để đòi tiền dạy và đỡ đầu hắn, tôi muốn hắn trả giá cao, ép hắn lấy con gái mình. Tôi sẽ không nhắc lại với xơ rằng hắn dám nói xấu Sophie trong câu chuyện của hắn ra sao bởi đó là điều quá ghê tởm đến mức mỗi lần nghĩ đến điều đó là tôi lại muốn phang cho thằng đó một trận.
Xơ Lucie, xơ giải thích sao về hành động của Cain? Và nụ hôn của Judas? Tên phản bội làm tôi bối rối và hụt hẫng. Từ khi bị giày vò không dứt bởi sự việc này, tôi cố tìm xem lý do nào làm Heinrich cư xử như vậy. Hiểu không phải để cho đó là chính đáng. Hiểu không phải để thôi lên án nó. Hiểu để bớt đau đớn hơn. Cái ác là một sự bí hiểm sâu xa hơn cái thiện bởi trong cái thiện có một luồng sáng, một động lực, một sự khẳng định về cuộc sống. Làm sao người ta có thể chọn sự u tối nhỉ?
Adolf H. tận tụy và rối bời của xơ.”
o O o
Giờ đây, quân Nga đã tiến sát cửa ngõ Berlin.
Từ Dinh quốc trưởng của Đế chế, người ta đã nghe thấy tiếng đạn gầm liên hồi.
Máy bay Anh oanh tạc thành phố không ngừng nghỉ. Khi được trả về với ánh sáng mặt trời và sự yên lặng, thành phố thủ đô chỉ còn giống như một cái kho cũ kỹ đựng đồ trang trí sân khấu cho một đoàn opera tỉnh lẻ; những tòa nhà cao và kiêu hãnh xưa kia nay chỉ còn là một mảng tường, một mặt tiền hoặc một bức tường phủ đầy mỗi tầng mỗi loại thảm khác nhau, không một cái sàn nào còn lại; những mảnh vụn của cuộc sống riêng tư treo lủng lẳng đây đó, lơ lửng trong khoảng không, một cái bồn rửa mặt, một cái mắc áo, một cái bàn trang điểm bấu víu vào mấy chiếc vít còn sót lại, một bức tranh tổ tiên nay không còn người nối dõi. Phía trên đống đổ nát và các mảnh vụn, chỉ còn thấy những phần thứ yếu của những cuộc sống bị đứt đoạn ấy. Bom đạn dường như đã làm công việc bẻ khóa, trộm cắp và để lại một thứ mùi cổ điển của các cuộc cướp phá và cưỡng dâm tập thể.
Hitler chỉ sống dưới mặt đất.
Quay trở lại Berlin - hắn còn có thể đi đâu nữa khi gọng kìm đang siết chặt? Quân Nga tiến từ phía Đông và quân Đồng minh tiến công từ phía Tây - hắn chỉ còn thấy những đống đổ nát của cung điện kiểu tân Ba-rốc đã được dùng làm Dinh quốc trưởng từ thời Bismarck và chỉ còn vài bức tường của Dinh quốc trưởng mới do Speer thiết kế, các căn hộ của hắn xưa kia đã bị bom xăng phá nát. Do đó, hắn đã quay lại boong ke, một nơi trú ẩn chống bom, xây năm 1943 trong vườn, một mê cung ngột ngạt làm bằng bê tông thô với lối vào là một loạt cầu thang dài lê thê, một thứ hang chuột chũi được chiếu sáng một cách sang trọng và chập chờn nhờ một máy phát điện diesel làm sặc mùi dãy hành lang lạnh lẽo, thiếu khí, một thứ hầm mộ mà Quốc trưởng bước vào khi vẫn còn sống.
- Không giải pháp chính trị, không đàm phán, ta sẽ không đầu hàng. Ta sẽ chiến đấu đến người lính cuối cùng. Khi người lính cuối cùng bỏ ta đi, ta sẽ bắn một viên đạn vào đầu mình. Đích thân ta đã cứu nước Đức khỏi một cuộc đình chiến ô nhục. Đích thân ta tránh cho nước Đức khỏi rơi vào thảm họa.
Phần lớn người Đức lại nghĩ ngược lại: Đích thân Hitler đã kéo họ vào ngày tận thế. Một nhà lãnh đạo biết lo lắng cho vận mệnh dân tộc mình, cho thành phố và các công trình công nghiệp, trong trường hợp này sẽ đàm phán để ngăn cuộc hủy diệt lại; lẽ ra ông ta nhận phần xấu hổ ấy về mình và tránh được việc có thêm hàng nghìn dân thường và binh lính phải hy sinh.
Còn hắn, Hitler, hắn đã ra lệnh cho Speer phá hủy các cây cầu, các con đường xa lộ và các tổ hợp công nghiệp: kẻ thù sẽ chỉ chiếm được những vùng đất chìm trong lửa. Lần đầu tiên trong đời, Speer không tuân lệnh Hitler để hy vọng nước Đức sẽ nhanh chóng ngẩng đầu lên được sau chiến bại và ngay từ lúc này, Speer đã tham vọng nghĩ đến tương lai của mình trong Đế chế sau thời đại của Quốc trưởng.
Khi được thông báo về những thỏa thuận khủng khiếp tại hội nghị Yalta nơi Churchill, Roosevelt và Stalin đã tuyên bố cách xử lý nước Đức bại trận, Hitler tỏ ra bình tĩnh, điều làm cho thủ hạ của hắn cảm thấy tê tái.
- Các vị thấy đấy, ta đã nói rồi mà.
- Nhưng thưa Quốc trưởng, đó sẽ là điều khủng khiếp: chặt đất nước ra làm hai và giải trừ quân bị, đảng Quốc xã sẽ bị cấm, công nghiệp bị kiểm soát, phải trả tiền bồi thường chiến tranh và rồi những “tội phạm chiến tranh” sẽ bị đưa ra xét xử.
- Đó là cái mà ta đã nói với các vị từ lâu: đàm phán chẳng ích gì. Cần phải chống cự, chống cự cho đến lúc lật ngược được tình thế. Hay chống cự đến lúc chúng ta biến mất khỏi cõi đời này.
- Nhân dân yêu cầu phải đình chiến càng nhanh càng tốt.
- Đừng tính đến nhân dân làm gì. Họ yếu ớt và muốn tiết kiệm. Còn ta, ta có tiết kiệm không? Ta sẽ chiến đấu đến cùng và khi không còn sức nữa, ta sẽ tự bắn một viên đạn vào đầu. Thực ra cũng không có gì phức tạp, phải không?
Như thường lệ, cơ thể của Hitler chỉ còn là một triệu chứng bằng xương thịt: nó thể hiện tình trạng của nước Đức. Lòng khòng, run lẩy bẩy vì bệnh Parkinson, tay mềm oặt, vẻ ngơ ngác, da mặt bềnh bệch, Quốc trưởng nói một cách khó nhọc để mặc dãi nhỏ rệu hai bên mép. Mỗi lần cử động là một lần đau ghê gớm và đôi tai mưng mủ không ngừng chảy nước.
- Ta sẽ chiến đấu tới cùng.
Hắn không chiến đấu nhưng bản thân việc sống trong đống hoang tàn này đã là một cuộc chiến.
Ông bác sĩ Morell, tròn trịa, da vàng và mặt như bôi kem lúc nào cũng tung tẩy trong boong ke để chăm sóc Hitler: thuốc an thần để ngủ, thuốc kích thích để dậy được, thuốc nước để tiêu hóa, viên nén để phân rắn, thuốc nhuận tràng để đi ngoài được, giờ đây, ngay cả hoạt động sống nhỏ nhất của hắn cũng cần được hỗ trợ. Dùng ma túy, bị nhiễm độc, trở nên nghiện, cái thân hình da bọc xương của Hitler giờ trở thành một cửa hàng thuốc nghiến ngấu những stricnin và cà dược để chống đầy hơi, thuốc phiện để làm dịu những rối loạn đường ruột, cocain trong thuốc nhỏ mắt và amphêtamin để chống mệt mỏi. Các chuyên gia ăn uống chuẩn bị tỉ mỉ các món ăn trong khi hắn không buồn động vào vì sợ bị đầu độc và bác sĩ Morell phải lập luận hàng giờ để thuyết phục rằng hắn đã không bị một vài nhiễm trùng thể hiếm mà hắn còn chưa mắc phải. Do số người chết trận quá nhiều, Hitler không quan tâm đến các căn bệnh không nguy hiểm ngay tức khắc như ung thư hay yếu tim như trước và chỉ yêu cầu tìm các bệnh nguy hiểm có thể làm chết người ngay. Nỗi ám ảnh bệnh tật và sức khỏe của hắn đã thích nghi với hoàn cảnh thời chiến.
Hắn đọc lại lịch sử cuộc đời Frédéric Đại đế, có tấm chân dung hắn đã cho đặt trong văn phòng dưới mặt đất của mình, và tiếp tục nghĩ rằng sự kiên định của mình sẽ giúp giải quyết được mọi chuyện. Khi người ta thông báo cho hắn rằng tổng thống Mỹ Roosevelt đã chết, hắn cho rằng đó là một dấu hiệu mang tính quyết định mà Định mệnh gửi đến. Roosevelt chết khi cuộc chiến đang hồi ác liệt như nữ hoàng Nga Elisabeth trong cuộc chiến với Frédéric Đại đế! Điều đó có nghĩa là tình thế sắp đảo ngược.
- Như trong Chiến tranh Bảy năm. Với chúng ta, thời hạn đó chỉ là năm năm. Chúng ta không có quyền phàn nàn!
Hôm ấy, hắn chơi nhiều giờ liền với con Loup, con của Blondi. Tương lai xán lạn lại lóe rạng nơi chân trời.
Trong thời gian ấy, các vị trí quan sát đặt trong vườn thú đã khẳng định rằng pháo binh Nga đang tiến vào Berlin.
Thời điểm ấy đã đến, khi Hồng quân chỉ còn cách boong ke của Hitler có vài trăm mét.
Hitler chửi bới om sòm trong suốt một giờ.
- Cái tay Gôring ngu xuẩn này chưa bao giờ có khả năng trợ giúp ta, đó là một thằng nghiện moóc phin, một thằng biến chất, một đống thịt lúc nào cũng chỉ nghĩ đến việc cứu cái thân mình và kho tàng chiến lợi phẩm của mình. Các người tưởng ta không nhận ra rằng hắn đã trang điểm hay sao, rằng hắn đã đánh phấn để đẹp hơn trên ảnh hay sao? Các người tưởng ta chưa bao giờ chú ý đến cách ăn mặc phô trương của hắn sao, những bộ quần áo dạ hội bằng lụa màu ghi bồ câu và những cái áo ngủ như một thầy tu Ấn Độ của hắn hay sao? Các người tưởng ta không biết rằng hắn đã cướp bóc tất cả các bảo tàng trong các nước chúng ta chiếm đóng để làm đầy cái kho của hắn sao? Ta biết tất cả những điều đó nhưng ta đã bỏ qua vì nghĩ rằng hắn trung thành với ta! Và cả con giòi Himmler nữa, một con sên có ria, cácngười tưởng ta không biết hắn đang cố gắng dùng bọn Do Thái trong các trại tập trung để đàm phán vớiBernadotte của Thụy Điển ư! Dùng bọn Do Thái còn lại như một thứ con tin để đàm phán đình chiến thay vì tiêu diệt bọn chúng! Các người tưởng ta không biết rằng hắn đang cố gắng chuẩn bị tương lai của mình với bọn Đồng minh sao! Xử bắn! Ta muốn mang chúng ra bắn hết! Ta đã bị phản bội! Đám tướng lĩnh đã phản bội ta. Lục quân đã phản bội ta! SS đã phản bội ta! Không quân đã phản bội ta! Công nghiệp đã phản bội ta! Xung quanh ta rặt một lũ phản bội hay những kẻ chẳng ra gì! Chết đi! Chết đi!
Đột nhiên hắn ngừng sủa. Giọng hắn vỡ tan. Chính hắn cũng không đứng được nữa. Hắn đổ vật xuống bàn và thều thào, mặt tái nhợt:
- Cuộc chiến đã thất bại.
Bác sĩ Morell muốn tiêm cho hắn một mũi glucoza.
Hitler đứng bật dậy và hãi hùng nhìn ông ta.
- Ông muốn tiêm ma túy cho ta. Ông muốn ngăn ta thoát khỏi vũng lầy này. Ta sẽ mang ông đi xử bắn.
- Nhưng thưa Quốc trưởng, đây chỉ là glucoza thôi.
- Xử bắn! Đồ đầu độc! Bắn ngay tại trận!
Bác sĩ Morell lúc túc chạy ra ngoài và dán mình vào phòng giặt để đợi cơn dông qua.
Hitler căm thù nhìn những người quanh mình.
- Ta sẽ tự tử.
- Nhưng thưa Quốc trưởng...
- Đó là cơ hội duy nhất để khôi phục danh tiếng cá nhân của ta. Nếu ta rời sân khấu thế gian này một cách ô nhục thì đời ta vô nghĩa. Ra ngoài! Ra ngoài hết!
Hắn chợt thấy lòng se lại: cả đời mình, hắn đã nói đến tự tử; những tháng gần đây, hắn thậm chí đã nói đến chuyện đó nhiều hơn bao giờ hết nhưng lúc nào giọng hắn cũng vui vẻ, như một biểu hiện của nam tính, một sự dí dỏm, một sự khẳng định mình, một dấu hiệu của sức khỏe tốt; ngày hôm nay, lần đầu tiên hắn nghĩ đó là chuyện nghiêm túc và biết rằng mình sẽ làm điều ấy. Điều này tạo ra một hiệu ứng khác hẳn.
Hắn đứng dậy, thấy mình loạng choạng và nhìn mình trong chiếc gương trong phòng tắm.
Hắn kinh hoàng khi nhìn vào tấm gương. Hình trong gương không phải hắn mà là dì Johanna, em của mẹhắn. Những lớp thịt xệ xuống, những nếp nhăn, chỗ dưới mắt sưng phồng và vằn máu, những sợi bạc trong mái tóc xơ xác, tất cả thuộc về dì Johanna như lần cuối cùng hắn gặp bà chứ không phải thuộc về hắn, Adolf Hitler. Nhầm rồi! Hắn thấy chán chường, trong chiếc gương phía trên bồn rửa tay, hắn cũ nát như khuôn mặt của dì Johanna.
Quay lại phòng làm việc, hắn thả người xuống chiếc tràng kỷ. Phải quen. Ta cần phải có vài ngày để quen. Ta luôn biết rằng mình sẽ chết đứng nhưng điều đó có vẻ quá xa vời với ta... Hắn nhìn chân dung Frédéric Đại đế treo ở phía trên để lấy lại dũng khí nhưng vị vua chẳng phản ứng gì. Hy sinh là một cảnh tượng đẹp. Dù gì, không được để cho bọn Nga bắt sống mình, nếu không... Đúng vậy, một vụ xử, chúng hoàn toàn có thể xét xử ta. Như một tội phạm chiến tranh. Thật nực cười. Chính bọn Do Thái, Bôn sê vich, Anh, Mỹ là người khởi xướng cuộc chiến tranh đầy tội ác này, thế mà chúng lại coi ta, chính ta, là “tội phạm chiến tranh”. Mọi thứ đảo lộn cả. Rời bỏ thế giới đang điên loạn này. Và chúng sẽ xử bắn ta. Ta, Adolf Hitler, bị một nhóm sát thủ cộng sản bắt tựa lưng vào tường, không bao giờ! Đương nhiên, ta còn có thể trụ thêm vài ngày ở Bavaria. Nhưng để làm gì cơ chứ? Nhà độc tài Hitler không quyền lực lẩn lút trong dãy Alpe? Như một vai phụ? Còn lâu, ta sẽ không thành kẻ tị nạn ở Berchtesgaden. Chúng sẽ nhanh chóng tìm ra ta. Sống thêm vài ngày nữa, nhưng mất thể diện. Không, cần phải chết ở đây. Giữa lòng Đế chế. Bị phản bội và bị bao vây. Nhưng vẫn đường hoàng. Một tấm gương tuyệt vời làm sao cho các thế hệ mai sau. Hitler, người anh hùng. Hitler, biểu trưng của một sự phản kháng đến cùng. Năm năm nữa, cả châu Âu sẽ trở thành Bôn sê vich, chủ nghĩa quốc xã sẽ là một huyền thoại và ta sẽ trở thành thần thoại. Người ta sẽ nghĩ đến ta như nghĩ đến Socrates hay Jesus. Siegfried. Rienzi. Nhân vật của Wagner đến đúng lúc để chuyển hắn từ trạng thái khởi động sang phấn khích. Rienzi, người La Mã quả cảm bị bọn dân đen bạc bẽo bỏ rơi, những kẻ đang bị ngọn lửa quảng trường Capitole thiêu đốt. Cảm ơn Wagner. Cảm ơn Định mệnh đã gửi đến cho ta, từ hồi ta còn rất trẻ, điềm báo cho vận mệnh của ta. Rienzi. Đúng vậy. Rienzi.
Do đó, hắn tiến về phía máy quay đĩa và bật phần mở đầu của vở Rienzi. Giọng hát hào hùng, trầm ấm, kiêu hãnh, đầy nam tính đưa giấc mơ của hắn mở rộng đến tầm vũ trụ khiến hắn cảm thấy cực kỳ sảng khoái.
Nằm dài, mắt nhắm, gáy tựa lên gối, hắn say sưa với những hình ảnh trong tương lai, cảnh người ta thờ phụng hắn, những đám rước linh đình nhân ngày giỗ và ngày sinh của hắn, những cây cờ đỏ và đen mang hình chữ thập ngoặc, những đám đông đứng tưởng niệm, hài hòa và thống nhất như một dàn hợp xướng trong nhà hát, cả bộ mặt đẹp đẽ của hắn trên những bức ảnh dài mười mét, rộng mười mét, với cặp mắt sáng bao dung nhìn vào các thế hệ mai sau. Hắn nghĩ đến niềm xúc động của các em nhỏ người Đức khi lần đầu tiên trong đời, trong một không gian thơm mùi mực viết và hồ dán hương hạnh nhân, được nghe thầy cô kể câu chuyện hấp dẫn về cuộc đời của Hitler, hắn thấy mình sống trong trái tim thuần khiết và dễ xúc động của các em. Hắn thoáng thấy cái sức mạnh mà những thanh niên mới lớn có thể trích ra được trong hàng thế kỷ sau, từ ý chí sắt đá của hắn, từ cuộc đời của một con người được căng lên như cánh cung từ ngày đầu đến ngày cuối cùng. Đúng vậy, cuộc đời hắn cần phải được kết thúc bằng một cuộc tự sát, một cái chết tự hắn quyết định, bởi trong cuộc đời mình, tất cả những gì hắn có là do ý chí của hắn mà ra. Ý chí! Ý chí! Cả cái chết cũng vậy!
Khi cái đĩa ngừng quay, Hitler đã quá yêu cái chết của mình rồi.
Eva Braun phủ phục dưới chân hắn, van lơn.
- Em ở lại đây. Em muốn được chết bên anh.
Phản ứng đầu tiên của Hitler là từ chối. Không, ngươi không định đánh cắp cái chết của ta đấy chứ. Một lối thoát đẹp đẽ ta đang chuẩn bị, thế mà ngươi, ngươi đã muốn thó các mảnh vụn của nó ngay từ bây giờ sao?
Hắn nghiêng người và phát hiện ra hôm ấy Eva đẹp, trẻ trung, rạng ngời. Hôm đó, tóc của cô màu nâu bởi ngành công nghiệp khó khăn của thời chiến không sản xuất đủ thuốc nhuộm tóc vàng cho cô. Cô mỉm cười với hắn, rùng mình.
- Adolf, em muốn chết bên anh.
Hình ảnh đi vào đầu Hitler như một tia chớp: cặp nhân tình nằm chết bên nhau, Tristan và Iseult. Đúng vậy. Một lớp vàng son mới cho truyền thuyết về hắn. Adolf và Eva, những người tình anh hùng và vĩnh cửu. Adolf và Eva như Romeo và Juliette hay Tristan và Iseult.
- Được. Em sẽ chết bên ta.
Cảm ơn Wagner.
- Em hạnh phúc quá, Adolf. Anh chưa bao giờ làm em sung sướng đến vậy.
Hitler nhăn mặt. Hắn thích không nghĩ gì về quá khứ nữa, những cảnh chờ đợi dai dẳng, những lời nhiếc móc, những sự sỉ nhục mà hắn đã bắt cô phải chịu đựng. Tất cả bắt đầu lại từ số 0. Xét cho cùng, với hắn, câu chuyện giữa họ mới bắt đầu vào ngày hôm nay. Đúng vậy. Hắn chưa bao giờ để công chúng biết đến Eva Braun, hắn đã giấu kỹ cô nhưng hắn sắp chính thức hóa quan hệ giữa họ. Quốc trưởng bước vào sự tĩnh mịch của cái chết với một con người xinh đẹp, yêu hắn, ở bên. Thật tuyệt vời.
- Em có muốn lấy ta không?
Eva Braun ngỡ mình nghe nhầm.
- Eva, ta hỏi em có muốn lấy ta không? Hitler hét lên, hắn vẫn rống lên như thế từ hồi bị thủng màng nhĩ.
Mắt Eva rơm rớm: cuối cùng hắn cũng đưa ra lời đề nghị mà cô đã đòi hỏi cả trăm lần và cũng là lời đề nghị gây ra mọi cuộc cãi vã giữa họ. Cô nằm sõng soài dưới đất và khóc nức nở.
- Eva, ta hỏi em câu hỏi mà đời ta chưa đặt ra với ai bao giờ. Ta muốn có câu trả lời.
Eva ôm chầm lấy Hitler hôn lấy hôn để.
- Đương nhiên rồi, tình yêu của em. Tất nhiên là có chứ. Đó là giấc mơ tuyệt vời nhất của em. Em đã yêu cầu anh điều ấy từ bao lâu nay.
Cô hôn khắp người Hitler làm hắn buồn nôn nhưng trong tình thế này, hắn ghìm mình không đẩy Eva ra.
- Em có hạnh phúc không?
- Đây là ngày đẹp nhất của đời em.
- Rất tốt. Vậy thì chúng ta sẽ làm lễ cưới tối nay và ngày mai chúng ta sẽ tự tử.
Hắn đứng dậy để chặn lại cơn cuồng nhiệt của Eva và đi về phía két sắt.
- Ta phải thiêu hủy tài liệu.
- Vâng, tình yêu của em.
- Vậy hãy gọi thư ký của ta và chuẩn bị tổ chức buổi lễ tối nay cùng với họ.
Eva vẫn chưa tin được sự thay đổi đột ngột này.
- Adolf, dù sao em cũng muốn biết...
- Sao cơ? Hitler gầm lên vì không nghe thấy gì.
- Em muốn biết...
- Gì?
- Sao lại là bây giờ? Tại sao giờ đây anh lại trao cho em... niềm vinh dự lớn lao mà trước đây anh một mực từchối?
- Để đảm bảo tính nhất quán.
- Để gì cơ?
- Để đảm bảo tính nhất quán. Ta luôn nhắc lại rằng: chừng nào tương lai chính trị của ta còn, ta sẽ loại trừ đám cưới. Giờ ta không còn tương lai chính trị vậy nên ta cưới em.
Eva tần ngần vài giây, không biết mình nên đón nhận lời cầu hôn kỳ quặc này như thế nào, nhưng vì chưa bao giờ có lời đề nghị nào khác, Eva quyết định mình sẽ là người đàn bà hạnh phúc nhất trên đời.
Khi nhìn thấy những chồng tài liệu lấy từ két sắt ra cháy bừng bừng, những tài liệu về tài sản riêng của hắn, về việc tổ chức chương trình diệt chủng, phá hủy các nhà thờ Cơ đốc giáo và một vài bản phác thảo kiến trúc cũ, Hitler mơ màng nghĩ về sự đặc sắc của mình.
“Ta mới khác biệt làm sao. Quanh ta, tất cả đều chỉ nghĩ đến việc cứu bản thân và tài sản của mình. Ta thì khác, ta đốt hết. Thanh bạch làm sao! Cao quý làm sao! Tất cả đều cao quý. Và cao quý đến phút cuối. Thực ra, ta phải quyết định như thế nào về mồ mả của mình đây nhỉ?“
- Christa! Johanna!
Hai thư ký của hắn xuất hiện, vẻ mặt nhợt nhạt.
- Nào, đừng buồn như thế. Ra đi như thế tốt hơn là chấp nhận sự sỉ nhục.
- Thưa Quốc trưởng, chúng ta vừa nhận được một bức điện liên quan đến Mussolini.
- Thế nào?
- Ông ta đã chết.
- À...
Hitler đã quá bận tâm đến mình để có thể cảm thấy một chút thương cảm nào đó. Hắn muốn chấm dứt cuộc đối thoại này và khỏi phải nhìn thấy vẻ mặt u sầu của các thư ký.
- Vì sao chết?
- Ông ấy và người tình của mình, Clara Petacci, bị treo cổ một cách rùng rợn, đầu chúc xuống dưới, và đám dân đen đã ném đá vào người họ.
Hitler rùng mình. Thế nếu quân Nga cũng làm như vậy với xác hắn thì sao nhỉ? Hắn cần phải thận trọng. Hắn giải thích cho hai người thư ký đang khiếp sợ rằng sau khi hắn và Eva Braun chết thì xác của họ phải được đốt ngay lập tức. Sau đó phải cẩn trọng lấy lại tro xác để đặt trong lăng mộ khổng lồ mà sau này hậu thế sẽ chắc chắn dành cho họ. Điều quan trọng là phải thiêu càng nhanh càng tốt. Thi thể để trong sân, rưới xăng lên, rồi que diêm là xong! Hắn không chịu được hình ảnh người ta lấy xác hắn ra làm trò tiêu khiển! Không bao giờ bắt được ta, sống hay chết. Không ai bắt được gì ở ta.
Lễ cưới diễn ra trong boong ke vào lúc nửa đêm. Xúc động vì niềm vui của Eva khi thông báo với mọi người rằng cuối cùng cô cũng có được đêm tân hôn, nữ thư ký Christa đã tặng Eva lọ thuốc nhuộm cuối cùng để Eva có mái tóc vàng bạch kim trong bộ váy xinh xắn màu xanh da trời.
Eva sung sướng khôn cùng. Cô lúc nào cũng yêu Hitler nhưng chưa bao giờ chắc chắn rằng hắn yêu cô. Với cô, đám cưới hôm nay là một bằng chứng của tình yêu ấy.
Trong căn hầm trú ẩn chốc chốc lại rung lên sau những tiếng nổ, trước một ủy viên Hội đồng thành phố mặc đồng phục quốc xã tên là Wagner, Adolf và Eva Braun thề chung thủy với nhau suốt đời. Rồi cử tọa chúc mừng cặp vợ chồng mới cưới, sâm banh nổ lốp bốp và có cả bánh ga tô nhỏ nữa.
Goebbels đến vào lúc bốn giờ sáng, rất xúc động, nước mắt chảy ròng trên má và thông báo rằng vợ và các con của hắn đến ở trong boong ke và sẽ chết theo họ.
Hitler rất cảm kích vì nghĩa cử này.
Hắn hôn sáu “chữ H nhỏ”, Helga, Hilde, Hellmut, Holde, Hedda và Heide, đang vô tư không chút nghingờ và mừng đến không tin nổi rằng mình còn bé thế, mới từ bốn đến mười hai tuổi, mà lại được thức đêm cùng với người lớn. Hitler chơi đùa với chúng một lát rồi về nghỉ. Khi về đến phòng hợp hôn, hắn nghĩ rằng kết cục của hắn một mình thì giống Rienzi, có thêm Eva thì giống Tristan và Isolde, và khi có cả sáu “chữ H nhỏ”, thì lại giống vở Hoàng hôn của các vị thần(42).
Eva và hắn làm những tư thế mà sự mệt mỏi và đêm tân hôn còn cho phép. Lần đầu tiên, Hitler ngủ mà không cần thuốc an thần.
Bảy giờ sáng, hắn bị đánh thức bởi một sự nghi ngờ. Nếu ống thuốc độc là giả thì sao nhỉ? Một âm mưu chẳng hạn?
Hắn đánh thức Eva dậy.
- Eva, ta cần kiểm tra xem ống thuốc mà em sẽ nuốt có tác dụng hay không. Ví thử như...
Eva không tài nào hiểu được còn có thể tưởng tượng ra cái gì tệ hơn thế, nhưng vẫn cố thử trấn an chồng.
- Eva, em không hiểu đâu. Ai cũng nói dối. Ai cũng lừa gạt. Ai cũng phản bội. Cái gì đảm bảo cho ta rằng những ống axít xianhidric(43) của bác sĩ Stumpfegger, cái tay phản trắc ấy, lại có tác dụng? Blondi! Phải rồi! Ta phải thử trên Blondi.
Hắn gọi con chó cưng của mình đến, chắc chắn đó là sinh vật mà hắn âu yếm nhất trên trái đất này, rồi cho người giữ chặt con chó, gang mồm nó ra rồi đập vỡ cái lọ thủy tinh chứa axít xianhidric vào mõm nó.
Ngay lập tức con chó lăn ra đất chết.
Loup, con của Blondi, đến bên ngửi ngửi cái xác của mẹ, không hiểu tại sao mẹ không cựa quậy nữa. Một mùi hạnh nhân nồng nặc, mùi đặc trưng của loại thuốc độc này, bốc lên từ xác con vật. Điều này làm con Sói nhỏ hoảng hốt lùi lại và kêu ăng ẳng chạy biến đi.
Hitler nhìn cảnh tượng không nói một câu rồi nhốt mình trong văn phòng. Hắn không muốn người ta nhìn thấy hắn khóc.
Hắn quyết định cho mình thêm một ngày nữa. Dù gì, có thể Hồng quân sẽ lùi bước chăng? Có thể...
Thuộc cấp đến báo cáo tình hình với hắn: thất bại nặng nề đến mức Hitler không còn gì để nói. Hắn đi ngủ và thì thầm với Eva:
- Ta đã cho chúng ta thêm một ngày để làm chồng em ít nhất hai mươi tư giờ nữa.
Eva Braun bật khóc nức nở, bình thường trông cô vui tươi đến thế nên Hitler ngạc nhiên khi thấy cô nước mắt đầm đìa như vậy.
Ngày hôm sau, Hitler được báo qua điện thoại rằng lính Xô Viết có thể tiến vào khu vườn bất cứ lúc nào.
Hitler vận đồng phục, Eva mặc chiếc váy màu xanh hôm cưới và hắn thông báo rằng họ sẽ tự tử ngày hôm nay.
Tuy nhiên, Hitler vẫn giữ bữa ăn trưa vào mười ba giờ như thường lệ bởi hắn thấy đói. Vào giờ ăn sa lát, hắn chợt nhớ ra Georg Elser, kẻ mưu sát, phiên bản của hắn, người Đức trung lưu mà hắn cho giam giữ; hắn gọi điện sai người hành quyết anh ta. Xong việc, hắn ăn ngon miệng hơn.
Bữa ăn tráng miệng của hắn bị làm phiền bởi Magda Goebbels, hết sức bấn loạn, đến van vỉ Quốc trưởng miễn cho bọn trẻ chết chung và thuyết phục chồng bà ta thay đổi ý kiến.
- Thưa bà, cái gì đã nói ra thì không thay đổi được.
Hắn gạt bà ta sang một bên và rút về phòng làm việc của mình. Eva Braun cũng đi theo hắn ngay lập tức.
Mọi người đợi sau cánh cửa. Goebbels, Bormann, Axmann, người hầu phòng và những thành viên khác trong boong ke căng tai lên nghe ngóng. Vô ích. Át hết tất cả là tiếng máy diesel ồn ồn và tiếng cười đùa ồn ĩ của bọn trẻ nhà Goebbels, không hề biết mình đã ăn bữa ăn cuối đời mình với các cô thư ký.
Khoảng mười phút sau, người hầu phòng quyết định mở cửa.
Eva Braun, ngã gục phía bên trái, người bốc lên mùi thạch tín khủng khiếp.
Máu Hitler nhỏ ròng ròng, bất động, khẩu súng rơi dưới chân.
Lúc ấy là mười lăm giờ hai mươi chín phút.
o O o
“Adolf H. thân mến,
Tôi đã rất hạnh phúc khi cuối cùng cũng được gặp lại Adolf và Sophie vào cuối ngày Chủ nhật vừa rồi, sau chuyến dông tố ở Paris. Nổi bật hơn tất cả là sự âu yếm mà Sophie dành cho anh, điều đó cho thấy con bé đã vượt qua được thử thách này và đã trưởng thành hơn, từ nay có lẽ con bé sẽ đánh giá một người đàn ông qua cả những phẩm chất đạo đức và vẻ bên ngoài trước khi tính đến chuyện đi xa hơn trong mối quan hệ. Thực ra, đó chính là những gì mà bà xơ già Lucie của anh hy vọng. Về phần Rembrandt và Sarah, tốt hơn hết là họ hãy tiếp tục tin rằng sự tuyệt giao-phản bội của Heinrich chỉ dừng lại ở anh mà thôi. Sự thật sẽ được sáng tỏ khi thời điểm đến; với anh, người không có sự lựa chọn nào, sự thật ấy đến sớm dưới dạng một cuộc khủng hoảng; với họ, nó sẽ đến muộn hơn, vào một tối mùa hè, một tối dành cho tâm sự, như một món quà có được sau một buổi ngồi cùng nhau.
Trong không khí của cuộc hội ngộ, chúng ta chưa có dịp để nói về Heinrich.
Theo tôi, Cain, Judas hay tay Heinrich của Adolf không phải là những kẻ phản bội. Mà họ trước hết là những con quái vật, sự phản bội chỉ là một phần nhỏ trong sự gớm ghiếc của chúng.
Thế nào là một con quái vật? Đó là một người liên tục làm điều ác.
Hắn có ý thức được rằng mình đang làm điều ác không? Trong phần lớn trường hợp là không. Cũng có khi hắn biết, nhưng sự ý thức này không làm hắn thay đổi. Bởi con quái vật cho là nó làm đúng khi nói rằng nó chẳng bao giờ muốn điều ác cả. Đó chỉ đơn thuần là một tai nạn nhỏ mà thôi.
Trong khi bao điều ác đang xảy ra trên thế giới này thì không kẻ nào bảo rằng hắn mong muốn làm điều ác. Không có ai độc ác một cách cố ý cả, ngay cả người thất hứa nhiều nhất, tên sát nhân tồi tệ nhất hay tên độc tài khát máu nhất. Ai cũng nghĩ là mình hành động đúng, hoặc ít ra là đúng theo cái mà hắn gọi là tốt, và nếu cái tốt ấy không phải là cái tốt với những người khác, nếu nó gây ra đau đớn, muộn phiền, đổ nát, đó chỉ là một hậu quả mang tính dây chuyền, người tạo ra nó không cố ý làm vậy. Thằng khốn nạn nào cũng nói tay mình sạch sẽ. Tôi, người làm nhiệm vụ của một xơ - thăm tù trong các trại giam khắp nước Phổ, tôi có thể khẳng định điều này với Adolf: tên khốn nạn thanh thản nhìn mình trong gương, hắn yêu mình, hắn tự chiêm ngưỡng mình, hắn tự bào chữa cho hành động của mình, hắn có cảm giác - chừng nào hắn chưa thất bại - rằng mình đã vượt qua những thử thách làm chùn bướcnhững kẻ khác; hắn không xa việc tự coi mình là anh hùng là mấy.
Heinrich cũng thế. Nó chỉ nghĩ đến quyền lợi và khoái lạc của mình - nó gọi đó là cái thiện - và không gì, trừ một thất bại, có thể ngăn bước chân của nó lại. Nó sẽ còn làm rất nhiều điều ác và vẽ được rất nhiều bức tranh đẹp.
Nhưng Heinrich chỉ là một tên vô lại tầm thường. Còn có những tên tồi tệ hơn.
Tôi nghĩ là có hai loại quái vật trên cõi đời này: những kẻ chỉ nghĩ đến mình và những kẻ chỉ nghĩ đến người khác. Nói khác đi những kẻ khốn nạn vị kỷ và những kẻ khốn nạn vị tha. Heinrich thuộc loại thứ nhất bởi nó đặt sự sung sướng và thành công của mình lên trên tất cả. Tuy vậy, dù có gây hại đến đâu, nó cũng không bao giờ gây nhiều hậu quả như những kẻ thuộc nhóm thứ hai.
Những kẻ khốn nạn vị tha gây nên những thiệt hại nghiêm trọng hơn bởi không gì có thể làm chúng dừng lại được, cả lạc thú, cả sự no nê, cả tiền bạc lẫn danh vọng. Tại sao vậy? Bởi vì những kẻ khốn nạn vị thachỉ nghĩ đến người khác, chúng vượt khỏi ranh giới của cái khốn nạn riêng mình, chúng có thành công lớn về mặt chính trị. Mussolini, Franco hay Stalin cảm thấy mình có một sứ mệnh, trong đầu họ, tất cả những gì họ làm là để tốt cho lợi ích chung, họ tin chắc mình làm đúng khi bãi bỏ tự do, bỏ tù thậm chí là xử bắn những người chống đối. Họ không thấy phần của kẻ khác. Họ chùi bàn tay nhuốm máu vào cái giẻ lý tưởng của họ, họ chăm chăm nhìn về phía chân trời tương lai, không có khả năng nhìn con người ở vị thế một con người, họ nói với dân chúng của mình rằng thời đại huy hoàng sẽ đến trong khi bắt những người ấy phải sống trong những điều kiện tồi tệ nhất. Và không gì, không bao giờ có bấtcứ cái gì đi ngược lại cái họ nói. Bởi họ có lý trước kia mà. Họ biết vậy. Không phải quan điểm của họ làm người ta chết mà là mối quan hệ giữa họ với những quan điểm ấy: một sự tin chắc.
Một kẻ tin chắc là một người được vũ trang. Một kẻ tin chắc bị người khác phủ nhận thì trong chớp mắt sẽ biến thành kẻ giết người. Hắn ta giết sự nghi ngờ. Sự chắc chắn cho hắn quyền lực để phủ nhận mà không tranh luận hay hối tiếc gì cả. Hắn suy nghĩ với một khẩu súng phun lửa trên tay. Hắn khẳng định bằng đại bác.
Vì thế, mối nguy hại lớn nhất không liên quan đến mức độ thông minh hay ngu dốt. Một kẻ đần biết nghi ngờ còn ít nguy hiểm hơn một thằng ngu tin chắc mình đúng. Ai cũng có thể nhầm, thiên tài hay một kẻ thiểu năng trí tuệ, sai lầm không phải là điều nguy hiểm mà chính sự cuồng tín của kẻ tin rằng mình không nhầm mới nguy hiểm. Những kẻ khốn nạn vị tha có một luận thuyết, một hệ thống những lời giải thích hoặc một lòng tin rằng chính mình có thể mang cả nhân loại tiến thật xa trong sự cuồng tín vào khái niệm thuần túy của mình. Ai muốn làm thiên thần thì cũng làm thú vật. Tôi sợ Adolf ạ, tôi sợ vì thế chưa phải đã hết, tôi sợ những cái ngày nay họ có thể làm được với những tiến bộ trong sản xuất vũ khí và tiến bộ trong kỹ thuật truyền thông. Tôi e rằng sẽ có những thảm họa triệt để, không thể sửa chữa được, những đống xác người, những đổ nát hoang tàn...
Adolf không tin vào Chúa phải không, Adolf thương mến của tôi? Tôi thì tôi không tin vào quỷ dữ! Bởi tôi không thể tưởng tượng được một con quỷ muốn làm điều ác chỉ vì cái ác. Ý định thâm hiểm thuần túy không tồn tại. Ai cũng tự cho là mình làm đúng. Quỷ dữ lúc nào cũng cho mình là thiên thần. Và chính vì thế tôi sợ đến vậy. Có thể một ngày nào đó sẽ có một kẻ khốn khổ, bất đắc chí, do đó mà quẫn trí, một kẻ tội nghiệp muốn làm tốt như Chúa, thậm chí tốt hơn, một người cải cách đầy kích động, trở thành quỷ dữ chỉ vì muốn thách thức Chúa, trở thành quỷ vì ghen tị với Chúa, trở thành quỷ vì tự phụ, một sự bắt chước lố bịch, một thằng hề.
Nhưng tôi không biết tại sao mình lại nổi nóng đến vậy. Như mẹ tôi đã nói, trí tưởng tượng của tôi đi nhanh như sữa sủi khi bị đun và đôi khi tôi đi lang thang trong những thế giới chắc là hẳn không có thực. Có thể chính vì thế mà tôi cũng tin vào Chúa. Đó là cái bễ thổi lửa cho trí tưởng tượng của tôi...
Trong khi nóng lòng được gặp anh Chủ nhật tới, vẫn xin gửi tới những lời trìu mến.
Xơ Lucie.
TB: Tôi rất lo cho sức khỏe của bố vợ anh, Joseph Rubinstein. Hãy sớm báo tin để tôi được yên lòng.”
o O o
Ngày 6 tháng Tám năm 1945. Người Mỹ thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima.
Ngày 9 tháng Tám năm 1945. Quả bom thứ hai được thả xuống Nagasaki, thành phố bị hủy diệt hoàn toàn trong lưới lửa hạt nhân.
Những tuần sau đó, các trận đánh chấm dứt.
Người ta đã thống kê. Ngoài hai cái xác cháy thành tro của Adolf và Eva Braun vụn ra vì bom trong sân Dinh quốc trưởng, người ta còn tính rằng cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của năm mươi lăm triệu người, trong đó có tám triệu người Đức và hai mươi mốt triệu người Nga: cần thêm vào bản tổng kết này ba mươi lăm triệu người bị thương và ba triệu người mất tích.
o O o
Sophie và Rembrandt, hai đứa trẻ sinh đôi, tiếp tục đứng canh thi thể của ông ngoại mình trong căn phòng được che bằng những tấm ri đô dày kéo căng. Một hàng dài những người mặc quần áo màu đen, lặng lẽ đứng đợi trước cánh cổng xe nhà Joseph Rubinstein để tưởng niệm bạn của họ lần cuối.
Adolf H. và Sarah trốn trong chỗ tối nhất của căn nhà, trong cái gác xép sát mái mà người ta gọi là phòng chơi, nơi nhiều thế hệ trẻ con nhà Rubinstein đã cất album ảnh, sách được thưởng, búp bê, ngựa bập bênh, con rối và hàng loạt cô tiên nữa. Trên bàn bi a, Adolf làm tình với Sarah.
Đó là tất cả những gì hắn làm được khi Sarah, rối bời, chạy ra khỏi căn phòng nơi cha nàng đang hấp hối. Ban đầu, hắn đã khóc với nàng rồi khi hôn lên má nàng và cọ mũi mình vào mái tóc nàng mang màu sắc và hương thơm của mọi loại mật ngọt trên đời, khi cảm thấy nàng tựa cả thân hình mềm mại và mạnh mẽ lên người mình, hắn đã hôn nàng đến ngập miệng rồi thì thầm vào tai nàng “lại đây em”.
Nàng đã hiểu ngay lập tức cái hắn muốn và cách hắn muốn đưa nàng lại với sự sống như thế nào: nàng trao cả cho hắn, bụng sát bụng, vẫn khóc, một vài giọt nước mắt cho người cha đã bỏ nàng đi, vài giọt cho người chồng yêu nàng vô cùng, giữa đau buồn và ngây ngất, nàng cảm thấy sự sống trong mình vô cùng mãnh liệt.
Joseph Rubinstein bị thương trong chuyến đi Palestine. Trong một cuộc cãi vã kịch liệt giữa những người chủ trang trại Do Thái và các chủ trại người Ả Rập, ông đã bị một viên đá ném vào đầu. Nhưng vết thương này che giấu một vết thương khác, sâu hơn: ở đó, ông đã hiểu ra rằng giấc mơ của ông sẽ không bao giờ thực hiện được. Israel giữa đất Palestine, thành lập một nhà nước Do Thái, sự nghiệp mà ông đã cống hiến sức lực của mình suốt sáu mươi năm nay chỉ còn là một cái u trong hộp sọ đau nhức của ông. Người Anh, những người được ủy quyền quản lý Palestine, đã định ra hạn ngạch người Do Thái nhập cư do chịu sức ép của các nước Ả Rập, vốn không muốn nhường thêm đất cho người Do Thái. Người Ba Lan và người Nga thậm chí vừa bị đẩy ra khỏi biên giới. Trái với mọi hy vọng, bất chấp các hoạt độngchính trị của phong trào sionist, bất chấp các khoản tiền do một vài nhà mạnh thường quân như Rothschild rót xuống, tình hình giậm chân tại chỗ và người ta có thể đưa ý tưởng này vào nghĩa trang của những điều không tưởng ngay từ bây giờ.
Khi họ về tới Berlin, Myriam Rubinstein còn chưa hiểu được tính chất nghiêm trọng của cú đòn giáng vào chồng mình. Bà chỉ biết đắp cho chồng vài miếng gạc và thở dài với một sự chân thành ngây thơ.
- Em mới hạnh phúc làm sao khi chúng ta lại được ở Berlin. Palestine mới ủ ê làm sao.
Ông Joseph qua đời và bà Myriam, choáng váng vì nỗi đau buồn và vì những viên thuốc an thần mà bác sĩ Wiezmann cho, đã tìm cách trốn vào giấc ngủ.
Sarah và Adolf sướng cùng lúc. Họ lăn trên lớp dạ màu xanh lục bốc mùi ẩm mốc.
- Đừng xa em, Sarah nói, đó là tất cả những gì em yêu cầu anh: đừng xa em.
Một tuần nữa, xơ Lucie sẽ đi Jerusalem với một cái lọ trong hành lý. Lucie đã hứa với Sarah sẽ rải tro của cha nàng trên mảnh đất quê hương mà ông hằng mơ ước.
o O o
Các tờ báo phát hành số lượng lớn trên toàn thế giới đăng tải những bức ảnh bóc trần sự thật ở các trại tập trung: Auschwitz, Dachau, Buchenwald. Công luận sôi sục. Người ta thống kê có tới sáu triệu người Do Thái đã bị giết trong các trại tập trung.
Sự phẫn nộ trước cuộc đại đồ sát lớn đến mức mọi chính sách bài Do Thái trở thành điều không thể chấp nhận được. Người ta muốn giúp đỡ những người sống sót. Liên hợp quốc, tổ chức mới được thành lập để duy trì hòa bình trên thế giới, lắng nghe những lời yêu cầu của các nhà hoạt động sionist và đề nghị chia sẻ vùng đất Palestine.
Ngày 14 tháng Năm năm 1948, Israel, nhà nước Do Thái mới ra đời.
o O o
Sâm banh. Kêu hét. Đèn chớp. Tiếng tung hô. Chạm cốc. Nhảy múa. Phát biểu. Những cặp mắt rưng rưng.Tung hô. Những bài hát.
Hai lễ cưới được cử hành cùng lúc. Hai người con sinh đôi đã sắp xếp để hai hôn lễ được cử hành cùng ngày. Rembrandt cưới một nhà vật lý đồng nghiệp, quen nhau từ hồi còn ở trường Đại học Berlin. Sophie cưới một người Mỹ làm trợ lý đạo diễn cho các trường quay ở Babelsberg.
- Cuộc sống trở nên ngày càng tầm thường.
Neumann đã thì thầm như thế bằng một giọng uể oải khi nhìn hàng núi bánh được bê đi bê lại tấp nập, giống với tất cả mọi núi bánh mà tất cả những người thợ làm bánh làm cho tất cả các đám cưới trên khắp nước Đức.
Adolf mỉm cười với bạn mình.
- Càng tốt.
Neumann đáng lẽ đã là một ông già đẹp lão nếu không có cái gì đó đổ vỡ trong ông. Ông trở về từ nước Nga và không bao giờ quay lại đấy nữa. Vào thời kỳ đầu những năm sáu mươi này, chế độ cộng sản ở đó đã sụp đổ vì sự bất bình của dân chúng vốn đã tuyệt vọng bởi những thiếu thốn vật chất và sự thiếu tự do. Tất nhiên, sự hỗn loạn đã thế chỗ cho trật tự - dù là trật tự chuyên chế - nhưng thất bại của chủ nghĩa Bôn sê vich lại rất rõ ràng. Neumann, giờ trở thành một nhà chính trị không có lý tưởng, đã thất bại trong cuộc sống như một chiếc thuyền buồm mất buồm.
- Càng tốt, Adolf lại nói. Sự tầm thường muôn năm!
- Ôi, tôi xin ông. Dù sao cũng đừng bắt tôi tin rằng ông là kẻ tầm thường, Adolf H. à, Neumann bực tức kêu lên.
- Không. Nhưng tôi đã chọn sự tầm thường.
Neumann nhún vai. Trong thời gian nghỉ dưỡng sức về ý thức hệ, ông không còn lòng dạ nào để tranh luận nữa.
- Ông sẽ sống bằng gì bây giờ? Adolf hỏi.
- Tôi có tiền lương hưu dành cho thành viên của Đảng. Đảng Cộng sản Đức tiếp tục tồn tại; sẽ rất hữu ích cho cái nước Đức liên tục thuộc về cánh hữu này.
- Ồ, ông nói quá đấy thôi. Chúng ta đang sống trong một chế độ dân chủ thực sự.
- Đúng, nhưng là một nền dân chủ do phe hữu lãnh đạo với những trù hoạch của cánh hữu. Nước Đức sẽ không bao giờ là gì khác cả, Adolf thân mến ạ.
- Đừng bao giờ nói không bao giờ, Adolf chỉ trả lời như vậy.
Rembrandt và vợ tiến lại chạm cốc. Khi họ đã đi xa, Neumann còn nhìn hồi lâu vào phần sau nở nang của cô dâu.
- Cô bé chuyên gia vật lý này cũng không đến nỗi nào, Neumann thì thầm. Thế ông có thích thú với ý tưởng được làm tình với một người có cùng trình độ tri thức với mình không?
- Theo tôi, bao nhiêu người đàn ông đã trải qua điều này mà thậm chí còn không biết.
- Thực tình, cậu có biết chúng nói gì với tôi không, thằng Rembrandt của cậu và con bé học toán cùng nó ấy? Rằng các nghiên cứu mà chúng đang tiến hành với Bohr và Heisenberg tiến triển tốt và một quả bom nguyên tử có thể hủy diệt sự sống trong bán kính hàng chục ki lô mét sắp trở thành hiện thực. Họ lẽ ra đã hoàn thành nó nếu nhận được nhiều ngân sách từ nhà nước hơn.
- Tôi hiểu! Chúng cần một cuộc chiến ra trò để tạo động lực phải không?
- Đúng vậy. Nền hòa bình mà chúng ta đang sống từ sau cuộc chiến chớp nhoáng với Ba Lan không thuận lợi gì cho các nghiên cứu vũ khí mới. Tất cả các nhà bác học đang hy vọng sẽ có xung đột xảy ra...
- Tôi hy vọng mình chết trước khi có điều đó, Adolf thở dài nói.
o O o
Chiến tranh lạnh. Bất chấp những thiệt hại dân sự và quân sự trong cuộc chiến, Liên bang Xô Viết trở thành một cường quốc trên thế giới và đòi Mỹ để họ quản lý toàn bộ khối Đông Âu. Trung Quốc trở thành một nước cộng sản và nhiều nước Trung Âu đã biến thành vệ tinh Bôn sê vich.
Từ đó, Mỹ chống chủ nghĩa cộng sản trên quy mô toàn thế giới và ủng hộ các chế độ độc tài.
Nước Đức bị xẻ làm hai, phía Tây theo mô hình dân chủ tư bản, phía Đông theo mô hình dân chủ cộng sản. Thủ đô cũ, Berlin, bị cắt đôi với những hàng rào dây thép và khu vực quân sự. Từ thời Hitler, ý thức Đức chỉ còn là một vết thương lẫn lộn giữa sự xấu hổ và tâm thần bất ổn.
o O o
Giờ đây, cuộc sống diễn ra quá gấp gáp với hắn.
Berlin rạn vỡ trước tám triệu dân, ồn ĩ tiếng ô tô và những hồi còi, Berlin ban tặng ánh sáng của những biển hiệu thắp sáng suốt đêm cho những người khách du lịch sửng sốt đến từ khắp nơi trên thế giới để thăm thủ đô của châu Âu. Berlin rực rỡ vượt Paris và Luân Đôn. Mỗi tháng một cuộc cách mạng nghệ thuật. Mỗi tuần một mốt mới. Những căn hầm lúc nào cũng chật ních những khán giả tò mò trước nghệ thuật tiền phong trong khi các rạp hát, khán phòng cũng chật kín với các vở diễn cổ điển. Nền điện ảnh Đức cạnh tranh với điện ảnh Mỹ, đưa ra những thần tượng khổng lồ là hai ngôi sao đang cạnh tranh nhau, cô đào tóc nâu Zarah Leander và cô đào tóc vàng Marlene Dietrich. Các khu phố đèn đỏ chào mời khách với những cô gái đủ mọi màu da đứng sau cửa kính. Những người lái taxi trong thành phố nóitiếng Nga hoặc tiếng Phần Lan. Người ta có thể ăn kiểu Tàu, kiểu Nhật, kiểu Ý, Pháp, Hy Lạp hay Thổ Nhĩ Kỳ tùy thích. Thậm chí còn có thể không ăn gì, như nhiều tay bụi đời không nhà cửa không được hưởng lợi từ sự giàu có của nước Đức nhưng vẫn đến sưởi ấm sự nghèo khốn của mình dưới ánh đèn nê ông của thành phố Berlin.
Adolf H. không tìm được chỗ của mình nữa.
Sarah đã bỏ hắn. Một căn bệnh ung thư đến như sét giáng, chắc hẳn là do những hóa chất mà nàng đã hít cả đời trong phòng thí nghiệm nước hoa.
Adolf H. lần thứ hai mất đi một người vợ trẻ tuổi hơn mình.
Hắn không yêu ai nữa. Yêu làm người ta đau. Hắn chấp nhận để mình già đi.
Trong cái thế giới acrylic và đầy công nghệ này, hắn nhận ra rằng mình đã thuộc về thế kỷ trước. Tranh của hắn không làm ai quan tâm nữa. Hội họa biểu hình đã chết. Nhiều thể loại trừu tượng đang chia nhau thị trường, trào lưu thời thượng hiện là “trừu tượng duy vật” mà Heinrich là chủ soái. Gã xuất hiện tràn lan trên các mặt báo khắp thế giới, liên tục phát ngôn những câu khẳng định chắc nịch, hăm dọa, câu sau ngu ngốc và cực đoan hơn câu trước, có khi tự mâu thuẫn, nhưng dường như không ai nhận ra điều ấy. Tất nhiên, Heinrich đã ném vào nghĩa trang tất cả dòng hội họa biểu hiện, trong đó trào lưu siêu thực theo gã đã hấp hối và gã cũng đã tìm ra phương tiện để khạc nhổ vào người thầy và bạn cũ khi rêu rao định nghĩa: “Adolf H., họa sĩ siêu thực số một và họa sĩ hạng bét”. Tương tự, gã nói rằng tranh của Adolf H. chẳng có giá trị gì, có chăng chỉ làm cho vài người hâm mộ hiếm hoi, vẫn cố đấm ăn xôi trưng bày chúng, bị coi là cổ lỗ và bị sỉ vả.
Adolf bỏ ngoài tai những chuyện ấy. Cuộc đời hắn đủ dài để nghe thấy nhiều lần mọi chuyện và những điều trái ngược hoàn toàn. Hắn chưa bao giờ cho rằng mình đã làm nên những kiệt tác và dù sao đi nữa, từ sau khi Sarah chết, hắn đã vĩnh viễn buông cọ.
Hôm ấy, hắn gửi điện cho Sophie nói rằng hắn đồng ý nhận lời mời của cô sang sống ở Mỹ.
Cũng ngày hôm ấy, người Đức phóng vệ tinh đầu tiên lên quỹ đạo quanh trái đất và Adolf thậm chí không gọi được cho Rembrandt vì anh đang tham gia vào dự án này.
o O o
Trong nửa sau thế kỷ hai mươi, năm mươi phần trăm các giải Nobel khoa học thuộc về nước Mỹ, các trường đại học của Mỹ đã là nơi trú ẩn cho các nhà bác học, nhà nghiên cứu và giáo sư đã trốn thoát khỏi sự truy bức của chế độ Hitler.
o O o
- Sống ở Mỹ như sống ở nông thôn. Già rồi ai cũng muốn về tỉnh lẻ sống. Vì thế ông thấy ở đây rất thoải mái.
Adolf thử khiêu khích các cháu ngoại của mình một chút bằng câu đó nhưng mũi tiêm không có tác động vì bọn trẻ người California này chưa bao giờ rời Los Angeles cả.
Hơi thở mằn mặn của biển làm mặt lão nóng lên. Lão khoan khoái thu người trong chiếc ghế dài và tưởng tượng mình là một con thằn lằn. Lão yêu thích sự đơn sơ điền viên của thiên nhiên và con người nơi đây: biển xanh như màu xanh của bụng sóng, cát màu be như cát, chân trời xa như mọi chân trời, người bán sữa vui vẻ như một người bán sữa, người làm vườn đẹp như một người làm vườn, cô giúp việc người Mê hi cô má phính lông tơ như một cô nàng Maria, lão nghỉ ngơi trong thế giới toàn khuôn sáo này. Ngay cả những đứa cháu của lão, ba đứa con trai của John và Sophie, cũng cho lão cảm tưởng đó là những đứa trẻ chụp trong album, khỏe mạnh, hoạt bát, có giáo dục. Chúng ngưỡng mộ ông mình vì ở Santa Monica, người ta bán trên vỉa hè những bức tranh thạch bản theo các bức tranh xưa của ông chúng. Lão nghi con rể mình đã đầu tư tiền trong vụ này và phản ứng một cách cay độc khi người ta nói với lão điều ấy.
- Không đời nào như thế bố ơi, Sophie đã thề với lão như thế. Một nhà xuất bản ở New York làm chuyện ấy. Và tranh bán chạy lắm đấy.
- Phải, phải, bố nên cười khoái chí mới đúng. Thế tất cả những quý bà Do Thái ở New York và Los Angeles đều muốn có một bức tranh của Adolf H. để treo trên tràng kỷ nhà mình hay sao?
- Đúng vậy ạ. Và đó sẽ là hiệu ứng đòn bẩy. Con chắc là điều đó sẽ đẩy giá tranh gốc lên cao.
- Dù gì, bố cũng mặc kệ chuyện đó.
Ngược lại, khi Bob đứa cháu nhỏ nhất mang cho lão xem một bức tranh thạch bản hình Mười-một-giờ-rưỡi, bức Chân dung ngoại cỡ của lão, tấm thân già nua của lão rung lên nức nở.
- Bố đang làm gì đây? Lão nói với Sophie đang tìm cách an ủi mình. Tại sao bố còn sống vất vưởng thế này? Nếu chuyện người ta gặp lại nhau sau khi chết là đúng...
- Có thể đấy bố ạ, có thể.
Lão mỉm cười và hỉ mũi. Những con mòng biển xa xa giống như những chấm trắng mà lão vừa thêm vào toan vẽ. Lucie cũng ở xa, tận châu Phi. Lão thích nhất là những bóng ma.
- Nhưng dù gì, ta đã đến quá muộn. Trên đó, cả mẹ con, cả cô Mười-một đều không để mắt đến một con ngựa già như ta.
o O o
Bán đấu giá bí mật ở Nuremberg. Một bức tranh màu nước ký tên “Adolf Hitler 1913” vẽ phong cảnh xứ Bavaria đã đạt mức giá kỷ lục tám trăm nghìn mác. Tác phẩm là những lớp màu chồng vụng về lên nhau và nhà sưu tập không muốn công khai danh tính.
o O o
Ngày 21 tháng Sáu năm 1970, mười lăm giờ hai mươi chín, người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng là một người Đức. Nhà du hành Kurt Makart đã nhảy từ tàu vũ trụ Siegfried xuống và tung tẩy trên những miệng núi lửa. Các đài truyền hình trên toàn thế giới truyền đi những hình ảnh lịch sử này. Chúng chứng minh những tiến bộ kỹ thuật mà nhân loại đã đạt được ở thế kỷ hai mươi cũng như sức mạnh của nước Đức, đất nước giàu nhất thế giới. Nước Đức đã có một chiến thắng mới, một chiến thắng hòa bình, một chiến thắng không cướp đi cái gì từ các nước khác.
Ngày 21 tháng Sáu năm 1970, Adolf H. qua đời tại Santa Monica, Los Angeles, ở nhà con gái và trong vòng tay của gia đình. Trong lúc dõi theo cuộc chinh phục không gian qua màn ảnh nhỏ, lão bị co thắt cơ tim. Sophie viết cho Rembrandt rằng cô tin chắc khi ấy cha đã biết mình sắp chết: ông quay đầu về phía bầu trời trong xanh, không gợn một chút mây và trong đôi mắt xanh phớt hồng của ông có một tia bồn chồn ánh lên, sự bồn chồn của một người đàn ông muốn nhanh chóng gặp lại những người phụ nữ mình yêu mến trong một cuộc hẹn rất gần.
Tháng Sáu năm 1970. Một đứa trẻ được cha mẹ dẫn đi xem chiếu bóng. Như thường lệ, nó đợi được xem những con thú biết nói, những bông hoa biết hát hay một điệu nhảy của những con hà mã và đà điểu.Nhưng người ta không cho nó xem bộ phim hoạt hình quen thuộc chiếu từ mười năm nay; thay vào đó, trên màn ảnh hiện lên những hình ảnh đen trắng, những hình ảnh nhiễu và rung, âm thanh rất tồi, tồi hơn cả những thước phim gia đình quay trong kỳ nghỉ. Thằng bé không hiểu. Một người đàn ông có ria và cái nhìn chằm chằm hét lên bằng một thứ tiếng giống như tiếng của bà thằng bé là người Alsace, đúng vậy,cùng một thứ tiếng, có khác là kém dịu dàng và độc đoán hơn, nó khiến người ta muốn đứng dậy và nghe lời. Thằng bé vẫn chưa hiểu. Rồi hình ảnh những trận càn, những đám cháy, những đoàn tàu nơi ngườibị lèn chặt như những con vật. Đứa trẻ lại càng không hiểu. Cuối cùng, sau những trái bom mà máy bay trên trời rặn ra, những tiếng nổ ngày càng to, pháo hoa, đến lúc đẹp nhất, một cây nấm khổng lồ từ khói bụi hạt nhân hiện ra. Đứa bé sợ, nó tụt người xuống dưới ghế để khỏi phải nhìn thấy màn ảnh. Nhưng những hình ảnh lại tiếp tục, dồn dập, những trại rào dây thép gai xung quanh, những người còn sống nhưng trông như những bộ xương với cặp mắt đen, những căn phòng hơi ngạt, rồi những thi thể trần truồng, chất đống, vừa cứng đỏ vừa mềm oặt bị những chiếc xe ủi đẩy xuống đất hay ngược lại, đứa bé không biết nữa, nó ngạt thở, nó muốn đi ra ngoài, nó không muốn biết đó là thế giới thật hay không nữa, nó không muốn lớn lên, nó muốn chết.
Bên ngoài, nó ngạc nhiên vì mặt trời vẫn tỏa sáng, người qua đường vẫn đi lại và các cô gái vẫn tươi cười. Họ làm thế nào mà vẫn vui tươi được nhỉ?
Mắt đỏ hoe, cha mẹ nó giải thích nhẹ nhàng rằng họ biết là bộ phim sẽ rất khó chịu nhưng họ vẫn muốn cho nó xem.
- Điều đó đã thực sự xảy ra. Đó là lịch sử chính trị của chúng ta.
“Vậy ra, chính trị là thế sao, đứa trẻ nghĩ, quyền lực mà người ta có để tự làm ra chừng ấy điều xấu?”
- Nhưng cái ông Hitler này, ông ấy bị điên có phải không ạ?
- Không. Không điên hơn con hay ba...
- Thế còn những người Đức, ở đằng sau ấy, họ cũng không điên chứ ạ?
- Đó là những người y như con với ba.
Tin mới tốt lành làm sao! Vậy ra làm người là một trò khốn nạn khó chịu.
- Con người là gì? Người cha nói. Con người được hình thành từ một loạt chọn lựa và hoàn cảnh. Không ai có quyền thay đổi hoàn cảnh, nhưng ai cũng có quyền chọn lựa.
Từ hôm đó, giấc ngủ đêm của cậu bé trở nên khó khăn và ban ngày còn khó hơn. Nó muốn hiểu. Hiểu rằng con quái vật không phải là một sinh vật khác nó hay không thuộc về loài người, mà con quái vật là một sinh vật như nó nhưng đưa ra những lựa chọn khác nó. Từ hôm ấy, đứa trẻ sợ chính mình, nó biết rằng nó đang sống chung với một con thú hung bạo và khát máu, nó mong giam con vật ấy trong lồng suốt đời.
Đứa trẻ ấy là tác giả của quyển sách này.
Tôi không phải là người Do Thái, không phải là người Đức, không phải là người Nhật và tôi sinh ra muộn hơn thời điểm đó; nhưng Auschwitz, sự hủy diệt Berlin, ngọn lửa ở Hiroshima từ nay đã trở thành một phần của đời tôi.