Nghị lực và sự kiên nhẫn cần có cho bất kỳ ai, ở bất kỳ vị trí nào.

Theodore F. Merseles

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Clocks (1963)
Dịch giả: Trần Hữu Kham
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 30
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 298 / 22
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:48 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4
ời kể của Colin Lamb
“Đi đâu đây?” tôi hỏi Dick Hardcastle.
Ông nói với tài xế: “Phòng Thư ký Cavendish. Trên đường Palace, đi ngược về phía phố đi bộ Esplanade về bên phải.”
“Vâng, thưa sếp.”
Chiếc xe chạy đi. Giờ đây chỉ có mấy người giương mắt nhìn theo với vẻ quan tâm thích thú. Con mèo lông vàng cam vẫn còn ngồi trên cột cổng của Diana Lodge nhà kế bên. Nó không rửa mặt nữa mà đang ngồi thật thẳng thớm, hơi ve vẩy cái đuôi và ngó lom lom trên đầu trên cổ đám người kia với thái độ hoàn toàn miệt thị loài người, vốn là đặc quyền của riêng loài mèo và lạc đà.
“Phòng Thư ký, rồi đến bà giúp việc dọn vệ sinh, theo trình tự ấy,” Hardcastle nói, “bởi vì thời gian đang trôi đi.” Ông liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Hơn bốn giờ rồi.” Ông ngừng một lát rồi nói tiếp, “Một cô gái khá hấp dẫn nhỉ?”
“Quá hấp dẫn,” tôi đáp.
Ông ném cái nhìn thích thú về phía tôi.
“Nhưng cô ấy đã kể một câu chuyện rất đáng chú ý. Kiểm tra lại chuyện ấy càng sớm càng tốt.”
“Ông anh không nghĩ là cô ấy…”
Ông ngắt lời tôi. “Tôi vẫn luôn quan tâm đến những người phát hiện các xác chết.”
“Nhưng cô gái đó đã gần như phát điên lên vì khiếp sợ. Giá ông anh nghe thấy cô ta thét lên thế nào…”
Ông lại ném cho tôi một cái nhìn trêu chọc nữa, rồi nhắc rằng cô ta là một cô gái cực kỳ hấp dẫn.
“Và làm sao nên nỗi cậu phải lang thang trên đường Wilbraham Crescent vậy, Colin? Chiêm ngưỡng kiến trúc quý phái thời Nữ hoàng Victoria của chúng ta, hay là cậu có mục đích riêng?”
“Tôi có mục đích chứ. Tôi cứ tìm mãi nhà số sáu mốt mà vẫn không ra. Không lẽ số nhà đó không tồn tại?”
“Tồn tại chứ. Số nhà lên đến — tám tám lận mà, tôi nghĩ thế.”
“Nhưng ông anh xem đây này, Dick à, khi tôi đến số hai mươi tám, Wilbraham Crescent đã tận cùng rồi.”
“Điều này vẫn luôn làm những người lạ nước lạ cái bị rối. Giá như cậu rẽ phải ngược đường Albany rồi lại rẽ phải lần nữa, hẳn cậu đã thấy mình đang ở nửa còn lại của Wilbraham Crescent. Nó được xây dựng kiểu lưng tựa lưng, cậu thấy đấy. Các khu vườn tựa lưng vào nhau.”
“Hiểu rồi,” tôi nói khi cuối cùng ông ấy dài dòng giảng giải xong đặc điểm địa dư này. “Giống như các quảng trường và vườn hoa ở London. Quảng trường Onslow, đúng không? Hay là Cadogan. Anh bắt đầu đi xuôi theo một bên của một quảng trường, và rồi đột nhiên nó hóa thành một khu nhà hay những khu vườn. Ngay cả tài xế taxi cũng thường xuyên bị rối. Dù sao cũng có số sáu mươi mốt. Có biết gì về người ở đó không, ông anh?”
“Sáu mốt ư? Để tôi xem… Chắc đấy là chủ thầu xây dựng Bland.”
“Trời ơi,” tôi nói. “Chết rồi.”
“Cậu không muốn tìm chủ thầu xây dựng sao?”
“Không. Hoàn toàn không định tìm chủ thầu xây dựng. Trừ phi — có lẽ hắn chỉ vừa mới đến đây thôi. Mới vào nghề hả?”
“Bland sinh trưởng ở đây, tôi nghĩ thế. Chắc chắn là người địa phương hành nghề lâu năm rồi.”
“Thật đáng thất vọng.”
“Hắn là một chủ thầu xây dựng rất tồi,” Hardcastle nói. “Thường sử dụng vật liệu khá kém chất lượng. Xây lên một thứ nhà ít nhiều trông cũng ổn cho đến khi cậu vào ở trong ấy, rồi mọi thứ sụp đổ hay trở nên hư hỏng. Đôi khi làm ăn khá mánh mung, lươn lẹo. Thủ đoạn bất lương — nhưng cũng xoay xở thoát được hết.”
“Thuyết phục tôi cũng chẳng ích gì đâu, Dick à. Người tôi cần gần như chắc chắn phải là rường cột của tính chính trực. ”
“Cách đây độ một năm Bland vớ bộn tiền — hay nói đúng ra là vợ hắn. Cô ta là người Canada, đã đến đây trong thời kỳ có chiến tranh và gặp hắn. Gia đình cô chẳng muốn cô lấy hắn, và ít nhiều đã cắt đứt với cô khi cô làm thế. Rồi năm ngoái một ông chú mất, con trai độc nhất của ông cụ trước đấy đã chết vì tai nạn máy bay rơi, và có liên quan gì đấy với thương vong chiến tranh hay sao đó. Và bà Bland là người duy nhất còn lại trong gia tộc. Bởi thế, ông cụ để tiền của cho cô. Vừa vặn cứu Bland khỏi bị phá sản, tôi tin thế.”
“Ông anh có vẻ rành rẽ về ông Bland.”
“Điều này — à, cậu thấy đấy, cơ quan thuế vụ luôn để mắt đến những kẻ qua một đêm đột nhiên trở nên giàu có. Họ thắc mắc liệu có phải hắn đã giở trò bịp bợm gian lận gì đấy hay không — vì thế họ đã kiểm tra toàn bộ. Họ đã kiểm tra và tất cả đều OK.”
“Tôi chẳng bao giờ quan tâm đến những kẻ đột nhiên trở nên giàu có. Đó không phải thứ trò bất lương mà tôi đang tìm kiếm.”
“Cậu đã tìm ra rồi, phải không?”
Tôi gật đầu.
“Và đã kết thúc rồi? Hay là — vẫn chưa kết thúc?”
“Đó là một chuyện trong cả câu chuyện,” tôi nói lảng đi. “Tối nay mình có dùng bữa cùng nhau như dự định không — hay là vụ này sẽ phá hỏng bữa ăn, hả ông anh?”
“Không, sẽ ổn thôi. Lúc này việc cần làm trước tiên là cho tiến hành điều tra. Chúng ta muốn tìm ra mọi điều về ông Curry. Trong tất cả trường hợp có thể xảy ra, một khi chúng ta biết đích xác ông ta là ai và làm nghề gì, chúng ta sẽ có ý niệm khá rõ ràng về việc ai muốn ông ta phải từ giã cõi đời.” Ông ngó ra cửa sổ. “Đến rồi.”
Phòng Thư ký và Đánh máy Cavendish tọa lạc trên con phố mua sắm chính, được gọi một cách khá cao ngạo là đường Cung Điện. Từ một căn nhà phong cách thời Victoria, nó đã được chỉnh trang lại cho hợp mốt, như nhiều cơ ngơi khác ở con đường đó. Về bên phải là một căn nhà hao hao giống như vậy, có đề hàng chữ: Edwin Glen, Nhiếp ảnh gia nghệ thuật, Chuyên gia chụp ảnh, Thiếu nhi, Đám cưới, v.v… Để minh chứng cho hàng chữ tự bạch đó, khung kính trưng bày đầy những bức ảnh phóng đại đủ kích cỡ của trẻ em mọi lứa tuổi, từ bé sơ sinh đến trẻ lên sáu. Có thể đoán những bức ảnh đó là để dụ dỗ các bà má cưng con đi vào. Vài cặp đôi cũng có hình làm tiêu biểu. Nam thanh niên trông có vẻ bẽn lẽn bên thiếu nữ tươi cười. Đối diện Phòng Thư ký Cavendish là các văn phòng của một nhà buôn than đá lâu đời cổ hủ. Bên kia nữa những ngôi nhà cổ kính nguyên gốc đã bị giật sập và một tòa nhà ba tầng nguy nga tráng lệ mang bảng hiệu Café và Nhà hàng Đông Phương.
Hardcastle và tôi bước lên bốn bậc thềm, đi qua cửa trước đang mở rồi tuân theo dòng chữ trên một cánh cửa bên phải bảo: ‘Xin mời vào’, chúng tôi bước vô trong. Đó là một gian phòng kích thước vừa phải, ba phụ nữ trẻ đang đánh máy một cách siêng năng chăm chỉ. Hai người trong bọn họ vẫn tiếp tục đánh máy, chẳng để ý gì đến hai khách lạ mới vào. Người thứ ba đang đánh máy ở một cái bàn có máy điện thoại, đối diện trực tiếp với cánh cửa, dừng lại ngó chúng tôi có vẻ dò hỏi. Hình như cô ta đang mút một thứ kẹo nào đó.
Sau khi đã lùa cục kẹo vào một vị trí thuận tiện trong miệng mình, cô ta mới gặng hỏi chúng tôi với giọng điệu khá bực bội khó chịu: “Các ông cần gì?”
“Cô Martindale đâu ạ?” Hardcastle hỏi.
“Tôi nghĩ lúc này bà ấy đang nói chuyện điện thoại…”
Ngay lúc đó có một tiếng lách cách và cô gái nhấc ống nghe máy điện thoại, vừa chọt chẹt một nút bấm vừa nói: “Hai quý ông cần gặp cô Martindale ạ.” Cô nhìn chúng tôi và hỏi: “Xin hai ông vui lòng cho biết quý danh!”
“Hardcastle,” Dick đáp.
“Vâng, một ông tên là Hardcastle, thưa cô Martindale.” Cô gác ống nghe rồi đứng dậy. “Xin vui lòng đi lối này!” cô nói rồi đi tới một cánh cửa có tấm biển bằng đồng ‘Cô Martindale’.
Cô mở cửa, vừa nép mình sát rạt vào đó để nhường cho chúng tôi đi qua, vừa nói: “Ông Hardcastle đây ạ,” rồi cô đóng cửa lại sau lưng chúng tôi.
Ngồi sau một chiếc bàn giấy rộng lớn cô Martindale ngước nhìn chúng tôi. Đó là một phụ nữ có vẻ năng động chừng năm mươi tuổi, để tóc bới kiểu pompadour màu đỏ nhạt và một cái liếc nhìn cảnh giác.
Bà nhìn chúng tôi, hết người này qua người khác.
“Ông Hardcastle đấy sao?”
Dick móc ra tấm thẻ công vụ trao cho bà ta. Tôi tránh đi bằng cách ngồi thẳng thớm trên một cái ghế gần cửa.
Cặp lông mày vàng hung của cô Martindale nhướn lên vì kinh ngạc và có phần nào bực bội.
“Thanh tra Hardcastle ư? Tôi có thể làm gì cho ông thanh tra đây?”
“Tôi đến gặp cô hỏi thăm một ít thông tin, cô Martindale ạ. Tôi nghĩ có lẽ cô có thể giúp tồi.”
Từ giọng điệu ông ấy nói, tôi đánh giá Dick sắp chơi trò hỏi vòng vèo, mê hoặc người ta. Tôi thấy hoài nghi không biết bà trưởng phòng này có dễ bị dụ hay không nữa. Bà ấy thuộc một týp người mà người Pháp dán cho cái nhãn quá đỗi phù hợp, femme ormidable — người đàn bà ghê gớm, đáng sợ.
Tôi nghiên cứu cách bày trí tổng quát. Các vách tường phía trên bàn giấy của cô Martindale có treo bộ sưu tập những ảnh chụp có ký tên. Tôi nhận ra có một bức ảnh của bà Ariadne Oliver, nhà văn viết truyện trinh thám mà tôi có hơi quen biết. Bạn chân thành của bà, Ariadne Oliver, được viết tay ngang qua bức ảnh với những chữ màu đen rõ nét. Thành kính tri ân, Garry Gregson trang hoàng bức ảnh khác của một nhà văn viết những truyện trinh thám thật rùng rợn đã chết cách nay chừng mười sáu năm. Mãi mãi là bạn của bà, Miriam tô điểm cho bức ảnh của Miriam Hogg, nữ văn sĩ chuyên về văn thơ lãng mạn. Tình dục có đại diện là ảnh chụp một người đàn ông mới bị hói đầu trông có vẻ nhút nhát, ký tặng với những chữ viết nhỏ rí, Biết ơn bà, Armand Levine. Có một nét giống nhau giữa những ảnh trang trí trên tường này. Đàn ông hầu hết đều cầm ống điếu và mặc com-lê bằng vải len, còn đàn bà thì trông có vẻ nghiêm nghị và có khuynh hướng tàn phai đi trong trang phục lông thú.
Trong lúc tôi đang ngắm nghía, Hardcastle vẫn tiếp tục hỏi.
“Tôi tin cô đã thuê một nhân viên tên là Sheila Webb?”
“Đúng vậy. Tôi e rằng hiện giờ cô ấy không có ở đây.” Bà bấm nút điện thoại nội bộ, nói với văn phòng bên ngoài: “Edna này, Sheila Webb đã về chưa?”
“Thưa chưa, cô Martindale, chưa về ạ.”
Cô Martindale ấn nút tắt máy.
“Cô ấy đã ra ngoài làm việc được giao đầu giờ chiều hôm nay,” bà giải thích. “Tôi cứ tưởng chắc giờ này cô ấy đã về rồi chứ. Có khả năng cô ấy đi tiếp đến Khách sạn Curlew ở cuối phố đi bộ Esplanade, cô ấy có một cuộc hẹn lúc năm giờ ở đó.
“Tôi hiểu,” Harcastle nói. “Cô có thể cho tôi biết đôi điều về cô Sheila Webb được không?”
“Tôi chẳng thể nói gì nhiều. Cô ấy làm ở đây được — để tôi xem, à, phải nói rằng đến nay đã gần được một năm rồi. Cô ấy đã chứng tỏ khả năng làm việc hoàn toàn tốt đẹp.”
“Cô có biết cô ấy từng làm việc ở đâu trước khi đến với cô không?”
“Tôi dám nói mình có thể tìm ra cho ông, nếu ông thực sự muốn có thông tin ấy, Thanh tra Hardcastle à. Hồ sơ về cô ta đang ở đâu đấy, tôi sẽ cho lục lại. Theo như tôi còn nhớ được ngay lúc này thì lúc trước cô ấy làm việc ở London và được chủ ở đấy nhận xét rất tốt. Tôi nghĩ, nhưng không chắc chắn, rằng cô ấy đã làm việc cho một hãng buôn — có thể là công ty môi giới bất động sản.”
“Cô bảo cô ta làm việc tốt lắm à?”
“Hoàn toàn xứng đáng,” cô Martindale rõ ràng không phải là người khen ngợi lắm lời.
“Chẳng phải hạng nhất sao?”
“Không, tôi không nói thế. Cô ấy làm việc với tốc độ trung bình tốt và trình độ học vấn tàm tạm. Cô ấy là một thư ký đánh máy cẩn thận và chính xác.”
“Cô có biết đời tư của cô ta, ngoài quan hệ công việc không?”
“Không, tôi chỉ biết cô ấy sống với một người dì.” Nói đến đây cô Martindale trở nên hơi ngang phè. “Xin được hỏi ông Thanh tra Hardcastle, cớ sao lại hỏi tôi những câu ấy? Phải chăng cô gái đó đã giây vào chuyện rắc rối thế nào?”
“Không hẳn thế, cô Martindale ạ. Cô có biết một bà tên là Millicent Pebmarsh không?”
“Pebmarsh,” cô Martindale nhíu cặp lông mày vàng hung. “À, khi — ồ, tất nhiên rồi. Chính là Sheila đã đến nhà cô Pebmarsh chiều nay. Hẹn gặp lúc ba giờ.”
“Đã hẹn gặp như thế nào, cô Martindale?”
“Qua điện thoại. Cô Pebmarsh gọi đến và yêu cầu một thư ký đánh máy kiêm tốc ký đến giúp việc, và tôi đã phái cô Webb đi.”
“Có phải cô Pebmarsh ấy nhất định yêu cầu Sheila Webb không?”
“Phải.”
“Cuộc gọi đó nhận được lúc mấy giờ?”
Cô Matindale suy nghĩ một lát.
“Gọi trực tiếp đến chỗ tôi. Như thế nghĩa là vào giờ ăn trưa. Có thể nói khoảng chừng hai giờ kém mười phút. Trước hai giờ, chắc chắn như thế. À phải rồi, tôi có ghi chú trên tập giấy của tôi đây. Chính xác một giờ bốn chín phút.”
“Cô Pebmarsh đích thân nói với bà hay sao?”
Cô Martindale có vẻ hơi ngạc nhiên.
“Tôi cho là thế.”
“Nhưng cô đâu có nhận ra giọng nói của bà ấy? Cô đâu có quen biết riêng bà ta?”
“Không. Tôi không biết bà ấy. Bà ta tự xưng là cô Millicent Pebmarsh, cho tôi địa chỉ của bà, một số nhà ở Wilbraham Crescent. Sau đó như đã nói, bà ấy yêu cầu Sheila Webb, đến nhà bà ta lúc ba giờ.”
Đó là một lời khai xác định rõ ràng. Tôi nghĩ cô Martindale nếu làm nhân chứng sẽ xuất sắc lắm.
“Ông có thể vui lòng cho tôi biết tất cả những điều này liên quan đến chuyện gì không ạ?” cô Martindale hỏi vẻ sốt ruột.
“À, cô biết không, cô Pebmarsh không thừa nhận mình đã có cuộc gọi nào như thế.”
Cô Martindale nhìn chằm chặp. “Thật tình! Kỳ dị quá thể!”
“Ngược lại, cô thì bảo có cuộc gọi ấy, nhưng không thể xác nhận có phải cô Pebmarsh đã gọi hay không.”
“Không, tất nhiên tôi không thể xác nhận rồi. Tôi đâu có biết người đàn bà ấy. Nhưng thật tình tôi không hiểu nổi làm vậy để làm gì cơ chứ. Một trò chơi khăm kiểu nào đấy chăng?”
“Còn hơn thế nữa ấy chứ,” Hardcastle nói. “Cô Pebmarsh này—hay là ai đấy—có nêu lý do vì sao lại nhất định muốn thuê Sheila Webb không?”
Cô Martindale nghĩ ngợi một lát.
“Tôi nghĩ bà ấy bảo trước đây Sheila Webb từng làm việc cho bà ta.”
“Và thực sự có phải thế không?”
“Sheila nói không nhớ có từng làm việc gì cho cô Pebmarsh hay không. Nhưng nói thế không hoàn toàn có sức thuyết phục, ông thanh tra ạ. Xét cho cùng, các cô ra ngoài quá thường xuyên để gặp nhiều người khác nhau ở nhiều nơi khác nhau, nên thường không thể nào nhớ nếu điều ấy xảy ra cách đấy hàng tháng trời. Sheila không xác định chắc chắn lắm về điểm này. Cô chỉ nói không thể nhớ mình có từng đến đó. Nhưng thật ra, ông thanh tra à, ngay cả khi đây là một trò chơi khăm, tôi không hiểu nổi sự quan tâm lưu ý của ông là do đâu.”
“Tôi sẽ đề cập đến điểm ấy ngay đây. Khi cô Webb đến số 19, Wilbraham Crescent cô đã bước vào nhà rồi vào phòng khách. Cô ấy nói với tôi đấy là làm theo hướng dẫn. Cô xác nhận chứ?”
“Hoàn toàn đúng. Cô Pebmarsh bảo có thể về đến nhà trễ một chút, và Sheila cứ vào chờ.”
“Khi cô Webb vào phòng khách,” Hardcastle nói tiếp, “cô ta phát hiện một người đàn ông đã chết nằm trên sàn nhà.”
Cô Martindale nhìn ông thanh tra chằm chặp. Bà gần như không nói nên lời hết một lúc.
“Ông bảo một người đàn ông đã chết, hở ông thanh tra?”
“Một người bị sát hại,” Hardcastle đáp. “Nói chính xác là bị đâm chết.”
“Giời ôi là giời! Chắc hẳn cô gái đã bối rối lắm.”
Dường như đó là kiểu nói giảm nhẹ đặc trưng của cô Martindale.
“Cái tên Curry có ý nghĩa gì với cô không? Ông R. H. Curry ấy?”
“Tôi không nghĩ thế, không đâu ạ.”
“Từ công ty Metropolis and Provicial Insurrance?”
Cô Martindale vẫn lắc đầu.
“Cô thấy tình thế tiến thoái lưỡng nan của tôi rồi đấy,” ông thanh tra nói. “Cô bảo cô Pebmarsh đã gọi điện thoại cho cô và yêu cầu Sheila Webb đến nhà bà ấy lúc ba giờ. Cô Pebmarsh chẳng thừa nhận đã làm bất kỳ điều gì như thế. Sheila Webb đã đến đấy, và phát hiện ra có người chết.” Hardcastle chờ đợi một cách vô vọng.
Cô Martindale ngây người nhìn ông.
“Đối với tôi tất cả chuyện này dường như là không thể nào là thật,” cô nói vẻ không đồng tình.
Dick Hardcastle thở dài rồi đứng lên.
“Chỗ làm việc của cô thật đẹp,” ông nói rất lịch sự. “Cô làm ăn được một thời gian rồi, phải không?”
“Mười lăm năm rồi. Chúng tôi làm ăn cực kỳ tốt. Ban đầu chỉ làm rất nhỏ, chúng tôi đã mở rộng kinh doanh cho đến khi chúng tôi gần như không kham nổi nữa. Bây giờ tôi thuê tám cô gái, cô nào cũng tất bật làm việc suốt thời gian.”
“Tôi thấy cô làm được nhiều tác phẩm văn học nhỉ.” Hardcastle ngước nhìn những bức ảnh trên tường.
“Vâng, lúc khởi nghiệp tôi đã chuyên về các tác giả. Tôi đã từng nhiều năm làm thư ký cho nhà văn viết truyện trinh thám danh tiếng là ông Garry Gregson. Quả thật nhờ một di sản tinh thần từ ông ấy, tôi đã khai trương phòng này. Tôi quen biết rất nhiều đồng nghiệp văn chương của ông, và họ giao việc cho tôi. Kiến thức chuyên môn của tôi về đòi hỏi của các tác giả áp dụng vào đây rất hữu ích. Tôi cung cấp một dịch vụ rất hữu ích bằng cách nghiên cứu những điều cần thiết: ngày tháng và các trích đoạn, các thắc mắc như về các vấn đề pháp lý và thủ tục của cảnh sát, và chi tiết của các bản kê chất độc. Tất cả những điều đại loại như thế. Rồi sau đó là tên họ, địa chỉ và nhà hàng ngoại quốc cho những người đặt bối cảnh tiểu thuyết của họ ở địa điểm nước ngoài. Thời xưa công chúng thật ra không quá để ý đến tính xác thực, nhưng thời nay độc giả tự đảm nhiệm việc viết thư cho các tác giả vào bất kỳ dịp nào có thể được và chỉ ra sai sót của họ.”
Cô Martindale tạm dừng. Hardcastle lịch sự nói: “Tôi chắc chắn cô có mọi lý do để tự chúc mừng mình.”
Ông đi về phía cửa phòng. Tôi mở cửa ra trước mặt ông.
Ở văn phòng bên ngoài ba cô gái đang chuẩn bị ra về. Các máy đánh chữ đã được đậy nắp lại. Cô lễ tân tên Edna đang đứng đó với vẻ đau khổ, một tay cầm cái gót giày cao nhọn, còn trong tay kia là chiếc giày có cái gót đã rời ra.
“Tôi mua giày này mới có một tháng thôi hà,” cô đang than vãn. “Mà đắt lắm nghe. Là tấm lưới sắt chó chết đó — ở góc đường cạnh tiệm bán bánh kẹo rất gần đây thôi. Tôi kẹt cái gót giày vào đó, và nó bị rớt ra luôn. Tôi không thể bước đi, phải cởi cả hai chiếc giày ra và trở về đây với hai cái bánh mì tròn nhỏ, và làm sao về nhà hay lên xe buýt thật tình tôi không biết nữa…”
Ngay lúc ấy nhận ra sự hiện diện của chúng tôi, Edna liền hấp tấp giấu đi chiếc giày đã làm cô tức giận với một cái liếc nhìn sợ hãi về phía cô Martindale mà tôi đánh giá chẳng phải hạng đàn bà chịu đi giày cao gót. Bà ta đang mang một đôi giày da đế bằng, chỉ cần thoải mái dễ chịu là đủ rồi.
“Cảm ơn cô Martindale,” Hardcastle nói. “Xin lỗi đã làm mất quá nhiều thời gian của cô. Nếu có điều gì xảy đến với cô…”
“Dĩ nhiên,” cô Martindale đột ngột ngắt lời ông.
Khi đã lên xe, tôi nói: “Như vậy câu chuyện của Sheila Webb, mặc cho ông hoài nghi, hóa ra lại hoàn toàn đúng sự thật.”
“Được, được rồi,” Dick nói. “Cậu thắng rồi.”
Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ - Agatha Christie Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ