Meditation can help us embrace our worries, our fear, our anger; and that is very healing. We let our own natural capacity of healing do the work.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Khailed Hosseini
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 8
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 409
Cập nhật: 2021-01-12 19:45:50 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3
7
Mariam
“Em có biết tôi là ai không?”
Đôi mắt cô gái bối rối.
“Em có biết chuyện gì đã xảy ra không?”
Miệng cô gái run run. Cô nhắm mắt lại. Nuốt khan.
Bàn tay cô sượt qua má trái. Cô nói điều gì đó.
Mariam cúi gần hơn.
“Tai này,” cô gái thở mạnh. “Em không nghe được.”
Trong tuần đầu tiên, cô gái hầu như chỉ ngủ, nhờ có những viên thuốc hồng Rasheed mua ở bệnh viện. Cô lầm bầm trong giấc ngủ. Đôi khi cô lắp bắp điều gì đó, đôi khi lại gào khóc, gọi những cái tên mà Mariam không nhận ra. Cô khóc trong giấc ngủ, rồi trở nên kích động, đạp tung chăn ra và Mariam phải ấn cô nằm xuống. Thỉnh thoảng, cô cứ nôn oẹ suốt, nôn hết ra ngoài những thứ mà Mariam đã cho cô ăn.
Những lúc không bị kích động, cô gái chỉ còn là một cặp mắt sưng vù nhìn trân trân từ dưới tấm chăn, thở hắt ra những câu trả lời ngắn ngủn cho các câu hỏi của Mariam và Rasheed. Có những ngày cô giống như một đứa trẻ, lắc đầu quầy quậy khi Mariam rồi Rasheed cố gắng đút cho cô ăn. Người cô cứng đờ khi Mariam đưa chiếc thìa vào miệng cô. Nhưng rồi cô cũng nhanh chóng mỏi mệt và cuối cùng đành phục tùng sự theo đuổi kiên trì của họ. Những đợt khóc lóc vật vã, dai dẳng sau đó cũng đầu hàng.
Rasheed bảo Mariam bôi thuốc mỡ kháng sinh vào những vết rách trên mặt và cổ cô gái, những vết thương dài đã được khâu lại trên vai, trên khắp hai cánh tay và hai bắp chân. Mariam băng chúng lại bằng những chiếc băng gạc được cô giặt sạch và sử dụng lại. Cô vén tóc cô gái về phía sau cho tóc khỏi lòa xòa vào mặt khi cô gái bị nôn.
“Cô ấy sẽ ở đây bao lâu?” cô hỏi Rasheed.
“Chừng nào cô ấy khá hơn. Nhìn cô ấy xem. Cô ấy không thể đi trong tình trạng thế này được. Thật tội nghiệp.”
Chính Rasheed là người đã tìm thấy cô gái, là người lôi cô ra từ dưới đống đổ nát.
“May mà tôi ở nhà đấy,” ông ta nói với cô gái. Ông ta ngồi trên một cái ghế gấp bên cạnh giường Mariam, nơi cô gái nằm. “Ý tôi nói là may mắn cho cô. Chính tay tôi đã bới cô ra. Có một miếng kim loại to thế này...” Nói đến đây, ông ta xòe ngón cái và ngón trỏ ra để miêu tả cho cô gái, nhưng ít nhất phải gấp đôi kích thước thực mà Mariam ước lượng. “To thế này này. cắm thẳng vào bả vai cô. Đúng là nó đã cắm chặt vào trong đó. Tôi đã nghĩ khéo mình phải dùng đến kìm mới rút ra được. Nhưng bây giờ cô ổn rồi. Chẳng bao lâu nữa cô sẽ lại nau socha thôi. Lại như mới.”
Chính Rasheed là người đã cứu được một chồng sách của Hakim.
“Hầu hết chúng đã bị cháy thành tro. Tôi e là số còn lại đã bị người ta cướp mất rồi.”
Ông ta giúp Mariam trông nom cô gái trong tuần đầu tiên đó. Có hôm, ông ta đi làm về nhà với một cái chăn và một cái gối mới. Hôm khác, lại mang về một lọ thuốc.
“Vitamin đấy,” ông ta nói.
Rasheed là người đã cho Laila biết tin ngôi nhà của Tariq bạn cô bây giờ đã bị chiếm giữ.
“Một mòn quà,” ông ta nói. “Được một trong những viên chỉ huy của Sayyaf dành cho ba người đàn ông dưới trướng của ông ta. Một món quà. Ha ha!”
Ba người đàn ông thực ra chỉ là những cậu bé với khuôn mặt trẻ trung rám nắng. Những lần đi ngang qua, Mariam đều nhìn thấy bọn họ trong những bộ quân phục rằn ri, ngồi xổm bên cửa trước nhà Tariq, chơi bài và hút thuốc, còn những khẩu AK của họ thì dựng vào tường. Một cậu người rắn chắc, với cách hành xử đầy tự mãn, khinh miệt là chỉ huy của cả hội. Cậu trẻ nhất cũng là người trầm lặng nhất, có vẻ miễn cưỡng hùa theo cái sự ngông nghênh của mấy người bạn. Cậu thường mỉm cười và khẽ gật đầu chào salaam khi Mariam đi qua. Khi đó, vẻ tự mãn bên ngoài của cậu dường như biến mất và Mariam bắt gặp một nét khiêm nhường chưa bị làm vẩn đục.
Rồi một buổi sáng, những quả rocket dội vào ngôi nhà. Sau đó có tin đồn họ đã bị nã đạn bởi cánh Haraza của Wahdat. Một thời gian sau, hàng xóm vẫn còn tìm thấy những mẩu thịt của các cậu bé.
“Chúng nó đáng bị thế,” Rasheed nói.
Mariam nghĩ cô gái đã cực kỳ may mắn khi sống sót được mà chỉ bị những vết thương tương đối nhẹ, trong khi loạt rocket đã biến ngôi nhà cô thành khói bụi và đổ nát. Và rồi, cô gái dần dần hồi phục. Cô bắt đầu ăn nhiều hơn, bắt đầu tự chải tóc được. Cô đã tự mình tắm rửa. Cô cũng bắt đầu ăn cùng Mariam và Rasheed ở dưới nhà.
Nhưng rồi có những lúc ký ức lại trỗi dậy mà không cần ai khơi gợi, và chỉ còn sự im lặng như hóa đá hoặc những lời cáu kỉnh. Sự thu mình và suy sụp. Những cái nhìn vô hồn. Những cơn ác mộng và những lúc đau khổ bất chợt. Nôn mửa.
Và đôi khi cả hối tiếc.
“Em thậm chí không nên ở đây,” một hôm cô gái nói.
Mariam đang thay ga trải giường. Cô gái ngồi trên nền nhà nhìn cô, hai đầu gối thâm tím co lên trước ngực.
“Bố em muốn mang những cái hộp ra ngoài. Những quyển sách. Ông nói chúng quá nặng đối với em. Nhưng em đã không để ông ấy làm. Lúc ấy em đang rất háo hức. Lẽ ra em phải là người ở trong nhà khi chuyện đó xảy ra.”
Mariam cầm tấm ga sạch đặt lên giường. Cô nhìn cô gái, nhìn những lọn tóc vàng, cái cổ thanh mảnh, đôi mắt xanh, gò má cao và đôi môi đầy đặn. Mariam nhớ đã từng trông thấy cô bé trên phố khi cô còn bé tí, đang chập chững bước theo mẹ tới lò nướng bánh, rồi vắt vẻo trên vai người anh trai thứ, người có một mảng lông mọc ở vành tai. Đang chơi bi với con trai bác thợ mộc.
Cô gái nhìn lại như thể đang chờ Mariam truyền cho một chút thông thái, hay nói một lời động viên. Nhưng Mariam có thể cho cô thứ thông thái nào đây? Động viên thế nào đây? Mariam nhớ lại ngày người ta chôn mẹ Nana và cái cảm giác khuây khỏa phần nào mà cô nhận được khi Giáo sĩ Faizullah đọc kinh Koran cho cô nghe. Đấng Cao Cả, bàn tay Người là Vương quốc, và Người có quyền lực đối với vạn vật, Người tạo ra cải chết và sự sống và Người có thể làm điều đó với mỗi chúng ta. Hay khi ông nói về cái mặc cảm tội lỗi của cô, Những ý nghĩ ấy không tốt chút nào, Mariam yêu quý. Chúng sẽ hủy hoại con. Đó không phải là lỗi của con. Đó không phải là lỗi của con.
Cô có thể nói với cô gái này điều gì để làm nhẹ bớt nỗi lòng cô ấy?
Nhưng hóa ra Mariam chẳng phải nói điều gì. Bởi vì mặt cô gái méo xệch, cô bò trên nền nhà rồi nói rằng cô sắp nôn.
“Chờ đã! Từ từ. Để tôi lấy cái chậu. Không được ra nền nhà. Tôi vừa mới lau... Ôi. Ôi. Khodaya. Trời ơi.”
Rồi một ngày, khoảng một tháng sau vụ nổ giết chết bố mẹ cô gái, có một người đàn ông đến gõ cửa. Mariam ra mở cửa. Ông ta giải thích tại sao lại tới.
“Có một người tới gặp em,” Mariam nói.
Cô gái ngóc đầu lên khỏi gối.
“Ông ta nói tên ông ta là Abdul Sharif.”
“Em không biết người nào tên Abdul Sharif cả.”
“Ông ấy đến đây hỏi em. Em nên xuống nhà nói chuyện với ông ấy.”
28
Laila
Laila ngồi đối diện với Abdul Sharif, một người đàn ông gầy gò với cái đầu nhỏ thó, cái mũi củ hành và một vết sẹo lỗ chỗ kéo dài từ gò má đến mũi. Mái tóc ngắn màu nâu của ông ta mọc dựng trên da đầu như thể những cái kim cắm vào chiếc gối nhỏ của thợ may.
“Cô phải tha lỗi cho tôi, hamshira,” ông ta vừa nói vừa chỉnh lại cái cổ áo lỏng lẻo vừa thấm khăn tay lên trán. “Tôi vẫn chưa bình phục hẳn. Còn phải uống thứ thuốc này năm ngày nữa, chúng được gọi là gì nhỉ... những viên sulfa.”
Laila xoay người trên ghế để tai phải của cô, bên tai còn nghe tốt, gần ông ta nhất. “Ông là bạn của cha mẹ cháu ạ?”
“Không, không,” Abdul Sharif vội đáp. “Thứ lỗi cho tôi.” Ông ta giơ một ngón tay, uống một hơi dài từ cốc nước Mariam đặt trước mặt.
“Tôi nghĩ là tôi nên bắt đầu từ đầu.” Ông ta thấm khăn lên môi rồi lên trán. “Tôi là một thương gia. Tôi có những cửa hàng quần áo, chủ yếu là trang phục đàn ông. Chapan, mũ, tumban, áo vest, cà vạt và những thứ khác nữa. Hai cửa hàng ở Kabul này, một ở Taimani và một ở Shar-e-Nau, dù tôi vừa mới phải bán cả hai. Và hai cửa hàng ở Pakistan và ở Peshawar. Nhà kho của tôi cũng ở đó. Bởi vậy tôi đi lại rất nhiều, đi đi về về. Thời buổi này, chuyện đó” - ông ta lắc đầu và cười mệt mỏi - “chỉ có thể nói là một cuộc phiêu lưu.”
“Gần đây tôi tới Peshawar công tác, nhận các đơn đặt hàng, kiểm tra lại hàng hóa, những việc kiểu như thế. Tôi cũng ghé về nhà mình. Chúng tôi có ba cô con gái, alhamdulelah. Tôi đưa chúng và vợ tôi tới Peshawar sau khi lực lượng Chiến binh Hồi giáo bắt đầu làm thịt lẫn nhau. Tôi không muốn tên của vợ con mình nằm trong danh sách shaheed. Rất thật lòng, cả tên tôi nữa. Tôi sẽ sớm đoàn tụ với họ thôi, inshallah.
“Dù sao, đáng ra tôi đã phải về Kabul từ thứ Tư tuần trước nữa. Nhưng không may tôi bị bệnh. Tôi sẽ không làm phiền cô với câu chuyện này, hamshira, chỉ cần nói thế này, khi phải đi vệ sinh, cái chuyện đơn giản hơn trong hai chuyện ấy, tôi cảm giác như đang phải tống ra ngoài một đống kính vỡ. Tôi sẽ không mong chuyện đó xảy ra với Hekmatyar đâu. Vợ tôi, Nadia thân yêu, Đức Allah phù hộ cho cô ấy, cô ấy nài nỉ tôi tới gặp bác sĩ. Nhưng tôi nghĩ chỉ cần dùng thuốc kháng sinh và uống nhiều nước là có thể giải quyết được chuyện đó. Nadia thân yêu thì cứ nài nỉ, còn tôi nhất quyết nói không, chúng tôi cứ nói đi nói lại như thế. Các cô biết câu ngạn ngữ con lừa ngang ngạnh cần người dắt ngang bướng đấy. Lần này, tôi e rằng con lừa đã thắng. Và đó là tôi.”
Ông ta uống hết chỗ nước còn lại và đưa cốc cho Mariam. “Nếu không phiền cô quá.”
Mariam cầm chiếc cốc và đi lấy nước.
“Không cần phải nói, lẽ ra tôi nên nghe lời cô ấy. Cô ấy luôn là người có lý hơn, cầu Thượng đế cho cô ấy sống lâu. Lúc tôi tới gặp bác sĩ, người tôi nóng hầm hập và run rẩy như một cây beid trong gió. Tôi hầu như không đứng nổi. Bà bác sĩ nói tôi bị nhiễm độc máu. Bà ấy nói chỉ chậm hai hoặc ba ngày thôi là tôi có thể đã biến vợ mình thành góa phụ rồi.
“Họ đưa tôi vào một khu đặc biệt, dành riêng cho những người bệnh nặng, tôi nghĩ thế. Ồ, tashakor.” Ông ta đón cốc nước từ Mariam và lấy trong túi ra một viên thuốc lớn màu trắng. “Nhìn kích cỡ của nó mà xem.”
Laila nhìn ông ta nuốt viên thuốc. Cô nhận ra hơi thở của mình dồn dập hơn. Hai chân cảm thấy nặng nề, như có vật nặng buộc vào. Cô tự nhủ rằng ông ta chưa nói xong, rằng ông ta chưa nói với cô điều gì cả. Nhưng ông ta sẽ tiếp tục trong một giây nữa và cô phải cố cưỡng lại cái khao khát đứng lên và bỏ đi trước khi ông ta kể những điều cô không muốn nghe.
Abdul Sharif đặt cốc nước xuống bàn.
“Ở đó tôi gặp bạn của cô, Mohammad Tariq Walizai.”
Tim Laila đập rộn lên. Tariq ở trong bệnh viện ư? Khu vực đặc biệt? Cho những người bệnh nặng?
Cô nuốt khan. Dịch người trên ghế. Cô phải ngồi vững lại. Nếu không cô sợ mình sẽ ngã. Cô lái những suy nghĩ về bệnh viện và những khu đặc biệt sang chuyện cô đã không còn nghe thấy ai gọi Tariq bằng tên đầy đủ kể từ khi họ đăng ký tham gia khóa học tiếng Farsi mùa đông nhiều năm trước đây. Sau tiếng chuông, thầy giáo điểm danh và gọi tên anh như thế - Mohammad Tariq Walizai. Hồi đó, khi nghe thấy tên đầy đủ của anh, cô có ấn tượng nó thật trịnh trọng đến khôi hài.
“Tôi được nghe một y tá kể về chuyện đã xảy ra với cậu ấy,” Abdul Sharif lại tiếp tục, trong khi bàn tay đấm đấm lên ngực như để cho viên thuốc trôi xuống dễ hơn. “Nhờ thời gian ở Peshawar, tôi đã trở nên khá thành thạo tiếng Urdu. Dù sao, theo những gì tôi hiểu thì bạn cô đã ở trên một chiếc xe tải chở đầy người tị nạn, hai mươi người, tất cả bọn họ đều trên đường tới Peshawar. Tới gần biên giới, họ bị kẹt giữa một cuộc giao tranh. Một quả rocket đã bắn trúng chiếc xe tải. Có lẽ là đạn lạc, nhưng các cô không thể biết được thực sự chuyện gì đã xảy ra với những người này, các cô không bao giờ biết được. Chỉ có sáu người sống sót, tất cả đều được đưa về cùng một khu. Ba người chết trong vòng hai mươi tư giờ. Hai người còn sống - là hai chị em, theo tôi hiểu là vậy - và đã được xuất viện. Bạn cô, cậu Walizai, là người cuối cùng. Khi tôi đến, cậu ấy đã ở đó được gần ba tuần rồi.”
Vậy là anh ấy còn sống. Nhưng anh ấy đã bị thương đến mức nào? Laila băn khoăn đến phát cuồng. Tệ đến mức nào? Tệ đến mức phải điều trị trong khu đặc biệt, rõ ràng rồi. Laila nhận ra cô bắt đầu đổ mồ hôi, khuôn mặt dần nóng bừng. Cô cố gắng nghĩ về một điều khác, một điều gì đó dễ chịu hơn như là chuyến đi tới Bamiyan để xem các bức tượng Phật cùng với Tariq và Babi. Nhưng thay vào đó, hình ảnh của cha mẹ Tariq lại hiện lên: mẹ Tariq bị kẹt trong chiếc xe, đầu lộn ngược xuống, kêu gào gọi Tariq qua đám khói, hai cánh tay và ngực của bà đang bắt lửa, bộ tóc giả nóng chảy trên da đầu bà...
Laila phải thở gấp liên tục.
“Cậu ấy nằm ở giường kế bên tôi. Không có tường, mà chỉ có một cái rèm giữa chúng tôi. Vậy nên tôi có thể nhìn thấy cậu ấy rất rõ.”
Abdul Sharif đột nhiên mân mê nhẫn cưới. Bây giờ ông ta nói chậm hơn.
“Bạn của cô, cậu ấy bị thương nặng, rất nặng, cô hiểu không. Ống cao su nối vào khắp nơi trên cơ thể cậu ấy. Ban đầu...” Ông ta hắng giọng. “Ban đầu, tôi tưởng cậu ấy mất cả hai chân do vụ tấn công, nhưng một y tá nói không phải thế, chỉ có chân phải thôi, còn cái chân kia đã mất do một tai nạn từ trước. Cậu ấy cũng bị nội thương nữa. Người ta đã mổ cho cậu ấy cả thảy ba lần. Lấy ra ngoài những đoạn ruột, tôi không nhớ còn thứ gì khác không. Và cậu ấy bị bỏng. Bỏng khá nặng. Đấy là tất cả câu chuyện tôi muốn kể. Tôi chắc rằng cô cũng gặp nhiều cơn ác mộng chẳng kém gì, hamshira. Tôi không muốn chất thêm phần vào đó nữa.”
Tariq giờ đây đã cụt cả hai chân. Anh là một cái thân với hai mẩu thịt. Cụt cả hai chân. Laila nghĩ cô có thể sẽ đổ sụp xuống. Với nỗ lực tuyệt vọng và mong manh, cô gửi những ý nghĩ của mình ra khỏi căn phòng này, ra khỏi khung cửa sổ, rời xa người đàn ông này, bay qua đường phố ngoài kia, và bay qua cả thành phố, và những ngôi nhà mái bằng, những khu chợ, những mê lộ chật hẹp trong thành phố giờ đã biến thành những lâu đài cát.
“Phần lớn thời gian cậu ấy phải tiêm thuốc mê. Để giảm đau, cô hiểu không. Nhưng có những lúc thuốc hết tác dụng và cậu ấy tỉnh táo. Đau đớn nhưng vẫn tỉnh táo. Tôi thường nói chuyện với cậu ấy từ giường của tôi. Tôi nói cho cậu ấy biết tôi là ai và tôi đến từ đâu. Cậu ấy rất vui mừng khi biết có một hamwatan bên cạnh, tôi nghĩ vậy.
“Phần lớn là tôi nói. Đối với cậu ấy, nói là một việc khó khăn. Giọng cậu ấy nghe khàn khàn và tôi nghĩ cử động môi làm cậu ấy đau. Bởi thế tôi kể cho cậu ấy nghe về mấy đứa con gái của tôi, về ngôi nhà của chúng tôi ở Peshawar và cái hiên mà tôi và người em vợ đang xây ở phía sau. Tôi kể với cậu ấy rằng tôi đã bán các cửa hàng ở Kabul và sắp quay về để hoàn tất giấy tờ. Cũng chẳng nói gì nhiều. Nhưng cũng giúp cậu ấy khuây khỏa. Ít nhất tôi muốn nghĩ rằng đã làm được điều đó.
“Đôi khi cậu ấy cũng nói. Phân nửa là tôi không luận ra được cậu ấy nói gì, nhưng tôi cũng hiểu tàm tạm. Cậu ấy miêu tả nơi cậu ấy đã sống. Cậu ấy nói về người bác ở Ghazni, về tài nấu nướng của mẹ, nghề mộc của bố, về chuyện ông ấy chơi accordion.
“Nhưng hầu hết thời gian cậu ấy nói về cô, hamshira. Cậu ấy nói rằng cô - cậu ấy đã nói thế nào nhỉ - là ký ức xa nhất cậu ấy nhớ được. Tôi nghĩ chắc là thế, đúng thế. Tôi có thể nói rằng cậu ấy rất quan tâm đến cô. Balay, điều đó thật dễ dàng nhận thấy. Nhưng cậu ấy nói rằng cậu ấy vui vì cô không ở đó. Cậu ấy nói cậu không muốn cô nhìn thấy mình như thế.”
Hai bàn chân Laila lại có cảm giác nặng trĩu, neo chặt xuống sàn nhà, như thể đột nhiên tất cả máu trong người đổ dồn xuống dưới đó. Nhưng đầu óc cô thì đã trôi xa, tự do và mau lẹ, bay vút như một quả tên lửa vượt qua Kabul, bay qua những đồi đá nâu hiểm trở, qua những sa mạc lác đác bụi cây, qua những hẻm núi lởm chởm đá đỏ và qua những ngọn núi mỏm phủ tuyết...
“Khi tôi nói tôi sắp trở về Kabul, cậu ấy bảo tôi tìm cô. Để cho cô biết rằng cậu ấy đang nghĩ về cô. Rằng cậu ấy nhớ cô. Tôi đã hứa với cậu ấy là tôi sẽ làm như vậy. Cô thấy đấy, tôi rất quý cậu ấy. Đó là một chàng trai tử tế, tôi có thể khẳng định như vậy.”
Abdul Sharif lấy khăn tay lau trán.
“Một đêm, tôi tỉnh dậy,” ông ta nói tiếp và lại bắt đầu cái sở thích mân mê chiếc nhẫn cưới, “tôi nghĩ chắc là đêm, thật khó nhận biết thời gian ở những nơi như thế. Không có cái cửa sổ nào. Mặt trời mọc, hay mặt trời lặn, không biết được. Nhưng tôi tỉnh dậy và thấy có tiếng động ở giường kế bên. Các cô phải hiểu rằng bản thân tôi cũng uống đủ các loại thuốc, luôn trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê, đến mức mà khó có thể phân biệt được cái gì là thực, cái gì là mơ. Tất cả những gì tôi nhớ là, các bác sĩ vây quanh giường, gọi cái này, gọi cái kia, chuông cấp cứu kêu liên hồi, ống tiêm rơi vãi khắp mặt đất.
“Vào buổi sáng, chiếc giường trống trơn. Tôi hỏi một cô y tá. Cô ấy nói rằng cậu ấy đã chiến đấu rất dũng cảm.”
Laila lờ mờ nhận ra rằng cô đang gật đầu. Cô đã biết. Hẳn là cô đã biết. Từ lúc ngồi đối diện với người đàn ông này, cô đã biết tại sao ông ta lại đến đây và ông ta mang tới tin gì.
“Lúc đầu, cô biết không, lúc đầu tôi nghĩ cô không tồn tại,” ông ta vẫn nói. “Tôi nghĩ là do morphine nên cậu ấy nói thế. Có lẽ tôi thậm chí đã hy vọng rằng cô không tồn tại; tôi luôn sợ phải mang đến tin xấu. Nhưng tôi đã hứa với cậu ấy. Và như tôi đã nói, tôi rất yêu quý cậu ấy. Vì vậy vài ngày trước tôi đã ghé qua đây. Tôi hỏi thăm về cô, nói chuyện với mấy người hàng xóm. Họ chỉ cho tôi ngôi nhà này. Họ cũng đã kể chuyện xảy ra với bố mẹ cô. Khi tôi nghe chuyện đó, phải, tôi đã quay đi. Tôi định không kể cho cô. Tôi nghĩ cô sẽ không thể chịu đựng thêm được nữa. Hay bất kỳ ai khác cũng vậy.”
Abdul Sharif chìa tay qua bàn đặt lên đầu gối cô gái. “Nhưng tôi đã quay lại. Bởi vì cuối cùng, tôi nghĩ cậu ấy hẳn cũng muốn cô biết. Tôi tin vào điều đó. Tôi rất tiếc. Tôi ước gì...”
Laila không còn lắng nghe nữa. Cô đang nhớ đến cái ngày người đàn ông từ Panjshir đến đưa tin về cái chết của Ahmad và Noor. Cô nhớ Babi, mặt tái mét đổ sụp xuống ghế và Mammy đưa tay bịt miệng khi nghe thấy tin ấy. Ngày hôm đó, Laila thấy Mammy suy sụp và sự việc làm cho cô cảm thấy sợ nhưng cô không hề cảm thấy đau đớn thực sự. Cô không hiểu được nỗi mất mát của Mammy khủng khiếp đến mức nào. Giờ đây một người lạ mặt khác mang đến tin tức về một cái chết khác. Bây giờ cô là người ngồi trên ghế. Phải chăng đây là sự trừng phạt, là hình phạt cho sự lãnh đạm của cô trước nỗi đau của mẹ mình.
Laila nhớ Mammy đã quỵ xuống ra sao, bà đã la hét và bứt tóc như thế nào. Nhưng Laila thậm chí không thể làm được điều đó. Cô không thể cử động được. Cô không thể di chuyển được cơ bắp của mình.
Thay vào đó, cô ngồi trên ghế, bàn tay để bất động trong lòng, đôi mắt nhìn vào hư vô và để mặc cho suy nghĩ bay bổng. Cô để nó bay mãi cho tới khi tìm thay một nơi, một nơi tốt đẹp và an toàn, nơi những cánh đồng lúa mạch xanh mướt, nơi dòng nước trong veo và hàng nghìn, hàng nghìn hạt cây bông nhảy nhót trong không trung; nơi Babi đang đọc sách dưới bóng cây keo và Tariq đang khoanh tay ngủ trưa, nơi cô có thể ngâm chân dưới suối và mơ những giấc mơ đẹp dưới cái nhìn chăm chú của các vị thần, nơi những tảng đá cổ kính sáng trắng dưới ánh mặt trời.
29
Mariam
“Tôi rất lấy làm tiếc,” Rasheed nói với cô gái trong lúc nhận lấy bát cơm có masiawa và thịt bò viên từ tay Mariam mà không nhìn vào cô. “Tôi biết các em đã là... bạn... rất thân. Từ khi còn nhỏ xíu, các em đã luôn quấn quýt bên nhau rồi. Những điều xảy ra vừa rồi thật khủng khiếp. Bây giờ có quá nhiều thanh niên Afghanistan phải chết như vậy.”
Rasheed vẫn nhìn cô gái và liên tục vặn vẹo các ngón tay, vậy là Mariam đưa cho ông ta một chiếc khăn ăn.
Bao năm nay, Mariam đã quan sát thấy khi Rasheed ăn, các cơ trên thái dương ông ta giật giật, một tay ông vê cơm thành những viên nhỏ, mu bàn tay kia thì lau mỡ và quệt những hạt cơm dính quanh miệng. Bao năm nay, ông ta ăn mà chẳng bao giờ ngẩng mặt lên, chẳng bao giờ nói năng gì, sự im lặng của ông ta như đang kết tội, như thể một phán quyết gì đó sắp được đưa ra, và rồi cái không khí ấy vỡ òa chỉ bởi một tiếng cằn nhằn chỉ trích, một tiếng chậc lưỡi không tán thành hay một lời yêu cầu lấy thêm bánh, thêm nước.
Giờ Rasheed đã dùng thìa để ăn cơm. Đã sử dụng khăn ăn. Đã nói “lotfan”* khi yêu cầu nước. Và đã nói chuyện. Đầy hào hứng và không biết mệt mỏi.
Nghĩa là “Làm ơn/Xin vui lòng”.
“Nếu em hỏi tôi, thì người Mỹ đã sai lầm khi trang bị vũ khí cho Hekmatyar. Tất cả số súng CIA đã trao cho ông ta để chống lại Xô Viết những năm tám mươi ấy. Người Xô Viết đã rời khỏi nơi này nhưng hắn vẫn còn súng trong tay, và bây giờ, hắn chĩa chúng vào những người dân vô tội giống như bố mẹ em vậy. Và hắn gọi đó là cuộc Thánh chiến. Thật nực cười! Thánh chiến mà lại bắn giết trẻ em và phụ nữ à? Lẽ ra CIA nên trang bị số súng đó cho tướng Massoud thì hơn.”
Lông mày Mariam nhướng lên. Tướng Massoud ư? Mariam vẫn còn nhớ như in những lời huênh hoang thiếu thiện chí mà Rasheed dành cho Massoud, rằng ông ta là một kẻ phản bội và là một người cộng sản như thế nào. Nhưng tất nhiên, Massoud là một người Tajik. Giống Laila vậy.
“Giờ thì đã có một người đồng chí biết lẽ phải. Một người Afghanistan đáng kính. Một người thực sự quan tâm đến các giải pháp hòa bình.”
Rasheed nhún vai và thở dài.
“Nói cho các cô biết, bọn Mỹ thì tốt gì chứ? Họ quan tâm gì đến chuyện những người Pashtun, Hazara, Tajik và Uzbek đang chém giết lẫn nhau? Có bao nhiêu người Mỹ phân biệt được sự khác nhau giữa những nhóm người đó? Đừng mong chờ sự giúp đỡ từ họ, nói cho các cô biết nhé. Giờ đây, Liên Xô đã sụp đổ, chúng ta không còn giá trị gì đối với họ. Chúng ta chỉ có thể vì mục đích của chúng ta mà thôi. Còn đối với họ, Afghanistan là một kenarab, một cái hố phân. Thứ lỗi cho lời tôi vừa nói, nhưng đó là sự thật. Em nghĩ thế nào, Laila thân mến?”
Cô gái lầm bầm một điều gì đó khó hiểu và đẩy viên thịt di chuyển xung quanh bát.
Rasheed gật đầu ngẫm nghĩ như thể cô gái vừa nói điều gì đó thông minh nhất mà ông ta từng được nghe. Mariam phải quay đi chỗ khác.
“Em biết không, bố em, xin Thượng đế phù hộ cho ông ấy, bố em và tôi đã từng có những cuộc thảo luận như thế này. Từ trước khi em được sinh ra, tất nhiên. Chúng tôi cứ bàn luận mãi về chính trị. về sách vở nữa. Đúng không nhỉ, Mariam? Em còn nhớ chứ?”
Mariam nhấp một ngụm nước.
“Dù sao, tôi hy vọng tôi không làm em chán với những câu chuyện về chính trị này.”
Một lúc sau, Mariam ở trong bếp, ngâm đống bát đĩa vào trong nước xà phòng, lòng cô như thắt lại.
Không hẳn vì những gì ông ta nói, những lời dối trá rành rành, sự đồng cảm giả tạo, hay thậm chí bởi cái sự thật rằng ông ta đã không còn mảy may để ý đến cô kể từ khi ông ta lôi được cô gái kia ra từ dưới đống gạch vụn.
Mà là vì cái cách ông ta diễn kịch. Không khác gì một vở diễn. Một nỗ lực của ông ta, vừa quỷ quyệt vừa đáng khinh, để gây ấn tượng. Để quyến rũ.
Rồi đột nhiên Mariam biết rằng những nghi ngờ của cô đều đúng. Cô hiểu ra với nỗi sợ hãi như bị một cú đấm thình lình giáng vào bên đầu rằng những gì cô vừa chứng kiến chính là một sự ve vãn không hơn không kém.
Khi cuối cùng cũng lấy lại được can đảm, Mariam vào phòng Rasheed.
Rasheed châm thuốc và nói, “Tại sao không?”
Ngay lúc đó, Mariam biết rằng cô đã bị khuất phục. Cô đã nửa mong đợi, nửa hy vọng rằng ông ta sẽ phủ nhận mọi thứ, sẽ tỏ vẻ ngạc nhiên, thậm chí có thể nổi giận trước những gì cô muốn nói. Như thế cô có thể đã có ưu thế hơn. Cô có thể khiến cho ông ta cảm thấy hổ thẹn. Nhưng sự thú nhận hết sức bình tĩnh của ông ta, giọng nói thản nhiên của ông ta đã lấy đi hết sự can đảm của cô.
“Cô ngồi đi,” Rasheed nói. Ông ta đang nằm trên giường, quay lưng vào tường, đôi chân to dài mở rộng trên chiếu. “Ngồi xuống đi trước khi cô ngất và vỡ tung đầu ra.”
Mariam cảm thấy mình rơi người xuống cái ghế xếp bên cạnh giường ông ta.
“Đưa cho tôi cái gạt tàn kia được chứ?” ông ta hỏi.
Cô ngoan ngoãn làm theo.
Bây giờ Rasheed chắc đã phải sáu mươi hoặc hơn - mặc dù Mariam và thực ra ngay cả Rasheed cũng không biết tuổi chính xác của ông ta. Tóc ông ta đã bạc trắng, nhưng vẫn dày và thô. Giờ đây, đã thấy xuất hiện nếp nhăn trên mí mắt và trên da cổ ông ta, vốn nhăn nheo và thô ráp. Gò má của ông ta sệ xuống hơn so với trước đây. Cứ mỗi sáng, người ông ta lại còng thêm một chút. Nhưng ông ta vẫn có đôi vai vững chắc, thân hình to lớn, đôi tay khỏe mạnh và cái bụng to phệ khiến ông ta lúc nào cũng bụng đi trước người bước theo sau.
Nói chung Mariam nghĩ rằng Rasheed đã chống chọi với sự tàn phá của thời gian tốt hơn cô rất nhiều.
“Chúng ta cần phải hợp pháp hóa tình cảnh này,” ông ta nói và đặt cái gạt tàn thăng bằng trên bụng. Đôi môi ông ta chụm lại một cách hài hước. “Người ta sẽ nói ra nói vào. Để một phụ nữ trẻ chưa lập gia đình sống ở đây dường như là điều đáng hổ thẹn. Điều này không tốt cho danh tiếng của tôi. Và của cô ấy. Và tôi có thể nói là cả cô nữa đấy.”
“Mười tám năm,” Mariam nói. “Em chưa từng đòi hỏi anh một điều gì. Không gì cả. Và giờ em muốn cầu xin anh.”
Rasheed ngậm khói thuốc trong miệng rồi nhả ra một cách chậm rãi. “Cô ấy không thể cứ thế mà ở lại đây, nếu như đó là lời cầu xin của cô. Tôi không thể tiếp tục cho cô ấy ăn, sắm quần áo cho cô ấy và cho cô ấy một nơi để ngủ. Tôi không phải Hội Chữ Thập Đỏ, Mariam ạ.”
“Nhưng chuyện này?”
“Chuyện này thì sao? Sao nào? Cô nghĩ cô ấy còn quá trẻ sao? Cô ta mười bốn tuổi rồi. Khó có thể coi là trẻ con được. Hồi đó cô mười lăm, nhớ không? Mẹ tôi mười bốn tuổi khi bà ấy có tôi. Mười ba tuổi bà ấy đã lấy chồng.”
“Em... Em không muốn chuyện này,” Mariam nói, chết lặng đi vì sự khinh thường và bất lực.
“Đó không phải là quyết định của cô. Đó là quyết định của tôi và cô ấy.”
“Em đã quá già.”
“Cô ấy quá trẻ, còn cô thì quá già. Điều này chẳng có ý nghĩa gì.”
“Em đã quá già. Quá già để anh làm chuyện đó đối với em,” Mariam nói, túm chặt chiếc váy đến nỗi hai bàn tay run lên bần bật. “Thế nên sau ngần ấy năm, anh biến em trở thành một ambagh*.”
Người phụ nữ chung chồng với người khác.
“Đừng làm ra vẻ bi kịch như thế. Đó là điều bình thường và cô biết quá rõ. Tôi có những người bạn có tận hai, ba, thậm chí là bốn bà vợ. Ngay cả bố cô cũng có tới ba bà vợ. Ngoài ra, những gì tôi đang làm bây giờ chỉ là chuyện mà những người tôi biết đã làm từ lâu rồi. Cô biết đó là sự thật.”
“Em không cho phép điều đó xảy ra.”
Đến đây, Rasheed mỉm cười buồn bã.
“Cũng có một cách khác,” vừa nói Rasheed vừa cọ lòng bàn chân bên này vào cái gót chân bị chai ở bên kia. “Cô ấy có thể đi. Tôi sẽ không ngăn cản cô ấy. Nhưng tôi ngờ rằng cô ấy sẽ không đi xa được đâu. Không thức ăn, không nước uống, không một xu dính túi, đạn và rocket thì bay khắp nơi. Cô nghĩ cô ấy sẽ trụ được bao lâu trước khi bị bắt cóc, bị cưỡng hiếp, hay bị ném vào rãnh nước bên đường với một vết cứa ở cổ? Hoặc cả ba thứ?”
Ông ta hắng giọng và chỉnh chiếc gối phía sau đầu.
“Những con đường ngoài kia đầy rẫy hiểm họa, Mariam, cứ tin tôi đi. Chó săn và lũ kẻ cướp ở mọi ngả. Tôi không thích những cơ hội của cô ấy, không chút nào. Cứ cho rằng nhờ có điều kỳ diệu nào đấy, cô ấy tới được Peshawar. Nhưng rồi sao? Cô có biết những trại tị nạn đó thế nào không?”
Rasheed nhìn Mariam qua làn khói thuốc.
“Người ta phải sống dưới những mảnh bìa các tông. Bệnh lao, bệnh lỵ, nạn đói, tội phạm. Và đó là trước mùa đông. Rồi đến mùa đông giá. Bệnh viêm phổi. Người ta biến thành cột băng. Và những khu trại đó sẽ trở thành nghĩa trang bị đóng băng.”
“Tất nhiên,” ông ta làm động tác trêu chọc, xoay xoay bàn tay, “cô ấy có thể được giữ ấm trong một nhà thổ ở Peshawar. Tôi nghe nói nghề này đang phát triển mạnh ở đó. Một cô gái xinh đẹp như cô ấy có thể sẽ kiếm được số vốn nho nhỏ, cô có nghĩ vậy không?”
Rasheed đặt gạt tàn lên chiếc bàn ở đầu giường và vắt hai chân qua thành giường.
“Xem nào,” ông ta nói, giọng bây giờ có vẻ hòa nhã hơn, giống như điệu bộ của một kẻ chiến thắng. “Tôi biết cô khó có thể chấp nhận điều đó. Tôi thực sự không trách cô. Nhưng đây là cách tốt nhất. Cô sẽ thấy. Mariam, cô hãy nghĩ như thế này. Tôi đang cho cô một sự hỗ trợ việc nhà và cho cô ấy một nơi trú chân. Một ngôi nhà và một người chồng. Ngày nay, mọi thứ vẫn như nó vốn thế, một người đàn bà cần một người chồng. Cô không để ý tất cả các góa phụ đang ngủ ngoài đường à? Họ sẽ làm mọi thứ để có được cơ hội này. Thực tế, điều này... ừm, tôi có thể nói rằng đây là việc làm hết sức nhân đạo của tôi.”
Rasheed mỉm cười.
“Theo như cách nhìn của tôi, tôi xứng đáng nhận được một tấm huy chương.”
Lát sau, trong bóng đêm, Mariam nói chuyện với cô gái. Suốt một lúc lâu, cô gái không nói gì.
“Ông ấy muốn có câu trả lời vào sáng mai,” Mariam nói.
“Ông ấy có thể có ngay bây giờ,” cô gái cất tiếng. “Tôi đồng ý.”
30
Laila
Ngày hôm sau, Laila nằm ở trên giường. Buổi sáng, cô trùm kín chăn khi Rasheed thò đầu vào nói ông ta sẽ đi cắt tóc. Cô vẫn nằm ở trên giường khi ông ta trở về vào buổi tối, chỉ cho cô xem cái đầu mới, bộ quần áo mới có sọc màu xanh xen lẫn màu kem và chiếc nhẫn cưới ông ta mua cho cô.
Rasheed ngồi trên giường bên cạnh cô gái, biểu diễn một màn tuyệt vời, chầm chậm tháo nơ, mở cái hộp và thận trọng lấy chiếc nhẫn ra. Ông ta tiết lộ đã đổi chiếc nhẫn cưới cũ của Mariam để lấy cái này.
“Cô ấy không quan tâm đâu. Tin tôi đi. Cô ấy thậm chí còn chẳng để ý ấy chứ.”
Laila nhích người lui vào tận cuối giường. Cô có thể nghe thấy tiếng Mariam ở dưới, tiếng xì xì của chiếc bàn là.
“Dù sao thì cô ấy cũng chẳng đeo nó bao giờ,” Rasheed nói.
“Tôi không muốn nó,” Laila nói một cách yếu ớt. “Không phải như thế này. Ông phải lấy lại nó.”
“Lấy lại ư?” Vẻ sốt ruột thoáng hiện trên khuôn mặt Rasheed rồi tan biến. Ông ta mỉm cười. “Tôi cũng phải các thêm ít tiền - thực tế thì cũng khá nhiều. Chiếc nhẫn này tốt hơn, vàng 22 cara đấy. Muốn biết nó nặng thế nào không? Nào, hãy sờ mà xem. Không à?” Ông ta đóng chiếc hộp lại. “Thế còn hoa thì sao? Thế cũng được đấy. Em thích hoa không? Em có thích loài hoa nào nhất không? Hoa cúc? Tuy líp? Tử đinh hương? Không hoa ư? Tốt! Bản thân tôi cũng không thấy cần thiết. Tôi chợt nghĩ... Này, tôi quen một thợ may ở Deh-Mazang này đấy. Tôi đang nghĩ ngày mai chúng tôi có thể đưa em đến đó, để em có một chiếc váy ưng ý và vừa vặn.”
Laila lắc đầu.
Rasheed nhướng lông mày.
“Tôi chỉ muốn sớm...” Laila bắt đầu nói.
Rasheed đặt tay lên cổ cô gái. Laila không thể không nhăn mặt và giật nảy người. Bàn tay ông ta khiến cô cảm giác như đang mặc một chiếc áo len cũ ẩm ướt đầy xơ mà không mặc áo sơ mi bên trong.
“Sao cơ?”
“Tôi chỉ muốn chúng ta tiến hành luôn.”
Miệng Rasheed mở ra, để lộ hàm răng vàng ệch. “Sẵn sàng,” ông ta nói.
Trước chuyến viếng thăm của Abdul Sharif, Laila đã quyết định sẽ đến Pakistan. Thậm chí sau khi Abdul Sharif mang tin đến, Laila vẫn nghĩ đáng lẽ cô đã có thể bỏ đi. Đi tới một nơi nào đó xa nơi này. Dứt mình ra khỏi thành phố này, nơi mỗi góc phố là một cạm bẫy, nơi mỗi con hẻm đều ẩn nấp một bóng ma sẵn sàng nhảy xổ vào cô như cái hộp hình nộm. Đáng lẽ cô đã có thể mạo hiểm.
Nhưng, đột nhiên, bỏ đi không còn là một lựa chọn nữa.
Không, với những lần nôn ọe hằng ngày.
Với sự nở nang mới có của bầu ngực.
Với cái nhận thức, chẳng hiểu sao cũng nảy ra được giữa tình cảnh rối loạn này, rằng cô đã trễ mất một kỳ kinh.
Laila hình dung ra cảnh mình ở trong trại tị nạn, một cánh đồng hoang vu với hàng ngàn tấm nhựa được buộc lại với nhau thành những cọc lều tạm đập phần phật trong cơn gió lạnh buốt cắt da cắt thịt. Dưới một trong những túp lều tạm đó, cô thấy con của cô, con của Tariq, thấy hai bên thái dương nhợt nhạt, cái cằm mềm yếu, làn da xám xanh, lốm đốm của con. Cô hình dung ra cảnh tấm thân bé bỏng đó được tắm bởi những người lạ, được cuốn trong một tấm vải liệm ố màu, và được đặt xuống một cái hố đào trên mảnh đất hoang vu lộng gió dưới cái nhìn thất vọng của những con kền kền.
Làm sao cô có thể bỏ đi được bây giờ?
Laila đau đớn liệt kê ra những người trong cuộc đời cô. Ahmad và Noor, đã chết. Hasina, đã chuyển đi. Giti, đã chết. Mammy, đã chết. Babi, đã chết. Bây giờ đến Tariq...
Nhưng, kỳ diệu thay, một thứ trong cuộc sống trước kia của cô vẫn còn tồn tại, mối liên hệ cuối cùng của cô với con người cô trước kia, trước khi cô trở nên hoàn toàn đơn độc. Một phần của Tariq vẫn còn sống trong cô, đang hình thành đôi cánh tay bé nhỏ và đang phát triển hai bàn tay mờ mờ.
Sao cô có thể hủy hoại thứ duy nhất mà anh để lại cho cô, thứ kết nối với phần đời trong quá khứ của cô?
Cô đưa ra quyết định một cách nhanh chóng. Sáu tuần đã trôi qua kể từ cái lần cô ở cùng với Tariq. Nếu để lâu hơn thì Rasheed sẽ nảy sinh nghi ngờ.
Cô biết những gì cô đang làm thật hèn hạ. Hèn hạ, dối trá và đáng hổ thẹn. Và quá bất công đối với Mariam. Nhưng mặc dù đứa trẻ trong bụng cô chưa to hơn một quả dâu, Laila vẫn thấy được những hy sinh cần thiết của một người mẹ. Trinh tiết chỉ là cái đầu tiên.
Cô đặt tay lên bụng. Nhắm mắt lại.
Laila còn nhớ dăm ba điều về cái đám cưới diễn ra lặng lẽ ấy. Những sọc kẻ màu kem trên bộ lễ phục của Rasheed. Mùi keo xịt tóc nồng nặc của ông ta. Một vết cứa nhỏ do cạo râu ngay trên yết hầu. Bề mặt thô ráp của những ngón tay nhuốm màu thuốc lá khi ông ta trao nhẫn cho cô. Chiếc bút. Nó đã bị hỏng. Tìm một chiếc bút mới. Bản hôn ước. Ký tên, tay ông ta đưa bút dứt khoát, tay cô thì run run. Những lời cầu nguyện. Để ý trong gương, cô thấy Rasheed đã tỉa tót đôi lông mày của ông ta.
Và, đâu đó trong phòng, Mariam đang dõi theo. Bầu không khí ngột ngạt bởi sự không tán thành của cô.
Laila không đủ cam đảm để đối diện với ánh mắt của người đàn bà ấy.
Tối đó, nằm dưới tấm chăn lạnh lẽo của Rasheed, Laila nhìn ông ta kéo rèm xuống. Cô run bần bật, thậm chí trước cả khi những ngón tay của ông ta lần cởi cúc áo sơ mi của cô, rồi kéo mạnh dải rút của chiếc quần cô đang mặc. Ông ta đang hưng phấn. Ông ta vội vàng cởi bỏ áo sơ mi và thắt lưng của mình. Laila thấy rõ hai bên ngực võng xuống của ông ta, cái rốn lồi, một đường gân xanh nhỏ ngay chính giữa người, một nhúm lông trắng dày ở ngực, ở vai, trên cẳng tay. Cô cảm thấy ánh mắt thèm muốn của Rasheed trườn trên khắp cơ thể mình.
“Xin Thượng đế cứu giúp, tôi nghĩ tôi yêu em mất rồi,” Rasheed nói.
Qua hàm răng run lập cập, Laila bảo Rasheed tắt đèn đi.
Một lúc sau, khi chắc chắn rằng ông ta đã ngủ say, Laila nhẹ nhàng với lấy con dao mà cô đã để sẵn dưới chiếu. Cô cứa một đường trên ngón trỏ. Rồi cô nâng tấm chăn và nhỏ máu lên chỗ khăn trải giường nơi họ đã nằm bên nhau.
31
Mariam
Ban ngày, Mariam tuyệt nhiên không thấy giọng nói, bóng dáng của cô gái, chỉ nghe thấy tiếng ván giường cót két, tiếng bước chân lộp cộp trên đầu. Tiếng cô gái té nước trong phòng tắm hoặc tiếng thìa uống trà va vào cốc thủy tinh leng keng trên phòng ngủ. Đôi khi cũng có những hình ảnh: bóng dáng của chiếc váy sóng sánh trong tầm nhìn của Mariam, những bước chân hối hả lên cầu thang, cánh tay khoanh trước ngực, những chiếc xăng đan táp vào gót chân.
Nhưng không thể tránh khỏi những lúc họ chạm mặt nhau. Mariam gặp cô gái trên cầu thang, ở hành lang hẹp, trong bếp hay ở ngưỡng cửa lúc cô gái đi từ sân vào. Khi họ gặp nhau như vậy, một không khí căng thẳng ngượng ngùng bao trùm hai người. Cô gái túm lấy váy, thốt ra một hai từ xin lỗi, và khi cô gái vội vã bước qua, Mariam cũng kịp liếc nhìn và bắt gặp một khuôn mặt đỏ bừng. Đôi khi, cô có thể ngửi thấy mùi của Rasheed ở cô gái. Cô có thể ngửi thấy mùi mồ hôi của lão trên làn da cô gái, mùi thuốc lá, sự ham muốn của lão ta. Tình dục, may mắn thay, đã là một trang khép lại trong cuộc đời cô. Đó là quá khứ, và thậm chí bây giờ chỉ cần nghĩ về những lần kinh khủng ấy khi phải nằm dưới Rasheed, Mariam cũng đã cảm thấy buồn nôn.
Tuy nhiên, vào buổi tối, điệu nhảy né tránh được cả hai sắp xếp này không thể tiếp tục được nữa. Rasheed nói họ là một gia đình. Ông ta cú khăng khăng như thế và nói mọi thành viên trong gia đình phải ăn cùng nhau.
“Gì thế này?” ông ta nói, những ngón tay gỡ thịt ra khỏi xương - cái trò dùng dao và dĩa đã bị lãng quên sau khi ông ta cưới cô gái được một tuần. “Tôi đã cưới phải hai bức tượng hay sao thế này? Nào, Mariam, gap bezan, hãy nói gì với cô ấy đi chứ. Cung cách lịch sự của cô ở đâu rồi?”
Vừa hút tủy xương, ông vừa nói với cô gái, “Nhưng em cũng không nên trách cô ấy. Cô ấy vốn ít nói. Đó là một điều may mắn, thật thế, bởi vì, wallah, nếu một người không có nhiều điều để nói thì tốt nhất nên kiệm lời thôi. Chúng ta là người thành phố, em và tôi, nhưng cô ấy là dân dehati. Một cô gái nhà quê. Thậm chí còn không được là gái quê nữa cơ. Không. Cô ấy lớn lên trong một cái kolba làm bằng bùn ở rìa làng. Bố cô ấy đã bỏ cô ấy ở đấy. Em đã kể với cô ấy chưa, Mariam, em có nói cho cô ấy biết em là một harami không? Ái chà, cô ấy là vậy đấy. Nhưng xét trên mọi khía cạnh cô ấy không phải là người không có phẩm chất. Rồi tự em sẽ thấy, Laila thân yêu ạ. Cô ấy khỏe mạnh, đó là một điểm, là một người làm việc tốt và không đòi hỏi bao giờ. Tôi nói theo cách này nhé: Nếu là xe hơi, cô ấy sẽ là một chiếc Volga.”
Mariam giờ đây đã là một phụ nữ ba mươi ba tuổi, nhưng cái từ đó, harami, vẫn làm cô đau nhói. Mỗi lần nghe từ đó, cô vẫn có cảm giác mình là loài sâu bọ, là một con gián. Cô nhớ mẹ Nana đã kéo cổ tay cô. Mày là đồ harami hậu đậu. Phần thưởng cho những gì tao phải chịu đựng là thế này đây. Một harami vụng về, làm vỡ vật gia bảo.
“Còn em,” Rasheed nói với cô gái, “em thì ngược lại, em là một chiếc xe Benz. Một chiếc Benz mới tinh, đẳng cấp và bóng loáng. Wah wah. Nhưng. Nhưng,” ông ta giơ ngón tay trỏ nhờn mỡ lên. “Người ta cần phải có... những sự quan tâm nhất định... đối với một chiếc xe Benz. Đó là vấn đề về sự coi trọng vẻ đẹp và sự tinh tế của nó, em thấy đấy. Ồ, có thể em đang nghĩ tôi như thể bị điên, diwana, khi cứ huyên thuyên về các loại xe. Tôi không nói hai người là những chiếc xe hơi. Tôi chỉ đang giải thích vấn đề thôi.”
Rasheed đặt nắm cơm ông ta vừa vê lên đĩa để nói tiếp. Bàn tay ông ta khua khua vu vơ trên đĩa thức ăn trong lúc ông ta nhìn xuống với nét mặt nghiêm trang và suy tư.
“Tôi không được phép nói xấu người đã khuất, đặc biệt là các shaheed. Và tôi không có ý không tôn trọng khi nói điều này, tôi muốn em biết, nhưng tôi có những nghi ngại... nhất định... về cách mà bố mẹ em - Đức Allah, xin Người hãy tha thứ cho họ và ban cho họ một nơi yên nghỉ trên thiên đường - về sự, ừm, sự nuông chiều của họ đối với em. Tôi xin lỗi.”
Cái nhìn lạnh lùng và đầy ác cảm mà cô gái ném vào mặt Rasheed khi nghe thấy câu nói đó không qua được mắt Mariam, nhưng ông ta thì đang nhìn xuống và không để ý.
“Không vấn đề gì. Điều quan trọng là bây giờ tôi là chồng của em, và trách nhiệm của tôi là bảo vệ không chỉ danh dự của em mà là của chúng ta, đúng thế, danh dự và niềm kiêu hãnh của chúng ta. Đó là gánh nặng đặt lên vai người chồng. Hãy để tôi lo cho em điều đó. Nhé. Em là nữ hoàng, malika, và ngôi nhà này là cung điện của em. Em muốn làm bất cứ điều gì thì cứ bảo với Mariam và cô ấy sẽ làm giúp em. Phải không, Mariam? Nếu em thích cái gì, tôi sẽ mua cho em. Em thấy đấy, tôi là người chồng như thế đấy.
“Đổi lại, tôi chỉ yêu cầu một điều, rất đơn giản. Tôi yêu cầu em không được rời nhà mà không có tôi đi cùng. Thế thôi. Đơn giản không? Nếu tôi đi vắng mà em cần gấp thứ gì đó, ý tôi là em thực sự cần nó và không thể đợi đến lúc tôi về, thì em có thể bảo Mariam và cô ấy sẽ đi ra ngoài kiếm cho em. Chắc chắn em đã nhận ra sự khác biệt. Người ta không bao giờ lái chiếc Volga và chiếc Benz theo cùng một cách. Như thế là ngu ngốc có phải không? Ồ, tôi cũng yêu cầu khi chúng ta ra ngoài cùng nhau, em phải đeo burqa vào. Đương nhiên là để bảo vệ chính em. Đó là điều tốt nhất. Bây giờ có rất nhiều gã dâm đãng ở thành phố này. Chúng có sẵn những ý đồ đê hèn và sẵn sàng giở trò đồi bại ngay cả với phụ nữ đã có chồng. Vậy đấy. Thế thôi.”
Ông ta hắng giọng.
“Tôi phải nói rằng, Mariam sẽ là tai mắt của tôi khi tôi đi vắng.” Đến đây, ông ta ném cho Mariam một cái nhìn phớt qua dữ dằn như một cú đá bằng giày đinh vào thái dương. “Không phải là tôi không tin tưởng. Mà trái lại. Thẳng thắn mà nói, em làm tôi có ấn tượng rằng em thông minh hơn rất nhiều so với tuổi của em. Nhưng em vẫn còn là một phụ nữ trẻ, Laila, một dokhtar ejawan, mà những phụ nữ trẻ có thể có những lựa chọn không may mắn. Và họ rất dễ gặp phải bất hạnh. Gì thì gì, Mariam sẽ là người có thể tin cậy được. Và nếu có một sai lầm nào thì...”
Ông ta cứ nói liên tục, liên tục. Mariam ngồi liếc nhìn cô gái khi những mệnh lệnh và phán quyết của Rasheed dội xuống họ như những đợt rocket dội xuống Kabul.
Một hôm, Mariam ở trong phòng khách gấp đống áo sơ mi của Rasheed mà cô vừa mới rút từ dây phơi ngoài sân. Cô không biết cô gái đã đứng đó bao lâu, nhưng khi cô cầm chiếc áo quay lại thì đã thấy cô gái đang đứng ở cửa, tay cầm một cốc trà đầy.
“Em không có ý làm chị giật mình,” cô gái nói. “Em xin lỗi.”
Mariam chỉ nhìn cô gái.
Ánh mặt trời phản chiếu lên khuôn mặt cô gái, lên đôi mắt to xanh biếc và đôi lông mày thanh tú, vào đôi gò má cao và hàng lông mày rậm, hấp dẫn, không hề giống với hàng lông mày mỏng và chẳng có gì nổi bật của Mariam. Mái tóc vàng của cô gái sáng nay chưa được chải, chỉ rẽ sang hai bên.
Mariam có thể thấy cô gái đang căng thẳng qua cái cách cô gượng gạo nắm chặt cái cốc, đôi vai hơi so lại. Cô tưởng tượng ra cảnh cô gái ngồi trên giường đang cố gắng trấn tĩnh lại.
“Lá cây đang ngả màu,” cô gái nói một cách thân thiện. “Chị có thấy không? Mùa thu là mùa em thích nhất. Em thích mùi vị của nó, khi người ta đốt lá rụng trong vườn. Mẹ em cũng thích mùa thu nhất. Chị biết mẹ em phải không?”
“Không nhiều lắm.”
Cô gái khum tay sau tai. “Gì cơ ạ?”
Mariam cao giọng. “Tôi nói là không. Tôi không biết mẹ cô.”
“Ồ.”
“Cô muốn cái gì à?”
“Mariam yêu quý, em muốn... Về những chuyện mà ông ấy nói tối hôm nọ.”
“Tôi cũng định nói với cô về vấn đề này,” Mariam chen ngang.
“Vâng, chị nói đi,” cô gái nói một cách tha thiết và gần như háo hức. Cô bước lên phía trước một bước. Trông cô bớt căng thẳng hơn.
Bên ngoài, một chú chim vàng anh đang hót líu lo. Ai đó đang kéo xe bò, Mariam có thể nghe thấy tiếng kẽo kẹt của các khớp nối, tiếng ầm ĩ và lạch cạch của những bánh xe sắt. Có âm thanh của tiếng súng nổ không xa đây lắm, một phát, sau đó thêm ba phát nữa, rồi im bặt.
“Tôi sẽ không làm đầy tớ của cô đâu,” Mariam nói. “Tôi sẽ không làm.”
Cô gái ngần ngại. “Không. Tất nhiên là không rồi.”
“Cô có thể là một malika trong lâu đài và tôi chỉ là một dehati, nhưng tôi không bao giờ chấp nhận mệnh lệnh nào của cô. Cô có thể phàn nàn với ông ta và ông ta có thể cắt cổ tôi, nhưng tôi sẽ không làm điều đó. Cô có nghe tôi nói không? Tôi sẽ không làm đầy tớ của cô.”
“Không! Em không mong đợi...”
“Và nếu cô nghĩ rằng cô có thể dùng vẻ bề ngoài của cô để tống cổ tôi đi thì cô đã nhầm. Ở đây, tôi là người đầu tiên. Tôi sẽ không bị tống cổ ra ngoài đâu. Tôi sẽ không để cô đuổi tôi ra ngoài đâu.”
“Đó không phải điều em muốn,” cô gái nói một cách yếu ớt.
“Và tôi thấy rằng vết thương của cô bây giờ đã lành. Vì thế cô có thể bắt đầu giúp tôi làm những công việc trong nhà này được rồi.”
Cô gái vội gật đầu. Một ít trà đổ ra ngoài, nhưng cô không để ý. “Vâng, còn một lý do khác em xuống đây, là để cám ơn chị đã chăm sóc em...”
“Thế đấy, lẽ ra tôi không nên làm như thế,” Mariam trả lời ngay. “Lẽ ra tôi không nên cho cô ăn, tắm rửa cho cô và chăm sóc cô nếu tôi biết rằng cô sẽ trở mặt và cướp chồng tôi.”
“Cướp...”
“Tôi sẽ vẫn nấu ăn và rửa chén bát. Cô sẽ giặt quần áo và quét dọn. Những việc còn lại, chúng ta sẽ luân phiên nhau hằng ngày. Và một điều nữa. Tôi không ưa là bạn của cô. Tôi không muốn điều đó. Cái tôi muốn là được ở một mình. Cô tôn trọng tôi, và tôi cũng sẽ như thế với cô. Đó là cách chúng ta sẽ sống cùng nhau. Đó là quy tắc.”
Khi nói xong, tim cô đập liên hồi và miệng cảm thấy khô rát. Trước đây, Mariam chưa bao giờ nói với ai như vậy và cô cũng chưa bao giờ bày tỏ ý chí của mình mãnh liệt đến thế. Nó khiến cô cảm thấy thỏa mãn, nhưng đôi mắt cô gái đã đẫm lệ còn khuôn mặt thì trở nên ủ rũ, và cái cảm giác thỏa mãn Mariam tìm thấy trong cơn bùng phát này đã tan biến, thậm chí cô còn cảm thấy đôi chút tội lỗi.
Cô đưa đống áo cho cô gái.
“Đặt chúng vào almari*, không cho vào tủ đứng. Ông ấy thích đồ màu trắng ở ngăn trên cùng, những cái còn lại ở giữa, cùng với tất.”
Tủ gỗ.
Cô gái để cái cốc xuống sàn nhà và chìa tay ra đỡ chỗ áo sơ mi, lòng bàn tay hướng lên trên. “Em xin lỗi về tất cả chuyện này,” cô gái rền rĩ.
“Cô nên làm như thế,” Mariam nói. “Cô nên cảm thấy hối tiếc.”
32
Laila
Laila nhớ lại một lần tụ họp diễn ra nhiều năm trước ở nhà cô, vào một trong những ngày Mammy có tâm trạng thoải mái. Những người đàn bà ngồi trong vườn, ăn dâu tươi do Wajma hái trong sân nhà. Những trái dâu to màu trắng hồng, vài quả có màu tím sẫm như những mạch máu nhỏ nổi trên mũi Wajma.
“Các bà có biết thằng con trai hắn chết như thế nào chưa?” Wajma nói, hăng hái nhét thêm một nắm dâu nữa vào cái miệng móm mém của mình.
“Cậu bé bị chết đuối, đúng không?” Nila, mẹ của Giti, nói. “Chết ở hồ Ghargha có phải không?”
“Nhưng các bà có biết, có biết là Rasheed đã...” Wajma giơ một ngón tay lên, đầu gật gù, miệng nhóp nhép, bắt họ đợi cho bà nuốt xong. “Các bà có biết là hồi đấy ông ta thường uống sharab, và ngày hôm đó ông ta say xỉn, gào thét lung tung không? Thật đấy. Gào khóc trong cơn say, tôi nghe nói thế đấy. Đó là giữa buổi sáng. Đến trưa, ông ta nằm lăn quay trên một cái ghế dài. Bà có bắn đại bác kề bên tai ông ta cũng không chớp mắt đâu.”
Laila nhớ rõ Wajma đã che miệng, ợ lên như thế nào, cái lưỡi của bà cử động giữa vài cái răng còn lại ra sao.
“Các bà có thể tưởng tượng ra phần cuối rồi đấy. Thằng bé đi tới hồ nước mà không ai để ý. Một lúc sau, người ta nhìn thấy nó đang nổi lềnh phềnh, mặt sấp xuống. Mọi người vội lao tới cứu, một nửa cố gắng hồi tỉnh thằng bé, nửa kia thì cố đánh thức ông bố. Có người cúi xuống, làm... cái chuyện miệng-kề-miệng mà người ta cần phải làm đó. Nhưng vô ích. Ai cũng thấy thế. Thằng bé chết rồi.”
Laila nhớ Wajma đã giơ ngón tay lên và giọng bà run rẩy vì lòng mộ đạo. “Đó là lý do tại sao Thánh kinh Koran lại cấm sharab. Bởi vì những người tỉnh luôn phải trả giá cho tội lỗi của người say. Thế đấy.”
Câu chuyện này cứ lởn vởn trong đầu Laila sau khi cô thông báo cho Rasheed tin cô đã mang thai. Ông ta ngay lập tức nhảy lên xe đạp, phi đến nhà thờ và cầu nguyện một đứa con trai.
Tối hôm đó, trong suốt bữa ăn, Laila thấy Mariam cứ đẩy đẩy miếng thịt quanh đĩa. Laila đã ở đó khi Rasheed thông báo cho Mariam bằng giọng cao vót, xúc động - trước đây Laila chưa bao giờ được chứng kiến một nỗi vui mừng tàn nhẫn đến như vậy. Hàng lông mi của Mariam run rẩy khi cô nghe thấy tin này. Khuôn mặt cô thoáng đỏ bừng. Cô ngồi im vẻ hờn dỗi, trông như bị bỏ rơi.
Sau đó, Rasheed đi lên tầng nghe đài, Laila giúp Mariam dọn sojrah.
“Tôi không thể tưởng tượng được bây giờ cô sẽ là gì đây,” vừa nói Mariam vừa nhặt những hạt cơm và mẩu vụn bánh mì, “nếu trước đây cô đã là một chiếc xe Benz.”
Laila cố tỏ ra nhẹ nhàng và hài hước. “Một chiếc tàu hỏa? Cũng có thể là một chiếc máy bay phản lực cỡ lớn.”
Mariam đứng thẳng dậy. “Tôi hy vọng rằng cô không nghĩ điều này sẽ miễn cho cô phải làm việc nhà.”
Laila mở miệng ra định nói gì đó nhưng lại thôi. Cô tự nhắc mình rằng Mariam là người duy nhất vô tội trong cuộc dàn xếp này. Mariam và đứa bé.
Lúc sau, khi nằm trên giường, Laila bật khóc.
Có chuyện gì thế? Rasheed muốn biết, nâng cằm Laila lên. Cô ấy ốm sao? Hay là đứa bé, có chuyện gì không hay xảy ra với đứa bé hay sao? Không phải chứ?
Hay là Mariam đã đối xử tệ với cô ấy?
“Có phải vậy không?”
“Không.”
“Wallah o billah, tôi sẽ xuống dạy cho cô ta một bài học. Cô ta tưởng mình là ai chứ, con harami đó, nó đối xử với em...”
“Không!”
Ông ta đã dợm đứng dậy và Laila phải chộp lấy cẳng tay ông ta, níu ông ta ngồi xuống. “Đừng làm thế! Không phải vậy đâu! Chị ấy rất tốt với em. Em chỉ cần nghỉ một chút thôi, chỉ thế thôi. Em sẽ ổn thôi mà.”
Rasheed ngồi bên cạnh cô gái, vuốt ve cổ cô và thì thầm, bàn tay ông chầm chậm lần xuống lưng cô gái, rồi lại lần lên. Ông ta ghé sát vào, khoe cái hàm đầy răng.
“Thế thì chúng ta hãy xem,” ông ta rên rỉ, “tôi có thể giúp em cảm thấy khá hơn không.”
Đầu tiên, những cái cây chưa bị đốn làm củi đã trút những chiếc lá vàng điểm màu đỏ đồng xuống mặt đất. Rồi đến những cơn gió lạnh buốt xương tràn qua thành phố. Chúng cuốn phăng những chiếc lá cuối cùng còn bám trên cây, làm cho cây cối trông như những bóng ma trên nền nâu im lìm của mấy ngọn đồi. Đợt tuyết đầu mùa thật nhẹ nhàng, những bông tuyết chưa kịp rơi xuống đã tan biến mất. Rồi đường phố đóng băng, tuyết chất đầy trên các mái nhà, ngập lên cao lưng chừng các cửa sổ đã đóng băng. Cùng với tuyết là những con diều, từng có thời thống trị trên bầu trời mùa đông của Kabul, giờ lại trở thành kẻ xâm phạm rụt rè vào cái lãnh địa đã được khẳng định chủ quyền bởi những quả rocket và những chiếc máy bay chiến đấu.
Rasheed liên tục mang tin tức chiến tranh về nhà và Laila cảm thấy bối rối trước những bổn phận đối với đất nước mà Rasheed cố gắng giải thích cho cô. Sayyaf đang đánh cánh Hazara, ông ta nói. Còn Hazara thì đánh lại Massoud.
“Và tất nhiên ông ta thì đang đánh Hekmatyar, ông này có sự hậu thuẫn của Pakistan. Hai cánh đó, Massoud và Hekmatyar, là những kẻ thù không đội trời chung. Sayyaf thì đứng về phe Massoud. Còn Hekmatyar bây giờ thì ủng hộ cho Haraza.”
Về thủ lĩnh người Uzbek, tướng Dostum, von là kẻ nay thế này mai thế kia, Rasheed nói rằng chẳng ai biết ông ta đứng về phe nào. Hồi những năm 1980, Dostum lúc đầu đi theo lực lượng Chiến binh Hồi giáo chống lại Xô Viết, nhưng rồi ông ta đào ngũ và gia nhập chính quyền cộng sản bù nhìn của Najibullah sau khi quân Xô Viết ra đi. Ông ta thậm chí còn được đích thân Najibullah trao huân chương danh dự trước khi lại phản bội lần nữa, quay trở lại phe của lực lượng Chiến binh Hồi giáo. Hiện tại, Rasheed nói, Dostum đang ủng hộ Massoud.
Ở Kabul, đặc biệt là phía Đông Kabul, các cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, những màn khói đen kịt bao trùm lên các tòa nhà phủ tuyết trắng. Đại sứ quán đóng cửa. Trường học thì sập. Trong phòng đợi của bệnh viện, người bị thương chờ chết vì bị mất máu. Còn trong phòng mổ, chân tay bị cắt bỏ mà không có thuốc gây tê.
“Nhưng đừng lo lắng,” ông ta nói. “Em sẽ an toàn khi ở bên anh, bông hoa của anh, gul của anh. Ai mà muốn hại em, anh sẽ moi gan nó ra và bắt nó phải nuốt cho bằng hết.”
Mùa đông đó, dù quay sang đâu, Laila cũng thấy bước chân mình đã bị các bức tường chặn đứng. Cô thèm khát nghĩ về bầu trời tuổi thơ rộng mở, về những ngày đi xem các giải buzkashi* với Babi và đi mua sắm ở Mandaii với Mammy, về những ngày chạy nhảy nô đùa trên đường phố và tán gẫu với Giti và Hasina về các cậu con trai. Những ngày cô với Tariq ngồi trên thảm cỏ ba lá bên bờ sông, trao cho nhau những cái kẹo và câu đố, cùng nhau ngắm hoàng hôn.
Một môn thi đấu truyền thống của Afghanistan và là môn thể thao quốc gia của nước này. Người chơi chia thành các đội, thi đấu trên lưng ngựa, đội nào đoạt được con dê hoặc con bê đã bị cắt đầu để dưới đất, sau đó chạy thoát về vạch đích sẽ chiến thắng.
Nhưng trước khi cô có thể dừng những ý nghĩ về Tariq lại, chúng đã phản bội cô, khiến cô nhìn thấy Tariq đang nằm trên một chiếc giường, ở một nơi nào rất xa, những cái ống xiên vào cơ thể cháy đen của anh. Cùng với sự khó chịu đang thiêu đốt cổ họng cô những ngày này, một sự cay đắng sâu thẳm dồn ứ lên trong ngực Laila. Đôi chân cô như tan thành nước. Cô phải vịn vào một thứ gì đó mới đứng vững nổi.
Laila trải qua mùa đông năm 1992 đó cùng với việc quét dọn nhà cửa, lau chùi lại những bức tường màu bí ngô trong phòng ngủ của cô và Rasheed, giặt quần áo trong một cái chậu đồng lớn ở bên ngoài nhà. Thỉnh thoảng cô thấy mình như đang bay trên chính cơ thể mình, thấy mình đang ngồi trên mép của cái chậu đồng, tay áo xắn tới khuỷu, đôi tay ửng đỏ vắt nước xà phòng khỏi những chiếc áo lót của Rasheed. Rồi cô cảm thấy như bị lạc lối, như người sống sót sau một vụ đắm tàu đang tìm cách xoay xở, quay đâu cũng không thấy bờ, chỉ thấy hàng dặm, hàng dặm nước.
Khi trời quá lạnh không đi ra ngoài được, Laila chỉ đi lại nhẹ nhàng quanh nhà. Cô bước xuống cầu thang, kéo rê móng tay dọc theo tường, rồi quay trở lên, rồi lại đi xuống, rồi đi lên, mặt không rửa, tóc cũng không chải. Cô đi cho đến khi chạm phải Mariam, người ném cho cô một cái nhìn lạnh lùng rồi quay trở lại cắt cuống ớt chuông và tách mỡ ra khỏi thịt. Một sự im lặng nặng nề bao trùm lên căn phòng và Laila gần như có thể thấy sự căm ghét không nói nên lời từ Mariam như những đợt nóng phả ra từ nhựa đường. Cô quay trở về phòng, ngồi trên giường ngắm tuyết rơi.
Một ngày, Rasheed đưa cô tới cửa hàng đóng giày của ông ta.
Khi họ ra ngoài cùng nhau, ông ta bước đi bên cạnh, một tay nắm lấy khuỷu tay cô. Đối với Laila, ra ngoài đường đã trở thành một bài tập tránh bị thương. Đôi mắt cô vẫn đang làm quen với tầm nhìn hạn che qua những khe hở hẹp của chiếc burqa, đôi chân cô vẫn còn vấp vào vạt áo. Cô bước đi mà luôn sợ có thể vấp ngã hoặc làm thương mắt cá chân khi giẫm phải ổ gà. Nhưng cô thấy một chút thoải mái khi giấu mình trong burqa. Như thế này cô sẽ không bị nhận ra nếu gặp người quen cũ. Cô sẽ không phải chứng kiến sự ngạc nhiên trong mắt họ, sự thương hại hoặc niềm hân hoan khi thấy cô đã trượt dốc đến nhường nào, khi những khát vọng cao xa của cô đã bị vứt bỏ ra sao.
Cửa hàng giày của Rasheed to và sáng sủa hơn Laila tưởng tượng. Ông ta để cô ngồi đằng sau bàn làm việc, nơi bày la liệt những cái đế cũ và các mảnh da còn thừa. Ông ta chỉ cho cô những cái búa, giải thích cái bánh mài giấy ráp hoạt động ra sao, giọng dõng dạc và tự hào. Ông ta luồn tay xuống dưới áo xoa bụng cô, những đầu ngón tay của ông lạnh và thô ráp như vỏ cây chạm vào da bụng căng phồng của cô. Laila nhớ lại bàn tay của Tariq, mềm mại nhưng mạnh mẽ, những đường gân trên bàn tay khỏe khoắn, uốn khúc mà cô luôn thấy thật nam tính và hấp dẫn.
“Nó lớn nhanh thật đấy,” Rasheed nói. “Nó sẽ là một cậu bé khỏe mạnh. Con trai tôi sẽ là một pahlawan! Giống như bố nó vậy.”
Laila kéo áo xuống. Cô luôn cảm thấy sợ hãi khi ông ta nói như vậy.
“Mọi chuyện với Mariam như thế nào?”
Cô nói đều ổn.
“Tốt. Tốt.”
Cô không kể với ông ta họ đã trải qua trận chiến thực thụ đầu tiên như thế nào.
Cuộc chiến này xảy ra cách đây vài ngày. Laila đi vào trong bếp và thấy Mariam đang kéo mạnh các ngăn kéo rồi đóng sầm chúng lại. Mariam nói cô đang tìm cái thìa gỗ dài để nguấy cơm.
“Cô để nó ở đâu thế?” cô vừa nói vừa quay lại nhìn Laila.
“Em ư?” Laila nói. “Em có lấy nó đâu. Chả mấy khi em vào đây.”
“Tôi đã để ý thấy.”
“Đó có phải là lời buộc tội không? Chính chị muốn như thế, chị nhớ không? Chị nói chị sẽ nấu ăn. Nhưng nếu chị muốn thay đổi...”
“Vậy ý cô là nó tự dưng mọc ra chân mà chạy đi chắc. Teep, teep, teep, teep. Đấy là những gì xảy ra đấy hả, degeh*?
Hay là sao?
“Em muốn nói là...” Laila nói, cố gắng kiềm chế. Thường thì cô tự buộc mình chịu đựng sự chế nhạo và những cái chỉ tay của Mariam. Nhưng ngày hôm đó hai mắt cá chân của cô đã bị sưng, đầu thì nhức và chứng ợ nóng thật tồi tệ. “Em muốn nói là có thể chị đã để nó không đúng vị trí.”
“Không đúng vị trí ư?” Mariam kéo cái ngăn kéo ra. Dao bay và các loại dao khác bên trong kêu loảng xoảng. “Cô đã ở đây được bao lâu rồi, mới vài tháng thôi có phải không? Còn tôi, tôi sống trong ngôi nhà này đã mười chín năm rồi, dokhtar jo. Tôi luôn để cái thìa đó trong cái ngăn kéo này từ thời cô còn quấn tã đấy.”
“Nhưng dù sao,” Laila nói, răng nghiến chặt, bây giờ đã quá sức chịu đựng rồi, “cũng có thể chị để nó ở đâu đó rồi quên mất.”
“Và cũng có thể cô đã giấu nó ở đâu đó, để chọc tức tôi.”
“Chị đúng là một người đàn bà đáng thương,” Laila nói.
Mariam chùn bước, nhưng sau khi đã định tâm lại, cô lại dướn môi lên. “Còn cô là một con đĩ. Một con đĩ. Một con đĩ ăn cắp, cô là thế đấy!”
Sau đó là những tiếng hét. Nồi niêu xoong chảo bị khua loảng xoảng, dù chẳng được ai dùng để ném ai. Họ gọi nhau bằng những cái tên, những cái tên giờ đây khiến Laila ngượng ngùng. Kể từ hôm đó họ chưa nói chuyện với nhau. Laila vẫn thấy bất ngờ vì cô lại dễ mất kiểm soát như thế, nhưng sự thực là, một phần trong cô lại thích điều đó, thích cái cảm giác được hét vào mặt Mariam, được chửi rủa chị ta và có một mục tiêu trút cơn giận đang sục sôi và nỗi cay đắng của mình.
Laila tự hỏi, với chút gì đó như thấu hiểu, không biết Mariam có cảm thấy giống cô hay không.
Sau lúc đó, cô chạy lên tầng, và nằm vật ra giường của Rasheed. Ở dưới tầng, Mariam vẫn la hét, “Đồ đầu đất! Đồ đầu đất!” Laila nằm trên giường, vùi đầu vào gối và thổn thức. Bỗng nhiên cô nhớ bố mẹ, một cảm xúc mãnh liệt không cưỡng lại được mà cô đã không còn thấy lại kể từ những ngày khủng khiếp ngay sau vụ tấn công đó. Cô nằm đấy, nắm chặt tấm khăn trải giường, cho tới khi đột nhiên hơi thở của cô chững lại. Cô ngồi dậy, vội sờ tay xuống bụng.
Lần đầu tiên, đứa trẻ vừa đạp mạnh.
33
Mariam
Vào một buổi sáng sớm mùa xuân năm sau, năm 1993, Mariam đứng bên cửa sổ phòng khách nhìn Rasheed đưa cô gái ra khỏi nhà. Laila lảo đảo, người hơi cúi xuống, một tay ôm bảo vệ cái bụng căng tròn, mà hình dạng có thể nhìn thấy qua chiếc burqa của cô. Rasheed, lo lắng và chu đáo quá mức, nắm lấy khuỷu tay cô, đưa cô qua sân như một viên cảnh sát giao thông. Ông ta ra hiệu “Đợi ở đây” rồi vội lao ra cổng trước, ra hiệu cho cô gái đi tiếp, một chân giữ cho cửa mở. Khi cô đến nơi, ông ta nắm lấy tay cô, giúp cô qua cổng. Mariam gần như có thể nghe thấy tiếng ông ta nói, “Bây giờ thì đi cẩn thận nhé, bông hoa của anh, gul của anh.”
Họ trở về lúc sẩm tối ngày hôm sau.
Mariam nhìn thấy Rasheed đi vào sân trước. Ông ta cứ để cho cánh cổng đung đưa và suýt nữa nó đập vào mặt cô gái. Ông ta băng nhanh qua sân. Mariam nhận thấy vẻ âm u trên khuôn mặt ông ta, một màn đêm ẩn chứa dưới ánh đỏ đồng lúc chạng vạng. Vào trong nhà, ông ta cởi áo khoác ném xuống ghế sofa. Khi nhìn thấy Mariam, ông ta nói bằng một giọng cộc cằn, “Tôi đói rồi. Làm bữa tối nhanh lên.”
Cửa trước ngôi nhà mở ra. Từ bên hành lang, Mariam nhìn thấy cô gái, một cái bọc được cuốn lại treo bên tay trái. Laila để một chân ngoài, một chân trong để chặn cho cánh cửa không đóng sập lại. Cô vừa cúi người xuống vừa càu nhàu, cố gắng với cái túi đồ mà cô đã đặt xuống để mở cửa. Khuôn mặt cô nhăn nhó vì phải vận sức. Cô ngước mắt lên và nhìn thấy Mariam.
Mariam quay vào trong bếp hâm nóng thức ăn cho Rasheed.
“Cứ như có người đang chọc cái tua vít vào tai tôi vậy,” Rasheed nói, tay dụi mắt. Ông ta đang đứng ở trước cửa phòng Mariam, đôi mắt sưng húp, mặc độc cái quần thắt nút. Mái tóc trắng của ông ta rối bời, chĩa ra mọi hướng. “Nó đang khóc. Tôi không thể chịu nổi.”
Ở dưới tầng, cô gái đang bế đứa bé đi lại trong phòng và cố hát ru nó.
“Trong suốt hai tháng qua tôi không có lấy một đêm ngon giấc,” Rasheed nói. “Phòng thì có mùi như nước cống. Tã bẩn ở khắp mọi nơi. Đêm hôm nọ tôi đã giẫm phải một cái.”
Mariam cười thầm trong bụng với sự thỏa mãn quá đáng.
“Mang con bé ra ngoài!” Rasheed ngoái cổ lại hét. “Sao cô không đưa nó ra ngoài?”
Tiếng hát im bặt. “Nó sẽ bị viêm phổi.”
“Giờ đang là mùa hè.”
“Gì cơ?”
Rasheed nghiến răng và lớn giọng. “Tôi nói, ngoài kia trời ấm!”
“Tôi không đưa con bé ra ngoài đâu!”
Và tiếng hát lại cất lên.
“Đôi khi, tôi thề, đôi khi tôi muốn tống cái thứ đấy vào một cái hộp và thả trôi nó trên sông Kabul. Giống như đứa bé Moses*.”
Cậu bé có cha mẹ là người Israel bị bắt làm nô lệ ở Ai Cập. Sau khi sinh ra cậu được giấu trong một chiếc thúng trên sông Nile để tránh khỏi sự tàn ác của Pharaoh trị vì. May mắn là con gái của Pharaoh khi đi tắm đã nhặt được cậu và nhận làm con nuôi.
Mariam chưa bao giờ nghe thấy ông ta gọi đứa bé bằng cái tên mà Laila đặt cho nó, Aziza, Người yêu dấu. Nó luôn là đứa bé, hoặc khi ông ta thực sự cáu tiết thì nó là cái thứ đó.
Có vài đêm, Mariam lén nghe họ cãi nhau. Cô nhón chân tới cửa phòng họ, lắng nghe ông ta than phiền về đứa bé - luôn luôn là đứa bé - về việc nó khóc suốt ngày, mùi, rồi những thứ đồ chơi làm cho ông ta bị vấp, và chuyện đứa bé đã lấy đi sự chú ý của Laila dành cho ông ta bằng những nhu cầu liên tục như được cho ăn, được vỗ về, được thay tã lót, bế ẵm và đi dạo. Đến lượt cô gái quở trách ông ta vì tội hút thuốc lá trong phòng và không để cho đứa bé ngủ với họ.
Cũng có những cuộc tranh cãi không to tiếng.
“Bác sĩ nói sáu tuần.”
“Vẫn chưa đâu, Rasheed. Không. Đi đi. Thôi đi mà. Đừng có làm thế.”
“Đã hai tháng rồi.”
“Suỵt. Đấy. Ông đánh thức đứa bé rồi đấy.” Rồi cô đanh giọng, “Khosh shodi? Bây giờ thì ông hạnh phúc rồi chứ?”
Mariam lén quay trở lại phòng mình.
“Cô không giúp gì được sao?” Bây giờ thì Rasheed đang nói. “Phải có chuyện gì cô làm được chứ.”
“Tôi biết gì về trẻ con đâu?” Mariam nói.
“Rasheed! Ông có thể mang cái bình lên đây không. Nó ở trên almari ấy. Con bé không chịu ăn. Tôi muốn thử lại cái bình đó.”
Tiếng đứa bé ré lên từng chặp, như thể một con dao phay bổ trên miếng thịt.
Rasheed nhắm mắt lại. “Cái thứ đó là một viên chỉ huy đấy. Hekmatyar. Tôi nói cho cô biết, Laila đã sinh ra Gulbuddin Hekmatyar.”
Mariam chứng kiến mỗi ngày cô gái một trở nên bận rộn với hết việc cho ăn, hát ru, lại đến việc tung nựng đũa bé rồi bế rong nó. Ngay cả khi đứa bé ngủ, cũng lại có hàng đống tã bẩn phải vò và ngâm trong cái thùng thuốc tẩy mà cô gái đã nài nỉ Rasheed mua. Có móng tay cần phải giũa bằng giấy nhám, có bộ quần áo lao động và bộ quần áo ngủ cần phải giặt và phơi. Những bộ quần áo này, cũng như những thứ khác về đứa bé, đã trở thành tâm điểm của cuộc cãi vã.
“Có vấn đề gì với chúng hay sao?” Rasheed nói.
“Đây là quần áo của con trai. Dành cho một bacha.”
“Thế cô nghĩ nó biết phân biệt chắc? Tôi đã phải trả cả đống tiền cho những bộ quần áo này. Và một điều nữa, tôi không thích cái giọng đó. Hãy coi đó là một lời cảnh cáo.”
Hằng tuần, không một lần nào quên, cô gái hơ nóng một miếng đồng đen trên lửa, tung một nhúm hạt cửu lý hương vào trong đó và thổi nhẹ khói thảo mộc espandi vào đứa bé để xua đuổi ma quỷ.
Mariam thấy thật mệt mồi khi phải dõi theo sự hăng hái bền bỉ của cô gái - và trong chừng mực nào đó, cô phải thú nhận rằng mình thán phục cô gái. Cô rất kinh ngạc khi đôi mắt cô gái luôn sáng lên lòng tôn kính, thậm chí cả vào buổi sáng, khi gương mặt cô ủ rũ và nước da nhợt nhạt sau một đêm thức bế đứa bé. Cô gái bật cười khi đứa bé đánh rắm. Những thay đổi nhỏ nhất của đứa trẻ làm cô vui thích và mọi thứ nó làm cô đều thấy thật kỳ diệu.
“Nhìn này! Con bé đang với cái lúc lắc kìa. Nó mới thông minh làm sao.”
“Tôi gọi báo chí đến nhé,” Rasheed nói.
Tối nào cũng có chuyện để xem. Khi cô gái cứ khăng khăng đòi ông ta xem cái gì đó, Rasheed hất cằm lên và ném một cái nhìn lướt xuống đầy vẻ thiếu kiên nhẫn qua cái đầu mũi có nhiều mạch máu xanh.
“Xem này. Xem con bé cười khi em vỗ tay kìa. Đấy. Thấy không? Ông có nhìn thấy không?”
Rasheed càu nhàu rồi quay lại với đĩa thức ăn của mình. Mariam nhớ lại chỉ riêng sự có mặt của cô gái thôi đã từng làm ông ta điên đảo đến thế nào. Mọi thứ cô ấy nói đều đã từng làm hài lòng ông ta, thu hút ông ta, lôi ông ta ngẩng đầu lên khỏi đĩa thức ăn và gật đầu đồng tình.
Việc cô gái bị thất sủng lẽ ra phải khiến Mariam hài lòng, phải đem lại cho cô cảm giác của một người đã chứng minh được là mình đúng. Nhưng thật lạ là không. Không phải thế. Chính Mariam cũng ngạc nhiên khi thấy mình thương hại cho cô gái.
Lại thêm chuyện sau bữa tối, cô gái bày tỏ hàng loạt nỗi lo lắng của mình. Đứng đầu danh sách là bệnh viêm phổi, luôn nằm trong diện tình nghi mỗi khi đứa bé có những cơn ho nhẹ. Rồi là bệnh lỵ, nỗi sợ hãi về căn bệnh này càng lớn hơn sau mỗi lần đứa bé bị ỉa chảy. Rồi mỗi nốt đỏ cũng được cho là dấu hiệu của bệnh sởi hoặc bệnh đậu mùa.
“Cô không cần phải lo lắng quá như thế đâu,” một tối Rasheed nói.
“Ý ông là gì?”
“Đêm hôm trước tôi có nghe đài. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Tôi nghe một con số thống kê thú vị. Họ nói rằng ở Afghanistan, cứ bốn đứa trẻ thì một đứa sẽ chết trước năm tuổi. Họ nói thế đấy. Bây giờ, họ... Sao? Sao? Cô đi đâu đấy? Quay lại đây? Quay lại đây ngay!”
Ông ta nhìn Mariam lúng túng. “Cô ta sao thế?”
Đêm đó, Mariam đang nằm trên giường thì cuộc cãi vã lại bắt đầu. Đó là một đêm mùa hè oi ả, đặc trưng của tháng Saratan ở Kabul. Mariam mở cửa sổ rồi đóng lại vì chẳng có cơn gió nào lùa vào để làm dịu đi cái nóng, chỉ có muỗi. Cô có thể cảm thấy cái nóng bốc lên từ nền đất bên ngoài, qua những tấm ván vụn màu nâu sáng của nhà xí, phả lên qua những bức tường và vào trong phòng cô.
Thường thì, cuộc cãi vã sẽ tự kết thúc sau vài phút, nhưng lần này nửa tiếng trôi qua, nó không những tiếp tục mà thậm chí còn căng thẳng hơn. Bây giờ Mariam có thể nghe thấy Rasheed đang hét lên. Còn giọng cô gái thì nhỏ hơn, chói tai và ngập ngừng. Ngay sau đó đứa bé khóc thét lên.
Rồi Mariam nghe thay tiếng cửa phòng họ mở ra một cách hung dữ. Vào buổi sáng, cô thấy cái vết hình tròn của tay nắm cửa hằn trên bức tường ngoài hành lang. Cô đang ngồi trên giường thì cửa phòng bật mở và Rasheed bước vào.
Ông ta mặc quần lót trắng và áo lót cùng màu, bị ố vàng ở dưới nách vì mồ hôi. Chân đi đôi dép tông. Ông ta cầm một cái dây lưng trong tay, cái dây da màu nâu mà ông ta đã mua cho lễ nikka với cô gái, và ông ta cuốn cái phần cuối bị đục thủng quanh nắm tay.
“Đó là do mày làm. Tao biết là mày,” ông ta gầm lên, tiến về phía cô.
Mariam trườn ra khỏi giường và bắt đầu lùi lại. Theo bản năng, cánh tay cô ôm lấy ngực, chỗ ông ta thường đánh đầu tiên.
“Ông đang nói về cái gì thế?” cô lắp bắp.
“Nó từ chối tao. Mày đã dạy nó làm thế.”
Qua nhiều năm, Mariam đã học cách khiến bản thân chai lì trước sự khinh bỉ và sỉ nhục, sự cười cợt và chỉ trích của ông ta. Nhưng nỗi sợ này cô vẫn không thể kiểm soát nổi. Bao nhiêu năm tháng đã trôi qua, ấy vậy nhưng cô vẫn run bắn vì sợ hãi khi ông ta như thế này, ông ta nhạo báng, quấn chặt cái thắt lưng quanh năm tay, tiếng vụt của da, tia sáng lóe lên trong đôi mắt đỏ ngầu ấy. Đó là nỗi sợ của một con dê bị thả vào trong chuồng cọp, khi con cọp giơ móng vuốt lên và bắt đầu gầm gừ.
Bây giờ cô gái đã vào trong phòng, mắt mở to và khuôn mặt nhăn nhó.
“Lẽ ra tao phải biết mày sẽ làm hỏng cô ta,” Rasheed nhổ toẹt vào Mariam.
Ông ta vung cái dây lưng lên, thử nó vào đùi mình. Một tiếng chát vang lên rất to.
“Dừng lại, bas!" cô gái nói. “Rasheed, ông không được làm vậy.”
“Quay về phòng ngay.”
Mariam lại lùi lại.
“Không! Đừng làm vậy!”
“Ngay lập tức!”
Rasheed vung chiếc thắt lưng lên và lần này quất thẳng vào Mariam.
Rồi một điều bất ngờ xảy ra: cô gái nhào vào tấn công ông ta. Cô vồ lấy cánh tay ông ta bằng cả hai bàn tay và cố gắng kéo ông ta xuống, nhưng cô không thể làm gì hơn là treo người đung đưa trên đó. Tuy vậy, cô cũng đã làm giảm tốc độ tấn công của Rasheed về phía Mariam.
“Bỏ ra!” Rasheed gầm lên.
“Ông thắng. Ông thắng rồi. Đừng làm như thế. Xin ông, Rasheed, đừng đánh nữa! Làm ơn đừng làm như thế.”
Cứ như thế họ vật lộn với nhau, cô gái bám chặt vào, cầu xin, còn Rasheed cố gắng đẩy cô ra, mắt trừng trừng nhìn Mariam, lúc này đang quá sợ để có thể làm bất cứ điều gì.
Cuối cùng, Mariam biết rằng cô sẽ không bị đánh nữa, đêm hôm đó thì không. Ông ta đã nói rõ. Ông ta đứng như thế một lúc, tay giơ cao, ngục căng ra, những giọt mồ hôi lấp lánh che phủ hàng lông mày của ông ta. Rasheed từ từ hạ tay xuống. Chân cô gái chạm xuống đất nhưng cô vẫn chưa chịu buông tay, như thể cô không tin tưởng vào ông ta. Rasheed phải giật mạnh tay ra khỏi nắm tay của cô.
“Tôi sẽ để ý đến cô,” ông ta nói, vắt cái dây lưng lên vai. “Tôi sẽ để ý đến cả hai. Tôi sẽ không để bị biến thành một ahmaq, một thằng ngu trong chính ngôi nhà của tôi đâu.”
Ông ta ném cho Mariam một cái nhìn cuối cùng đầy sát khí và xô vào cô gái khi ông ta quay trở ra.
Khi Mariam nghe thấy tiếng cửa phòng họ đóng lại, cô trèo trở lại giường, vùi đầu vào dưới gối, đợi cho cơn run rẩy dừng lại.
Đêm đó, Mariam bị đánh thức ba lần. Lần đầu tiên là tiếng rocket ầm ầm ở phía Tây, đến từ hướng Karteh-Char. Lần thứ hai là tiếng khóc của đứa bé ở dưới tầng, tiếng cô gái vỗ về, tiếng lách cách của chiếc thìa gõ vào chai sữa. Và lần cuối cùng, cơn khát đã kéo cô ra khỏi giường.
Ở tầng dưới, phòng khách tối om, chỉ có một vệt sáng của ánh trăng rót qua cửa sổ. Mariam có thể nghe thấy ruồi vo ve ở đâu đó, có thể nhận ra hình dáng cái lò gang ở góc phòng, cái ống của nó nhô ra tạo thành một góc nhọn ngay dưới trần nhà.
Trên đường đi vào bếp, Mariam suýt nữa vấp phải một thứ gì đó. Có một vật ở dưới chân cô. Khi đôi mắt đã quen dần với bóng tối, cô nhận ra cô gái và đứa bé đang nằm trên một cái chăn dưới sàn nhà.
Cô gái đang nằm nghiêng ngủ và ngáy. Đứa trẻ thì thức. Mariam thắp chiếc đèn dầu ở trên bàn và cúi xuống. Trong ánh sáng của cây đèn, lần đầu tiên cô mới thực sự nhìn đứa bé gần đến thế, nhúm tóc sẫm màu, đôi mắt màu nâu nhạt với hàng lông mi dày, hai má hồng hào và đôi môi màu lựu chín.
Mariam có cảm giác đứa bé cũng đang đánh giá cô. Nó nằm ngửa, đầu nghiêng sang một bên, nhìn Mariam chăm chú với sự pha trộn của cảm giác thích thú, bối rối và nghi ngại. Mariam tự hỏi không biết khuôn mặt của cô có làm cho nó sợ hay không, nhưng rồi đứa bé ré lên vui mừng và Mariam biết rằng cô đã có thiện cảm với đứa bé này.
“Suỵt,” Mariam thì thầm. “Con sẽ làm mẹ con thức dậy đấy, ngay cả khi một tai của mẹ con bị điếc.”
Bàn tay đứa bé nắm chặt lại. Nó giơ lên, hạ xuống, rồi cho vào miệng đầy vẻ hiếu động. Miệng ngậm tay, đứa bé cười toe toét với Mariam, những bọt nước miếng sáng lấp lánh trên môi nó.
“Nhìn con này. Nhìn con mới tội nghiệp làm sao, ăn mặc không khác gì một cậu con trai. Và bị bọc lại trong cái nóng như thế này. Chả trách con vẫn còn thức.”
Mariam kéo chăn ra khỏi đứa bé, phát hoảng khi thấy một cái chăn nữa ở phía dưới, cô chậc lưỡi, kéo nốt cái chăn kia ra. Đứa bé cười khúc khích vì thấy nhẹ nhõm. Nó vung vung tay như một con chim nhỏ.
“Thoải mái hơn chưa nào?”
Khi Mariam rụt tay lại, đứa bé túm lấy ngón tay út của cô. Những ngón tay nhỏ xíu bám rất chặt vào tay cô. Chúng ấm áp và mềm mại, ẩm vì dính nước miếng.
“Gunuh,” đứa bé kêu lên.
“Được rồi, bas, ngủ đi.”
Đứa bé bấu chặt và lại đá đá cái chân.
Mariam rút ngón tay ra. Đứa bé mỉm cười và phát ra những âm thanh ríu rít. Nó lại đút tay vào miệng.
“Điều gì làm con vui thế? Hả? Con cười gì thế? Con không thông minh như mẹ con nói đâu. Con có tính thô bạo của người cha và sự ngốc nghếch của người mẹ. Con sẽ không cười nhiều như thế nếu như con biết. Không, con sẽ không cười được đâu. Nào ngủ đi. Ngủ đi.”
Mariam đứng dậy và vừa bước đi được vài bước thì đứa bé bắt đầu kêu oe, oe, oe mà Mariam biết là dấu hiệu đứa bé muốn khóc ré lên. Cô quay lại với nó.
“Gì thế? Con muốn gì từ ta nào?”
Đứa bé cười toe toét.
Mariam thở dài. Cô ngồi xuống và để cho đứa bé túm ngón tay, cô nhìn đứa bé ọ ẹ, rồi gập hai cẳng chân mập mạp lại phía hông và lấy tay phe phẩy không khí. Mariam ngồi đó, nhìn cho đến khi đứa bé thôi không ngọ nguậy nữa mà bắt đầu ngáy nhè nhẹ.
Ngoài kia, chim nhại đang thản nhiên hót, và thỉnh thoảng, khi lũ chim bay đi, Mariam có thể nhìn thấy cánh của chúng bắt màu xanh lân tinh của ánh trăng đang rọi qua những đám mây. Mặc dù họng cô đang khát khô và chân bắt đầu thấy tê tê nhưng cũng phải mất một lúc lâu Mariam mới nhẹ nhàng rút ngón tay ra khỏi nắm tay của đứa bé và đứng dậy.
34
Laila
Trong tất cả những niềm vui thích trên thế gian này, điều Laila muốn làm nhất là được nằm bên cạnh Aziza, khuôn mặt của cô con gái bé bỏng gần đến nỗi cô có thể nhìn rõ được sự co giãn trong con ngươi của bé. Laila thích được vuốt ve làn da mềm mại, được chạm vào đôi má lúm đồng tiền và cả những cái ngấn trên khuỷu tay con gái. Đôi khi, cô đặt Aziza trên ngực mình và thì thầm qua đỉnh đầu con bé những điều về Tariq, người bố hoàn toàn xa lạ với Aziza, người bố Aziza sẽ không bao giờ biết mặt. Laila kể về khả năng giải câu đố của Tariq, những trò tinh nghịch, mưu mẹo và cả nụ cười dễ chịu của anh.
“Ông ấy có hàng lông mi đẹp nhất, dày như của con. Một cái cằm nhỏ nhắn, mũi cao và vầng trán rộng. Ồ, bố của con rất đẹp trai, Aziza ạ. Ông ấy thật hoàn hảo. Hoàn hảo, như con vậy.”
Nhưng cô rất cẩn thận, không bao giờ nhắc đến tên của bố đứa trẻ.
Đôi khi cô bắt gặp ánh nhìn khác thường của Rasheed với Aziza. Một đêm, khi ngồi trên sàn phòng ngủ, cạo những vết chai ở chân, Rasheed chợt hỏi, “Vậy giữa cô và hắn ta có gì?”
Laila nhìn Rasheed với cái nhìn bối rối, như thể cô không hiểu câu hỏi.
“Laili và Majnoon. Cô và yaklenga, cái tên què đó. Các người đã có gì, giữa cô và hắn ấy?”
“Anh ấy là bạn tôi,” cô nói, cố gắng giữ cho giọng mình bình thản. Cô vẫn tập trung vào việc lau mấy cái chai. “Ông biết điều đó mà.”
“Tôi không biết tôi biết gì nữa.” Rasheed đặt dao cạo lên thành cửa sổ và thả mình xuống giường. Cái đệm lò xo phát ra tiếng cót két. Ông ta xoạc hai chân, đũng quần căng ra, “Thế với tư cách... bạn bè, cô và hắn có làm gì quá giới hạn cho phép không?”
“Quá giới hạn cho phép?”
Rasheed cười một cách hết sức vô tư, thoải mái, nhưng Laila có thể cảm nhận được ánh nhìn lạnh lùng và thận trọng của ông ta. “Để xem nào. Ví dụ như hắn đã từng hôn cô chưa? Hoặc có thể chạm vào những nơi không được phép trên người cô?”
Laila cau mày với một vẻ mà cô hy vọng là vô cùng phẫn nộ. Cô có thể nghe thấy tiếng tim mình đập trong lồng ngực. “Anh ấy đối với tôi như một người anh trai.”
“Vậy hắn là bạn hay là anh trai cô?”
“Cả hai. Anh ấy.”
“Nghĩa là sao?”
“Nghĩa là anh ấy vừa là bạn, vừa là anh trai của tôi.”
“Nhưng anh trai và em gái thì rất hay tò mò về nhau. Đúng vậy. Đôi khi anh trai cho em gái xem chỗ kín của anh ta, và cô em gái thì...”
“Ông làm tôi thấy kinh tởm,” Laila nói.
“Thế là không có gì hả?”
“Tôi không muốn nói về chuyện này nữa.”
Rasheed gật gật đầu và bĩu môi. “Cô biết đấy, thiên hạ đồn đại này nọ. Tôi vẫn nhớ. Họ nói đủ mọi chuyện về cô và hắn ta. Nhưng cô thì vẫn nói rằng giữa cô và hắn không có chuyện gì.”
Cô xoay người lại và nhìn chằm chằm vào Rasheed.
Ông ta nhìn lại cô không chớp mắt khiến cho những ngón tay đang cầm chai sữa của cô trở nên tím tái, và Laila phải cố gắng lắm mới không tỏ ra bối rối.
Cô bất chợt thấy rùng mình khi nghĩ đến những gì ông ta sẽ làm với cô nếu ông ta biết cô vẫn thường ăn cắp tiền. Kể từ khi Aziza chào đời, tuần nào cô cũng nhân lúc ông ta ngủ hoặc đi vệ sinh để mở ví lấy tiền. Có những tuần khi trong ví còn ít tiền thì cô chỉ dám lấy một tờ năm đồng, hoặc không lấy gì cả vì cô sợ ông ta sẽ phát hiện. Còn khi nào ví tiền đầy, cô có thể lấy một tờ mười đồng, hoặc một tờ hai mươi đồng, thậm chí có lúc cô còn mạo hiểm lấy hai tờ hai mươi đồng. Cô giấu số tiền đó vào trong một cái túi nhỏ mà cô đã khâu trong lớp vải lót của chiếc áo khoác mùa đông.
Cô tự hỏi không biết ông ta sẽ làm gì nếu biết cô có kế hoạch chạy trốn vào mùa xuân tới. Hoặc chậm nhất là mùa hè tới. Laila hy vọng sẽ có đủ ít nhất một nghìn đồng để chạy trốn, một nửa trong số đó sẽ dùng để mua vé xe bus đi từ Kabul đến Peshawar. Khi nào gần tới lúc đó, cô sẽ đem cầm chiếc nhẫn cưới và số đồ nữ trang Rasheed tặng cô cách đây một năm, khi cô còn là malika trong tòa lâu đài của ông ta.
“Dù sao,” cuối cùng Rasheed nói, gõ ngón tay lên bụng, “Cô cũng không thể trách tôi. Tôi là một người chồng. Đó là những điều mà một người chồng thường băn khoăn. Nhưng hắn ta đã may mắn khi được chết theo kiểu đó. Bởi vì nếu mà hắn ở đây, và tôi có tóm được...” Ông ta khẽ rít qua kẽ răng và lắc đầu.
“Ông có thể để người đã khuất được yên không?”
“Tôi cho rằng với một số người thì chết vẫn chưa phải là hết,” ông ta trả lời.
Hai ngày sau, khi Laila tỉnh dậy vào sáng sớm, cô nhìn thấy một chồng quần áo trẻ con được gấp gọn gàng và đặt ở cửa phòng ngủ của cô. Có một chiếc váy với những hình vân và con cá được thêu trên thân trước, một chiếc váy len màu xanh da trời với tất và găng tay cùng màu, một bộ pyjama màu vàng với những chấm nhỏ màu cà rốt và một cái quần trẻ em màu xanh lá cây bằng vải bông với những diềm xếp nếp chấm bi ở gấu.
“Người ta đồn đại rằng,” bữa tối hôm đó Rasheed nói huyên thuyên một cách sảng khoái mà không để ý đến Aziza với bộ pyjama màu vàng mà Laila mặc cho con bé, “Dostum sẽ về phe với Hekmatyar. Massoud sẽ phải mất thời gian đối phó với hai kẻ đó. Và chúng ta cũng không được quên cánh Hazara.” Ông ta với tay lấy một ít cà tím mà Mariam đã muối trong mùa hè. “Hy vọng đó chỉ là một tin đồn,” vừa nói ông ta vừa vẫy mấy ngón tay còn dính mỡ. “Bởi vì nếu cuộc chiến này xảy ra thì nó sẽ không khác gì buổi dã ngoại thứ Sáu ở Paghman.”
Tối đó, ông ta leo lên người cô và tự thỏa mãn bản thân một cách vội vã, chẳng nói chẳng rằng, để nguyên cả quần áo, trừ có chiếc tumban không cởi ra hẳn mà kéo tụt xuống mắt cá chân. Sau khi cơn vật vã điên cuồng đã qua đi, ông ta buông cô ra và nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
Laila nhẹ nhàng rời khỏi phòng ngủ và thấy Mariam dang ngồi xổm trong bếp, đánh vẩy một cặp cá hồi. Bên cạnh cô là một hũ gạo ngâm. Trong bếp có mùi như mùi thì là trộn với mùi khói, mùi hành phi và cá.
Laila ngồi xuống một góc, kéo váy che đầu gối.
“Cám ơn chị,” cô nói
Mariam không để ý đến Laila. Cô đã chặt xong con cá thứ nhất và bắt đầu sang con thứ hai. Cô cắt vây cá bằng con dao có răng cưa, sau đó lật bụng cá lên và lạng một cách điệu nghệ từ đuôi đến mang cá. Laila nhìn cô cho ngón tay cái vào miệng con cá ngay trên hàm dưới, ấn vào và bằng một nhát dao, cô đã cắt bỏ mang và ruột cá.
“Mấy bộ quần áo rất đẹp.”
“Tôi không còn cần đến chúng nữa,” Mariam lầm bầm. Cô đặt con cá xuống một tờ báo còn dính đầy nhớt cá và chặt bỏ đầu cá. “Nếu không đưa cho con gái cô thì tôi cũng để đó cho mối mọt gặm thôi.”
“Chị học cách làm cá ở đâu vậy?”
“Khi còn bé, tôi từng sống cạnh một dòng suối. Tôi thường tự mình câu cá.”
“Tôi chưa bao giờ câu cá.”
“Cũng không có gì đặc biệt lắm. Chủ yếu là ngồi đợi...”
Laila nhìn Mariam cắt con cá đã bỏ ruột làm ba phần. “Chị đã tự may mấy bộ quần áo đó à?”
Mariam gật đầu.
“Chị may khi nào thế?”
Mariam rửa những khúc cá trong một bát nước. “Khi tôi mang thai lần đầu. Hoặc có thể là lần thứ hai. Mười tám hay mười chín năm trước. Đã lâu quá rồi. Như tôi đã nói với cô, tôi không còn dịp để sử dụng những thứ đó nữa.”
“Chị đúng là một người nội trợ giỏi. Có lẽ chị có thể dạy tôi làm những thứ đó.”
Mariam đặt những khúc cá đã rửa vào một cái bát sạch. Những giọt nước nhỏ xuống từ đầu ngón tay. Cô ngẩng đầu lên nhìn Laila, như thể đây là lần đầu cô nhìn Laila vậy.
“Vào cái đêm đó, khi ông ta... Trước đây chưa từng có ai đứng ra bảo vệ tôi,” cô nói.
Laila ngắm nhìn khuôn mặt ủ rũ của Mariam, nhìn mí mắt đã hằn sâu những nếp nhăn của sự mệt mỏi và dấu vết thời gian in đậm trên khóe môi của cô - Laila cũng ngắm nhìn Mariam như thể cô đang nhìn Mariam lần đầu tiên. Và, lần đầu tiên, đó không phải khuôn mặt thù địch cô từng thấy mà là khuôn mặt của những nỗi đau thầm kín, của những gánh nặng đè lên vai mà không phản kháng, của một số phận mà Mariam đã chấp nhận và cam chịu. Laila băn khoăn liệu đó có phải là gương mặt của mình hai mươi năm sau, nếu vẫn cứ sống mãi thế này?
“Tôi không cho phép ông ta,” Laila nói. “Tôi không được nuôi dạy trong một ngôi nhà mà người ta làm những điều như thế.”
“Bây giờ, đây là nhà của cô. Cô phải quen với điều đó.”
“Chuyện đó thì không. Tôi không thể.”
“Rồi cũng sẽ đến lượt cô thôi, cô biết không,” Mariam vừa nói vừa lau tay vào một cái khăn. “Sẽ sớm thôi. Cô đã sinh cho ông ta một đứa con gái. Vì thế, cô sẽ thấy, tội lỗi của cô còn khó tha thứ hơn của tôi.”
Laila đứng dậy. “Tôi biết ngoài kia trời rất lạnh, nhưng chị nói sao nếu những kẻ tội lỗi chúng ta cùng ra ngoài sân thưởng thức một chén chai nhỉ?”
Mariam ngạc nhiên nhìn Laila. “Không được. Tôi phải cắt bỏ và rửa sạch chỗ đậu đó.”
“Sáng mai tôi sẽ giúp chị làm.”
“Và tôi phải dọn sạch chỗ này nữa.”
“Chúng ta sẽ cùng làm. Nếu tôi không nhầm thì vẫn còn thừa một ít halwa. Cái đó dùng với chai thì tuyệt.”
Mariam để cái giẻ lên bàn bếp. Laila có thể cảm thấy sự lo lắng toát ra từ cách chị ta xắn tay áo lên, chỉnh lại chiếc hijab, ấn lại một lọn tóc xổ ra.
“Người Trung Quốc nói thà nhịn ăn ba ngày còn hơn không uống trà một ngày.”
Mariam mỉm cười. “Câu nói hay đấy.”
“Đúng vậy.”
“Nhưng tôi không ngồi lâu được đâu.”
“Một chén thôi mà.”
Họ cùng ngồi xuống một chiếc ghế gấp ở bên ngoài và cùng ăn halwa đựng trong một cái bát. Họ đã uống chén thứ hai, và khi Laila hỏi Mariam xem cô có muốn thêm chén nữa không thì Mariam đồng ý. Trong khi tiếng súng vẫn nổ trên những ngọn đồi thì hai người phụ nữ lặng ngắm những gợn mây trôi dưới ánh trăng và những con đom đóm cuối cùng của mùa hè đang lập lòe một thứ ánh sáng màu vàng trong đêm. Đến buổi sáng, khi Aziza tỉnh dậy và khóc ré lên, còn Rasheed thì hét gọi Laila để cô dỗ con bé thì có một ánh nhìn đầy ẩn ý giữa Laila và Mariam. Cái nhìn của sự đồng cảm. Trong sự trao đổi không lời thoáng qua đó, Laila hiểu cô và Mariam không còn là kẻ thù của nhau nữa.
35
Mariam
Kể từ sau đêm hôm ấy, Laila và Mariam cùng nhau chia sẻ việc nhà. Họ ngồi trong bếp cùng nhào bột, thái hành, bóc tỏi và đưa những mẩu dua chuột nhỏ cho Aziza, vốn thường ở gần đấy, gõ thìa ầm ĩ và chơi với đống cà rốt. Khi ra ngoài sân, Aziza nằm trong một cái nôi làm bằng cây liễu gai, được quấn bằng nhiều lớp vải và Laila quàng một chiếc khăn mùa đông quanh cổ con bé. Mariam và Laila cùng trông chừng nó khi họ giặt đồ. Khuỷu tay hai người chạm vào nhau khi họ giặt quần áo và tã lót.
Dần dần, Mariam tập quen với tình bạn còn e dè nhưng rất thú vị này. Cô trở nên hào hứng với những chén chai mà cô cùng Laila chia sẻ trong sân, giờ đây dường như đã trở thành một thứ nghi lễ vào mỗi buổi tối. Buổi sáng, Mariam thấy mình mong ngóng tiếng dép của Laila khi cô xuống ăn sáng và tiếng cười lanh lảnh của Aziza, mong nhìn thấy tám cái răng bé xíu mới mọc cùng làn da thơm mùi sữa của con bé. Nếu Laila và Aziza ngủ dậy muộn, Mariam cảm thấy lo lắng, chờ đợi. Cô rửa những cái đĩa lẽ ra không cần rửa và sắp xếp lại đệm trong phòng khách. Cô đứng lau các bậu cửa sổ vẫn còn sạch sẽ. Cô cứ làm cho mình bận rộn cho đến khi Laila vào trong bếp với Aziza đang chễm chệ bên hông.
Khi Aziza mới nhìn thấy Mariam vào buổi sáng, mắt con bé mở to và bắt đầu quấy khóc trong vòng tay mẹ. Con bé nhoài người về phía Mariam, đòi được bế. Hai bàn tay bé xíu mở ra nắm vào gấp gáp, trên khuôn mặt con bé là cái nhìn vừa yêu thương vừa lo lắng.
“Nhìn con làm gì kìa,” Laila vừa nói vừa để con bé bò về phía Mariam. “Nhìn con kìa, ngoan nào. Khala* Mariam không đi đâu hết. Bác con vẫn ở đó. Con thấy không? Ra với bác đi nào.”
Bác.
Ngay khi Aziza ở trong vòng tay của Mariam, ngón tay cái của nó đặt vào miệng cô và nó dụi đầu vào cổ cô.
Mariam nhấc bổng con bé lên, trên môi cô nở một nụ cười nửa như ngượng nghịu, nửa như biết ơn. Trước đây Mariam chưa từng được yêu quý như thế này. Tình yêu chưa bao giờ đến với cô một cách chân thật và cởi mở đến vậy.
Aziza khiến Mariam muốn khóc.
“Tại sao con lại trao trái tim bé nhỏ của con cho một người đàn bà vừa già vừa xấu như ta?” Mariam thì thầm vào mái tóc của Aziza. “Hử? Con không thấy sao, ta chẳng là gì cả. Một dehati. Ta có thể cho con cái gì đây?”
Nhưng Aziza chỉ lẩm bẩm một cách mãn nguyện và dụi đầu sâu hơn vào lòng Mariam. Và khi con bé làm như vậy, cô thực sự xúc động. Nước mắt cô trào dâng. Trái tim cô đập mạnh. Sau chừng ấy năm sống trong đau khổ, cô thấy thật kỳ diệu khi tìm thấy ở sinh linh bé bỏng này một mối liên kết thực thụ trong cuộc đời đầy rẫy những mối quan hệ sai lầm và thất bại của cô.
Đầu năm sau, vào tháng Một năm 1994, Dostum đã chuyển sang phe khác. Hắn bắt tay với Gulbuddin Hekmatyar và chiếm một vị trí gần Bala Hissar, một bức tường thành cổ bao quanh thành phố từ dãy núi Kho-e-Shirdawa. Bọn họ phối hợp cùng nhau bắn phá vào lực lượng Massoud và Rabbani ở trụ sở Bộ Quốc phòng và Dinh Tổng thống. Từ hai bên bờ sông Kabul, cả hai phe nã pháo vào nhau. Các khu phố rải rác xác người, thủy tinh và những mảnh kim loại nhăn nhúm. Cướp bóc, chém giết và ngày càng nhiều vụ hiếp dâm được dùng để thị uy dân thường và ban thưởng cho các chiến binh. Mariam nghe nói nhiều phụ nữ đã tự sát vì sợ bị cưỡng hiếp còn nhiều đàn ông vì danh dự mà sẵn sàng giết cả vợ và con gái mình nếu họ bị binh lính làm nhục.
Aziza la hét khi nghe thấy tiếng súng. Để làm con bé đỡ sợ, Mariam rải hạt gạo ra nền nhà theo hình ngôi nhà, con gà trống hoặc hình ngôi sao và để Aziza rắc theo. Cô còn vẽ hình con voi cho Aziza theo cách mà Jalil đã dạy, chỉ bằng một nét bút.
Rasheed nói mỗi ngày có rất nhiều dân thường bị giết chết. Bệnh viện và nhà thuốc cũng bắt đầu trở thành mục tiêu. Các phương tiện chuyên chở thực phẩm cứu trợ vào thành phố cũng bị chặn lại hoặc bị tấn công. Mariam băn khoăn không biết liệu cuộc chiến như thế này có xảy ra ở Herat không, và nếu có thì Giáo sĩ Faizullah sẽ đối phó thế nào, nếu ông cụ còn sống, và cả Bibi jo nữa, cùng những người con trai, con dâu và cháu chắt của bà. Và tất nhiên, cả Jalil nữa. Mariam tự hỏi không biết ông có trốn đi không, có sống chui rúc như xưa cô đã từng sống không? Hay là ông mang cả vợ con cùng rời khỏi đất nước rồi. Cô hy vọng Jalil đang ở một nơi an toàn, hy vọng ông tìm ra cách tránh xa những thứ giết chóc này.
Trong suốt một tuần, cuộc giao chiến buộc cả Rasheed cũng phải ở nhà. Ông ta khóa cửa ra sân, cài những cái bẫy, khóa cả cửa trước và dùng đi văng chặn lại. Ông ta đi lại trong nhà, hút thuốc, nhìn ra ngoài cửa sổ, lau súng và lên đạn hết lần này đến lần khác. Hai lần ông ta nổ súng ra đường, cho rằng có kẻ nào đó đang cố trèo lên tường.
“Chúng đang bắt thanh niên nhập ngũ,” ông ta nói. “Bọn Chiến binh Hồi giáo ấy. Chĩa súng công khai giữa ban ngày. Chúng bắt bọn con trai ngay trên đường phố. Và khi quân lính ở phe bên kia bắt được những cậu thanh niên này, chúng bắt đầu tra tấn họ. Tôi nghe nói chúng gí điện vào họ, và tôi còn nghe rằng chúng dùng kìm để kẹp cái ấy của họ. Chúng bắt những thanh niên này dẫn họ về nhà. Rồi chúng xông vào nhà giết chết bố của họ, cưỡng hiếp chị em gái và mẹ của họ.”
Ông ta khua khua khẩu súng ở trên đầu. “Để xem tôi sẽ làm gì nếu bọn chúng đột nhập vào nhà tôi. Tôi sẽ kẹp chặt cái ấy của bọn chúng! Tôi sẽ bắn vỡ sọ chúng. Các cô có biết các cô may mắn như thế nào khi có một người đàn ông không hề sợ cả quỷ Satan như tôi không?”
Ông ta nhìn xuống sàn nhà, thấy Aziza đang ở dưới chân. “Tránh ra!” Ông ta quát con bé, tay khua khẩu súng. “Đừng có theo tao! Đừng có nhoài người ra đây. Tao không bế mày đâu. Tránh ra! Tránh ra ngay trước khi tao giẫm bẹp mày.”
Aziza chùn lại. Con bé bò về phía Mariam, khuôn mặt tím tái vì sợ. Ngồi trong lòng Mariam, con bé mút ngón tay cái và im lặng ủ rũ nhìn Rasheed. Thỉnh thoảng con bé lại nhìn lên và Mariam nghĩ, đó là cái nhìn muốn được vỗ về an ủi.
Nhưng khi con bé nhìn bố nó thì Mariam tin chắc con bé sẽ chẳng nhận được sự vỗ về an ủi nào cả.
Mariam cảm thấy dễ chịu hơn khi chiến sự lại lắng xuống, chủ yếu là bởi họ không còn bị giam chân cùng với Rasheed và thái độ cáu gắt suốt ngày của ông ta. Cô sợ phát run lên mỗi khi ông ta khua khẩu súng đã lên đạn bên cạnh Aziza.
Một ngày mùa đông năm đó, Laila ngỏ ý muốn giúp Mariam tết tóc.
Mariam ngồi yên nhìn vào trong gương, quan sát những ngón tay thon thả của Laila tết những bím tóc, khuôn mặt của Laila nhăn lại trong lúc tập trung. Aziza đang cuộn tròn người lại ngủ trên sàn nhà. Tay nó ôm chặt con búp bê tự tay Mariam khâu cho. Mariam nhồi con búp bê bằng hạt đậu, may cho nó một cái váy bằng vải nhuộm trà và làm một cái vòng cổ bằng những cuộn chỉ nhỏ rỗng.
Rồi Aziza đánh rắm trong khi ngủ. Laila bật cười, Mariam cũng cười theo. Họ nhìn vào nhau trong gương và cười chảy nước mắt, cái khoảnh khắc đó thật tự nhiên, không một chút gượng ép đến mức Mariam bỗng nhiên bắt đầu kể cho Laila nghe về Jalil, về Nana và jinn của bà. Laila đứng với bàn tay bất động đặt trên vai Mariam, đôi mắt cô cứ nhìn mãi vào khuôn mặt của Mariam trong gương. Từng lời Mariam kể như dòng máu tuôn ra từ động mạch. Mariam kể về Bibi jo, Giáo sĩ Faizullah, về chuyến đi đầy tủi nhục đến nhà Jalil và việc Nana tự vẫn. Cô kể về những người vợ của Jalil, về cái lễ nikka vội vã cùng Rasheed, chuyến đi tới Kabul, những lần cô mang thai và cái vòng tuần hoàn vô hạn của những hy vọng rồi lại thất vọng mà Rasheed đã dành cho cô.
Sau đó, Laila ngồi xuống chân ghế của Mariam. Cô lơ đãng gỡ một sợi vải dính trên tóc Aziza. Sự im lặng bao trùm lấy hai người.
“Em cũng có nhiều chuyện để kể cho chị nghe,” Laila nói.
Đêm đó Mariam không ngủ. Cô ngồi trên giường, ngắm những bông tuyết đang lặng lẽ rơi.
Mùa này tiếp nối mùa khác, các tổng thống ở Kabul liên tiếp bị hạ bệ và bị sát hại; các đế chế quyền lực liên tiếp bị đánh bại; những cuộc chiến cũ kết thúc và những cuộc chiến mới lại nổ ra. Nhưng Mariam hầu như không để ý hay quan tâm đến điều này. Ở một miền xa thẳm trong ký ức, cô đang hồi tưởng về những năm tháng trong quá khứ. Đó là một cánh đồng cằn cỗi, chỉ có đau khổ, than khóc và những ảo tưởng nối tiếp nhau. Đó là một cuộc sống không có tương lai. Quá khứ chỉ mang một thông điệp duy nhất: tình yêu là một sai lầm nguy hại, và đồng phạm của nó, hy vọng, là một ảo ảnh lừa dối. Và mỗi khi hai cây hoa độc sinh đôi đó bắt đầu đâm chồi trên mảnh đất khô cằn của cánh đồng kia, Mariam lại lập tức nhổ chúng đi. Cô nhổ bỏ chúng trước khi chúng kịp bén rễ.
Nhưng không hiểu sao trong những tháng qua, Laila và Aziza - hóa ra con bé lại là một harami giống cô - đã trở thành những cánh tay nối dài của cô và giờ đây nếu thiếu họ, cuộc sống mà Mariam đã chịu đựng trong từng ấy năm bỗng như không thể chịu đựng được nữa.
Bọn em sẽ trốn khỏi đây vào mùa xuân, Aziza và em. Hãy đi cùng bọn em, chị Mariam.
Cuộc sống vốn không mấy dễ chịu đối với Mariam. Nhưng cô nghĩ, có lẽ những năm tháng tươi sáng hơn vẫn đang chờ đợi cô. Một cuộc sống mới, cuộc sống mà mẹ Nana đã từng nói một harami như cô sẽ không bao giờ có được. Hai bông hoa mới đã bất ngờ hé nở trong cuộc đời cô, và khi Mariam ngắm nhìn tuyết rơi bên cửa sổ, cô tưởng tượng ra cảnh Giáo sĩ Faizullah tay vân vê chuỗi hạt isabeh, cúi xuống và thì thầm với cô bằng giọng nhẹ nhàng và xúc động, Chính Thượng Đế đã sắp đặt họ cho con, Mariam ạ. Và chính Người sắp đặt con phải ở bên cạnh họ. Đó là sự sắp đặt của Người, con gái ạ.
36
Laila
Khi ánh nắng dần đẩy lùi bóng tối trên bầu trời vào mùa xuân năm 1994, Laila cảm thấy chắc chắn rằng Rasheed đã biết chuyện cô sẽ chạy trốn. Rằng bất cứ lúc nào ông ta cũng có thể lôi cô ra khỏi giường và hỏi liệu cô có biến ông ta thành một khar, một con lừa, mà ông ta không hề hay biết hay không. Nhưng khi lời gọi cầu kinh azan vang lên, ánh mặt trời buổi sáng bắt đầu chiếu lên mái nhà và những chú gà trống bắt đầu cất tiếng gáy thì vẫn không có chuyện gì bất thường xảy ra.
Bây giờ cô có thể nghe thấy tiếng ông ta trong nhà tắm, tiếng gõ dao cạo râu xuống mép bồn rửa mặt. Sau đó là ở dưới nhà, đi loăng quăng và hâm nóng trà. Tiếng chìa khóa leng keng. Lúc này ông ta đang dắt chiếc xe đạp băng qua sân.
Laila quan sát qua khe hở trên tấm rèm ở phòng khách. Cô thấy ông ta đạp xe đi, một người đàn ông to lớn trên chiếc xe đạp bé tẹo, ánh mặt trời phản chiếu trên ghi đông xe đạp.
“Laila?”
Mariam đang đứng ở trước cửa. Laila biết chắc rằng đêm qua Mariam cũng không hề chợp mắt. Cô tự hỏi liệu có phải Mariam cũng trằn trọc cả đêm bởi cảm giác hạnh phúc xen lẫn với lo lắng hay không.
“Nửa tiếng nữa chúng ta sẽ rời khỏi đây,” Laila nói.
Ở ghế sau của chiếc taxi, họ không hề nói chuyện. Aziza ngồi trong lòng Mariam, tay ôm con búp bê, đôi mắt con bé mở to đầy tò mò nhìn cảnh thành phố lướt qua cửa sổ.
“Ona!” con bé hét, tay chỉ vào một đám con gái đang chơi nhảy dây. “Mayam! Ona."
Nhìn vào bất kỳ chỗ nào Laila cũng thấy Rasheed. Cô thấy ông ta bước ra khỏi tiệm cắt tóc có những cửa sổ màu bụi than, từ những quán nhỏ bán thịt gà ven đường hay từ những cửa hàng xiêu vẹo được xếp băng những lốp xe cũ chất từ dưới đất lên tới trần nhà.
Cô ngồi thấp xuống.
Bên cạnh cô, Mariam đang thì thầm cầu nguyện. Laila ước có thể nhìn thấy mặt cô, nhưng Mariam đang dùng mạng che mặt - và cả Laila cũng thế, nên những gì cô có thể thấy là đôi mắt sáng long lanh của Mariam qua lớp mạng che.
Đây là lần đầu tiên Laila ra khỏi nhà trong nhiều tuần, trừ việc phải đi tới tiệm cầm đồ hôm trước - nơi cô đã đặt chiếc nhẫn cưới lên mặt quầy, cũng là nơi cô bước ra trong nỗi sợ hãi vì biết rằng cô chẳng còn đường lùi nữa.
Xung quanh Laila bây giờ là hậu quả của cuộc giao tranh gần đây mà âm thanh của nó cô đã nghe thấy ở nhà. Những ngôi nhà bị mất mái, gạch đá lởm chởm, những tòa nhà ngổn ngang rầm bê tông đổ gãy, những chiếc xe bị phá hỏng và cháy xém, bị lật ngược, thỉnh thoảng còn có chiếc chồng lên nhau, những bức tường thủng lỗ chỗ do súng đạn và đâu đâu cũng đầy những mảnh vỡ thủy tinh. Cô trông thấy một đoàn người đưa tang đang đi về phía một nhà thờ Hồi giáo và một người phụ nữ lớn tuổi mặc đồ đen đi đằng sau đang cào cấu mái tóc mình. Họ vượt qua một nghĩa trang với những ngôi mộ được xây bằng đá, xung quanh là những lá cờ shaheed rách nát đang tung bay trong gió.
Laila với tay qua chiếc va li, nắm lấy cánh tay mềm mại của đứa con gái nhỏ.
Tại trạm xe bus cổng Lahore, gần Pol Mahmood Khan, phía Đông Kabul, một hàng dài xe bus đứng đợi bên vỉa hè. Những người đàn ông quấn khăn đang bận rộn nâng đồ lên nóc xe bus và dùng dây thừng buộc chặt những chiếc va li. Trong sân ga, đàn ông xếp hàng dài trước quầy bán vé. Những người phụ nữ mặc áo trùm dài đứng thành từng nhóm nói chuyện với nhau, hành lý của họ để ở dưới chân. Những đứa bé được tung nựng còn đám trẻ con thì bị mắng vì chạy đi quá xa.
Binh lính của lực lượng Chiến binh Hồi giáo đi tuần quanh sân ga và lề đường, họ thét ra những mệnh lệnh cộc lốc ở chỗ này chỗ kia. Họ đi giày, đội pakol và mặc những bộ rằn ri màu xanh bám đầy bụi. Họ đều mang súng AK.
Laila cảm thấy bị theo dõi. Cô không nhìn vào mặt ai nhưng cô cảm thấy như thể tất cả mọi người ở đây đều biết và họ đều nhìn với con mắt không đồng tình trước việc cô và Mariam đang làm.
“Chị có trông thấy ai không?” Laila hỏi.
Mariam chuyển Aziza sang tay kia. “Tôi đang tìm.”
Laila biết đây sẽ là phần việc mạo hiểm đầu tiên, họ cần tìm một người đàn ông thích hợp để đóng giả thành một gia đình. Sự tự do và các cơ hội dành cho phụ nữ trong thời kỳ từ năm 1978 đến năm 1992 nay đã kết thúc - Laila vẫn còn nhớ Babi nói đó là thời kỳ của chế độ cộng sản, Đây là một thời kỳ tốt đẹp cho phụ nữ ở Afghanistan, Laila ạ. Kể từ khi phe phái của lực lượng Chiến binh Hồi giáo lên nắm quyền vào tháng Tư năm 1992, Afghanistan được đổi tên thành Nhà nước Hồi giáo Afghanistan. Tòa án tối cao dưới thời Rabbani giờ đây gồm toàn những giáo sĩ Hồi giáo bảo thủ, những người đã bãi bỏ hoàn toàn các sắc lệnh bảo vệ quyền lợi của phụ nữ từ thời cộng sản và thay vào đó là những đạo luật được ban ra dựa trên Shari’a, một thứ luật Hồi giáo hà khắc bắt buộc phụ nữ phải mặc áo trùm kín, cấm không cho đi lại tự do mà không có đàn ông ở bên cạnh và trừng phạt những người phụ nữ ngoại tình bằng cách ném đá vào họ. Mặc dù việc thực thi những đạo luật này vẫn chưa chính thức. Nhưng họ sẽ áp đặt những luật này lên chúng ta nhiều hơn, Laila thì thầm với Mariam, nếu họ không mải bắn giết nhau. Và bắn giết cả chúng ta nữa.
Phần việc mạo hiểm thứ hai của chuyến đi này sẽ đến khi họ đặt chân tới Pakistan. Do phải chịu gánh nặng của gần hai triệu người tị nạn Afghanistan, Pakistan đã đóng cửa biên giới đối với người Afghanistan vào tháng Một năm đó. Laila nghe đồn rằng chỉ những người có thị thực mới được nhập cảnh vào Pakistan. Nhưng thực tế việc quản lý tại khu vực biên giới khá lỏng lẻo - luôn luôn là vậy - và Laila biết rằng vẫn có hàng nghìn người Afghanistan vượt qua biên giới Pakistan bằng con đường hối lộ hoặc vì những lý do nhân đạo - và bọn buôn lậu thì lúc nào thuê cũng có. Chúng ta sẽ tìm được cách khi nào đến đó, Laila bảo với Mariam.
“Cô nghĩ người kia thế nào?” Mariam hất cằm nói.
“Trông anh ta có vẻ không đáng tin lắm.”
“Thế còn ông kia thì sao?”
“Già quá. Vả lại ông ta còn đi cùng hai người đàn ông nữa.”
Cuối cùng, Laila thấy một người đàn ông đang ngồi trên một ghế băng ở ngoài cạnh một người phụ nữ quấn khăn che mặt, ngồi trên đầu gối anh ta là một thằng bé đội mũ chỏm, trạc tuổi Aziza. Anh ta cao, gầy và có râu, mặc áo sơ mi hở cổ và áo khoác màu ghi nhạt thiếu khuy.
“Chị đợi em một lát,” cô nói với Mariam. Lúc bước đi, cô lại nghe thấy tiếng Mariam thì thầm cầu nguyện.
Khi Laila đến gần, anh ta nhìn lên, lấy tay che ánh nắng đang chiếu vào mắt.
“Xin thứ lỗi cho tôi, thưa ông, có phải ông cũng đang tới Peshawar phải không?”
“Vầng,” anh ta nói, hơi quay đầu lại.
“Tôi không biết ông có thể giúp đỡ chúng tôi không? Ông có thể giúp chúng tôi một việc được không?”
Anh ta đẩy thằng bé cho vợ và cùng Laila đi ra chỗ khác.
“Là việc gì vậy, hamshira?”
Cô nhìn thấy anh ta có ánh mắt dịu dàng và khuôn mặt hiền từ.
Cô kể cho anh ta nghe về câu chuyện mà cô và Mariam đã thống nhất. Laila nói cô là một biwa, góa phụ. Cô cùng mẹ và con gái không còn ai thân thích ở Kabul. Họ đi đến Peshawar để ở cùng người chú.
“Cô muốn đi cùng gia đình tôi phải không?” người đàn ông trẻ hỏi.
“Tôi biết như thế là rất phiền đến anh. Nhưng anh giống như một người anh trai tốt bụng và tôi...”
“Đừng lo, hamshira. Tôi hiểu. Không phiền gì đâu. Để tôi đi mua vé cho cô.”
“Cám ơn người anh trai. Đây là một nghĩa cử cao đẹp, một sawab. Thượng đế sẽ ghi nhớ việc làm này của anh.”
Cô rút ra một phong bì dưới áo choàng và đưa cho người đàn ông đó. Trong chiếc phong bì là một nghìn một trăm đồng, khoảng một nửa số tiền cô đã tích góp được trong suốt năm qua, cộng với tiền cô bán chiếc nhẫn cưới. Anh ta đút chiếc phong bì vào túi quần.
“Cô chờ ở đây.”
Cô nhìn anh ta đi vào bến xe. Nửa tiếng sau anh ta quay lại.
“Tốt nhất là để tôi giữ vé cho,” anh ta nói. “Một giờ nữa xe bus sẽ đi, lúc mười một giờ. Chúng ta sẽ cùng đi. Tên tôi là Wakil. Nếu họ có hỏi, mà chắc là họ sẽ không hỏi đâu, thì tôi sẽ bảo cô là em họ tôi.”
Laila nói tên của họ cho anh ta và anh ta bảo sẽ ghi nhớ.
“Hãy ra chỗ chúng tôi,” anh ta nói.
Họ ngồi trên một chiếc ghế dài cạnh chiếc ghế Wakil và gia đình anh ta đang ngồi. Đó là một buổi sáng ấm áp ngập nắng, bầu trời rất trong, chỉ có vài gợn mây trôi phía những dãy núi xa xa. Mariam bắt đầu cho Aziza ăn mấy chiếc bánh quy mà cô đã nhớ mang theo trong lúc vội vã xếp đồ. Cô đưa một chiếc cho Laila.
“Em không thể ăn được,” Laila cười. “Em quá háo hức.”
“Tôi cũng thế.”
“Cám ơn, Mariam.”
“Vì điều gì?”
“Vì điều này. Vì chị đã đi cùng chúng em,” Laila nói. “Em không nghĩ là em có thể làm điều này một mình.”
“Cô sẽ không phải đi một mình đâu.”
“Chúng ta sẽ ổn thôi, phải không Mariam, chúng ta sẽ đi đâu đây?”
Mariam nắm chặt tay Laila. “Kinh Koran nói Đức Allah ở khắp nơi, vì vậy, cho dù cô đi bất cứ nơi đâu thì đó cũng là sự sắp đặt của Người.”
“Bou!” Aziza kêu lên, chỉ vào chiếc xe bus. “Mayam, bou!”
“Bác thấy rồi, Aziza yêu quý,” Mariam nói. “Đúng rồi đấy, bou. Chúng ta sẽ cùng đi trên chiếc bou đó. Và con sẽ được nhìn thấy rất nhiều thứ.”
Laila mỉm cười. Cô nhìn một người thợ mộc trong một cửa hàng ở bên kia đường đang cưa gỗ, mạt cưa bay lên. Cô nhìn những chiếc xe lao qua, cửa kính bám đầy bồ hóng và bụi bẩn. Cô nhìn những chiếc xe bus đứng im lìm bên lề đường với những hình con công, sư tử, mặt trời mọc và những thanh gươm lấp lánh được sơn ở bên hông xe.
Dưới cái nắng ấm áp của mặt trời buổi sáng, Laila cảm thấy ngây ngất và đầy dũng khí. Cô có thêm một chút cảm giác hồi hộp, và khi một con chó lạc với đôi mắt màu vàng tập tễnh bước qua, Laila cúi xuống vuốt ve nó.
Vài phút trước mười một giờ, một người đàn ông cầm loa gọi tất cả hành khách đi Peshawar chuẩn bị lên xe. Cửa xe bus mở ra với tiếng động cơ xì rất mạnh. Hành khách lao về phía chiếc xe, nhốn nháo đẩy nhau để chen lên.
Wakil ra hiệu cho Laila khi anh ta bế đứa con trai lên.
“Chúng ta đi thôi,” Laila nói.
Wakil dẫn đường. Khi họ tới xe, Laila trông thấy những khuôn mặt xuất hiện ở cửa sổ xe, mũi và tay tì vào kính. Xung quanh họ, người người hét chào tạm biệt.
Một tay lính trẻ đang soát vé ở cửa xe.
“Bou!” Aziza hét.
Wakil đưa vé cho anh lính, anh ta xé vé làm đôi và trả lại. Wakil nhường vợ anh ta lên xe trước. Laila trông thấy một cái nhìn giữa Wakil và người lính đó. Wakil, bước lên xe, cúi xuống và thì thầm điều gì đó vào tai người lính. Anh ta gật gật đầu.
Tim Laila đập mạnh.
“Hai cô, cùng đứa trẻ, đứng sang bên kia,” người lính nói.
Laila giả vờ không nghe thấy. Cô vẫn bước lên xe nhưng anh ta chộp lấy vai cô kéo mạnh ra khỏi hàng. “Cả cô nữa,” anh ta nói với Mariam. “Nhanh lên, các vị đang làm tắc nghẽn đấy.”
“Có chuyện gì xảy ra vậy, thưa ông?” Laila nói với đôi môi run run. “Chúng tôi có vé, anh họ của tôi chưa đưa cho ông sao?
Anh ta ra hiệu cho Laila im lặng và nói nhỏ gì đó với một người lính khác. Người lính thứ hai, một gã to béo với vết sẹo dưới má phải gật đầu.
“Đi theo tôi,” người này nói với Laila.
“Chúng tôi phải đi chuyến xe này,” Laila hét, nhận ra giọng cô đang run rẩy. “Chúng tôi có vé. Sao ông lại làm thế?”
“Cô không được phép lên xe. Cô phải tuân lệnh. Cô sẽ đi theo tôi. Nếu cô không muốn cô con gái nhỏ của cô thấy cô bị lôi đi.”
Khi họ bị dẫn ra một chiếc xe tải, Laila ngoái lại và nhìn thấy cậu con trai của Wakil phía sau xe. Thằng bé cũng nhìn cô và vui vẻ vẫy tay.
Tại đồn cảnh sát ở Torabaz Khan, họ phải ngồi tách riêng nhau ở hai đầu một hành lang dài đông đúc, giữa họ là một cái bàn, ngồi đằng sau cái bàn đó là một người đàn ông hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác và thỉnh thoảng gõ lách cách vào chiếc máy chữ. Ba giờ đồng hồ trôi qua như thế. Aziza bước đi chập chững từ phía Laila đến phía Mariam và quay trở lại. Con bé chơi với một cái kẹp giấy mà người đàn ông ngồi ở chiếc bàn kia đã đưa cho nó. Nó ăn hết đống bánh quy. Cuối cùng, con bé ngủ thiếp đi trong lòng Mariam.
Khoảng ba giờ chiều, Laila được đưa vào phòng tra hỏi. Mariam phải ở ngoài hành lang đợi cùng Aziza.
Người đàn ông ngồi ở đầu kia cái bàn trong phòng tra hỏi khoảng ba mươi tuổi và anh ta mặc thường phục - một bộ vest màu đen, cà vạt và đôi giày màu đen. Anh ta có bộ râu được cắt tỉa gọn gàng, mái tóc ngắn và hai hàng lông mày chụm vào nhau. Anh ta nhìn Laila chằm chằm, tay tung tung một cái bút chì có tẩy ở trên bàn.
“Chúng tôi biết,” anh ta hắng giọng và đưa tay lên che miệng một cách lịch sự, “cô đã nói dối một lần trong ngày hôm nay, hamshira. Người đàn ông trẻ ở ga không phải là anh họ cô. Tự anh ta đã nói cho chúng tôi biết. Câu hỏi đặt ra là liệu cô có tiếp tục nói dối chúng tôi không. Theo tôi thì tốt nhất là cô nên thành khẩn.”
“Chúng tôi sẽ đến ở với chú của tôi,” Laila nói. “Đó là sự thật.”
Viên cảnh sát gật đầu. “Người đàn bà ở trong hành lang có phải mẹ cô không?”
“Đúng vậy.”
“Bà ta có giọng vùng Herat. Còn cô thì không.”
“Bà ấy lớn lên ở Herat, tôi thì được sinh ra tại Kabul.”
“Tất nhiên. Và cô là một góa phụ phải không? Cô đã nói như thế. Tôi thành thật chia buồn với cô. Còn ông chú của cô, kaka của cô, ông ta sống ở đâu thế?”
“Ông ấy ở Peshawar.”
“Phải, cô đã nói vậy.” Anh ta liếm đầu bút chì và giơ nó lơ lửng trên một tờ giấy trắng. “Nhưng ông ta sống ở đâu tại Peshawar? Ở vùng nào? Cho tôi tên phố và số nhà.”
Laila cố gắng kìm nén sự sợ hãi đang dồn lên lồng ngực. Cô nói với viên cảnh sát tên con phố duy nhất mà cô biết ở Peshawar - cô đã được nghe thấy tên phố này một lần, Mammy đã nói tại buổi tiệc khi lực lượng Chiến binh Hồi giáo lần đầu tiên tiến vào Kabul - “Đường Jamrud.”
“Ồ đúng rồi. Con phố có khách sạn Continental. Ông chú cô hẳn phải nhắc tới nó.”
Laila chớp ngay lấy cơ hội này. “Đúng thế, đúng là khu phố đó.”
“Ngoại trừ việc cái khách sạn đó lại nằm trên đường Khyber.”
Laila nghe thấy tiếng Aziza đang khóc ngoài hành lang. “Con gái tôi đang sợ hãi. Tôi có thể bế nó chứ, ông anh?”
“Hãy gọi tôi là ‘ngài cảnh sát’. Cô sẽ được ra với con cô sớm thôi. Cô có số điện thoại của ông chú cô chứ?”
“Tôi có. Tôi đã có ở đây. Tôi...” Ngay cả khi đang đeo mạng trùm kín mặt, Laila vẫn không thể thoát khỏi cái nhìn dò xét của viên cảnh sát. “Thật đáng tiếc. Tôi đã quên số điện thoại đó rồi.”
Viên cảnh sát thở dài. Anh ta hỏi tên ông chú Laila, tên vợ ông ta. Ông ta có bao nhiêu con? Tên của chúng là gì? Ông ta làm việc ở đâu? Ông ta bao nhiêu tuổi? Những câu hỏi đó khiến Laila rối tung.
Anh ta đặt chiếc bút chì xuống, đan những ngón tay vào nhau và nghiêng người về phía trước theo cái cách mà các ông bố bà mẹ thường làm khi muốn chỉ bảo con cái.
“Cô biết rằng phụ nữ chạy trốn là tội lỗi. Chúng tôi đã gặp nhiều trường hợp thế này. Những người phụ nữ đi một mình và nói rằng chồng họ đã chết. Thỉnh thoảng cũng có người nói thật, nhưng đa số là không. Cô có thể bị tống giam vì tội chạy trốn. Tôi nghĩ là cô biết điều đó chứ?”
“Hãy để chúng tôi đi, thưa ngài cảnh sát...” Cô nhìn thấy tên của viên cảnh sát trên tấm thẻ anh ta đeo trước ngực. “Cảnh sát Rahman, xin ngài hãy rủ lòng thương. Điều gì sẽ xảy ra với ngài khi ngài để cho hai người phụ nữ đi? Thả chúng tôi ra thì có hại gì đến ngài chứ. Chúng tôi không phải tội phạm.”
“Tôi không thể thả các vị.”
“Tôi cầu xin ngài.”
“Đây là vấn đề qanoon, hamshira, vấn đề luật pháp.” Rahman nói, giọng trở nên nghiêm trọng. “Đây là trách nhiệm của tôi, cô thấy đấy, tôi phải thi hành luật pháp.”
Cho dù đầu óc đang rối bời, Laila cũng suýt bật cười. Cô sửng sốt khi anh ta nói những thứ đó trước tất cả những việc mà các phe phái Chiến binh Hồi giáo đã làm - giết người, cướp của, cưỡng hiếp, tra tấn, hành hình, ném bom và hàng nghìn quả đạn pháo mà chúng đã bắn vào nhau, bất chấp tính mạng của bao nhiêu dân thường vô tội sẽ gặp phải nguy hiểm trước tên bay đạn lạc. Luật pháp! Cô cảm thấy ghê tởm.
“Nếu ngài bắt chúng tôi về nhà,” cô chậm rãi nói, “thì không biết ông ta sẽ làm gì chúng tôi nữa.”
Cô có thể thấy viên cảnh sát đang cố hết sức để không dời ánh mắt sang chỗ khác. “Một người đàn ông làm gì ở nhà là việc của ông ta.”
“Thế còn luật pháp thì sao, thưa cảnh sát Rahman?” Những giọt nước mắt giận dữ bắt đầu rơi trên khuôn mặt Laila. “Ngài sẽ có ở đó để duy trì luật pháp chứ?”
“Thưa hamshira, theo luật thì chúng tôi không can thiệp vào những vấn đề riêng tư trong gia đình.”
“Tất nhiên là các ngài sẽ không can thiệp rồi. Nếu điều đó có lợi cho người chồng. Và đây có phải cái được gọi là ‘những vấn đề riêng tư trong gia đình’ mà ngài nhắc tới không, thưa ngài?”
Viên cảnh sát đẩy chiếc ghế ra và đứng dậy, chỉnh lại chiếc áo khoác. “Tôi nghĩ cuộc hỏi cung đã kết thúc. Tôi phải nói rằng, thưa hamshira, cô đã cung cấp quá ít thông tin cho chúng tôi. Đúng là quá ít. Bây giờ, mời cô ra ngoài kia đợi, tôi có vài lời muốn nói với người đàn bà là gì đó của cô.”
Laila bắt đầu phản đối rồi la hét và anh ta phải gọi thêm hai viên cảnh sát nữa đến để kéo cô ra ngoài.
Cuộc hỏi cung dành cho Mariam chỉ kéo dài mấy phút. Khi bước ra ngoài, trông cô có vẻ không đứng vững nữa.
“Ông ta đặt quá nhiều câu hỏi,” cô nói. “Tôi xin lỗi, Laila. Tôi không thông minh như cô. Ông ta hỏi rất nhiều, tôi không biết phải trả lời thế nào. Tôi xin lỗi.”
“Đó không phải lỗi của chị, Mariam,” giọng Laila yếu ớt. “Đó là lỗi của em. Tất cả là lỗi của em. Mọi chuyện là do em gây ra.”
Hơn sáu giờ chiều, chiếc xe cảnh sát dừng trước cửa ngôi nhà. Laila và Mariam phải ngồi đợi ở ghế sau dưới sự canh giữ của hai viên cảnh sát Chiến binh Hồi giáo. Chỉ có người lái xe bước ra ngoài, gõ cửa và nói chuyện với Rasheed. Anh ta cũng là người ra hiệu cho họ bước ra.
“Chào mừng các vị đã trở về nhà,” người đàn ông ngồi ở ghế trước vừa châm điếu thuốc vừa nói.
“Cô,” ông ta nói với Mariam. “Cô đợi ở đây.”
Mariam lặng lẽ ngồi xuống đi văng.
“Còn cô và con bé, lên gác.”
Rasheed túm lấy khuỷu tay Laila và đẩy cô lên lầu. Ông ta vẫn đang đi đôi giày đi làm, chưa kịp thay đôi dép xỏ ngón, chưa kịp tháo đồng hồ, thậm chí chưa cởi áo khoác. Laila tưởng tượng ra cảnh mấy giờ, hoặc có lẽ chỉ mới mấy phút trước thôi, ông ta đã chạy từ phòng này sang phòng khác, đóng sầm cửa lại, hơi thở đầy giận dữ và liên tục nguyền rủa.
Trên đầu cầu thang, Laila quay lại nhìn ông ta.
“Chị ấy không muốn làm thế,” cô nói. “Tôi đã ép chị ấy. Chị ấy không muốn bỏ đi...”
Laila không nhận thấy cú đấm đang lao tới. Chỉ một phút trước đó cô vẫn còn đang nói, còn giờ đây cô nằm sõng soài trên sàn với đôi mắt mở to, khuôn mặt đỏ bừng và hơi thở hổn hển. Cô cảm thấy cứ như thể một chiếc xe chạy với tốc độ tối đa vừa đâm vào mình, đúng ở khoảng thân mềm giữa xương ức và rốn. Cô nhận ra mình vừa làm rơi Aziza và Aziza đang khóc. Cô cố gắng thở nhưng chỉ có thể phát ra những tiếng kêu khàn khàn. Nước dãi cô nhễu ra khỏi miệng.
Rồi Rasheed nắm tóc cô lôi đi. Cô nhìn thấy Aziza được nhấc lên, thấy đôi dép con bé rơi ra và đôi bàn chân nhỏ của nó đang đạp loạn xạ. Từng mảng tóc bị rứt khỏi da đầu của Laila và cô khóc vì đau đớn. Cô thấy ông ta đạp cửa phòng Mariam và thấy Aziza bị ném lên giường. Ông ta buông tóc Laila ra và cô cảm thấy mũi giày của ông ta đá vào mông bên trái cô. Laila thét lên vì đau đớn khi ông ta đóng sầm cửa lại. Tiếng chìa khóa lách cách trong ổ khóa.
Aziza vẫn la hét. Laila nằm co quắp trên sàn nhà thở hổn hển. Cô chống tay lên và bò lại chỗ Aziza đang nằm trên giường. Cô với tay về phía con bé.
Dưới nhà, tiếng đánh đập vang lên. Với Laila, những âm thanh mà cô nghe thấy chỉ là những âm thanh của một quá trình quen thuộc. Không tiếng chửi rủa, không sự la hét, không lời van xin, không tiếng kêu ngạc nhiên, chỉ là những âm thanh của sự đánh đập và bị đánh đập, những tiếng thụp, thụp khi một vật cứng đánh túi bụi vào da thịt, là tiếng huỵch của một vật gì, hay một người nào đó bị ngã đập vào tường và tiếng vải bị xé. Thỉnh thoảng, Laila nghe thấy tiếng chân chạy, một cuộc rượt đuổi câm lặng, tiếng đồ đạc bị hất đổ và tiếng vỡ của thủy tinh, lại có tiếng đấm đá.
Laila ôm chặt lấy Aziza. Một cảm giác ấm nóng lan trên thân áo trước của cô khi con bé tè dầm.
Dưới nhà, tiếng rượt đuổi cuối cùng cũng kết thúc. Bây giờ lại vang lên những âm thanh như thể tiếng gậy gỗ đều đặn nện xuống miếng thịt bò.
Laila ôm chặt Aziza cho đến khi những âm thanh đó kết thúc, và khi nghe thấy tiếng cửa mở, rồi tiếng đóng sầm lại, cô đặt Aziza xuống đất và nhìn qua cửa sổ. Cô trông thấy Rasheed đang túm gáy Mariam lôi đi. Mariam đi chân đất và gập người lại. Máu chảy trên tay ông ta, máu chảy trên mặt của Mariam, trên tóc, dưới cổ và lưng. Áo của cô bị xé rách.
“Em xin lỗi, Mariam,” Laila hét vào tấm kính cửa sổ.
Cô trông thấy ông ta đẩy Mariam vào nhà kho. Ông ta đi vào, rồi đi ra, trên tay là một cái búa và mấy tấm ván dài. Ông ta đóng hai cánh cửa của nhà kho, lấy từ trong túi ra một chiếc khóa móc khóa cửa lại. Ông ta thử lại cửa rồi vòng ra phía sau nhà kho và lấy một cái thang.
Mấy phút sau, khuôn mặt ông ta hiện ra ở cửa sổ phòng Laila, miệng ngậm mấy cái đinh. Tóc ông ta rối bời. Có một vệt máu ở trên trán ông ta. Khi nhìn thấy ông ta, Aziza ré lên và giấu mặt vào dưới cánh tay của Laila.
Rasheed bắt đầu đóng những tấm ván chặn cửa sổ.
Bóng tối phủ chụp hoàn toàn, không hề thay đổi, không gì xuyên thủng được, kín đặc thành một khối. Rasheed đã bịt kín những khe hở giữa các tấm ván và dùng những vật nặng che kín khe hở dưới chân cửa để không có ánh sáng nào lọt được vào phòng, ổ khóa cũng bị bịt chặt.
Mắt Laila không thể xác định được thời gian, vì vậy cô cảm nhận thời gian bằng bên tai còn nghe được. Tiếng azan và tiếng gà gáy là những âm thanh báo hiệu buổi sáng đến. Tiếng lách cách của bát đĩa ở dưới bếp, tiếng radio là dấu hiệu của buổi tối.
Ngày đầu tiên, họ phải dò dẫm và lần mò nhau trong bóng tối. Laila không thể nhìn thấy Aziza khi con bé khóc hay khi con bé bò.
“Aishee,” Aziza rên rỉ. “Aishee.”
“Sớm thôi,” Laila hôn con bé, định hôn vào trán nhưng hóa ra đó lại là đỉnh đầu. “Con sẽ sớm được uống sữa thôi. Hãy kiên nhẫn. Hãy là cô con gái ngoan của Mammy, rồi Mammy sẽ lấy aishee cho con.”
Laila hát cho con bé nghe.
Tiếng azan vang lên lần thứ hai và Rasheed vẫn không đưa cho họ chút thức ăn nào và tồi tệ hơn là không một chút nước uống. Ngày hôm đó, một cơn nóng đến nghẹt thở bao trùm lên họ. Căn phòng giống như một cái bếp lò. Laila đưa cái lưỡi khô cong liếm môi, nghĩ đến cái giếng ở bên ngoài với dòng nước trong mát. Aziza vẫn khóc, và Laila hốt hoảng khi nhận ra rằng mỗi khi cô đưa tay lên lau má con bé thì tay cô vẫn khô khốc. Cô cởi bớt quần áo cho Aziza, cố gắng tìm cái gì đó để quạt cho con bé, quạt cho đến khi cô cảm thấy choáng váng. Chẳng mấy chốc, con bé thôi không bò nữa. Nó cứ chập chờn hết ngủ rồi lại tỉnh.
Một vài lần ngày hôm đó, Laila đấm tay vào tường, sử dụng hết sức lực để kêu gọi sự giúp đỡ, hy vọng hàng xóm sẽ nghe thấy. Nhưng không có ai đến, và tiếng la hét của cô chỉ càng làm cho Aziza sợ hãi thêm, khiến con bé lại bắt đầu khóc và phát ra những tiếng rên rỉ, yếu ớt. Laila gục xuống sàn. Cô lo lắng cho Mariam, bị đánh, bị chảy máu và bị nhót trong nhà kho dưới cái nóng thiêu đốt này.
Laila ngủ được một chút, người nóng như rang. Cô mơ thấy cô và Aziza tình cờ gặp Tariq. Anh đứng đối diện với họ ở phía bên kia một khu phố đông đúc, dưới mái hiên một tiệm may. Anh đang ngồi xổm và chọn một số mẫu quần áo. Đó là bố của con, Laila nói. Người đàn ông đó, con thấy chứ? Ổng ấy mới là bố đẻ của con. Cô gọi tên anh, nhung tiếng gọi của cô bị tiếng ồn ào của đường phố át mất và Tariq không nghe thấy.
Tiếng nổ của đạn pháo đánh thức Laila. Ở một nơi nào đó, bầu trời mà Laila không thể nhìn thấy được đang bị che phủ bởi khói súng và những trận nã súng liên thanh điên cuồng. Laila nhắm mắt lại. Một lần nữa cô lại bị đánh thức bởi tiếng bước chân thình thịch của Rasheed trong hành lang. Cô lết ra phía cửa và bắt đầu đập cửa.
“Chỉ một cốc nước thôi, Rasheed. Không phải cho tôi. Cho con bé. Anh không muốn con bé chết dưới tay anh chứ?”
Ông ta đi qua cửa phòng.
Cô bắt đầu van xin ông ta. Cô cầu xin sự tha thứ và hứa hẹn. Cô nguyền rủa ông ta.
Cửa phòng ông ta đóng lại và tiếng radio lại vang lên.
Người muezzin* đã gọi azan lần thứ ba. Không khí ngày càng nóng. Aziza trở nên bơ phờ hơn. Nó không khóc và cũng không cử động nữa.
Người được chọn để gọi mọi người dậy cầu nguyện, từ trên tháp của các nhà thờ Hồi giáo.
Laila ghé tai vào gần miệng con bé, trong cô trào lên nỗi sợ hãi mỗi khi cô không nghe tiếng con bé thở. Ngay cả việc nhấc người lên cũng khiến Laila choáng váng. Cô ngủ thiếp đi và mơ những giấc mơ cô không thể nhớ được. Khi tỉnh dậy, cô lại xem Aziza, cảm nhận đôi môi nứt nẻ của con bé, cảm nhận mạch đập yếu ớt ở cổ của con bé, rồi lại nằm xuống. Họ sẽ chết ở đây, Laila chắc chắn như vậy, nhưng điều khiến Laila thực sự sợ hãi là Aziza sẽ chết trước cô, đứa trề mong manh ấy. Aziza sẽ chịu đựng được đến khi nào? Aziza sẽ chết vì cái nóng này và Laila sẽ phải nằm bên thi thể lạnh cóng của con bé và chờ đợi cái chết của chính mình. Cô thiếp đi. Tỉnh dậy. Thiếp đi. Cô dần không ý thức được mình đang mơ hay tỉnh nữa.
Cô lại bị đánh thức, lần này không phải bởi tiếng azan hay tiếng gà gáy mà bởi một tiếng kêu rất to. Cô nghe thấy tiếng lạch cạch. Đột nhiên, căn phòng tràn ngập ánh sáng. Mắt cô nhức buốt vì chưa kịp thích ứng. Laila ngẩng đầu dậy, cau mày và che mắt lại. Qua kẽ tay, cô lờ mờ thấy một hình bóng cao lớn. Cái bóng di chuyển. Bây giờ nó cúi xuống bên cạnh cô, hiện ra lờ mờ trước mắt cô, rồi có một giọng nói bên tai cô.
“Cô cứ thử bỏ trốn như thế này lần nữa đi, thế nào tôi sẽ tìm ra cô. Tôi thề trước Đấng Tối Cao là tôi sẽ tìm ra cô. Và khi tôi tìm ra cô thì không một tòa án nào ở cái đất nước khốn nạn này có thể ngăn cản tôi trừng phạt cô. Tôi sẽ xử lý Mariam trước, rồi đến con bé, và cuối cùng là cô. Tôi sẽ bắt cô phải chứng kiến. Cô hiểu tôi chứ? Tôi sẽ bắt cô phải chứng kiến.”
Nói xong những lời đó, ông ta bỏ đi. Nhưng ông ta vẫn kịp đá vào cạnh sườn Laila khiến cô bị đi tiểu ra máu suốt mấy ngày.
37
Mariam
THÁNG NĂM, 1996
Hai năm rưỡi sau đó, vào buổi sáng ngày hai mươi bảy tháng Chín, Mariam bị đánh thức bởi tiếng la hét, tiếng huýt sáo, tiếng pháo và tiếng nhạc. Cô chạy ra phòng khách, thấy Laila đã đứng bên cửa sổ, Aziza ở trên vai cô. Laila quay lại và mỉm cười.
“Quân Taliban đã đến đây,” cô nói.
Lần đầu tiên Mariam nghe nói về Taliban là từ hai năm trước, vào tháng Mười năm 1994, khi Rasheed thông báo với cả nhà rằng quân Taliban đã lật đổ các thủ lĩnh địa phương ở Kandahar và chiếm giữ thành phố. Ông ta nói họ là một lực lượng du kích, gồm những thanh niên Pashtun mà gia đình chạy tới Pakistan trong cuộc chiến tranh chống lại Liên Xô. Hầu hết bọn họ được nuôi dưỡng - một số thậm chí được sinh ra - trong những trại tị nạn dọc biên giới Pakistan và các trường Hồi giáo, nơi họ được các giáo sĩ dạy luật Hồi giáo. Thủ lĩnh của họ là một người ẩn dật bí ẩn, độc nhãn và mù chữ tên là Mullah Omar, người mà theo như cách nói hài hước của Rasheed thì luôn tự gọi mình là Ameer-ul-Mumineen, Thủ lĩnh của Lòng trung thành.
“Thật ra những thanh niên này không có risha, không có gốc.” Rasheed nói, chẳng hướng tới Mariam hay Laila. Từ sau cuộc chạy trốn thất bại cách đây hai năm rưỡi, Mariam hiểu rằng cô và Laila đã trở thành một đối với ông ta, đều xấu xa, đều xứng đáng với sự ngờ vực, sự khinh bỉ và coi thường của ông ta. Khi ông ta nói, Mariam có cảm giác rằng ông ta đang độc thoại, hoặc đang nói với người vô hình trong phòng, người nào đó không giống như cô và Laila, người nào đó xứng đáng nghe các ý kiến của ông ta.
“Họ có thể không có quá khứ,” ông ta nói, vừa hút thuốc vừa nhìn lên trần nhà. “Họ có thể chẳng biết gì về thế giới cũng như lịch sử của đất nước này. Đúng vậy. Và nếu đem so với họ, Mariam đây có lẽ còn là một giáo sư đại học. Ha ha! Đúng thế đấy. Nhưng hãy nhìn xung quanh các cô xem? Các cô nhìn thấy cái gì? Những tay chỉ huy lực lượng Chiến binh Hồi giáo tham lam, nhũng nhiễu, được trang bị vũ khí đến tận răng, giàu có nhờ ma túy, tuyên bố thánh chiến với nhau và giết sạch những ai ở giữa - thế đấy! ít nhất thì Taliban cũng trong sạch và không có tham nhũng. ít nhất họ cũng là những thanh niên Hồi giáo tử tế. Wallah, khi họ đến, họ sẽ làm cho nơi này trở nên sạch sẽ. Họ sẽ mang lại hòa bình và trật tự. Người ta sẽ không còn bị bắn khi đi ra ngoài mua sữa nữa. Sẽ không còn những loạt rocket nữa! Hãy nghĩ về điều đó đi.”
Hai năm nay, Taliban đã tiến gần về phía Kabul, giành lại các thành phố từ lực lượng Chiến binh Hồi giáo, kết thúc chiến tranh bè phái ở bất kể nơi nào mà họ chiếm giữ. Họ đã bắt được thủ lĩnh cánh Hazara, Abdul Ali Mazari, và xử tử ông ta. Trong vài tháng, họ đã chiếm được vùng ngoại ô phía Nam Kabul, bắn vào thành phố, đấu rocket với Ahmad Shah Massoud. Đầu tháng Chín năm 1996, họ đã chiếm được các thành phố Jalalabad và Sarobi.
Rasheed nói rằng quân Taliban có một thứ mà Chiến binh Hồi giáo không có. Họ là một thể thống nhất.
“Hãy để họ đến,” ông ta nói. “Tôi sẽ tung hoa hồng chào đón họ.”
Ngày hôm đó bốn người bọn họ cùng đi ra ngoài, Rasheed dẫn họ đi từ chặng xe bus này đến chặng xe bus khác để chào mừng thế giới mới của họ, các thủ lĩnh mới của họ. Tại các khu dân cư bị đạn pháo tàn phá, Mariam nhìn thấy người ta đang chui ra từ những đống đổ nát và ào ra đường phố. Cô nhìn thấy một bà lão tung từng nắm gạo vào khách qua đường với nụ cười móm mém ủ rũ trên gương mặt. Có hai người đàn ông đang bị quây giữa những phần còn sót lại của một tòa nhà đổ nát, bầu trời phía trên họ có tiếng rít và tiếng nổ bộp bộp của pháo hoa được những cậu bé đốt trên mái nhà. Bài quốc ca được phát qua đài cát xét đang đọ giọng với tiếng còi ô tô.
Aziza chỉ vào một lũ con trai đang chạy trên đường Jadeh Maywand: “Nhìn kìa, Mayam!” Chúng đang vừa giơ nắm tay vào không trung vừa kéo lê những cái lon đã han gỉ được buộc vào những sợi dây. Chúng hét lên rằng Massoud và Rabbani đã rút khỏi Kabul.
Ở khắp nơi đều có tiếng hô vang: Allah-u-akbar!
Mariam nhìn thấy một tấm ga giường treo trên cửa sổ một ngôi nhà trên đường Jadeh Maywand. Trên đó, có người đã sơn ba chữ cỡ lớn, màu đen.- ZENDA BAAD TALIBAN! Taliban bất diệt!
Khi họ đi bộ trên đường, Mariam nhìn thấy thêm nhiều bảng hiệu - được sơn trên cửa sổ, được đóng đinh trên cửa hoặc được treo trên ăng ten ô tô - cũng viết đúng ba chữ đó.
Chiều hôm đó, Mariam cùng với Rasheed, Laila và Aziza đã nhìn thấy những toán lính Taliban đầu tiên ở quảng trường Pashtunistan. Rất nhiều người đã tụ tập ở đó. Mariam nhìn thấy người thì rướn cổ lên, người thì tụ tập xung quanh đài phun nước màu xanh ở trung tâm quảng trường, người lại ngồi trên bờ khô ráo. Họ đang cố gắng phóng tầm mắt về phía cuối quảng trường, gần quán Khyber cổ.
Rasheed dùng thân hình to lớn của mình để xô đẩy những người đứng xem và dẫn ba người đến chỗ có một người đang nói qua loa phóng thanh.
Khi Aziza nhìn thấy, cô bé kêu lên và giấu mặt vào sau chiếc burqa của Mariam.
Loa phóng thanh phát ra giọng nói của một người đàn ông trẻ, có râu, người mảnh khảnh và đầu đội một cái khăn xếp màu đen. Anh ta đang đứng trên một cái giàn giáo dựng tạm. Bên tay không giữ loa, anh ta cầm một ống phóng rocket. Bên cạnh anh ta, hai người đàn ông máu me bê bết bị treo trên những sợi dây thừng được cột chặt vào cột đèn giao thông. Quần áo của họ bị xé tả tơi. Khuôn mặt sưng vù của họ đã chuyển sang tím tái.
“Tôi biết ông ta,” Mariam nói, “người ở bên trái ấy.”
Người phụ nữ trẻ đứng trước mặt Mariam quay đầu lại và nói đó là Najibullah. Người đàn ông kia là anh trai của ông ấy. Mariam nhớ khuôn mặt để râu phương phi của Najibullah tươi cười rạng rỡ trên các tấm áp phích và những cửa sổ kính của các cửa hàng dưới thời Liên Xô.
Sau đó cô nghe kể rằng quân Taliban đã kéo lê Najibullah từ nơi ẩn náu của ông ta tại trụ sở chính của Liên Hợp Quốc, gần cung điện Darulaman. Rằng họ đã tra khảo ông ta hằng giờ liền rồi sau đó buộc chân ông ta vào một cái xe tải và kéo lê xác của ông ta qua khắp các phố.
“Hắn đã giết rất nhiều, rất nhiều người Hồi giáo!” người lính Taliban trẻ hét to qua loa phóng thanh. Anh ta nói tiếng Farsi với giọng Pashto, sau đó chuyển hẳn sang tiếng Pashto. Anh ta nhấn mạnh câu nói bằng cách chĩa khẩu súng vào hai cái xác. “Tất cả chúng ta đều biết tội ác của hắn. Hắn là một tên cộng sản và là một kafir*. Đây là điều mà chúng ta làm với một kẻ vô đạo đã phạm phải những tội ác chống lại đạo Hồi!”
Một kẻ không đáng tin.
Rasheed cười tự mãn.
Trong vòng tay của Mariam, Aziza bắt đầu khóc.
Ngày hôm sau, khắp Kabul đông nghịt những chiếc xe tải. Những chiếc xe Toyota màu đỏ len lỏi qua các con phố ở Khair Khana, Shar-e-Nau, Karteh-Parwan, Wazir Akbar Khan và Taimani. Những người đàn ông có râu, được vũ trang, đầu đội turban màu đen ngồi trong thùng xe. Từ trên mỗi chiếc xe tải, một loa phóng thanh phát ra thông báo, lúc đầu là bằng tiếng Farsi, sau đó bằng tiếng Pashto. Thông điệp này cũng được phát đi từ các loa phòng thanh đặt trên nóc các thánh đường, và cả trên đài, giờ đây được gọi là Đài Tiếng nói Shari’a. Thông điệp này cũng được viết trên các tờ rơi rải khắp đường phố. Mariam nhặt được một tờ ở trong sân.
Watan của chúng ta giờ đây là Tiểu Vương Quốc Đạo Hồi Afghanistan. Dưới đây là những luật lệ mà chúng tôi yêu cầu mọi người phải chấp hành:
Tất cả công dân phải cầu nguyện năm lần một ngày. Nếu như trong thời gian cầu nguyện bị phát hiện ra đang làm một việc gì khác thì sẽ bị đánh đòn.
Tất cả đàn ông phải để râu. Độ dài chuẩn phải ít nhất bằng một nắm tay tính từ phía dưới cằm. Ai chống đối sẽ bị đánh đòn.
Tất cả nam học sinh phải đội khăn xếp. Những học sinh từ lớp một đến lớp sáu phải đội khăn màu đen, lớp lớn hơn thì đội khăn màu trắng. Tất cả đều phải mặc quần áo đạo Hồi. Cổ sơ mi phải cài cúc.
Nghiêm cấm hát.
Nghiêm cấm nhảy.
Nghiêm cấm chơi bài, chơi cờ, đánh bạc và thả diều.
Nghiêm cấm viết sách, xem phim và vẽ tranh. Ai nuôi vẹt sẽ bị đánh đòn. Chim sẻ bị giết.
Nếu ai ăn cắp sẽ bị chặt bàn tay. Nếu ăn cắp lần nữa, sẽ bị chặt chân.
Nếu không phải là người đạo Hồi, không được thờ cúng ở những nơi mà người đạo Hồi có thể trông thấy. Nếu bị trông thấy sẽ bị đánh đòn và tống giam. Nếu ai cố dụ dỗ một người đạo Hồi đi theo tín ngưỡng của mình thì sẽ bị hành hình.
Phụ nữ cần phải chú ý:
Luôn luôn ở trong nhà. Không được đi lang thang không có mục đích ở trên đường. Nếu đi ra ngoài, phải đi cùng một mahram - một nam giới có quan hệ họ hàng. Nếu bị bắt gặp đi một mình trên phố sẽ bị đánh đòn và bắt đưa về nhà.
Trong bất kỳ trường hợp nào phụ nữ đều không được để lộ khuôn mặt của mình. Phải mặc burqa khi đi ra ngoài. Nếu không sẽ bị đánh thật nặng.
Không được trang điểm.
Không được đeo nữ trang.
Không được mặc quần áo diêm dúa.
Không được nói nếu người khác chưa nói với mình.
Không được nhìn vào mắt đàn ông.
Không được cười ở nơi công cộng. Nếu không sẽ bị đánh đòn.
Không được sơn móng tay. Nếu không sẽ bị chặt ngón tay.
Nghiêm cấm trẻ em gái đến trường. Tất cả trường học dành cho con gái sẽ bị đóng cửa ngay lập tức.
Nghiêm cấm phụ nữ đi làm.
Nếu bị bắt gặp ngoại tình sẽ bị ném đá cho đến chết.
Hãy nghe. Hãy nghe thật kỹ. Và tuân theo. Allah-u-akbar.
Rasheed tắt đài. Họ đang ngồi trên sàn phòng khách, ăn bữa tối, hôm đó chưa đầy một tuần kể từ khi họ nhìn thấy xác của Najibullah bị treo trên dây thừng.
“Họ không thể bắt một nửa dân số ở nhà ăn không ngồi rồi,” Laila nói.
“Tại sao không?” Rasheed đáp. Riêng lần này thì Mariam đồng ý với ông ta. Thực tế thì chẳng phải ông ta đã áp dụng điều đó với cả cô và Laila đấy sao? Hiển nhiên Laila cũng thừa hiểu.
“Nhưng đây không phải là một cái làng nào đó. Đây là Kabul. Ở đây phụ nữ đã từng hành nghề luật và nghề y; họ đã từng nắm các vị trí trong chính phủ.”
Rasheed nhăn nhở, “Nói mới giống cô con gái ngạo mạn của một tay cử nhân yêu văn chương làm sao. Cô mới tinh tế làm sao, mới Tajik làm sao. Cô nghĩ đây là tư tưởng cực đoan mới mà Taliban đem đến phải không? Cô đã bao giờ sống xa cái vỏ bọc nhỏ bé, quý giá của cô ở Kabul chưa, cô gái ngờ nghệch của tôi? Cô đã bao giờ có ý định đi thăm một đất nước Afghanistan đích thực chưa, đến miền Nam, miền Đông, dọc theo đường biên giới với Pakistan? Chưa phải không? Còn tôi, tôi đã từng tới những nơi đó rồi. Và tôi có thể nói với cô rằng có rất nhiều nơi ở đất nước này vẫn luôn sống như thế, hoặc cũng gần như thế. Chỉ có điều cô không biết đấy thôi.”
“Tôi không tin những chuyện này,” Laila nói. “Chúng không đúng.”
“Tôi thấy chuyện Taliban làm với Najibullah có vẻ là thật đấy,” Rasheed nói. “Cô không đồng ý sao?”
“Ông ta là một người cộng sản! Ông ta là người đứng đầu Sở Mật vụ.”
Rasheed bật cười.
Mariam nghe thấy câu trả lời trong tiếng cười của Rasheed: rằng trong con mắt của Taliban, là một người cộng sản và là thủ lĩnh của KHAD khét tiếng chỉ khiến cho Najibullah đáng khinh hơn chỉ một chút so với phụ nữ thôi.
38
Laila
Khi chế độ Taliban bắt đầu vận hành, Laila mừng vì Babi không ở đây để chứng kiến. Điều này sẽ làm ông suy sụp mất.
Người ta cầm cuốc chim trèo lên Bảo tàng Kabul xiêu vẹo và đập tan thành mảnh vụn những bức tượng thời tiền Hồi giáo mà lực lượng Chiến binh Hồi giáo chưa kịp cướp đi. Trường đại học bị đóng cửa và sinh viên bị đuổi về nhà. Những bức tranh được gỡ xuống, rồi bị đâm toạc bằng dao. Màn hình ti vi bị đập nát. Sách, trừ kinh Koran, đều bị thiêu rụi từng đống, các hiệu sách bị đóng cửa. Những bài thơ của Khalili, Pajwak, Ansari, Haji Dehqan, Ashraqi, Beytaab, Hafez, Jami, Nizami, Rumi, Khayyām, Beydel và nhiều người khác đều tan theo khói bụi.
Laila nghe kể về những người đàn ông bị kéo lê trên đường vì tội chểnh mảng cầu nguyện và bị đẩy vào các thánh đường. Cô được biết quán Marco Polo, gần phố Gà, đã bị biến thành trung tâm tra khảo. Thỉnh thoảng người ta nghe thấy tiếng la hét vọng ra từ các ô cửa sổ sơn đen. Đội tuần tra Beard Patrol lái những chiếc xe tải Toyota lùng sục khắp các phố để tìm kiếm những khuôn mặt đã được cạo sạch sẽ và trừng trị họ thật đẫm máu.
Taliban cũng đóng cửa các rạp chiếu phim. Rạp chiếu phim Công viên. Ariana. Aryub. Phòng chiếu phim bị lục soát rất kỹ và các cuộn phim đều bị đốt. Laila nhớ những lần cô và Tariq ngồi trong những rạp chiếu phim này xem phim Hindu, nhớ lại tất cả những bộ phim thống thiết về những người yêu nhau bị chia rẽ bởi định mệnh bi thương, một người trôi dạt đến một miền đất xa xôi, còn người kia thì bị ép phải kết hôn, những giọt nước mắt, những bài ca trên cánh đồng hoa cúc, niềm khát khao về ngày đoàn tụ. Cô nhớ Tariq đã cười vì cô khóc khi xem những bộ phim này.
“Tôi băn khoăn không biết họ đã làm gì với rạp chiếu phim của bố tôi,” một hôm Mariam nói với cô. “Nếu như nó vẫn còn ở đó. Hoặc nếu như ông ấy vẫn sở hữu nó.”
Kharabat, khu âm nhạc cổ truyền của Kabul cũng trở nên lặng lẽ. Nhạc công bị tra tấn và bị giam cầm, những rubab, tamboura và đàn đạp hơi của họ bị giẫm nát. Taliban tới bên mộ người ca sĩ yêu thích của Tariq, Ahmad Zahir, và nã đạn lên đó.
“Ông ấy đã chết cách đây gần hai mươi năm rồi,” Laila nói với Mariam. “Chết một lần còn chưa đủ hay sao?”
Rasheed không lấy làm phiền cho lắm về Taliban. Tất cả những gì ông ta phải làm là nuôi bộ râu sẵn có và đến nhà thờ Hồi giáo, điều mà ông ta vốn vẫn làm. Rasheed nhìn nhận Taliban với một sự kinh ngạc đầy tha thứ và yêu thương, như nhìn nhận một người anh họ tính khí thất thường, khi thì có những hành động vui nhộn, lúc lại làm những chuyện đáng xấu hổ, không ai đoán trước được.
Tối thứ Tư hằng tuần, Rasheed thường nghe Đài Tiếng nói Shari’a khi Taliban công bố tên những người sẽ bị trừng phạt. Rồi vào thứ Sáu, ông ta tới sân vận động Ghazi, mua một lon Pepsi và xem màn biểu diễn. Trên giường, ông ta buộc Laila phải nghe ông ta kể với một niềm hồ hởi lạ lùng về những cánh tay bị chặt đứt lìa, rồi cảnh đánh đập, cảnh treo cổ, cảnh chém đầu mà ông ta đã thấy.
“Hôm nay tôi đã nhìn thấy một người đàn ông tự tay cắt cổ kẻ đã sát hại anh trai ông ta,” một đêm ông ta nói, miệng nhả những vòng khói thuốc.
“Họ là những kẻ tàn bạo,” Laila nói.
“Cô nghĩ vậy sao?” ông ta nói. “So với cái gì? Quân Liên Xô đã giết một triệu người. Cô có biết bao nhiêu người đã bị Chiến binh Hồi giáo sát hại riêng ở Kabul trong bốn năm qua không? Năm mươi ngàn người. Năm mươi ngàn! So ra thì việc chặt tay vài thằng trộm có dáng gì? Nợ máu phải trả bằng máu. Kinh Koran đã dạy như vậy. Ngoài ra, hãy nói cho tôi biết: Nếu có ai đó sát hại Aziza, cô không muốn có cơ hội để trả thù cho nó hay sao?”
Laila ném cho ông ta một cái nhìn phẫn nộ.
“Tôi chỉ đang lấy đó làm ví dụ thôi,” ông ta nói.
“Ông cũng chỉ giống như họ mà thôi.”
“Con bé có màu mắt mới thú vị làm sao. Cô có nghĩ thế không? Đó không phải màu mắt của cô mà cũng không phải màu mắt của tôi.”
Rasheed nghiêng người về phía Laila, nhẹ nhàng chà vào đùi cô bằng cái móng tay ngón trỏ cong queo.
“Để tôi giải thích nhé,” ông ta nói. “Nếu tôi mà thích - tôi không nói là nó sẽ xảy ra, nhưng cũng có thể, cũng có thể lắm - thì tôi có đủ khả năng để tống cổ con bé Aziza đi. Cô có mong muốn điều đó không? Hoặc có thể một ngày nào đó tôi sẽ tới gặp Taliban, tới đó và nói với họ về nghi ngờ của tôi đối với cô. Chỉ cần như thế thôi. Cô nghĩ họ sẽ tin lời của ai? Cô nghĩ rồi họ sẽ làm gì với cô?”
Laila dịch đùi ra khỏi tay ông ta.
“Nhưng tôi sẽ không làm thế,” ông ta nói. “Tôi sẽ không làm thế. Không. Có lẽ là không. Cô hiểu tôi mà.”
“Ông thật đê tiện,” Laila nói.
“Cô quá lời rồi,” Rasheed nói. “Tôi luôn không thích điều này ở cô. Ngay khi cô còn nhỏ, khi cô còn chạy loăng quăng với thằng què đó, cô đã nghĩ là cô rất thông minh, với mớ sách vở và những thứ thơ thẩn của cô. Bây giờ tất cả sự thông minh của cô đem lại cho cô cái gì? Cái gì giúp cô không phải lăn lóc ngoài đường: sự thông minh của cô hay là tôi? Tôi đê tiện ư? Một nửa phụ nữ tại cái thành phố này sẽ xin được chết để có người chồng như tôi. Họ khao khát điều đó.”
Ông ta quay người lại và nhả khói thuốc lên trần nhà.
“Cô thích dùng những từ đao to búa lớn phải không? Tôi sẽ cho cô những từ này: nhìn xa trông rộng. Đó là điều mà tôi đang làm ở đây, Laila ạ. Hãy chắc chắn rằng cô không tỏ ra thiển cận.”
Từng lời Rasheed thốt ra, kể cả những lời cuối cùng, đều đúng, và chính điều đó làm cho Laila cảm thấy rối bời cho đến tận khi trời sáng.
Nhưng sáng hôm sau và một vài buổi sáng sau đó nữa, cảm giác rối bời này vẫn tiếp tục đeo đẳng cô, thậm chí nó trở nên tồi tệ hơn và thành một điều quen thuộc đến khủng khiếp.
Một buổi chiều lạnh giá, u ám ít lâu sau đó, Laila nằm trên sàn phòng ngủ. Mariam thì đang ngủ trưa với Aziza trong phòng mình.
Trong tay Laila là một cái nan hoa bằng kim loại mà cô đã dùng kìm để tháo ra khỏi một cái bánh xe đạp bỏ đi. Cô tìm thấy nó trong chính con hẻm nơi cô đã từng hôn Tariq ngày xưa. Laila nằm trên sàn rất lâu, hít không khí qua kẽ răng, chân giạng ra.
Cô yêu Aziza ngay từ giây phút đầu tiên khi cô lờ mờ về sự hình thành của đứa bé. Không hề có sự nghi ngờ về bản thân như thế này, không có sự thiếu chắc chắn như thế này. Giờ đây, Laila nghĩ, thật khủng khiếp làm sao khi người mẹ lo sợ rằng cô ta không thể dồn tình yêu thương cho chính đứa con của mình. Thật trái với tự nhiên. Nhưng khi cô nằm trên sàn nhà, hai bàn tay đẫm mồ hôi được giữ thăng bằng để điều khiển cái nan hoa, cô vẫn băn khoăn rằng liệu cô có thể yêu đứa bé của Rasheed như cô đã yêu đứa bé của Tariq hay không.
Nhưng cuối cùng, Laila không thể làm được điều đó.
Không phải do nỗi sợ hãi bị chảy máu đến chết khiến cô làm rơi cái nan hoa, hay thậm chí do cái suy nghĩ rằng đó là một hành động đáng ghê tởm - mà cô ngờ rằng nó đúng là như vậy thật. Laila làm rơi cái nan hoa bởi vì cô không thể chấp nhận được những gì mà Chiến binh Hồi giáo sẵn sàng làm: cướp đi sự sống của những đứa trẻ ngây thơ, vô tội. Cuộc chiến của cô là sự đối đầu với Rasheed. Đứa trẻ không có tội tình gì. Và đã có đủ sự giết chóc rồi. Laila đã chứng kiến quá đủ những sinh mạng vô tội bị tàn sát giữa làn đạn của những kẻ thù địch nhau.
39
Mariam
THÁNG CHÍN, NĂM 1997
“Bệnh viện này không điều trị cho phụ nữ nữa,” người gác cổng quát. Anh ta đứng trên đầu cầu thang, lạnh lùng nhìn xuống đám đông đang tụ tập ở trước bệnh viện Malalai.
Một tiếng rên lớn phát ra từ trong đám đông.
“Nhưng đây là bệnh viện của phụ nữ!” một người phụ nữ phía sau Mariam hét lên. Những người khác cũng la hét ủng hộ theo.
Mariam chuyển Aziza sang tay bên kia. Với cánh tay còn lại cô đỡ Laila đang rên rỉ, một cánh tay của Laila đang quàng qua cổ Rasheed.
“Bây giờ không thế nữa,” người lính Taliban nói.
“Vợ tôi sắp sinh rồi!” một người đàn ông đậm người hét lên. “Chẳng nhẽ anh nỡ bắt cô ấy phải sinh nở ngoài đường hay sao, người anh em?”
Vào tháng Một năm đó, Mariam đã được nghe thông báo rằng đàn ông và đàn bà sẽ phải nằm ở những bệnh viện khác nhau và tất cả nhân viên nữ sẽ bị sa thải khỏi các bệnh viện của Kabul và được dồn đến làm việc trong một khu trung tâm. Không ai tin vào thông báo ấy. Taliban cũng không bắt buộc thực thi chính sách đó. Cho đến tận bây giờ.
“Thế còn bệnh viện Ali Abad thì sao?” một người đàn ông khác hét lên.
Người gác cổng lắc đầu.
“Wazir Akbar Khan?”
“Chỉ dành cho đàn ông thôi,” anh ta trả lời.
“Vậy thì chúng tôi phải làm thế nào?”
“Đến bệnh viện Rabia Balkhi,” người gác cổng nói.
Một phụ nữ trẻ tiến về phía trước, nói rằng cô đã từng ở đó. Họ không có nước sạch, cô ấy nói, không có bình ô xy, không thuốc men và cũng không có điện. “Ở đó chẳng có gì cả.”
“Đó là nơi mọi người phải đến,” người gác cửa nói.
Có thêm nhiều tiếng than vãn và la hét, một hay hai lời lăng mạ. Một số người thì ném đá.
Tay lính Taliban nâng khẩu AK lên và lia một tràng vào không trung. Một tay lính Taliban khác đằng sau anh ta vung roi lên.
Đám đông nhanh chóng giải tán.
Phòng chờ ở Rabia Balkhi đông nghẹt những phụ nữ mặc burqa và con cái họ. Không khí nồng nặc mùi mồ hôi, mùi cơ thể không được tắm gội, mùi chân, mùi nước tiểu, mùi thuốc lá và mùi chất khử trùng. Bên dưới cái quạt trần đứng im, đám trẻ con rượt đuối nhau, nhảy qua những đôi chân duỗi dài của các ông bố đang gà gật.
Mariam giúp Laila ngồi dựa vào tường, những mảng thạch cao giống như hình các nước ngoại quốc đã bong ra. Laila cứ lắc lư người ra đằng trước rồi về đằng sau, hai tay ấn chặt lấy bụng.
“Tôi sẽ tìm cách để cô được khám, Laila thân mến. Tôi hứa.”
“Nhanh lên,” Rasheed nói.
Trước cửa sổ phòng đăng ký là một đám đông phụ nữ đang xô lấn, chen đẩy nhau. Một vài người vẫn bế cả con. Có người tách ra khỏi đám đông và lao về phía cửa dẫn tới phòng khám. Một tay lính Taliban có vũ khí đứng chặn trước lối đi và bắt họ quay trở lại.
Mariam hăng hái tiến đến. Cô cương quyết lách qua khuỷu tay, hông và vai của những người lạ. Có ai đó thúc vào xương sườn cô và cô thúc trở lại. Một bàn tay chộp mạnh vào mặt cô. Cô gạt đi. Để có thể tiến lên phía trước, Mariam phải vồ lấy cổ, cánh tay, khuỷu tay và tóc người khác và khi một người phụ nữ gần đấy rít lên giận dữ, cô cũng rít lại.
Giờ đây Mariam đã thấy sự hy sinh mà một người mẹ phải thực hiện. Sự đứng đắn chỉ là một. Cô buồn rầu nghĩ về mẹ Nana, về những hy sinh bà cũng đã chấp nhận. Lẽ ra bà đã có thể từ bỏ cô, hoặc có thể vứt cô ở một cái rãnh nào đó rồi bỏ đi. Nhưng bà đã không làm vậy. Thay vào đó, bà đã phải chịu đựng nỗi nhục nhã khi mang trong mình một harami, bà đã gắn cuộc đời mình vào một nhiệm vụ bạc bẽo là nuôi lớn Mariam và yêu thương cô theo cách riêng của bà. Để rồi cuối cùng, Mariam lại chọn Jalil chứ không phải bà. Khi giành giật lối đi với một quyết tâm trơ trẽn để vượt lên trước cái mớ hỗn độn này, Mariam ước gì cô đã là một đứa con gái ngoan ngoãn hơn của mẹ Nana. Cô ước rằng lúc đó cô có thể hiểu được điều mà bây giờ cô đã hiểu về tình mẫu tử.
Cô nhận thấy mình đang đứng trước một bà y tá - người trùm một cái burqa xám, bẩn từ đầu đến chân. Bà y tá đang nói chuyện với một người phụ nữ trẻ mặc chiếc burqa mà mũ đã thấm đẫm máu.
“Con gái tôi đã bị vỡ ối rồi mà đứa bé không ra được,” Mariam gào lên.
“Tôi đang nói chuyện với bà ấy!” người phụ nữ trẻ mình đầy máu kêu lên. “Hãy đợi đến lượt của bà!”
Đám đông dạt từ bên này sang bên kia, giống như đám cỏ cao mọc quanh kolba khi có cơn gió thổi qua bãi đất trống. Một người phụ nữ sau lưng Mariam hét lên rằng con gái bà bị gãy khuỷu tay do ngã từ trên cây xuống. Một người phụ nữ khác thì la lên rằng cô ấy đang chảy rất nhiều máu.
“Cô ấy có bị sốt không?” bà y tá hỏi. Phải mất một lúc Mariam mới hiểu rằng bà ấy đang nói chuyện với mình.
“Không,” cô trả lời.
“Có chảy máu không?”
“Không.”
“Cô ấy đâu?”
Mariam chỉ qua những cái đầu nhấp nhô chỗ Laila đang ngồi với Rasheed.
Y tá nói, “Chúng tôi sẽ đến chỗ cô ấy.”
“Bao lâu nữa?” Mariam kêu lên. Có ai đó chộp lấy vai cô và kéo cô lại.
Bà y tá nói, “Tôi cũng chưa biết.” Bà nói họ chỉ có hai bác sĩ và vào lúc này, cả hai đều đang tiến hành phẫu thuật.
Mariam lại nói, “Nhưng con bé đang đau.”
“Tôi cũng thế!” người phụ nữ bị chảy máu đầu gào lên. “Hãy đợi đến lượt bà!”
Mariam bị lôi về phía sau. Giờ đây bà y tá đã bị che lấp bởi vai và đầu của những người khác. Cô ngửi thấy mùi ợ sữa của trẻ con.
“Hãy dắt cô ấy đi bộ,” người y tá la lên. “Và đợi.”
Khi cuối cùng một y tá gọi họ vào thì trời đã tối. Phòng hộ sinh có tám giường, trên đó những người phụ nữ nằm rên rỉ và quằn quại đang được các nữ hộ sinh trong trang phục che kín người chăm sóc. Hai người phụ nữ đang sinh. Không có rèm che giữa các giường. Laila được xếp vào giường trong cùng, dưới một ô cửa sổ sơn đen. Gần đó có một cái bồn rửa, đã bị rạn nứt và khô cong, có một cái dây vắt ngang để treo găng tay phẫu thuật bẩn. Ở giữa phòng, Mariam nhìn thấy một cái bàn nhôm. Ngăn trên cùng có một cái chăn màu bồ hóng, ngăn cuối cùng thì trống rỗng.
Một phụ nữ nhận thấy Mariam đang nhìn.
“Họ đặt những đứa còn sống ở trên cùng,” cô ta nói một cách mệt mỏi.
Bà bác sĩ mặc burqa màu xanh đậm là một phụ nữ nhỏ bé, dáng vội vã với những chuyển động như chim. Mọi điều bà nói ra đều nghe có vẻ sốt ruột, khẩn cấp.
“Con so.” Bà nói như thể đó không phải một câu hỏi mà là một lời khẳng định.
“Đứa thứ hai,” Mariam trả lời.
Laila kêu lên một tiếng và co người lại. Những ngón tay cô bám chặt vào tay Mariam.
“Có vấn đề gì xảy ra trong lần sinh đầu hay không?”
“Không.”
“Bà là mẹ?”
“Vâng,” Mariam trả lời.
Bác sĩ nâng nửa dưới tấm áo choàng lên và lấy ra một đồ khám bằng kim loại có hình nón. Bà nâng cái áo của Laila lên và đặt đầu rộng của thiết bị ấy vào bụng cô, còn đầu hẹp để lên tai mình. Bà nghe khoảng gần một phút, thay đổi các vị trí và nghe lại, rồi lại chuyển sang vị trí khác.
“Bây giờ tôi phải sờ vào đứa bé, hamshira.”
Bà đeo một cái găng tay được kẹp trên cái bồn rửa. Bà ấn một tay vào bụng Laila còn tay kia thì luồn vào bên trong. Laila rên lên. Khi bác sĩ đã làm xong, bà đưa găng tay cho một y tá giũ ra và kẹp lại dây.
“Con gái bà cần phải được mổ. Bà có biết đó là gì không? Chúng tôi phải mổ dạ con của cô ấy để lấy đứa bé ra, bởi vì cái thai bị ngược.”
“Tôi không hiểu,” Mariam nói.
Bác sĩ nói đứa bé nằm ở tư thế như vậy sẽ không tự ra được. “Chúng ta đã mất quá nhiều thời gian rồi. Giờ cần phải đi đến phòng mổ ngay.”
Laila gật đầu nhăn nhó, đầu cô rũ sang một bên.
“Có một số việc tôi cần phải trao đổi với bà,” bác sĩ nói. Bà lại gần Mariam hơn, nghiêng người và nói bằng giọng nhỏ nhẹ hơn, kín đáo hơn. Bây giờ có một chút gì đó ngại ngùng trong giọng nói của bà.
“Bà ấy nói gì vậy?” Laila rên rỉ. “Có gì xảy ra với đứa bé hay sao?”
“Nhưng làm thế nào mà con bé chịu đựng được điều đó?” Mariam nói.
Từ sự thay đổi mang tính chất che chở trong giọng nói của Mariam, bác sĩ hẳn phải thấy sự buộc tội trong câu hỏi này.
“Bà nghĩ tôi muốn điều này hay sao?” bác sĩ nói. “Bà muốn tôi phải làm gì? Họ không cung cấp cho tôi những thứ tôi cần. Tôi cũng không có máy chụp X-quang, không ống hút, không có bình ô xy, thậm chí đơn giản là thuốc kháng sinh cũng không có. Khi các tổ chức phi chính phủ đề nghị trợ cấp tiền thì Taliban lại từ chối hoặc rót số tiền đó đến những nơi phục vụ đàn ông.”
“Nhưng thưa bác sĩ, bác sĩ không thể cho con bé thứ gì ư?” Mariam hỏi.
Laila rên lên, “Chuyện gì đang xảy ra vậy?”
“Bà có thể tự đi mua thuốc, nhưng...”
“Hãy viết tên thuốc ra,” Mariam nói. “Bác sĩ cứ viết tên thuốc ra là tôi sẽ đi mua ngay.”
Dưới tấm khăn trùm mặt, bác sĩ lắc đầu. “Không còn thời gian nữa,” bà nói. “Và một điều nữa, không một hiệu thuốc nào gần đây bán thuốc đó cả. Vì thế bà sẽ phải đi xa hơn, đến hỏi từng hiệu thuốc, có thể phải tìm khắp thành phố mới có khả năng mua được thuốc đó. Bây giờ đã gần tám giờ rưỡi rồi, vì vậy có thể bà sẽ bị bắt vì vi phạm lệnh giới nghiêm. Thậm chí nếu như tìm thấy thuốc thì có thể bà không đủ tiền để mua đâu. Hoặc cũng có thể bà sẽ bị kéo vào một cuộc tranh giành với một ai đó cũng đang cùng quẫn như bà. Không còn thời gian nữa đâu. Đứa bé cần được ra ngay bây giờ.”
“Hãy cho tôi biết chuyện gì đang diễn ra!” Laila nói. Cô chống tay nâng người dậy.
Bác sĩ hít một hơi dài rồi nói với Laila rằng bệnh viện không có thuốc gây mê.
“Nhưng nếu chúng tôi chậm trễ, chị sẽ mất đứa bé.”
“Vậy hãy mổ cho tôi,” Laila nói. Cô thả người xuống giường và co gối lên. “Hãy mổ bụng tôi và lấy đứa bé ra.”
Trong phòng mổ cũ kỹ và bẩn thỉu, Laila nằm trên một cái giường cáng trong khi bà bác sĩ rửa tay trong chậu. Laila đang run rẩy. Cô hít không khí qua kẽ răng mỗi khi người y tá lau bụng cô bằng một miếng vải nhúng trong một thứ chất lỏng màu vàng nâu. Một y tá khác đứng ở cửa. Cô giữ cửa mở he hé để lén nhìn ra ngoài.
Giờ bác sĩ đã cởi chiếc burqa ra, Mariam thấy đỉnh đầu bà đã lốm đốm hoa râm, mí mắt nặng trĩu và vẻ mệt mỏi hằn lên ở khóe miệng bà.
“Họ muốn chúng tôi phải mặc áo choàng trong khi phẫu thuật,” bác sĩ giải thích và hất đầu về phía cô y tá đang đứng cạnh cửa. “Cô ấy phải trông chừng. Nếu cô ấy thấy họ đến, tôi sẽ choàng áo vào.”
Bà nói điều này bằng giọng ngoan cố gần như thờ ơ, và Mariam hiểu rằng người người phụ nữ này đã từng phải trải qua nhiều lần bị xúc phạm. Cô nghĩ, đây là một người phụ nữ hiểu được rằng mình thật may mắn khi vẫn được làm việc, rằng luôn luôn có những thứ, những thứ khác mà người ta có thể tước đi.
Có hai thanh kim loại được đặt dọc theo vai của Laila. Cô y tá, người đã lau bụng cho Laila, dùng những cái kẹp để kẹp một tấm khăn phủ lên đó. Nó tạo thành tấm rèm giữa Laila và bác sĩ.
Mariam đứng ngay sau đỉnh đầu của Laila và ghé sát mặt xuống để má họ chạm vào nhau. Cô có thể cảm thấy hàm răng của Laila đang va vào nhau lách cách. Bàn tay họ lồng vào nhau.
Qua bức rèm, Mariam nhìn thấy bóng bác sĩ di chuyển về phía bên trái của Laila, cô y tá thì chuyển sang bên phải. Môi Laila căng ra hết sức. Bọt sùi ra qua hàm răng nghiến chặt. Cô bật lên những tiếng rên nhỏ và gấp gáp.
Bác sĩ nói, “Can đảm nhé, em gái.”
Bà cúi xuống Laila.
Mắt Laila trợn ngược. Rồi miệng há hốc ra. Cô cứ như vậy, run rẩy, gân cổ căng ra, mồ hôi trên mặt nhỏ ròng ròng, những ngón bấu chặt tay của Mariam.
Mariam luôn luôn khâm phục Laila về ngần ấy thời gian cô đã cố gắng chịu đựng trước khi cô hét lên.
40
Laila
MÙA THU NĂM 1999
Mariam là người đưa ra ý tưởng đào hố. Một sáng, bà chỉ vào đám đất đằng sau kho dụng cụ và nói, “Chúng ta có thể đào ở đây. Đây là một vị trí tốt.”
Họ thay phiên nhau dùng xẻng đào đất, rồi hót lớp đất tơi sang một bên. Họ không dự định đào một cái hố to, hay một cái hố sâu, vì thế công việc hóa ra lại nhọc nhằn hơn nhiều so với họ nghĩ. Chính đợt hạn hán bắt đầu từ năm 1998, đến năm nay là năm thứ hai, đã tàn phá khắp mọi nơi. Mùa đông năm trước hầu như không có tuyết rơi và không có trận mưa nào suốt cả mùa xuân năm ấy. Nông dân trên khắp đất nước phải bỏ lại những mảnh đất khô nẻ của mình, bán hết hàng hóa, lang thang từ làng này sang làng khác để tìm nước. Họ chuyển đến Pakistan hoặc Iran. Họ định cư ở Kabul. Nhưng những mạch nước trong thành phố cũng rất sâu và những giếng nước nông cũng cạn khô rồi. Ở những giếng sâu có nước thì đoàn người xếp hàng dài dằng dặc, Laila và Mariam phải đợi nhiều tiếng đồng hồ mới tới lượt mình. Sông Kabul đã trơ cả đáy vì không có lũ đầu mùa xuân. Giờ đây nó đã trở thành một cái nhà vệ sinh công cộng, không có gì trong đó ngoài đá cuội và rác thải của con người.
Vì vậy họ vẫn tiếp tục đào, nhưng mặt đất đã trở nên cứng như đá, lóp bụi cứ tích tụ lại, nén chặt vào nhau, gần như hóa đá.
Giờ Mariam đã bốn mươi rồi. Mái tóc quấn trên đầu đã lốm đốm một vài sợi bạc. Mọng mắt đã võng xuống, thâm lại và tạo thành hình lưỡi liềm. Hai chiếc răng cửa đã mất. Một cái do bị ngã, cái kia do Rasheed đánh bay khi bà lỡ tay để rơi bé Zalmai. Da bà trở nên thô hơn và sạm đen đi vì những lúc họ ngồi ngoài sân dưới ánh mặt trời chói chang. Họ ngồi nhìn Zalmai đuổi bắt Aziza.
Khi công việc đã hoàn thành, cái hố đã đào xong, họ đứng ở trên nhìn xuống.
“Thế này chắc là được đấy,” Mariam nói.
Giờ Zalmai đã lên hai. Nó là cậu bé tóc quăn bụ bẫm. Nó có đôi mắt nhỏ màu nâu và dù thời tiết thế nào đi nữa thì hai cái má của nó lúc nào cũng hồng hồng giống Rasheed. Thằng bé cũng có một đường tóc dày và cong hình nửa vầng trăng trên trán giống bố.
Khi ở một mình với Laila, Zalmai rất ngoan, vui vẻ và ham chơi. Thằng bé thích trèo lên vai Laila và chơi trốn tìm với cô cùng Aziza ở trong sân. Thỉnh thoảng, lúc bớt hiếu động hơn, nó thích ngồi trong lòng Laila và bắt cô hát cho nghe. Bài hát yêu thích của nó là “Mullah Mohammad Jan”. Khi cô hát và hôn lên mái tóc xoăn của nó, nó đu đưa đôi chân nhỏ mũm mĩm và khi cô hát đến đoạn điệp khúc, nó cũng tham gia bằng những từ có thể phát âm được với cái giọng the thé của mình:
Hãy đến đây rồi đi Mazar, Mullah Mohammad thân mến,
Để được ngắm những cánh đồng hoa tuy líp, ơi người bạn đồng hành đáng yêu.
Laila yêu những nụ hôn ướt ướt mà Zalmai đặt lên má cô, yêu khuỷu tay có ngấn và ngón chân út mũm mĩm của nó. Cô thích cù thằng bé, thích xây những đường hầm bằng đệm và gối để nó bò qua, thích ngắm nó ngủ trong lòng với một tay luôn nắm chặt tai cô. Lòng cô quặn lại khi nghĩ về buổi chiều hôm đó, khi nằm trên sàn nhà với cái nan hoa xe đạp giữa đôi chân mình. Suýt chút nữa thôi cô đã làm như vậy rồi. Giờ đây cô không thể nghĩ được rằng cô đã từng có lúc ấp ủ cái ý định ấy. Con trai cô là một phước lành và Laila cảm thấy thật thanh thản khi nhận ra rằng nỗi sợ hãi của mình rõ ràng là không có căn cứ, rằng cô yêu Zalmai đến từng tế bào của mình, cũng giống như cô yêu Aziza vậy.
Nhưng Zalmai thì tôn sùng bố mình, và vì vậy nên nó thay đổi hẳn khi bố nó ở cạnh cưng chiều nó. Rồi nó sẽ nở một nụ cười ngang ngạnh hoặc hỗn xược. Cứ khi nào có mặt bố là thằng bé rất dễ sinh hư. Nó hay bực tức. Nó cứ làm nghịch dại mặc cho Laila rầy la, điều mà nó không bao giờ làm khi Rasheed đi vắng.
Rasheed ủng hộ tất cả những trò đó của nó. “Đó là dấu hiệu của sự thông minh,” ông ta nói. Ông ta cũng nói như vậy về sự liều lĩnh của Zalmai khi nó ngậm những viên bi rồi phì ra; khi nó nghịch diêm; khi nó nhai thuốc lá của bố nó.
Khi Zalmai được sinh ra, Rasheed chuyển thằng bé vào trong giường của ông ta và Laila. Ông ta mua cho nó một cái giường cũi mới, trên thành có sơn hình sư tử và những con báo đang nép mình. Ông ta mua quần áo mới, lúc lắc mới, chai mới, tã lót mới, mặc dù họ không có điều kiện và những đồ cũ của Aziza thì vẫn còn dùng được. Một hôm, ông ta về nhà với một món đồ chơi chạy bằng pin và treo nó lên cũi của Zalmai. Những chú ong nghệ màu vàng đen buông xuống từ một bông hoa hướng dương, chúng rúm lại, kêu chút chít mỗi khi bị bóp vào. Khi bật nó lên thì một bản nhạc được phát ra.
“Tôi tưởng ông nói việc kinh doanh đang ế ẩm,” Laila nói.
“Tôi có những người bạn có thể cho tôi,” ông ta trả lời bừa.
“Rồi thì làm sao mà trả cho người ta?”
“Mọi thứ rồi cũng ổn thôi. Luôn là như vậy mà. Nhìn kìa, thằng bé thích nó. Thấy không?”
Hầu như ngày nào cũng thế, Laila đều không được gần con trai. Rasheed đưa thằng bé đi đến cửa hàng, để nó bò xung quanh dưới gầm bàn làm việc chật chột, chơi với những đế giày cao su cũ và những miếng da thừa. Rasheed vừa đóng những chiếc đinh sắt nhỏ, quay cái bánh mài và vừa để mắt trông chừng thằng bé. Nếu Zalmai làm đổ giá để giày, Rasheed chỉ trách mắng nhẹ nhàng, với nụ cười mỉm điềm tĩnh. Nếu như thằng bé tái phạm, Rasheed sẽ đặt búa xuống, bế nó lên bàn làm việc của ông ta và nói với nó một cách dịu dàng.
Sự kiên nhẫn của ông ta với Zalmai giống như một cái giếng sâu, không bao giờ khô cạn.
Họ cùng nhau trở về nhà vào buổi tối, đầu Zalmai gục vào vai của Rasheed, cả hai đều bốc mùi hồ và da thuộc. Họ tinh quái cười với nhau theo cách của những người có chung một bí mật, như thể cả ngày họ ngồi trong cái cửa hàng giày tối mờ đó không phải để làm ra những đôi giày, mà là để vạch ra những mưu đồ bí mật. Vào bữa tối Zalmai thích ngồi bên cạnh bố nó, chơi những trò chơi của riêng hai người, trong khi Mariam, Laila và Aziza dọn đồ ăn lên sofrah. Hai bố con thay phiên chọc lét vào ngực nhau, cười rúc rích, ném những mẩu vụn bánh mì vào nhau, thì thầm những điều mà người khác không thể nào nghe thấy được. Nếu Laila chen ngang vào thì Rasheed nhìn cô với vẻ khó chịu. Nếu như cô muốn bế Zalmai hoặc tệ hơn, nếu Zalmai đòi cô, Rasheed sẽ trừng mắt nhìn cô.
Laila bỏ đi với cảm giác đau nhói.
Rồi một đêm, vài tuần sau khi Zalmai tròn hai tuổi, Rasheed về nhà với một cái ti vi và một đầu video. Ngày hôm đó, trời ấm áp và khá dễ chịu, nhưng buổi tối thì lạnh hơn và đến đêm thì trời buốt giá và không có sao.
Ông ta đặt nó lên cái bàn trong phòng khách. Ông ta nói đã mua nó ở chợ đen.
“Ông lại vay à?” Laila hỏi. “Cái này hiệu Magnavox đấy.”
Aziza bước vào phòng. Khi nhìn thấy ti vi, cô bé chạy lại gần.
“Cẩn thận đấy Aziza bé bỏng,” Mariam nói. “Đừng có chạm vào đó.”
Tóc của Aziza đã chuyển sang màu sáng như tóc của Laila. Laila có thể nhìn thấy lúm đồng tiền của cô trên má con bé. Aziza đã trở thành một bé gái chững chạc và biết suy nghĩ với cách cư xử mà Laila thấy dường như vượt xa tuổi lên sáu của nó. Laila ngạc nhiên trước cách nói chuyện của con gái mình, sự nhịp nhàng và uyển chuyển, những âm điệu và những khoảng dừng suy tư, thật người lớn, thật kỳ lạ khi trong cơ thể non nớt ấy lại có một giọng nói như vậy. Đó chính là Aziza với vẻ quyền hành đáng yêu khi tự cho mình trách nhiệm phải đánh thức Zalmai mỗi ngày, mặc quần áo, cho em ăn sáng và chải tóc cho em. Con bé là người ru em vào giấc ngủ, là người đóng vai trò như một sứ giả hòa bình điềm đạm với thằng em tính khí thất thường. Ở cạnh thằng bé, Aziza đã quen có cái kiểu lắc đầu rất người lớn và nghiêm khắc.
Aziza nhấn nút nguồn ti vi. Rasheed nổi cáu, túm lấy cổ tay con bé đặt lên bàn, không một chút nhẹ nhàng.
“Đây là ti vi của Zalmai,” ông ta nói.
Aziza đến bên Mariam và trèo vào lòng bà. Hai người giờ đây không thể tách rời nhau. Gần đây, Mariam bắt đầu dạy Aziza những bài thơ trong kinh Koran, điều này khiến Laila cảm thấy rất vui. Aziza đã có thể đọc thuộc lòng các chương ikhlas, fatiha, biết cách thực hiện bốn ruqat của lễ cầu nguyện buổi sáng.
Đó là tất cả những gì tôi có để cho con bé, Mariam nói với Laila, kiến thức này, những lời cầu nguyện này. Chúng là tài sản duy nhất mà tôi thực sự có.
Giờ Zalmai vào trong phòng. Trước cái nhìn chờ đợi của Rasheed, giống như cái cách mà người ta chờ đợi những trò ảo thuật đơn giản của một ảo thuật gia đường phố, Zalmai giật dây ti vi, nhấn những cái nút, ấn hai lòng bàn tay vào cái màn hình trống. Khi nó nhấc tay ra, hình lòng bàn tay ẩm mờ dần trên mặt kính. Rasheed mỉm cười tự hào, nhìn Zalmai tiếp tục ấn lòng bàn tay rồi lại nhấc ra, hết lần này đến lần khác.
Taliban đã cấm xem ti vi. Băng ghi hình bị chọc thủng trước mặt người dân, ruột băng bị rút ra và lẳng lên các bờ rào. Chảo ăng ten bị treo trên các cột đèn. Nhưng Rasheed nói không phải vì bị cấm mà ông ta không mò ra được.
“Ngày mai tôi sẽ tìm một vài băng hoạt hình,” ông ta nói. “Không khó đâu. Ta có thể mua bất cứ thứ gì ở chợ đen.”
“Thế thì có lẽ ông sẽ mua cho chúng ta một cái giếng mới,” Laila nói và rồi nhận được cái nhìn đầy khinh miệt từ ông ta.
Rồi sau đó, khi kết thúc một bữa tối khác, lại với cơm trắng và không có nước trà do hạn hán, Rasheed hút một điếu thuốc rồi nói với Laila về quyết định của mình.
“Không,” Laila nói.
Ông ta nói rằng không phải ông ta đang hỏi ý kiến.
“Tôi không quan tâm có phải ông đang hỏi hay không.”
“Cô sẽ quan tâm đấy nếu như cô biết toàn bộ câu chuyện.”
Ông ta nói đã mượn tiền của nhiều người hơn so với số người ông ta nói, rằng chỉ khoản tiền kiếm được từ cửa hàng không còn đủ để duy trì cuộc sống của năm người. “Tôi đã không nói sớm vì không muốn cô lo lắng.”
“Bên cạnh đó,” ông ta nói, “cô sẽ ngạc nhiên về những thứ mà họ có thể mang lại cho chúng ta.”
Laila lại nói không. Họ đang ở trong phòng khách. Mariam và bọn trẻ thì ở trong bếp. Laila có thể nghe thấy tiếng bát đĩa lách cách, tiếng cười lanh lảnh của Zalmai và giọng Aziza nói với Mariam đều đều và dịu dàng.
“Có những đứa khác cũng như nó, thậm chí còn bé hơn,” Rasheed nói. “Mọi người ở Kabul đều làm như vậy.”
Laila nói với ông ta rằng cô không quan tâm người khác làm gì với con cái họ.
“Tôi sẽ để ý đến con bé,” Rasheed nói, bây giờ thì sốt ruột hơn. “Đó là một chỗ an toàn. Có một nhà thờ bên kia phố.”
“Tôi sẽ không để cho ông biến con gái tôi trở thành đứa ăn mày!” Laila vặc lại.
Cái tát gây ra một tiếng động lớn, lòng bàn tay với những ngón tay to khỏe của ông ta giáng thẳng vào gò má Laila. Nó khiến cho đầu cô ngật về đằng sau. Những tiếng ồn ào trong bếp bỗng im bặt. Trong chốc lát, ngôi nhà yên tĩnh tuyệt đối. Rồi có tiếng bước chân vội vã trên hành lang trước khi Mariam và lũ trẻ có mặt trong phòng khách, ánh mắt của họ chuyển từ cô sang Rasheed rồi ngược lại.
Rồi Laila đấm mạnh vào ông ta.
Đó là lần đầu tiên cô đánh người khác, không tính đến những cú đấm đùa cô và Tariq từng dành cho nhau. Nhưng đó là những cái vỗ nhẹ chứ không phải cú đấm, là một cách thể hiện hết sức thoải mái và thân thiện cho những ước ao khiến họ vừa hồi hộp lại vừa bối rối. Chúng nhằm vào những cơ bắp mà Tariq, bằng giọng điệu của một chuyên gia, gọi là cơ delta.
Laila nhìn năm tay cô vung lên, sượt qua không khí, dưới đốt ngón tay, cô cảm nhận được những nếp nhăn trên làn da thô ráp của Rasheed. Nó tạo thành thứ âm thanh giống như ai đó làm rơi túi gạo xuống sàn nhà. Cô đã đấm ông ta rất mạnh. Sức mạnh của nó thực sự đã làm cho ông ta lảo đảo lùi về đằng sau hai bước.
Ở phía bên kia căn phòng, có tiếng thở hổn hển, tiếng kêu và tiếng la thất thanh. Laila không biết người nào đã thốt ra tiếng kêu nào. Lúc này, cô sững sờ đến nỗi không còn chú ý hay quan tâm đến điều gì nữa, đợi cho tâm trí bắt kịp với những gì mà tay cô đã làm. Khi định thần lại, cô tin rằng cô có thể đã mỉm cười. Có thể cô đã cười to khi Rasheed lầm lũi đi ra khỏi phòng trước sự kinh ngạc của cô.
Bỗng nhiên, Laila thấy những khốn khó chất chồng trong cuộc sống của họ - của cô, của Aziza, của Mariam - đã biến mất, đã bốc hơi như những dấu bàn tay của Zalmai trên màn hình ti vi. Dù có phần phi lý, nhưng dường như tất cả những sự chịu đựng của họ đều là xứng đáng để mà có được một giây phút huy hoàng này, để có hành động phản kháng này, hành động có thể sẽ chấm dứt tất cả sự nhục nhã mà họ đã phải chịu đựng.
Laila không để ý rằng Rasheed đã quay trở lại phòng. Cho đến khi bàn tay ông ta túm lấy cổ cô. Cho đến khi cô bị nhấc bổng lên và bị ném phịch vào tường.
Ở khoảng cách thật gần, gương mặt nhạo báng của ông ta dường như nở rộng ra đến mức phi lý. Laila để ý thấy mặt ông ta đang trở nên húp híp hơn với dấu ấn của tuổi tác và trên mũi có nhiều nếp nhăn hơn. Rasheed không nói gì cả. Và thực ra có thể nói gì đây, cần phải nói gì đây khi người ta gí họng súng vào miệng vợ mình.
Chính những cuộc khám xét bất ngờ là lý do khiến họ phải ở trong sân để đào hố. Những cuộc khám xét đôi khi theo tháng, đôi khi theo tuần. Hoặc gần đây hầu như ngày nào cũng có. Thường thì Taliban tịch thu tài sản, đá đít người ta hoặc vụt một hai cái vào sau gáy. Nhưng đôi khi họ đánh đập hoặc quất vào lòng bàn tay, bàn chân một cách công khai.
“Nhẹ nhàng thôi,” Mariam nói, đầu gối bà quỳ sát miệng hố. Họ hạ cái ti vi xuống hố, mỗi người cầm một đầu tấm ni lông bọc cái ti vi.
“Thế là xong,” Mariam nói.
Họ đập đất cho bằng phẳng lại sau khi đã lấp cái hố. Họ tung một ít đất xung quanh để trông không có vẻ đáng nghi.
“Xong,” Mariam nói và phủi tay vào váy.
Họ đã đồng ý với nhau là khi tình hình trở nên an toàn hơn, khi Taliban giảm những cuộc đột kích bất ngờ, sau một tháng, hai tháng, sáu tháng, hoặc có thể lâu hơn nữa, họ sẽ đào để lấy ti vi lên.
Trong giấc mơ của Laila, cô và Mariam đang ở bên ngoài phía sau kho dụng cụ và lại đang đào. Nhưng lần này, họ đang chôn Aziza. Hơi thở của Aziza làm mờ tấm ni lông họ dùng để bọc con bé. Laila nhìn thấy đôi mắt hoảng sợ của con bé, bàn tay trắng nhợt của nó đang đập và ấn vào tấm ni lông. Aziza van xin. Laila không thể nghe thấy tiếng con bé la hét. Chỉ một lát thôi, cô nói vọng xuống, chỉ một lát thôi. Người ta đang khám xét, con biết không, con yêu? Khi cuộc khám xét kết thúc, mẹ và Khala Mariam sẽ đào con lên. Mẹ hứa đấy, con yêu. Rồi sau đó chúng ta sẽ cùng chơi. Chúng ta sẽ chơi thật thỏa thích. Cô lấy xẻng gạt đất. Thế rồi cô bừng tỉnh, không thở được, vẫn còn cảm thấy mùi đất trong miệng mình khi những xẻng đất đầu tiên chạm vào tấm ni lông.
41
Mariam
Mùa hè năm 2000, hạn hán tiếp tục kéo dài sang năm thứ ba và là năm tồi tệ nhất.
Ở Helmand, Zabol, Kandahar, dân từ các làng mạc lập thành các cộng đồng di cư, nay đây mai đó, họ luôn dịch chuyển để tìm kiếm những nơi có nước và các đồng cỏ xanh để chăn thả vật nuôi. Khi không tìm thấy được gì, khi dê, cừu và bò của họ đã chết, họ tới Kabul. Họ tới sườn đồi Kareh-Ariana, sống trong các khu ổ chuột tạm bợ, chen chúc trong các túp lều, mỗi lều từ mười lăm đến hai mươi người.
Đó cũng là mùa hè của phim Titanic, mùa hè mà Mariam và Aziza luôn quấn quýt bên nhau, vật nhau và cười khúc khích, Aziza khăng khăng nhận mình là Jack.
“Yên lặng nào, Aziza.”
“Hãy gọi con là Jack, Khala Mariam. Gọi đi. Jack!”
“Bố con sẽ nổi giận nếu con làm ông ấy tỉnh giấc.”
“Jack! Còn bác là Rose.”
Cuối cùng Mariam nằm ngửa, đầu hàng, lại đồng ý làm Rose. “Được rồi, con là Jack,” bà dịu giọng hơn. “Con chết trẻ, và ta sẽ sống đến già lụ khụ.”
“Đúng vậy, nhưng anh chết như một anh hùng,” Aziza nói, “trong khi đó, em, Rose ạ, em phải sống cả đời đau khổ nhớ thương anh.” Rồi nó đứng giạng chân qua ngực Mariam và tuyên bố, “Bây giờ thì chúng mình phải hôn nhau!” Mariam lắc đầu, còn Aziza thì rất phấn khích với hành động nổi loạn của mình, cười khúc khích một cách vui sướng.
Thỉnh thoảng Zalmai cũng tới xem trò chơi này. Nó hỏi xem nó có thể trở thành nhân vật gì.
“Em có thể là tảng băng,” Aziza trả lời.
Mùa hè năm ấy, cơn sốt phim Titanic lan rộng ở Kabul. Người ta lén lút mang những bản phim lậu từ Pakistan sang - đôi khi còn giấu trong đồ lót. Khi thời gian giới nghiêm đến, mọi người khóa cửa, tắt đèn, vặn nhỏ âm lượng và bắt đầu khóc thương cho Jack, Rose và những hành khách gặp nạn trên con tàu chìm đó. Nếu có điện, Mariam, Laila và lũ trẻ cũng xem. Rất nhiều lần, vào đêm khuya, họ đào cái ti vi từ phía sau nhà dụng cụ lên, tắt đèn đi và lấy chăn che lên các cửa sổ.
Trên sông Kabul, những người bán hàng rong đã chuyển xuống dựng hàng quán ở lòng sông nứt nẻ. Chẳng bao lâu, cứ đến đó là người ta có thể mua được những tấm thảm Titanic và quần áo Titanic trên những chiếc xe đẩy hàng nhỏ. Có cả chất khử mùi Titanic, kem đánh răng Titanic, nước hoa Titanic, pakorah* Titanic, thậm chí cả những chiếc burqa Titanic. Một người ăn xin đặc biệt cứ khăng khăng tự gọi mình là “Hành khất Titanic”.
Tên một loại bánh.
“Thành phố Titanic” ra đời.
Đấy là bài hát, họ nói.
Không, là biển cả. Là sự sang trọng. Là con tàu.
Đó là tình yêu, họ thì thầm.
Leo, Aziza bẽn lẽn nói. Tất cả là về Leo.
“Mọi người đều muốn Jack,” Laila nói với Mariam. “Đó là sự thật. Mọi người muốn Jack cứu họ khỏi thảm họa. Nhưng không thấy Jack đâu cả. Jack không quay lại. Jack đã chết.”
Rồi hè năm ấy, một thương nhân buôn vải đã ngủ quên không dập thuốc lá. Ông ta thoát khỏi đám cháy, nhưng cửa hàng của ông ta thì không. Ngọn lửa còn thiêu rụi cửa hàng vải bên cạnh, một cửa hàng quần áo cũ, một cửa hàng nội thất nhỏ và một tiệm bánh.
Sau đó, họ nói với Rasheed rằng nếu cơn gió thổi hướng Đông thay vì hướng Tây thì cửa hàng của ông ta ở góc đường có thể đã bình an vô sự.
Họ đã bán mọi thứ.
Đầu tiên là đồ đạc của Mariam, rồi sau đó là của Laila. Quần áo con nít của Aziza, một vài thứ đồ chơi mà Laila đã đòi Rasheed phải mua cho con bé. Aziza quan sát quá trình đó với cái nhìn thờ ơ. Đồng hồ của Rasheed cũng đã bị bán, rồi chiếc đài bán dẫn cũ, đôi cà vạt, giày và nhẫn cưới của ông ta cũng vậy. Giường, bàn, thảm và những chiếc ghế cũng đã bị bán. Zalmai lên cơn giận dỗi khi Rasheed bán luôn cái ti vi.
Sau đám cháy, Rasheed ở nhà hầu như cả ngày. Ông ta tát Aziza. Ông ta đánh Mariam. Ông ta ném hết các thứ đi. Ông ta moi móc các lỗi của Laila, từ mùi cơ thể cô, từ cách cô ăn mặc, cách cô chải tóc và cả những chiếc răng xỉn vàng của cô nữa.
“Chuyện gì xảy ra với cô vậy?” ông ta nói. “Tôi đã cưới một pari*, và bây giờ tôi đang phải chịu đựng một mụ phù thủy. Cô đang dần biến thành Mariam.”
Công chúa.
Rasheed bị đuổi việc khỏi quán thịt nướng gần quảng trường Haji Yaghoub vì ẩu đả với một khách hàng. Vị khách này phàn nàn rằng Rasheed đã quẳng cái bánh mì lên bàn ông ta một cách thô lỗ. Những lời khó nghe được thốt ra. Rasheed gọi vị khách hàng là đồ Uzbek mặt khỉ. Một khẩu súng được rút ra. Một cái xiên thịt cũng được chĩa ra để đáp lại. Theo tường thuật lại của Rasheed thì ông ta đã cầm cái xiên thịt. Mariam nghi ngờ điều đó.
Rasheed lại bị đuổi việc khỏi một cửa hàng khác ở Taimani vì khách hàng than vãn về việc phải chờ lâu, Rasheed biện minh rằng đó là do đầu bếp nhà hàng chậm chạp và lười biếng.
“Có lẽ ông đã ra đằng sau ngủ cũng nên,” Laila nói.
“Đừng có khiêu khích ông ấy, Laila thân mến,” Mariam nói.
“Tôi cảnh cáo cô, đồ đàn bà,” ông ta nói.
“Hoặc thế hoặc ông trốn đi hút thuốc.”
“Tôi thề có Thượng đế.”
“Ông thì mãi mãi cũng chẳng khác đi được.”
Vậy là ông ta lao vào Laila, đấm túi bụi vào ngực, vào đầu, vào bụng cô, giật tóc cô, quăng cô vào tường. Aziza la hét inh ỏi, kéo áo ông ta; Zalmai cũng gào thét, cố gắng kéo ông ta ra khỏi mẹ nó. Rasheed xô bọn trẻ sang một bên, đẩy Laila ngã xuống đất và bắt đầu đá cô. Mariam lao mình lên người Laila. Ông ta vẫn tiếp tục đá, bây giờ là đá Mariam, nước dãi bắn ra khỏi miệng, mắt hừng hực sát khí, và ông ta đá cho đến khi không còn đủ sức nữa.
“Tao thề là mày sẽ khiến tao phải giết mày, Laila ạ,” ông ta vừa nói vừa thở hổn hển. Sau đó ông ta lao ra khỏi nhà.
Khi tiền đã hết, cơn đói bắt đầu phủ tấm vải liệm lên cuộc đời của họ. Chính Mariam cũng cảm thấy sửng sốt khi xoa dịu cơn đói lại nhanh chóng trở thành vấn đề sống còn của họ đến như vậy.
Cơm trắng, không có thịt hay nước xốt, bây giờ cũng khó kiếm. Họ bỏ bữa một cách thường xuyên hơn và đến mức đáng báo động. Thỉnh thoảng Rasheed mang về nhà một ít cá mòi hộp và bánh mì khô có vị giống như mùn cưa. Đôi khi, ông ta ăn trộm cả những túi táo, bất chấp việc đó có thể khiến ông ta bị cưa tay. Ông ta cẩn thận móc trộm hộp bánh bao ở cửa hàng tạp hóa, đem về nhà và chia thành năm phần, Zalmai được phần nhiều nhất. Họ ăn củ cải sống rắc muối. Bữa tối có lá rau diếp héo úa và những quả chuối thâm.
Chết đói bỗng nhiên trở thành một nguy cơ hiển hiện. Một vài người đã chọn cách không đợi chờ nó. Mariam nghe nói một góa phụ ở gần nhà đã nghiền bánh mì khô, trộn thêm thuốc chuột và cho cả bảy đứa con bà ta ăn. Bà để dành phần nhiều nhất cho mình.
Xương sườn của Aziza bắt đầu trơ ra, hai má của con bé tóp lại. Bắp chân nó gầy rộc, da chuyển sang màu lá chè héo. Khi Mariam nhấc nó lên, bà có thể cảm nhận được xương hông của nó chọc qua làn da mỏng manh. Zalmai nằm vạ vật khắp nhà, mắt lờ đờ, lim dim, hoặc có khi nó nằm trong lòng bố, ủ rũ như một miếng giẻ rách. Nó cố ru mình vào giấc ngủ để lấy lại sức lực nhưng giấc ngủ của nó cứ chập chờn và rời rạc. Những đốm trắng cứ nhảy nhót trước mắt mỗi khi Mariam thức dậy. Đầu bà quay cuồng, tai lúc nào cũng ong ong. Bà nhớ điều mà Giáo sĩ Faizullah từng nói về cơn đói khi tháng Ramadan bắt đầu: Thậm chí một người bị rắn cắn cũng có thể ngủ được, nhưng người đói thì không.
“Các con của em sẽ chết,” Laila nói. “Ngay trước mắt em.”
“Không đâu,” Mariam đáp. “Chị sẽ không để chúng chết. Mọi việc rồi cũng sẽ ổn thôi, Laila ạ. Chị biết mình phải làm gì.”
Vào một ngày nóng như thiêu như đốt, Mariam mặc burqa vào và cùng Rasheed cuốc bộ tới khách sạn Intercontinental. Xe bus với họ giờ đây là một thứ quá xa xỉ và Mariam mệt nhoài khi họ lên tới đỉnh của sườn đồi dốc đứng. Lúc trèo lên sườn đồi, cô đột nhiên hoa mắt chóng mặt và hai lần cô phải dừng lại nghỉ, đợi cho nó qua đi.
Tại cửa khách sạn, Rasheed chào và ôm một trong mấy người giữ cửa, người mặc bộ quần áo màu vang đỏ và đội mũ lưỡi trai. Cuộc nói chuyện giữa họ có vẻ rất thân thiết. Rasheed nói, một tay đặt lên khuỷu tay của người giữ cửa. Ông ta hất đầu về phía Mariam và cả hai người liếc nhanh sang bà. Mariam thấy người giữ cửa có vẻ gì đó quen quen.
Khi ông ta đi vào trong, Mariam và Rasheed đợi bên ngoài. Từ vị trí thuận lợi này, Mariam có thể nhìn thấy Viện Kỹ thuật, xa hơn nữa là quận Khair Khana và con đường dẫn tới Mazar. Về phía Nam, cô có thể thấy nhà máy sản xuất bánh mì Silo từ lâu đã bị bỏ hoang, một màu vàng nhợt nhạt lỗ chỗ cùng với các lỗ thủng toác ra, hậu quả của những đợt nã pháo mà nơi đây phải gánh chịu. Xa hơn nữa về phía Nam, bà có thể nhìn thấy những phế tích của cung điện Darulaman, nơi mà nhiều năm trước Rasheed đã đưa bà đi dã ngoại. Ký ức về ngày ấy chỉ như là một di vật từ quá khứ, một di vật dường như không còn thuộc về bà nữa.
Mariam tập trung vào những thứ này, những địa điểm này. Bà sợ rằng mình có thể mất tinh thần nếu cứ để tâm trí đi lang thang.
Cứ vài phút lại có những chiếc xe jeep và xe taxi đến cửa khách sạn. Những người giữ cửa vội vàng chạy ra đón khách, tất cả đều là những người đàn ông có vũ trang, để râu, đội khăn xếp, người nào người nấy bước ra với một tác phong quả quyết như nhau, một không khí nặng nề bao phủ. Mariam nghe được một vài đoạn tán gẫu của họ khi họ đi ngang qua cửa khách sạn. Bà nghe thấy không chỉ tiếng Pashto và Farsi mà cả tiếng Urdu và Ả rập nữa.
“Hãy gặp những người chủ thực thụ của chúng ta,” Rasheed nói nhỏ. “Những người Hồi giáo Pakistan và Ả rập. Quân Taliban là những con rối. Những người này mới là người chơi chính và Afghanistan là sân chơi của họ.”
Rasheed nói ông ta nghe đồn rằng quân Taliban cho phép những người này lập các trại bí mật trên khắp đất nước, ở đó, thanh niên được huấn luyện để trở thành những người đánh bom cảm tử và các chiến binh tử vì đạo.
“Anh ta làm gì mà lâu vậy?” Mariam hồi.
Rasheed khạc nhổ một bãi nước bọt xuống đất.
Một giờ sau, Mariam và Rasheed đã vào bên trong khách sạn và đi theo người giữ cửa. Gót giày của họ nện lách cách xuống sàn lát đá hoa khi họ được dẫn qua hành lang mát lạnh. Mariam thấy hai người đàn ông cầm súng ngồi trên ghế da, giữa họ là một cái bàn uống cà phê, họ nhấp trà đen và ăn món jelabi rưới xi rô, những chiếc bánh tròn được rắc bột đường. Bà chợt nghĩ về Aziza, con bé rất thích ăn jelabi, và bà hướng cái nhìn của mình đi nơi khác.
Người gác cửa dẫn họ ra ngoài một ban công. Anh ta rút từ túi ra một chiếc điện thoại nhỏ không dây màu đen và một mảnh giấy nhỏ với một dãy số nguệch ngoạc trên đó. Anh ta bảo Rasheed đó là điện thoại của người quản lý của anh ta.
“Tôi cho anh năm phút,” anh ta nói. “Không hơn.”
“Tashakor,” Rasheed nói. “Tôi sẽ không quên ơn anh.” Người đàn ông gật đầu và bước đi. Rasheed quay số và đưa điện thoại cho Mariam.
Khi Mariam nghe tiếng chuông điện thoại kêu lạo xạo, tâm trí bà lại trôi vơ vẩn. Nó trôi về lần cuối bà gặp Jalil, mười ba năm trước, mùa xuân năm 1987. Ông đứng trên con đường ngoài nhà bà, chống gậy ba toong, bên cạnh chiếc xe Benz màu xanh với biển đăng ký Herat và có một đường sọc trắng chia đôi mái, mui và thân xe. Ông đứng đấy đợi bà hằng giờ, thỉnh thoảng gọi tên bà, giống như bà đã từng gọi tên ông từ bên ngoài nhà ông. Mariam mở hé hé rèm ra, chỉ một chút, và thoáng nhìn thấy ông. Chỉ là một cái nhìn lướt qua thôi nhưng cũng đủ để bà có thể thấy tóc ông đã hơi ngả bạc và lưng ông đã bắt đầu còng xuống. Ông đeo kính, đeo cà vạt đỏ như thường lệ, và vẫn có một chiếc khăn tay trắng gấp hình tam giác ở trên túi ngực. Điều khiến bà bị ấn tượng nhất là ông gầy hơn, gầy hơn rất nhiều so với những gì bà nhớ, chiếc áo khoác màu nâu đậm rũ qua vai, chiếc quần dài tới mắt cá chân.
Jalil cũng đã thấy bà, dù chỉ là thoáng qua. Ánh mắt của họ đã chạm nhau trong một khoảnh khắc ngắn ngủi qua một kẽ hở nhỏ của tấm rèm, cũng giống như lần họ thấy nhau nhiều năm trước qua khe hở của một tấm rèm khác. Nhưng sau đó Mariam đóng ngay cửa sổ lại. Bà ngồi lên giường, đợi ông bỏ đi.
Bây giờ bà lại nghĩ về bức thư mà Jalil đã để lại tại cửa nhà bà. Bà đã giữ nó dưới gối trong nhiều ngày, thi thoảng cầm nó lên, lật qua mặt này mặt kia, rồi cuối cùng xé nó đi mà không mở ra đọc.
Và bây giờ bà ở đây, sau chừng ấy năm, đang gọi cho ông.
Giờ đây Mariam nuối tiếc về sự kiêu hãnh bồng bột và ngu ngốc của mình. Bây giờ bà ước rằng bà đã để cho ông vào. Có hại gì đâu nếu bà cho ông vào, ngồi với ông, để cho ông nói những điều ông đến để nói? Ông là bố bà. Ông đã không phải là người bố tốt, điều đó đúng, nhưng giờ đây lỗi lầm của ông mới bình thường làm sao, mới đáng để tha thứ làm sao khi so sánh với sự độc ác của Rasheed, hay tính hung ác và tàn bạo mà bà thấy những người đàn ông đã đối xử với nhau.
Bà ước gì mình đã không xé bức thư của ông.
Một giọng đàn ông trầm trầm thông báo với bà rằng bà đang gọi tới văn phòng của thị trưởng Herat.
Mariam hắng giọng. “Salaam*, người anh em, tôi đang tìm một người sống ở Herat. Hoặc ông ấy đã sống ở đó nhiều năm trước. Ông ấy tên là Jalil Khan. Ông ấy sống ở Shar-e-Nau và sở hữu một rạp chiếu phim. Ông có thông tin gì về nơi ở của ông ấy không?”
Xin chào.
Có thể nghe thấy sự khó chịu trong giọng nói của người đàn ông. “Đây là lý do bà gọi điện đến văn phòng thị trưởng sao?”
Mariam nói bà không biết phải gọi điện cho ai nữa. “Hãy tha lỗi cho tôi, người anh em. Tôi biết ông có rất nhiều việc quan trọng phải quan tâm tới nhưng đây là vấn đề sống còn nên tôi mới gọi điện cho ông.”
“Tôi không biết ông ta là ai. Rạp chiếu bóng đó cũng đóng cửa nhiều năm rồi.”
“Liệu có ai đó có thể biết ông ấy không, ai đó...”
“Không có ai cả.”
Mariam nhắm mắt lại. “Làm ơn, người anh em. Có cả những đứa trẻ liên quan tới vấn đề này. Những đứa trẻ còn rất nhỏ.”
Có tiếng thở dài thườn thượt.
“Có thể có ai đó ở đó...”
“Có một người gác cổng ở đây. Tôi nghĩ ông ta đã ở đây từ khi còn bé.”
“Dạ vâng, làm ơn hãy hỏi ông ta.”
“Ngày mai hãy gọi lại.”
Mariam nói bà không thể. “Tôi chỉ được dùng chiếc điện thoại này trong vòng năm phút thôi. Tôi không...”
Có một tiếng cạch ở đầu dây bên kia và Mariam nghĩ ông ta đã gác máy. Nhưng bà có thể nghe rõ tiếng bước chân, những giọng nói, tiếng còi ô tô từ xa và những tiếng máy kêu rền bị ngắt quãng bởi những tiếng lách cách, có thể là một cái quạt điện. Bà chuyển ống nghe sang tai kia và nhắm mắt lại.
Bà hình dung ra hình ảnh Jalil mỉm cười, thò tay vào trong túi áo.
Ah. Tất nhiên rồi. Đây. Của con đây. Không giả bộ nữa...
Một mặt dây chuyền hình chiếc lá, những đồng tiền xu nhỏ xíu được khắc hình mặt trăng và các ngôi sao trên đó.
Đeo thử đi, Mariam thân yêu của bố.
Bố thấy thế nào?
Bố nghĩ con trông giống như một nữ hoàng.
Một vài phút trôi qua. Sau đó có tiếng bước chân, một âm thanh cót két và sau đó là một tiếng cạch. “Ông ta biết ông ấy đấy.”
“Ông ta biết ư?”
“Ông ta nói vậy.”
“Ông ta ở đâu?” Mariam nói. “Người đàn ông đó biết Jalil Khan ở đâu sao?”
Một khoảng lặng. “Ông ta nói ông ấy đã chết nhiều năm trước, năm 1987.”
Mariam lặng người. Tất nhiên bà đã nghĩ đến khả năng này. Jalil có lẽ bây giờ đã ngoài bảy mươi tuổi rồi, nhưng...
1987.
Hồi đó ông đã cận kề với cái chết. Ông đã lái xe cả chặng đường từ Herat để tới nói lời từ biệt.
Bà ra đứng sát thành ban công. Từ trên này bà có thể thấy cái bể bơi của khách sạn đã từng nổi tiếng một thời, bây giờ khô cạn và bẩn thiu, chỉ còn rải rác những hố đạn và những phiến đá vỡ nát. Còn có một cái sân tennis méo mó, tấm lưới rách tả tơi nằm vắt giữa sân trông giống như lớp da chết của một con rắn vừa lột xác.
“Bây giờ tôi phải đi đây,” giọng nói bên đầu dây kia vang lên.
“Tôi xin lỗi đã làm phiền ông,” Mariam nói, bà khóc không thành tiếng trong điện thoại. Bà thấy Jalil đang vẫy bà, ông nhảy từ hòn đá này sang hòn đá khác khi băng qua suối, túi ông căng phồng những quà. Lần nào cũng vậy, bà luôn nín thở chờ đợi ông và cầu xin Thượng đế cho bà nhiều thời gian được ở bên ông hơn. “Cám ơn,” Mariam cất tiếng nói, nhưng người đàn ông bên đầu dây kia đã gác máy.
Rasheed đang nhìn bà. Mariam lắc đầu.
“Thật mất công vô ích,” ông ta nói và giật mạnh chiếc điện thoại từ tay bà. “Cha nào con nấy.”
Trên đường ra hành lang, Rasheed bước nhanh về phía chiếc bàn cà phê giờ đã không còn ai ngồi và nhét vào túi miếng jelabi cuối cùng. Ông ta mang về nhà đưa cho Zalmai.
42
Laila
Aziza để những thứ này trong một cái túi giấy: áo sơ mi hoa và đôi bít tất duy nhất của mình, một đôi găng tay len cọc cạch, cái chăn màu bí ngô có hình các ngôi sao và sao chổi, một chiếc cốc nhựa đã bị nứt, một quả chuối, bộ xúc xắc của nó.
Đó là một buổi sáng lạnh lẽo tháng Tư năm 2001, vài ngày trước sinh nhật lần thứ hai mươi ba của Laila. Bầu trời màu xám đục, những cơn gió lạnh và ẩm ướt làm mành cửa rung sột soạt.
Đó là một vài ngày sau khi Laila nghe tin Ahmad Shah Massoud đã tới Pháp và nói chuyện với Nghị viện châu Âu. Massoud giờ đang ở miền Bắc, quê hương ông, và lãnh đạo Liên minh Phương Bắc, nhóm duy nhất còn chống lại Taliban. Ở châu Âu, Massoud đã cảnh báo phương Tây về những trại khủng bố ở Afghanistan và xin viện trợ của Mỹ để chống lại Taliban.
“Nếu tổng thống Bush không giúp đỡ chúng tôi,” ông ta nói, “thì một ngày không xa, những kẻ khủng bố này cũng sẽ phá hoại Mỹ và châu Âu.”
Laila được biết rằng một tháng trước đó, quân Taliban đã đặt thuốc nổ TNT vào các khe của những bức tượng Phật khống lồ ở Bamiyan và cho nổ tung chúng, gọi đó là các vật biểu tượng cho sự sùng bái và tội lỗi. Sự phản đối lan rộng trên toàn thế giới, từ Mỹ tới Trung Quốc. Các chính phủ, các nhà lịch sử và các nhà khảo cổ trên toàn cầu đã viết thư cầu xin Taliban đừng phá hủy hai tạo tác lịch sử lớn nhất của Afghanistan. Nhưng quân Taliban vẫn không dừng lại và đặt thuốc nổ vào bên trong những bức tượng Phật hai nghìn năm tuổi. Họ hô Allah-u-akbar mỗi khi một quả mìn nổ và hò reo mỗi khi những bức tượng mất đi một tay hay một chân trong đám bụi mù mịt. Laila nhớ đã từng đứng trên đỉnh của bức tượng Phật lớn hơn trong số hai bức tượng này với Babi và Tariq năm 1987, một làn gió thổi nhẹ lên khuôn mặt ngập tràn ánh nắng của họ, và họ ngắm nhìn một con chim ưng đang liệng tròn quanh thung lũng trải dài phía dưới. Nhưng khi Laila nghe tin những bước tượng bị phá hủy, cô trở nên vô cảm. Đó dường như không phải là vấn đề nữa. Làm sao cô còn có thể quan tâm về những bức tượng trong khi cuộc sống của chính cô cũng đang vỡ vụn?
Cho tới khi Rasheed nói với cô rằng đã đến lúc phải đi thì Laila vẫn ngồi ở góc sàn phòng khách, không nói năng gì và khuôn mặt của cô dường như hóa đá, tóc cô xõa xuống mặt từng lọn rối tung. Và dù có hít vào thở ra liên tục thì cô vẫn cảm thấy không có đủ không khí để thở.
Trên đường tới Karteh-Seh, Rasheed bế Zalmai trên tay, Aziza nắm tay Mariam và bước nhanh bên cạnh bà. Một cơn gió nhẹ thổi tung chiếc khăn cáu bẩn quàng dưới cằm Aziza và làm vạt váy nó dập dềnh. Giờ đây, càng đi Aziza càng trở nên buồn hơn, như thể cứ thêm mỗi bước đi, nó lại càng nhận thức rõ ràng hơn rằng mình dang bị lừa dối. Laila không có đủ can đảm để nói với Aziza sự thật. Cô đã nói với nó rằng nó sẽ được tới trường học, một ngôi trường đặc biệt, nơi học sinh được ăn, ngủ và không phải về nhà sau giờ học. Bây giờ thì Aziza bắt đầu dồn dập hỏi Laila những câu hỏi giống như những câu mà nó đã hỏi trong nhiều ngày qua. Học sinh có ngủ tại các phòng riêng biệt không hay tất cả đều ngủ chung ở một phòng lớn? Nó có thể kết bạn không? Và cô, Laila, có chắc rằng các giáo viên ở đấy sẽ tử tế không?
Và, hơn một lần con bé hỏi, Con sẽ phải ở đó trong bao lâu?
Họ dừng lại ở tòa nhà xây theo kiểu doanh trại thấp lùn, cách đó hai khu nhà.
“Zalmai và tôi sẽ đứng đợi ở đây,” Rasheed nói. “À, suýt nữa thì bố quên mất...”
Ông ta rút từ trong túi ra một phong kẹo gôm, một món quà chia tay và đưa cho Aziza với vẻ hào hiệp nhưng cứng nhắc. Aziza cầm lấy và khẽ cám ơn. Laila ngạc nhiên trước tấm lòng khoan dung, trước sự bao dung độ lượng của Aziza và nước mắt cô giàn giụa. Trái tim cô như bị siết chặt và cô muốn ngất đi vì đau đớn khi nghĩ đến cảnh chiều nay về Aziza sẽ không nằm ngủ bên cạnh cô, rằng cô sẽ không còn được cảm nhận thấy cánh tay cô bé đặt trên ngực cô, đầu của Aziza rúc vào ngực cô, hơi thở của Aziza ấm áp gần cổ cô, hay gót chân của Aziza chọc vào bụng cô.
Khi Aziza được dẫn đi, Zalmai bắt đầu khóc thét lên và nó gọi Ziza! Ziza! Nó giãy giụa và đá đá cánh tay bố nó, đòi được gặp chị cho tới khi sự chú ý của nó chuyển sang con khỉ của người chơi đàn oóc gan rong bên kia đường.
Ba người bọn họ, Mariam, Laila và Aziza bước qua hai khu nhà cuối cùng. Khi họ đến tòa nhà, Laila có thể thấy những mảng sơn bong ra loang lổ, thấy mái ngói võng xuống, những tấm ván đóng chéo vào khung cửa sổ đã bị mất cánh, đỉnh của một cái xích đu thì được bắc ngang qua một bức tường đổ nát.
Họ dừng lại trước cửa và Laila nhắc lại những điều cô đã từng dặn Aziza lúc trước.
“Nếu người ta hỏi về bố con thì con sẽ nói gì?”
“Bọn Chiến binh Hồi giáo đã giết ông,” Aziza trả lời một cách thận trọng.
“Tốt lắm. Aziza, con có hiểu không?”
“Bói vì đây là một ngôi trường đặc biệt,” Aziza trả lời. Bây giờ, khi họ đã đến đây và tòa nhà đã ở ngay trước mắt, con bé trông run rẩy. Môi dưới của nó rung lẩy bẩy và nước mắt chỉ chực trào ra, Laila thấy nó đã phải cố gắng một cách khó khăn thế nào để tỏ ra dũng cảm. “Nếu chúng ta nói sự thật thì họ sẽ không nhận con. Đây là một ngôi trường đặc biệt. Con muốn về nhà.” Aziza nói, giọng nhỏ nhẹ không ra hơi.
“Mẹ sẽ đến thăm con thường xuyên,” Laila cố gắng nói. “Mẹ hứa.”
“Ta cũng vậy,” Mariam nói. “Ta cũng sẽ tới thăm con, Aziza bé bỏng, và chúng ta sẽ chơi cùng nhau, giông như mọi khi. Chỉ một thời gian thôi, cho tới khi bố con tìm được việc làm.”
“Ở đây họ có thức ăn,” Laila nói giọng run run. Cô mừng vì có chiếc burqa, mừng vì Aziza không thể thấy đằng sau đó toàn thân cô đang rã rời. “Ở đây con sẽ không bị đói. Họ có cơm, bánh mì và nước uống, và có khi cả hoa quả nữa.”
“Nhưng mẹ sẽ không ở đây. Cả Khala Mariam cũng sẽ không ở đây với con.”
“Mẹ sẽ tới thăm con,” Laila nói. “Thường xuyên. Nhìn mẹ đây, Aziza. Mẹ sẽ tới thăm con. Mẹ là mẹ của con. Nếu mẹ có phải chết, mẹ cũng vẫn sẽ tới với con.”
Giám đốc trại mồ côi là một người đàn ông gù, ngực hẹp, khuôn mặt dễ mến. Ông bị hói, có bộ râu rậm và đôi mắt trông như hai hạt đậu. Tên ông là Zaman. Ông đội một chiếc mũ chỏm. Mắt kính bên trái bị nứt.
Trong khi dẫn họ tới phòng làm việc của mình, ông hỏi tên Laila và Mariam, tên và tuổi của Aziza. Họ đi qua dãy hành lang mờ mờ, nơi những đứa trẻ chân trần vừa bước tránh sang một bên vừa dõi mắt nhìn theo họ. Đứa thì xõa tóc, đứa thì cạo đầu. Chúng mặc những chiếc áo len sờn tay, quần bò rách rưới, chỗ đầu gối sờn chỉ còn trơ sợi vải còn những chiếc áo khoác thì được vá bằng băng dính. Laila ngửi thấy mùi xà bông, bột thơm tan, mùi amoniac và mùi nước tiểu, cô cũng cảm thấy sự e sợ đang dâng lên trong Aziza, con bé bắt đầu khóc thút thít.
Laila liếc qua cái sân: cỏ dại um tùm, chiếc xích đu lung lay, những cái lốp cũ nát, một quả bóng rổ đã xẹp hơi. Mấy gian phòng họ đi qua đều tồi tàn xơ xác, cánh cửa sổ được che bởi những tấm nhựa. Một cậu bé lao tới từ một trong những gian phòng đó túm lấy khuỷu tay của Laila và cố trèo lên tay cô. Một người phục vụ đang lau vũng nước trông như nước tiểu, đặt giẻ lau sàn xuống và lôi thằng bé ra.
Zaman dường như rất hòa nhã với đám trẻ mồ côi. Ông xoa đầu và nói vài lời thân mật với chúng khi đi ngang qua, không một chút ngại ngần. Chúng rất thích khi ông làm vậy. Bọn trẻ tất cả đều nhìn ông, Laila nghĩ chúng mong ông để ý tới mình.
Ông chỉ cho họ vào văn phòng, gian phòng chỉ vỏn vẹn có ba cái ghế gấp và một chiếc bàn với hàng đống giấy tờ bề bộn ở trên.
“Bà tới từ Herat,” Zaman nói với Mariam. “Tôi biết điều đó qua giọng nói của bà.”
Ông ngả người ra sau ghế, khoanh tay trước bụng và nói ông có một người em vợ đã từng sống ở đó. Laila nhận thấy sự nặng nề trong từng cử động rất bình thường của ông. Và mặc dù ông thoáng cười một cách uể oải nhưng Laila có thể cảm nhận được sự phiền muộn và tổn thương sâu thẳm trong ông, sự thất vọng và thất bại được che đậy bằng bề ngoài vui vẻ.
“Cậu ấy là thợ làm thủy tinh,” Zaman nói. “Cậu ấy đã tạo ra những con thiên nga đẹp tuyệt màu ngọc bích này. Khi ra ánh nắng chúng sáng lấp lánh như thể bên trong là những viên châu báu nhỏ li ti. Bà đã quay về đó chưa?”
Mariam trả lời rằng chưa.
“Tôi thì từ Kandahar tới. Bà đã từng tới Kandahar chưa, hamshira? Chưa à? Ở đấy tuyệt lắm. Những khu vườn! Những chùm nho! Ôi những chùm nho ngon đến mê mẩn.”
Mấy đứa trẻ tụ tập trước cửa lén nhìn vào trong phòng. Zaman nhẹ nhàng suỵt đuổi chúng bằng tiếng Pashto.
“Tất nhiên tôi cũng rất yêu Herat. Thành phố của những nghệ sĩ và nhà văn, những vị Sufi và những điều thần bí. Chắc bà cũng biết câu nói đùa rằng ở Herat, hễ duỗi chân ra là thế nào người ta cũng đạp phải mông của một nhà thơ.”
Bên cạnh Laila, Aziza đang sụt sịt.
Zaman vờ há hốc miệng. “À, ta vừa làm cháu cười rồi đấy, hamshira bé nhỏ. Đây luôn là phần khó khăn. Bác hơi lo một chút. Bác đang nghĩ mình phải giả tiếng gà con hay tiếng bẹ be của con lừa để làm cháu vui. Cháu thật đáng yêu.”
Ông gọi người phục vụ vào trông Aziza một lát. Aziza liền lao vào lòng Mariam và bám chặt lấy bà.
“Con yêu, mẹ chỉ nói chuyện với bác một lúc thôi,” Laila nói. “Mẹ vẫn ở đây. Được không nào? Mẹ ở ngay đây mà.”
“Sao chúng ta không ra ngoài một chút, Aziza yêu quý?” Mariam đề nghị. “Mẹ con cần nói chuyện với bác Zaman ở đây. Chỉ một phút thôi. Nào, đi nào.”
Khi chỉ còn hai người với nhau, Zaman hỏi cô về ngày sinh của Aziza, lịch sử bệnh lý, có dị ứng với thuốc và thức ăn hay không. Ông hỏi về bố của Aziza và Laila cảm thấy một cảm giác kỳ lạ khi phải trình bày một lời tưởng như dối trá nhưng trên thực tế lại là sự thật. Zaman lắng nghe, vẻ mặt ông chẳng biểu lộ dấu hiệu tin tưởng hay hoài nghi. Ông nói mình điều hành trại trẻ mồ côi này trên nguyên tắc danh dự. Nếu một hamshira nói rằng chồng cô ta đã qua đời và cô ta không thể chăm sóc bọn trẻ, ông sẽ không nghi ngờ điều đó.
Laila bật khóc.
Zaman đặt bút xuống.
“Tôi thật xấu hổ,” Laila thốt lên một cách đau đớn, lấy tay che miệng.
“Nhìn tôi đây, hamshira.”
“Tôi là loại mẹ gì mà lại bỏ rơi con mình thế này?”
“Nhìn tôi đi.”
Laila ngước lên.
“Đó không phải lỗi của cô. Cô có nghe tôi nói không? Không phải. Chính những con người độc ác kia, những wahshi kia, mới đáng bị lên án. Họ làm cho một người Pashtun như tôi đây phải cảm thấy hổ thẹn. Họ bôi nhọ thanh danh dân tộc tôi. Không chỉ riêng cô, hamshira à. Hằng ngày, hằng giờ, chúng tôi đều gặp những bà mẹ như cô tới đây, những người không thể nuôi con mình vì Taliban không cho họ ra ngoài kiếm sống. Thế nên, đừng tự đổ lỗi cho bản thân. Không ai ở đây đổ lỗi cho cô. Tôi hiểu.” Ông ngả về phía trước. “Hamshira à. Tôi hiểu mà.”
Laila lau nước mắt bằng chiếc burqa.
“Còn nơi này,” Zaman thở dài, khoát cánh tay ra hiệu, “cô đã thấy nó kinh khủng đến mức nào rồi. Chúng tôi luôn trong tình trạng không đủ kinh phí, luôn phải nhặt nhạnh từng đồng và tùy cơ ứng biến. Chúng tôi được hỗ trợ rất ít hoặc chẳng có gì từ Taliban. Nhưng chúng tôi tự xoay xở được. Cũng như cô, chúng tôi làm những gì phải làm. Đức Allah nhân từ, chừng nào ngài còn ban phước thì Aziza sẽ có thức ăn và áo mặc. Đó là những gì tôi có thể hứa với cô.”
Laila gật đầu.
“Thế có được không?”
Ông cười trìu mến. “Đừng khóc, hamshira, đừng để con cô thấy cô khóc.”
Laila lại lau nước mắt. “Cầu xin Thượng đế ban phước lành cho ông,” cô cố gắng nói. “Cầu xin Thượng đế ban phúc cho ông, người anh em.”
Thế nhưng, đến lúc chia tay, cảnh tượng diễn ra đúng như những gì Laila đã lo sợ.
Aziza hốt hoảng.
Suốt dọc đường về nhà, vịn vào người Mariam, Laila vẫn còn nghe thấy tiếng Aziza khóc. Trong đầu cô vẫn còn hiển hiện hình ảnh bàn tay thô ráp, chai sạn của Zaman đặt trên cánh tay Aziza, ban đầu ông kéo cô bé một cách nhẹ nhàng, rồi mạnh dần, sau đó như thể dùng vũ lực để tách Aziza khỏi cô. Cô thấy Aziza đá vào cánh tay Zaman, nghe thấy tiếng con bé thét lên như thể mẹ nó sắp biến mất khỏi mặt đất. Laila thấy mình đang lao ra hành lang, đầu cúi gằm xuống và tiếng gào thét dâng lên trong cổ họng.
“Em vẫn thấy mùi của con bé,” cô nói với Mariam. Cô liếc mắt một cách vô định qua vai Mariam, nhìn qua khoảng sân, những bức tường, tới những rặng núi nhuốm màu nâu như nước bọt của những người hút thuốc. “Em ngửi thấy cả mùi của nó khi đang ngủ. Chị có cảm thấy thế không?”
“Ôi, Laila thân mến,” Mariam nói. “Đừng như thế nữa. Như thế thì được ích gì chứ. Ích gì chứ?”
Ban đầu, Rasheed chiều lòng Laila và đi cùng với họ - cô, Mariam và Zalmai - tới trại mồ côi, mặc dầu trên đường đi ông ta cố làm cho mắt cô lúc nào cũng phải thấy vẻ khổ sở của ông ta, tai cô phải nghe thấy những lời rỗng tuếch về sự khó nhọc mà vì cô ông ta phải chịu đựng, về những cơn đau ở chân, lưng và bàn chân khi ông ta phải đi tới trại trẻ mồ côi. Ông ta cố làm cho cô thấy ông ta đang ở trong tình trạng tệ hại đến thế nào.
“Tôi không còn trai trẻ nữa,” ông ta nói. “Cô cũng chả quan tâm đâu. Cô sẽ đạp tôi xuống đất nếu như cô có một lối thoát. Nhưng cô sẽ không có đâu, Laila. Cô chả có lối thoát nào hết.”
Họ chia ra hai ngả khi còn hai khối phố nữa thì tới trại trẻ mồ côi, và ông ta không bao giờ cho họ quá mười lăm phút. “Muộn một phút,” ông ta nói, “là tôi sẽ đi. Nói trước đấy.”
Laila van vỉ ông ta để kéo dài thêm từng phút với Aziza. Cả cô và Mariam đều rất buồn khi vắng Aziza, dù vậy, Mariam luôn chọn cách chịu đựng một mình, riêng tư và thầm kín. Còn Zalmai, ngày nào nó cũng hỏi về Aziza, sự cáu giận của nó đôi khi biến thành những trận khóc không tài nào dỗ được.
Nhiều lúc, trên đường tới trại trẻ mồ côi, Rasheed dừng lại và phàn nàn về đôi chân đau nhức của mình. Rồi ông ta quay lại và lê những bước chậm rãi về nhà, trông không khác gì một lão què. Khi khác, ông ta lại làu bàu, “Ôi, phổi của tôi, Laila. Khó thở quá. Có thể ngày mai hay ngày kia mới thấy khá hơn được. Thế đấy.” Ông ta không hề ngại giả vờ buông ra một tiếng thở dài dễ khiến người khác nổi điên. Thông thường, ông ta cứ thế mà quay về, vừa đi vừa châm thuốc hút. Laila buộc phải lẽo đẽo theo ông ta về nhà trong sự bất lực, oán giận đến run người.
Rồi một ngày, ông ta nói với Laila rằng ông ta không thể đi cùng cô thêm nữa. “Tôi đã quá mệt vì phải đi bộ tìm việc hằng ngày,” ông ta nói.
“Vậy tôi sẽ đi một mình,” Laila nói. “Ông không ngăn tôi được đâu, Rasheed à. Ông nghe tôi nói không? Ông có thể đánh tôi nếu ông muốn nhưng tôi vẫn phải tiếp tục thôi.”
“Làm như cô muốn đi. Nhưng cô không thể qua mắt Taliban được đâu. Đừng nói là tôi không cảnh báo trước đấy.”
“Tôi sẽ đi với cô,” Mariam nói.
Laila không chấp nhận. “Chị phải ở nhà với Zalmai. Nếu chúng ta bị chặn lại... Em không muốn thằng bé phải thấy điều đó.”
Vậy là đột nhiên cuộc sống của Laila chỉ còn luẩn quẩn với việc tìm cách đến thăm Aziza. Đến một nửa số lần, cô không thể tới được trại trẻ mồ côi. Khi băng qua phố, cô lại bị Taliban phát hiện và tra hỏi bằng những câu như: Tên cô là gì? Đang đi đâu? Tại sao đi một mình? Người thân của cô đâu? rồi mới được tha cho về nhà. Nếu may mắn thì chỉ bị chửi bới mắng mỏ, đá đít một cái. Có lúc thì ăn dùi cui gỗ, cành cây còn tươi, roi da, ăn tát và thường xuyên bị đấm.
Một ngày nọ, một tên Taliban trẻ tuổi đánh Laila bằng một cái ăng ten radio. Sau đó, hắn tung một đòn chí mạng vào gáy cô và nói, “lần sau gặp mày, tao sẽ đánh mày sống dở chết dở.”
Lần đó, Laila về nhà. Cô nằm sấp xuống giường, cảm thấy mình như một con vật ngu xuẩn đáng thương, cô rít lên khi Mariam chườm vải ướt lên lưng và bắp đùi đầy máu. Nhưng thông thường, Laila không chịu khuất phục. Cô làm như thể là đang đi về nhà, rồi lại xuống phố bằng đường khác. Đôi khi cô cũng bị bắt quả tang, tra hỏi, quát nạt hai, ba thậm chí bốn lần trong một ngày. Khi thì roi da, khi thì dùng ăng ten quất và cô lê từng bước chậm chạp về nhà, người be bét máu, chẳng làm được gì ngoài liếc nhìn Aziza một cái. Dần dần, để đề phòng những trận đòn, kể cả khi trời nóng cô vẫn mặc hai, ba cái áo len dưới lớp áo burqa.
Nhưng với Laila, phần thưởng cô giành được nếu như có thể qua mặt được Taliban thật xứng đáng. Cô có thể dành bao nhiêu thời gian cũng được - thậm chí hằng giờ - để ở bên Aziza. Họ ngồi trong sân, bên cái xích đu, giữa bọn trẻ và những bà mẹ đến thăm, nói chuyện về những gì Aziza đã học được trong tuần đó.
Aziza nói Kaka Zaman dạy chúng hằng ngày, chủ yếu là học đọc và viết, đôi khi học về địa lý, một chút về lịch sử hay khoa học, có khi là về động thực vật.
“Nhưng chúng con phải bí mật,” Aziza nói, “để Taliban không biết.” Kaka Zaman chuẩn bị kim đan và những cuộn len để đề phòng trường hợp Taliban khám xét. “Chúng con sẽ giấu sách đi và vờ như đang đan áo.”
Một ngày nọ, trong lúc thăm Aziza, Laila thấy một người đàn bà trung niên, chiếc burqa bị xô về phía sau, đi cùng với ba cậu con trai và một cô gái. Laila nhận ra gương mặt sắc sảo, đôi lông mày rậm, cái miệng hóp và mái tóc hoa râm. Cô còn nhớ chiếc khăn choàng, chiếc váy đen, cái giọng cộc lốc và mái tóc buộc lởm chởm đằng sau gáy. Cô nhớ người đàn bà này đã từng cấm sinh viên nữ che mạng, đã từng nói phụ nữ và nam giới là bình đẳng, và không có lý do gì để người phụ nữ phải che mặt nếu như đàn ông không làm thế.
Có một lúc, Khala Rangmaal ngước nhìn lên và bắt gặp ánh mắt của Laila, nhưng Laila không thấy trong đôi mắt cô giáo cũ của mình một thoáng ngập ngừng nào, không thấy dấu hiệu nào chứng tỏ bà đã nhận ra cô.
“Có những vết nứt trên bề mặt vỏ trái đất,” Aziza nói. “Người ta gọi đó là sự đứt gãy.”
Đó là một buổi chiều thứ Sáu ấm áp của tháng Sáu năm 2001. Họ đang ngồi tại sân sau của trại trẻ mồ côi, bốn người gồm Laila, Zalmai, Mariam và Aziza. Thời gian này Rasheed trở nên dễ tính hơn - đúng là một điều bất thường - và đi cùng họ đến trại trẻ. Ông ta đang đứng trên phố, cạnh bến xe bus.
Những đứa trẻ chân trần chạy láo nháo xung quanh họ. Chúng chạy đuổi nhau, thở hổn hển quanh một quả bóng xịt hơi.
“Và tại hai bên rìa các vết đứt gãy là những lớp đất đá tạo nên vỏ trái đất,” Aziza nói tiếp.
Ai đó đã vén tóc Aziza về phía sau, bện và kẹp gọn gàng trên đỉnh đầu. Laila ghen tị vì ai đó đã ngồi sau con gái cô, bện những lọn tóc này lên lọn tóc kia, và yêu cầu con bé ngồi yên lặng.
Aziza đang say sưa minh họa bằng cách dang rộng hai cánh tay, ngửa lòng bàn tay lên rồi xoa chúng vào nhau. Zalmai quan sát chị nó với vẻ thích thú say mê.
“Đĩa Kectonic, có phải người ta gọi thế không?”
“Tectonic,” Laila nói. Cô thấy đau mỗi khi nói. Miệng, lưng, cổ cô vẫn còn đau nhức. Môi cô sưng vù, lưỡi chạm phải cái lợi rỗng của chiếc răng cửa dưới mà Rasheed đấm bay trong trận đòn hai hôm trước. Trước khi Mammy và Babi qua đời và cuộc sống của cô bị đảo ngược hoàn toàn, Laila không thể tin nổi sức chịu đựng và hồi phục của cơ thể con người có thể lớn đến vậy trước những đòn roi khắc nghiệt một cách thường xuyên như thế.
“Đúng vậy. Và khi những mảng lục địa đó gặp nhau, chúng tựa vào và trượt lên nhau. Mammy thấy chưa? Chính điều đó sẽ sản sinh ra năng lượng lan truyền trên bề mặt trái đất và tạo ra những chấn động.”
“Con ngày càng thông minh đấy,” Mariam nói. “Thông minh hơn nhiều so với bà khala khờ này của cháu.”
Nghe vậy, mặt Aziza sáng lên. “Bác đâu có khờ, Khala Mariam. Kaka Zaman nói rằng, đôi khi sự dịch chuyển sâu xuống dưới của những lớp đá trượt tạo ra những đợt phóng năng lượng cực lớn nhưng những gì chúng ta cảm nhận được chỉ là các chấn động nhỏ.”
Trong lần đến thăm trước là bài học về nguyên tử o xy trong bầu khí quyển làm tán xạ ra những tia sáng xanh từ ánh mặt trời. Nếu trái đất không có bầu khí quyển, Aziza nói, thì sẽ thật khó thở, bầu trời này không có màu xanh và biển chỉ là một màu đen như mực, còn mặt trời như một vì sao sáng khổng lồ trên bầu trời tối đen.
“Hôm nay Aziza có về với mình không?” Zalmai hỏi.
“Sớm thôi, con yêu,” Laila nói. “Sớm thôi.”
Laila nhìn thằng bé tha thẩn bước đi, dáng cúi khom về phía trước, các ngón chân xoay vào trong y như bố nó. Nó bước tới chỗ xích đu, đẩy cái ghế trống, rồi cuối cùng ngồi trên tấm bê tông có cỏ mọc lên từ các vết nứt.
Nước bay hơi từ lá, Mammy biết không? Như cách chúng ta hong đồ cho khô ấy. Nước được chuyển từ lòng đất qua rễ cây, lên thân cây qua cành rồi đến lá. Đó gọi là sự thoát hơi nước của cây.
Hơn một lần, Laila tự hỏi không biết Taliban sẽ làm gì khi phát hiện ra những bài học bí mật của Kaka Zaman.
Trong những lần mọi người đến thăm trại trẻ, Aziza không cho phép sự im lặng chen vào nhiều. Con bé tận dụng thời gian tối đa bằng những bài diễn thuyết hăng say, với chất giọng cao và lảnh lót. Nó nói những thứ không ăn nhập với chủ đề, khoa chân múa tay như chim với vẻ bối rối chẳng giống nó chút nào. Ngay cả điệu cười của Aziza cũng khác. Không hẳn là cười mà như một sự kết thúc đầy lo lắng, Laila ngờ rằng đó là cách để nó trấn an mọi người.
Và còn những thay đổi khác nữa. Laila nhận ra lớp đất cáu bẩn dưới móng tay của Aziza, và ngay khi nhận ra mẹ nó đang để ý, con bé bèn giấu hai bàn tay bẩn của mình xuống dưới đùi. Mỗi khi xung quanh họ có một đứa trẻ kêu khóc, mũi dãi chảy ròng ròng, hoặc khi có một đứa nào đó đi chân đất, đầu tóc bẩn thỉu, mí mắt của Aziza lại giật giật và nó nhanh nhảu giải thích. Những lúc ấy, con bé cư xử giống như một bà chủ nhà bối rối trước mặt khách vì sự thiếu ngăn nắp của nhà cửa và sự luộm thuộm của những đứa con.
Khi mọi người hỏi nó đã xoay xở như thế nào khi ở đây thì nhận được ngay câu trả lời vui vẻ nhưng mơ hồ.
Ổn cả, Khala, con ổn mà.
Bọn trẻ con có gây chuyện với con không?
Không Mammy à. Các bạn rất tốt.
Con ăn được chứ? Ngủ ngon không?
Ăn ngủ đều tốt ạ. Thật mà. Tối qua có món thịt cừu. Tuân trước cũng thế.
Nghe Aziza nói như thế, Laila thấy rõ ảnh hưởng của Mariam trong con bé.
Aziza nói lắp. Mariam để ý thấy ngay. Điều đó thoáng qua nhưng cũng dễ nhận ra, nhất là với những từ bắt đầu bởi chữ t. Laila hỏi Zalmai có thấy thế không. Thằng bé cau mày nghĩ rồi nói, “Con nghĩ là chị ấy đã luôn nói như thế.”
Chiều thứ Sáu đó, họ đưa Aziza ra ngoài chơi một lúc và đến gặp Rasheed, lúc ấy đang chờ tại bến xe bus. Khi Zalmai phát hiện ra bố mình, thằng bé thốt lên và lách khỏi tay Laila. Aziza chào Rasheed một cách lạnh lùng nhưng không thù địch.
Rasheed nói họ nên nhanh lên, hai giờ nữa là ông ta phải quay lại làm việc rồi. Đây là tuần đầu tiên ông ta làm gác cửa tại khách sạn Intercontinental. Từ trưa đến tám giờ tối, sáu ngày một tuần, công việc của Rasheed là mở cửa xe, mang vác hành lý và lau dọn chỗ bẩn. Đôi khi, đến cuối ngày, người đầu bếp ở nhà hàng buffet cho phép Rasheed mang thức ăn thừa về nhà, miễn là ông ta kín đáo một chút; những viên thịt viên chao dầu đã lạnh ngắt, cánh gà rán mà phần vỏ đã khô và cứng còng, mì ống nhồi sò đã dai ngoách và cơm có lẫn sỏi. Rasheed đã hứa với Laila rằng một khi ông ta để dành đủ tiền thì Aziza có thể về nhà.
Rasheed mặc đồng phục, bộ vest màu vang đỏ, áo trắng, kẹp cà vạt, mũ lưỡi trai che đi mái tóc đã bạc. Trong trang phục này, vẻ bề ngoài của Rasheed thay đổi hoàn toàn. Trông ông ta dễ mến và hầu như vô hại. Như thể một người không hề phải vật lộn với cuộc sống đầy ô nhục này. Một ai đó vừa đáng nể vừa đáng khinh trong cái vẻ ngoan ngoãn, dễ bảo ấy.
Năm người lên xe bus tới Thành phố Titanic. Họ đi bộ về phía lòng sông với những sạp bán quần áo tạm bợ mọc san sát nhau men theo bờ sông khô ráo. Khi họ đang đi xuống phía bên kia của cây cầu thì thấy gần đó, một người đàn ông chân trần đã chết đang lủng lẳng trên một cái cần cẩu, đôi tai anh ta bị cắt cụt và cái cổ gục xuống ở phía đầu sợi dây thừng. Dưới lòng sông, họ hòa vào dòng người đi chợ đang hối hả, những người đổi tiền, những người làm cho các tổ chức phi chính phủ với bộ dạng chán chường, những người bán thuốc lá dạo, những phụ nữ che mặt đang len lỏi và chìa đơn thuốc kháng sinh giả để xin tiền. Quân Taliban lăm lăm roi da trên tay, miệng nhai naswar, đi tuần trên phố Titanic, canh chừng những tiếng cười vô ý và những khuôn mặt bỏ mạng che.
Từ một sạp đồ chơi nằm giữa sạp bán áo choàng poostin và quầy bán hoa giả, Zalmai nhặt lấy một quả bóng rổ có xoắn vàng và xanh.
“Lấy thứ gì đó đi,” Rasheed bảo Aziza.
Aziza lúng túng từ chối.
“Nhanh lên. Một giờ nữa tao phải có mặt ở chỗ làm rồi.”
Aziza chọn một chiếc máy bán kẹo gôm - cho đồng xu vào máy để lấy kẹo, sau đó lấy tiền thừa từ cái cửa mở ở dưới đáy.
Lông mày Rasheed dựng lên khi nghe người bán hàng nói giá. Sau một hồi kỳ kèo, cuối cùng Rasheed gắt gỏng với Aziza, như thể cô bé mới là người đang mặc cả với ông ta vậy, “Trả lại đi, tao không có tiền mua cho cả hai đâu.”
Trên đường trở về, càng đến gần trại trẻ thì bộ dạng của Aziza càng như cái bánh đa nhúng nước, không còn hứng khởi nữa. Tay nó thôi không vẫy tung tăng nữa. Mặt nó xị xuống. Lần nào cũng như vậy. Bây giờ đến lượt Laila, với sự giúp đỡ của Mariam, cố gắng làm chủ cuộc nói chuyện, cô cười một cách căng thẳng và xua đuổi không khí buồn bã bằng những lời nói đùa vu vơ lấp chỗ trống.
Sau khi Rasheed để họ ở lại và bắt xe bus đi làm, Laila dõi mắt theo Aziza vẫy chào tạm biệt và lê bước dọc con đường ở khu sau của nhà trẻ mồ côi. Cô nghĩ về Aziza, về sự đứt gãy và những va chạm mạnh mẽ ở sâu trong lòng đất mà con bé nói, về chuyện đôi khi chúng ta chỉ cảm thấy những chấn động nhẹ trên mặt đất.
“Ông đi đi!” Zalmai gào lên.
“Im nào,” Mariam nói. “Cháu đang la ai vậy?”
Cậu bé chỉ tay. “Đấy. Người đàn ông đấy.”
Laila nhìn theo ngón tay của nó. Có một người đàn ông đang đứng dựa lưng vào cửa trước. Anh ta quay đầu lại khi thấy họ tiến đến. Anh ta thả hai cánh tay đang khoanh trước ngực xuống và tiến vài bước về phía họ.
Laila đứng khựng lại.
Một âm thanh nghẹn ngào phát ra từ cổ cô. Đầu gối cô chùng xuống. Laila đột nhiên thấy thực sự cần và muốn tìm đến cánh tay, bờ vai, cổ tay của Mariam hay bất cứ một thứ gì để cô có thể dựa vào. Nhưng cô không làm gì. Cô không dám. Không dám nhúc nhích dù chỉ là một cử động nhỏ. Cô không dám thở mạnh, cũng không dám chớp mắt, sợ rằng anh chỉ là một ảo ảnh lờ mờ từ đằng xa, một ảo giác mong manh có thể biến mất bất cứ lúc nào. Laila đứng bất động nhìn Tariq cho tới khi lồng ngực của cô hết sạch không khí để thở, đôi mắt cô khô nhức cần được chớp. Và thật kỳ diệu làm sao, sau khi cô đã thở, mắt đã chớp thì ảo ảnh đó vẫn không biến mất, anh vẫn đứng ở đấy.
Laila cho phép mình tiến một bước về phía anh. Một bước nữa. Một bước nữa. Và sau đó cô bắt đầu chạy.
43
Mariam
Trên lầu, trong phòng của Mariam, Zalmai đang gập người lại. Nó đập đập trái bóng rổ cao su mới của mình vòng quanh trên sàn nhà một lúc rồi đập vào tường. Mariam bảo nó dừng lại nhưng nó biết bà chẳng có quyền gì cả nên cứ tiếp tục nảy trái bóng, đôi mắt bướng bỉnh nhìn chằm chằm vào mắt bà. Được một lúc, hai người đẩy chiếc xe đồ chơi của nó, một chiếc xe cứu thương với dòng chữ in đậm màu đỏ bên hông xe, họ đẩy đi đẩy lại khắp phòng.
Trước đó, khi họ gặp Tariq ở cửa, Zalmai giữ chặt quả bóng trước ngực và đút ngón tay cái vào mồm, nó không hay làm thế trừ khi sợ hãi. Nó nhìn Tariq với vẻ nghi ngờ.
“Người đàn ông đó là ai?” nó nói. “Cháu không thích ông ấy.”
Mariam đang định giải thích rằng ông ta và mẹ Laila đã lớn lên cùng với nhau, nhưng Zalmai đã ngắt lời và đòi bà quay cái xe cứu thương lại để cho tấm lưới phía trước thẳng về phía nó, và khi bà làm xong, nó lại đòi quả bóng.
“Nó ở đâu?” thằng bé nói. “Quả bóng mà Baba mua cho cháu đâu? Nó đâu rồi? Cháu muốn nó! Cháu muốn nó!” nó cao giọng và bắt đầu rít lên từng chữ.
“Vừa mới ở đây mà,” Mariam nói và thằng bé khóc, “Không, nó mất rồi, cháu biết mà. Cháu biết là nó biến mất rồi! Nó ở đâu? Nó ở đâu?”
“Đây,” bà nói, đoạn khều quả bóng từ dưới gầm tủ ra, nó đã lăn vào đó. Nhưng Zalmai cứ hét toáng lên và đấm thùm thụp, kêu khóc rằng không phải quả bóng đó, không thể là bóng của nó được vì quả bóng đã mất rồi, còn kia là quả bóng giả, quả bóng thật của nó đâu rồi? Ở đâu? Ở đâu ở đâu ở đâu?
Nó hét lên cho đến khi Laila phải chạy lên cầu thang để giữ nó, lay nó và đưa tay vuốt mó tóc xoăn dày sậm màu của nó, lau khô hai má ướt đẫm của nó và tắc tắc lưỡi vào tai nó.
Mariam đợi ở bên ngoài. Từ đầu cầu thang, bà chỉ nhìn thấy đôi chân dài của Tariq, một cái thật, một cái giả, anh mặc quần kaki, bước từng bước dài trên sàn nhà phòng khách không được phủ thảm. Bất chợt bà hiểu ra tại sao người đàn ông gác cổng tại Continental vào cái ngày bà và Rasheed đến đó gọi điện cho Jalil lại trông có vẻ quen thế. Lúc đó, ông ta đội mũ và đeo kính râm, vì thế bà đã không nhận ra sớm hơn. Nhưng bây giờ Mariam đã nhớ ra, khoảng chín năm trước, chính ông ta ngồi ở dưới nhà, lấy khăn tay lau trán và hỏi xin một cốc nước. Giờ đây, đủ loại câu hỏi đang chen lấn trong đầu bà: Có phải những viên thuốc sulfa cũng là một phần của trò bịp đó? Ai đã dàn dựng cuộc nói dối, cung cấp các chi tiết có sức thuyết phục đó? Và Rasheed đã trả bao nhiêu cho Abdul Sharif - nếu đó là tên hắn thật - để hắn đến và nhồi nhét vào đầu Laila câu chuyện về cái chết của Tariq?
44
Laila
Tariq kể rằng một trong những người ở cùng xà lim với anh có một người anh họ bị đánh đòn trước đám đông vì tội vẽ chim hồng hạc. Anh ấy, người anh họ, có một thứ dường như là thứ bệnh vô phương cứu chữa trong mắt họ.
“Trọn một bộ ký họa,” Tariq nói. “Hàng tá bức tranh sơn dầu về chúng, đang lội qua đập nước, đang tắm nắng ở khu đầm lầy. Và cả bay vào hoàng hôn nữa, anh e là như vậy.”
“Những con hồng hạc,” Laila nói. Cô nhìn anh đang ngồi quay lưng lại với bức tường, cái chân lành lặn của anh khoanh lại. Cô khao khát dược chạm vào anh lần nữa, giống như cô đã làm lúc nãy ở cổng trước, khi cô chạy về phía anh. Bây giờ cô xấu hổ khi nhớ lại cảnh mình choàng tay qua cổ anh và gục vào ngực anh, cách cô gọi tên anh liên tục bằng cái giọng khàn đặc và líu ríu. Cô nghĩ không biết có phải cô đã phản ứng quá nồng nhiệt, quá liều lĩnh không? Có thể thế lắm chứ. Nhưng cô không thể nào cưỡng lại được. Và bây giờ cô muốn lao tới để chạm vào anh một lần nữa, để chứng minh với chính mình rằng anh đang thực sự ở đây, rằng anh không phải là giấc mơ, là ảo ảnh.
“Thật thế,” anh nói. “Những con hồng hạc.”
Tariq kể, khi quân Taliban tìm thấy những bức tranh, chúng bực mình với những cái chân dài để trần của mấy con chim. Sau khi trói chân người anh họ kia lại và quất roi vào lòng bàn chân anh ấy đến bật máu, chúng bắt anh ấy phải lựa chọn: hoặc phá hủy các bức tranh hoặc làm cho những con hồng hạc trở nên trang nhã hơn. Vì thế người anh họ kia nhặt bút lông lên và vẽ thêm quần cho những con chim còn lại.
“Thế nào thì em biết rồi đấy. Những con hồng hạc theo đạo Hồi,” Tariq nói.
Tiếng cười chực bật ra từ miệng Laila nhưng cô đã dằn nó lại. Cô xấu hổ về hàm răng ố vàng, về cái răng cửa bị mất của mình. Cô xấu hổ về vẻ ngoài tiều tụy với cặp môi sưng phồng của mình. Cô ước gì mình đã có cơ hội để rửa mặt hay ít nhất là chải lại mái tóc.
“Nhưng anh ấy, người anh họ kia mới là người chiến thắng,” Tariq nói tiếp. “Anh ấy vẽ những cái quằn bằng màu nước. Khi quân Taliban đi khỏi, anh ấy chỉ việc rửa chúng đi.” Anh cười - Laila nhận ra anh cũng bị mất một chiếc răng - và nhìn xuống tay mình. “Thật thế.”
Tariq đang đội một chiếc pakol trên đầu, đi đôi giày leo núi và mặc áo len màu đen phủ kín thắt lưng chiếc quần kaki. Anh nhếch miệng cười và gật gù chậm rãi. Laila không nhớ trước đây anh đã từng nói vậy chưa, cái từ thật thế và cử chỉ trầm ngâm này, các ngón tay đan vào nhau tạo thành hình túp lều trên vạt áo anh, điệu bộ gật gù, tất cả đều mới lạ quá. Đấy là ngôn từ của người lớn, cử chỉ của người lớn, ấy thế mà sao nó lại khiến Laila ngạc nhiên đến vậy? Vì anh bây giờ đã là một người trướng thành, Tariq ấy, một người đàn ông hai mươi lăm tuổi với cử động chậm rãi và nụ cười mệt mỏi. Cao, có râu, mảnh khảnh hơn hình dung của cô trong những giấc mơ về anh, nhưng đôi bàn tay của anh thì rắn chắc, đôi bàn tay của người lao động, với đầy các đường gân ngang dọc. Khuôn mặt anh vẫn xương xương và điển trai nhưng làn da không còn trắng trẻo nữa; trán anh hằn rõ vẻ từng trải, dãi nắng dầm mưa, giống như phần cổ, vầng trán của người lữ hành ở cuối chặng đường dài và mệt mỏi. Cái mũ pakol được kéo ra sau đầu và cô có thể nhìn thấy tóc anh đang bắt đầu rụng. Đôi mắt màu lục của anh giờ đây nhìn ảm đạm hơn so với cô nhớ, nhạt hơn, hoặc có lẽ chỉ do ánh sáng của căn phòng.
Laila nghĩ về mẹ Tariq, về cử chỉ khoan thai, nụ cười thông minh và mái tóc giả màu tía nhạt của bà. Và bố anh, với ánh nhìn từ đôi mắt bị lé, vẻ châm biếm hóm hỉnh của ông. Lúc nãy, ở ngoài cửa, với một giọng nghẹn ngào nước mắt, nấc lên từng tiếng, cô kể lại với Tariq về những gì cô nghĩ là đã xảy ra với anh cùng bố mẹ anh, và anh lắc đầu. Vì vậy, cô hỏi anh bây giờ họ, bố mẹ anh, như thế nào rồi. Nhưng cô hối hận vì đã hỏi như vậy khi Tariq nhìn xuống và nói với vẻ đờ đẫn, “Họ mất cả rồi.”
“Em rất tiếc.”
“Ừ. Thôi. Anh cũng thế. Đây.” Anh lấy ra từ trong túi một gói giấy nhỏ rồi đưa cho cô. “Quà của Alyona.” Bên trong là cục pho mát bọc giấy bóng.
“Alyona. Cái tên đẹp quá.” Laila cố gắng nói tiếp mà không bị vấp. “Vợ anh à?”
“Con dê của anh.” Anh cười với cô với vẻ mong đợi, như thể anh đang chờ cô lục lại một ký ức.
Laila chợt nhớ ra. Một bộ phim Xô Viết. Alyona là con gái của truyền trưởng, cô đem lòng yêu người thuyền phó. Đó là ngày mà cô, Tariq và Hasina nhìn thấy những chiếc xe tăng, xe jeep của Xô Viết rời khỏi Kabul, là ngày Tariq đội cái mũ lông thú Nga lố bịch đó.
“Anh phải cột nó vào cái cọc,” Tariq kể. “Và xây hàng rào. Nhằm ngăn bọn chó sói. Ở chân đồi chỗ anh ở, có khu rừng gần đấy, có lẽ cách một phần tư dặm, hầu hết là cây thông, vài cây linh sam và cây thông huyết. Chúng chủ yếu ở trong rừng, bọn chó sói ấy, nhưng một con dê kêu be be, có vẻ như đang đi lang thang, sẽ thu hút sự chú ý của chúng. Vì thế cần có hàng rào. Có cọc.”
Laila hỏi anh chân đồi nào.
“Pir Panjal. Pakistan,” anh nói. “Nơi anh sống gọi là Murree; nó là một nơi nghỉ dưỡng mùa hè, cách Islamabad một giờ. Ở đó nhiều đồi núi và xanh ngắt, nhiều cây, nằm trên cao so với mực nước biển. V1 thế vào mùa hè ở đây rất mát. Một địa điểm du lịch hoàn hảo.”
Tariq kể, người Anh đã xây dựng nó để làm khu nghỉ dưỡng trên đồi, gần cơ quan quân sự đầu não của họ ở Rawalpindi với mục đích giúp cho quân của Nữ hoàng Victoria tránh cái nóng. Ta cũng có thể tìm thấy những di tích của thời thực dân còn sót lại, phòng trà dành cho các dịp đặc biệt, nhà gỗ một tầng mái lợp tôn gọi là nhà mùa hè, những thứ kiểu như thế. Thị trấn nhỏ và dễ chịu. Con đường chính gọi là Mall, có bưu điện, chợ, một vài quán xá, cửa hàng bán những cái ly được sơn vẽ và mấy tấm thảm kết bằng tay bán cho khách du lịch với giá cắt cổ. Đáng chú ý nhất là giao thông một chiều của Mall, lưu thông về một hướng trong một tuần, và về hướng ngược lại vào tuần tiếp theo. “Người bản địa nói rằng giao thông của Ireland nhiều nơi cũng giống thế. Anh cũng không biết. Dù sao nó cũng rất tuyệt. Cuộc sống đơn giản nhưng anh thích thế. Anh thích sống ở đấy.”
“Với con dê của anh. Với Alyona.”
Laila không có ý châm chọc mà muốn đề cập đến một vấn đề sâu xa khác, đó là ở đấy anh có ai khác cùng ở, cùng chia sẻ nỗi lo lắng về việc bầy sói ăn mất con dê không. Nhưng Tariq chỉ tiếp tục gật gù.
“Anh cũng rất tiếc về chuyện của bố mẹ em,” anh nói.
“Anh đã nghe.”
“Lúc nãy anh có nói chuyện với mấy người hàng xóm,” anh kể. Một khoảng im lặng, Laila tự hỏi là những người hàng xóm kia có nói gì khác nữa không. “Anh không nhận ra ai cả. Ý anh là những người hồi xưa ấy.”
“Họ đã đi cả rồi. Chẳng còn ai anh quen cả.”
“Anh không nhận ra Kabul nữa.”
“Em cũng vậy,” Laila đáp. “Đấy là em còn chưa bao giờ ra khỏi đây đấy.”
“Mẹ có bạn mới,” Zalmai nói sau bữa tối ngày hôm đó, khi Tariq đã rời khỏi. “Một người đàn ông.”
Rasheed nhìn lên. “Cô ta dám, vào lúc này?”
Tariq hỏi anh có thể hút thuốc không.
Tariq vừa gạt tàn thuốc vào cái đĩa nhỏ vừa kể lại anh và bố mẹ đã sống một thời gian ở trại tị nạn Nasir Bagh gần Peshawar. Khi họ đến nơi, đã có khoảng sáu mươi nghìn người Afghanistan sống ở đó.
“Nó không đến nỗi tệ như các trại khác, chẳng hạn như Jalozai, tạ ơn Thượng đế,” anh nói. “Anh đoán về khía cạnh nào đó nó thậm chí còn được xem là một kiểu trại hiện đại, vào thời Chiến tranh lạnh ấy, một nơi mà phương Tây có thể chỉ vào để chứng minh với thế giới rằng họ không đồng lõa với cánh tay quyền lực của Afghanistan.”
Nhưng đó là từ thời chiến tranh Xô Viết rồi, Tariq tiếp tục, thời đại huy hoàng của cuộc Thánh chiến Hồi giáo, với sự quan tâm của toàn thế giới và những lần viếng thăm cùng các khoản cứu trợ hào phóng từ Margaret Thatcher.
“Em biết phần kết rồi đấy, Laila. Sau khi chiến tranh kết thúc, Xô Viết sụp đổ, phương Tây chiếm ưu thế. Afghanistan chẳng đem lại chút lợi lộc nào cho họ nữa và tiền tài trợ cạn dần. Bây giờ Nasir Bagh chỉ còn lại toàn lều bạt, bụi bặm và các cống lộ thiên. Khi gia đình anh đến đó, họ gí vào tay bọn anh một cây gậy, một tấm bạt và bảo bọn anh tự đi mà dựng lều cho mình.”
Tariq nói rằng điều anh nhớ nhất về Nasir Bagh, nơi họ đã sống trong một năm, là màu nâu. “Lều nâu. Người nâu. Chó nâu. Cháo cũng nâu nốt.”
Có một cái cây trụi lá mà anh hay leo hằng ngày, nơi anh ngồi ghếch chân trên một cành cây và nhìn những người tị nạn nằm phơi mình dưới ánh mặt trời, những đôi bàn chân, cẳng chân của họ hiện ra trần trụi. Anh nhìn những đứa bé trai gầy còm đang xách nước trong mấy cái thùng xăng, đang thu nhặt phân chó lại để đốt, đang dùng dao cùn đẽo những khẩu súng đồ chơi AK-47 bằng gỗ, đang kéo lê những túi bột mì mà chẳng ai có thể dùng làm bánh vì đã vón lại thành cục. Xung quanh khu trại tị nạn, gió thổi làm lều bay phần phật. Gió quăng quật các gốc cỏ dại bay khắp mọi nơi, nâng những con diều bay lên từ các mái lều trát bùn.
“Rất nhiều đứa trẻ đã chết. Bệnh lỵ, lao, đói khát - và nhiều thứ khác nữa. Hầu hết là vì cái bệnh lỵ chết tiệt đó. Lạy Thánh Allah, Laila. Anh đã nhìn thấy người ta chôn bao nhiêu đứa trẻ. Thực sự đó là điều khủng khiếp nhất mà người ta có thể chứng kiến.”
Anh vắt chéo hai chân. Sự im lặng lại bao trùm lấy họ trong một lúc.
“Bố anh đã không sống sót được qua mùa đông đầu tiên,” anh trầm ngâm. “Ông chết trong lúc đang ngủ. Anh không nghĩ là có chút gì đau đớn.”
Anh kể tiếp, cũng mùa đông năm ấy mẹ anh bị viêm phổi và ở trong tình trạng thập tử nhất sinh, bà hẳn đã không sống nổi nếu không có vị bác sĩ ở khu trại, người đã biến một chiếc ô tô thành phòng khám di động. Bà thức suốt đêm, sốt, ho và khạc ra đờm sền sệt màu gỉ sắt. Người ta xếp hàng dài để được bác sĩ khám bệnh. Mọi người trong hàng đều run rẩy, rên rỉ, ho, có vài người còn bị đi ngoài và phân chảy xuống chân họ, những người khác thì quá mệt, quá đói hay quá yếu đến mức không thể nói được thành tiếng.
“Nhưng ông ấy rất tử tế, ông bác sĩ ấy. Ông ấy chữa bệnh cho mẹ anh, cho bà thuốc và cứu sống bà qua được mùa đông năm ấy.”
Cũng mùa đông năm ấy, Tariq đã dồn một thằng bé vào góc tường.
“Thằng bé mười hai, hay mười ba tuổi gì đó,” anh nói đều đều. “Anh cầm mảnh gương vỡ, gí vào cổ họng nó và giật tấm chăn từ tay nó. Anh đưa chăn cho mẹ.”
Tariq nói rằng sau trận ốm đó của mẹ, anh đã thề với mình rằng họ sẽ không phải trải qua bất cứ mùa đông nào ở trại tị nạn nữa. Anh sẽ đi làm, để dành tiền và chuyển mẹ đến một căn hộ ở Peshawar với nguồn nước nóng sạch. Khi mùa xuân đến, anh bắt đầu tìm việc. Mỗi ngày, một chiếc xe tải đến khu trại từ sáng sớm và lấy khoảng vài chục thanh thiếu niên, đưa họ đến công trường để chuyển đá hay đến các vườn cây ăn quả để thu hoạch táo, công là ít tiền lẻ, đôi khi là cái chăn, đôi giày. Nhưng họ không bao giờ muốn nhận anh, Tariq kể.
“Chỉ cần nhìn thấy chân anh là họ không nhận nữa.”
Cũng có những công việc khác. Đào mương, xây các khu nhà tạm bợ, xách nước, xúc phân từ nhà xí. Nhưng những thanh niên lành lặn khỏe mạnh đã giành hết mấy công việc đó và Tariq không bao giờ có cơ hội.
Rồi một ngày mùa thu năm 1999, anh gặp một người chủ cửa hàng.
“Ông ta trả tiền cho anh để anh mang một chiếc áo khoác da đến Lahore. Không nhiều lắm nhưng cũng đủ, đủ cho một tháng hay có lẽ hai tháng tiền thuê nhà.”
Ông ta đưa cho anh một vé xe bus và địa chỉ của một góc phố gần nhà ga Lahore, nơi anh phải đưa chiếc áo khoác cho một người bạn của ông ta.
“Anh đã biết. Tất nhiên anh biết,” Tariq khẳng định. “Ông ấy nói nếu như bị bắt, anh phải khai anh làm một mình, rằng anh nên nhớ ông ta biết nơi mẹ anh đang ở. Nhưng số tiền quá hấp dẫn để có thể từ bỏ. Mà mùa đông lại đang đến.”
“Anh cầm nó được bao xa?” Laila hỏi.
“Không xa lắm,” anh cười nói, nghe có vẻ hơi hối hận, xấu hổ. “Anh thậm chí còn chưa lên xe bus. Nhưng anh cứ nghĩ là anh sẽ thoát, em biết đấy, an toàn. Cho dù ở một số chỗ vẫn có người kiểm tra sổ sách, một gã nhét cây bút chì sau tai cứ theo dõi những thứ như thế và kiểm tra các thứ, thế nào gã cũng sẽ nhìn xuống và nói, ‘Được, được, cậu ta được mang cái này, cho qua đi. Cậu ta đã trả các khoản thuế cho thứ này.’”
Cần sa được nhét giữa các đường may nối, nó tràn ra khắp đường khi cảnh sát lấy dao rạch vào cái áo khoác.
Nói đến đây, Tariq lại cười, một cái cười run bần bật, và Laila nhớ anh đã cười như thế khi họ còn nhỏ, để che giấu sự bối rối, để biện hộ cho những việc điên rồ hay đáng hổ thẹn mà anh đã làm.
“Ông ta đi khập khiễng,” Zalmai nói.
“Có phải là cái gã mà tôi đang nghĩ tới không?”
“Cậu ta chỉ viếng thăm thôi,” Mariam phân trần.
“Cô, im ngay,” Rasheed gắt gỏng cắt ngang, chĩa ngón tay. Lão ta quay sang Laila. “Vậy, cô biết gì nào? Laili và Majnoon tái hợp hả. Giống như ngày xưa chứ gì.” Mặt lão ta trở nên lạnh lùng. “Thế là cô đã để hắn vào nhà. Ở đây. Trong nhà tôi. Cô để hắn bước vào. Hắn ở đây với con trai tôi.”
“Ông đã lừa tôi. Ông đã nói dối tôi,” Laila nói, nghiến răng rin rít. “Ông thuê người đàn ông đó tới ngồi đối diện với tôi và... Ông biết là tôi sẽ bỏ đi nếu tôi nghĩ anh ấy vẫn còn sống.”
“CÒN CÔ THÌ KHÔNG NÓI Dối TÔI CHẮC?” Rasheed rống lên. “Cô nghĩ tôi không đoán ra được à? Về đứa harami của cô! Cô coi tôi là thằng ngu à, đồ đĩ thõa?”
Tariq càng kể, Laila càng thấy sợ cái thời khắc mà anh sẽ kết thúc câu chuyện. Sự yên lặng khi ấy sẽ bao trùm, dấu hiệu đó có nghĩa rằng đến lượt cô giải thích tại sao, như thế nào và bao giờ, để xác nhận những thứ mà chắc chắn anh đã biết. Cứ khi nào anh ngừng nói là cô lại cảm thấy hơi buồn nôn, chóng mặt. Cô tránh ánh mắt của anh. Cô nhìn xuống bàn tay anh, nhìn những đám lông cứng sẫm màu đã xuất hiện trên mu bàn tay trong những năm cô không gặp anh.
Tariq không nói nhiều về những năm tháng trong tù, chỉ nói những thứ đại loại như anh đã học nói tiếng Urdu ở đó. Khi Laila hỏi, anh lắc đầu một cách nôn nóng. Từ cử chỉ này, Laila nhìn thấy các song sắt gỉ sét và những thân người không tắm gội, những người đàn ông hung bạo và những gian phòng chật chội, đông nghẹt, trần nhà mốc meo rêu mọc. Cô đọc được trên khuôn mặt anh những suy nghĩ về một nơi mà nhân phẩm bị hạ thấp, một nơi của sự hèn hạ và tuyệt vọng.
Tariq nói mẹ anh đã cố gắng đến thăm anh sau khi anh bị bắt.
“Bà đến ba lần. Nhưng anh không được gặp bà lần nào cả,” anh kể.
Anh viết cho bà một lá thư, và sau đó vài bức nữa, dù vậy anh không chắc bà có nhận được hay không.
“Và anh cũng viết thư cho em nữa.”
“Thật anh viết cho em à?”
“Ừ, hàng tập thư,” anh nói. “Ông bạn Rumi* của em cũng phải ghen tị với khả năng viết lách của anh đấy.” Rồi anh lại cười, lần này sảng khoái hơn, mặc dù anh chợt giật mình về sự bạo gan của mình và thấy ngượng vì những gì mình vừa tiết lộ.
Một nhà thơ Afghanistan mà Laila yêu thích.
Zalmai bắt đầu kêu ầm trên lầu.
“Rồi giống như ngày xưa chứ gì,” Rasheed nói. “Cả hai người. Tôi đoán là cô cho hắn nhìn thấy mặt rồi đúng không.”
“Mẹ đã làm thế,” Zalmai nhanh nhảu. Sau đó nó quay sang Laila, “Mẹ đã làm thế mà. Con đã thấy mẹ làm thế.”
“Con trai em không thích anh cho lắm thì phải,” Tariq nói khi Laila trở xuống cầu thang.
“Em xin lỗi,” cô nói. “Không phải như thế đâu. Nó chỉ... Thôi đừng bận tâm về nó.” Sau đó cô vội chuyển chủ đề vì cảm thấy tội lỗi và day dứt với Zalmai, nó chỉ là đứa bé, một đứa bé rất yêu bố nó, mà bố nó lại là người có ác cảm sẵn với người lạ thì thái độ đó của nó cũng dễ hiểu và chính đáng thôi.
Và anh đã viết thư cho em.
Hàng tập.
Hàng tập thư.
“Anh ở Murree bao lâu rồi?”
“Chưa tới một năm,” Tariq trả lời.
Anh kết bạn với một người đàn ông lớn tuổi hơn ở trong tù, tên là Salim, một người Pakistan, trước đây từng là vận động viên hockey sân cỏ, vốn phải vào tù ra tội nhiều năm rồi và lúc đó đang phải chịu án mười năm tù vì đã đâm một cảnh sát chìm. Nhà tù nào cũng có người như Salim, Tariq nói. Luôn luôn có một người nào đó rất khôn ngoan và quen biết rộng, nắm được hệ thống và tìm cho ta những thứ ta cần, người luôn được bao quanh bởi cả cơ hội và hiểm nguy. Chính Salim đã nhờ bên ngoài hỏi thăm tin tức về mẹ của Tariq, chính Salim đã ngồi xuống bên cạnh anh và thông báo với anh bằng giọng nhẹ nhàng và hiền hậu rằng mẹ anh đã chết vì phải dầm dãi nắng mưa.
Tariq trải qua bảy năm ở nhà tù Pakistan. “Anh vượt qua cũng dễ dàng,” anh kể. “Anh rất may mắn. Vị chủ tọa phiên tòa xét xử anh hóa ra lại có một người anh kết hôn với một phụ nữ Afghanistan. Có lẽ thế nên ông ta tỏ vẻ khoan dung. Anh cũng không biết nữa.”
Khi Tariq mãn hạn tù vào đầu mùa đông năm 2000, Salim đưa cho anh địa chỉ và số điện thoại của anh trai ông. Người này tên là Sayeed.
“Ông ấy nói Sayeed là chủ một khách sạn nhỏ ở Murree,” Tariq nói. “Nó có hai mươi phòng và một phòng khách, một chỗ nhỏ để phục vụ khách du lịch. Ông ấy bảo anh cứ nói là ông ấy giới thiệu anh đến.”
Tariq thích Murree ngay khi mới vừa đặt chân xuống xe bus: những cây thông phủ đầy tuyết; không khí lạnh và khô; những ngôi nhà gỗ nhỏ làm từ ván khuôn, khói cuồn cuộn từ các ống khói.
Trong lúc gõ cửa nhà Sayeed, Tariq đã nghĩ nơi này không chỉ tách biệt hẳn với sự bất hạnh mà bất kỳ ai đến đây cũng trút bỏ được nỗi gian khổ và buồn đau bằng cách này hay cách khác, không thể tin được.
“Anh tự nhủ, đây là nơi để một người có thể bắt đầu lại từ đầu.”
Tariq được thuê làm người quét dọn và lo các công việc lặt vặt. Trong một tháng thử việc anh đã làm rất tốt, được trả một nửa tiền công và Sayeed đã chính thức nhận anh. Qua lời Tariq kể, Laila hình dung ra Sayeed, cô tưởng tượng ông có khuôn mặt hồng hào và đôi mắt ti hí, đang đứng ở cửa sổ phòng lễ tân theo dõi Tariq chẻ củi và xúc tuyết ra khỏi lối đi. Cô mường tượng cảnh ông khom người xuống chân Tariq và quan sát khi Tariq đang nằm dưới bồn rửa mặt để sửa đường ống nước bị rò rỉ. Cô hình dung cảnh ông đang kiểm tra sổ sách để xem có khoản tiền nào bị hụt hay không.
Túp lều sơ sài của Tariq được dựng bên cạnh cái chòi nhỏ của người đầu bếp. Người đầu bếp là một quả phụ già đáng kính tên là Adiba. Cả hai túp lều đều tách biệt khỏi khách sạn, được ngăn cách với tòa nhà chính bởi những cây hạnh rải rác, một cái ghế dài trong công viên, và một đài phun nước bằng đá có hình kim tự tháp, vào mùa hè, tiếng nước chảy róc rách suốt cả ngày. Laila hình dung ra Tariq trong túp lều của anh, nằm trên giường và nhìn cái thế giới bên ngoài phủ đầy lá cây qua khung cửa sổ.
Kết thúc giai đoạn thử việc, Sayeed nâng đủ lương cho Tariq và nói anh được ăn trưa miễn phí, cho anh một cái khoác len và lắp cho anh cái chân mới. Tariq kể anh đã òa khóc trước sự tốt bụng của ông.
Với tháng lương đầu tiên trong túi, Tariq đi đến thị trấn và mua Alyona.
“Bộ lông của nó trắng tinh,” Tariq nhó lại và cười. “Thỉnh thoảng vào buổi sáng, sau khi tuyết rơi cả đêm, khi nhìn ra cửa sổ ta chỉ thấy có đôi mắt và cái mõm của nó.”
Laila gật đầu. Lại một khoảng im lặng. Trên lầu, Zalmai lại bắt đầu nảy quả bóng vào tường.
“Em cứ nghĩ anh đã chết rồi,” Laila nói.
“Anh biết. Em nói với anh rồi mà.”
Giọng Laila vỡ òa. Cô phải đằng hắng và tự trấn tĩnh. “Một người đàn ông đến và thông báo tin về anh, ông ta quá tử tế... Em đã tin hắn, Tariq. Em ước gì mình đã không tin vào những điều đó, nhưng em đã tin. Và sau đó em cảm thấy cô đơn và sợ hãi. Nếu không, em đã không đồng ý cưới Rasheed. Em đã không...”
“Em không cần phải nói thế,” anh nói nhẹ nhàng, lảng tránh ánh mắt của cô. Trong cách anh nói không hề có sự trách móc, buộc tội. Không một lời đổ lỗi nào.
“Nhưng em phải nói. Bởi vì có một lý do khác lớn hơn khiến em phải lấy ông ta. Có một điều mà anh chưa biết, Tariq. Một người. Em phải nói với anh.”
“Con cũng ngồi đó và nói chuyện với hắn à?” Rasheed hỏi Zalmai.
Zalmai không nói gì cả. Laila nhìn thấy sự ấp úng và không nhất quyết trong mắt thằng bé, như thể nó chợt nhận ra là những gì nó vừa khai đã trở nên nghiêm trọng hơn nó nghĩ.
“Con trai, bố đang hỏi con đấy.”
Zalmai nuốt nước bọt. Nó nhìn hết chỗ này đến chỗ khác, “Con ở trên lầu, chơi với Mariam.”
“Thế còn mẹ con?”
Zalmai nhìn Laila đầy hối hận, nó như suýt khóc.
“Không sao đâu mà, Zalmai,” Laila nói. “Con cứ nói sự thật đi.”
“Mẹ... mẹ ở dưới nhà và nói chuyện với người đàn ông đó,” nó nói thều thào chẳng hơn gì tiếng thì thầm.
“Tôi hiểu rồi,” Rasheed nói. “Các người vào hùa với nhau.”
Tariq nói khi anh chuẩn bị đi, “Anh muốn gặp con bé. Anh muốn nhìn thấy nó.”
“Em sẽ sắp xếp,” Laila nói.
“Aziza, Aziza.” Anh cười, nhấm nháp từng chữ một. Bất cứ khi nào Rasheed thốt ra tên con gái cô, Laila đều cảm thấy một sự độc địa, gần như là thô tục. “Aziza. Cái tên thật đáng yêu.”
“Và con bé cũng thế. Rồi anh sẽ thấy.”
“Anh sẽ mong chờ từng phút.”
Đã gần mười năm trôi qua kể từ khi hai người gặp nhau lần cuối. Tất cả những lần họ gặp nhau trong cái ngõ hẻm, lén lút hôn nhau lại vụt qua tâm trí Laila. Cô tự hỏi bây giờ anh thấy cô như thế nào. Anh có còn thấy cô xinh đẹp không? Hay anh coi thường cô, khinh miệt cô, xem cô như một mụ đàn bà già xấu xí, đáng sợ và hay thay đổi? Gần mười năm rồi. Nhưng, trong phút chốc, khi cô đứng đó với Tariq trong ánh mặt trời, dường như bao nhiêu năm tháng ấy chưa từng có. Cái chết của bố mẹ cô, cuộc hôn nhân với Rasheed, những sự giết chóc, những loạt rocket, quân Taliban, những trận đòn, sự đói khát, thậm chí các con của cô, tất cả dường như chỉ là một giấc mơ, một con đường vòng kỳ dị, một khoảng lặng thời gian giữa buổi chiều hôm ấy và khoảnh khắc này.
Sau đó, Tariq thay đổi sắc mặt, anh trở nên nghiêm nghị. Cô hiểu biểu hiện này. Nó nhìn giống như khuôn mặt của anh vào ngày đó, khi họ còn là trẻ con, khi anh tháo chân giả của mình ra và đuổi đánh Khadim. Bây giờ anh với một tay chạm vào vành môi dưới của cô.
“Lão ta đã làm thế với em phải không?” anh hỏi một cách lạnh lùng.
Sự đụng chạm ấy làm Laila nhớ lại sự mê muội của buổi chiều hôm đó, khi họ đã cùng nhau tạo ra bé Aziza. Hơi thở của anh trên cổ cô, cơ hông của anh gập lại, ngực anh ép chặt xuống bầu ngục cô, tay họ đan xen vào nhau.
“Anh ước gì anh đã mang em theo,” Tariq gần nhu thì thầm.
Laila phải hạ ánh mắt xuống, cố gắng không khóc.
“Anh biết bây giờ em đã là người đàn bà có gia đình và là một bà mẹ. Vậy mà giờ anh lại ở đây, sau bao năm, sau tất cả những gì đã xảy ra, anh lại xuất hiện tại ngưỡng cửa nhà em. Có lẽ, như vậy thật không phải, không công bằng, nhưng anh đã đi một đoạn đường dài đến đây để gặp em, và... Ôi, Laila, anh ước gì anh chưa bao giờ bỏ em mà đi.”
“Đừng như thế,” cô thốt lên.
“Đáng lẽ anh nên cố gắng hơn. Anh nên cưới em khi anh có cơ hội. Như vậy thì mọi thứ đã khác đi rồi.”
“Đừng nói thế nữa. Em xin anh đấy. Đau xót lắm.”
Anh gật đầu, dợm bước về phía cô, rồi dừng lại. “Anh không muốn giả định một điều gì cả. Và anh không có ý định làm đảo lộn cuộc sống của em khi tự nhiên lù lù xuất hiện như thế này. Nếu em muốn anh ra đi, nếu em muốn anh trở lại Pakistan, hãy nói một lời thôi Laila. Anh sẽ làm vậy. Chỉ cần em bảo là anh sẽ đi. Anh sẽ không bao giờ làm phiền em nữa. Anh sẽ...”
“Không!” Laila nói, giọng sắc lạnh hơn dự định. Cô nhận ra rằng cô đang với lấy tay anh, đang níu chặt nó. Rồi cô buông tay ra. “Đừng đi, Tariq. Không. Hãy ở lại đây.”
Tariq gật đầu.
“Ông ta làm việc từ trưa đến tám giờ tối. Hãy quay lại vào chiều mai. Em sẽ dẫn anh đến chỗ Aziza.”
“Anh không sợ hắn ta, em biết mà.”
“Em biết. Hãy trở lại vào chiều mai.”
“Rồi sau đó?”
“Rồi sau đó... Em không biết nữa. Em phải nghĩ đã. Điều này thật...”
“Anh biết,” anh nói. “Anh hiểu mà. Anh xin lỗi. Anh xin lỗi về mọi chuyện.”
“Đừng như thế. Anh đã hứa là anh sẽ trở về. Và anh đã thực hiện.”
Mắt anh ngân ngấn nước. “Thật tốt biết bao khi được gặp lại em, Laila.”
Cô đứng yên, run rẩy nhìn anh bước đi. Cô nghĩ, hàng tập thư, và một cơn rùng mình khác lại chạy dọc người cô, có cái gì đó buồn bã và tuyệt vọng đang hiện hữu, nhưng cũng có gì đó háo hức, táo bạo và đầy hy vọng.
45
Mariam
Trên lầu, trong phòng của Mariam, Zalmai đang gập người lại. Nó đập đập trái bóng rổ cao su mới của mình vòng quanh trên sàn nhà một lúc rồi đập vào tường. Mariam bảo nó dừng lại nhưng nó biết bà chẳng có quyền gì cả nên cứ tiếp tục nảy trái bóng, đôi mắt bướng bỉnh nhìn chằm chằm vào mắt bà. Được một lúc, hai người đẩy chiếc xe đồ chơi của nó, một chiếc xe cứu thương với dòng chữ in đậm màu đỏ bên hông xe, họ đẩy đi đẩy lại khắp phòng.
Trước đó, khi họ gặp Tariq ở cửa, Zalmai giữ chặt quả bóng trước ngực và đút ngón tay cái vào mồm, nó không hay làm thế trừ khi sợ hãi. Nó nhìn Tariq với vẻ nghi ngờ.
“Người đàn ông đó là ai?” nó nói. “Cháu không thích ông ấy.”
Mariam đang định giải thích rằng ông ta và mẹ Laila đã lớn lên cùng với nhau, nhưng Zalmai đã ngắt lời và đòi bà quay cái xe cứu thương lại để cho tấm lưới phía trước thẳng về phía nó, và khi bà làm xong, nó lại đòi quả bóng.
“Nó ở đâu?” thằng bé nói. “Quả bóng mà Baba mua cho cháu đâu? Nó đâu rồi? Cháu muốn nó! Cháu muốn nó!” nó cao giọng và bắt đầu rít lên từng chữ.
“Vừa mới ở đây mà,” Mariam nói và thằng bé khóc, “Không, nó mất rồi, cháu biết mà. Cháu biết là nó biến mất rồi! Nó ở đâu? Nó ở đâu?”
“Đây,” bà nói, đoạn khều quả bóng từ dưới gầm tủ ra, nó đã lăn vào đó. Nhưng Zalmai cứ hét toáng lên và đấm thùm thụp, kêu khóc rằng không phải quả bóng đó, không thể là bóng của nó được vì quả bóng đã mất rồi, còn kia là quả bóng giả, quả bóng thật của nó đâu rồi? Ở đâu? Ở đâu ở đâu ở đâu?
Nó hét lên cho đến khi Laila phải chạy lên cầu thang để giữ nó, lay nó và đưa tay vuốt mó tóc xoăn dày sậm màu của nó, lau khô hai má ướt đẫm của nó và tắc tắc lưỡi vào tai nó.
Mariam đợi ở bên ngoài. Từ đầu cầu thang, bà chỉ nhìn thấy đôi chân dài của Tariq, một cái thật, một cái giả, anh mặc quần kaki, bước từng bước dài trên sàn nhà phòng khách không được phủ thảm. Bất chợt bà hiểu ra tại sao người đàn ông gác cổng tại Continental vào cái ngày bà và Rasheed đến đó gọi điện cho Jalil lại trông có vẻ quen thế. Lúc đó, ông ta đội mũ và đeo kính râm, vì thế bà đã không nhận ra sớm hơn. Nhưng bây giờ Mariam đã nhớ ra, khoảng chín năm trước, chính ông ta ngồi ở dưới nhà, lấy khăn tay lau trán và hỏi xin một cốc nước. Giờ đây, đủ loại câu hỏi đang chen lấn trong đầu bà: Có phải những viên thuốc sulfa cũng là một phần của trò bịp đó? Ai đã dàn dựng cuộc nói dối, cung cấp các chi tiết có sức thuyết phục đó? Và Rasheed đã trả bao nhiêu cho Abdul Sharif - nếu đó là tên hắn thật - để hắn đến và nhồi nhét vào đầu Laila câu chuyện về cái chết của Tariq?
46
Laila
Laila nhận ra khuôn mặt đang ở bên trên cô, cả hàm răng và mùi thuốc lá và đôi mắt báo trước rằng có chuyện chẳng lành. Cô cũng lờ mờ nhận ra sụ hiện diện của Mariam đằng sau khuôn mặt ấy, cánh tay bà đang buông thõng xuống. Bên trên họ là trần nhà, Laila bị hút vào cái trần nhà đó, những mảng đen mốc meo lan rộng ra như vết mục vấy trên áo, vết nứt trên tấm thạch cao nhìn giống như điệu cười lãnh đạm hay một cái chau mày, tùy thuộc việc nhìn từ hướng nào. Laila nhớ lại những lần cô buộc miếng giẻ rách vào đầu cây chổi và quét mạng nhện trên trần nhà. Cô và Mariam đã quét sơn trắng lên nó ba lần. Vết nứt bây giờ không còn là nụ cười nữa mà là một cái liếc mắt đểu cáng đầy chế giễu. Và nó lùi ra xa dần. Cái trần nhà đang co nhỏ lại, rồi bay bổng lên cao, xa dần khỏi cô và tới một nơi mơ hồ thăm thẳm. Nó cứ cao dần cho đến khi kích thước của nó chỉ bằng một con tem, trắng và sáng, mọi thứ xung quanh nó bị xóa sạch bởi bóng tối chớp lòa. Trong bóng tối, mặt của Rasheed giống như một vết đen ở mặt trời.
Trước mắt cô bây giờ đang lập lòe những đốm sáng nhỏ, giống như những ngôi sao bạc nổ tung. Những khối hình học kỳ lạ hình thành trong ánh sáng, hình con sâu, hình quả trứng, di chuyển lên xuống, nghiêng hẳn sang một bên, tan chảy vào nhau, vỡ ra, biến dạng thành một thứ khác, sau đó mờ dần, tan biến trong bóng đêm.
Những giọng nói bị bóp nghẹn và xa vời.
Đằng sau mí mắt cô, khuôn mặt của hai đứa con lại lóe lên rồi nhiễu loạn. Aziza, lanh lợi và sâu sắc, hiểu biết, hay giữ kẽ. Zalmai thì nhìn vào bố nó với sự háo hức đến run rẩy.
Rồi mọi chuyện sẽ kết thúc như vậy, Laila nghĩ. Một kết cục đáng tiếc.
Nhưng bóng tối bắt đầu tan đi. Cô có cảm giác như mình dang bay lượn, đang được nhấc bổng lên. Trần nhà chầm chậm quay lại, giãn ra, bây giờ Laila đã có thể nhìn thấy vết nứt và nó lại là nụ cười ngu ngốc như cũ.
Ai đó đang lay nhẹ cô. Em có ổn không? Trả lời chị đi, em có làm sao không? Laila thoáng thấy gương mặt của Mariam, hằn những vết trầy xước và đầy vẻ lo lắng.
Laila cố gắng thở. Cổ họng cô bỏng rát. Cô cố một hơi nữa. Lần này thậm chí còn rát hơn, không chỉ cổ họng mà cả lồng ngực nữa. Và sau đó cô ho, thở khò khè. Hổn hển. Nhưng đang thở. Cái tai còn nghe được của cô ù đi.
Thứ đầu tiên đập vào mắt cô khi cô ngồi dậy là Rasheed. Lão ta đang nằm ngửa, nhìn trừng trừng vào khoảng không vô định, miệng há hốc như miệng cá. Một chút nước bọt, màu hồng phai, chảy từ miệng lão ta xuống gò má. Trước quần của lão ta bị ướt. Cô nhìn trán lão.
Rồi cô nhìn thấy cái xẻng.
Một tiếng rên bật ra từ miệng cô. “Ôi,” cô nói, run rẩy và thều thào, “Ôi, Mariam.”
Laila bước từng bước, rên rỉ và đập hai tay vào nhau trong khi Mariam ngồi sát cạnh Rasheed, hai tay bà thu vào trong lòng, bình thản và bất động. Mariam không nói gì trong một lúc lâu.
Miệng Laila khô khốc và cô đang lắp bắp vài điều gì đó, toàn thân run bần bật. Cô không muốn nhìn vào Rasheed đang há hốc mồm, mắt trợn tròn, không muốn nhìn vào vũng máu đông lại ở chỗ lõm trên xương bả vai của lão.
Bên ngoài, ánh sáng nhạt dần, bóng tối đang bao trùm. Trong thứ ánh sáng ấy, gương mặt của Mariam nhìn gầy guộc và buồn rầu, nhưng dường như bà không bị kích động hay sợ hãi, bà chỉ lo lắng, đầy ưu tư, và tập trung đến nỗi khi một con ruồi đậu trên cằm, bà cũng không hề để ý. Bà chỉ ngồi đó với cái môi dưới bĩu ra, vẻ thường thấy ở bà mỗi khi bà đang mải mê suy nghĩ.
Cuối cùng, bà nói, “Ngồi xuống, Laila thân yêu.”
Laila ngoan ngoãn làm theo.
“Chúng ta phải chuyển lão đi. Không được cho Zalmai thấy cảnh này.”
Mariam lấy chìa khóa phòng ngủ trong túi áo của Rasheed trước khi họ dùng ga giường quấn lão lại. Laila nắm chân lão ta, phía dưới đầu gối, Mariam thì túm lấy cánh tay lão. Họ cố nhấc lão lên nhưng lão quá nặng, cuối cùng họ kéo lê lão. Khi họ kéo cái xác qua cửa trước và tiến vào sân, chân của Rasheed mắc vào khung cửa vẹo sang một bên. Họ phải lùi lại và cố lần nữa, rồi có cái gì đó đấm thình thịch trên lầu và chân Laila khuỵu xuống. Cô thả Rasheed ra. Cô sụp xuống đất, khóc nức nở và run rẩy. Mariam phải tiến lại chỗ cô, đặt tay lên hông cô và nói rằng cô phải cố gắng cùng với bà. Rằng việc gì xảy ra thì đã xảy ra rồi.
Sau một lúc, Laila đứng dậy và lau nước mắt, họ khiêng Rasheed ra đến sân mà không gặp sự cố nào nữa. Họ đưa lão đến kho dụng cụ. Họ đặt lão đằng sau bàn làm việc, trên đấy có cái cưa, những chiếc đinh, một cái đục, búa và một mảnh gỗ hình trụ mà Rasheed định đẽo thành cái gì đó cho Zalmai, nhưng lão không còn cơ hội để làm nữa.
Sau đó họ quay vào nhà. Mariam rửa sạch tay rồi vuốt lại tóc, hít một hơi thật sâu và thở ra. “Để chị băng vết thương cho em. Em bị trầy trụa hết rồi, Laila ạ.”
Mariam nói bà cần cả đêm để suy nghĩ về mọi chuyện. Để liên kết các ý nghĩ lại với nhau và vạch ra một kế hoạch.
“Phải có một cách,” bà nói, “và chị phải tìm ra nó.”
“Chúng ta phải rời khỏi đây! Chúng ta không thể ở đây được,” Laila nói bằng giọng đứt quãng, khàn khàn. Bất giác cô nghĩ về âm thanh mà cái xẻng tạo ra lúc nó đập vào đầu Rasheed, toàn thân cô giật nảy về phía trước. Nỗi sợ hãi dâng đầy trong ngực.
Mariam kiên nhẫn đợi cho đến khi Laila cảm thấy dễ chịu hơn. Sau đó bà để Laila nằm xuống và vuốt ve mái tóc cô trải trên vạt áo của bà. Bà nói cô đừng lo, mọi thứ sẽ ổn thôi. Bà nói họ sẽ bỏ đi - bà, Laila, bọn trẻ và cả Tariq nữa. Họ sẽ cùng nhau rời khỏi căn nhà này, khỏi cái thành phố đầy hằn thù này. Rời khỏi cả cái đất nước đáng thất vọng này nữa, Mariam vừa nói vừa luồn tay vào tóc Laila, để đi đến một nơi thật xa và an toàn, nơi mà không ai có thể tìm thấy họ, nơi mà họ có thể bỏ lại quá khứ và tìm được nơi ẩn náu.
“Nơi nào đó có cây,” bà nói. “Đúng. Thật nhiều cây.”
Rồi bà tiếp tục tưởng tượng, họ sẽ sống trong một ngôi nhà nhỏ ven thị trấn nào đó mà họ chưa bao giờ nghe nói đến, hay trong một ngôi làng xa xôi, nơi có con đường hẹp và chưa được trải đá, khuất sau những tán cây và bụi rậm. Có thể sẽ có một con đường mòn, một con đường mòn dẫn đến đồng cỏ, nơi bọn trẻ có thể vui đùa, hay có thể là con đường trải đá dẫn đến một cái hồ đầy cá hồi bơi lội và đám sậy thò trên mặt nước. Họ sẽ nuôi cừu và gà, họ sẽ cùng nhau làm bánh mì và dạy bọn trẻ đọc. Họ sẽ bắt đầu cuộc sống mới, cuộc sống ẩn dật và yên bình, ở đó những gánh nặng mà họ phải chịu đựng sẽ được trút bỏ, họ sẽ xứng đáng với niềm hạnh phúc trọn vẹn và thành công giản dị mà họ tìm thấy.
Laila thì thầm khích lệ. Cô thấy được đó sẽ là một cuộc sống đầy rẫy khó khăn, nhưng là những khó khăn đẫm niềm vui sướng mà họ có thể tự hào, sở hữu, nâng niu như vật gia bảo. Giọng nói nhẹ nhàng của Mariam lại vang lên, khiến cô thấy thoải mái. Bà nói, Có một cách, vào sáng mai, Mariam sẽ nói cho cô biết cần phải làm gì và họ sẽ làm như thế, và có thể giờ này ngày mai họ đã trên đường đến với cuộc sống mới, một cuộc sống phong phú với nhiều cơ hội, với niềm vui và những khó khăn đang chờ đón. Laila thấy biết ơn vì Mariam đang làm chủ tình thế, sáng suốt và bình tĩnh, bà có thể suy nghĩ suy thấu suốt cho cả hai. Tâm trí của cô bây giờ quá hoảng loạn, một mớ hỗn độn, rối bời.
Mariam đứng dậy. “Bây giờ em nên quay lên với con trai đi.” Laila chưa từng thấy gương mặt nào lại thể hiện sự mạnh mẽ đến nhường ấy.
Laila tìm thấy thằng bé trong bóng tối, co tròn trên tấm nệm, phía Rasheed vẫn nằm. Cô chui vào chăn, nằm bên cạnh cậu bé và kéo chăn đắp lên người cả hai.
“Con ngủ rồi à?”
Thằng bé nói mà không quay lại nhìn cô, “Con không ngủ được. Bố vẫn chưa đọc lời cầu nguyện Babaloo với con.”
“Chắc tối nay mẹ sẽ đọc với con.”
“Mẹ không thể đọc như bố được.”
Cô siết chặt bờ vai nhỏ bé của nó, hôn lên gáy nó. “Mẹ sẽ cố.”
“Bố đâu rồi?”
“Bố đã đi xa rồi,” Laila nói, cổ họng cô nghẹn lại.
Và đây là lần đầu tiên cô nói một lời dối trá tồi tệ, khủng khiếp như thế. Laila tự hỏi mình sẽ còn phải lặp lại những lời này thêm bao nhiêu lần nữa đây? Zalmai sẽ bị lừa dối thêm bao nhiêu lần nữa đây? Cô hình dung ra cảnh Zalmai vui mừng chạy ra đón Rasheed khi ông ta về nhà và Rasheed nhấc nó lên mà quay vòng vòng cho đến khi chân Zalmai bay lên cao, cả hai cười khúc khích khi Zalmai chệnh choạng như bị say rượu. Cô nghĩ về những trò chơi vui nhộn và tiếng cười huyên náo của họ, cái kiểu liếc mắt kín đáo với nhau của họ.
Sự hổ thẹn và nỗi đau buồn dành cho đứa con trai vây chặt lấy Laila.
“Bố đã đi đâu?”
“Mẹ không biết, con yêu.”
Khi nào Baba về? Baba có mang quà cho con khi trở về không?
Cô đọc lời cầu nguyện với Zalmai. Hai mươi mốt lần. Bismallah-e-rahman-erahim* - mỗi lần cho một đốt tay của bảy ngón tay. Cô nhìn thằng bé chụm hai bàn tay lại trước mặt và thối vào, sau đó đặt mu bàn tay lên trán và làm một cử động vứt đi, nó thì thầm, Babaloo, đi đi, đừng tìm đến Zalmai, thằng bé không có chuyện gì với ngươi cả. Babaloo, đi đi. Tiếp theo, để kết thúc, họ nói Allah-u-akbar ba lần. Và sau đó, rất lâu sau đó, Laila bị giật mình bởi giọng nói bị tắc lại: Có phải tại con mà Baba bỏ đi không? Tại những gì con đã nói, về mẹ và người đàn ông dưới lầu?
Nhân danh Allah, Người nhân từ nhất, Người khoan dung nhất.
Cô ngả người lên nó, định cam đoan lại lần nữa, định nói rằng Không phải tại con, Zalmai. Không. Không phải lỗi của con. Nhưng thằng bé đã thiếp đi, ngực nó đã phập phồng.
Khi Laila đi ngủ, đầu óc cô tê dại, mù mịt, không thể suy nghĩ liên tục nữa. Nhưng khi cô tỉnh dậy do tiếng gọi cầu nguyện buổi sáng, hầu như sự mù mờ đã biến mất.
Cô ngồi dậy và nhìn Zalmai ngủ một lúc, lòng bàn tay nó khum lại để dưới cằm. Laila mường tượng ra Mariam đã lén vào phòng vào giữa đêm, khi cô và Zalmai đã ngủ, nhìn họ và lên kế hoạch trong đầu.
Laila rời khỏi giường. Cô phải cố gắng để đứng vững. Toàn thân cô đau nhức, cổ, vai, lưng, cánh tay, bắp đùi, mọi vết cắt hằn sâu của cái khóa thắt lưng của Rasheed. Hơi nhăn mặt, cô lặng lẽ rời khỏi phòng ngủ.
Trong phòng Mariam, ánh sáng chỉ là một bóng xám đậm, kiểu ánh sáng thường khiến cho Laila liên tưởng tới những con gà trống đang gáy sáng và hạt sương lăn trên lá cỏ. Mariam đang ngồi ở góc phòng, trên tấm thảm cầu nguyện đối diện với cửa sổ. Laila chậm rãi hạ thấp người, ngồi xuống sàn nhà, trước mặt bà.
“Sáng nay em nên đi thăm Aziza,” Mariam nói.
“Em biết chị định làm gì.”
“Đừng đi bộ. Hãy đi xe bus, em sẽ trà trộn vào đấy. Đi taxi dễ gây chú ý lắm. Chắc chắn em sẽ bị chặn lại nếu đi một mình.”
“Những gì chị hứa tối qua...”
Laila không thể nói dứt câu. Những hàng cây, cái hồ, ngôi làng không tên. Cô nhìn thấy một ảo tưởng. Một lời nói dối đáng yêu làm dịu bớt nỗi đau. Giống như lời thủ thỉ với một đứa trẻ khốn khổ.
“Chị sẽ làm điều đó,” Mariam nói. “Chị sẽ làm điều đó vì em, Laila yêu quý.”
“Em không muốn bất kỳ thứ gì trong số đó nếu không có chị.” Laila thốt lên.
Mariam cười mệt nhọc.
“Em muốn mọi thứ như chị đã nói, Mariam, tất cả chúng ta sẽ cùng đi với nhau, chị, em, bọn trẻ. Tariq có một chỗ ở Pakistan. Chúng ta có thể trốn ở đấy một thời gian, chờ cho mọi chuyện lắng xuống.”
“Không thể được,” Mariam kiên nhẫn nói, như bố mẹ nói với một đứa trẻ ngoan nhưng đang đi sai đường.
“Chúng ta sẽ chăm sóc nhau,” Laila nói, nấc lên từng tiếng, mắt cô ướt đẫm. “Giống như chị nói. Không. Em sẽ chăm sóc chị để đền đáp lại chị.”
“Ôi, Laila yêu quý.”
Laila tiếp tục lảm nhảm. Cô kỳ kèo. Cô hứa hẹn. Cô nói cô sẽ làm tất cả mọi việc, cả nấu ăn nữa. “Chị sẽ không phải làm gì cả. Không bao giờ. Chị nghỉ ngơi, ngủ, làm vườn. Bất cứ thứ gì chị thích, chị chỉ việc yêu cầu và em sẽ lấy cho chị. Đừng làm thế Mariam. Đừng bỏ em. Đừng làm tan vỡ trái tim Aziza.”
“Chúng chặt tay người ta nếu người ta ăn cắp bánh mì,” Mariam nói. “Em nghĩ chúng sẽ làm gì khi chúng tìm thấy xác người chồng đã chết và hai người vợ mất tích?”
“Sẽ không ai biết cả,” Laila thở mạnh. “Sẽ không ai tìm thấy chúng ta.”
“Chúng sẽ tìm ra. Chỉ là sớm hay muộn thôi. Bọn chúng là chó săn mà.” Giọng Mariam nhỏ nhẹ, cẩn trọng; nó làm cho những lời hứa của Laila trở nên không tưởng, bịa đặt, ngốc nghếch.
“Mariam, xin chị...”
“Khi chúng tìm thấy chúng ta, chúng sẽ kết tội em ngang chị. Cả Tariq nữa. Chị không muốn hai người phải sống trong cảnh lén lút, trốn chạy. Chuyện gì sẽ xảy ra với các con của em nếu em bị bắt?”
Mắt Laila ướt đẫm, nhức nhối.
“Sau đó ai sẽ chăm sóc chúng? Quân Taliban à? Hãy đứng ở cương vị người mẹ mà suy nghĩ, Laila. Hãy suy nghĩ với cương vị là một người mẹ. Chị sẽ làm thế.”
“Em không thể.”
“Em phải như thế, Laila thân yêu ạ.”
“Thật không công bằng,” Laila thốt lên.
“Nhưng như thế là công bằng đấy. Đến đây. Hãy nằm xuống đây.”
Laila bò đến bên bà và lại đặt đầu mình trên vạt áo của Mariam. Cô nhớ những buổi chiều họ bên nhau, tết tóc cho nhau, Mariam kiên nhẫn lắng nghe những suy nghĩ ngẫu hứng và những câu chuyện bình thường của cô với vẻ biết ơn, với biểu hiện của một người vừa được ban tặng một đặc ân đáng thèm khát nhất.
“Công bằng mà,” Mariam nói. “Chị đã giết chồng của chúng ta. Chị đã cướp đi bố của con em. Thật không phải nếu chị chạy trốn. Chị không thể. Thậm chí nếu họ không bao giờ bắt được chúng ta, chị cũng sẽ không bao giờ...” Môi bà run lên. “Chị sẽ không bao giờ chạy trốn được khỏi nỗi buồn của con trai em. Làm sao chị có thể nhìn vào mắt nó? Làm sao chị có thể bắt mình nhìn nó được, Laila thân yêu?”
Mariam xoay xoay một sợi tóc của Laila, gỡ một lọn bị rối.
“Với chị, mọi chuyện đã kết thúc. Chị chẳng mong muốn gì hơn cả. Tất cả những gì chị ước ao từ khi còn là một đứa con gái, em đã mang lại cho chị. Em và bọn trẻ đã làm chị rất hạnh phúc. Laila, mọi chuyện ổn mà. Thế là đủ rồi. Đừng buồn phiền.”
Laila không thể tìm được một câu trả lời hợp lý cho bất cứ điều gì mà Mariam nói. Nhưng cô vẫn nói huyên thuyên, rời rạc, trẻ con, về những cây ăn trái đang chờ được trồng và những con gà đang chờ được nuôi, về những ngôi nhà nhỏ ở những thành phố không tên và những cuộc đi bộ đến hồ đầy cá hồi. Và, cuối cùng, khi mà ngôn từ đã cạn, nước mắt vẫn không thể ngừng rơi, tất cả những gì Laila có thể làm là đầu hàng và khóc nức nở như đứa trẻ bị dồn ép bởi những lý luận không thể bác bỏ của người lớn. Tất cả những gì cô có thể làm là cuộn tròn mình lại và vùi mặt lần cuối vào hơi ấm nồng nàn của vạt áo Mariam.
Buổi sáng hôm đó, Mariam gói cho Zalmai một bữa ăn nhẹ với bánh mì và quả sung khô. Bà cũng bọc cho Aziza vài quả sung và mấy cái bánh quy có hình con vật. Bà đặt tất cả trong một túi giấy và đưa cho Laila.
“Hãy hôn Aziza giùm chị nhé,” bà nói. “Hãy nói với nó rằng nó là noor* trong mắt chị, là vua trong tim chị. Em sẽ làm thế hộ chị chứ?”
Ánh sáng.
Laila gật đầu, môi cô mím chặt lại.
“Hãy đón xe bus như chị nói và cúi đầu thấp xuống.”
“Khi nào em sẽ gặp chị, Mariam? Em muốn gặp chị trước khi em ra làm chứng. Em sẽ nói với họ chuyện gì đã xảy ra. Em sẽ giải thích đó không phải là lỗi của chị. Đó là do chị phải làm thế. Họ sẽ hiểu, phải không, Mariam? Họ sẽ hiểu.”
Mariam nhìn cô dịu dàng.
Bà ngồi xổm xuống ngang tầm mắt với Zalmai. Thằng bé đang mặc áo sơ mi đỏ, quần kaki đã sờn và đôi giày cao bồi cũ mà Rasheed mua cho nó từ Mandaii. Hai tay nó giữ khư khư quả bóng mới. Mariam đặt một nụ hôn trên má thằng bé.
“Bây giờ con đã là một cậu bé ngoan, mạnh mẽ,” bà nói. “Hãy chăm sóc mẹ con thật tốt nhé.” Bà ôm mặt thằng bé. Nó rụt lại nhưng bà vẫn giữ. “Ta xin lỗi, Zalmai. Hãy tin là ta rất tiếc về tất cả niềm đau và nỗi buồn của con.”
Laila cầm tay Zalmai khi họ đi dọc xuống con đường. Ngay trước khi họ rẽ ở góc đường, Laila quay lại nhìn và thấy Mariam đứng ở cửa. Mariam quấn một cái khăn choàng trắng trên đầu, mặc áo len màu xanh sẫm có hàng cúc phía trước và quần cô tông trắng. Một lọn tóc xám buông xõa xuống trán bà. Vài tia nắng chiếu xuyên qua mặt và vai bà. Mariam đang vẫy tay.
Họ rẽ ở góc đường, và Laila không bao giờ gặp lại Mariam nữa.
47
Mariam
Dường như sau bấy nhiêu năm, Mariam đã trở lại kolba.
Nhà tù cho nữ phạm nhân Walayat là một tòa nhà vuông, u ám, nằm trên phố Shar-e-Nau, gần phố Gà. Nó nằm ở chính giữa, xung quanh là khu dành cho các tù nhân nam. Tách biệt Mariam và các nữ phạm nhân với những người đàn ông xung quanh là cánh cửa khóa chặt. Mariam đếm thấy có năm phòng giam. Đó là những căn phòng tồi tàn, bẩn thỉu, tường thì bong tróc, cửa sổ thì nhỏ xíu chỉ đủ nhìn ra sân. Mặc dù cửa sổ có song sắt nhưng cửa chính thông giữa các phòng lại không khóa nên các nữ tù nhân có thể tự do đi lại và ra sân khi họ thích. Cửa sổ không có kính, cũng chẳng có rèm, lính gác Taliban bên ngoài có thể thoải mái nhìn vào bên trong từng phòng giam. Một vài nữ tù nhân phàn nàn về việc lính gác hút thuốc ngoài cửa sổ rồi nhìn một cách dâm đãng vào trong, mắt thì đỏ lừ, nụ cười ác như sói, chúng thủ thỉ với nhau những trò đùa xấu xa về các nữ tù nhân. Chính vì thế, các nữ tù nhân che mặt cả ngày và chỉ bỏ ra lúc trời tối, khi cửa chính đã được khóa và bọn lính gác đã đi làm nhiệm vụ.
Ban đêm, phòng giam của Mariam cùng năm nữ tù nhân khác và bốn đứa trẻ nữa tối om. Vào những tối có điện, họ kiệu Naghma, một cô gái lùn, ngực lép với mái tóc xoăn đen, lên tận trần nhà. Trên đó có sợi dây đã tróc vỏ. Naghma dùng tay quấn cái dây vòng quanh đui đèn để nối điện cho nó.
Phòng vệ sinh bé tin hin, nền xi măng bong hết. Trên nền có cái lỗ hình chữ nhật, dưới đáy lỗ là một đống phân. Ruồi nhặng bay vo vo quanh cái lỗ ấy.
Ở giữa nhà tù có khoảng sân hình chữ nhật và giữa sân có cái giếng. Không có đường thoát nước cho cái giếng, chính vì thế cái sân lúc nào cũng ngập, mùi nước hôi thối bốc lên. Các dãy chỗ để giặt giũ chạy chéo nhau trên sân, ngổn ngang từng đống tất và khăn lót được giặt bằng tay. Sân là nơi các tù nhân được gặp người tới thăm, nơi để họ nấu cơm từ gạo mà người thân mang đến vì nhà tù không cấp thức ăn. Sân cũng là nơi chơi đùa của bọn trẻ - Mariam nhận thấy có nhiều đứa trẻ được sinh ra ở chính nhà tù Walayat này, chúng chưa bao giờ được ngắm nhìn thế giới bên ngoài những bức tường kia. Mariam ngắm nhìn bọn trẻ đuổi bắt nhau, nhìn những bàn chân không giày dép của chúng nhuốm đầy bùn. Cả ngày chúng chỉ chạy loanh quanh, chơi trò chơi, bất chấp mùi phân hay nước tiểu tràn ngập khắp nơi và ám vào cơ thể chúng, và cũng chẳng để ý đến lính gác Taliban cho đến khi bị họ đánh.
Mariam không có ai tới thăm. Đó là điều đầu tiên và duy nhất mà bà đề nghị quan chức Taliban ở đây. Không có ai tới thăm cả.
Không một phụ nữ nào trong phòng giam của Mariam vào tù vì phạm tội, tất cả họ phải ở đây chỉ vì tội duy nhất là “trốn nhà”. Chính vì thế, Mariam được mọi người biết đến, trở thành kiểu như một người nổi tiếng ở đây. Những phụ nữ khác nhìn bà với con mắt kính nể, gần như là khiếp sợ. Họ nhường chăn cho bà. Họ còn tranh nhau nhường thức ăn cho bà.
Naghma là người ngưỡng mộ Mariam nhất, cô luôn bám riết lấy tay bà và đi theo bà ở khắp mọi nơi. Naghma là người luôn thích chia sẻ nỗi bất hạnh với người khác dù đó là tâm sự của cô hay của một ai đó. Cô kể rằng ông bố của cô đã hứa gả cô cho gã thợ may trên cô những hơn ba mươi tuổi.
“Ông ta hôi như cú, răng còn ít hơn cả ngón tay,” Naghma kể về gã thợ may.
Cô đã cố bỏ trốn tới Gardez cùng một chàng trai mà cô yêu, con trai một vị giáo sĩ. Họ hầu như mới chỉ vừa bước chân ra khỏi địa phận Kabul. Khi họ bị bắt và gửi trở lại, con trai vị giáo sĩ đã bị đánh đập dã man, cuối cùng anh ta không thể chịu nổi và khai rằng chính Naghma đã dùng sức hút đàn bà để cám dỗ anh ta, rằng cô đã bỏ bùa anh ta. Và anh ta hứa sẽ quay lại chú tâm vào việc học kinh Koran. Họ đã thả gã con trai của giáo sĩ ra. Còn Naghma thì bị kết án năm năm tù giam.
Cô nói việc mình phải ở tù cũng tốt thôi. Bố cô đã thề rằng khi nào cô được thả, ông ta sẽ cầm dao cắt cổ cô.
Nghe Naghma kể, Mariam nhớ đến thứ ánh sáng mờ nhạt của những ngôi sao băng, nhớ đến sợi mây hồng vắt ngang ngọn núi Safid-koh vào một buổi sáng từ cách đây rất lâu rồi, khi mẹ Nana nói với bà rằng, “Giống như chiếc kim la bàn luôn chỉ hướng Bắc, ngón tay buộc tội của người đàn ông luôn trỏ vào người phụ nữ. Luôn luôn. Con hãy nhớ lấy điều ấy, Mariam.”
Phiên tòa xử Mariam đã diễn ra tuần trước. Không có hội đồng xét xử, không có ai dự, không thẩm tra lại chứng cứ, không có kháng cáo. Mariam cũng từ chối quyền được có nhân chứng. Phiên tòa diễn ra chỉ vỏn vẹn không quá mười lăm phút.
Chủ tọa là vị quan tòa ngồi giữa, một người Taliban trông rất cáu bẳn. Ông ta hốc hác, nước da vàng nhăn nhúm và bộ râu xoăn đỏ. Cặp kính ông ta đeo khiến hai con mắt của ông ta bị phóng to lên, làm lộ ra tròng trắng màu vàng ệch. Cổ ông ta dường như quá mảnh không đỡ nổi chiếc khăn turban đồ sộ quấn trên đầu.
“Bà thừa nhận điều đó phải không, hamshira?” ông ta hỏi lại với giọng mệt mỏi.
“Tôi thừa nhận,” Mariam nói.
Ông ta gật đầu. Mà cũng có thể là không. Thật khó nói; ông ta có kiểu rung mạnh tay và đầu khiến Mariam nhớ ngay đến sự run rẩy của Giáo sĩ Faizullah. Khi uống trà, ông ta không cầm cái tách lên. Ông ta ra hiệu cho người đàn ông có bờ vai vuông vức ngồi bên trái và anh này kính cẩn đưa tách trà đến đặt vào tận môi ông ta. Sau đó, vị chủ tọa Taliban từ từ nhắm mắt lại - động tác không lời nhưng trang nhã, thể hiện sự biết ơn.
Mariam cảm thấy ông ta có điều gì đó khiến người khác yên lòng. Khi nói, ở ông ta toát lên vẻ khôn ngoan và rất bình thản. Ông ta cười nhẫn nại và không nhìn Mariam một cách khinh miệt. Ông ta không nhắm vào bà với vẻ cay nghiệt hay buộc tội mà nói với giọng hoàn toàn nhẹ nhàng như thể để xin lỗi.
“Bà có hiểu hết những điều bà đang nói không?” một người Taliban khác có khuôn mặt xương xẩu ngồi bên phải, không phải là người đưa trà, hỏi Mariam. Đây là người trẻ nhất trong ba vị quan tòa. Ông ta nói nhanh, tự tin, dứt khoát và đầy kiêu ngạo. Ông ta bực mình vì Mariam không thể nói tiếng Pashto. Ấn tượng của Mariam về ông ta là hình ảnh của một người đàn ông trẻ thích gây sự, thích thú với quyền lực của mình, nhìn chỗ nào cũng thấy tội lỗi và nghĩ rằng quyền thiên bẩm của mình là phán xử người khác.
“Tôi rất hiểu,” Mariam trả lời.
“Tôi nghi ngờ điều đó,” ông này tiếp tục. “Thượng đế đã tạo ra chúng ta khác nhau, đàn bà các người và đàn ông chúng tôi. Bộ não của chúng ta cũng khác nhau. Bà không thể nghĩ được giống như chúng tôi. Các bác sĩ phương Tây và khoa học của họ đã chứng minh điều đó. Đó chính là lý do chúng tôi chỉ yêu cầu một người đàn ông làm nhân chứng nhưng lại cần đến hai người đàn bà.”
“Tôi thừa nhận là tôi đã làm thưa ông. Nhưng nếu tôi không làm vậy thì hắn ta sẽ giết chết cô ấy. Hắn ta siết cổ cô ấy.”
“Thì bà nói vậy. Nhưng có cái gì mà đàn bà không thề thốt được đâu.”
“Đó là sự thật.”
“Bà có ai làm chứng không? Ngoài ambagh của bà?”
“Tôi không có,” Mariam đáp.
“Ồ,” ông ta khoát tay và cười khẩy.
Rồi người Taliban ốm yếu tiếp lời.
“Tôi có một bác sĩ ở Peshawar,” ông ta nói. “Một người bạn Pakistan trẻ tuổi và tốt bụng. Tôi tới khám chỗ anh ta một tháng trước và gặp lại tuần vừa rồi. Tôi nói, hãy nói cho tôi biết sự thật, anh bạn, và anh ta nói với tôi, ba tháng, thưa Giáo sĩ, có thể nhiều nhất là sáu tháng, dĩ nhiên, tùy theo ý Thượng đế.”
Ông ta kín đáo gật đầu với người đàn ông vai vuông ngồi bên trái và lại nhấp một ngụm trà khác khi tách trà được mang tới. Ông ta lau miệng bằng mu bàn tay run run. “Tôi chẳng sợ gì khi từ bỏ cuộc sống này, đứa con trai duy nhất của tôi đã chết cách đây năm năm, cuộc sống chỉ toàn nỗi buồn chồng chất nỗi buồn đến nỗi giờ chẳng còn phải cảm thấy buồn gì nữa. Không. Tôi tin rằng tôi sẽ ra đi một cách vui vẻ khi đến lúc.”
“Điều mà tôi sợ, hamshira ạ, là ngày mà Thượng đế gọi tôi đến và hỏi, Tại sao con lại không làm theo những gì ta nói? Tại sao con lại không tuân theo luật lệ của ta? Tôi sẽ giải thích như thế nào với Người đây, hamshira? Tôi sẽ biện hộ thế nào cho việc đã không nghe theo mệnh lệnh của Người? Tất cả những gì mà tôi có thể làm, tất cả những gì mà bất kỳ ai trong chúng ta có thể làm, trong thời gian mà chúng ta đã được ban tặng, là mãi mãi tuân theo những luật lệ mà Người đã đặt ra. Khi tôi càng nhìn rõ cái kết thúc của mình, hamshira ạ, càng đến gần cái ngày mà tôi phải ra đi, thì tôi càng phải cứng rắn hơn để làm theo lời của Người. Cho dù nó đau đớn thế nào.”
Ông ta dịch người trên tấm đệm rồi nhăn mặt.
“Tôi tin bà khi bà nói chồng mình là một người đàn ông có tính khí không thể chấp nhận được,” ông ta lại nói tiếp và nhìn Mariam qua cặp kính, cái nhìn vừa nghiêm nghị vừa đầy lòng trắc ẩn. “Nhưng tôi không thể giúp được bà, sự độc ác trong hành động của bà khiến tôi bối rối, hamshira ạ. Tôi lấy làm buồn lòng vì những gì mà bà đã làm; tôi lấy làm buồn lòng khi hình dung ra cậu con trai nhỏ của ông ấy đang khóc thương ông ấy ở trên tầng khi bà làm điều đó.
“Tôi đã quá mệt và sắp chết đến nơi rồi và tôi cũng muốn nhân từ lắm. Tôi muốn tha thứ cho bà lắm chứ. Nhưng khi Thượng đế gọi tôi tới và nói, Không phải con là người có quyền được tha thứ, Giáo sĩ, lúc đó tôi có thể nói được gì?”
Đồng nghiệp của ông ta gật đầu đồng tình và nhìn ông ta với con mắt ngưỡng mộ.
“Có điều gì đó mách bảo với tôi rằng bà không phải là người đàn bà độc ác, hamshira, nhưng việc bà đã làm là hành động độc ác. Và bà phải trả giá cho những gì mình đã gây ra. Luật Hồi giáo Shari’a đã ghi rõ tội này. Trong đó viết rằng tôi phải gửi bà đến nơi mà chính tôi cũng sẽ sớm tới gặp bà.
“Bà có hiểu không, hamshira?”
Mariam cúi đầu nhìn xuống tay mình. Bà nói bà đã hiểu.
“Chỉ có Đấng toàn năng Allah mới tha thứ được cho bà.
Trước khi Mariam bị dẫn đi, họ đưa cho bà một tờ giấy, bảo bà ký vào bên dưới lời khai của bà và lời kết tội của các giáo sĩ. Ba vị chủ tọa người Taliban theo dõi Mariam viết tên mình, chữ meem, chữ reh, chữ yah và chữ meem, bà nhớ lần cuối cùng bà ký tên mình là hai mươi bảy năm trước, trên bàn của Jalil, dưới con mắt giám sát của một giáo sĩ khác.
Mariam đã ở tù được mười ngày. Bà ngồi cạnh cửa sổ phòng giam, nhìn cuộc sống của tù nhân bên ngoài sân. Khi những cơn gió mùa hè thổi đến, bà ngắm những mẩu giấy vụn bay cuốn thành vòng xoắn tít mù, sau đó cuốn mạnh và bay ra khỏi tường. Bà nhìn những trận gió thổi bụi bay mù mịt, tạo thành lốc tràn ra ngoài sân. Tất cả mọi người, lính gác, tù nhân, lũ trẻ và Mariam, đều phải dùng khuỷu tay che mặt để tránh cát bụi, nhưng không thể tránh được. Chúng lẩn vào tai, lỗ mũi, quật vào mắt, vào da và xuyên qua cả kẽ răng. Mãi đến lúc trời nhá nhem tối, gió mới giảm bớt. Ban đêm gió thổi nhẹ, như để bù lại cho những cơn lốc điên cuồng của ban ngày.
Ngày cuối cùng Mariam ở nhà tù Walayat, Naghma đưa cho bà một quả quýt. Cô đặt nó vào lòng bàn tay Mariam rồi khẽ gập các ngón tay của bà lại. Sau đó cô òa khóc.
“Chị là người bạn tốt nhất mà tôi từng gặp,” cô nói.
Mariam dành cả ngày cuối cùng trong tù để ngồi bên cạnh song sắt cửa sổ nhìn các bạn tù ở dưới. Một vài người đang nấu ăn, một làn khói mang theo mùi lá thì là bốc lên, đẩy luồng hơi ấm len qua cửa sổ. Mariam ngắm bọn trẻ con chơi trò bịt mắt. Hai bé gái đang hát một điệu đồng dao, Mariam nhớ lại khi bà còn nhỏ, Jalil đã từng hát bài này cho bà nghe khi bà ngồi trên một tảng đá và câu cá ở con suối:
Lili lili chiếc chậu tắm của chim,
Để trên bờ đất,
Con cá tuế ngồi trên vành uống nước,
Trượt xuống dưới chìm mất.
Đêm qua, Mariam mơ một giấc mơ không liền mạch. Bà mơ về những viên đá cuội, mười một viên, xếp chồng lên nhau. Jalil, trẻ lại, nụ cười chiến thắng, chiếc cằm chẻ, nốt ruồi duyên, áo khoác vắt qua vai, cuối cùng đã đến để chở cô con gái cưng của mình đi dạo trên chiếc xe Buick Roadmaster màu đen sáng bóng. Giáo sĩ Faizullah đang lần chuỗi hạt của mình và đi dạo cùng bà dọc theo dòng suối, bóng hai người in lên mặt nước và trên bờ cỏ rải rác những cây diên vĩ dại xanh, trong giấc mơ ấy, chúng thơm như cây đinh hương. Bà mơ thấy mẹ Nana đang đứng ở cửa kolba, giọng văng vẳng từ xa xa, gọi cô bé Mariam về ăn tối trong khi cô bé đang chơi ở đám cỏ rối mát rượi với lũ kiến bò quanh, những con bọ chạy nhốn nháo, châu chấu nhảy tanh tách giữa vạt cỏ xanh. Tiếng kêu kin kít của chiếc xe cút kít đang bò lên con đường đất. Mấy cái chuông trên cổ những chú bò kêu vang. Trên đồi, bọn cừu đang kêu be be.
Trên đường tới Sân vận động Ghazi, người Mariam xóc nảy trên thùng chiếc xe tải khi nó đi qua con đường đầy ổ gà và các bánh xe trượt trên đá sỏi. Cú xóc làm bà đau ở xương cụt. Một người lính Taliban trẻ cầm súng ngồi đối diện đang nhìn bà.
Mariam băn khoăn không biết liệu cậu ta có phải là người như bà nghĩ không. Trông cậu ta có vẻ tử tế với đôi mắt sáng và sâu, gương mặt hơi nhọn, ngón tay trỏ với móng tay sơn đen đang gõ nhịp vào thành xe.
“Bà có đói không, bà mẹ?” cậu hỏi.
Mariam lắc đầu.
“Tôi có một ít bánh quy. Ngon lắm. Nếu bà đói thì lấy mà ăn.”
“Không. Tashakor, người anh em ạ.”
Cậu gật đầu, nhìn bà đầy nhân từ. “Bà sợ à?”
Có gì đó khiến cổ họng Mariam nghẹn lại. Bằng giọng run run, bà nói thật với anh ta.
“Đúng. Tôi rất sợ.”
“Tôi có một bức ảnh của bố tôi,” anh ta nói. “Tôi không nhớ rõ ông ấy. Tôi chỉ biết là ông ấy đã từng làm nghề chữa xe đạp. Còn lại thì chẳng nhớ ông ấy đi lại như thế nào, cười ra làm sao hay giọng nói thế nào nữa.” Cậu nhìn ra xa, rồi lại nhìn Mariam. “Mẹ tôi nói rằng ông ấy là người can đảm nhất mà bà từng biết. Giống như vua sư tử ấy, bà ấy ví vậy. Nhưng mẹ tôi lại kể rằng ông ấy khóc như một đứa trẻ vào buổi sáng đám người cộng sản đến đưa ông ấy đi. Tôi kể với bà như vậy để bà thấy rằng người ta sợ hãi cũng là điều bình thường thôi. Không có gì phải xấu hổ, bà mẹ ạ.”
Lần đầu tiên trong ngày hôm đó, Mariam khóc một chút.
Hàng nghìn con mắt đổ dồn vào bà. Giữa đám đông chật kín người xem, ai cũng nghển cổ để nhìn rõ hơn. Tiếng lưỡi lậc chậc. Tiếng rì rầm nổi lên khắp khán đài khi Mariam được đưa ra khỏi xe tải. Mariam hình dung thấy người ta lắc đầu khi nghe tuyên bố tội danh của bà. Nhưng bà không ngước mắt lên để xem họ lắc đầu phản đối hay là khoan dung, chỉ trích hay là thương xót. Họ chẳng là gì mà bà phải quan tâm.
Sáng sớm hôm đó, bà đã sợ rằng mình sẽ làm điều gì ngu ngốc, rằng bà sẽ khóc lóc, van xin. Bà sợ rằng mình sẽ la hét, nôn mửa hay thậm chí bĩnh ướt cả quần, rằng trong những giây phút cuối cùng của mình, cái bản năng sinh học hay sự ô nhục thể xác sẽ phản bội bà. Nhưng khi bà được đưa xuống từ xe tải, hai chân bà không khuỵu vào nhau. Hai tay bà không vùng vẫy. Người ta không phải kéo bà đi. Và khi cảm thấy dao động, bà nghĩ đến Zalmai, đứa bé đã bị bà lấy đi tình yêu của cuộc đời nó, đứa bé mà những ngày còn lại sẽ là chuỗi ngày u ám vì không còn bố ở bên. Và rồi Mariam đã bước đi một cách vững vàng mà không cần ai phải canh chừng.
Một người đàn ông mang vũ khí tiến lại chỗ bà và yêu cầu bà đến cột gôn phía Nam. Mariam cảm thấy rõ đám người đứng xem ngày càng dồn lại một cách đầy háo hức. Bà không nhìn lên. Bà cúi mặt xuống đất, mắt dán vào cái bóng của mình và cái bóng của người hành quyết đang theo sát bên cạnh.
Mặc dù cuộc sống cũng có những khoảnh khắc rất đẹp nhưng Mariam biết rằng trong phần lớn thời gian, cuộc đời đã tàn nhẫn đối với bà. Vậy nhưng khi bà bước hai mươi bước cuối cùng, bà đã không thể ngăn mình ao ước được sống thêm. Bà ước được gặp lại Laila, được nghe tiếng cười lanh lảnh của cô, được ngồi với cô thêm lần nữa để nhâm nhi một cốc chai và ăn halwa dưới bầu trời đầy sao. Bà tiếc rằng bà sẽ không bao giờ được nhìn thấy Aziza lớn lên, không được ngắm nhìn con bé trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, không được sơn lá móng lên tay nó và ném kẹo noqul trong lễ cưới của nó. Bà sẽ không bao giờ được chơi với đám con của Aziza. Bà đã mong chờ điều đó biết bao, cái lúc bà trở thành một bà già và ngồi chơi với lũ trẻ nhà Aziza.
Gần tới cột gôn, người lính đi sau yêu cầu Mariam đứng lại. Mariam làm theo. Qua tấm lưới mạng chiếc burqa, bà nhìn thấy bóng cánh tay anh ta đang giơ cái bóng của khẩu Kalashnikov.
Trong những giây phút cuối cùng này, Mariam khao khát nhiều thứ hơn bao giờ hết. Nhưng khi nhắm mắt lại, bà không còn cảm thấy tiếc nuối nữa, chỉ thấy sự bình yên và thanh thản tràn ngập khắp cơ thể. Bà nghĩ về sự ra đời của mình, harami của một người thấp hèn, một thứ được tạo ra không chủ định, một tai nạn đáng tiếc. Một thứ cỏ dại. Nhưng dù sao bà cũng dang rời bỏ thế giới này như một người đàn bà đã yêu và đã được yêu. Bà vĩnh biệt cuộc sống với tư cách là một người bạn, người đồng hành, người bảo vệ. Một người mẹ. Một người quan trọng. Không. Cũng không quá tệ, Mariam nghĩ, khi chết theo cách ấy. Không quá tệ. Đây là kết thúc chính đáng của một cuộc sống được bắt đầu bằng những điều không chính đáng.
Những ý nghĩ cuối cùng của Mariam là một vài từ trong kinh Koran mà bà lẩm nhẩm bằng hơi thở.
Người đã tạo ra thiên đường và mặt đất; Người đã tạo ra đêm nối tiếp ngày, ngày nối tiếp đêm và Người đã tạo ra mặt trăng và mặt trời một cách có chủ đích, tất cả đều vận hành trong thời gian định trước của mình. Hiển nhiên Người là Đấng tối cao, là người xóa bỏ mọi tội lỗi.
“Quỳ xuống,” người lính Taliban nói.
Lạy Thượng đế tối cao! Hãy tha thứ và khoan dung bởi Ngài là người độ lượng nhất.
“Quỳ xuống đây, hamshira. Và cúi xuống.”
Lần cuối cùng, Mariam làm như người ta bảo.
Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ - Khailed Hosseini Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ