With compassion you can die for other people, like the mother who can die for her child. You have the courage to say it because you are not afraid of losing anything, because you know that understanding and love is the foundation of happiness. But if you have fear of losing your status, your position, you will not have the courage to do it.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Upload bìa: Bùi Thi Hoàng
Số chương: 10
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3562 / 54
Cập nhật: 2015-07-11 21:04:39 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4 -
áng hôm sau, tình trạng thần kinh của Trung gấu có vẻ xấu đi. Căn bệnh đã bắt đầu bộc phát. Khi đó, mọi người đã ra ngoài luyện tập. Ở lều chỉ còn lại hai người. Phái lo chuẩn bị cơm nước, còn Trung gấu ngồi phụ giúp kế bên. Ðang cắm cúi nhặt thóc, Trung bỗng bật khóc to nức nở. Phái điển quay lại, buồn bã và lo lắng nhìn anh.
Trung đội dạo trước có hai Trung: Trung liều A trưởng và Trung gấu, xạ thủ số hai đại liên. Trung liều đã hy sinh trong trận vừa qua, để lại nỗi đau xót, mất mát lớn lao cho mọi anh em, nhất là đối với Trung gấu.
Hồi mới nhận tân binh về, A trưởng Trung liều đã chú ý đến cái thằng lùn lùn, vạm vỡ, vai rộng, dáng đi lùi lũi như một con gấu, nhưng vẻ mặt lại hiền khô, khờ khạo, đôi mắt nâu buồn buồn không hợp chút nào với khuôn mặt to vuông vắn chữ điền. Tự dưng, anh bỗng thấy thương nó như đứa em ruột của mình. Trung liều có một thằng em trai nhưng đã bị bệnh chết năm nó lên mười tuổi. Một lần, khi hai người nằm gác chân lên nhau trò chuyện, Trung liều đã kể cho Trung gấu nghe thời thơ ấu buồn tủi cơ cực của mình. Hai gã Trung chỉ trong vòng vài ngày đã gắn bó với nhau còn hơn anh em ruột thịt. Trung lớn lo cho Trung nhỏ từng chút một, dạy bảo, chỉ dẫn, khuyên nhủ, và cả an ủi những lúc cậu này buồn.
Trung gấu chỉ có cái tướng là táo tợn, đáng gờm, còn vẻ mặt và tính tình thì lại hiền và nhút nhát. Hồi chưa vào lính, Trung gấu làm ở một ga-ra sửa chữa ô-tô. Anh vốn là dân Phan Thiết, gia đình rất nghèo. Năm Trung mười lăm tuổi thi rớt lớp mười, chưa biết làm sao thì một bà dì độc thân ở Sài Gòn ra chơi, rồi khuyên ba má Trung cho anh vào Thành phố để kiếm chuyện làm ăn. Bà làm giấy nhận Trung làm con nuôi và chuyển hộ khẩu anh về Thành phố. Sau đó bà xin cho Trung vào vừa học vừa làm ở cơ sở đó cho đến khi anh đi nghĩa vụ.
Bà dì là người ăn chay trường. Bà không buộc anh phải gò bó như mình, nhưng Trung vốn đã quen kham khổ, lại muốn tránh phiền cho bà, nên anh cũng bắt chước theo bà. Dạo ở quân trường, do có muối đậu, tương chao bà mang lên tiếp tế, Trung vẫn duy trì được thói quen ăn chay. Nhưng qua đây, dần dần anh cũng phải ngã mặn theo anh em. Trung rất ghét chuyện súng ống. Hồi mới sang, anh hay nói với mọi người là nếu có đánh nhau, anh chỉ bắn chỉ thiên thôi. Trung bảo hồi ở nhà đến mấy con thằn lằn anh còn không nở giết, tính ra, trong đời anh chỉ phạm tội sát sinh mấy loài muỗi, rệp và gián mà thôi.
Hôm đó, hôm Trung liều hy sinh, trung đội đang phối thuộc với đại đội 12 cắm mũi đầu tiên vào cứ địch. Sau khi qua được cửa mở ở tuyến phòng thủ thứ nhất, anh em tiếp tục vận động chiếm lĩnh các điểm xung yếu để vượt tuyến phòng thủ thứ hai.
Cứ Ampil là tổng hành dinh của Sonsan, lực lượng của nó theo quân báo ước tính khoảng chừng mười ngàn tay súng, được trang bị đủ các loại cối pháo từ 130 ly trở xuống. Ngoài lính ra, trong cứ còn có dân Khmer tỵ nạn, và gia đình, vợ con của số lính tráng, sĩ quan. Trong số này có cả người gốc Việt. Sau khi chiếm được cứ, trung đội đã nhặt được trong một căn nhà mấy quyển sổ ghi chép bằng tiếng Anh, và một số ghi chú tiếng Việt kèm theo.
Ampil có tất cả ba tuyến phòng thủ tạo thành ba vòng cung đồng tâm, mỗi tuyến cách nhau chừng bảy, tám trăm mét. Tuyến phòng thủ là một bờ đất cao và rộng, phía sau nó là đường giao thông hào sâu ngang ngực. Dọc theo tuyến, cứ cách năm chục mét lại có một căn hầm to rộng, trên phủ mấy lớp gỗ rừng, mỗi cây đường kính bé nhất cũng đến năm tấc. Ngoài ra còn có ụ súng lộ thiên cho các tay súng cá nhân và súng máy. Giữa những tuyến này lại có những bãi mìn. Khi tấn công lên tuyến thứ nhất, đại đội 11 chưa nổ được phát súng nào đã lọt vào một bãi mìn, thương vong mất bốn người. Cuối cùng họ phải rút lui, chuyển sang hướng khác.
Ðang đánh nhau kịch liệt ở ngoài tuyến phòng thủ thứ hai thì một trong hai chiếc tăng mà đại đội 12 đánh kèm bị vướng mìn tăng, đứt xích không di chuyển được nữa. Ðại đội dàn hàng ngang vận động lên phía trước chiếc tăng để bảo vệ cho tuyến sau lên làm nhiệm vụ cáng thương. Khẩu đại liên của Trung liều cùng lên với trung đội sáu, còn khẩu 12 ly lúc đó do Quân chỉ huy cũng đang vận động ở cánh trái, trong đội hình của trung đội năm. Trung liều dẫn đầu khẩu đội, khẩu AK lật ngang quét từng tràng điểm xạ ngắn đanh. Lúc ấy, đạn nhọn cứ bay veo véo như mưa ngang đầu, chẳng còn biết đâu mà tránh né. Họ chỉ dừng lại, mọp xuống khi có một quả đạn cối hay pháo nổ gần bên.
Trung liều đang chạy thì một quả B40 từ phía trước nổ chụp tới, cách anh chừng bốn mét. Lúc đó, Trung gấu và Tiến cóc ở phía sau lưng anh không đầy mười mét. Trung liều chết ngay tại chỗ.
Tiến và Trung gấu quăng khẩu đại liên xuống, nhào tới bên anh, nhưng chỉ để nhìn thấy khuôn mặt xám ngoét, hai con mắt nửa mở nửa khép, lòng trắng vằn đỏ những tia máu, và khóe miệng rỉ máu đỏ bầm của Trung liều. Thân hình anh nhầy nhụa những vết thương.
Trung liều hy sinh vào khoảng năm giờ chiều, ngày 7-1-1985. Ánh hoàng hôn đỏ rực như lửa cháy từ phía trước mặt đội hình -hướng Tây - hắt xuống bãi cát một màu đỏ vàng hiu hắt. Trên trận địa, những người lính đang chầm chậm bò lê tiến về phía địch như một đàn kiến khổng lồ. Ðây đó rải rác những hố cát do đạn pháo cày xới lên; và ở nhiều hố loang lổ những vệt máu khô bầm.
Từ đó trở đi, Trung gấu trở thành một người khác hẳn. Anh lao lên, xô Tiến cóc, xạ thủ một, ngã dúi sang bên, chụp lấy hai tay cò súng. Lần đầu tiên trong đời,Trung gấu đã biết đau đớn căm thù. Anh không thèm cúi mình né tránh làn đạn phủ đầu rát mặt từ sau tuyến giao thông hào thứ hai của địch, cứ chăm chăm quay súng tới những nụ lửa xòe ra, quất liên tục từng tràng. Mấy ụ súng đó câm tiếng ngay lập tức sau loạt đạn của Trung. Trung gấu bắn như điên như dại. Trong đầu anh trống rỗng, chỉ tồn tại mấy từ "Anh Trung đã chết rồi!".
Trận đánh kéo dài từ rạng sáng ngày 7, đến sẫm tối ngày 9 thì kết thúc. Hôm đó Trung không khóc. Cả hai hôm sau, khi trận đánh chưa ngưng cũng vậy. Trừ những lúc nổ súng đánh nhau, Trung có vẻ lầm lì nhưng còn linh hoạt chút xíu, ngoài ra, trong mọi sinh hoạt khác, anh làm gì cũng ngơ ngẩn, ngẩn ngơ. Ðến cái đêm sau khi toàn thắng, anh em bắt được một con heo nuôi chạy lạc, xẻ ra làm thịt liên hoan,Trung gấu không ngồi vào ăn uống. Anh đi ra xa, tới một chỗ vắng người, ngồi sụp xuống, khóc nghẹn ngào rất lâu.
Tâm trạng Trung trong những ngày sau đó rất nặng nề, u uất. Nhiều lúc nửa đêm chợt giật mình thức giấc, Trung không tài nào dỗ giấc lại. Anh nằm nghe tiếng những cơn gió rừng hun hút thổi, nghe tiếng trở mình, tiếng ngái đều đều của các đồng đội khác, rồi tưởng như nghe tiếng bước chân quen thuộc, bình thản của Trung liều vừa bước vào lều sau một ca gác, tưởng như mơ hồ nhìn thấy bóng Trung đang tiến đến gần mình. Rồi anh nhận ra đó chỉ là tiếng gió xào xạc lùa qua lớp lá che trên mái, là bóng những cành lá bên ngoài chập chờn trên đất, trên vách căn lều. Có lúc anh nhớ tới cảnh tượng A trưởng Trung nằm đó, đôi mắt khép hờ, thân hình đẫm máu mà cứ ngỡ mình vừa qua một cơn ác mộng. Anh tự lừa dối mình trong khoảnh khắc rằng tất cả chỉ là một giấc mơ; rằng Trung vẫn sống; rằng chỉ cần anh ngồi dậy, xoa mặt mấy cái là Trung sẽ bước đến, mỉm cười đưa cho anh điếu thuốc vấn đang hút dở dang.
"Cái chết đến dễ dàng như vậy hay sao?" Câu hỏi như một mũi khoan cứ xoáy mãi, xoáy mãi trong tâm trí của Trung. Nó rít lên lúc anh đang ngồi ăn, đang đi đứng, đang nói năng, đang làm bất cứ chuyện gì. Trung hiểu con người thì phải chết. Anh đã thấy bà nội mình qua đời như thế nào trong căn nhà thấp lụp xụp ven biển của bà. Anh cũng đã thấy những cái chết khác, của những người quen hay lạ xung quanh. Nhưng anh chưa từng biết về một cái chết đến đột ngột, vô cùng đột ngột trong thoáng chốc như vậy. Chỉ trong thoáng chốc, một con người khỏe khoắn, nhân hậu, yêu thương anh và được anh yêu thương không kém chỉ còn là một đống thịt bầy nhầy, trơ trơ, vô cảm.
Rồi Trung chợt giật mình khi nhớ lại chính bản thân mình sau lúc đó. Anh đã bắn, không phải là chỉ thiên, mà là thẳng vào những thân người. Trung biết đã có những thân người đổ gục xuống sau tràng đạn của anh. Ðó là kẻ địch, quân thù. Ðó là bọn dã man tàn ác đã giết chết Trung A trưởng - Trung biết rất rõ điều này. Nhưng anh vẫn có một cảm giác gì đó ghê tởm chính mình, khi nhìn xuống bàn tay. Bàn tay này đã nhuốm máu rồi! Do chính bàn tay này mà có những người vợ mất chồng, những đứa con mất cha, những người lính mất đồng đội!...
...Ðầu Trung gấu nhức buốt. Những suy nghĩ quay cuồng. Trung nghe lùng bùng trong tai những tràng điểm xạ liên hồi chát chúa của khẩu đại liên. Anh rên lên những tiếng ngắn đau đớn.
Phái chợt nghe tiếng rên rỉ và lầm bầm của Trung gấu: "Dì ơi!... Con đã bắn rồi...bắn vào tụi nó rồi...Con đã bắn chết tụi nó rồí!... Anh Trung ơi... em đã bắn chết tụi nó rồi!...". Giọng nói không âm sắc, lắp bắp, lẫn vào tiếng khóc, và nhất là tính chất không đúng chỗ của nội dung câu nói làm cho những lời nghẹn ngào của Trung có một vẻ gì đó kỳ lạ, ghê ghê làm Phái giật mình. Anh ngước lên nhìn Trung kinh ngạc.
Bóng một người che khuất ánh sáng ở phía lối vào, làm bên trong lều tối xầm một thoáng, rồi người đó bước vào lều. Ðó là Quân. Anh đã đứng bên ngoài lều từ lúc nãy.
Quân nhìn Trung đang ngồi nức nở, thấy xót xa thương Trung quá. Qua bao nhiêu ngày tháng gần gũi bên nhau, Quân hiểu từng niềm vui, nỗi buồn, từng sự trái nết, kỳ cục nào đó của mỗi người trong trung đội, không phải chỉ với sự đồng cảm, thương yêu của một người anh cả, mà còn với tấm lòng bao dung của một người mẹ dịu dàng. Nhất là Trung, hồi mới về trung đội, nó cứ bám theo anh, hỏi han thắc mắc đủ chuyện. Những câu hỏi ngây ngô như của một đứa trẻ con.
Quân nhận ra bên trong cái ngoại hình xù xì, dữ tợn, trái tim Trung là trái tim hiền hậu của một bà soeur già trọn đời làm việc thiện. Trung không phải là loại người có tinh thần mạnh mẽ để có thể thích ứng, đối phó với những nghịch cảnh, trắc trở của cuộc đời. Sau những ngày đầu quay quắt nỗi nhớ nhà, nhớ quê, Trung đã cảm thấy đời lính trở nên thân tình, ấm áp. Có một lúc nào đó, Trung đã ước ao cuộc đời cứ như thế này mãi mãi, nó và những bạn bè gắn bó trong trung đội sẽ sống bên nhau cho đến cuối đời, như những người trong một gia đình. Có lần, nó đã bảo với Quân: "Bây giờ em không còn nhớ nhà nữa. Em thấy sống như thế này thật vui, thật thích. Phải chi tất cả anh em trong trung đội mình cứ sống bên nhau như vầy đến già há anh Quân!"
Ðầu óc vô cùng đơn giản của Trung đã vô ý thức quên đi thực tại. Nó đã sống trong một giấc mơ ban ngày êm ái, chứa chan niềm vui, tình thương yêu gắn bó với nhau của những người lính chiến xa nhà. Rồi giấc mơ đã vỡ tan. Thực tế là những lưỡi dao sắc bén đã cắt đứt, băm nát chuỗi ngày bình yên, hạnh phúc thành ngàn ngàn mảnh vụn. Thực tế là cơn bão dữ cuốn qua, để lại sau lưng nó một thế giới tâm linh đổ vỡ, điêu tàn. "Mọi thứ đều là tạm bợ, là hư ảo phù du thôi, Trung ơi! Cả cuộc đời của chúng ta, cả những niềm vui, nỗi khổ của chúng ta. Nhất là ở đây, trong cuộc sống này!..." Quân bật thốt lên lời than thở. Nhưng nó nghẹn lại ở cổ anh... Chính nỗi đau của anh bây giờ cũng là hư ảo nốt, anh biết, và tin như vậy. Nhưng ý thức, ý chí và trái tim anh dường như không có chút gì liên hệ với nhau.
Anh vẫn ý thức, bằng niềm tin, tư tưởng đã cô đúc, đã tạo thành một nền tảng vững bền trong nhân cách của anh - một người đã ở dưới mái chùa suốt quảng đời thơ ấu - tính chất vô thường bào ảnh của mọi điều, và vẫn thấy đau một nỗi đau thực thể, bằng những cảm giác của một con người đang sống.
Quân bước tới, đưa tay bóp nhẹ bờ vai rắn chắc của Trung, anh nói:
- Từ mai, em sẽ thay thế Phái làm anh nuôi, để nó trở lại khẩu đội đại liên. Em đừng tự dằn vặt nữa, nghe không Trung.
Quân quay sang Phái:
- Phái sắp xếp công việc bàn giao lại cho Trung, em nhớ kèm cho nó vài bữa, hướng dẫn mấy bí quyết nấu nướng của em, nghe Phái.
Phái gật đầu, đưa mắt nhìn Trung. Trung vẫn cúi gầm đầu, thu cái cổ to ngắn vào giữa hai vai run rẩy, như một con gấu lầm lì đang dỗ giấc mùa đông.
Trong suốt mấy ngày sau, Trung càng có vẻ bất thường. Anh hay ngẩn người ra, nhìn trừng trừng vào một điểm nào đó vô hình trước mặt, miệng lẩm bẩm những câu rời rạc, vô nghĩa. Ban đêm, anh em trực gác thấy Trung đi thất thểu, quờ quạng từ nhà này qua nhà khác trong bóng tối như một hồn ma.
° ° °
Chỉ còn ba ngày nữa là đơn vị hành quân tấn công cứ điểm 201, toàn đơn vị đang tập luyện ráo riết. Ai cũng nôn nao, phấn khích mong cho trận đánh chóng đến, chóng qua. Buổi sáng hôm ấy, trung đội đang dợt lại lần chót các thao tác trong vận động chiến đấu ngoài bãi cát, cách nơi dựng lều khoảng năm trăm mét. Quân vừa hô khẩu lệnh: " Khẩu đội. Tháo súng vận động!" thì Mợi lác hớt hải chạy tới, mặt mày xanh như tàu lá. Anh hào hển bảo Quân:
- Anh Quân ơi, thằng Trung nổi cơn điên rồi! Lúc nãy, em đang rang ruốc cá giùm nó, quay qua không thấy nó đâu. Em chạy đi tìm, nhìn thấy nó đang cầm khẩu AK của Già Hương còn để trong lều, kê nòng súng vào cằm, cười hì hì, mà nét mặt ghê lắm. Em len lén bò lại gần đá văng khẩu súng. Rồi ôm nó, cố dỗ dành nó. Nó không cự gì, chỉ lúc cười lúc khóc. Em ôm nó một hồi, thấy nó vẫn im lìm, em bỏ nó ngồi đó, mang mấy băng đạn và dao cộ giấu đi, rồi chạy ra đây. Anh tính sao bây giờ?
Quân bảo Già Hương:
- Anh cho anh em tập thêm tí nữa rồi về. Em về trước coi sao.
Quân và Mợi lác chạy về tới lều, Trung gấu đang quỳ mọp bên bếp, mồm miệng đầy đất cát. Quân bước tới, kéo vai đỡ Trung ngồi thẳng lên. Trung gấu cười hềnh hệch:
- Anh Trung... đi lên cung trăng hái mận với em nghe. Em mới ở trển về...Mận ngon lắm... Trong hồ có con cá mập lớn lắm. Nó cắn đứt bàn tay em rồi, anh Trung ơi...! - Trung gấu khóc òa lên.
Quân cau mày. Trung bị bệnh thật rồi. Anh quay lại bảo Mợi:
- Mợi ra bảo Tiến và Huy về gấp, cùng anh đưa Trung về Trung đoàn để chữa bệnh ngay. Nguy lắm rồi.
Ba người đưa Trung gấu lên tới K.23 khoảng ba giờ chiều hôm ấy. Lẽ ra, họ tới nơi sớm hơn, nếu trên đường đi Trung không dỡ chứng ngồi lì một lúc lâu.
Quân đã phải vất vả lắm khi thuyết phục đại úy Sơn, bác sĩ trưởng K.23 chuyển Trung gấu lên viện cấp cao hơn, nơi có điều kiện đưa Trung về nước. Mặc cho Quân nói khô cả cổ, Sơn vẫn lắc đầu quầy quậy, anh cứ khăng khăng một mực:
- Chỉ vì nó quá kích động. Từ từ vài bữa là bình thường trở lại thôi, cậu lo xa quá. Mà chưa biết chừng tại nó bể chiến đấu nên giả khùng giả điên như vậy. Còn phải chờ xác định coi nó thật sự bị loạn thần kinh không đã. Loại này tôi gặp nhiều quá rồi mà!
Quân vốn điềm đạm, nhưng cũng phải nổi nóng vì sự cứng nhắc của Sơn. Anh cố kềm cơn giận, gằn giọng nói:
- Ðây là một người lính của tôi. Tôi hiểu nó hơn anh nhiều. Nó bị bệnh thật sự. Nó cần được chữa trị ở một nơi thích hợp. Nếu anh sợ bị ảnh hưởng đến cái uy tín rẽ mạt của anh mà chần chừ, thì hậu quả còn tệ hại hơn. Lúc đó, anh sẽ vừa mang tiếng xấu, vừa bị lương tâm cắn rứt cả đời đó, anh hãy nghĩ lại đi...
Sơn khoát khoát tay, quay lưng dợm bước đi. Mặt Quân đỏ bừng như uống rượu. Máu nóng chợt dồn lên đầu, lan ra khắp người Quân, anh gần như hét lên:
- Nó suýt chút đã tự sát rồi, anh có biết không! Nó còn ở cái nơi đầy súng ống này ngày nào, thì còn nguy hiểm cho nó, và cho mọi người xung quanh ngày đó...- Quân dịu giọng lại - Anh Sơn à! Anh phải quyết định ngay một quyết định sáng suốt. Anh là một bác sĩ có tài, thương lính mà. Tôi vẫn còn nhớ anh đã tốt như thế nào, tận tụy như thế nào hồi trị thương cho tôi. Nhưng đây không phải là chuyên môn của anh. Anh nghe tôi đi, phải đưa nó về nước càng sớm càng tốt. Và phải cho một anh em nào có tấm lòng đưa nó đi. Tôi năn nỉ anh, thật tình năn nỉ anh đó, anh Sơn.
Cuối cùng, bác sĩ Sơn xúc động, đồng ý làm theo đề nghị của Quân. Quân còn nằng nằng xin Sơn nhớ cho người theo dõi Trung liên tục trong thời gian còn ở lại K.23, cho đến khi bác sĩ Sơn nổi khùng quát lên: " Cậu tưởng tôi là một thằng ngu ngốc và vô lương tâm hay sao mà cứ lải nhải hoài vậy. Ði về đi! Tôi sẽ làm những gì tôi thấy cần thiết!".
Trên đường về, cả ba lặng lẽ bước nhanh. Thỉnh thoảng, Huy nhìn sang Quân, cảm thấy thương anh vô cùng. Nét mặt Quân dàu dàu, không thần sắc. Vẻ bình an thanh thản thường nhật của anh không còn nữa. Nhìn anh giống như một bà mẹ vừa phải bứt ruột nhìn đứa con yêu của mình chết lịm trên tay. Họ về tới nhà lúc vầng trăng khuyết hạ tuần đã lên gần giữa đỉnh trời.
*****
Cánh rừng lại xôn xao không khí của những ngày vào chiến dịch. Các cánh quân của các trung đoàn, tiểu đoàn khác nhau lũ lượt di chuyển dọc ngang. Từng đoàn quân, quần áo bạc màu nắng gió, ba lô, súng ống, gạo nước trĩu nặng trên thân bước những bước dài mạnh mẽ. Tất cả, từ người lính cũ đã mấy năm xa quê đến những người lính mới sang hồi cuối năm ngoái, đều không còn gì khác biệt nhau. Ai ai cũng đã quen với những chặng hành quân hàng chục cây số dưới ánh nắng chang chang, trong lớp bụi mù mịt bay lên giữa ban ngày, hay dưới ánh sao lấp lánh mùa khô miền xích đạo ban đêm; quen với mùi mồ hôi của chiếc áo lính nhiều ngày không giặt, với sự thiếu ngủ những đêm trắng hành quân; quen với sự căng thẳng trong giờ phút ém quân chờ lệnh nổ súng...
Từng đoàn quân, như những con rùa dưới cái mai nặng nề bò từng bước chậm rãi mà chắc chắn về mục tiêu phía trước. Người thì ngược về Tây, tiếp tục cho trận đánh. Người thì xuôi lên Bắc thế chân đóng chốt, bảo vệ cho dân công lên xây dựng tuyến phòng thủ dọc theo hành lang biên giới.
Trên đường đi, những người lính thuộc các đơn vị khác nhau cứ ngong ngóng mong gặp lại một đồng hương nào đó thuộc đơn vị bạn. Tiếng chào hỏi, cười đùa trêu ghẹo nhau giữa những người lính vang vang suốt một chặng đường dài, cuốn theo cơn gió cuối xuân hun hút luồn vào cánh rừng sâu, phá vỡ sự tĩnh lặng hàng trăm nghìn năm nay của khu rừng trầm mặc:
- Vân ơi, có viết thư cho nhỏ Thùy em gái tao nói tao gửi lời thăm nó với nhé. Dạo này tao lười viết quá. Ði may mắn nghe Vân.
- Thắng ơi! Ðánh cho hăng vào! Kiếm nhiều nhiều "đồ cổ" 1 về ghé tao nhậu một chặp tưng bừng nghe!
- Ðồng hương ơi, phen này lên đó nằm chốt một năm tội nhỉ! Có gặp nàng khỉ cái nào đèm đẹp thì cũng ráng giữ thủy chung với bà vợ già ở quê nghe!
- Anh em đi mạnh khỏe, chiến thắng vẻ vang nghe!
- Anh em ở lại cũng mạnh khỏe, hoàn thành nhiệm vụ nghe!
Huy dáo dác nhìn ngược ngó xuôi tìm kiếm Xuân, thằng bạn cùng huấn luyện ở H.15. Trong đoàn sang đây, chỉ có Huy và Xuân là về sư đoàn này. Không biết là Xuân ở trung đoàn, tiểu đoàn nào, Huy cứ vừa dõi mắt tìm, vừa hét lên hú họa: " Xuân ơí! Huy đây! Xuân H15 ơi! Huy đây! Mày đâu rồi? ".
Từ phía đầu đội hình của đoàn quân đang đi ngược lên, bỗng có một người lính chạy xuống quát to:
- Ai là Huy H15?
- Tôi, tôi đây! - Huy cuống quýt.
Người lính bước tới gần bên Huy, mỉm cười:
- Xuân không có ở đây, nó đi qua chỗ E. bộ liên hệ công tác. Tui có nghe nó kể về ông.
Huy mừng rỡ, hỏi rối rít:
- Ủa, nó làm gì mà lên E? Anh ở đơn vị nào? Nó có khỏe không vậy?
Người lính bật cười, vui vẻ nói:
- Xuân đã lên tiểu đoàn làm văn thư. Tụi tui ở D7. Sắp tới nằm chốt ở đây, chắc còn lâu mới về hậu cứ. Yên chí đi, Xuân vẫn khỏe khoắn, vui vẻ. Thôi, tui phải đi đây.Tui sẽ nói nó có gặp ông. Mạnh giỏi nghe đồng hương. - Nói chưa dứt câu, anh ta xoay lưng chạy vù đi.
- Mạnh giỏi nghe đồng hương.! Huy hét vói theo. Anh tự trách mình quên không hỏi anh ta tên gì.
Buổi trưa, đơn vị dừng chân nghỉ giải lao bên một tiểu đoàn tăng. Lác đác trên trảng cỏ khô xơ xác là những khóm cây rừng, những chiếc tăng nằm dưới bóng những khóm cây đó. Từng nhóm năm người lính một đang quây quần bên cạnh chiếc tăng ăn cơm, trông thấy tụi Huy đi qua, cất tiếng chào mời vui vẻ, thân thiện:
- Xơi cơm mấy anh ơi.
- Ăn cơm đồng hương ơi.
Dù biết là họ chỉ mời cho có, Huy cũng thấy vui vui, xúc động. Tình cảm giữa các đơn vị, các binh chủng khác nhau trong những ngày này thật sự gắn bó, thể hiện ở từng điều nhỏ nhoi như vậy. Anh gật đầu cám ơn, rồi hỏi:
- Tụi tôi đang đi tìm nước về nấu cơm. Khu này có hố nước nào không mấy anh?
- Có, có người anh em ạ! Cứ đi dọc theo đường mòn này vài trăm mét nữa, có một vũng nước lớn lắm.
Theo lời những người lính tăng, đi thêm khoảng năm trăm mét, băng vào một cụm cây cao rậm rạp, Huy, Thuận gặp vũng nước. Ðó là một khoảng đất trũng hình bầu dục, đường kính chừng bốn mét, nằm giữa một bãi cỏ. Nó có nước là nhờ đợt mưa dầm hồi cuối tháng trước, nhưng đến nay cũng đã vơi cạn đi nhiều. Mặt nước tù đọng nổi lều bều những lá khô rơi, những váng rêu xanh mốc. Rải rác bên bờ vũng có những chỗ cỏ bị đè nát, lỗ chỗ dấu chân thú rừng trên mặt bùn non. Màu nước vàng đục, lợn cợn trông thật tởm. Nhưng có nước đã là quí lắm rồi. Huy mở bung tấm nylon ra, gấp làm hai, rồi móc túi quần lấy hai sợi dây võng cột gút hai đầu tấm nylon vào hai đầu cành cây đã chặt sẵn từ trước, tạo thành một cái võng chứa nước dã chiến. Xong xuôi, hai người gỡ nón cối ra bước xuống ven vũng, múc nước đổ đầy chiếc cáng. Dù có tải theo mấy can rùa nước dự trữ, Quân vẫn cẩn thận bảo anh em cố đi tìm nguồn nước, để dành lại số nước có sẵn phòng khi bất trắc.
Hai người về tới chỗ trung đội. Phái đã nổi lửa từ lúc nào. Anh nhanh nhẹn trút gạo vào nồi, đổ nước vào rồi bắc lên chiếc bếp dã chiến đào âm vào nền đất, bỏ qua công đoạn vo gạo. "Ăn thế càng thêm bổ!" Phái biện bạch dù chả ai có ý kiến gì.
Cơm nước xong, mỗi người tìm chỗ mắc võng, hay trải chiếu lên trên lớp cỏ khô để nghỉ lưng. Huy đang dáo dác tìm nơi cột võng thì Quân gọi:
- Lại đây Huy, đây có chỗ giăng nè.
Quân mắc võng giữa hai cây rừng cỡ bắp chân. Bên tay phải anh có một nhánh lớn xòa xuống thấp từ một cây to gần đó. Huy cột một đầu võng vào nhánh cây đó, đầu kia vào thân cây đầu võng của Quân. Rồi anh ngồi lên võng, ngả lưng ra khoan khoái.
Huy nhắm mắt lại dỗ giấc, anh cũng đã mệt nhoài sau chặng hành quân. Nhưng rồi anh thấy đầu mình tỉnh như sáo, không sao ngủ được, như vừa uống xong một ly cà phê thật đậm. Anh nhổm lưng ngó qua Quân. Quân cũng không ngủ, anh vòng hai tay ra sau ót, mở mắt nhìn lên vòm lá trên đầu.
Huy ngần ngừ một lúc, rồi nói:
- Thương thằng Trung quá, anh Quân! Không biết giờ nó ra sao!
Quân thở dài:
- Cầu mong cho nó hết bệnh. Nó là một người tốt...và hiếm có...
Huy ngạc nhiên. Anh không hiểu Quân muốn nói gì. Huy im lặng ngẫm nghĩ một lúc rồi buột miệng hỏi:
- Hiếm có là sao hả anh?
- Thật ra, điều này anh khó mà giải thích. Với lại, nó chỉ là cách nghĩ của anh thôi, Huy à. Huy biết không, thường thì mọi người coi những người bị lên cơn điên khùng sau một cú sốc, một thương tổn tâm lý là những người yếu đuối, đáng thương. Người ta thương hại, và người ta cũng coi thường những người này. Thật ra, những người điên này cao quí, đáng trọng hơn nhiều so với vô khối loại người. Họ trung thành với điều họ coi là lẽ phải, là chân lý, và khi điều này bị xúc phạm, họ không chịu đựng được. Họ là những người có nhiều tính nhân bản hơn người khác.
Huy ngơ ngác nghe Quân nói. Những câu giải thích của Quân còn khó hiểu hơn cả nhận định của anh. Tuy vậy, những lời trầm buồn của Quân in sâu vào trí nhớ Huy. Anh nhớ hầu như đúng từng câu, từng chữ. "Rồi sẽ có ngày mình hiểu!" Huy tự hứa với mình. Anh chợt nghĩ tới một điều khác.
- Em có nghe Ụ Mối kể về anh. Anh không muốn về nước sao anh Quân?
- Muốn chứ. Anh cũng nhớ thành phố lắm. Nhưng anh không còn ai, không còn nơi nào để coi là gia đình, là mái ấm của mình nữa. Anh cũng không thể xa anh em, đồng đội. Trung đội bây giờ là nhà của anh đó Huy.
Quân chợt mỉm cười. Anh nhìn Huy với đôi mắt sáng. Không thể gọi Quân là một người đẹp trai. Dáng anh cao gầy, lưng hơi khòm khòm. Nét mặt anh là nét mặt của một người bình thường, không xấu cũng không đẹp, và không có gì đặc biệt. Một gương mặt mà người ta có thể nhìn lướt qua rồi sau đó sẽ quên khuấy đi ngay. Tuy nhiên, Quân có một đôi mắt khác thường. Mắt anh tỏa một ánh sáng dịu dàng, kỳ diệu. Ánh sáng đó làm cho bất cứ người nào, khi nhìn vào đôi mắt của Quân, cũng sẽ có cảm giác mình như tốt hẳn lên, tự tin hẳn lên. Và những khi Quân im lặng, nét mặt anh có một sự bình thản lạ thường, bình thản nhưng không gây cảm giác lạnh lùng, xa cách. Ở Quân ánh lên một vẻ đẹp bên trong khó diễn tả thành lời. Ngay từ hôm gặp Quân lần đầu, Huy đã không cưỡng nổi một niềm tin cậy và yêu mến tự nhiên đối với anh. Quân nói:
- Hôm trước, lúc em ra hồ tải nước. Ụ Mối nó lục ba lô em lấy cuốn sổ ra đọc um lên. Em cũng lãng mạn lắm nghe Huy! Thơ em có sự rung cảm, có sức mạnh nội tại đó, nhưng còn dàn trải lắm. Thơ em là lời độc thoại với chính mình, nó không phải là loại thơ dành cho người thứ hai nào khác ngoài em. Anh thấy qua những bài thơ và đoạn nhật ký đó, em đa cảm và mang nhiều ảo tưởng quá Huy. Ðó không phải là điều tốt cho em đâu. Em sẽ vì nó mà chịu nhiều bất hạnh.
Huy nhìn Quân đăm đăm, ngạc nhiên thấy Quân chỉ với những lời giản dị như vậy đã nói thật chính xác được những gì mà chính anh cũng đã từng cảm nhận một cách mơ hồ. "Anh Quân hiểu mình còn hơn mình hiểu chính mình nữa!" - Huy la thầm trong bụng. Quân nói tiếp:
- Em đang băn khoăn về những điều hư huyễn đó Huy. Tốt hơn em nên cố gắng dẹp bỏ đi những khái niệm phân biệt về bản chất con người. Con người chỉ đơn giản là con người thôi. Có tốt, có xấu, có thiện, có ác, có sự hèn nhát song song với bản chất anh hùng. Tốt hay xấu, thiện hay ác, hèn nhát hay anh hùng theo đánh giá của người khác ngoài bản thân của một cá nhân chỉ là cái vỏ bên ngoài, là hiện tượng, biểu hiện nhất thời. Nếu đúng lúc, đúng thời cơ thì nó là hay, nếu không đúng lúc thì nó là điều dở, chỉ vậy thôi Huy. Tất nhiên, ở mỗi cá nhân, mức độ giữa những bản chất này có khác nhau. Nhưng có ích gì việc đi đánh giá, khen chê, phẩm bình người khác, và đặt niềm tin nơi người khác. Em chỉ nên quay lại nhìn nhận chính mình, chỉ nên tin vào con người nói chung, chứ không phải là bất cứ một con người cụ thể nào...
Quân chợt ngưng lời. Anh thấy lòng quặn lên một nỗi xót xa khôn tả. Anh đã cảm nghiệm, kinh qua những điều vừa nói với Huy bằng chính những mất mát đổ vỡ của mình. Anh chợt thấy băn khoăn. Huy còn trẻ quá, còn hồn nhiên chân thật nào khác gì một đứa trẻ thơ. Huy chính là hình ảnh của chính anh thời thơ dại: đầy khát khao hiểu biết, đầy mơ tưởng ngây thơ, đầy niềm tin, hy vọng... Có nên nói với Huy những điều này không? Có thật sự cần thiết hay không?...Lướt qua đầu Quân một chuỗi hình ảnh của ngày qua: một thằng Quân nhỏ xíu, ngơ ngác nghe mấy ông cậu bà dì bảo: "Ba má mày chết cả rồi!" - " Chết là sao hả cậu? " - " Là mày không bao giờ gặp lại ba má mày nữa." – " Vậy ba má con đi đâu? " – " Ði xa lắm..." – " Xa tới đâu hả dì?" - " Xa lắm, có nói mày cũng không biết đâu mà hỏi." – " Vậy chừng nào ba má con về? " – " Họ không về nữa đâu, họ đi mãi mãi..."... Nó ôm mặt khóc nức nở. Lần đầu tiên nó đã ý thức về cái chết như là sự xa cách, bất ngờ và không hiểu nổi...; Rồi một thằng Quân bụng đói như cào, lang thang trên đường phố, bị tụi trẻ bụi đời đánh đập, bị chó rượt cắn, bị người lớn mắng chửi khi nó liều bước vào nhà xin chút cơm ăn...; Rồi một thằng Quân mặc áo nâu sồng, lưng thẳng đơ, nghiêm nghị ngồi nghe sư cụ giảng giải những lẽ mất còn, những điều sắc sắc không không...Có lần, sư cụ đã dạy Quân: " Con không nên tin vào những gì người khác nói, kể cả một người đáng trọng nhất con từng biết, kể cả Ðức Phật, nếu như người có hiện ra trước mặt con; không nên tin vào sách vở, kể cả đó là một quyển kinh điển hầu hết mọi người đều tôn sùng ca ngợi, khi chưa tự mình chứng nghiệm, kinh qua. Một khi con đã tự mình chứng nghiệm, kinh qua, một khi trái tim con hòa hợp cùng lý lẽ, một khi thâm tâm con cuối cùng mách bảo đó chính là lẽ phải, điều nên - cái đó, chúng ta gọi là lương tâm - khi ấy, con hãy tuân theo những gì lương tâm con thúc giục con. " Quân đã cảm nghiệm, đã tự mình minh chứng tính chất đúng đắn của lời dạy đó sau bao nhiêu năm tháng băn khoăn. Quân đã hiểu ra một điều: Lẽ phải, hay như sư cụ nói – lương tâm- thật sự không nằm ở luân lý, đạo đức hay pháp luật. Tất cả những thứ đó đều có thể đổi thay cùng lịch sử. Lẽ phải là điều cao viễn hơn chúng, vĩnh hằng, thuộc về mỗi cộng đồng, và cũng thuộc về mỗi cá nhân. Nó đã được di truyền qua bao thế hệ, hình thành và tồn tại trong cuộc chiến đấu sinh tồn. Nó mang tính cá thể vì nó nằm khuất trong ý thức, tiềm thức mỗi con người riêng biệt. Nó lại mang tính cộng đồng vì nó là mối dây liên kết giữa từng cá thể với nhau trong cuộc sống chung. Một người khi hành động một điều không hợp với lẽ phải đó, sẽ có thể che dấu, dối gạt được người khác, nhưng không thể che dấu, dối gạt chính mình. Họ sẽ cảm thấy bất an, day dứt, đau đớn không nguôi, dù đôi lúc đôi khi hay suốt cả đời.
Quân quay sang Huy. Huy vẫn mở to mắt nhìn anh chờ đợi. Có lẽ trong đầu óc của nó mình là một con người hoàn hảo lắm, là một tấm gương đáng để nó noi theo... Quân nghĩ thầm rồi nói tiếp:
- Ðừng đặt toàn bộ niềm tin vào bất cứ ai Huy à... kể cả anh hay người nào khác, nếu không, khi niềm tin sụp đổ, em sẽ không đủ sức chịu đựng nó đâu. Và điều quan trọng em cần luôn luôn nhớ, là cái tốt thật sự, cái chân lý thật sự cũng chỉ là tương đối. Em có bản chất tốt, có niềm tin, vậy hãy tin rằng những điều không làm những người đang sống quanh em thiệt hại, đau khổ là điều thiện, điều mình phải nỗ lực thực hiện, và chỉ cần như vậy là đủ rồi. Chỉ vậy thôi cũng đã khiến em phải tự đấu tranh rất gian lao rồi đó Huy.
Quân ngưng lời, anh thở dài, im lặng một lúc lâu.
Huy vẫn còn choáng váng với những gì Quân nói. Chúng như những tia chớp loé lên, sáng rực trong khoảnh khắc, soi rọi đến tận những ngõ ngách thâm u, mờ mịt nhất trong ý thức của Huy. Tuy vậy, anh không hiểu hết, chỉ cố gắng ghi nhớ chúng. Huy chợt phát hiện ra một điều kỳ quặc - Quân nói như một nhà tu sĩ, nhưng anh vẫn hành xử như bao người bình thường khác, vẫn cầm súng chiến đấu một cách dũng cảm, có thể nói là anh hùng nữa cũng không quá đáng. Có một sự mâu thuẫn nào đó thật lạ lùng trong con người này! Anh suy tư như một nhà hiền triết, nhưng sống và hành động như một con người đầy nhiệt tâm, đầy lòng đam mê cuộc sống. Một lúc sau, Huy hỏi:
- Tại sao mình lại đánh nhau ở đây anh Quân? Sao mình không để bộ đội K. tự lo lấy chuyện của họ ? Em có nghe anh Ngô chính ủy trung đoàn giải thích vấn đề này rồi, nhưng em thấy nó sao sao đó, không thuyết phục. Mấy bữa trước em qua nghe ké "ra-dô" bên đại đội 13, anh Vụ có mở đài Polpot nghe xem chúng nói gì. Mẹ kiếp! Chúng chửi quân tình nguyện Việt Nam mình là lũ xâm lược, chả khác gì mình chửi lính Mỹ trước đây. Liệu người dân Campuchia có coi mình là lũ ngoại bang xâm lược không anh?
- Bản chất những người lính tụi mình khác với bản chất những người lính Mỹ. Anh nói khác ở đây không phải là về cái tốt hay cái xấu. Khác là ở nền văn hoá, ở tư tưởng, quan niệm, truyền thống dân tộc. Lính Mỹ không hiểu dân Việt, do đó, hoặc họ sợ hoặc họ coi thường, khinh rẻ dân ta. Còn chúng ta và dân Campuchia không khác gì nhau mấy, chúng ta và họ có cùng một nền tảng, bản sắc văn hoá như nhau. Chúng ta hiểu họ, thương mến họ. Và những người dân chất phác này cũng hiểu và thương mến chúng ta. Còn như tại sao chúng ta lại phải chiến đấu thế này, là một chuyện không dễ nói. Ðúng là nếu chúng ta sớm rút quân về thì tốt hơn, nhưng tình thế hiện nay rất nhiều chuyện rối ren. Em cũng không nên thắc mắc dằn vặt làm chi. Nói cho cùng, chúng ta chỉ là những hạt cát bị cuốn theo vòng xoay của thời đại, của lịch sử thôi Huy.
- Tại sao lại phải né tránh sự thật hả anh? Em nghĩ nếu không xác định được ý nghĩa, mục đích, thì làm sao chúng ta có đủ niềm tin và ý chí để chiến đấu. Từ hồi nhỏ, em đã thích những chuyện hào hiệp anh hùng, thích những bài thơ, bài hịch hùng tráng. Em nghĩ rằng đối với đàn ông thì chuyện cao quí nhất để làm là chiến đấu, là "da ngựa bọc thây".
- Ðiều này cũng là một trong những ảo tưởng của em đó Huy ơi! - Quân có vẻ buồn buồn. Anh dừng lời, im lặng một lúc lâu - Và cũng là điều mà nhiều người ảo tưởng về nó. Chiến tranh rốt cuộc chỉ để phục vụ cho mưu đồ tham vọng của những người cầm quyền. Ở những cuộc chiến xâm lược thì điều này đã hẳn nhiên rồi, không có gì để bàn cãi nữa. Nhưng cả ở những cuộc chiến tranh giữ nước, chống ngoại xâm, hay nội chiến rồi cũng vậy thôi. Lịch sử đã cho thấy rồi, khi cởi bỏ được ách thống trị hà khắc, bóc lột của ngoại bang, hay đã lật đổ một chế độ thối nát nào trước đó, và đã nắm được quyền lực trong tay, người ta thường quên đi những điều ích dân, lợi nước. Họ, hoặc người kế thừa của họ chỉ còn nuôi tham vọng củng cố quyền uy hoặc xa hoa hưởng thụ. Chỉ có những người dân, những người lính tầm thường là mất rất nhiều, mà được rất ít, hoặc chẳng được gì. Trừ phi là chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, còn thì những cuộc chiến khác không mang tới cho họ điều gì hay ho cả. Cái họ cần chỉ đơn giản là một mái nhà, một gia đình êm ấm, một mảnh ruộng vườn nho nhỏ và một cuộc sống thanh bình...Biết bao nhiêu người phơi xác, tên tuổi cũng vùi sâu vào cát bụi lãng quên, chỉ để cho một vài kẻ trở thành những vị anh hùng lưu danh sử sách. Từ khi khái niệm anh hùng nguyên sơ của thời cổ đại xa xưa đã trở thành một chủ nghĩa- chủ nghĩa anh hùng- nó đã bị biến tướng, đổi thay về chất, trở nên một sự mê hoặc, một sự lừa dối kinh khủng, đã bị người ta lấy nó làm chiêu bài che đậy những sự xấu xa, Huy có hiểu không. Mỗi con người đều có khả năng trở thành một anh hùng, một tài năng để cống hiến cho xã hội, họ vốn mang sẵn trong người cái đó. Nhưng để làm một anh hùng chân chính thì rất khó, rất hiếm hoi... Anh đã từng băn khoăn, nghĩ ngợi nhiều về vấn đề này, nhưng rồi thấy nó thật là phức tạp. Có những điều chúng ta có thể cảm nhận phần nào, nhưng không thể diễn tả nó ra một cách minh bạch bằng lời đâu Huy...Thôi, đừng nói chuyện này nữa nghe Huy. Có lẽ càng nghĩ về mọi sự một cách giản đơn, càng dễ chịu, ít gặp rắc rối hơn đó Huy. Nhiều khi, anh ước ao mình không hiểu biết gì cả, thế lại hoá hay...
Quân điểm lại trong đầu những cái tên vua chúa, anh hùng; Những cuộc cờ chính trị tranh đoạt thế quyền đầy khí trá, gian manh, thủ đoạn ghê người, đẫm máu và nước mắt của biết bao nạn nhân vô tội; Sử sách còn rành rành ghi lại đó. Ở bất kỳ thời nào, ở bất kỳ nơi nào trên quả đất bé nhỏ này, những chuyện như vậy vẫn cứ diễn ra. Nó vẫn diễn ra dù là dưới những hình thức khác nhau. Bao giờ con người mới thật sự xoá bỏ được mọi khái niệm phân biệt, hữu danh vô thực, để yêu thương nhau, để sống một cuộc sống thanh bình, an lạc? Sống không phải để hận thù ganh ghét. Sống để yêu thương và sáng tạo. Ðể mỗi một con người đều là một vì sao, một mặt trời nhỏ tự tỏa sáng bằng ánh sáng của chính mình. Sẽ có một ngày như vậy đến hay không? - Quân tự hỏi lòng.
Huy thân thiết nhìn Quân. Mãi đến hôm nay, Huy mới có một cuộc trò chuyện thật sự với anh. Quân nói nhiều điều thật là mới mẻ, dù có những chỗ Huy chưa thật hiểu, và đôi chỗ khác Huy không đồng ý với Quân, nhưng Huy vẫn thấy lòng tràn ngập một niềm quý mến và cảm phục anh. Không rõ vì sao, lòng Huy chợt rộn lên một niềm ước ao mãnh liệt - được nắm lấy bàn tay Quân, nắm và xiết thật mạnh, thật lâu.
Trầm ngâm một hồi, Huy hỏi:
- Anh Quân thích viết như vậy, chắc hồi đó anh học khoa văn phải không?
- Anh học khoa triết. Anh yêu triết học từ hồi còn nhỏ. Hồi đó, tối tối sau buổi tụng kinh, sư thầy thường ngồi giảng dạy cho anh mọi lẽ. Lớn lên một chút, anh đọc mấy cuốn triết khô khan còn mê mải hơn đọc tiểu thuyết. Nhưng triết học không giải quyết được vấn đề của cá nhân đâu Huy ạ. Triết học chỉ là cánh cửa mở hé cho ta thấy ánh sáng bên ngoài. Còn nguồn sáng ở đâu, tự thân mỗi người phải đi tìm nó. Huy biết không, anh viết vì cảm thấy hạnh phúc khi đang viết. Anh không nghĩ những gì mình viết là hay, hay có giá trị gì cho người khác. Tuy vậy, anh vẫn gửi đi. Anh nghĩ đó là sự thể hiện mối quan tâm tới người khác, ý muốn hòa đồng, chia sẻ với người khác, và tình thương yêu cuộc sống của anh. Anh làm hết những gì mình có thể làm, vậy là anh thấy yên ổn trong lòng.
- Chắc anh Quân có làm thơ? Hôm nào anh cho em đọc với nghe.
- Anh không có năng khiếu về thơ ca như Huy đâu. Thơ anh dở lắm. Nói đúng ra, đó không phải là thơ, mà đơn giản là những suy nghĩ xếp thành vần. Ðể rồi anh sẽ đưa Huy đọc. Thôi, ngủ đi Huy. Ðêm nay là ém quân vào cứ điểm rồi. Ngày mai sẽ là một ngày vất vả...
Huy nghiêng người, nhắm mắt lại. Anh rơi vào giấc ngủ ngay sau đó.
--------------------------------
1 Chiến lợi phẩm
Mùa Xa Nhà Mùa Xa Nhà - Nguyễn Thành Nhân Mùa Xa Nhà