Nguyên tác: Moon Palace
Số lần đọc/download: 2638 / 72
Cập nhật: 2015-09-18 01:22:47 +0700
Chương 5
Đ
ó là tất cả của ngày hôm ấy. Ngay khi thốt ra câu cuối cùng, Effing dừng lại để thở, và trước khi ông kịp tiếp tục câu chuyện của mình, bà Hume bước vào phòng thông báo đã đến giờ ăn trưa. Sau những điều khủng khiếp ông vừa thuật lại, tôi cứ nghĩ sẽ thật khó khăn cho ông để lấy lại phong thái, nhưng có vẻ như sự cắt đứt giữa chừng không mấy tác động đến ông. “Tốt”, ông nói, vỗ vỗ hai bàn tay vào nhau. “Đến lúc ăn trưa rồi. Tôi đói chết mất.” Tôi sửng sốt khi thấy ông có thể chuyển từ tâm trạng này sang tâm trạng khác nhanh chóng đến vậy. Chỉ mới một lúc trước, giọng ông còn run rẩy vì xúc cảm. Tôi đã nghĩ khéo mà ông sắp gục ngã, và giờ đây, đột nhiên, ông đã lại tràn đầy nhiệt hứng và thân ái. “Giờ thì chúng ta vào bàn thôi, cậu bé,” ông nói với tôi và tôi đẩy xe cho ông vào phòng ăn. Đó mới chỉ là đoạn đầu, cái mà anh có thể gọi là lời mào đầu ấy. Cứ đợi cho đến khi tôi hào hứng hơn nhé. Anh vẫn còn chưa nghe được mấy chuyện đâu.”
Khi chúng tôi đã ngồi xuống bàn, bản cáo phó không hề được nhắc đến nữa. Bữa trưa diễn ra một cách bình thường, đi kèm với những tiếng xì xoạp và những trò thô lỗ quen thuộc, không nhiều hơn không ít hơn thường ngày. Cứ như thể Effing đã quên biến mất là mình vừa bỏ ba tiếng đồng hồ trút bầu tâm sự với tôi trong căn phòng bên kia vậy. Chúng tôi nói những câu chuyện hàng ngày, và đến cuối bữa ăn chúng tôi xem bản tin dự báo thời tiết để chuẩn bị cho cuộc dạo chơi buổi chiều. Mọi việc diễn ra đều đều như vậy trong ba hoặc bốn tuần tiếp theo. Buổi sáng, chúng tôi làm việc với bản cáo phó; buổi chiều, chúng tôi ra ngoài đi dạo. Tôi chép những câu chuyện của Effing vào hơn một chục quyển sổ, tốc độ trung bình là khoảng hai mươi hay ba mươi trang mỗi ngày. Tôi phải viết thật nhanh để theo kịp ông, thành ra nhiều khi chữ rất khó đọc. Có lúc tôi hỏi ông liệu có thể chuyển sang thu băng được không, nhưng Effing từ chối. Không điện, ông nói, không máy móc. “Tôi ghét tiếng ồn của những thứ khó chịu ấy. Chỉ cần nghe tiếng vo vo vù vù đó là đủ phát ốm lên rồi. Thứ âm thanh duy nhất tôi muốn nghe là tiếng ngòi bút của anh chạy trên mặt giấy.” Tôi giải thích với ông mình không phải là một thư ký chuyên nghiệp. “Tôi không biết ghi tốc ký,” tôi nói, “rồi còn cả chuyện tôi luôn gặp khó khăn để luận những gì mình đã viết nữa.” “Thế thì cứ gõ máy chữ khi nào không có tôi ở đây,” ông nói. “Anh cứ dùng cái máy chữ của Pavel. Nó là một cái máy cũ rất đẹp, tôi đã mua cho ông ấy khi chúng tôi đến Mỹ vào năm ba mươi chín. Một chiếc Underwood. Người ta không làm những cái giống như thế nữa. Nó phải nặng đến cả tấn.” Đêm hôm đó, tôi lôi nó ra từ đằng sau cái tủ trong phòng và đặt nó lên một cái bàn nhỏ. Kể từ đó, mỗi tối tôi bỏ ra nhiều giờ đánh máy chữ chép lại những trang ghi trong buổi sáng. Đó là một công việc nhàm chán, nhưng các từ của Effing vẫn còn rất sống động trong óc tôi, thành thử tôi không làm rơi rớt chúng nhiều lắm.
Sau khi Byrne chết, ông nói, ông không còn chút hy vọng nào. Ông miễn cưỡng tìm cách thoát ra khỏi canyon, nhưng ông nhanh chóng lạc lối giữa một trận đồ những chướng ngại vật: các vách đá, hẻm núi, chỏm đất không thể trèo lên. Con ngựa của ông gục ngã vào ngày thứ hai, nhưng vì không tìm được củi nên thịt xẻ ra gần như không dùng để làm gì. Cái thứ cây ngải đắng không dùng để nhóm lửa được. Nó bốc khói và kêu xèo xèo, nhưng không bùng lên thành ngọn lửa. Để đè nén cơn đói, Effing lọc lấy từng rẻo thịt từ cái xác ngựa rồi lấy diêm hun lên. Làm vậy cũng đủ cho một bữa, nhưng sau khi hết diêm, ông vứt con vật lại đằng sau vì không muốn phải ăn thịt sống. Đến lúc đó, Effing tin rằng cuộc đời mình đã chấm dứt. Ông tiếp tục mò mẫm giữa những tảng đá, dẫn theo con lừa duy nhất còn lại, nhưng ở mỗi bước đi, ông lại bị hành hạ bởi ý nghĩ mình đang ngày càng rời xa khỏi khả năng được cứu thoát. Dụng cụ vẽ của ông vẫn còn nguyên vẹn, và ông có đủ lương thực và nước cho hai ngày nữa. Điều này có vẻ chẳng còn mấy ý nghĩa. Ngay cả khi sống được qua nó, thì ông cũng vẫn nhận ra rằng mọi thứ đã kết thúc với mình rồi. Cái chết của Byrne lấy đi của ông mọi lựa chọn, và không còn con đường nào ông có thể dùng để trở về nhà nữa. Có vẻ như nỗi tủi nhục về việc này là quá sức với ông: những câu hỏi, những lời buộc tội, sự mất mặt. Sẽ tốt hơn nhiều nếu họ nghĩ là ông cũng đã chết, như vậy thì ít ra danh dự của ông sẽ được bảo toàn, và sẽ không ai có thể biết được ông đã yếu đuối và vô trách nhiệm đến mức nào. Đó là thời điểm Julian Barber bị xóa sổ: ở trên sa mạc, giữa những tảng đá và ánh nắng chói chang, ông chỉ đơn giản là tự diệt trừ mình. Khi ấy, điều này với ông không hẳn là một quyết định lớn lao gì lắm. Không còn nghi ngờ gì chuyện ông sẽ chết, và ngay cả nếu không phải vậy, thì chết đi cũng là cách tốt nhất. Sẽ không ai biết một chút gì về những điều đã xảy đến với ông.
Effing nói với tôi rằng ông đã phát điên, nhưng tôi không chắc mình phải hiểu từ đó theo nghĩa đen đến mức độ nào. Sau khi Byrne chết, ông nói, ông hú hét trong suốt ba ngày, lấy máu rướm ra từ hai bàn tay bị đá cào rách bôi lên mặt, nhưng xét theo hoàn cảnh, tôi thấy hành động này không mấy bất thường. Tôi cũng đã la hét trong suốt cơn bão ở Công viên Trung tâm, mà tình thế của tôi còn xa mới tuyệt vọng bằng tình thế của ông. Khi một người cảm thấy đã không còn gì để trông chờ, sẽ hoàn toàn tự nhiên khi anh ta muốn hét lên. Không khí vón cục lại trong phổi anh ta, và anh ta không tài nào thở nổi nếu không đẩy nó bật ra khỏi người mình, nếu không hú lên bằng toàn bộ sức lực của mình. Nếu không, anh ta sẽ nghẹt thở, cả bầu trời sẽ đổ ụp xuống anh ta.
Vào buổi sáng ngày thứ tư, khi đã hết thức ăn và bi đông chỉ còn lại chưa đầy một cốc nước, Effing nhìn thấy thấp thoáng một cái hang trên đỉnh một vách đá gần đó. Đây sẽ là một chỗ tốt để chết, ông nghĩ. Tránh được mặt trời chiếu vào và không bị lũ kền kền xông tới, một nơi khuất nẻo đến mức sẽ không ai tìm được ông. Thu hết lòng can đảm còn sót lại, ông bắt đầu chặng đường leo lên đầy gian khổ. Mất gần hai tiếng đồng hồ ông mới lên được đến nơi, và khi tới đỉnh thì ông kiệt sức, gần như không đứng vững nổi nữa. Cái hang rộng hơn nhiều so với nhìn từ bên dưới, và Effing kinh ngạc nhận ra mình không cần khom người cũng có thể vào trong được. Ông gạt đống cành lá chặn ở cửa hang để bước vào. Trái ngược với dự đoán của ông, cái hang không trống rỗng. Ăn sâu vào vách đá chừng hai mươi feet, nó chứa đựng nhiều thứ đồ đạc: một cái bàn, bốn cái ghế, một cái tủ, một cái bếp lò bụng phình cũ nát. Xét về mọi khía cạnh và mục đích, đó là một ngôi nhà. Các đồ vật đều có vẻ được chăm chút, và mọi thứ trong phòng đều được sắp xếp ngay ngắn, theo một dạng trật tự thô sơ. Effing thắp ngọn nến trên bàn và mang nó theo để đi về phía trong góc, khám phá những góc tối mà ánh sáng ban ngày không chiếu đến được. Ông tìm được một cái giường kê sát bức tường bên trái, và trên giường có một người đàn ông. Effing cứ nghĩ ông ta đang ngủ, nhưng khi hắng giọng để báo hiệu sự có mặt của mình mà không nhận được câu trả lời, ông cúi xuống và đưa ngọn nến vào sát mặt người lạ. Khi đó ông nhận ra người đàn ông đã chết. Không phải chỉ là chết, mà còn bị giết. Tại nơi từng là con mắt bên phải của ông ta, giờ chỉ còn là một hố đạn rộng toác miệng. Con mắt bên trái nhìn vô hồn vào bóng tối, và cái gối đặt dưới đầu đẫm máu.
Rời khỏi cái xác, Effing quay trở lại chỗ cái tủ và thấy nó đựng đầy đồ ăn. Đồ hộp, thịt ướp muối, bột mì và các dụng cụ nấu ăn - trên các giá có đủ lương thực cho một người trong một năm. Ông nhanh chóng nấu cho mình một bữa ăn, ngấu nghiến nửa ổ bánh mì và hai hộp đậu. Khi đã thỏa mãn cơn đói, ông bắt tay vào việc giải quyết cái xác người đàn ông. Ông đã lập ra một kế hoạch; chỉ còn lại việc biến nó thành hiện thực. Hẳn người đàn ông đã chết là một người ở ẩn, Effing lập luận, sống một mình như vậy ở trên núi, và nếu quả là như vậy, sẽ không có nhiều người biết ông ta ở đây. Với tất cả những gì ông thu thập được (thịt vẫn chưa bị phân hủy, không có mùi gì quá nồng, bánh mì còn chưa hỏng), vụ giết người hẳn mới xảy ra gần đây, có khả năng là mới được vài giờ - điều đó có nghĩa người duy nhất biết người đàn ông đã chết là kẻ đã giết ông ta. Không gì có thể ngăn cản ông chiếm lấy chỗ ở của người ẩn dật, Effing nghĩ. Họ ít nhiều cùng tuổi với nhau, ít nhiều cùng khổ người, cả hai đều có mái tóc màu nâu nhạt. Sẽ không khó khăn gì việc để một bộ râu và mặc quần áo của người đã chết. Ông có thể chiếm lấy cuộc đời của người ẩn dật và tiếp tục sống nó hộ ông ta, làm như thể hồn người đàn ông giờ đây đã chuyển sang trú ở trong người ông. Nếu có ai đó lên đây thăm ông, ông có thể chỉ đơn giản là vờ làm một người không phải là ông - và xem thử liệu mình có thể làm được việc đó không. Ông có một khẩu súng trường để tự vệ nếu có chuyện không hay xảy ra, nhưng ông cũng hình dung được là mình sẽ có lợi thế trong chuyện này, vì có vẻ như là một người sống ẩn dật sẽ có rất ít khách ghé thăm.
Sau khi cởi lấy quần áo của người xa lạ, ông kéo cái xác ra khỏi hang và lôi nó đi vòng quanh vách đá ra phía sau. Tại đó ông khám phá ra điều đáng chú ý hơn cả: một ốc đảo nhỏ thấp hơn cái hang chừng ba mươi hay bốn mươi feet, một khoảnh đất xanh um với hai cây dương tỏa bóng mát, một dòng suối đang chảy, và rất nhiều loại cây bụi nhỏ mà ông không biết tên. Đó là một cõi sống tí hon ở giữa sự cằn cỗi ghê gớm kia. Khi chôn người ở ẩn xuống dưới lòng đất mềm bên cạnh dòng suối, ông nhận ra ở nơi này mình có tất cả mọi thứ. Ông có lương thực và nước; ông có một ngôi nhà; ông đã tìm được một căn cước mới cho mình, một cuộc sống chưa từng bao giờ hình dung ra. Sự thay đổi lớn đến mức gần như ông không sao hiểu nổi. Chỉ mới một giờ trước, ông còn sẵn sàng để chết. Giờ đây, ông run rẩy vì hạnh phúc, không sao ngăn miệng mình nở nụ cười khi hất từng xẻng đất xuống mặt người đàn ông đã chết.
Nhiều tháng trôi qua. Thoạt đầu, Effing quá choáng váng vì vận may của mình đến mức không mấy quan tâm đến những gì xung quanh. Ông ăn và ngủ, và khi mặt trời không thiêu đốt quá mức, ông ngồi trên các tảng đá bên ngoài cái hang mà ngắm nhìn những con thằn lằn sáng màu, sặc sỡ chạy đi chạy lại dưới chân ông. Từ mỏm đá nhìn ra cảnh vật thật hùng vĩ, bao trùm nhiều dặm đất đai, nhưng ông không ngắm nhìn quá thường xuyên, mà thay vì đó lựa chọn cách tập trung các suy nghĩ của mình vào những gì ở thật gần: những chuyến đi lấy nước ở chỗ dòng suối, công việc lấy gỗ để đốt lò sưởi, ở bên trong hang. Ông đã ngắm nhìn phong cảnh quá nhiều, giờ đây ông không buồn quan tâm nữa. Rồi, thật đột ngột, cảm giác yên bình đó rời bỏ ông, và ông bước vào một giai đoạn cô đơn gần như không thể chịu đựng nổi. Nỗi hãi hùng về những tháng vừa trải qua nuốt trọn lấy ông, và trong một hoặc hai tuần tiếp đó ông đi rất gần đến việc tự sát. Trí óc ông ngập tràn những ảo giác và sợ hãi, và hơn một lần ông tưởng tượng mình đã chết, đã chết vào đúng khoảnh khắc bước chân vào cái hang và giờ đây trở thành tù nhân của một cuộc sống sau khi chết đầy tính ma quái nào đó. Một hôm, trong cơn điên rồ, ông lấy khẩu súng trường của người ở ẩn ra bắn chết con lừa, vì nghĩ rằng nó đã biến thành người ở ẩn kia, một hồn ma giận dữ quay trở lại để ám ảnh ông cùng với những tiếng kêu xảo quyệt. Con lừa biết sự thật về ông, nên ông không có lựa chọn nào khác ngoài việc loại trừ kẻ làm chứng sự gian lận của ông đó. Xong việc, ông lại bị ám ảnh bởi việc tìm hiểu nhân thân người đàn ông đã chết, dò xét kỹ lưỡng trong cái hang để tìm kiếm các manh mối, tìm một quyển sổ nhật ký, một bó thư, những tờ để trắng trong một quyển sách, mọi thứ có thể chứa đựng tên của người ở ẩn. Nhưng không có gì hiện ra, không lần nào ông tìm được một mảnh thông tin dù là nhỏ nhất.
Sau hai tuần, ông dần bình tâm lại, cuối cùng chuyển sang một dạng yên ổn về tinh thần. Việc này không thể kéo dài mãi được, ông tự nhủ, và chỉ riêng nó đã là một sự an ủi, một ý nghĩ mang lại cho ông lòng can đảm để tiếp tục. Đến một lúc nào đó, lương thực bắt đầu hết, và khi ấy ông sẽ phải đi đến một nơi khác. Ông tự cho mình quãng chừng một năm, lâu hơn một chút nếu ông cẩn thận. Đến chừng ấy, mọi người hẳn đã thôi không hy vọng là ông và Byrne còn trở về nữa. Ông ngờ là Scoresby chẳng bao giờ gửi thư của ông đi, nhưng ngay cả khi ông ta làm việc đó, về cơ bản kết quả cũng sẽ tương tự. Một đội tìm kiếm có thể được cử đi, do Elizabeth và bố của Byrne bỏ tiền chi trả. Họ sẽ đi lang thang trên sa mạc trong nhiều tuần, tìm kiếm kỹ lưỡng những người mất tích - chắc chắn là sẽ có phần thưởng cho việc ấy - nhưng họ sẽ không tìm thấy gì cả. Cùng lắm thì họ cũng chỉ có thể tìm được mộ Byrne, nhưng điều đó không dễ. Ngay cả nếu như vậy, họ cũng sẽ không đến được gần với ông hơn. Julian Barber đã biến mất, và không ai có thể tìm ra dấu vết của ông. Vấn đề là phải trốn kỹ cho đến khi họ ngừng tìm kiếm ông. Những bản cáo phó sẽ được in trên các báo của New York, một lễ tang sẽ được tổ chức, và thế là hết. Một khi chuyện đó đã xong xuôi, ông có thể đi bất kỳ đâu ông thích; ông có thể trở thành bất kỳ người nào ông thích.
Ông vẫn biết rằng thúc đẩy nhanh mọi việc lên không có ích lợi gì cả. Càng trốn lâu thì khi rời khỏi đây ông sẽ càng được an toàn hơn. Do vậy ông bắt đầu tổ chức cuộc sống của mình theo cách thức tiết kiệm nhất có thể, làm mọi cách để kéo dài thời gian ở lại đây: hạn chế ăn uống xuống còn một bữa mỗi ngày, tích trữ thật nhiều củi cho mùa đông, giữ cho cơ thể mạnh khỏe. Ông lên kế hoạch và giờ giấc cho bản thân mình, và đêm nào trước khi đi ngủ ông cũng ghi chép thật tỉ mỉ những gì đã sử dụng trong ngày, buộc mình phải tuân theo một kỷ luật nghiêm ngặt nhất. Thoạt đầu, ông thấy thật khó khăn để đạt được các mục đích đã đặt ra, thường xuyên gục ngã trước cám dỗ ăn thêm một lát bánh mì hoặc một ít đồ hầm đóng hộp nữa, nhưng tự thân nỗ lực đã là đáng giá, và nó giúp ông lúc nào cũng cảnh giác. Đó là một cách thức để tự thử nghiệm trước những yếu đuối của chính mình, và khi thực tế và lý tưởng dần dà gần với nhau hơn. Ông không thể ngăn mình nghĩ đến nó như một thắng lợi cá nhân. Ông biết rằng nó không có gì hơn một trò chơi, nhưng để chơi trò chơi đó cần phải có một sự tận tâm đến mức cuồng tín, và trạng thái tập trung cao độ đó chính là cái cho phép ông không rơi vào sự ngã lòng.
Sau hai hoặc ba tuần của cuộc sống mới mẻ và kỷ luật ấy, ông bắt đầu cảm thấy lại sự thôi thúc vẽ. Một đêm, ngồi với cây bút chì trên tay để viết báo cáo cho các hoạt động trong ngày, đột nhiên ông khởi sự bức tranh nhỏ vẽ một ngọn núi ở trang bên cạnh. Trước khi ông kịp nhận ra mình đang làm gì, bức tranh đã được hoàn thành. Chỉ mất chưa đầy nửa phút, nhưng trong cử chỉ đột ngột, vô thức ấy ông tìm thấy một sức mạnh chưa từng bao giờ hiện diện trong tác phẩm nào trước đó của ông. Cùng đêm đó, ông dỡ các dụng cụ vẽ tranh của mình ra, và kể từ bấy cho đến khi không còn màu nữa, ông tiếp tục vẽ, sáng nào cũng rời khỏi hang vào lúc bình minh và cả ngày ở lại bên ngoài. Việc đó kéo dài hai tháng rưỡi, và trong quãng thời gian đó ông hoàn thành được gần bốn mươi bức tranh. Không nghi ngờ gì nữa, ông nói với tôi, đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất của cuộc đời ông.
Ông làm việc dưới đòi hỏi của một sự bó buộc kép, và mỗi cái giúp ông theo một cách thức riêng. Đầu tiên là chuyện sẽ không ai nhìn thấy những bức vẽ này. Đó là một kết luận tất yếu, nhưng thay vì làm Effing bứt rứt với một cảm giác về sự phù phiếm, thì quả thực nó lại như thể giải phóng cho ông. Giờ đây ông đang làm việc cho bản thân mình, không còn nặng gánh lo về ý kiến những người khác, và chỉ điều ấy thôi cũng đã đủ để tạo ra một thay đổi nền tảng trong cách thức tiếp cận nghệ thuật của ông. Lần đầu tiên trong cuộc đời mình, ông ngừng lo lắng đến các kết quả, và giống như một hệ quả, các khái niệm “thành công” và “thất bại” đột nhiên mất hết ý nghĩa. Mục đích thực thụ của nghệ thuật không phải là tạo ra những thứ đồ vật đẹp, ông nhận ra. Đó là một phương pháp để thấu hiểu, một con đường xâm nhập thế giới và tìm ra vị trí của một người ở trong đó, và tất cả những gì các phẩm chất mỹ học và những bức tranh của cá nhân có thể có đều gần như chỉ là một tác dụng phụ tình cờ của cái nỗ lực tự dấn thân vào cuộc đấu tranh này, cuộc bước vào bề dày của mọi sự này. Ông tự phế bỏ khỏi mình các quy tắc đã được học, tin tưởng vào phong cảnh như một đối tác ngang hàng, sẵn sàng rời bỏ các ý định của mình để bắt lấy vận may, sự bột phát, sự ùa tới của các chi tiết thô. Ông không còn sợ sự trống rỗng vây bủa xung quanh mình nữa. Hành động gắng sức đưa nó lên trên toan vẽ theo một cách nào đó đã làm nó nhập vào bên trong ông, và giờ đây ông đã có khả năng cảm thấy sự vô cảm của nó như một điều gì đó thuộc về ông, cũng giống như khi bản thân ông thuộc về sức mạnh im lìm của những không gian mênh mông xung quanh. Những bức tranh ông vẽ ra đều sống sượng, ông nói, đầy những màu mãnh liệt và mang các đợt sóng năng lượng lạ thường, không dự tính, một sự hỗn loạn những hình thù và màu sắc. Ông không hề biết chúng xấu hay đẹp, nhưng có khả năng điều đó không quan trọng. Chúng là của ông, và chúng không hề giống với bất kỳ bức tranh nào khác mà ông từng nhìn thấy trước đây. Năm mươi năm sau, ông nói, ông vẫn nhớ được từng bức tranh ấy.
Bó buộc thứ hai tinh tế hơn, nhưng tuy vậy nó lại gây một ảnh hưởng còn lớn hơn lên ông: trên thực tế, dụng cụ vẽ của ông đang hết dần. Dù sao thì ông cũng không có vô tận tuýp màu và toan, và chỉ cần ông tiếp tục vẽ là chúng sẽ vơi đi. Ngay từ giây phút đầu tiên, điều đó đã có thể thấy rõ. Ngay cả khi ông vẽ những bức tranh của mình, thì cũng như thể ông cảm thấy rõ ràng phong cảnh đang tan biến trước mắt mình. Điều này mang đến một vẻ cảm động đặc biệt trong tất cả những gì ông làm ra trong mấy tháng đó. Mỗi lần hoàn thành một bức tranh mới, với ông các kích thước của tương lai lại co lại, cương quyết kéo ông đến gần hơn với thời khắc khi không còn một chút tương lai nào nữa. Sau một tháng rưỡi làm việc không ngừng nghỉ, cuối cùng ông cũng dùng đến tấm toan cuối cùng. Tuy nhiên vẫn còn lại khoảng một chục tuýp màu. Sợ làm cắt đứt mất nguồn cảm hứng, Effing lật bức tranh lại và bắt đầu một loạt tranh mới ở mặt sau các tấm toan. Đó là một cách trì hoãn lạ thường, ông nói, và trong ba tuần sau đó ông cảm thấy như thể mình vừa được tái sinh trở lại. Ông vẽ loạt tranh phong cảnh mới này với cùng một sự hào hứng thậm chí còn lớn hơn trong loạt tranh trước, và khi cuối cùng tất cả mặt sau các bức tranh đều đã được bôi kín, ông bắt đầu vẽ lên đồ đạc trong hang, thực sự quệt cọ lên cái tủ, cái bàn, và những cái ghế gỗ, và khi tất cả các bề mặt ấy cũng đều đã bị phủ kín, ông bóp nốt chỗ màu còn lại trong những cái tuýp và bắt đầu làm việc trên vách đá phía Nam, phác họa những đường nét chính của một bức vẽ toàn cảnh trên đá. Đó có thể là kiệt tác của ông, Effing nói, nhưng khi mới vẽ được một nửa thì màu hết.
Rồi mùa đông đến. Ông vẫn còn lại nhiều quyển sổ và một hộp bút chì, nhưng thay vì chuyển từ vẽ tranh sang ký họa, ông lại thu mình trong những tháng lạnh giá và dành thời gian để viết. Trong một quyển sổ ông ghi lại những suy nghĩ và quan sát của mình, cố sức làm bằng ngôn từ những gì trước đó ông đã làm với các hình ảnh, và trong một quyển sổ khác ông tiếp tục chép các hoạt động hàng ngày của cuộc sống, một cách thật chính xác: số lượng lương thực đã ăn, còn lại bao nhiêu lương thực, đã đốt bao nhiêu nến, còn lại bao nhiêu nến. Tháng Giêng, trời đổ tuyết suốt trong một tuần, và ông thích thú ngắm nhìn cái màu trắng đó rơi xuống các tảng đá màu đỏ, làm biến đổi phong cảnh vốn đã trở nên rất quen thuộc với ông. Buổi chiều, mặt trời ló ra và làm tan chảy tuyết thành những khoảng trống không đều đặn, tạo ra một dạng hình đốm đẹp đẽ, và khi gió nổi lên, nó sẽ thổi tung những hạt màu trắng dạng bụi vào không khí, làm chúng xoay tròn trong những điệu vũ ngắn ngủi và mãnh liệt. Effing có thể đứng nhìn tất cả những cái đó trong nhiều giờ liền, không bao giờ thấy mệt với chúng. Cuộc đời ông đã trở nên chậm rãi đến mức giờ đây những đổi thay dù là nhỏ nhất với ông cũng vô cùng hiển hiện. Sau khi hết màu vẽ, ông trải qua một giai đoạn ăn không ngồi rồi đầy đau khổ, nhưng rồi ông phát hiện viết có thể tạo ra một sự thay thế thích hợp cho vẽ tranh. Tuy nhiên, quãng giữa tháng Hai, ông viết hết tất cả những quyển sổ, không còn trang nào để viết chữ lên nữa. Ngược lại với những gì ông trông đợi, điều này không làm tâm trạng ông u tối thêm. Ông đã xuống sâu trong nỗi cô đơn của mình đến nỗi không còn cần sự giải trí nào cả. Ông thấy gần như là không thể tưởng tượng nổi, nhưng dần dần ông chán ngán thế giới.
Cuối tháng Ba, cuối cùng ông cũng có người khách đầu tiên. Thật là may mắn, khi đó Effing đang ngồi trên nóc hang thì người lạ mặt xuất hiện ở phía dưới vách đá, và điều này cho phép ông dõi theo chặng đường leo lên của người đàn ông, trong suốt gần một giờ ngắm nghía cái bóng dáng nhỏ xíu trèo về phía mình. Lúc ông ta lên đến đỉnh, Effing đã đợi sẵn với khẩu súng trường trên tay. Ông đã tập dượt cho tình huống này hàng trăm lần trước đó, nhưng giờ đây khi chuyện ấy thực sự xảy ra, ông vẫn choáng váng khi thấy mình sợ hãi đến mức nào. Chỉ cần chưa mất đến ba mươi giây để tình thế tự được làm sáng tỏ: liệu người đàn ông có biết người ở ẩn hay không, và nếu có biết, liệu sự giả trang có khiến được ông ta nghĩ Effing là người mà ông ta tưởng hay không. Nếu người đàn ông kia là kẻ đã giết người ở ẩn, thì sự giả trang sẽ không có ý nghĩa gì. Cũng vậy nếu đó là một thành viên của đội tìm kiếm, một kẻ ngây ngô vẫn còn mơ đến giải thưởng. Mọi thứ đều sẽ được định đoạt trong một lúc nữa, nhưng cho đến khi ấy, Effing không có lựa chọn nào khác ngoài việc tính đến điều tồi tệ nhất. Ông nhận ra rằng ở trên cùng tất cả những tội lỗi khác của ông, có nhiều khả năng để ông sắp phải trở thành một kẻ sát nhân.
Điều đầu tiên ông nhận thấy ở người đàn ông là ông ta rất béo, và ngay sau đó thấy ông ta ăn mặc kỳ quái đến thế nào. Trang phục của người đàn ông có vẻ như là sự kết hợp ngẫu nhiên của các mảnh vải - ở đây là một mảnh vuông đỏ chói, ở kia là một mảnh màu xanh nước biển với những đốm trắng, một mẩu len tại một điểm, một chút vải bông chéo ở điểm khác - và bộ trang phục này khiến ông ta có dáng vẻ của một anh hề kỳ cục, như thể vừa bước ra khỏi từ một rạp xiếc lưu động nào đó. Thay vì một cái mũ miền Tây rộng vành, ông ta lại mang một chiếc mũ quả dưa méo mó với một cái lông chim màu trắng thò ra từ cái dải. Mái tóc đen và thẳng đuột của ông ta chạy dọc xuống hai vai, và khi ông ta tiến lại gần, Effing nhìn thấy nửa bên trái khuôn mặt ông ta bị biến dạng, nhăn nhúm với một vết sẹo rộng hoác, lởm chởm chạy từ má xuống đến môi dưới. Effing đoán người đàn ông là một người Da đỏ, nhưng vào thời điểm này với ông việc ông ta là loại người nào không còn mấy quan trọng nữa. Ông ta là một sự xuất hiện, một tên hề trong cơn ác mộng đi ra từ những tảng đá. Người đàn ông lẩm bẩm vẻ kiệt sức khi lên được đến đỉnh, và khi đó ông ta đứng thẳng người lên rồi mỉm cười với Effing. Ông ta chỉ đứng cách ông mười hay mười hai feet. Effing nâng khẩu súng trường lên chĩa vào ông ta, nhưng người đàn ông có vẻ bối rối nhiều hơn là hoảng sợ.
“Kìa, Tom,” ông ta nói bằng một cái giọng chậm rãi, bộc tuệch. “Ông không nhớ tôi là ai nữa à? Tôi là bạn cũ của ông đây, George đây. Ông không phải chơi mấy trò ấy với tôi đâu.”
Effing do dự một lát, rồi hạ khẩu súng xuống, ngón tay vẫn đặt trên cò súng để đề phòng. “George,” ông lầm bầm, cố tình nói thật khó nghe để không làm lộ giọng thật của mình ra.
“Tôi bị mắc kẹt suốt mùa đông,” người đàn ông to béo nói. “Vì vậy tôi không lên thăm ông được.” Ông ta tiếp tục bước về phía Effing không dừng chân cho đến khi đủ gần để có thể bắt tay ông. Effing chuyển khẩu súng sang tay trái và chìa tay phải ra. Người đàn ông Da đỏ nhìn chằm chằm vào mắt ông một hồi lâu, nhưng rồi mối nguy hiểm đột ngột qua đi. “Trông ông khỏe khoắn quá, Tom ạ,” ông ta nói. “Thực sự khỏe khoắn.”
“Cám ơn,” Effing nói. “Trông ông cũng khỏe lắm.”
Người đàn ông to béo phá lên cười, vẻ chừng sung sướng theo lối ngu độn, và kể từ lúc ấy, Effing biết rằng mình không còn phải lo lắng gì nữa. Như thể ông vừa nói một điều buồn cười nhất của thế kỷ, và nếu như chỉ cần một chút xíu đó cũng đã thu về được nhiều kết quả đến vậy, thì sẽ không khó khăn gì để tiếp tục trò lừa đảo. Quả thực là rất đáng kinh ngạc khi thấy mọi chuyện diễn ra nhẹ nhàng đến thế. Effing chỉ giống người ở ẩn một cách đại khái, nhưng có vẻ như là sức mạnh của sự gợi ý đủ để biến sự hiển nhiên bề ngoài thành một cái gì đó hoàn toàn không liên quan. Người đàn ông Da đỏ đến chỗ cái hang với sự trông chờ sẽ tìm thấy Tom người ở ẩn, và bởi vì với ông ta thật khó hình dung chuyện một người đáp lại khi được gọi là Tom lại có thể là ai đó khác ngoài ông Tom mà ông ta đang tìm kiếm, ông ta nhanh chóng biến đổi các sự kiện có thật sao cho ăn nhập với điều trông đợi, biện minh mọi khác biệt giữa hai Tom bằng trí nhớ sai lạc của mình. Dĩ nhiên không có gì xấu khi người đàn ông là một kẻ ngốc nghếch. Có lẽ trong suốt thời gian ấy ông ta đã biết rằng Effing không phải là Tom thật. Ông ta đã leo lên chỗ cái hang để tìm bạn trong vài giờ đồng hồ, và vì đã tìm được cái mà mình muốn, ông ta không buồn tự đặt ra câu hỏi về người mà mình gặp là ai nữa. Rốt cuộc, có vẻ như việc đang ở cùng với Tom thật hay không chẳng mấy hề hấn gì với ông ta cả.
Họ ở cùng nhau suốt buổi chiều, ngồi trong hang mà hút thuốc lá. George mang theo một túi nhỏ đựng thuốc, món quà quen thuộc mà ông ta dành cho người ở ẩn, và Effing hút hết điếu này đến điếu khác trong một khoái cảm kéo dài. Ông thấy thật kỳ cục khi ở cùng một ai đó sau nhiều tháng trơ trọi đến vậy, và trong quãng chừng một giờ đồng hồ đầu tiên ông gặp khó khăn trong việc nói dù chỉ một từ. Ông đã mất thói quen nói, và lưỡi ông không còn hoạt động giống như đã từng trước đây nữa. Ông cảm thấy nó vụng về, một con rắn ưa cựa quậy khó bảo không còn chịu tuân lệnh ông nữa. Thật may mắn, cái ông Tom nguyên bản cũng không phải là một người nhiều lời, và người đàn ông Da đỏ không có vẻ gì trông chờ nhiều hơn một câu trả lời thảng hoặc từ ông ta. Rõ ràng là George tận hưởng đến hết sức lực, và cứ sau ba hoặc bốn câu, ông ta lại ngả đầu về phía sau mà cười. Mỗi khi cười, ông ta lại quên mất mạch suy nghĩ của mình và bắt đầu một chủ đề khác hẳn, điều này khiến Effing gặp khó khăn trong việc theo dõi những gì ông ta nói. Một câu chuyện về khu bảo tồn Navaho đột nhiên biến thành một câu chuyện về vụ ẩu đả giữa những kẻ say trong một quán rượu, đến lượt câu chuyện này lại biến thành một chuyện khác rất giật gân về một vụ cướp trên tàu hỏa. Theo tất cả những gì Effing thu lượm được, người bạn của ông có biệt danh George Xấu Miệng. Dù thế nào thì đó cũng là cách mọi người gọi ông ta, nhưng có vẻ như người đàn ông to béo không lý gì lắm đến chuyện này. Ngược lại, ông ta tạo cảm giác là mình khá vui sướng vì thế giới tặng cho ông ta một cái tên thuộc về một mình ông ta chứ không phải bất kỳ ai khác, như thể đó là một dấu hiệu của sự coi trọng. Effing chưa bao giờ gặp ai có khả năng kết hợp giữa ngọt ngào và ngu ngốc như thế, và ông cố gắng hết sức để chăm chú lắng nghe ông ta nói, để gật đầu cho đúng thời điểm. Một hoặc hai lần, ông cảm thấy ham muốn được hỏi George xem liệu ông ta có nghe nói gì về một đội tìm kiếm hay không, nhưng lần nào ông cũng tìm được cách đè nén sự bột phát lại.
Trong buổi chiều, Effing dần dà tập hợp được một vài chi tiết về ông Tom nguyên bản. Những lời ông chẳng bà chuộc của George Xấu Miệng, những câu chuyện kể chưa thực sự thành hình bắt đầu quay trở ngược lại với chính chúng với một tần suất nhất định, giao nhau ở một số điểm đủ để thoáng nhìn thấy được cấu trúc của một câu chuyện rộng lớn hơn, thống nhất hơn. Những sự cố được lặp lại, các đoạn quan trọng bị bỏ sót, những sự kiện từ đầu không được nói cho đến hết, nhưng cũng đủ để rốt cuộc khiến cho Effing kết luận được rằng người ở ẩn từng dính vào các hoạt động tội phạm của một dạng băng nhóm ngoài vòng pháp luật được biết đến dưới cái tên huynh đệ Gresham. Ông không thể chắc được rằng liệu người ở ẩn là một thành viên tích cực hay chỉ đơn giản là ông ta để cho băng nhóm sử dụng cái hang của mình làm chỗ trú ẩn, nhưng dù là cách nào, thì cũng đều có vẻ dính dáng đến vụ giết người đã xảy ra, chưa nói đến số lương thực dồi dào mà ông tìm thấy ở đây vào ngày đầu tiên. Sợ để lộ là mình không biết gì, Effing không dám thúc George nói nhiều hơn về các chi tiết, nhưng từ những gì người đàn ông Da đỏ nói, có vẻ như là anh em Gresham sẽ sớm quay lại đây, có thể là vào cuối mùa xuân. Tuy nhiên George quá lơ đãng để có thể nhớ được hiện giờ băng nhóm đang ở đâu, và ông ta bật dậy khỏi ghế để đi vòng quanh phòng xem những bức tranh, đầu gật gật vẻ ngưỡng mộ. Ông ta không biết Tom có biết vẽ đấy, ông ta nói, nhắc đi nhắc lại lời nhận xét đó hàng chục lần trong suốt buổi chiều. Đó là những thứ đẹp nhất trên đời mà ông ta từng nhìn thấy, những thứ đẹp nhất trên toàn cõi đời này. Nếu ông ta cư xử tốt, ông ta nói, có thể một ngày nào đó Tom sẽ dạy ông ta làm việc đó, và Effing nhìn vào mắt ông ta mà nói đúng, có thể một ngày nào đó. Effing rất bực bội vì có ai đó nhìn thấy những bức tranh, nhưng cùng lúc ông thích thú khi nhận được một lời bình luận nhiệt tình đến vậy, nhận ra rằng rất có thể đó là câu bình luận duy nhất mà các tác phẩm này có thể có được.
Sau chuyến thăm của George Xấu Miệng, mọi thứ không còn giống như trước đối với Effing nữa. Ông đã làm việc đều đặn trong vòng bảy tháng qua khi ở một mình, vật lộn để xây dựng sự cô độc của bản thân trở thành một cái gì đó cốt yếu, một thành trì tuyệt đối để định ra các ranh giới cho cuộc đời mình, nhưng giờ đây khi đã có ai đó ở cùng với ông trong cái hang, ông hiểu ra tình thế của mình chênh vênh đến mức nào. Người ta biết có thể tìm được ông ở đâu, và giờ đây khi chuyện ấy đã xảy ra, không có lý do gì để nghĩ rằng nó không còn xảy đến nữa. Ông sẽ phải cẩn trọng, lúc nào cũng phải cảnh giác với những kẻ đột nhập, và những đòi hỏi về sự cảnh giác đó gây tổn hại, dần dà ăn mòn ông cho đến khi sự hài hòa của thế giới của ông bị phá hủy. Ông không thể làm gì trong việc này. Ông phải dành những ngày của mình để nhìn ngó và chờ đợi, ông phải tự chuẩn bị cho những chuyện sắp xảy ra. Thoạt tiên, ông trông chờ George quay lại, nhưng khi nhiều tuần trôi qua mà người đàn ông to béo vẫn không xuất hiện, ông bắt đầu chuyển sự chú ý của mình sang huynh đệ Gresham. Sẽ là lôgic khi đầu hàng sớm, tập hợp đồ đạc của ông lại và rời hẳn khỏi cái hang, nhưng điều gì đó bên trong ông chống cự lại việc đầu hàng trước hiểm nguy sớm như vậy. Ông biết thật là điên rồ khi không bỏ đi, một hành động vô nghĩa lý gần như chắc chắn sẽ khiến ông bị giết chết, nhưng cái hang là điều duy nhất giờ đây ông phải chiến đấu để bảo vệ, và ông không thể cho phép mình bỏ chạy khỏi nó như thế.
Điểm mấu chốt là không để cho chúng bắt chợt được ông. Nếu chúng xông vào đúng lúc ông đang ngủ thì hẳn ông sẽ không có lấy một cơ may nào, chúng sẽ giết chết ông trước khi ông kịp nhảy khỏi giường. Chúng đã làm việc đó một lần, và chắc hẳn sẽ không gì ngăn cản chúng làm lại. Mặt khác, nếu ông sắp đặt một dạng hệ thống báo động ngõ hầu báo cho ông biết khi chúng tiến lại gần, thì nhiều khả năng việc này cũng chỉ cho ông lợi thế nhỏ nhoi của một chút thời gian. Đủ thời gian để tỉnh giấc và vớ lấy khẩu súng, có lẽ, nhưng nếu cả ba anh em chúng cùng đến một lúc, phần thua sẽ thuộc về ông. Ông có thể có được nhiều thời gian hơn nếu tự giam mình trong hang, dùng đá và cành cây bịt kín lối vào, nhưng khi đó ông sẽ phải từ bỏ một điều mang lại lợi thế cho ông trước những kẻ tấn công: việc chúng không biết có ông ở đây. Ngay khi nhìn thấy chiến lũy, chúng sẽ nhận ra có người sống trong hang và có thể nghĩ ra cách ứng phó. Effing bỏ gần như toàn bộ những giờ không ngủ để nghĩ đến các vấn đề ấy, xem xét các chiến lược khác nhau mà ông có thể sử dụng, cố gắng tìm đến một kế hoạch không đến nỗi mang tính tự sát. Cuối cùng, ông chấm dứt hoàn toàn việc ngủ trong hang, mang chăn và gối đến đặt trên một bờ rìa trên đường xuống phía bên kia vách đá. George Xấu Miệng đã nói cho ông về niềm say mê rượu whisky của anh em nhà Gresham, và Effing hình dung rằng sẽ rất tự nhiên khi những gã đàn ông đó nốc rượu ngay khi vào đến trong hang. Trên sa mạc chúng buồn chán thấu ruột, và nếu chúng uống đến mức say mềm, thì rượu sẽ trở thành đồng minh đáng tin cậy nhất của ông. Ông làm tất cả những gì có thể để xóa đi các dấu vết của mình trong hang, giấu kỹ những bức tranh và sổ ghi chép tận sâu cùng trong hang và không dùng cái bếp lò nữa. Không thể làm gì với những bức vẽ trên đồ đạc và tường, nhưng ít nhất thì bếp lò cũng sẽ không ấm khi chúng bước vào, anh em nhà Gresham có thể nghĩ rằng người vẽ những bức tranh kia đã đi khỏi. Không có gì chắc chắn là chúng sẽ nghĩ vậy, nhưng Effing không thể tìm được cách nào khác nữa cả. Ông cần chúng biết rằng đã từng có ai đó ở đây, vì nếu cái hang trông vẫn trống vắng giống hệt như vào lần chúng đến đây hồi mùa hè, thì không thể giải thích được việc cái xác người ở ẩn đã biến mất. Anh em nhà Gresham có thể sẽ băn khoăn về điều đó, nhưng khi đã nhận ra từng có người khác sống trong hang, có thể chúng sẽ thôi không nghĩ nữa. Ít nhất thì đó cũng là hy vọng của Effing. Nhìn vào tính bấp bênh tột độ của tình hình, ông không tự cho phép mình hy vọng quá nhiều.
Ông sống qua một tháng khủng khiếp, và rốt cuộc chúng cũng tới. Đó là giữa tháng Năm, hơn một năm một chút kể từ ngày ông cùng Byrne rời khỏi New York. Anh em nhà Gresham cưỡi ngựa đến lúc chạng vạng tối, tự thông báo sự hiện diện của chúng bằng những tiếng ồn đinh tai vọng lại giữa các tảng đá: những giọng nói oang oang, tiếng cười, lại có cả tiếng hát nghe khàn khàn. Effing có rất nhiều thời gian để chuẩn bị đón tiếp chúng, nhưng điều này cũng không ngăn được mạch máu ông đập dồn dập không sao kiểm soát nổi. Mặc cho những lời cảnh báo ông tự nói với mình về việc phải giữ bình tĩnh, ông vẫn hiểu mình phải chấm dứt việc này vào đêm nay. Sẽ không thể duy trì được mọi chuyện lâu hơn nữa.
Ông nằm phục trên bờ rìa hẹp gần cái hang, đợi đến thời điểm hành động trong khi bóng tối dần buông xuống xung quanh. Ông nghe tiếng anh em nhà Gresham tiến lại gần, nghe thấy vài câu nhận xét lẻ tẻ về nhiều thứ mà ông không hiểu nổi, và rồi một trong số chúng nói, “Tao nghĩ là chúng ta sẽ phải thông gió chỗ này sau khi vứt xác lão Tom già đó.” Hai gã còn lại cười phá lên, và ngay sau đó những giọng nói ngưng bặt. Điều đó có nghĩa là chúng đã vào trong hang. Nửa giờ sau, khói bắt đầu bốc lên từ cái ống thiếc gắn trên mái, và rồi ông bắt đầu nhận ra mùi xào nấu. Trong hai giờ sau đó, không có gì xảy ra. Ông nghe tiếng những con ngựa trệu trạo trong miệng và giậm giậm vó xuống một dải đất bên dưới cái hang, và dần dần màn đêm màu xanh sẫm chuyển thành đen. Đêm đó không có trăng, bầu trời lấp lánh những vì sao. Vài lần ông có thể nghe thấy những tiếng cười văng vẳng, nhưng tất cả chỉ có vậy. Rồi, cách từng quãng, lũ Gresham lần lượt ra khỏi hang để đái vào những tảng đá. Effing hy vọng điều đó có nghĩa là chúng ở trong hang để chơi bài và uống rượu, nhưng không thể nào chắc chắn về bất cứ điều gì. Ông quyết định đợi cho đến khi gã cuối cùng giải phóng xong bọng đái, và rồi ông sẽ chờ thêm một tiếng hoặc một tiếng rưỡi nữa. Đến khi đó có khả năng là chúng đã ngủ, và không nghe được tiếng ông vào trong hang nữa. Cùng lúc, ông tự hỏi làm thế nào để sử dụng khẩu súng trường chỉ bằng một tay. Nếu trong hang đã tắt hết đèn, thì ông sẽ phải cầm một ngọn nến để có thể nhìn rõ những cái đích, thế nhưng ông chưa bao giờ tập bắn súng bằng một tay cả. Đó là một khẩu Winchester bắn từng phát phải nạp lại đạn sau mỗi lần bắn, và ông vẫn luôn làm việc đó bằng tay trái. Ông có thể nhét cây nến vào miệng, dĩ nhiên, nhưng cũng có thể sẽ nguy hiểm khi để lửa quá gần mắt, đó là còn chưa nói việc gì có thể xảy ra nếu lửa bắt vào bộ râu của ông. Có lẽ ông sẽ phải cầm cây nến như là cầm một điếu xì gà, ông quyết định như vậy, kẹp nó giữa ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay trái, hy vọng ba ngón còn lại vẫn đủ sức nâng nòng súng. Nếu ông tì báng khẩu súng vào bụng thay vì vào vai, có lẽ bàn tay phải của ông sẽ nạp đạn đủ nhanh sau khi bóp cò. Lại một lần nữa, ông không thể chắc chắn vào bất cứ điều gì. Đó là những tính toán tuyệt vọng vào phút cuối, và ông ngồi đó chờ đợi trong bóng tối, ông tự nguyền rủa vì sự cẩu thả, lấy làm kinh ngạc vì sự ngu xuẩn lớn lao của mình.
Hóa ra ánh sáng lại không phải là một vấn đề. Khi trườn ra khỏi chỗ trốn và bò đến trước miệng cái hang, ông phát hiện bên trong hang vẫn có một ngọn nến đang cháy. Ông dừng lại ở bên cạnh lối vào, cố trấn tĩnh, lắng nghe các âm thanh, sẵn sàng chạy về bờ rìa của mình nếu anh em nhà Gresham còn chưa ngủ. Sau một lúc, ông nghe thấy một cái gì đó giống như tiếng ngáy, nhưng tiếp ngay sau đó là một loạt những âm thanh có vẻ như phát ra từ ngay cạnh bàn: một tiếng thở dài, một quãng im lặng, và rồi tiếng một vật rơi, như thể một cái cốc vừa rơi xuống sàn nhà. Ít nhất một trong số chúng vẫn còn thức, ông nghĩ, nhưng làm sao chắc được rằng chỉ có một tên thôi? Rồi ông nghe thấy một tiếng quân bài loạt xoạt, tiếng bảy phát quật bài xuống mặt bàn, và rồi một quãng dừng ngắn. Rồi sáu phát quật và một quãng dừng nữa. Rồi năm tiếng. Rồi bốn, rồi ba, rồi hai, rồi một. Trò solitaire, Effing nghĩ, là trò solitaire không còn phải nghi ngờ gì nữa. Một trong số chúng đang ngồi đó, và hai tên còn lại đã ngủ. Hẳn là phải như vậy, bởi nếu không kẻ chơi bài phải nói chuyện với những kẻ còn lại. Nhưng hắn ta không nói, và điều đó chỉ có thể có nghĩa là hắn không có ai để nói chuyện cả.
Effing nâng súng lên chuẩn bị và lần đến lối vào. Không khó khăn gì để giữ cây nến ở tay trái, ông nhận ra là như vậy; ông đã sợ hãi một cách vô lối. Gã đàn ông ngồi ở bàn ngẩng phắt đầu lên khi Effing xuất hiện, rồi kinh hoảng nhìn chằm chằm vào ông. “Ôi mẹ kiếp Chúa ơi,” gã đàn ông thì thầm. “Ông chết rồi cơ mà.”
“Tôi e là ông đã nghĩ lầm rồi đó,” Effing đáp. “Ông mới là người chết, chứ không phải tôi.”
Ông bóp cò, và một khoảnh khắc sau gã đàn ông đã bật người ra sau ghế, hét lên khi bị viên đạn đập vào ngực, và rồi, đột nhiên, không còn âm thanh nào từ hắn nữa. Effing lên đạn cho khẩu súng trường và chĩa nó vào gã thứ hai, lúc đó đang cuống cuồng tìm cách chui ra khỏi cái ổ nằm của mình ở trên sàn. Effing cũng giết hắn bằng một viên đạn, nhằm thẳng vào giữa mặt với một viên đạn xuyên thủng ra phía sau đầu hắn, tiếp tục bay trong phòng với một đống bầy nhầy não và xương. Tuy nhiên mọi việc không dễ dàng với gã Gresham thứ ba. Hắn đang nằm trên cái giường đặt cuối hang, và trong thời gian Effing kết liễu hai gã đầu tiên, số ba đã kịp vớ lấy khẩu súng ngắn của mình và bắn. Một phát đạn bay sượt qua đầu Effing và nảy lên khi chạm vào cái nồi bằng kim loại sau lưng ông. Ông lên đạn cho khẩu súng trường và nhảy sang bên trái trốn vào sau cái bàn, vô ý làm tắt cả hai ngọn nến trong lúc nhảy. Cái hang trở nên tối như mực, và gã đàn ông ở cuối hang đột nhiên bắt đầu nức nở như thể lên cơn động kinh, lúng búng một tràng từ ngữ không thể hiểu nổi về người ở ẩn đã chết và bắn điên loạn về hướng Effing. Effing thuộc nằm lòng từng chi tiết của cái hang, và ngay cả trong bóng tối ông cũng có thể nói được chính xác gã đàn ông đang ở đâu. Ông đếm đến sáu phát đạn, nhận ra rằng gã thứ ba đang gào thét kia không thể nào nạp lại đạn mà không có ánh sáng, và rồi đứng lên bước về phía cái giường. Ông bóp cò khẩu súng trường, nghe tiếng gã đàn ông thét lên khi viên đạn xuyên vào người hắn, rồi nạp đạn và bắn tiếp. Trong hang trở nên im lặng như tờ. Effing hít thở trong mùi khói súng đang bay lơ lửng trong không khí, và đột nhiên ông bắt đầu cảm thấy người mình run lên. Ông vội dồn hết sức để chạy ra ngoài và ngã khuỵu xuống, rồi nôn thốc nôn tháo xuống đất.
Ông ngủ lại ngay tại đó, ở miệng hang. Khi sáng hôm sau tỉnh dậy, ngay lập tức ông bắt tay vào việc dọn mấy cái xác. Ông kinh ngạc nhận ra mình không hề cảm thấy hối hận, rằng ông có thể nhìn những kẻ mình vừa giết mà không hề có một chút nào cắn rứt lương tâm dù là nhỏ nhất. Ông lôi từng gã một ra khỏi căn phòng và mang xuống sườn dốc phía sau của vách đá, chôn chúng gần người ở ẩn dưới gốc cây dương. Đến đầu buổi chiều thì ông chôn xong cái xác cuối cùng. Kiệt sức, ông quay trở về hang để ăn trưa, và mãi đến khi đó, ngay khi ngồi xuống bàn và bắt đầu rót cho mình một cốc từ chai rượu whisky của anh em nhà Gresham, ông mới nhìn thấy mấy cái túi buộc yên ngựa dưới gầm giường. Như Effing thú nhận với tôi, chính xác vào giây phút ấy với ông mọi thứ lại thay đổi, cuộc đời ông lại đột nhiên rẽ sang một nhánh mới. Có tất cả sáu cái túi to, và khi dốc ngược để đổ những gì chứa trong cái túi đầu tiên xuống mặt bàn, ông biết rằng quãng thời gian sống trong hang của mình sắp kết thúc - chỉ vậy thôi, với tốc độ và sức mạnh của một quyển sách bị gập lại đột ngột. Trên bàn toàn là tiền, và mỗi lần ông dốc cạn một cái túi, đống tiền lại tiếp tục lớn lên. Khi cuối cùng ông cũng kiểm kê được toàn bộ số tài sản, chỉ riêng tiền mặt đã có đến hơn hai mươi nghìn đô la. Lẫn trong đống tiền giấy, ông tìm được rất nhiều đồng hồ, vòng đeo tay, vòng đeo cổ, và trong cái túi cuối cùng có ba tập cổ phiếu buộc rất chặt, tương đương với giá trị gồm mười nghìn đô la tiền đầu tư vào những thứ như mỏ bạc Colorado, công ty Westinghouse, và Ford Motors. Hồi ấy đây là một món tiền khủng khiếp, Effing nói, và là cả một gia sản. Nếu sử dụng một cách đúng đắn, ông có thể đủ tiền để sống cho đến hết đời.
Không một lúc nào ý tưởng trả lại số tiền bị lấy cắp nảy ra, ông nói, không bao giờ có ý tưởng về việc đến chỗ các cơ quan hữu trách để khai báo về những việc đã xảy ra. Không phải là vì ông sợ bị phát hiện khi kể câu chuyện của mình, chỉ đơn giản là ông muốn có số tiền đó cho bản thân. Thôi thúc này mạnh đến nỗi không bao giờ ông buồn xem xét lại những gì mình làm. Ông lấy tiền bởi vì nó có ở đấy, vì theo một nghĩa nào đó ông cảm thấy rằng nó đã thuộc về ông, và quả đúng là như vậy. Câu hỏi về sự đúng sai không bao giờ liên quan cả. Ông đã giết ba gã đàn ông một cách lạnh lùng, và giờ đây ông đã tự nâng mình lên cao hơn những bận tâm vặt vãnh ấy. Dù thế nào đi nữa, ông nghi ngờ về việc sẽ có nhiều người than khóc cho cái chết của mấy anh em nhà Gresham. Chúng đã biến mất, và sẽ không mất mấy thời gian để thế giới quen với việc chúng không còn ở đó nữa. Thế giới sẽ làm quen với việc này, theo cùng cách nó đã quen với việc sống mà không có Julian Barber.
Ông dành cả ngày hôm sau để chuẩn bị ra đi. Ông kê dọn lại đồ đạc, lau chùi các vết máu, và cất đống sổ ghi chép của mình vào trong tủ. Ông tiếc vì phải nói lời tạm biệt với các bức tranh, nhưng không thể làm gì khác, cho nên ông buộc chúng lại thật gọn ở chân giường và quay mặt chúng vào tường. Ông chỉ có vài giờ để làm việc đó, nhưng trong quãng thời gian còn lại của buổi sáng và suốt buổi chiều, ông đứng dưới mặt trời chói chang để nhặt đá và cành cây bịt kín miệng cái hang. Ông nghi ngờ về việc sẽ có lúc mình quay lại đây, nhưng dù sao ông cũng muốn che giấu kỹ nơi này. Nó là đài kỷ niệm riêng của ông, nấm mồ để ông chôn cất quá khứ của mình, và mỗi khi nghĩ về nó trong tương lai, ông lại muốn biết nó có còn ở nguyên đó hay không, ở chính xác nơi nó từng ở. Theo cách này nó vẫn tiếp tục là một nơi trú ngụ về tinh thần cho ông, ngay cả khi ông chưa bao giờ đặt chân về đó trở lại.
Đêm đó ông ngủ ngoài trời, và buổi sáng tiếp theo ông chuẩn bị để lên đường. Ông buộc đống túi lại, lấy lương thực và nước, chất mọi thứ lên ba con ngựa mà anh em nhà Gresham để lại. Rồi ông khởi hành, cố hình dung ra mình sẽ làm gì kế tiếp.
Chúng tôi mất hơn hai tuần mới đến được đây. Giáng sinh đã đến và đi từ lâu, và một tuần sau đó thì thập kỷ kết thúc. Tuy nhiên, Effing không mấy quan tâm đến những cái mốc thời gian ấy. Các suy nghĩ của ông gắn chặt vào một giai đoạn xa xưa, và ông đào bới câu chuyện của mình với một sự chăm chú không ngơi nghỉ, không để sót điều gì, dò tìm tất cả những chi tiết nhỏ nhất, suy tính từng sắc thái nhỏ nhất trong nỗ lực nắm bắt lại quá khứ. Sau một thời gian, tôi thôi tự hỏi liệu có phải ông đang kể cho mình sự thật hay không. Đến khi đó câu chuyện của ông đã mang một màu sắc huyễn tưởng, và có những lúc có vẻ như ông không nhớ lại các sự kiện bên ngoài của đời mình mà bịa ra một câu chuyện ngụ ngôn để giải thích những ý nghĩa bên trong của nó. Cái hang của người ở ẩn, những cái túi đựng tiền, cuộc đấu súng theo kiểu Miền Tây Hoang Dã - tất cả đều thật cường điệu, thế nhưng có khả năng chính sự kỳ quái của câu chuyện lại là yếu tố thuyết phục nhất. Không phải bất kỳ ai cũng có thể nghĩ ra nó, và Effing kể thật là hay, với sự thành thực có thể cảm thấy được, cho nên tôi chỉ đơn giản là buông lỏng mình đi theo, từ chối việc đặt câu hỏi liệu những việc ấy có thực đã từng diễn ra hay không. Tôi lắng nghe, tôi ghi lại những gì ông nói, tôi không cắt ngang lời ông. Thay vì nỗi khiếp sợ đôi khi ông gây ra ở tôi, tôi không thể ngăn mình nghĩ về ông như một người họ hàng thân thiết. Có lẽ điều này đã bắt đầu khi chúng tôi đến đoạn về cái hang. Dù gì thì chính tôi cũng có ký ức riêng về việc sống trong một cái hang, và khi ông miêu tả sự cô đơn cảm thấy vào khi ấy, tôi có cảm tưởng là theo một cách nào đó ông đang miêu tả cùng những điều tôi từng cảm thấy. Câu chuyện của tôi cũng phi lý ngang bằng với câu chuyện của Effing, nhưng tôi biết rằng nếu tôi lựa chọn việc kể nó lại cho ông, ông cũng sẽ tin từng từ tôi nói.
Ngày tháng cứ trôi đi, bầu không khí trong nhà mỗi lúc một tù túng hơn. Thời tiết bên ngoài thật dữ dội - mưa lạnh, đường phố phủ đầy băng, những cơn gió thổi xuyên qua người - và vì lẽ đó chúng tôi buộc phải thôi những chuyến đi dạo buổi chiều. Effing bắt đầu nhân đôi những buổi làm việc cho bài cáo phó, rút lui về phòng cho một giấc ngủ ngắn sau bữa trưa và sau đó lại tiếp tục ồn ào trở lại vào hai giờ rưỡi hoặc ba giờ, sẵn sàng nói liền trong nhiều giờ nữa. Tôi không biết ông tìm đâu được đủ nghị lực để tiếp tục công việc với tốc độ ấy, nhưng thay vì việc phải ngắt hơi giữa các câu nói một quãng dài hơn bình thường, có vẻ như là giọng nói của ông không bao giờ phản lại ông. Tôi bắt đầu sống bên trong giọng nói đó như thể nó là một căn phòng, một căn phòng không cửa sổ cứ thu hẹp dần theo mỗi ngày trôi qua. Giờ đây gần như lúc nào Effing cũng mang dải băng che mắt, và không còn cơ hội để tôi tự đánh lừa mình là giữa chúng tôi tồn tại một mối quan hệ nào đó nữa. Ông cô độc với câu chuyện trong đầu, còn tôi cô độc với những từ ngữ tuôn ra từ miệng ông. Những từ đó lấp đầy từng inch không khí xung quanh tôi, và rốt cuộc không còn gì khác cho tôi để thở nữa. Nếu không có Kitty, có khả năng tôi đã chết ngạt. Sau khi làm việc xong với Effing, tôi thường tìm cách gặp cô trong nhiều giờ, qua đêm với cô thường xuyên nhất trong khả năng có thể. Hơn một lần tôi không quay về nhà trước khi trời sáng. Bà Hume biết chuyện này, nhưng nếu Effing có bất kỳ ý tưởng nào về chuyện đi lại của tôi, thì ông cũng không bao giờ nói một lời. Điều duy nhất đáng nói là tôi xuất hiện ở bàn ăn mỗi sáng vào lúc tám giờ, và tôi không bao giờ sai giờ cả.
Khi đã rời khỏi hang, Effing đi xuyên qua sa mạc trong suốt nhiều ngày trước khi đến được thị trấn Bluff. Kể từ đó, mọi việc trở nên dễ dàng hơn. Ông đi về hướng Bắc, chậm rãi chuyển từ thành phố này sang thành phố khác, và đến cuối tháng Sáu thì quay về được Salt Lake City, tại đó ông chuyển sang đi tàu hỏa và mua vé đến San Francisco. California là nơi ông tạo ra cái tên mới, tự biến mình trở thành Thomas Effing khi ký sổ đăng ký khách sạn vào đêm đầu tiên. Ông lấy tên Thomas để tưởng nhớ Moran, ông nói, và mãi đến khi bỏ bút xuống rồi ông mới chợt nhận ra người ở ẩn cũng tên là Tom, cái tên đã thuộc về ông một cách bí mật trong hơn một năm trời. Ông coi sự trùng hợp ấy như một điềm tốt, như thể lựa chọn của ông là một điều gì đó không thể tránh khỏi, về cái họ, ông nói, sẽ không cần thiết phải giải thích dài dòng. Ông đã nói với tôi rằng Effing là một trò chơi chữ, và trừ khi hiểu sai hẳn, tôi cảm thấy mình biết được nguồn gốc của nó. Khi viết ra từ Thomas, có lẽ ông đã nhớ đến cụm từ doubting Thomas. Động danh từ đó lại dẫn đến một từ khác: fucking Thomas, và để khỏi tỏ ra quá đà nó được biến đổi tiếp nữa, thành f-ing. Do vậy, ông là Thomas Effing, người đã “fuck”[21] cuộc đời mình. Vì biết ông rất thích những câu nói đùa độc ác, tôi có thể hình dung ra ông đã tự hài lòng với bản thân đến cỡ nào.
Gần như là ngay từ khởi đầu, tôi đã trông chờ ông nói về đôi chân. Những tảng đá ở Utah khiến tôi nghĩ đến một địa điểm thích hợp cho dạng tai nạn đó, nhưng mỗi ngày câu chuyện của ông lại đi xa hơn, và ông vẫn không hề nói gì đến cái việc đã làm què chân ông. Chuyến đi cùng với Scoresby và Byrne, cuộc gặp gỡ George Xấu Miệng, trận bắn giết với anh em nhà Gresham: từng cái một, ông vượt qua những biến cố đó một cách lành lặn. Rồi ông đến San Francisco, và tôi bắt đầu nghi ngờ ông sẽ không bao giờ nói về chuyện ấy. Ông dành hơn một tuần để miêu tả những gì mình đã làm với số tiền, liệt kê những món đầu tư ông đã tiến hành, những phi vụ làm ăn ông đã thực hiện, những mối hiểm nguy to lớn ông gặp phải trên thị trường chứng khoán. Trong vòng chín tháng ông lại trở nên giàu có, gần ngang với mức trước đây: ông sở hữu một ngôi nhà ở Russian Hill với một đám gia nhân, ông có những người đàn bà mỗi khi muốn, ông giao du với các thành phần cao cấp nhất của xã hội. Ông có thể sống hẳn cuộc đời kiểu như vậy (về thực chất đó cũng là kiểu sống ông từng biết khi còn nhỏ), nếu một sự cố không xảy ra vào quãng một năm sau khi ông đến nơi này. Được mời đến một bữa tiệc buổi tối cùng khoảng hai mươi người khách khác, đột nhiên ông chạm mặt với một hình bóng xuất hiện từ quá khứ của ông, một người từng là đồng nghiệp của bố ông tại New York trong hơn mười năm. Hồi đó Alonzo Riddle đã là một ông già, nhưng khi được giới thiệu với Effing và hai người bắt tay nhau, không nghi ngờ gì nữa ông ta đã nhận ra người quen cũ. Sửng sốt quá mức, Riddle thậm chí còn thốt lên rằng Effing giống hệt một ai đó mà ông ta từng biết. Effing đùa cợt về sự trùng hợp đó, vui vẻ nói rằng mỗi người rất có thể có một bản sao giống y hệt ở đâu đó, nhưng Riddle kinh ngạc đến mức không thể thôi nghĩ về chuyện này, và ông ta bắt đầu kể câu chuyện về sự biến mất của Julian Barber cho Effing và những người khách khác. Với Effing đó là một thời khắc khủng khiếp, và ông cố trụ vững cho đến tàn bữa tiệc trong một trạng thái hoảng hốt, không sao thoát được ra khỏi sự băn khoăn của Riddle và những cái nhìn nghi ngờ.
Sau đó, ông hiểu ra tình thế của mình bấp bênh đến mức nào. Không sớm thì muộn, ông cũng sẽ gặp phải một người nào đó từ quá khứ của mình, và sẽ không có gì đảm bảo được rằng ông sẽ may mắn được như với Riddle. Người tiếp theo có thể sẽ chắc chắn vào bản thân mình hơn, cả quyết hơn trong những lời cáo buộc, và trước khi Effing kịp biết, toàn bộ chuyện ấy có thể đã rơi ập vào mặt ông rồi. Như một biện pháp phòng ngừa, ông đột nhiên ngừng tổ chức các bữa tiệc và thôi nhận các lời mời, nhưng ông biết rằng về lâu dài điều này cũng sẽ không giúp được gì cho mình. Quả thực, người ta sẽ nhận ra là ông rút lui khỏi họ, và điều đó có thể khiến họ cảm thấy tò mò, chuyện này đến lượt nó sẽ tạo ra những lời đồn thổi, mà cái đó thì chỉ có thể dẫn tới rắc rối mà thôi. Đó là tháng Mười một năm 1918. Hiệp ước ngừng bắn vừa được ký, và Effing biết rằng thời gian của ông trên đất Mỹ đang được tính bằng ngày. Mặc cho sự chắc chắn đó, ông vẫn thấy mình không có khả năng làm bất cứ điều gì. Ông rơi vào trạng thái trơ ì, không thể lập được kế hoạch nào cũng như suy nghĩ về các khả năng của mình. Bị đè nén bởi cảm giác tội lỗi, bởi cái việc khủng khiếp ông đã làm cho cuộc đời mình, ông đã nuôi dưỡng những huyễn tưởng kỳ quái về việc quay trở về Long Island với một lời nói dối vĩ đại nào đó về những gì đã xảy ra. Điều này là không thể được, nhưng ông cứ dính chặt vào nó như một giấc mơ về sự cứu rỗi, dai dẳng nghĩ ra hết lối thoát sai lầm này đến lối thoát sai lầm khác, và không sao buộc mình bắt tay vào hành động được. Trong nhiều tháng, ông trốn chạy hoàn toàn khỏi thế giới, ngủ trong căn phòng tối om của mình vào ban ngày và lang thang trong khu phố Tàu vào ban đêm. Lúc nào cũng là khu phố Tàu. Ông không bao giờ muốn đến đó, nhưng ông không thể tìm được can đảm để không đến đó. Ngược lại với ý chí của ông, ông bắt đầu năng lui tới các nhà thổ và động thuốc phiện và sòng bài nằm ẩn giấu trong mê cung các đường phố chật hẹp của khu. Ông tìm kiếm sự lãng quên, ông nói, cố lôi kéo mình vào một sự suy sụp ngõ hầu tương đương được với sự ghê tởm mà ông cảm thấy cho chính mình. Các đêm của ông trở thành một thứ chướng khí trộn lẫn giữa tiếng ru lét quay lách tách và khói thuốc, những người đàn bà Trung Quốc mặt rỗ hoa miệng thiếu răng, những căn phòng bí hơi và những cơn buồn nôn. Ông thua bạc nhiều đến nỗi tới tháng Tám ông đã phá tán gần một phần ba tài sản của mình. Mọi việc sẽ cứ tiếp tục cho đến kết cục, ông nói, cho đến khi hoặc ông tự sát hoặc cạn sạch tiền, nếu số phận không tóm lấy ông và bẻ đôi người ông ra. Chuyện đã xảy ra có thể không nhiều bạo lực hoặc nhiều tính đột ngột bằng, nhưng với tất cả sự khốn khổ mà nó mang lại, quả thực chỉ một thảm họa mới có khả năng cứu được ông.
Đêm đó trời đổ mưa, Effing kể. Ông vừa trải qua nhiều giờ ở khu phố Tàu và bước về nhà, lảo đảo với lượng thuốc phiện trong máu, không còn hoàn toàn ý thức được mình đang ở đâu nữa. Khi ấy là ba hoặc bốn giờ sáng, và ông bắt đầu leo lên sườn đồi dốc dẫn về nhà, phải dừng lại nghỉ một lúc ở gần như bất kỳ cột đèn nào để lấy hơi. Ở đâu đó đầu chặng đường ông đã đánh mất cái ô, nên khi đến được ngọn đồi cuối cùng ông bị ngấm lạnh đến tận xương. Với cơn mưa rơi như trút bên lề đường và cái đầu lơ lửng mơ màng do hiệu ứng của thuốc phiện, ông không nghe thấy tiếng kẻ lạ mặt tiến lại gần từ phía sau. Mới giây phút trước ông còn loạng choạng dọc theo phố, chỉ khoảnh khắc sau như thể có cả một tòa nhà đổ ập xuống người ông. Ông không hay biết đó là cái gì - một cây gậy, một viên đá, báng một khẩu súng, nó có thể là bất cứ thứ gì. Tất cả những gì ông cảm thấy là sức mạnh của cú đánh, một tiếng va đầy đau đớn vào phía dưới đầu ông, và rồi ông gục xuống, ngay lập tức sóng xoài trên vỉa hè. Hẳn là ông phải bất tỉnh trong vài giây, vì điều kế tiếp ông nhớ được là mở mắt ra và cảm thấy một tia nước bắn vào mặt mình. Ông đang trôi xuống khỏi sườn đồi, lướt đi trên mặt phố trơn trượt với một tốc độ mà ông không thể kiểm soát: trước tiên là cái đầu, tư thế nằm sấp, chân và tay đập tứ tung khi ông vẫy vùng để tóm được cái gì đó hòng làm ngưng cuộc đổ dốc tốc độ này. Dù cho có cố gắng đến đâu, ông vẫn không thể dừng lại, không thể đứng lên, không thể làm được việc gì khác ngoài lăn tròn như một con côn trùng bị tử thương. Đến một lúc, hẳn là người ông đã xoắn lại theo cách khiến ông trôi xuống theo một góc hẹp hơn, đột nhiên ông thấy mình sắp rơi đến một đoạn rẽ và sẽ bay xuống mặt đường. Ông gồng người lên chuẩn bị cho cú rơi, nhưng ngay khi đến rìa đường, ông xoay thêm khoảng tám mươi hoặc chín mươi độ và đâm sầm vào một cột đèn, xương sống đập trực diện vào thanh sắt. Cùng lúc, ông nghe thấy một tiếng gì đó gãy, và rồi ông cảm thấy một cơn đau không giống với bất kỳ điều gì ông từng cảm thấy trước đó, một cơn đau kỳ cục và mạnh đến mức ông nghĩ cơ thể mình đã vỡ tan theo đúng nghĩa đen.
Không bao giờ ông nói cho tôi về các chi tiết y khoa chính xác về vết thương của mình. Quan trọng hơn cả là những chẩn đoán, và không mất mấy thời gian để các bác sĩ có được một lời phán quyết đồng lòng. Hai chân của ông đã liệt hẳn, và dù cho có tiến hành nhiều liệu pháp đến đâu, thì ông cũng sẽ không bao giờ bước đi được nữa. Cũng thật lạ, ông nói, cái tin này đến với ông giống như một sự khuây khỏa. Ông đã bị trừng phạt, và bởi vì sự trừng phạt thật khủng khiếp, nên ông sẽ không bị buộc phải tự trừng phạt mình nữa. Tội ác của ông đã phải trả giá, và đột nhiên ông lại trở nên trống rỗng: không còn tội lỗi, không còn nỗi sợ sẽ bị bắt, không còn đe dọa nào nữa. Nếu bản chất của tai nạn khác đi, có thể nó đã gây cho ông một hiệu ứng khác, nhưng vì không nhìn thấy người tấn công mình, vì thậm chí chưa bao giờ hiểu nổi tại sao mình lại bị tấn công, ông không thể ngăn mình diễn giải điều này giống như một sự trừng phạt của vũ trụ. Hình thức công lý thuần khiết nhất từng được nghĩ ra; một tai họa quái ác và vô danh ập xuống từ bầu trời, và ông đã bị quật ngã, một cách đầy ngẫu nhiên và không chút thương xót. Không có thời gian để tự vệ hoặc bào chữa. Trước khi ông biết thì nó đã bắt đầu, phiên tòa đã kết thúc, bản án đã được giáng xuống, và thẩm phán đã biến mất khỏi phòng xử.
Mất chín tháng ông mới hồi phục sức khỏe (trong chừng mực ông có thể hồi phục), và rồi ông bắt đầu chuẩn bị để rời khỏi đất nước. Ông bán ngôi nhà, chuyển hết tài sản của mình vào một tài khoản ngân hàng bí mật tại Thụy Sĩ, và mua một hộ chiếu giả với cái tên Thomas Effing từ một người đàn ông có dính líu với các nhóm đấu tranh nghiệp đoàn vô chính phủ. Thời đó các cuộc càn quét của Palmer đang diễn ra sôi động nhất, các Wobbly bị hành hình theo kiểu lynsơ, Sacco và Vanzetti[22] bị bắt, và phần lớn thành viên của các nhóm cực đoan phải trốn chạy. Kẻ làm giả hộ chiếu là một tay nhập cư người Hung chui rúc trong một căn phòng dưới tầng hầm ở khu Mission, và Effing nhớ là đã phải trả rất nhiều tiền cho hắn. Gã đó sắp sửa lên cơn thần kinh đến nơi, ông kể, và vì ngờ Effing là một đặc vụ sẽ bắt hắn ngay khi xong việc, hắn cứ trì hoãn suốt nhiều tuần lễ, mỗi lần quá hẹn lại viện ra một cái cớ trời ơi đất hỡi nào đó. Giá cũng tăng mãi lên, nhưng vì vào quãng thời gian ấy tiền là thứ Effing ít bận tâm nhất, cuối cùng ông cũng khai thông được bế tắc bằng cách nói với gã đàn ông mình sẽ trả gấp đôi số tiền được đòi nếu có hộ chiếu vào chín giờ sáng ngày hôm sau. Với gã người Hung điều này là một món mồi nhử quá hấp dẫn - giờ đây giá đã lên đến hơn tám trăm đô la - và khi Effing đưa tiền cho hắn vào sáng hôm sau mà không bắt hắn, tay vô chính phủ đã gục người xuống mà khóc nức lên, nhiệt tình hôn tay Effing vì biết ơn. Đó là lần cuối ông gặp một người nào đó tại Mỹ trong suốt hai mươi năm, và ký ức về gã đàn ông kiệt sức này không bao giờ rời khỏi ông. Toàn bộ đất nước này đang đi xuống địa ngục, ông nghĩ, và ông nói lời tạm biệt với nó không chút hối tiếc.
Tháng Chín năm 1920, ông lên con tàu S.S. Descartes đi sang Pháp theo lối Kênh đào Panama. Không có lý do đặc biệt nào để đi sang Pháp, nhưng cũng không có lý do nào để không đến đó. Trong một thời gian ông đã tính đến chuyện tới một đất nước thuộc địa tù túng - có thể là Trung Mỹ, hoặc một hòn đảo ở Thái Bình Dương - nhưng ý nghĩ sẽ phải sống phần còn lại của cuộc đời trong một khu rừng rậm, ngay cả khi là một vị tiểu vương giữa đám người bản xứ vô hại và đầy lòng sùng bái, không gây hào hứng lắm cho trí tưởng tượng của ông. Ông không tìm kiếm thiên đường, ông chỉ muốn một đất nước nơi ông sẽ không cảm thấy buồn chán. Sẽ không thể là nước Anh (ông thấy người Anh thật ti tiện), và dù cho người Pháp cũng chẳng mấy khá hơn, thì ông vẫn còn giữ những ký ức tốt đẹp về cái năm đã sống ở Paris khi còn là một chàng trai trẻ. Ý cũng hấp dẫn ông, nhưng việc tiếng Pháp là thứ ngoại ngữ duy nhất ông có thể nói trôi chảy đã làm nghiêng cán cân về phía nước Pháp. Ít nhất thì ở đó ông cũng sẽ được ăn ngon và có rượu vang ngon để uống. Quả đúng Paris là thành phố nơi ông có nhiều nguy cơ gặp phải một người bạn nghệ sĩ nào đó từ New York nhất, nhưng triển vọng về những cuộc gặp ấy cũng không còn làm ông sợ nữa. Vụ tai nạn đã làm thay đổi tất cả. Julian Barber đã chết. Ông không còn là một nghệ sĩ nữa, ông không còn là ai cả. Ông là Thomas Effing, một tên kiều dân què cụt dính chặt vào một cái xe lăn, và nếu ai đó cứ lằn nhằn với ông về chuyện lý lịch, ông sẽ bảo hắn xéo đi. Chỉ đơn giản vậy thôi. Ông không còn quan tâm xem người khác nghĩ gì, và nếu điều này đồng nghĩa với việc ông sẽ phải nói dối về bản thân mình vào lúc này hay lúc kia, thì cứ vậy đi, ông sẽ nói dối. Dù sao thì toàn bộ câu chuyện cũng đã là một điều xấu hổ, và dẫu ông có làm gì thì cũng không hề tạo ra khác biệt nào cả.
Ông tiếp tục kể lại câu chuyện trong hai hoặc ba tuần sau đó, nhưng nó không còn hấp dẫn tôi lắm nữa. Đã xong xuôi những điều cốt yếu; không còn bí mật nào để kể, không còn sự thật đen tối nào để rút ra từ ông. Những bước ngoặt chính trong đời Effing đều đã diễn ra ở Mỹ, trong những năm giữa chuyến đi của ông tới Utah và vụ tai nạn ở San Francisco, và một khi ông đã sang đến châu u, câu chuyện biến thành cái gì đó khác hẳn, một bản liệt kê các hoạt động và sự kiện, một truyện kể về thời gian đã trôi qua. Effing ý thức được điều đó, tôi cảm thấy vậy, và mặc dù ông không hề nói rõ nó ra, cách kể chuyện của ông bắt đầu thay đổi, mất đi sự chính xác và nhiệt hứng như đã từng ở những đoạn trước đó. Giờ đây ông sử dụng nhiều đoạn trữ tình ngoại đề tự do hơn. Có vẻ thường xuyên quên mất mạch suy nghĩ của mình hơn. Và thậm chí còn rơi vào một số mâu thuẫn rõ ràng. Chẳng hạn, một hôm, ông cho biết mình đã trôi qua những năm đó trong sự lười biếng - đọc sách, chơi cờ, ngồi ở các quán rượu góc phố - nhưng đến hôm sau ông đã quay ngoắt mà kể với tôi những cuộc kinh doanh phức tạp, những bức tranh ông đã vẽ và rồi hủy đi, chuyện sở hữu một hiệu sách, chuyện làm điệp viên, chuyện gây dựng ngân quỹ cho quân đội cộng hòa ở Tây Ban Nha. Không nghi ngờ gì nữa, ông nói dối, nhưng tôi cho rằng ông làm việc đó vì thói quen nhiều hơn là với mục đích lừa tôi. Đến cuối cùng, ông xúc động kể về tình bạn với Pavel Shum, nói cho tôi một cách rất chi tiết bằng cách nào mà ông vẫn tiếp tục được chuyện tình ái mặc cho hoàn cảnh của mình, và lao vào những bài độc thoại dài dặc về các lý thuyết vũ trụ của ông: điện của các suy nghĩ, tính kết nối của vật chất, sự luân hồi. Vào ngày cuối cùng, ông kể bằng cách nào ông và Pavel trốn được khỏi Paris trước khi quân Đức tiến vào, quay trở lại cuộc gặp với Tesla trong công viên Bryant và rồi, không hề báo trước, đột ngột dừng lại.
“Đủ rồi đấy,” ông nói. “Chúng ta dừng lại thôi.”
“Nhưng vẫn còn một tiếng nữa mới đến bữa trưa mà,” tôi nói, nhìn lên cái đồng hồ đặt trên bệ lò sưởi, “vẫn còn đủ thời gian để chuyển sang một đoạn mới.”
“Đừng có trái lời tôi, cậu bé. Khi tôi nói chúng ta xong rồi, điều đó có nghĩa là chúng ta xong rồi.”
“Nhưng chúng ta mới đến được năm 1939. Còn tận ba mươi năm nữa cơ mà.”
“Chúng không quan trọng. Anh có thể tóm gọn chúng lại trong hai câu. ‘Sau khi rời châu u vào đầu Thế chiến thứ hai, ngài Effing quay trở lại New York, nơi ông sống nốt ba mươi năm cuối đời mình.’ Kiểu như vậy. Sẽ không khó khăn gì đâu.”
“Thế ra không phải là ông chỉ nói cho hôm nay thôi. Ông muốn nói toàn bộ câu chuyện. Ông nói chúng ta đã kết thúc nó rồi, có phải không?”
“Tôi nghĩ đã nói rất rõ về điều đó.”
“Không sao cả, giờ thì tôi hiểu rồi. Mọi thứ vẫn không ra đâu vào đâu cả, nhưng tôi hiểu rồi.”
“Chúng ta sẽ thiếu thời gian, đồ điên ạ, lý do là vậy đấy. Nếu chúng ta không khởi sự viết bản cáo phó trời đánh này, thì nó sẽ không bao giờ xong được.”
Trong hai mươi ngày tiếp theo, sáng nào tôi cũng ở lì trong phòng, gõ lại các phiên bản khác nhau về cuộc đời Effing trên chiếc máy chữ Underwood cũ kỹ. Có một phiên bản ngắn để gửi đến cho các báo, năm trăm chữ khô khan chỉ động chạm đến các sự kiện mang tính bề mặt hơn cả; có một phiên bản đầy đủ hơn được đặt tên là “Cuộc đời bí ẩn của Julian Barber,” tức là một bài báo khá giật gân khoảng ba nghìn chữ mà Effing muốn tôi trao cho một tờ tạp chí nghệ thuật sau khi ông chết; và cuối cùng, có một phiên bản đã biên tập gồm toàn bộ những gì ông kể, câu chuyện của Effing do chính ông kể. Nó dày đến hơn một trăm trang, và là bản tôi phải mất nhiều công sức nhất, cẩn thận gạch bỏ những trùng lặp và cách nói năng thô tục, trau chuốt câu từ, vật lộn để chuyển ngôn ngữ nói thành ngôn ngữ viết mà không làm giảm đi sức mạnh của nó. Đó là một công việc khó khăn và đòi hỏi nhiều khéo léo, tôi dần nhận ra, và trong nhiều trường hợp tôi phải viết lại hàng đoạn dài để trung thành được với ý nghĩa ban đầu. Tôi không biết Effing định làm gì với bản tiểu sử tự thuật này (theo nghĩa hẹp nhất, nó không còn là một bản cáo phó nữa), nhưng rõ ràng là ông rất quan tâm đến việc có được nó, và ông liên tục thúc tôi trong công việc sửa chữa, rầy la và hét inh ỏi mỗi khi nghe thấy tôi đọc lên một câu mà ông không thích. Chiều nào chúng tôi cũng đánh vật với những cuộc làm việc thuần túy theo lối biên tập đó, cãi cọ nhau về từng chi tiết phong cách học nhỏ nhất. Đó là một trải nghiệm mệt mỏi cho cả hai chúng tôi (hai linh hồn bướng bỉnh bị nhốt kín vào trong cuộc chiến sống còn), nhưng dần dần chúng tôi cũng nhất trí được với nhau về nhiều điểm, và đến đầu tháng Ba công việc đã hoàn tất.
Hôm sau, tôi tìm thấy ba quyển sách để trên giường mình. Tất cả chúng đều mang tên tác giả là Solomon Barber, và mặc dù Effing không nói gì đến chúng trong bữa sáng, tôi vẫn nghĩ ông là người đã đặt chúng ở đó. Đó là một hành động đặc trưng của Effing - ranh mãnh, kỳ bí, có vẻ không vì một nguyên do nào - nhưng khi ấy tôi đã biết ông đủ rõ để hiểu đó là một cách của ông để bảo tôi đọc những quyển sách ấy. Nhìn vào tên tác giả, gần như có thể chắc chắn rằng đây không phải là một đòi hỏi tình cờ. Nhiều tháng trước, ông già đã sử dụng từ “hậu quả,” và tôi tự hỏi không biết ông đã sẵn sàng nói về chúng chưa.
Những quyển sách viết về lịch sử nước Mỹ, mỗi cuốn được một nhà xuất bản đại học khác nhau xuất bản: Giám mục Berkeley và những người Da đỏ (1947), Vùng thuộc địa Roanoke đã mất (1955), và Sự hoang vu của nước Mỹ (1963). Phần tiểu sử tác giả in trên cái bìa bao ngoài bám đầy bụi rất ngắn, nhưng tập hợp các thông tin ít ỏi lại, tôi biết được rằng Solomon Barber đã nhận bằng tiến sĩ sử học vào năm 1944, viết nhiều bài nghiên cứu cho các tạp chí chuyên ngành, và dạy ở nhiều đại học vùng Trung Tây. Cái mốc 1944 là quan trọng nhất. Nếu Effing làm cho vợ mình có thai ngay trước khi ra đi vào năm 1916, thì con trai ông phải ra đời vào năm sau đó, điều này có nghĩa anh ta hai mươi bảy tuổi vào năm 1944 - một cái tuổi khá lôgic để kiếm được học vị tiến sĩ. Mọi thứ có vẻ rất ăn nhập với nhau, nhưng tôi biết tốt hơn hết là không suy ra một kết luận nào cả. Tôi phải đợi ba ngày nữa trước khi Effing đề cập chủ đề, và mãi khi đó tôi mới biết rằng các nghi ngờ của mình đều đúng.
“Tôi không nghĩ là anh đã liếc qua mấy cuốn sách tôi để lại trong phòng anh hôm thứ Ba vừa rồi,” ông nói, đầy vẻ bình tĩnh giống như một người vừa hỏi xin thêm một thìa đường nữa cho tách trà của mình.
“Tôi đã liếc qua chúng rồi,” tôi nói. “Thậm chí tôi còn đọc rồi nữa cơ.”
“Anh làm tôi ngạc nhiên đấy, cậu bé. Nhìn vào tuổi tác của anh, tôi bắt đầu nghĩ biết đâu có một hy vọng nào đó cho anh đấy.”
“Có hy vọng cho tất cả mọi người, thưa ông. Đó chính là động lực khiến thế giới này quay.”
“Tha cho tôi mấy câu châm ngôn đó đi, Fogg. Anh nghĩ gì về mấy quyển sách?”
“Tôi thấy chúng thật đáng ngưỡng mộ. Viết rất giỏi, lập luận chặt chẽ, và rất nhiều thông tin với tôi là hoàn toàn mới.”
“Ví dụ?”
“Chẳng hạn như tôi chưa bao giờ biết đến kế hoạch của Berkeley trong việc dạy dỗ người Da đỏ ở Bermuda, và tôi chưa bao giờ biết về những năm ông ấy sống ở Rhode Island. Tất cả những cái đó với tôi là một sự ngạc nhiên lớn, nhưng phần hay nhất trong cuốn sách là cách thức Barber kết nối các trải nghiệm của Berkeley với những tác phẩm triết học về tri giác của ông. Tôi thấy điều đó rất khéo léo, độc đáo, và sâu sắc.”
“Thế còn những quyển kia?”
“Cũng giống như vậy. Tôi cũng không biết nhiều về Roanoke. Tôi nghĩ Barber đã làm rất tốt việc làm sáng tỏ điều bí ẩn, và tôi rất nhất trí với ông ấy rằng những người khai phá mất tích đã sống sót bằng cách liên minh với người Da đỏ Croatan. Tôi cũng rất thích các thông tin hỗ trợ liên quan đến Raleigh và Thomas Harriot. Ông có biết Harriot chính là người đầu tiên nhìn mặt trăng qua một cái kính viễn vọng không? Tôi vẫn luôn nghĩ đó là Galileo, nhưng Harriot đã đi trước đến mấy tháng.”
“Phải, cậu bé ạ, tôi biết điều đó rồi. Thôi đừng giảng bài cho tôi nữa đi.”
“Tôi chỉ đang trả lời câu hỏi của ông thôi. Ông hỏi tôi biết được những gì, và tôi nói cho ông biết.”
“Thôi không nói lại nữa. Ở chỗ này tôi là người đặt câu hỏi. Hiểu chưa hả?”
“Hiểu rồi. Ông có thể hỏi tôi bất cứ câu hỏi nào mà ông muốn, thưa ông Effing, nhưng ông không cần phải đi lòng vòng thế đâu.”
“Nghĩa là gì?”
“Có nghĩa là chúng ta không cần phải lãng phí thêm thời gian nữa. Ông để những quyển sách ấy trong phòng tôi bởi vì ông muốn tôi nói điều gì đó, và tôi không hiểu tại sao ông không nói thẳng điều ấy ra đi.”
“Chà, chà, hôm nay chúng ta khôn ngoan đấy nhỉ?”
“Không khó gì để đoán ra mà.”
“Không, tôi không nghĩ vậy. Ít nhiều thì tôi đã nói cho anh rồi, phải không?”
“Solomon Barber là con trai ông.”
Effing im lặng một lúc lâu, như thể rất miễn cưỡng trong việc thừa nhận câu chuyện đang dẫn đến đâu. Ông nhìn chằm chằm vào khoảng không, tháo đôi kính đen và dùng một cái khăn mùi soa lau kính - một hành động vô ích, không hợp lý đối với một người mù - và rồi khịt mạnh một tiếng từ sâu trong cổ họng. “Solomon,” ông nói. “Quả là một cái tên đáng ghê tởm. Nhưng dĩ nhiên là tôi không thể làm được gì rồi. Anh không thể đặt tên cho ai đó mà anh không biết là có tồn tại, phải không nào?”
“Đã bao giờ ông gặp ông ấy chưa?”
“Tôi chưa bao giờ gặp nó, và nó chưa bao giờ gặp tôi. Tất cả những gì nó biết là bố nó đã chết ở Utah vào năm 1916.”
“Lần đầu tiên ông nghe nói về ông ấy là khi nào?”
“Năm 1947. Pavel Shum chịu trách nhiệm về việc này, ông ấy chính là người hé lộ mọi chuyện. Một hôm, ông ấy đưa cho tôi quyển sách về Giám mục Berkeley này. Ông ấy là người đọc rất nhiều, Pavel ấy, tôi buộc phải nói với anh điều này, và khi ông ấy nói về tay sử gia trẻ tuổi có cái tên Barber ấy, lẽ tự nhiên là tôi phải dỏng tai lên nghe rồi. Pavel không biết gì về quãng đời trước của tôi, nên tôi buộc phải vờ như quan tâm đến quyển sách để ông ấy nói thêm về người đã viết ra nó. Khi ấy còn chưa có gì chắc chắn cả. Dù sao thì Barber cũng không phải là một cái họ lạ lắm, và tôi không có lý do gì để nghĩ cái tay Solomon này có liên hệ với mình theo bất kỳ cách nào. Tuy vậy tôi vẫn có một linh cảm về chuyện đó, và nếu có một điều tôi học được trong cái sự nghiệp làm người dài dặc và ngu ngốc của mình, thì đó là tầm quan trọng của việc lắng nghe các linh cảm riêng. Tôi đã bịa đặt mọi thứ với Pavel, mặc dù có khả năng việc này không hề cần thiết. Ông ấy có thể làm bất kỳ việc gì cho tôi. Nếu tôi yêu cầu ông ấy đi lên Bắc Cực, hẳn là ông ấy cũng sẽ phóng thẳng lên đó ngay. Tôi chỉ cần một ít thông tin, nhưng tôi cảm thấy sẽ có quá nhiều nguy cơ nếu nói thẳng ra, thế nên tôi bảo ông ấy rằng mình đang nghĩ đến việc lập một cái quỹ để hàng năm trao giải thưởng cho một cây bút trẻ xứng đáng. Anh chàng Barber này có vẻ hứa hẹn đấy, tôi nói, tại sao chúng ta không gặp anh ta để xem anh ta có thể sử dụng một món tiền thưởng hay không? Pavel rất nhiệt tình. Trong tất cả những gì liên quan đến ông ấy, không gì trên đời này ông ấy thấy tốt đẹp hơn là khuyến khích đời sống tinh thần.”
“Nhưng thế còn vợ ông thì sao? Đã bao giờ ông tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy đến với bà ấy chưa? Sẽ không khó khăn gì việc tìm hiểu liệu bà ấy có một đứa con trai hay không. Chắc là phải có đến hàng trăm cách để kiếm được dạng thông tin đó.”
“Chắc chắn rồi. Nhưng tôi đã tự hứa với mình là sẽ không bao giờ tìm hiểu về Elizabeth. Tôi rất tò mò - mà cũng không thể không tò mò được - nhưng cùng lúc tôi lại không muốn mở lại cái hộp đựng sâu cũ kỹ đó. Quá khứ là quá khứ, và toàn bộ nó đã đóng lại im ỉm đối với tôi. Việc bà ấy còn sống hay đã chết, có tái giá hay không - biết tất cả những chuyện ấy thì có gì hay ho cơ chứ? Tôi tự buộc mình phải ở nguyên trong bóng tối. Trong cách thức đó có một sự căng thẳng lớn lao, và nó giúp nhắc nhở tôi là ai, buộc tôi phải nhớ rằng bây giờ mình đã là một người khác rồi. Không có chuyện quay ngược trở về phía sau - đó là điều quan trọng. Không hối tiếc, không than van, không có những tình cảm yếu đuối. Thông qua việc từ chối tìm kiếm thông tin về Elizabeth, tôi vẫn được là một kẻ mạnh.”
“Nhưng ông đã muốn tìm hiểu về con trai ông.”
“Chuyện ấy thì lại khác hẳn. Nếu tôi có trách nhiệm trong việc sinh ra một người khác, thì tôi có quyền được biết về điều đó. Tôi chỉ muốn nhìn mọi việc một cách thẳng thắn, không gì khác cả.”
“Pavel có mất nhiều thời gian để tìm được thông tin không?”
“Không lâu lắm. Ông ấy tìm ra tung tích Solomon Barber và phát hiện nó dạy ở một trường đại học khỉ ho cò gáy vùng Trung Tây - Iowa hay Nebraska gì đó, tôi quên mất rồi. Pavel viết cho nó một bức thư nói về quyển sách của nó, một bức thư của người hâm mộ, kiểu như vậy. Sau đó thì không có rắc rối nào cả. Barber gửi lại một bức thư trả lời đầy thân ái, và thế là Pavel viết thư tiếp nói rằng ông ấy sắp đi qua Iowa hoặc Nebraska và tự hỏi không biết họ có thể gặp nhau được không. Dĩ nhiên là chỉ vì tình cờ thôi. Ha! Cứ làm như là những chuyện như vậy có thể là tình cờ ấy. Barber nói sẽ rất vui nếu được gặp ông ấy, và chuyện đã diễn ra như vậy. Pavel đi tàu đến Iowa hoặc Nebraska, họ gặp nhau trong một buổi tối, và rồi Pavel quay trở về với tất cả những gì tôi cần biết.”
“Nghĩa là?”
“Nghĩa là: Solomon Barber sinh ở Shoreham, Long Island, năm 1917. Nghĩa là: bố nó là một họa sĩ chết ở Utah từ rất lâu rồi. Nghĩa là: mẹ nó đã chết vào năm 1939.”
“Cùng năm ông quay trở về Mỹ.”
“Có vẻ là như vậy đó.”
“Thế rồi?”
“Thế rồi cái gì?”
“Chuyện gì xảy ra sau đó?”
“Không gì cả. Tôi bảo Pavel là tôi đã thay đổi ý định về cái quỹ, và mọi chuyện như vậy là chấm dứt.”
“Và ông không bao giờ muốn gặp ông ấy. Thật khó tin là ông bỏ mặc mọi việc như thế.”
“Tôi có nhiều lý do để làm vậy, cậu bé ạ. Đừng nghĩ là không khó khăn, nhưng tôi nhất định làm điều này. Tôi nhất định phải làm được dù gặp phải rất nhiều gian nan.”
“Ông quả là một người cao quý.”
“Đúng vậy, rất cao quý. Tôi là một chàng hoàng tử đích thực.”
“Thế còn bây giờ?”
“Dù cho tất cả mọi chuyện, tôi vẫn dõi theo các bước đi của nó. Pavel tiếp tục thư từ với nó, ông ấy thông tin cho tôi những gì Barber làm trong suốt nhiều năm. Đó chính là lý do khiến bây giờ tôi kể chuyện này cho anh. Có một việc tôi muốn anh làm cho tôi sau khi tôi chết. Luật sư có thể lo được, nhưng tôi muốn người đó là anh hơn. Việc này anh có thể làm tốt hơn họ nhiều.”
“Kế hoạch của ông là gì?”
“Tôi sẽ để lại cho nó tiền của tôi. Sẽ có một ít cho bà Hume, dĩ nhiên, nhưng phần còn lại sẽ thuộc về con trai tôi. Cả đời nó đã không ra gì rồi, có thể việc này sẽ mang lại tốt lành cho nó. Nó là một kiểu người bạc nhược to béo, không con cái, không vợ, chơ vơ, một khối thảm họa biết di chuyển. Mặc dù có đầu óc và tài năng như thế, nhưng sự nghiệp của nó là một thất bại kéo dài. Nó bị đuổi khỏi công việc đầu tiên giữa những năm bốn mươi do một vụ bê bối - ngủ với sinh viên nam, theo như tôi được biết - và rồi, ngay khi vừa hồi lại được một chút, nó lại dính vụ McCarthy và lại rơi tõm xuống đến tận đáy. Nó sống cả đời trong cái ao tù tối tăm bậc nhất có thể tưởng tượng được, dạy tại các trường đại học không ai nghe nói đến.”
“Nghe thật là bi thảm.”
“Đúng thế đấy. Bi thảm. Một trăm phần trăm bi thảm.”
“Nhưng tôi thì có thể làm gì được trong chuyện này đây? Ông để lại tiền trong di chúc, và các luật sư sẽ đưa cho ông ấy. Có vẻ như thế là đường thẳng nhất rồi.”
“Tôi muốn anh gửi cho nó bản tự truyện của tôi. Thế anh nghĩ tại sao tôi lại làm việc đó chăm chỉ đến thế? Không phải là để giết thời gian đâu, cậu bé ạ, có một mục đích nằm ở đằng sau đấy. Trong tất cả những gì tôi làm lúc nào cũng có một mục đích, hãy nhớ lấy điều ấy. Khi nào chết đi, tôi muốn anh gửi cái đó cho nó kèm với một bức thư giải thích nó đã được viết ra như thế nào. Đã rõ ràng chưa?”
“Không thực sự. Sau khi giữ khoảng cách với ông ấy kể từ năm 1947, tôi không hiểu tại sao đột nhiên ông lại hào hứng với việc liên hệ lại với ông ấy vào lúc này. Không hợp lý chút nào cả.”
“Bất kỳ ai cũng có quyền biết về quá khứ của chính mình. Tôi không thể làm được gì nhiều cho nó, nhưng ít nhất tôi có thể làm được việc này.”
“Ngay cả khi ông ấy không muốn biết?”
“Đúng vậy, ngay cả khi nó không muốn biết.”
“Nghe không được công bằng lắm.”
“Có ai nói về chuyện công bằng đâu? Chẳng có gì liên quan hết cả. Tôi tách xa khỏi nó khi còn sống, nhưng bây giờ khi đã chết, đã đến lúc câu chuyện được kể ra.”
“Với tôi trông ông không có vẻ đã chết.”
“Sắp rồi, tôi hứa với anh. Gần lắm rồi.”
“Ông nói điều đó hàng tháng nay rồi, nhưng ông vẫn khỏe phây phây đây thôi.”
“Hôm nay là ngày bao nhiêu?”
“Mười hai tháng Ba.”
“Vậy có nghĩa là tôi còn hai tháng nữa. Tôi sẽ chết vào ngày mười hai tháng Năm, đúng hai tháng kể từ hôm nay.”
“Ông không thể nào biết điều đó được. Không ai biết cả.”
“Nhưng mà tôi biết, Fogg ạ. Ghi nhớ lời tôi đi. Hai tháng kể từ hôm nay, tôi sẽ chết.”
Sau cuộc trò chuyện kỳ lạ đó, chúng tôi quay trở lại với nhịp sống thường nhật. Tôi đọc cho ông nghe vào buổi sáng, và buổi chiều chúng tôi ra ngoài đi dạo. Vẫn là lịch trình ấy, nhưng tôi không có cùng cảm giác như trước nữa. Trước đây, Effing có cả một chương trình với những cuốn sách, nhưng giờ đây các lựa chọn của ông đầy vẻ ngẫu nhiên, vô cùng thiếu tính nhất quán. Hôm nay ông có thể yêu cầu tôi đọc cho nghe những câu chuyện từ Mười ngày hoặc Nghìn lẻ một đêm, sang hôm sau đã là Hài kịch các nhầm lẫn, rồi ngày tiếp theo ông hoàn toàn bỏ mặc những cuốn sách và bảo tôi đọc cho nghe tin về kỳ tập luyện mùa xuân của các trung tâm bóng chày ở Florida. Hoặc có thể ông đã quyết định kể từ nay mọi sự sẽ được thực hiện theo lối ngẫu nhiên, chỉ lướt qua một số lượng lớn các tác phẩm để chào tạm biệt chúng, như thể đó là một cách thức nói lời tạm biệt với thế giới. Trong ba hoặc bốn ngày liên tiếp ông bắt tôi đọc các tiểu thuyết khiêu dâm (cất rất kỹ trong một cái tủ dưới giá sách), nhưng ngay cả những cuốn sách đó cũng không đủ sức làm ông phấn khích ở bất kỳ mức độ có thể nhận diện nào. Ông cười khùng khục chừng một hoặc hai lần vì thích thú, nhưng cũng có lần ông ngủ gật ngay giữa một trong những đoạn ẩm ướt nhất. Tôi tiếp tục đọc trong lúc ông ngủ, và khi tỉnh dậy nửa giờ sau đó, ông nói với tôi rằng ông vừa luyện tập việc chết. “Tôi muốn chết với tình dục trong não,” ông thì thầm. “Không có cách nào hay hơn thế nữa đâu.” Trước đây tôi chưa bao giờ đọc thể loại truyện khiêu dâm, và tôi thấy những quyển sách này vừa phi lý vừa kích thích. Một hôm, tôi ghi nhớ nhiều đoạn hay nhất và đọc chúng cho Kitty nghe khi tôi gặp nàng buổi đêm. Có vẻ như là chúng có cùng hiệu ứng lên nàng. Chúng làm nàng phá lên cười, nhưng cùng lúc chúng làm nàng muốn cởi bỏ quần áo nhảy lên giường.
Những cuộc đi dạo cũng rất khác với trước đây. Effing không còn tỏ ra quá hào hứng với chúng nữa, và thay vì bắt tôi miêu tả những thứ chúng tôi gặp trên đường đi, ông lại ngồi im lặng ở đó, tư lự và khép kín. Theo thói quen, tôi vẫn tiếp tục những lời bình luận của mình, nhưng hiếm khi nào ông tỏ vẻ đang lắng nghe, và khi thiếu đi những câu nhận xét tục tĩu và những lời phê phán của Effing để đáp lại, tôi cũng cảm thấy tâm trí mình rũ xuống. Lần đầu tiên kể từ khi tôi biết ông, Effing có vẻ xa vắng, không thiết tha với những thứ vây xung quanh mình, gần như là lặng lẽ. Tôi nói với bà Hume về những đổi thay đó ở ông, bà thú nhận là chúng cũng đã bắt đầu làm bà lo lắng. Tuy nhiên, về mặt thể chất, cả hai chúng tôi đều không thấy có thay đổi lớn nào. Ông vẫn ăn nhiều hoặc ăn ít như vẫn luôn như vậy; các chuyển động của ruột ông vẫn bình thường; ông không phàn nàn gì về bất cứ chỗ đau đớn hoặc bất ổn mới nào. Thời kỳ ì trệ kỳ cục này kéo dài khoảng ba tuần. Rồi, đúng lúc tôi bắt đầu nghĩ rằng Effing đang xuống dốc một cách trầm trọng, thì một sáng ông đến bàn ăn hoàn toàn giống như bản thân ông trước đây, sôi trào sự hào hứng và trông vui sướng đúng hệt như tôi vẫn thấy.
“Đã quyết định xong rồi!” ông tuyên bố, nện nắm đấm xuống mặt bàn. Cú đánh rơi xuống nặng nề đến mức các thứ đồ bạc nảy lên kêu lanh canh. “Ngày nào tôi cũng suy tính về nó, xoay đủ mọi chiều trong óc tôi, tìm bằng được kế hoạch hoàn hảo nhất. Sau rất nhiều lao động trí óc, tôi sung sướng thông báo rằng mọi thứ đã xong rồi. Xong rồi!
Đây là ý tưởng hay nhất mà tôi từng có, ơn Chúa. Đó là một kiệt tác, một kiệt tác tuyệt đối. Anh có sẵn sàng cho một chuyện vui vui không, hả cậu bé?”
“Dĩ nhiên rồi,” tôi nói, nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để duy trì tâm trạng tốt của ông. “Lúc nào tôi cũng sẵn sàng cho những chuyện vui.”
“Tuyệt diệu, thế là được rồi,” ông nói, xoa hai tay vào nhau. “Tôi hứa với các bạn, các con của ta, nó sẽ là một khúc hát thiên nga diễm lệ, một cái cúi chào không giống với bất cứ cái nào. Hôm nay thời tiết bên ngoài ra sao?”
“Trời quang và khô ráo,” bà Hume nói. “Dự báo thời tiết trên đài nói đến chiều nhiệt độ sẽ lên tới khoảng trên năm mươi.”
“Quang và khô ráo,” ông nói, “hơn năm mươi độ. Không thể tốt hơn được nữa. Còn ngày tháng, Fogg, hôm nay theo lịch là ngày bao nhiêu?”
“Mồng một tháng Tư, khởi đầu của một tháng mới.”
“Mồng một tháng Tư! Ngày nói dối. Ở Pháp người ta hay gọi hôm nay là ngày cá tháng Tư. Được rồi, chúng ta sẽ cho họ một ít cá để mà hít, phải không nào, hả Fogg? Chúng ta sẽ cho họ cả một giỏ đầy luôn!”
“Đúng vậy,” tôi nói. “Chúng ta sẽ cho họ việc mà làm.”
Effing tiếp tục trò chuyện theo cái cách đầy phấn khích đó trong suốt bữa sáng, hiếm khi nào dừng lại đủ lâu để nhét được thìa cháo yến mạch vào miệng. Bà Hume có vẻ lo lắng, nhưng mặc cho mọi chuyện, tôi cảm thấy được khích lệ bởi khối năng lượng thất thường này. Dù cho rốt cuộc nó có dẫn tới chuyện gì, thì vẫn cứ là tốt hơn những tuần u tối mà chúng tôi vừa trải qua. Effing không hợp chút nào với cái vai một ông già ủ dột, và tôi thà thấy ông tự sát bởi sự hào hứng của mình còn hơn là sống trong sự im lặng buồn nản ấy.
Sau bữa sáng, ông ra lệnh cho chúng tôi lấy đồ cho ông và chuẩn bị đi ra ngoài. Trang thiết bị quen thuộc được quấn quanh người ông - chăn, khăn quàng, áo choàng, mũ, găng tay - rồi ông bảo tôi mở cửa tủ lấy ra một cái túi du lịch vải len Scotland nằm dưới một chồng giày ủng. “Anh nghĩ gì, hả Fogg?” ông hỏi. “Anh nghĩ là đã đủ rộng chưa?”
“Điều đó còn tùy thuộc vào việc ông định làm gì với nó nữa.”
“Chúng ta sẽ sử dụng nó để đựng tiền. Hai mươi nghìn đô la tiền mặt.”
Trước khi tôi kịp nói điều gì để đáp lời, bà Hume đã xen ngang. “Ông sẽ không làm những chuyện kiểu như thế, ông Thomas ạ,” bà nói. “Tôi sẽ không ủng hộ đâu. Một người mù đi lang thang trên đường phố với hai mươi nghìn đô la tiền mặt. Ông bỏ ngay cái ý định điên rồ ấy đi.”
“Im mồm ngay, mụ điếm,” Effing gào lên. “Im mồm ngay, không thì tôi vụt cho một trận bây giờ. Đó là tiền của tôi, tôi sẽ làm bất kỳ những gì tôi muốn với nó. Tôi có người vệ sĩ đáng tin cậy đi cùng tôi đây rồi, sẽ không có gì xảy ra được. Và ngay cả khi nếu có thì cũng không phải là việc của bà. Bà đã hiểu điều đó chưa, hả đồ bò sữa béo ị? Chỉ cần bà nói thêm một câu thôi là tôi cho bà đi gói ghém đồ đạc luôn đấy.”
“Bà ấy chỉ làm việc của mình thôi mà,” tôi nói, tìm cách bảo vệ bà Hume khỏi đòn tấn công điên rồ này. “Chẳng có gì mà phải rộn lên vì chuyện đó cả.”
“Cả anh nữa đấy, đồ trơ tráo,” ông hét lên với tôi. “Làm việc anh được giao đi, không thì tạm biệt công việc của anh. Một, hai, ba, thế là anh tiêu. Cứ thử làm việc đó đi nếu anh không tin tôi.”
“Ông đúng là đồ đáng ghê tởm,” bà Hume nói. “Ông chẳng qua chỉ là một lão già khú ngu như lừa, Thomas Effing. Tôi cầu cho ông sẽ mất sạch sành sanh chỗ tiền này. Tôi cầu cho nó sẽ bay mất khỏi túi và ông sẽ không bao giờ nhìn thấy lại nó nữa.”
“Ha!” Effing nói. “Ha, ha, ha! Thế bà nghĩ tôi định làm gì với nó hả, đồ mặt ngựa? Tiêu nó à? Bà nghĩ Thomas Effing lại có thể hạ mình làm những cái trò tầm thường vô vị đó ư? Tôi có những kế hoạch lớn lao cho số tiền này, những kế hoạch tuyệt diệu mà chưa một ai từng mơ đến cả.”
“Đồ gàn dở dơ dáy,” bà Hume nói. “Ông có đi ra ngoài tiêu phí một triệu đô la thì tôi cũng chẳng thèm quan tâm.
Chẳng có ý nghĩa gì với tôi cả. Tôi không liên quan gì đến ông nữa - ông và tất cả các trò tai quái của ông.”
“Nào, nào,” Effing nói, đột nhiên bày tỏ một dáng vẻ duyên dáng nhơm nhớp. “Không việc gì phải dằn hắt cả, con vịt con ạ.” Ông cầm lấy tay bà và hôn lên hôn xuống cánh tay nhiều lần, như thể ông thực sự thích nó. “Fogg sẽ lo cho tôi. Cậu ấy là một chàng thanh niên rắn rỏi, và chúng tôi sẽ không gặp phải chuyện gì xấu cả. Tin tôi đi, tôi đã lên toàn bộ kế hoạch kỹ càng đến từng chi tiết nhỏ nhất rồi.”
“Ông không lừa tôi được đâu,” bà nói, rút tay về, dáng vẻ chán nản. “Ông sắp sửa làm một việc gì đó rất ngu ngốc, tôi biết thừa. Chỉ cần nhớ rằng tôi đã nói với ông rồi. Tôi sẽ không chấp nhận chuyện ông gào khóc và rên rỉ xin lỗi tôi đâu. Đã quá muộn cho việc đó rồi. Một lần là kẻ điên thì suốt đời là kẻ điên. Mẹ tôi đã nói với tôi như vậy đấy, và bà ấy đúng.”
“Tôi sẽ giải thích cho bà ngay nếu tôi có thể,” Effing nói, “nhưng chúng tôi không có thời gian. Và ngoài ra, nếu Fogg không nhanh chóng đẩy tôi ra ngoài, tôi sẽ bị nướng chín dưới đống chăn này đấy.”
“Thế thì cứ đi đi,” bà Hume nói. “Thử xem tôi có thèm quan tâm không nhé.”
Effing nhăn mặt, rồi ưỡn thẳng người lên và quay về phía tôi. “Đã sẵn sàng chưa, cậu bé?” ông nói oang oang vào mặt tôi như một vị thuyền trưởng.
“Sẵn sàng bất cứ khi nào ông sẵn sàng,” tôi đáp.
“Tốt. Thế thì lên đường.”
Chặng dừng đầu tiên của chúng tôi là ngân hàng Chase Manhattan trên Broadway, nơi Effing rút hai mươi nghìn đô la. Vì số tiền quá lớn, chúng tôi mất gần một giờ mới xong việc. Một nhân viên cao cấp của ngân hàng phải ký duyệt, và sau đó lại phải mất thêm thời gian để những người thu ngân gom đủ số lượng các tờ năm mươi đô la theo yêu cầu, Effing chỉ chấp nhận những tờ tiền mệnh giá đó. Ông là một khách hàng lâu năm của ngân hàng, “một khách hàng quan trọng,” như ông nhắc nhở người quản lý hơn một lần, và người quản lý, cảm thấy khả năng về một viễn cảnh không mấy dễ chịu, cố gắng hết sức để thỏa mãn yêu cầu của ông. Effing tiếp tục giấu kín ý đồ của mình. Ông từ chối để tôi giúp, và khi rút sổ ngân hàng từ túi ra, ông nhất quyết giấu nó khỏi mắt tôi, như thể ông sợ tôi biết được ông có bao nhiêu tiền ở trong tài khoản. Tôi cảm thấy bị xúc phạm vì cái kiểu đó của ông, nhưng sự thực là tôi không hề có chút quan tâm nhỏ nào về việc biết số tiền ấy. Khi rốt cuộc số tiền đã sẵn sàng, một người thu ngân đếm nó hai lần, và rồi Effing bắt tôi đếm lại một lần nữa cho chắc. Trước đây tôi chưa bao giờ nhìn thấy nhiều tiền ở cùng một chỗ đến thế, nhưng khi đếm xong đống tiền, trò ảo thuật không còn lung linh nữa, số tiền quay trở lại với đúng bản chất của nó: bốn trăm tờ tiền màu xanh lá cây. Effing mỉm cười hài lòng khi tôi nói với ông rằng tất cả đã ở đây, rồi ông bảo tôi nhét các bó tiền vào túi, nó đủ rộng để chứa được toàn bộ. Tôi kéo khóa phecmơtuya lại, cẩn thận đặt cái túi vào lòng Effing, rồi đẩy xe cho ông rời khỏi ngân hàng. Trên suốt chặng đường ra đến cửa, ông làm ồn không ngừng, khua khoang cây gậy và la hét inh ỏi.
Khi đã ra đến bên ngoài, ông bảo tôi đưa đến một trong những nơi nhộn nhịp người qua lại nhất ở Broadway. Đó là một chỗ rất ầm ĩ, xe hơi và xe tải đậu kín hai lề đường, nhưng Effing có vẻ không quan tâm gì đến sự náo động. Ông hỏi tôi có ai ngồi trên ghế không, và khi tôi đảm bảo rằng không có ai, ông bảo tôi ngồi xuống đó. Hôm ấy ông đeo kính đen, và ông dùng cả hai tay để ngang ngực ôm khư khư lấy cái túi, trông ông còn ít giống với con người hơn cả thường lệ, như thể ông là một con chim ruồi to lớn bất thường vừa từ không gian vũ trụ đến đây.
“Tôi muốn thảo luận về kế hoạch với anh trước khi chúng ta bắt tay vào việc,” ông nói. “Ở ngân hàng không có chỗ nào để nói chuyện, và tôi không muốn ở nhà để cái mụ già thích thò mũi vào chuyện người khác ấy nghe trộm chúng ta. Có thể anh đã tự đặt cho mình rất nhiều câu hỏi, và vì anh đi cùng với tôi, đã đến lúc phải ngô khoai rõ ràng rồi.”
“Tôi đã nghĩ sớm hay muộn thế nào ông cũng phải nói chuyện đó.”
“Như thế này nhé, chàng trai trẻ. Thời gian của tôi không còn nhiều nhặn nữa, và vì vậy trong mấy tháng vừa rồi tôi đã lo lắng về mọi việc. Tôi đã viết di chúc, tôi đã viết bản cáo phó, tôi đã sắp xếp xong xuôi cả rồi. Chỉ còn duy nhất một điều làm tôi phải băn khoăn - một món nợ chưa trả, anh có thể gọi nó như vậy - và bây giờ khi đã có vài tuần để cân nhắc tính toán, cuối cùng tôi đã tìm được một giải pháp. Năm mươi hai năm trước, hẳn anh còn nhớ, tôi đã tìm được một túi tiền. Tôi đã lấy số tiền đó và sử dụng nó để làm ra nhiều tiền hơn, tiền giúp tôi sống được kể từ ngày ấy. Giờ đây khi đã đi đến cuối chặng đường, tôi không cần đến túi tiền đó nữa. Vậy thì tôi sẽ phải làm gì với nó đây? Điều duy nhất tôi thấy hợp lý là mang trả nó.”
“Mang trả nó? Nhưng ông sẽ trả cho ai đây? Anh em nhà Gresham đều đã chết, và hơn thế số tiền ấy cũng đâu phải của họ. Họ đã ăn cắp tiền từ những người ông không hề biết đến, từ những người lạ mặt vô danh. Ngay cả khi ông có cách tìm ra họ, thì họ cũng có thể đều đã chết rồi.”
“Chính xác. Những người đó giờ đây đều đã chết, và sẽ không thể nào tìm ra người thừa kế của họ, đúng không nào?”
“Thì tôi cũng vừa nói thế mà.”
“Anh cũng nói rằng những người đó là những người lạ mặt vô danh. Ngừng lại mà suy nghĩ một lát về điều ấy đi. Nếu có một điều gì đó mà cái thành phố quỷ tha ma bắt này sở hữu rất nhiều, thì đó chính là những người lạ mặt vô danh. Đường phố đầy ắp bọn họ. Anh có đi bất kỳ đâu, thì cũng sẽ có một người lạ mặt vô danh khác. Có đến hàng triệu bọn họ ở xung quanh chúng ta.”
“Ông không nghiêm túc rồi.”
“Dĩ nhiên là tôi nghiêm túc. Lúc nào tôi cũng nghiêm túc. Giờ thì anh nên biết điều đó.”
“Ông muốn nói chúng ta sẽ đi vòng vòng các phố để chìa những tờ năm mươi đô la cho những người xa lạ? Điều đó sẽ gây ra một cuộc bạo loạn. Người ta sẽ phát điên, họ sẽ xé xác chúng ta.”
“Sẽ không như vậy nếu chúng ta tiến hành một cách đúng đắn. Vấn đề là phải có một kế hoạch chuẩn, và cái đó thì chúng ta có. Tin tôi đi, Fogg. Đây sẽ là điều lớn lao nhất mà tôi từng làm, thành tựu sau chót huy hoàng của đời tôi!”
Kế hoạch của ông rất đơn giản. Thay vì đi xuôi phố trong ánh sáng ban ngày chói chang và đưa tiền cho bất kỳ ai đi ngang qua (điều này hẳn sẽ kéo theo sau một đám người lớn, hỗn tạp), chúng tôi sẽ thực hiện một loạt những cuộc tấn công du kích chớp nhoáng vào một số địa điểm lựa chọn kỹ càng. Toàn bộ chiến dịch sẽ kéo dài trong khoảng mười ngày; sẽ có không hơn bốn mươi người được nhận tiền mỗi lần chúng tôi ra khỏi nhà, và điều này có thể giảm đi rất nhiều nguy cơ gặp phải những điều khó chịu. Tôi sẽ để tiền trong túi áo túi quần, và nếu ai đó định cướp chúng tôi, cùng lắm thì hắn ta cũng sẽ chỉ lấy được hai nghìn đô la. Trong khi đó, phần còn lại của số tiền vẫn nằm lại trong cái túi ở nhà, an toàn tuyệt đối. Chúng ta sẽ bao quát thành phố trên diện rộng, Effing nói, không bao giờ đến những khu vực sát liền nhau trong những ngày liên tiếp. Một hôm đi ngược lên phía trên, hôm sau sẽ ngược xuống phía dưới, thứ Hai khu East Side, thứ Ba khu West Side. Chúng tôi sẽ không bao giờ ở lại nơi nào quá lâu đủ để người ta biết được chúng tôi định làm gì. Chúng tôi sẽ để khu mình đang sống đến cuối cùng. Điều này khiến cho kế hoạch giống như là một sự kiện chỉ-xảy-ra-một-lần-trong-đời, và toàn bộ công việc sẽ được hoàn thành trước khi có bất kỳ ai chú ý đến chúng tôi.
Ngay lập tức tôi hiểu ra rằng không gì có thể ngăn ông lại được. Ông đã suy nghĩ kỹ, và thay vì thuyết phục ông thôi làm như vậy, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để kế hoạch của ông được tiến hành một cách an toàn nhất có thể. Đây là một kế hoạch rất ổn, tôi nói, nhưng nó phụ thuộc vào khoảng thời gian trong ngày mà chúng tôi lựa chọn cho những chuyến đi. Chẳng hạn như các buổi chiều sẽ không tốt lắm. Khi ấy có quá nhiều người trên phố, và điểm mấu chốt là phải đưa tiền cho mỗi người mà không ai khác được nhận ra có chuyện gì đang diễn ra. Theo cách đó, các rắc rối có thể giảm được xuống mức tối thiểu.
“Hừm,” Effing nói, vẻ hết sức tập trung dõi theo những lời của tôi. “Vậy thì anh đề nghị khoảng thời gian nào, cậu bé?”
“Buổi tối. Sau giờ làm việc, nhưng không muộn đến mức để chúng ta gặp nguy cơ bị cắt cổ ở một cái phố vắng vẻ nào đó. Giữa bảy rưỡi và mười giờ là tốt nhất.”
“Nói cách khác, nghĩa là sau khi chúng ta ăn tối. Cái mà anh có thể gọi là một cuộc dạo chơi sau khi đánh chén xong.”
“Chính xác.”
“Cứ như vậy đi, Fogg. Chúng ta sẽ đi lượn sau khi bóng tối buông xuống, một cặp Robin Hood đi lảng vảng, sẵn sàng ban phát sự hào phóng cho những linh hồn may mắn gặp được chúng ta.”
“Ông cũng nên suy nghĩ một chút về vấn đề đi lại. Đây là một thành phố lớn, và một số nơi chúng ta đến sẽ cách đây kha khá đường đất. Nếu làm mọi việc bằng cách đi bộ, vào một số đêm chúng ta sẽ chỉ hoàn thành được công việc khi đã rất muộn. Nếu không chuồn nhanh được, rất có khả năng chúng ta sẽ gặp phải rắc rối.”
“Thật là yếu đuối quá, Fogg. Sẽ không có gì xảy ra với chúng ta đâu. Nếu chân anh bị mỏi, chúng ta sẽ gọi taxi. Còn nếu anh có hứng thú đi bộ, thì chúng ta sẽ đi bộ.”
“Tôi không nghĩ gì đến bản thân tôi hết. Tôi chỉ muốn chắc chắn là ông biết rõ những gì sắp làm. Liệu ông đã nghĩ đến việc thuê một cái xe chưa? Chúng ta sẽ có thể rút lui nhanh chóng. Tất cả những gì phải làm là trèo lên xe và tài xế sẽ lái vụt đi.”
“Tài xế à! Thật là một ý tưởng ngớ ngẩn. Nó có thể làm sụp đổ toàn bộ mục đích.”
“Tôi không thấy được là tại sao. Vấn đề là cho tiền đi, nhưng điều đó không có nghĩa là ông phải đi lơ vơ khắp thành phố trong không khí mùa xuân lạnh giá để thực hiện. Sẽ thật là ngu ngốc khi để cho mình bị ốm chỉ vì muốn tỏ ra là người hào phóng.”
“Tôi muốn được đi khắp đó đây, cảm thấy các tình huống khi chúng xảy đến. Anh không thể làm được việc đó nếu đi ôtô. Anh phải ở ngay trên phố ấy, thở cùng thứ không khí với bất kỳ người nào khác.”
“Đó chỉ là một gợi ý thôi.”
“Được rồi, anh cứ việc giữ các gợi ý cho một mình anh. Tôi không sợ điều gì hết cả, Fogg ạ. Tôi đã quá già cho việc ấy rồi, và anh càng lo lắng cho tôi ít thì càng tốt hơn đấy. Nếu anh chịu đi cùng tôi thì tốt thôi. Nhưng một khi đã tham gia, điều đó có nghĩa là anh phải ngậm miệng lại. Chúng ta sẽ làm việc này theo cách của tôi, dù cho có phải trèo đèo lội suối đi nữa.”
Trong tám ngày đầu, mọi việc diễn ra một cách yên ổn. Cả hai chúng tôi đều nhất trí là nên có một thang bậc giá trị, và điều đó khiến tôi được tự do làm những gì mình cho là thích hợp. Ý tưởng không phải là đưa tiền cho bất kỳ ai tình cờ đi ngang qua, mà là chăm chú tìm kiếm những người khốn khó nhất, nhằm đến những người có nhu cầu lớn nhất. Một cách tất yếu, người nghèo xứng đáng được quan tâm hơn người giàu, người tàn tật có lợi thế hơn người lành lặn, người điên xếp hạng cao hơn người bình thường. Chúng tôi xây dựng các quy luật đó ngay từ đầu, và nhìn vào bản chất các đường phố ở New York, không khó khăn gì để tuân thủ đúng các quy luật ấy.
Một số người sụp xuống khóc khi tôi đưa họ tiền; những người khác lại phá lên cười; lại có những người không nói năng gì hết. Không thể đoán trước biểu hiện của họ, và tôi nhanh chóng học được cách thôi trông chờ người ta làm những gì mình nghĩ họ sẽ làm. Có những người đa nghi nghĩ rằng chúng tôi đang lừa họ - thậm chí có một người còn xé tan tờ tiền, và nhiều người khác buộc tội chúng tôi là làm tiền giả; có những kẻ tham lam không nghĩ năm mươi đô la là đủ; có những người thù địch với chúng tôi, cứ bám chặt lấy không cho chúng tôi đi; có những người tính khí vui vẻ muốn mua đãi chúng tôi một cốc rượu, những người buồn bã muốn kể cho chúng tôi chuyện đời họ, những người có tính cách nghệ sĩ nhảy múa và hát để thể hiện lòng biết ơn. Trước sự kinh ngạc của tôi, không ai trong số họ có ý định ăn cướp. Có khả năng điều này chỉ đơn giản là một may mắn tốt lành, mặc dù cũng phải nói rằng chúng tôi di chuyển rất nhanh, không bao giờ quanh quẩn ở một nơi quá lâu. Phần lớn thời gian, tôi đưa tiền trên phố, nhưng cũng có nhiều cuộc đột nhập vào các quán bar rẻ tiền và quán cà phê - Blarney Stones, Bickfords, Chock Full o’Nuts - nơi tôi đập một tờ năm mươi đô la xuống trước mặt một người đàn ông đang ngồi ở quầy bar. “Vui lên chút đi nào!” tôi hét lên, để lại tờ tiền nhanh hết mức có thể, và trước khi những người khách sững sờ kịp hiểu chuyện gì vừa xảy đến với mình, tôi đã kịp rút lui ra đến ngoài phố. Tôi đưa tiền cho những người phụ nữ xách túi và móc rác, những người nghiện rượu và lang thang, những hippy và trẻ dạt vòm, ăn xin và người tàn tật - tất cả cái tầng lớp hạ lưu bu đầy các đại lộ vào lúc hoàng hôn ấy. Mỗi đêm có bốn mươi món quà để tặng, và chưa lần nào chúng tôi mất quá một tiếng rưỡi để hoàn thành công việc.
Vào tối thứ chín trời đổ mưa, và bà Hume thuyết phục được Effing ở lại nhà. Tối tiếp theo trời vẫn mưa, nhưng chúng tôi không thể làm gì để giữ ông lại được nữa. Ông không quan tâm đến việc mình có thể mắc bệnh phổi, ông nói, còn có việc phải làm và ơn Chúa, ông sẽ làm việc đó. Thế tôi đi một mình có được không? tôi hỏi. Tôi sẽ báo cáo lại thật đầy đủ cho ông khi quay về nhà, và ông sẽ thấy giống như là mình đã ở đó vậy. Không, không thể được, ông phải tự mình có ở đó. Và ngoài ra, làm thế nào ông có thể chắc chắn được là tôi không nhét tiền vào túi? Tôi có thể đi đâu đó lòng vòng một lúc rồi bịa ra một câu chuyện để kể cho ông khi về nhà. Ông sẽ không có cách nào biết được liệu tôi có nói sự thật hay không.
“Nếu ông nghĩ thế thật,” tôi nói, đột nhiên thấy giận dữ khủng khiếp, “thì ông cứ việc cầm lấy tiền của ông mà chùi vào đít. Tôi bỏ việc.”
Lần đầu tiên trong sáu tháng tôi biết ông, Effing thực sự hoảng hốt và nói xin lỗi. Đó là một khoảnh khắc mang tính kịch cao độ, và khi ông ngồi nguyên tại chỗ mà không ngớt tuôn ra những lời thể hiện sự hối tiếc và ăn năn, tôi gần như cảm thấy một sự cảm thông với ông. Cả người ông run lên, nước bọt nhểu ra ở miệng, trông như thể cả thân hình ông sắp sửa bắt đầu tan rã. Ông biết tôi sẽ làm đúng như tôi nói, và nguy cơ tôi bỏ đi là quá sức chịu đựng của ông. Ông xin tôi tha thứ, nói tôi là một người tốt, rằng tôi là người tốt nhất ông từng gặp, và sẽ không bao giờ ông nói điều gì không phải với tôi nữa, chừng nào ông còn sống. “Tôi sẽ làm điều đó,” ông nói, “Tôi hứa tôi sẽ làm điều đó cho anh.” Rồi, dáng vẻ tuyệt vọng, ông với lấy cái túi, rút ra một nắm những tờ năm mươi đô la và giơ chúng lên trời. “Đây,” ông nói, “đây là để cho anh, Fogg. Tôi muốn trả thêm tiền cho anh. Chúa biết là anh xứng đáng với điều đó như thế nào.”
“Ông không cần phải đút lót cho tôi, ông Effing. Tôi đã được trả mức lương phù hợp rồi.”
“Không, xin anh đấy, tôi muốn anh cầm lấy. Cứ nghĩ đó là một khoản tiền thưởng đi. Thưởng cho sự phục vụ xuất sắc của anh.”
“Cất tiền vào lại trong túi đi, ông Effing. Được rồi mà. Tôi muốn đưa nó cho những người thực sự cần.”
“Nhưng anh sẽ ở lại chứ?”
“Phải, tôi sẽ ở lại. Tôi chấp nhận lời xin lỗi của ông. Chỉ có đừng bao giờ nói năng kiểu đó một lần nữa nhé.”
Vì những lý do hiển nhiên, tối đó chúng tôi không ra ngoài. Tối hôm sau trời quang, và đúng tám giờ chúng tôi đi đến Times Square, nơi chúng tôi kết thúc công việc trong thời gian kỷ lục, hai mươi lăm hay ba mươi phút. Bởi vì vẫn còn sớm, và vì chúng tôi ở gần nhà hơn thường lệ, Effing khăng khăng đòi đi bộ về. Tự bản thân nó, đây là một chuyện nhỏ nhặt, và tôi sẽ không nhắc đến nó trừ một việc kỳ lạ đã xảy ra trên đường. Ngay ở phía Nam Columbus Circle, tôi nhìn thấy một thanh niên da đen trẻ trạc tuổi tôi đang bước đi song song với chúng tôi ở bên kia đường. Tôi phải nói rằng ở anh ta không có gì bất thường cả. Quần áo anh ta nghiêm chỉnh, anh ta không làm gì cho thấy mình say rượu hay điên rồ. Nhưng đó là một buổi tối mùa xuân không mây, thế mà anh ta lại cầm một cái ô che đầu. Vậy đã là kỳ quái lắm rồi, nhưng rồi sau đó tôi còn nhận ra cái ô bị gãy nữa: mảnh vải bạt bật ra khỏi bộ khung sắt, và với những cái que trơ trọi chĩa lên không khí một cách vô tích sự, trông như thể anh ta đang cầm một bông hoa sắt to lớn kỳ quặc. Tôi không thể ngăn mình cười khi nhìn thấy điều đó. Khi tôi miêu tả lại cho Effing, ông cũng phá lên cười. Ông cười to hơn tôi, và tiếng cười khiến người đàn ông bên kia đường chú ý. Một nụ cười tươi rói trên môi, anh ta vẫy tay về phía chúng tôi ra hiệu mời đến trú dưới cùng cái ô của mình. “Các anh đứng ngoài trời mưa như thế làm gì?” anh ta vui vẻ nói. “Đến đây đi, các anh sẽ không bị ướt nữa.” Có điều gì đó kỳ dị và thành thật trong lời mời của anh ta khiến cho việc từ chối sẽ trở nên hết sức khó coi. Chúng tôi đi qua đường để sang vỉa hè bên kia, và chúng tôi đi dọc Broadway hết ba mươi khối nhà nữa dưới cái ô gãy đó. Tôi thấy thích thú được chứng kiến Effing nhập vai trò đùa một cách tự nhiên đến mức nào. Ông cứ tiếp tục mà không hỏi một câu, bằng trực giác hiểu ra rằng sự phi lý theo kiểu này chỉ có thể tiếp tục nếu tất cả đều vờ tin vào nó. Người mời chúng tôi tên là Orlando, và anh ta là một diễn viên đầy tài năng, nhanh nhẹn nhón chân vòng qua những vũng nước tưởng tượng, che chắn những giọt nước mưa bằng cách chìa cái ô về nhiều góc khác nhau, và trên suốt quãng đường anh ta cứ trò chuyện bằng một kiểu độc thoại liến láu đầy những kết hợp từ và trò chơi chữ kỳ quặc. Đó chính là sự tưởng tượng ở hình thức thuần khiết nhất: hành động mang những điều phi tồn tại vào cuộc sống, thuyết phục người khác chấp nhận một thế giới không thực sự có ở đây. Xảy đến vào đúng đêm ấy, việc này theo một cách nào đó như thể dò trúng được động lực phía sau những gì Effing và tôi vừa làm ở dưới phố Bốn mươi hai. Một tinh thần mơ ảo bao trùm lấy thành phố. Những tờ năm mươi đô la đang đi vòng vòng trong túi những người lạ, trời đang mưa và cũng lại không mưa, và cơn mưa rào bất thần đang hắt nước qua cái ô gãy của chúng tôi không làm chúng tôi dính lấy một giọt nước nào cả.
Chúng tôi chào tạm biệt Orlando ở góc phố Broadway giao với phố Bốn mươi tư, ba người chúng tôi bắt tay nhau và thề sẽ làm bạn suốt đời. Tuân theo thứ quy tắc nhỏ điều khiển cuộc dạo chơi của chúng tôi, Orlando thò tay ra ngoài xem thời tiết ra sao, suy nghĩ một lúc, rồi tuyên bố mưa đã ngừng rơi. Không ngần ngừ gì nữa, anh ta gập cái ô lại và đưa tặng nó cho tôi làm kỷ niệm. “Này, anh bạn,” anh ta nói, “tôi nghĩ tốt hơn hết là anh cầm nó đi. Anh không bao giờ biết khi nào thì trời sẽ mưa tiếp, và tôi không hề muốn các anh bị ướt. Đây là bí ẩn của thời tiết: nó luôn luôn thay đổi. Nếu không sẵn sàng với mọi chuyện, thì anh sẽ không sẵn sàng với bất cứ điều gì cả.”
“Giống như là tiền trong ngân hàng ấy,” Effing nói.
“Ông hiểu rồi đấy, Tom ạ,” Orlando nói. “Cứ việc nhét nó xuống dưới tấm đệm và lôi nó ra vào một ngày mưa.”
Anh ta giơ một nắm đấm đầy mạnh mẽ của người da đen lên chào tạm biệt chúng tôi rồi thong dong đi khỏi, biến mất vào dòng người ngay khi đi hết khối nhà.
Đó là một câu chuyện kỳ lạ nhỏ bé, nhưng những chuyện như vậy xảy ra ở New York nhiều hơn là bạn nghĩ, đặc biệt là nếu bạn cởi mở với chúng. Điều khiến cho cuộc gặp này trở nên bất thường với tôi không hẳn là tính nhẹ nhõm của nó, mà là cách thức bí ẩn mà nó có vẻ gây ảnh hưởng lên các sự kiện sau này. Cuộc gặp của chúng tôi với Orlando gần như là một tiền triệu cho những việc sẽ xảy đến, một điềm báo về số phận của Effing. Cả một loạt những hình ảnh mới đã ập đến với chúng tôi, và kể từ đó chúng tôi nằm dưới sự kiềm tỏa của chúng. Đặc biệt, tôi nghĩ đến những cơn mưa và những cái ô, nhưng hơn thế nữa, tôi cũng nghĩ đến sự thay đổi - và về việc mọi sự có thể thay đổi vào bất kỳ lúc nào, đột nhiên và vĩnh viễn.
Tối hôm sau sẽ là buổi tối cuối cùng. Cả ngày Effing rơi vào một trạng thái bồn chồn thậm chí còn lớn hơn thường lệ, từ chối ngủ trưa, từ chối nghe đọc sách, từ chối mọi trò giải trí mà tôi nghĩ ra cho ông. Chúng tôi ra ngoài công viên một lúc hồi đầu giờ chiều, nhưng không khí mờ sương và đầy vẻ đe dọa, và tôi phải bắt ông về nhà sớm hơn dự định. Đến tối, một khối sương mù dày đặc bao trùm khắp thành phố. Cả thế giới chuyển sang màu ghi, và đèn của các tòa nhà le lói qua lớp sương trông như thể bị băng bó. Điều kiện thời tiết không thể nói là hứa hẹn, nhưng vì mưa không rơi nên không có cách nào để thuyết phục Effing hoãn thực hiện chuyến đi cuối cùng. Tôi nghĩ có thể hoàn thành công việc thật nhanh chóng rồi đưa ngay ông già về nhà, thật nhanh để đề phòng mọi thiệt hại nghiêm trọng. Bà Hume không thích chuyện này, nhưng bà thôi không nằn nì nữa khi tôi đảm bảo Effing sẽ mang theo một cái ô. Effing nhanh chóng đồng ý điều kiện đó, và khi đẩy ông ra cửa chính vào lúc tám giờ, tôi cảm thấy mọi thứ sẽ được kiểm soát kỹ càng.
Tuy nhiên, điều tôi không biết là Effing đã thay thế cái ô của mình bằng cái ô mà Orlando tặng chúng tôi tối hôm trước. Khi tôi phát hiện điều đó thì chúng tôi đã đi cách nhà được năm hay sáu khối nhà. Cười khúc khích vẻ vui sướng khó hiểu đầy tính trẻ con, Effing chìa cái ô gãy ra từ phía dưới cái chăn của mình và mở nó. Vì phần cán giống hệt cái ô mà ông đã để lại nhà, tôi cứ tưởng đó là một nhầm lẫn, nhưng khi tôi nói với ông việc ấy, ông oang oang yêu cầu tôi tập trung vào công việc của mình.
“Đừng có quê mùa thế chứ,” ông nói. “Tôi cố tình cầm theo cái ô này đấy. Đây là một cái ô thần, thằng điên nào cũng có thể thấy điều đó. Một khi mở nó ra, anh sẽ trở thành người bất khả chiến bại.”
Tôi định đáp lại bằng một câu gì đó, nhưng rồi tôi nghĩ tốt hơn là không nên. Quả thực trời không mưa, và tôi không muốn bị mắc vào một cuộc đấu lý nhùng nhằng với Effing. Tôi chỉ muốn làm cho xong việc, chừng nào trời không mưa thì cũng chẳng có lý do gì để ông giương cái thứ đồ vật lố bịch ấy ở trên đầu. Tôi đẩy xe đi thêm vài khối nhà nữa, chìa những tờ năm mươi đô la cho tất cả những người có vẻ là các ứng cử viên, và khi sắp hết một nửa số tiền, tôi đi sang vỉa hè bên kia và bắt đầu hướng cái xe về phía nhà. Khi đó trời bắt đầu đổ mưa - như thể đó là một việc không thể tránh khỏi, như thể Effing đã ra lệnh cho các giọt nước rơi xuống. Thoạt tiên chúng rất nhỏ, gần như không thể nhận ra trong bầu không khí mù sương xung quanh chúng tôi, nhưng đi đến khối nhà tiếp theo thì những hạt mưa phùn đã bắt đầu nặng dần lên. Tôi rẽ cái xe đứng dưới một mái hiên, nghĩ rằng chúng tôi sẽ đứng đó đợi đến khi mưa xong, nhưng ngay khi chúng tôi dừng lại, ông già đã bắt đầu cằn nhằn.
“Anh làm gì thế?” ông nói. “Không có thời gian để xả hơi đâu. Chúng ta vẫn còn tiền để đưa. Đi cho xong đi, cậu bé. Nào nào, đi thôi. Đây là lệnh đấy.”
“Trong trường hợp ông chưa nhận ra,” tôi nói, “thì trời đã bắt đầu mưa rồi đấy. Và tôi không nói về một cơn mưa rào mùa xuân đâu. Đang bắt đầu nặng hạt rồi. Hạt mưa to như hòn sỏi, rơi xuống đất là nảy lên cao hai feet.”
“Mưa?” ông nói. “Mưa nào? Tôi có thấy mưa gì đâu.” Rồi, bằng một cú đẩy mạnh vào bánh xe, Effing vụt thoát ra khỏi tầm tay tôi và trượt xuống lề đường. Ông lại giương cái ô gãy lên, cả hai tay nâng nó lên trên đầu, và hét to vào cơn giông. “Có mưa đâu!” ông gầm lên, giữa lúc mưa rơi ào xuống người ông từ mọi hướng, làm ướt sạch quần áo ông và quật thẳng vào mặt ông. “Có thể là mưa vào người cậu, cậu bé ạ, nhưng không mưa vào tôi! Người tôi khô cong đây này! Tôi có cái ô đáng tin cậy này, và mọi thứ đều rất ổn. Ha, ha! Thử cấu tôi xem nào, tôi đang mơ đây! Tôi chẳng cảm thấy gì cả!”
Khi đó tôi hiểu rằng Effing muốn chết. Ông đã dự tính trò đùa nho nhỏ này với mục đích làm cho mình bị ốm, và ông sẽ cứ tiếp tục cùng với sự liều lĩnh và niềm vui khiến tôi thực sự thấy choáng váng. Ông vẫy vẫy cái ô, mời gọi trận mưa như trút với tiếng cười của mình, và mặc cho nỗi bực mình tôi cảm thấy về ông vào giây phút ấy, tôi vẫn không thể ngăn mình ngưỡng mộ sự can đảm của ông. Ông giống như ông vua Lear nhỏ thó hồi sinh trong bộ dạng của Gloucester. Đây sẽ là đêm cuối cùng của ông, và ông muốn đi ra bên ngoài trong sự điên cuồng, nhận lấy cái chết của chính mình như là hành động sau rốt, đầy vinh quang. Phản ứng đầu tiên của tôi là muốn kéo ông quay trở lại và để ông vào một chỗ an toàn, nhưng khi nhìn ông thêm lần nữa tôi hiểu ra là đã quá muộn rồi. Người ông đã ướt sũng, và với một người yếu ớt như Effing, điều đó rất có thể có nghĩa là thiệt hại đã phát tác. Ông có thể bị cảm lạnh, rồi sau đó là viêm phổi, và chỉ một thời gian ngắn nữa là ông sẽ chết. Tất cả những điều này trong mắt tôi trở nên vô cùng rõ ràng, đến mức đột nhiên tôi ngừng không cố chống lại nữa. Mình đang nhìn một xác chết, tôi tự nhủ, và sẽ chẳng có tác dụng nào hết dẫu mình có làm gì hay không. Kể từ đó, không một ngày nào trôi qua mà tôi không hối tiếc cái quyết định đêm đó, nhưng vào lúc ấy điều này có ý nghĩa rất lớn, như thể sẽ là sai trái về đạo đức nếu chặn đường của Effing. Nếu ông đã chết, thì tôi có quyền gì mà làm hỏng đi sự vui thú của ông? Người đàn ông đó đang khăng khăng tự hủy hoại, và bởi vì ông hút tôi vào cơn lốc xoáy sự điên rồ ở ông, tôi không hề giơ một ngón tay nào lên để ngăn cản ông cả. Tôi chỉ đứng đó để mặc cho việc này xảy ra, một kẻ nhìn thấy người định tự sát mà không cứu.
Tôi bước từ chỗ mái hiên ra và nắm lấy cái xe lăn của Effing, mắt nhắm mắt mở vì những giọt nước rơi quá mạnh. “Tôi thấy là ông nói đúng,” tôi nói. “Có vẻ như là mưa cũng không chạm vào tôi nữa.” Trong khi tôi nói, một tia chớp rạch loằng ngoằng trên bầu trời, tiếp theo là một tiếng sấm rền. Mưa rơi ào ạt xuống chúng tôi, tấn công hai cơ thể không được che chắn với từng loạt đạn nước. Sau khi lại có thêm một cơn gió mạnh nữa, cặp kính của Effing văng đi, nhưng tất cả những gì ông làm là cười, sung sướng trong cơn bão dữ tợn.
“Thật là đáng kể, phải không?” ông hét lên với tôi để át tiếng ồn. “Ngửi mùi cứ như là trời mưa ấy. Nghe cứ như là mưa ấy. Nếm cũng như là mưa ấy. Thế mà lại khô cong. Vấn đề là tinh thần chứ không phải vật chất, Fogg ạ. Cuối cùng chúng ta cũng sắp làm được rồi! Chúng ta đã khám phá bí mật của vũ trụ!”
Điều đó giống như thể tôi vừa đi qua một đường biên giới bí ẩn nào đó tận sâu trong người mình, trườn qua một cánh cửa sập dẫn đến những căn phòng khuất nẻo nhất trong trái tim Effing. Không chỉ đơn giản là vì tôi đã nhập vào cùng với trò đùa thô kệch của ông, mà là tôi đã thực hiện cái hành động tối hậu để chứng nhận cho tự do của ông, và theo nghĩa đó rốt cuộc tôi đã chứng tỏ được mình trước ông. Ông già sắp chết, nhưng chừng nào còn sống, ông sẽ yêu quý tôi.
Chúng tôi đi ngược lên khoảng bảy hoặc tám khối nhà nữa, suốt quãng đường Effing hú hét điên rồ không ngừng. “Đây là một điều kỳ diệu!” ông rống lên. “Đây là một điều kỳ diệu quái quỷ chó chết! Tiền rơi từ trên trời xuống - nhặt lấy đi! Tiền đấy! Tiền cho tất cả đấy!”
Không ai nghe thấy lời ông, dĩ nhiên, vì trên phố không có một bóng người. Chúng tôi là những kẻ điên duy nhất không vắt chân lên cổ tìm một chỗ trú vào lúc ấy, và để thoát khỏi những đồng tiền còn lại, tôi tiến hành vài cuộc đột nhập ngắn vào các quán bar và quán cà phê dọc đường đi. Tôi dừng xe Effing ở ngoài cửa và đi vào những nơi đó, tay phân phát tiền mà tai vẫn nghe rõ tiếng ông cười. Tai tôi ù đi khi nghe mãi âm thanh ấy: thứ nhạc đệm điên rồ cho màn cuối vở kịch hề của chúng tôi. Khi đó toàn bộ mọi việc trở nên không thể kiểm soát được nữa. Chúng tôi tự biến chính mình trở thành một thứ thiên tai địch họa, một cơn lốc nuốt chửng các nạn nhân vô tội trên đường nó đi. “Tiền!” tôi hét lên, cười lớn và cùng lúc cũng khóc nức nở. “Những tờ năm mươi đô la cho tất cả mọi người!” Tôi ướt lướt thướt đến nỗi đôi bốt rỉ ra cả vũng nước, người tôi mọng nước giống như một giọt nước mắt to bằng kích cỡ người, tôi làm bắn nước lên tất cả mọi người. Tôi thật may mắn vì chúng tôi đã xong việc. Nếu phải kéo dài lâu hơn nữa, có khả năng chúng tôi sẽ bị nhốt lại vì gây lộn xộn.
Nơi cuối cùng chúng tôi đến là một quán cà phê Child’s, một cái lỗ dơ dáy, nồng nặc khói, trên tường lắp những ngọn đèn huỳnh quang chói mắt. Có mười hai hoặc mười lăm khách đang ngồi ở chỗ quầy bar, và cứ người sau lại trông khốn khổ và tiều tụy hơn người trước đó. Tôi chỉ còn lại năm hoặc sáu tờ tiền trong túi, và đột nhiên tôi không biết phải giải quyết tình thế đó như thế nào. Tôi không thể nghĩ, tôi không thể quyết định được nữa. Không biết phải làm thế nào, tôi giơ cả nắm tiền lên và ném nó vào trong phòng. “Ai muốn thì cứ lấy nhé!” tôi hét lên. Rồi tôi chạy ra khỏi đó, đẩy Effing quay trở lại với cơn bão.
Sau đêm hôm đó ông không rời nhà lần nào nữa. Ông bắt đầu ho ngay vào hôm sau, và đến cuối tuần đờm đã chạy từ các cuống phổi vào trong phổi. Chúng tôi gọi một bác sĩ, và ông ta khẳng định bệnh viêm phổi. Ông ta muốn Effing nhập viện ngay, nhưng ông già từ chối, tuyên bố ông có quyền được chết trên giường của mình, và nếu ai đó nảy ra ý định đặt tay lên người ông với mục đích đưa ông ra khỏi căn hộ, thì ông sẽ tự tử. “Tôi sẽ lấy một con dao lam cắt cổ họng,” ông nói, “và rồi lương tâm các người sẽ bị cắn rứt suốt đời.” Viên bác sĩ đã từng điều trị cho Effing, và ông ta đủ khôn ngoan để đến đây cùng với một danh sách các dịch vụ y tá tư nhân. Bà Hume và tôi thực hiện các công việc cần thiết, và trong tuần sau đó chúng tôi ngập ngụa trong những công việc thực tiễn: luật sư, tài khoản ngân hàng, quy cách ủy thác, vân vân. Có bất tận những cú điện thoại phải gọi, vô số những giấy tờ phải ký, nhưng tôi nghi ngờ chuyện bất kỳ việc nào trong số đó có ích lợi gì vào lúc này. Điều quan trọng là tôi đã hòa giải được với bà Hume. Khi tôi trở về nhà cùng với Effing trong cái đêm mưa bão đó, bà tức giận đến nỗi không nói một lời nào với tôi trong suốt hai ngày. Bà coi tôi phải chịu trách nhiệm vì sự ốm của ông, và vì về cơ bản tôi cũng đồng ý với bà, tôi không cố gắng tự bảo vệ mình. Tôi thấy thật thảm hại khi rơi vào tình thế ông chẳng bà chuộc với bà. Tuy nhiên đúng lúc tôi bắt đầu nghĩ rằng sự rạn nứt là không thể cứu chữa, thì mọi việc đột nhiên lại đổi chiều. Tôi không cách gì biết chuyện đã xảy ra như thế nào, nhưng tôi nghĩ rằng hẳn bà đã nói gì đó liên quan đến việc này với Effing, và đến lượt mình hẳn là ông đã thuyết phục bà không kết tội tôi nữa. Lần tôi gặp bà sau đó, bà ôm lấy tôi và xin lỗi, cố gắng lắm mới ngăn được những giọt nước mắt xúc cảm. “Ông ấy đến lúc rồi,” bà trang trọng nói. “Bây giờ lúc nào ông ấy cũng sẵn sàng để đi, và chúng ta sẽ không thể làm gì để ngăn cản điều đó được.”
Các y tá làm việc theo các ca tám tiếng, và họ là những người phụ trách thuốc men, thay ga trải giường, theo dõi ống truyền gắn trên tay Effing. Trừ một số ít người, tôi thấy họ thật lỗ mãng, vô cảm, và chắc không cần phải nói rằng Effing muốn càng ít dính dáng đến họ càng tốt. Cứ như thế cho đến những ngày cuối, khi ông đã quá yếu để có thể nhận ra họ. Trừ khi họ có một nhiệm vụ gì đó cụ thể để làm, ông bắt họ phải ở bên ngoài phòng, điều đó có nghĩa là họ thường ở trên sofa phòng khách, hờn dỗi trong sự im lặng cao ngạo, lật giở những tờ tạp chí và hút thuốc lá. Một hoặc hai người trong số họ bỏ đi, và một hoặc hai người khác bị đuổi việc. Tuy nhiên, ngoài chuyện khó chịu với các y tá, Effing cư xử vô cùng lịch thiệp, và kể từ khi nằm vào trong giường, có vẻ như là tính cách của ông đã bị biến đổi, không còn chút nào sự hiểm độc cố hữu khi mà cái chết đang tiến lại gần. Tôi không nghĩ ông đau đớn nhiều lắm, và mặc dù có những ngày tốt và những ngày xấu (quả thực, đã có lúc như thể ông hoàn toàn hồi phục sức khỏe, nhưng việc này sẽ được tiếp nối bởi một cơn sa sút chỉ bảy mươi hai giờ sau đó), diễn tiến trận ốm của ông ngày càng đi xuống, một sự mất mát sức lực chậm chạp nhưng không ngừng nghỉ, cứ tiếp tục mãi cho đến khi trái tim ông ngừng đập.
Ngày nào tôi cũng ở cùng ông trong phòng, ngồi bên cạnh giường ông vì ông muốn tôi ở đó. Kể từ hôm mưa bão, mối quan hệ của chúng tôi đã thay đổi hoàn toàn, giờ đây ông gắn chặt với tôi như máu thịt. Ông cầm lấy tay tôi nói rằng tôi là một niềm an ủi đối với ông, thì thầm ông sung sướng đến thế nào khi có tôi ở cùng trong phòng. Thoạt tiên, tôi rất cảnh giác với những đợt tuôn trào tình cảm như thế, nhưng khi thấy rằng sự ân cần mới tìm thấy được của ông vẫn tiếp tục nhiều thêm, tôi không có lựa chọn nào khác ngoài chấp nhận nó như một sự thành thực. Hồi đầu, khi ông còn đủ sức để trò chuyện, ông hỏi về cuộc đời tôi, và tôi kể cho ông về mẹ tôi và bác Victor, về những ngày học đại học, về quãng thời gian thảm họa dẫn tôi đi thẳng đến sự suy sụp và Kitty Wu đã cứu tôi như thế nào. Effing nói ông lo lắng về những chuyện sẽ xảy đến với tôi sau khi ông ngoẻo (lời của ông), nhưng tôi cố gắng làm ông yên tâm bằng cách khẳng định tôi có đủ khả năng để tự lo cho mình.
“Cậu là một người mơ mộng, cậu bé ạ,” ông nói. “Tâm trí của cậu để trên mặt trăng, và nhìn vào mọi chuyện, nó sẽ không bao giờ đi chỗ khác đâu. Cậu không có tham vọng, cậu không màng đến tiền bạc, và cậu có quá nhiều phẩm chất của một triết gia để có thể có được cảm giác về nghệ thuật. Tôi sẽ làm gì với cậu đây? Cậu cần ai đó chăm lo cho mình, ai đó đảm bảo rằng cậu có đủ thức ăn trong bụng và một ít tiền trong túi. Khi tôi chết đi, cậu sẽ quay trở lại đúng nơi cậu khởi đầu.”
“Tôi đang có nhiều kế hoạch,” tôi nói dối, hy vọng ông sẽ chuyển chủ đề câu chuyện. “Hồi mùa đông năm ngoái tôi đã gửi một bản đăng ký đến khoa thư viện của Columbia, và họ đã nhận tôi. Tôi cứ nghĩ đã nói chuyện này với ông rồi. Kỳ học sẽ bắt đầu vào mùa thu tới.”
“Thế cậu sẽ trả tiền học phí bằng cách nào?”
“Họ cho tôi học bổng toàn phần, cộng thêm một chút tiền để chi tiêu cho cuộc sống. Đó là một vụ rất ngon lành, một cơ hội tuyệt hảo. Chương trình kéo dài hai năm, và sau đó tôi vẫn có cách để kiếm sống.”
“Thật khó mà tưởng tượng cậu trong vai trò một người thủ thư, Fogg ạ.”
“Tôi thừa nhận là điều ấy rất kỳ cục, nhưng tôi nghĩ mình có thể thích hợp với việc đó. Dù sao thì các thư viện cũng không thuộc về thế giới thực. Chúng là những nơi cách xa hẳn, những ngôi đền của suy tư thuần túy. Theo cách đó, tôi có thể tiếp tục sống trên mặt trăng cho đến hết cuộc đời.”
Tôi biết rằng Effing không tin tôi, nhưng ông vẫn làm ra vẻ hưởng ứng lời nói dối của tôi vì không muốn phá hỏng sự yên bình đang lớn dần lên giữa hai chúng tôi. Điều này rất điển hình cho tính cách của ông trong những tuần cuối cùng đó. Tôi nghĩ ông tự hào với chính mình vì đã có thể chết theo cách ấy, như thể sự dịu dàng mà ông bắt đầu tỏ ra với tôi cho thấy ông vẫn có khả năng hoàn thành mọi điều ông muốn. Mặc cho sức khỏe suy yếu, ông tiếp tục tin rằng mình đủ sức kiểm soát số phận của mình, và ảo tưởng này sẽ còn mãi cho đến tận cùng: ý tưởng ông làm chủ được cái chết của chính mình, rằng mọi chuyện đang diễn tiến theo đúng kế hoạch của ông. Ông đã tuyên bố ngày mười hai tháng Năm sẽ là ngày ông chết, và giờ đây có vẻ như điều duy nhất quan trọng với ông là làm sao cho những gì ông đã nói sẽ xảy ra đúng như vậy. Ông đã dang rộng cánh tay đi vào cõi chết, và cùng lúc ông cự tuyệt nó, chiến đấu bằng chút năng lượng cuối cùng để khuất phục nó, để trì hoãn giây phút kết thúc cho đến đúng kỳ đúng hạn. Ngay cả khi gần như ông không thể nói được nữa, khi ông phải viện đến một nỗ lực khủng khiếp để phát ra được một âm thanh lục cục trong cuống họng, điều đầu tiên ông muốn biết khi tôi bước vào phòng ông mỗi sáng là hôm đó ngày bao nhiêu. Vì không thể theo dõi sát sao được thời gian nữa, ông có thể lặp đi lặp lại câu hỏi nhiều lần trong một ngày. Vào ngày mồng ba hay bốn của tháng đó, đột nhiên sức khỏe ông sa sút nghiêm trọng, và có vẻ thật khó khăn để có thể trụ được đến ngày mười hai. Tôi bắt đầu nói sai ngày giờ để đảm bảo với ông rằng ông vẫn làm đúng như kế hoạch, mỗi lần ông hỏi tôi lại đẩy thời gian lên một chút, và vào một buổi chiều đặc biệt khó khăn tôi đã nhảy tới đến ba ngày trong vòng vài tiếng đồng hồ. Hôm nay là ngày mồng bảy rồi, tôi nói với ông; ngày mồng tám rồi; ngày mồng chín rồi, và khi đó ông yếu đến mức không thể nhận ra sự vô lý về thời gian nữa. Khi tình trạng của ông bình ổn trả lại vào cuối tuần, tôi đã vượt quá xa theo lịch, và trong hai ngày tiếp theo tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc nói rằng vẫn là ngày mồng chín. Tôi cảm thấy đó là điều ít ỏi nhất mình có thể làm cho ông - cho ông sự thỏa mãn vì nghĩ rằng mình đã chiến thắng trong cuộc thi về ý chí này. Dù cho có chuyện gì xảy ra, tôi cũng sẽ chắc chắn cho ông rằng cuộc đời ông sẽ chấm dứt đúng vào ngày mười hai.
Giọng nói của tôi làm ông thấy an tâm, ông nói, và ngay cả khi đã quá yếu không nói được nữa, ông vẫn muốn tôi tiếp tục nói. Ông không quan tâm đến những gì tôi nói, miễn là nghe thấy giọng tôi và biết tôi có ở đó. Tôi nói huyên thuyên hết mức có thể, nhảy từ chủ đề này sang chủ đề khác tùy theo tâm trạng. Không phải lúc nào cũng dễ dàng độc thoại theo kiểu ấy, và mỗi khi thấy cạn nguồn cảm hứng, tôi lại dựa vào một số yếu tố để có thể tiếp tục: xào xáo cốt truyện những cuốn tiểu thuyết hoặc các bộ phim, đọc các bài thơ theo trí nhớ - Effing đặc biệt thích Sir Thomas Wyatt và Fulke Greville - hoặc nói đến các tin tức đọc được trên báo buổi sáng. Thật lạ lùng, tôi vẫn còn nhớ khá rõ một số câu chuyện đó, và giờ đây mỗi khi nghĩ đến chúng (chiến tranh lan rộng ở Campuchia, những vụ giết chóc ở Kent State), tôi lại thấy mình ngồi trong căn phòng ấy với Effing, nhìn ông nằm đó trên giường. Tôi nhìn thấy cái miệng móm không răng, há hốc của ông; tôi nghe được hơi thở khò khè, hớp hớp vài ngụm không khí của ông; tôi nhìn thấy đôi mắt mù đầy nước chăm chăm hướng lên trần nhà của ông, đôi bàn tay nhăn nheo nắm chặt lấy cái chăn, vẻ xanh xao đáng sợ của nước da ông. Không thể tránh việc liên tưởng. Theo một phản xạ khó hiểu và không chủ ý nào đó, những sự kiện ấy cứ hiện ra ở chỗ đường viền khuôn mặt Effing, và tôi không thể nghĩ đến chúng mà không nhìn thấy lại ông ở ngay trước mặt mình.
Có những lần tôi không làm việc gì khác ngoài miêu tả căn phòng của chúng tôi. Sử dụng cùng các phương pháp đã luyện tập được trong những cuộc dạo chơi, tôi chọn lấy một chi tiết và khởi sự nói về nó. Màu nền của ga trải giường, cái bàn làm việc kê ở góc phòng, tấm bản đồ Paris lồng khung treo trên bức tường bên cạnh cửa sổ. Chừng nào Effing còn theo dõi được những gì tôi nói, các cuộc kiểm kê đó có vẻ còn mang lại cho ông nỗi vui sướng sâu xa. Đã yếu đến mức đó rồi, nên sự hiện diện thực tế và ngay tức thời của những thứ đồ vật nằm ngay ở rìa ý thức của ông giống như một dạng thiên đường, một xứ sở diệu kỳ không thể đến được của những điều kỳ diệu thông thường: xúc giác, thị giác, cái địa hạt thuộc tri giác bao quanh mọi cuộc đời. Khi miêu tả thành lời những thứ đó cho ông, tôi tạo cho Effing cơ hội lại trải nghiệm chúng một lần nữa, như thể chỉ riêng việc chiếm lấy vị trí của mình trong thế giới các sự vật đã là một điều tốt đẹp vượt lên trên mọi thứ khác. Theo một nghĩa nào đó, trong căn phòng này tôi làm cho ông nhiều việc hơn đã từng làm bất kỳ lúc nào trước đây, bằng cách tập trung vào những chi tiết nhỏ nhặt nhất và vào các thứ vật chất - len, vải côtông, các thứ đồ bạc và các thứ đồ thiếc, xơ gỗ và xoắn nhựa - đào sâu vào những kẽ nứt và liệt kê đầy đủ những màu sắc cùng hình khối, khám phá cặn kẽ chi tiết mọi thứ có thể nhìn thấy được. Effing càng yếu đi, tôi lại càng phải cố gắng nhiều hơn. nhân đôi các nỗ lực để rút ngắn lại cái khoảng cách ngày càng lớn lên giữa chúng tôi. Rốt cuộc, tôi tự thúc đẩy mình nhân sự chính xác lên nhiều lần, khiến cho phải mất hàng giờ mới giải quyết xong được căn phòng. Tôi tiến lên bằng tốc độ phân số của một inch, từ chối để cho bất cứ thứ gì vuột thoát khỏi, ngay cả những hạt bụi bay lơ lửng trong không khí. Tôi khai thác các giới hạn của bầu không gian này cho đến lúc nó trở nên vô tận, vô vàn thế giới bên trong các thế giới. Đến một lúc, tôi nhận ra có khả năng mình đang nói chuyện với một sự trống rỗng, nhưng tôi vẫn cứ tiếp tục nói, bị mê hoặc bởi ý nghĩ giọng nói của mình là thứ duy nhất giữ được cho Effing tiếp tục sống. Dĩ nhiên nó không tạo ra sự khác biệt nào cả. Ông đang xỉu dần, và trong toàn bộ hai ngày cuối cùng tôi ở với ông, tôi ngờ rằng ông không hề nghe được lời nào.
Tôi không có mặt khi ông mất. Sau khi tôi ngồi với ông đến tám giờ ngày mười một, bà Hume bước vào phòng để thay tôi và bắt tôi phải nghỉ đêm đó. “Bây giờ chúng ta không thể làm gì cho ông ấy nữa đâu,” bà nói. “Cậu đã ở đây với ông ấy từ sáng rồi, giờ đến lúc cậu phải đổi không khí một chút đi. Nếu ông ấy qua được đêm nay, thì ít ra sáng mai cậu cũng sẽ tươi tỉnh.”
“Tôi không nghĩ sẽ có ngày mai đâu,” tôi đáp.
“Có thể là không. Nhưng hôm qua chúng ta cũng nói thế rồi còn gì, thế mà ông ấy vẫn qua được đấy thôi.”
Tôi cùng ăn tối với Kitty ở quán Moon Palace, và sau đó chúng tôi đi xem một bộ phim tại rạp Thalia (tôi nhớ đó là phim Ashes and Diamonds, nhưng cũng có thể là tôi nhớ sai). Thường thì tôi hay đưa Kitty về ký túc xá, nhưng tôi có một dự cảm xấu về Effing, thế nên khi bộ phim kết thúc, chúng tôi đi bộ dọc theo đại lộ West End về nhà để hỏi tin tức từ bà Hume. Chúng tôi đến nơi vào lúc gần một giờ sáng. Rita vừa khóc vừa mở cửa cho chúng tôi, và bà chưa cần nói tôi cũng hiểu chuyện gì đã xảy ra. Theo lời kể, Effing mới chết chưa đầy một tiếng khi chúng tôi tới nơi. Khi tôi hỏi cô y tá giờ chính xác, cô ta nói là 12:02, hai phút sau nửa đêm. Vậy là rốt cuộc Effing cũng chết được vào ngày mười hai. Nghe phi lý đến độ tôi không còn biết phải phản ứng ra sao nữa. Tai tôi bỗng ù đi một cách lạ thường, và đột nhiên tôi cảm thấy những sợi dây thần kinh trong đầu mình vừa đứt phựt. Tôi cho rằng mình sắp òa khóc, thế nên tôi lùi vào một góc phòng, hai tay ôm lấy mặt. Tôi đứng đó đợi những giọt nước mắt rơi xuống, nhưng chúng không rơi. Một quãng thời gian trôi qua, và rồi một đợt quặn lên những âm thanh kỳ lạ bật ra từ cổ họng tôi. Mất một lúc tôi mới nhận ra là mình đang cười.
Theo những chỉ dẫn ông để lại, xác Effing được đem hỏa táng. Không cần phải chôn và làm tang lễ, và ông đặc biệt yêu cầu không một đại diện nào của bất kỳ tôn giáo nào được phép tham gia cuộc xử lý hài cốt của ông. Buổi lễ vô cùng đơn giản: bà Hume và tôi lên phà đi sang Staten Island, và khi chúng tôi đi quá nửa đường tính từ Manhattan (tượng Nữ thần Tự do ở ngay phía bên tay phải chúng tôi), chúng tôi tung tro bộ xương của ông vào dòng nước của bến cảng New York.
Tôi cố gọi điện cho Solomon Barber ở Northfield, Minnesota, nghĩ rằng ông nên có cơ hội để có mặt, nhưng sau nhiều cuộc gọi đến nhà ông mà không nhận được trả lời, tôi gọi đến khoa lịch sử trường Magnus College và được biết Giáo sư Barber đang đi nghỉ. Người thư ký có vẻ ngần ngừ không muốn cho tôi biết thêm thông tin, nhưng sau khi tôi giải thích mục đích cuộc gọi của mình, giọng bà dịu đi và cho biết Giáo sư đang thực hiện một chuyến nghiên cứu bên Anh. Tôi có thể liên lạc với ông ấy bên đó như thế nào? tôi hỏi. Chắc là sẽ khó đấy, bà nói, vì ông ấy không để lại địa chỉ. Thế còn địa chỉ thư thì sao? tôi vẫn tiếp tục hỏi, hẳn là họ vẫn phải chuyển thư từ cho ông ấy ở đâu đó chứ. Không, bà nói, quả đúng là họ không làm việc này. Ông ấy đã yêu cầu họ giữ chúng lại cho đến khi ông ấy quay về. Khi nào thì ông ấy về? Sớm nhất là tháng Tám, bà nói, xin lỗi vì không giúp được nhiều hơn, và có điều gì đó trong giọng nói của bà khiến tôi tin rằng bà nói thật. Cùng ngày hôm ấy, tôi ngồi vào bàn viết một bức thư dài cho Barber để miêu tả tình hình, theo cách thức tốt nhất mà tôi có thể. Thật khó để viết bức thư đó, tôi phải mất hai hay ba tiếng cho nó. Khi đã viết xong, tôi gõ máy chữ lại và gửi nó đi trong cùng một cái gói với phiên bản tự truyện đã được sửa sang của Effing. Trong chừng mực những gì tôi biết, việc đó đã chấm dứt trách nhiệm của tôi trong vấn đề này. Tôi đã hoàn thành những gì Effing yêu cầu ở tôi, và kể từ nay công việc sẽ được chuyển sang cho các luật sư, họ sẽ liên lạc với Barber theo đúng thể thức pháp lý.
Hai ngày sau, bà Hume và tôi đến nhà xác để lấy tro. Người ta đã cho nó vào trong một cái bình kim loại màu ghi không lớn hơn một ổ bánh mì, và tôi thấy thật khó mà tưởng tượng Effing quả thực đang ở trong đó. Quá nhiều thứ của con người ông đã tan biến theo làn khói, thật kỳ cục khi nghĩ vẫn còn lại một cái gì. Bà Hume, người rõ ràng là có ý thức về thực tế nhanh nhạy hơn tôi rất nhiều, có vẻ bị cái bình làm hoảng sợ, và bà cứ nhất quyết để nó cách xa một sải tay trên suốt quãng đường về, như thể bên trong nó là những thứ chất phóng xạ độc hại. Dù trời nắng hay mưa, chúng tôi nhất trí sẽ thực hiện chuyến đi phà vào ngày hôm sau. Hôm đó lại đúng là ngày người nhà được phép đến thăm bệnh nhân tại bệnh viện V.A., và thay vì bỏ lỡ dịp gặp người anh trai, bà Hume quyết định sẽ đưa ông đi cùng với chúng tôi. Bà cũng nói có lẽ Kitty nên đến luôn. Với tôi điều này không mấy cần thiết, nhưng khi tôi chuyển lại lời bà cho Kitty, cô nói cô cũng muốn đi. Đây là một sự kiện quan trọng, cô nói, và vì yêu quý bà Hume, cô không muốn từ chối có mặt để hỗ trợ bà về mặt tinh thần. Chính vì vậy chúng tôi có đến bốn người thay vì hai như lúc đầu. Tôi ngờ việc New York từng bao giờ nhìn thấy một nhóm người tiến hành tang lễ sặc sỡ màu sắc đến như vậy.
Bà Hume rời nhà rất sớm sáng hôm ấy để đón người anh trai ở bệnh viện. Trong khi bà đi vắng, Kitty đến nơi, mặc cái váy ngắn bó sát màu xanh da trời, đôi chân mềm mại màu đồng của cô trông thật tuyệt diệu khi kết hợp với đôi guốc cao gót sử dụng đặc biệt cho dịp này. Tôi giải thích với cô rằng người anh trai của bà Hume đầu óc không được ổn lắm, nhưng vì chính tôi cũng chưa bao giờ gặp ông, thành ra tôi cũng không chắc điều đó có nghĩa gì. Charlie Bacon là một người đàn ông to ngang, mặt tròn, trạc ngũ tuần với mái tóc đỏ lưa thưa và đôi mắt chăm chú, nhanh nhẹn. Ông đến cùng bà em trong một trạng thái khá thoải mái, sôi nổi (đây là lần đầu tiên ông rời bệnh viện trong suốt hơn một năm), và trong vài phút đầu tiên ông không làm gì khác ngoài mỉm cười với chúng tôi và bắt tay chúng tôi. Ông mặc một cái áo gió màu xanh da trời kéo khóa lên tận đến cổ, một cái quần kaki mới là, và đôi giày đen bóng lộn cùng đôi tất trắng. Trong túi áo jacket của ông để một cái đài phát thanh bán dẫn nhỏ với một sợi dây gắn vào tai thò ra. Lúc nào ông cũng để đầu sợi dây vào tai, và cứ một hoặc hai phút ông lại thọc tay vào túi để chỉnh tần số sóng đài. Mỗi khi làm vậy, ông lại nhắm mắt vẻ rất tập trung, như thể đang nghe các thông tin phát đến từ một dải thiên hà khác. Khi tôi hỏi ông thích nhất kênh nào, ông nói đều như nhau cả. “Tôi không nghe đài cho vui,” ông nói. “Đó là công việc của tôi. Nếu làm việc ấy một cách đúng đắn, tôi có thể nói chuyện gì đang xảy ra với bọn nổ to dưới thành phố kia.”
“Bọn nổ to?”
“Bom H ấy. Có khoảng một chục quả giấu trong các hầm ngầm dưới đất, và họ liên tục di chuyển chỗ của chúng để bọn Nga không biết chúng ở đâu. Phải có đến một trăm địa điểm khác nhau - từ đây xuống đến hết thành phố, sâu hơn cả đường tàu điện ngầm.”
“Thế cái đó có gì liên quan với đài phát thanh?”
“Chúng phát ra các thông tin đã được mã hóa. Mỗi khi có một chương trình trực tiếp trên một kênh, thì có nghĩa là họ đang di chuyển bọn nổ to. Các trận đấu bóng chày là một trong những chỉ dẫn tốt nhất. Nếu đội Mets thắng với tỉ số năm-hai, thì có nghĩa họ để bọn nổ to ở vị trí năm-hai. Nếu họ thua sáu-một, thì có nghĩa vị trí là mười sáu. Thực sự là đơn giản lắm, nếu cậu quen nghe.”
“Thế còn đội Yankees thì sao?”
“Mỗi khi bất kỳ đội nào chơi một trận ở New York thì phải nhìn vào tỉ số. Họ không bao giờ ở đây cùng ngày cả. Khi Mets chơi ở New York, đội Yankees đang trên đường, và ngược lại.”
“Nhưng chúng ta sẽ được gì nếu biết những quả bom ở đâu?”
“Thì chúng ta tự bảo vệ được chính mình. Tôi không biết cậu thì thế nào, nhưng cứ nghĩ sẽ bị bom nổ tan thây là tôi thấy không sung sướng gì cả. Một ai đó phải theo sát những gì đang xảy ra, và nếu không có ai khác làm việc đó, tôi nghĩ người một ai đó chính là tôi.”
Bà Hume đã thay quần áo trong khi tôi nói chuyện với anh trai bà. Khi bà đã sẵn sàng, chúng tôi rời khỏi căn hộ và gọi một cái taxi để đi đến bến phà. Hôm đó là một ngày thời tiết đẹp, bầu trời xanh quang đãng và có tiếng ngân nga giòn tan của gió trong không khí. Tôi nhớ mình ngồi ở băng ghế sau, cái bình để trong lòng, lắng nghe Charlie nói về Effing khi chiếc taxi chạy xuôi xa lộ West Side. Có vẻ như hai người đã gặp nhau nhiều lần, và sau khi khai thác đến kiệt cùng một sợi dây liên hệ giữa họ (Utah), ông bắt đầu kể theo lối giật cục, đứt đoạn về những ngày chính ông ở đó. Ông đã được huấn luyện về bom tại Wendover trong chiến tranh, ở ngay giữa sa mạc, ông nói, chuyên phá hủy những thành phố thu nhỏ dựng bằng muối. Ông đã bay ba mươi hay bốn mươi chuyến trên đất Đức để thả bom, và rồi, khi chiến tranh kết thúc, họ gửi ông quay trở lại Utah và cho ông vào chương trình nghiên cứu bom A. “Chúng tôi không được cho biết cụ thể,” ông nói, “nhưng tôi đã phát hiện ra. Nếu có một mẩu thông tin nào đó cần phát hiện, thì cứ chắc chắn là Charlie Bacon có thể tìm được. Trước tiên đó là Big Boy, quả bom rơi xuống Hiroshima với Đại tá Tibbets. Theo đúng kế hoạch tôi sẽ phải tham gia phi hành đoàn trong chuyến bay tiếp đó ba ngày sau, chuyến đến Nagasaki. Không có chuyện họ buộc được tôi làm việc này. Phá hoại ở mức độ đó thì chỉ có thể là sự vụ của Chúa. Con người không được phép dính dáng vào. Tôi lừa họ bằng cách giả vờ bị điên. Tôi chỉ việc đi ra ngoài vào một buổi chiều, rồi cứ thế lẳng lặng đi sâu vào trong sa mạc, trong cái nóng như thiêu đó. Tôi không quan tâm đến việc liệu họ có bắn tôi hay không. Ở Đức mọi thứ đã tệ hại lắm rồi, nhưng tôi sẽ không để họ biến tôi thành một nhân tố phá hoại. Không, thưa ông, tôi thà điên còn hơn là để lương tâm mình bị chuyện đó đè nặng. Theo cách nhìn nhận của tôi thì họ đã không làm việc ấy nếu những người Nhật kia có nước da trắng. Họ chẳng thèm đoái hoài gì đến dân da vàng đâu. Nói cô bỏ quá cho,” đột nhiên ông quay sang Kitty nói thêm, “nhưng với họ thì dân da vàng chẳng tốt đẹp gì hơn những con chó cả. Các bạn nghĩ hiện nay chúng ta đang làm cái gì ở Đông Nam Á nào? vẫn cái trò đó thôi, giết người da vàng ở mọi nơi chúng ta có thể tìm được họ. Cũng giống như là tàn sát toàn bộ người Da đỏ thêm một lần nữa ấy. Giờ thì chúng ta có bom H thay cho bom A rồi. Mấy ông tướng vẫn sản xuất các vũ khí mới ở Utah thôi, ở đó xa tất cả mọi thứ, không ai có thể thấy họ được cả. Còn nhớ lũ cừu chết năm ngoái không? Sáu nghìn con đấy. Họ đã phun một loại thuốc độc mới vào không khí, và mọi thứ quanh đó hàng dặm đều chết sạch cả. Không, thưa ông, tôi nhất quyết không để máu dây lên tay đâu. Dân da vàng, dân da trắng, khác biệt gì nhau chứ? Chúng ta giống nhau hết mà, phải không nào? Không, thưa ông, ông sẽ không thể bắt Charlie Bacon làm công việc bẩn thỉu của ông đâu. Tôi thà làm một người điên còn hơn là làm tung tóe khắp nơi bằng cái bọn nổ to đó.”
Cuộc độc thoại của ông bị cắt ngang vì chúng tôi đã đến nơi, và trong suốt thời gian còn lại của ngày hôm đó Charlie rút lui vào những bí mật nhà nghề của cái đài bán dẫn. Tuy nhiên, ông thích thú khi được ở trên tàu, và dù không muốn, chính tôi cũng thấy mình đang ở trong một tâm trạng tốt lành. Trong sứ mạng của chúng tôi có một điều gì đó kỳ cục xóa tan khả năng có những suy nghĩ đen tối, và ngay cả bà Hume cũng không hề rơi một giọt nước mắt nào trong suốt chuyến đi. Trên tất cả, tôi nhớ Kitty trông đẹp đến thế nào trong bộ quần áo bó chặt của mình, với ngọn gió thổi lùa qua mái tóc đen dài của cô và bàn tay nhỏ xíu tuyệt diệu nằm gọn trong tay tôi. Vào giờ này con tàu không đông người lắm, và trên boong tàu có nhiều mòng biển hơn là hành khách. Khi đã nhìn thấy tượng Nữ thần Tự do, tôi mở bình ra và lắc để tro bay vào trong gió. Đó là một thứ tro hỗn hợp các màu trắng, ghi và đen, và chúng biến mất trong vài giây. Charlie đứng bên tay phải tôi, Kitty bên tay trái, tay cô ôm vòng quanh người bà Hume. Tất cả chúng tôi dõi theo đường bay ngắn ngủi, cuồng nhiệt của đám tro cho đến khi không còn lại gì để nhìn nữa, và khi đó Charlie quay sang em gái mình nói: “Anh cũng muốn em làm cho anh điều này đấy, Rita. Sau khi anh chết, anh muốn em thiêu xác anh rồi ném tro vào không khí. Đó là một dấu hiệu vinh quang, cùng một lúc nhảy nhót ra mọi phía, đó là dấu hiệu vinh quang nhất trên đời này.”
Khi phà cập bến ở Staten Island, chúng tôi đi lòng vòng một lúc rồi lấy chuyến sau đó để quay về. Bà Hume đã chuẩn bị một bữa tối thịnh soạn, và chưa đầy một giờ sau khi về đến nhà, chúng tôi ngồi vào bàn bắt đầu bữa ăn. Giờ đây mọi chuyện đều đã xong xuôi. Đồ đạc của tôi đã được cất vào túi, và ngay khi hết bữa, tôi sẽ đi ra khỏi nhà của Effing lần cuối cùng. Bà Hume định sẽ ở lại cho đến khi bán xong nhà, và nếu mọi chuyện thuận lợi, bà nói (ý bà nói đến khoản tiền sẽ được nhận theo di chúc), bà sẽ đến Florida cùng Charlie và bắt đầu một cuộc đời mới. Có lẽ phải đến năm mươi lần bà nói với tôi rằng tôi được chào mừng nếu ở lại trong căn hộ đến chừng nào tôi muốn, và cũng là lần thứ năm mươi tôi nói với bà rằng tôi đã có chỗ ở cùng một người bạn của Kitty. Kế hoạch của tôi là gì? bà muốn biết. Tôi sẽ làm gì? Đến lúc này thì không cần phải nói dối bà. “Tôi không chắc,” tôi nói. “Tôi sẽ phải suy nghĩ về việc này. Nhưng sẽ sớm phải làm gì đó trước khi mọi chuyện quá muộn.”
Chúng tôi tạm biệt nhau với những cái ôm siết và nước mắt sụt sùi. Chúng tôi hứa sẽ giữ liên lạc với nhau, nhưng dĩ nhiên chúng tôi không hề làm việc đó, và đây là lần cuối cùng tôi nhìn thấy bà.
“Cậu là một quý ông trẻ tuổi rất tuyệt,” bà nói với tôi ở cửa ra vào, “và tôi sẽ không bao giờ quên cậu đã tốt thế nào với ông Thomas đâu. Phần lớn thời gian ông ấy không xứng với sự ân cần đến thế.”
“Bất kỳ ai cũng xứng đáng được hưởng sự ân cần,” tôi nói. “Dù cho đó có là ai đi nữa.”
Kitty và tôi đã ra khỏi cửa và đi được nửa đường xuống đến sảnh thì bà Hume chạy theo gọi lại. “Tôi suýt quên,” bà nói, “có một thứ tôi phải đưa cho cậu.” Chúng tôi quay trở lại căn hộ, tại đó bà Hume mở tủ tường lôi xuống một cái túi đựng đồ màu nâu nhàu nát từ giá trên cùng. “Ông Thomas đưa cho tôi hồi tháng trước,” bà nói. “Ông ấy muốn tôi giữ cho cậu đến khi nào cậu đi.”
Tôi định cầm lấy cái túi và đi ra, nhưng Kitty chặn tôi lại. “Anh không tò mò muốn biết bên trong có gì à?” cô hỏi.
“Anh nghĩ có thể đợi được cho đến khi ra đến bên ngoài,” tôi nói. “Đề phòng trường hợp đây là một quả bom.”
Bà Hume phá lên cười. “Tôi sẽ không ngạc nhiên đâu, lão già quỷ quái ấy có thể làm được mọi chuyện,” bà nói.
“Chính xác. Trò đùa cuối cùng từ bên kia mộ.”
“Được rồi, để em mở túi nếu anh không mở,” Kitty nói. “Có thể bên trong có cái gì đó hay hay.”
“Bà thấy cô ấy lạc quan đến mức nào rồi đấy,” tôi nói với bà Hume. “Lúc nào cũng hy vọng vào điều tốt đẹp nhất.”
“Cứ để cô ấy mở đi,” Charlie nói, hăng hái tham gia cuộc trò chuyện. “Tôi cá với anh là bên trong có một món quà đáng giá đấy.”
“Được rồi,” tôi nói, chìa cái túi cho Kitty. “Thiểu số thua đa số, anh để cho em vinh hạnh này.”
Với một vẻ duyên dáng không thể bắt chước, Kitty mở cái túi và nhìn săm soi vào bên trong. Khi quay sang nhìn chúng tôi, cô ngừng lại một chút vì bối rối, rồi thì khuôn mặt cô bừng nở thành một nụ cười rộng mở, đầy vẻ thắng lợi. Không nói lời nào, cô dốc ngược cái túi lên để cho những thứ đựng bên trong rơi xuống sàn nhà. Tiền tuôn ra, một cơn mưa không ngừng những tờ tiền cũ nhàu nát. Chúng tôi im lặng nhìn những tờ mười, hai mươi và năm mươi đô la đậu xuống chân. Tổng cộng có hơn bảy nghìn đô la.