Số lần đọc/download: 3447 / 106
Cập nhật: 2015-01-05 18:16:32 +0700
Chương 5
T
ôi không nói chuyện với Augustus khoảng một tuần sau đó. Tôi đã gọi cho cậu ấy vào cái Đêm Của Những Chiếc Cúp Vỡ, nên theo thường lệ thì đến lượt cậu ấy. Nhưng cậu ấy chẳng hề gọi. Tôi cũng không phải kiểu suốt ngày ôm khư khư điện thoại trong lòng bàn tay đẫm mồ hôi, nhìn chằm chằm nó trong khi mặc chiếc Váy Vàng Độc Đáo, kiên nhẫn chờ đợi cuộc gọi đến từ vị lãng tử của mình như đúng tên gọi của cậu ấy. Tôi quay về với cuộc sống của mình: Uống cà phê với Kaitlyn và bạn trai (đáng yêu nhưng thành thực mà nói thì chẳng có tí chất gì giống Augustus) của cô ấy vào buổi chiều; đều đặn uống Phalanxifor theo chỉ định; đến lớp ba buổi sáng trong tuần ở MCC; và cùng ngồi ăn với bố mẹ mỗi tối.
Tối chủ nhật, chúng tôi ăn món pizza ớt xanh và súp lơ xanh. Cả nhà đang ngồi quây quần bên chiếc bàn tròn be bé trong bếp thì điện thoại tôi réo lên, nhưng tôi không được nghe máy vì ở nhà có một quy định ngặt nghèo là không-điện-thoại-trong-khi-ăn.
Thế nên tôi nhấm nháp một chút thức ăn trong khi bố mẹ nói chuyện về vụ động đất mới xảy ra ở Papua New Guinea. Ngày xưa hai người đã gặp nhau trong chiến dịch tình nguyện của Peace Corps ở Papua New Guinea, thế nên bất cứ khi nào có chuyện gì, kể cả tin xấu đi nữa, họ bỗng nhiên như không còn là những người lớn đã ổn định cuộc sống của mình nữa mà trở nên tươi trẻ, lý tưởng, tự lập và gian truân như một thời từng vậy, họ cứ say sưa đến nỗi chẳng thèm để ý đến tôi đang ăn nhanh hơn bao giờ hết, đưa thức ăn từ đĩa vào miệng với tốc độ tàn bạo kinh hoàng khiến tôi gần như nghẹt thở, tất nhiên làm tôi sợ có khi hai lá phổi của mình sẽ lại bì bõm trong một bể tràn đầy dịch lần nữa. Tôi nhanh chóng xua tan ý nghĩ này trong đầu. Tôi có lịch chụp PET trong một hai tuần nữa. Nếu có điều gì không ổn thì tôi sẽ sớm biết thôi. Từ giờ đến lúc ấy có lo lắng cũng chẳng giúp được gì.
Thế nhưng tôi vẫn thấy lo. Tôi vẫn yêu thích cuộc sống này. Tôi vẫn muốn níu giữ nó. Lo lắng cũng lại là một ảnh hưởng phụ của việc đang chết mà thôi.
Cuối cùng tôi cũng ăn xong và nói, “Con xin phép nhé?” trong khi họ vẫn chẳng ngừng cuộc trò chuyện về điểm mạnh và điểm yếu của cơ sở hạ tầng ở Guinea. Tôi rút điện thoại từ trong ví để trên quầy bếp ra và kiểm tra nhật ký cuộc gọi. Augustus Waters.
Tôi đi ra cửa sau bước vào ánh trời chạng vạng. Tôi có thể thấy chiếc ghế đu và nghĩ tới chuyện ngồi đó đung đưa trong khi nói chuyện với Augustus, nhưng khoảng cách dường như quá xa vì chuyện ăn uống đã khiến tôi phát mệt.
Thay vì đó, tôi ngồi bệt xuống thảm cỏ mép vườn, ngó lên chòm Lạp Hộ, chòm sao duy nhất tôi có thể nhận ra, và gọi cho cậu ấy.
“Hazel Grace,” cậu ấy nhấc máy.
“Chào,” tôi nói. “Cậu khỏe chứ?”
“Tuyệt lắm,” cậu ấy đáp. “Tớ đã muốn gọi cho cậu gần như từng phút một, nhưng tớ đã đợi cho đến khi tớ có thể định hình được một suy nghĩ hoàn chỉnh về vấn đề Nỗi đau tột cùng.” (Cậu ấy dùng từ “về vấn đề.” Cậu ấy nói thế. Anh chàng đó.)
“Và?” tôi hỏi.
“Tớ nghĩ nó giống như…Đọc nó tớ cứ có cảm giác như là, giống như…”
“Giống như gì hả?” tôi trêu cậu ta.
“Như một món quà?” cậu ấy hỏi kiểu dò xét. “Như là cậu đã tặng tớ một thứ gì đó rất quan trọng.”
“Ồ,” tôi khẽ thốt lên.
“Tệ quá,” cậu ấy nói. “Tớ xin lỗi.”
“Không sao,” tôi bảo. “Không sao mà. Đừng xin lỗi tớ.”
“Nhưng nó không hề kết thúc.”
“Ừ,” tôi nói.
“Tra tấn. Tớ hoàn toàn hiểu được, như kiểu, hiểu được là cô ấy chết hay gì cũng được.”
“Ừ, tớ cũng đoán như thế,” tôi nói.
“Và thôi được, cứ cho là thế, nhưng có một thỏa thuận bất thành văn giữa tác giả và độc giả và tớ nghĩ không kết thúc câu chuyện cũng là một kiểu vi phạm thỏa thuận đấy.”
“Tớ không biết,” tôi đáp, cảm thấy như đang bênh vực Peter Van Houten. “Đấy cũng là một phần tớ thích về quyển này theo một cách nào đó. Nó miêu tả chân thực về cái chết. Chúng ta chết ngay giữa cuộc đời, ngay giữa một câu văn. Nhưng tớ muốn – Chúa ơi, tớ thực sự muốn biết chuyện gì đã xảy ra với những người khác nữa. Tớ đã hỏi ông ấy trong mấy lá thư. Nhưng ông ấy thì, ừ, chẳng bao giờ trả lời cả.”
“Ừ. Cậu nói ông ấy sống ẩn dật à?”
“Đúng vậy.”
“Không một dấu vết?”
“Đúng thế.”
“Hoàn toàn không liên lạc được,” Augustus nói.
“Đáng tiếc là vậy,” tôi đáp.
“‘Thưa ngài Waters,’” cậu ấy trả lời. “‘Tôi viết thư này nhằm gửi lời cảm ơn vì bức thư điện tử mà tôi đã nhận được thông qua quý cô Vliegenthart vào mùng sáu tháng Tư này, đến từ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, ở một chừng mực nào đó mà khoảng cách địa lý có thể nói là đang tồn tại ở thời đại số hóa đáng tự hào này của chúng ta.’”
“Augustus, cái quái gì đó?”
“Ông ấy có một người trợ lý,” Augustus nói. “Lidewij Vliegenthart. Tớ đã tìm được cô ấy. Tớ gửi mail. Cô ấy chuyển cho ông bức email đấy. Rồi ông ấy trả lời tớ theo địa chỉ kia.”
“Được rồi, được rồi. Cậu đọc tiếp đi.”
“‘Thư phúc đáp của tôi vốn được viết bằng mực và giấy như những thời quá khứ huy hoàng của tổ tiên cha ông chúng ta, sau đó được phiên mã qua một dãy các con số 1 và 0 nhằm du hành trong mạng lưới tẻ nhạt đã mê hoặc giống loài của chúng ta gần mới đây, do đó xin được thứ lỗi nếu có bất kỳ sai lầm hay thiếu sót nào có thể xảy ra.
“‘Với vô vàn những thú vui chơi chè chén được sắp đặt sẵn dành cho những quý ngài quý cô trẻ tuổi trong thế hệ của ngài, tôi vô cùng cảm kích trước bất kỳ ai ở bất kỳ nơi đâu đã dành ra một vài giờ cần thiết đọc cuốn sách bé nhỏ này. Nhưng tôi đặc biệt mang ơn ngài, thưa ngài, không chỉ vì những lời lẽ tốt đẹp của ngài dành cho Nỗi đau tột cùng mà còn vì đã bớt chút thời gian cho tôi biết rằng cuốn sách, như tôi trích nguyên văn ở đây, “có ý nghĩa rất lớn” đối với ngài.
“‘Lời nhận xét này, tuy thế, lại khiến tôi băn khoăn: Theo ngài thì có ý nghĩa mang ý nghĩa như thế nào? Khi mà cuộc đấu tranh với kết cục chỉ là phù phiếm, chút ý nghĩa trào dâng ngắn ngủi mà nghệ thuật đem lại cho chúng ta có thực sự có giá trị? Hay là chỉ giá trị trong việc khiến thời gian trôi qua trở nên dễ chịu nhất có thể? Một câu chuyện nên đi theo chiều hướng nào đây, ngài Augustus? Một hồi chuông cảnh tỉnh? Một lời kêu gọi chiến đấu? Một liều thuốc giảm đau? Dĩ nhiên, như mọi lẽ nghi vấn trong vũ trụ, dòng thắc mắc này chắc hẳn lại khiến chúng ta trở về với câu hỏi liệu cuộc sống con người có giá trị gì và phải chăng – xin mượn lời những đứa trẻ mười sáu đầy gánh nặng ưu tư mà chắc hẳn ngài không khỏi căm ghét – tất cả đều mang một ý nghĩa nào đó.
“‘Tôi e rằng không, bạn của tôi, và hẳn ngài sẽ nhận được chút khích lệ hiếm hoi từ việc đi sâu hơn vào tác phẩm của tôi. Nhưng để trả lời câu hỏi của ngài: Không, tôi đã không viết thêm một dòng nào nữa, và vẫn sẽ như thế. Tôi không cảm thấy rằng việc chia sẻ những ý tưởng của tôi với độc giả sẽ đem lại bất kỳ lợi ích nào cho cả họ và tôi. Một lần nữa xin cảm ơn vì bức email hào phóng của ngài.
“‘Trân trọng kính chào, Peter Van Houten, gửi qua Lidewij Vliegenthart.’”
“Wow,” tôi thốt lên. “Cậu không tự viết cái này đấy chứ?”
“Hazel Grace, liệu tớ, với khả năng trí tuệ ít ỏi của mình, có thể bịa ra một lá thư từ Peter Van Houten với những cụm từ bay bướm kiểu “ở thời đại số hóa đáng tự hào này của chúng ta” không chứ?”
“Cậu thì không,” tôi cũng đồng ý thế. “Tớ có thể, tớ có thể xin địa chỉ email được không?”
“Tất nhiên,” Augustus đáp, cứ như nó không phải là món quà quý giá nhất mà tôi từng nhận được.
Tôi dành hai giờ sau đó thể viết một bức email cho Peter Van Houten. Mỗi lần viết lại nó còn trông tệ hơn, nhưng mà tôi không thể ngừng được.
Kính gửi Ngài Peter Van Houten
(Xin nhờ chị Lidewij Vliegenthart chuyển giúp),
Cháu là Hazel Grace Lancaster. Bạn cháu, Augustus Waters, người đã đọc Nỗi đau tột cùng theo lời cháu giới thiệu, vừa nhận được email từ ngài theo địa chỉ này. Cháu hi vọng ngài không phiền khi Augustus đã chia sẻ nội dung bức thư ấy với cháu.
Thưa ngài Van Houten, như cháu hiểu qua bức thư của ngài cho Augustus, ngài không có ý định sẽ xuất bản bất kỳ cuốn sách nào nữa. Nói một cách nào đó, điều này vừa khiến cháu thất vọng, nhưng lại vừa nhẹ nhõm: Cháu sẽ không bao giờ phải lo lắng liệu cuốn sách tiếp theo có đạt được sự hoàn hảo đáng kinh ngạc như cuốn đầu tiên hay không. Là một bệnh nhân sống sót đã ba năm qua căn bệnh ung thư giai đoạn IV, cháu có thể nói rằng ngài đã đúng về mọi chuyện trong Nỗi đau tột cùng. Hoặc ít nhất ngài đã viết đúng về cháu. Cuốn sách của ngài cho cháu biết cháu đã cảm thấy những gì ngay cả khi chưa nhận thức được điều đó, và cháu đã đọc đi đọc lại nó hàng chục lần.
Dù vậy, cháu vẫn luôn băn khoăn không biết ngài có phiền lòng giải đáp giúp cháu một vài câu hỏi về những gì đã xảy ra sau cái kết của câu chuyện không. Cháu hiểu rằng cuốn sách kết thúc bởi vì Anna đã chết hay ốm đến mức không thể tiếp tục viết, nhưng cháu thực sự muốn biết chuyện gì đã xảy ra với mẹ Anna – liệu bà ấy có lấy chú Tulip Hà Lan hay không, liệu bà ấy có thêm một đứa bé khác nữa không, hay liệu bà ấy có còn ở số 917 đường W. Temple nữa không, v.v. Còn nữa, liệu chú Tulip Hà Lan có phải là kẻ lừa đảo không hay ông thực sự yêu hai mẹ con họ? Chuyện gì đã xảy ra với bạn của Anna – mà cụ thể là Claire và Jake? Họ có ở cùng nhau không? Và cuối cùng – cháu nhận ra đây là câu hỏi sâu sắc và ý nghĩa nhất mà ngài luôn mong độc giả sẽ để ý tới – điều gì đã xảy ra với Sisyphus chú chuột Hamster? Những câu hỏi này đã ám ảnh cháu hàng nhiều năm qua – và cháu không biết cháu còn đợi được bao lâu để có lời giải đáp.
Cháu biết đây không phải là những câu hỏi văn chương quan trọng trong khi cuốn sách của ngài tràn ngập những câu hỏi văn chương quan trọng ấy, nhưng cháu vẫn thực sự rất muốn biết.
Và tất nhiên, bất cứ khi nào ngài quyết định sẽ viết thứ gì khác nữa dù không xuất bản chúng, cháu rất mong được đọc nó. Thành thực mà nói, cháu cũng muốn đọc cả hóa đơn mua hàng tạp hóa của ngài.
Với lòng hâm mộ cuồng nhiệt,
Hazel Grace Lancaster
(16 tuổi)
Sau khi gửi nó đi, tôi gọi lại cho Augustus, chúng tôi thức đến tận đêm để nói chuyện về Nỗi đau tột cùng, và tôi đã đọc cho cậu ấy nghe bài thơ của Emily Dickinson mà Van Houten đã dùng để đặt tên cho cuốn sách, cậu ấy khen tôi có một giọng đọc tuyệt vời và không ngắt quá lâu cho mỗi lần xuống dòng, rồi cậu ấy nói với tôi về cuốn sách thứ sáu của bộ Cái giá của Bình minh, cuốn Lời chấp thuận Đẫm máu, cũng bắt đầu với đoạn trích trong một bài thơ. Mất một lúc để tìm quyển sách nhưng cuối cùng cậu ấy cũng đọc được cho tôi nghe. “‘Hãy nói cuộc đời đang đổ sụp. Nụ hôn cuối trao nhau / Tận năm nảo năm nào. ’”
“Cũng tạm,” tôi nói. “Hơi màu mè. Tớ tin Max Mayhem sẽ gọi đấy là ‘sến sẩm.’”
“Ừ, với hàm răng lúc nào cũng cắn chặt của ông ấy thì chẳng nghi ngờ gì. Chúa ơi, Mayhem nghiến răng suốt cả bộ sách này. Ông ấy chắc chắn sẽ bị sái quai hàm nếu còn sống sót qua tất cả các trận chiến mất.” Rồi sau một giây, Gus hỏi, “Nụ hôn cuối của cậu là bao giờ?”
Tôi nghĩ về nó. Những nụ hôn của tôi – tất cả đều trước khi mắc bệnh – đều không thoải mái và ướt át khó chịu, một cách nào đó thì cũng như những đứa trẻ con tập chơi trò người lớn. Nhưng tất nhiên đấy là lâu lắm rồi. “Khoảng vài năm trước,” cuối cùng tôi đáp. “Còn cậu?”
“Tớ đã có vài nụ hôn nồng cháy với người yêu cũ, Caroline Mathers.”
“Cũng mấy năm rồi à?”
“Lần cuối là chưa đầy một năm trước.”
“Chuyện đấy như thế nào?”
“Lúc hôn á?”
“Không, cậu và Caroline cơ.”
“À,” cậu ấy đáp, ngập ngừng một giây. “Caroline không còn phải chịu đựng kiếp người đau khổ nữa.”
“Ồ,” tôi nói.
“Ừ,” cậu ấy nói.
“Tớ rất tiếc,” tôi nói. Tôi từng biết rất nhiều người đã mất, nhưng chưa từng hẹn hò với ai trong số họ. Tôi thực sự còn không dám nghĩ đến.
“Không phải lỗi của cậu, Hazel Grace. Chúng ta cũng chỉ là những ảnh hưởng phụ thôi, đúng không?”
“Những con hà bám trên chuyến tàu mang theo ý thức,” tôi nói, trích một câu trong NĐTC.
“Okay,” cậu ấy nói. Tớ phải đi ngủ đây. Gần một giờ rồi.
“Okay,” tôi nói.
“Okay,” cậu ấy nói.
Tôi cười khúc khích và nói, “Okay.” Đầu dây bên kia bỗng im lặng nhưng chưa gác máy. Tôi gần như cảm thấy cậu ấy đang ở đây trong căn phòng này với tôi, nhưng theo một cách còn tuyệt hơn thế, như thể tôi không ở trong phòng của tôi và cậu ấy cũng không ở trong phòng cậu ấy, thay vì đó cả hai cùng ở trong một không gian thứ ba vô hình và mong manh mà chỉ có thể gặp được qua điện thoại.
“Okay,” cậu ấy nói sau một lúc lâu. “Có thể okay sẽ là luôn luôn của chúng ta.”
“Okay,” tôi đáp.
Cuối cùng Augustus là người gác máy trước.
Peter Van Houten trả lời thư của Augustus chỉ bốn tiếng đồng hồ sau khi cậu ấy gửi nó, nhưng đã hai ngày rồi mà Van Houten vẫn chưa trả lời tôi. Augustus quả quyết với tôi đó là vì lá thư của tôi sâu sắc hơn và cần những lời đáp đầy ý nghĩa, rằng Van Houten vẫn đang bận viết câu trả lời cho những câu hỏi của tôi, và những áng tuyệt bút như vậy luôn cần nhiều thời gian. Nhưng tôi vẫn thấy lo lắng.
Hôm thứ Tư trong giờ Thơ Ca Mỹ Đại Cương Cho Kẻ Ngốc, tôi nhận được một tin nhắn từ Augustus.
Isaac đã ra khỏi phòng mổ. Mọi thứ vẫn tốt. Cậu ấy chính thức được xác nhận NEC.
NEC nghĩa là “không có dấu hiệu ung thư.” Một vài giây sau tin nhắn thứ hai đến.
Ý tớ là, cậu ấy đã bị mù. Thật bất hạnh.
Chiều hôm ấy, mẹ bằng lòng cho tôi mượn xe để tự lái đến viện Memorial thăm Isaac.
Tôi tìm phòng cậu ấy trên tầng năm, vẫn gõ cửa dù nó đang mở, một giọng phụ nữ cất lên, “Cháu vào đi.” Đó là một cô y tá đang làm gì đó với tấm gạc trên đôi mắt của Isaac. “Hey, Isaac,” tôi chào.
Và cậu ấy đáp lại, “Mon?”
“Ồ, không. Xin lỗi. Không, tớ là, ừm, Hazel. Ừm, Hazel Nhóm Tương Trợ? Hazel đêm-của-những-chiếc-cúp-vỡ?”
“À,” cậu ấy đáp. “Ừ, mọi người cứ nói mãi là mấy giác quan khác sẽ trở nên nhạy hơn để bù lại, nhưng RÕ RÀNG LÀ CHƯA. Chào Hazel Nhóm Tương Trợ. Nào hãy đến đây để tớ có thể khám phá khuôn mặt cậu với đôi bàn tay và nhìn sâu vào tâm hồn cậu hơn bất cứ người sáng mắt nào có thể.”
“Cậu ta đùa đấy,” cô y tá nói.
“Dạ,” tôi đáp. “Cháu biết mà.”
Tôi bước về phía chiếc giường, kéo ghế ra và ngồi xuống nắm lấy tay cậu ấy. “Hey,” tôi gọi.
“Hey,” cậu ấy đáp lại. Rồi cứ thế im lặng một lúc.
“Cậu thấy sao?” tôi hỏi.
“Ổn,” cậu ấy trả lời. “Tớ không biết nữa.”
“Không biết gì cơ?” tôi hỏi. Tôi nhìn vào bàn tay cậu ấy vì tôi không muốn nhìn vào khuôn mặt đó với băng gạc cuốn quanh đôi mắt. Isaac cắn móng tay, và tôi còn có thể thấy máu rướm ra một đôi chỗ.
“Cô ấy vẫn chưa đến thăm,” cậu ấy nói. “Tớ nghĩ chúng tớ đã bên nhau những mười bốn tháng. Mười bốn tháng là một quãng thời gian dài. Chúa ơi, đau đớn quá.” Isaac buông tay tôi ra để mò mẫm cái máy truyền thuốc, cái mà mỗi lần bạn ấn vào nó sẽ truyền cho bạn một chút thuốc gây tê.
Cô y tá đã hoàn tất việc thay băng của mình, bước trở lại. “Mới một ngày thôi, Isaac,” cô ấy nói, có vẻ trịch thượng. “Cháu phải tự cho mình thời gian để chữa lành nó. Và mười bốn tháng chưa phải đã dài đâu, so với một loạt những việc khác. Cháu mới chỉ đang bắt đầu thôi, ngốc ạ. Rồi cháu sẽ thấy.”
Cô y tá quay đi. “Cô ta đi chưa?”
Tôi gật đầu, rồi nhận ra cậu ấy không thể nhìn thấy tôi gật đầu. “Rồi,” tôi nói.
“Tớ sẽ thấy? Thật à? Cô ta nói nghiêm túc đấy à?”
“Phẩm chất của một Y Tá Tốt: Bắt đầu nào,” tôi nói.
“1. Không bao giờ nói kháy về các khuyết tật của bạn,” Isaac bắt đầu.
“2. Lấy được máu sau mũi đầu tiên,” tôi nói.
“Nghiêm túc, điều đó có ý nghĩa rất lớn. Đây là cái tay chết tiệt của tớ hay là cái bia để phóng kim? 3. Không bao giờ nói giọng trịch thượng.”
“Cháu thấy sao rồi cưng?” tôi hỏi, giả vẻ ngọt ngào. “Cô sẽ tiêm cho cháu một mũi bây giờ nhé. Có thể sẽ hơi đau chút thôi.”
“Sickywicky dễ xương bé nhỏ của tui đây sao?” cậu ấy trả lời. Rồi một giây sau, “Thực ra hầu hết họ đều tốt bụng. Tớ chỉ muốn biến mẹ nó khỏi chỗ này thôi.”
“Chỗ này là bệnh viện à?”
“Chuyện đó nữa,” cậu ấy đáp, miệng mím chặt. Tôi có thể thấy được nỗi đau đớn đó. “Nói thật, tớ nghĩ đến chuyện của Monica còn nhiều hơn chính đôi mắt của mình. Thế có điên không? Thật quá điên rồ.”
“Cũng hơi điên một chút,” tôi đồng ý.
“Nhưng mà tớ tin vào tình yêu đích thực, cậu biết không? Tớ không tin là mọi người sẽ luôn giữ được đôi mắt hay giữ cho mình chẳng bị ốm hay gì cũng được, nhưng mọi người nên có một tình yêu đích thực, và nó nên kéo dài cho đến chừng nào họ còn sống.”
“Ừ,” tôi nói.
“Đôi khi tớ chỉ muốn tất cả mọi chuyện đã không xảy ra. Tất cả những chuyện ung thư này.” Giọng cậu ấy chậm lại. Thuốc tê bắt đầu có tác dụng.
“Tớ rất tiếc,” tôi an ủi.
“Gus vừa ở đây lúc nãy. Cậu ấy ở đây lúc tớ tỉnh. Trốn học. Cậu ấy…” Cậu ấy hơi ngoẹo đầu sang một chút. “Thế dễ chịu hơn,” cậu lẩm bẩm.
“Cậu đau à?” tôi hỏi. Cậu ấy khẽ gật đầu.
“Tốt,” tôi nói. Và rồi, như một đứa mê trai tôi hỏi: “Cậu vừa nói gì về Gus à?” Nhưng cậu ấy ngủ mất rồi.
Tôi đi xuống tầng dưới vào một cửa hàng quà tặng be bé còn chẳng có cửa sổ và hỏi một cụ bán hàng tình nguyện hom hem đang ngồi trên chiếc ghế đẩu sau quầy tính tiền rằng loại hoa nào có hương thơm nhất.
“Cũng như nhau cả thôi. Chúng đều được phun thuốc Siêu Thơm,” cụ nói.
“Thật ạ?”
“Ừ, họ vừa phun xong đấy.”
Tôi mở tủ mát bên trái cụ ấy và ngửi một khóm hồng, rồi cúi xuống chỗ mấy bông cẩm chướng. Đúng là mùi giống nhau thật, rất đậm. Hoa cẩm chướng rẻ hơn, nên tôi đã nhặt ra một tá bông màu vàng. Tất cả hết mười bốn đô la. Tôi quay trở lại phòng; mẹ cậu đang ở đó, nắm tay cậu ấy. Cô ấy rất trẻ và thực sự xinh đẹp.
“Cháu là bạn thằng bé à?” Cô ấy hỏi, khiến tôi hơi sững lại vì đó là một trong những câu hỏi vô tình rất vu vơ nhưng lại khó trả lời.
“Ừm, dạ,” tôi đáp. “Cháu đến từ Nhóm Tương Trợ. Cái này là dành cho cậu ấy.”
Cô ấy đỡ lấy và đặt chúng lên đùi mình. “Cháu có biết Monica không?” cô ấy hỏi.
Tôi lắc đầu.
“Ừ, nó đang ngủ,” cô ấy nói.
“Dạ. Cháu có nói chuyện với cậu ấy một lúc trước, lúc họ thay băng gì đấy.”
“Cô không muốn để nó lại một mình thế này nhưng cô phải đến trường đón em Graham,” cô ấy nói.
“Cậu ấy sẽ ổn thôi,” tôi an ủi cô ấy. Cô ấy gật đầu. “Cháu nên để cậu ấy ngủ.” Cô ấy gật đầu lần nữa. Tôi ra về.
Buổi sáng hôm sau tôi dậy rất sớm và việc đầu tiên là kiểm tra hòm thư của mình.
lidewij.vliegenthart@gmail.com cuối cùng cũng trả lời.
Thưa cô Lancaster,
Tôi e rằng niềm tin của cô đã bị đặt nhầm chỗ – nhưng phải nói, niềm tin vẫn thường như vậy. Tôi không thể trả lời những câu hỏi của cô, ít nhất không phải bằng văn bản, bởi lẽ viết ra những câu trả lời như vậy sẽ tạo nên phần tiếp theo cho Nỗi đau tột cùng, mà như thế cô hoàn toàn có thể công bố hay bằng cách khác chia sẻ trên cái thế giới mạng đã thay thế cho những bộ não của thế hệ các cô. Có thể qua điện thoại, nhưng cô vẫn có thể ghi âm lại cuộc trò chuyện. Nói như thế không có nghĩa rằng tôi không tin tưởng cô, tất nhiên, nhưng tôi không thể tin tưởng cô được. Chao ôi, Hazel yêu quý, tôi không thể trả lời những câu hỏi như vậy trừ khi chúng ta gặp mặt trực tiếp, mà cô ở đó, trong khi tôi lại ở đây.
Xin lưu ý, phải thú thực rằng việc vô tình nhận được lá thư của cô qua cô Vliegenthart đã khiến tôi vô cùng vui sướng: Thật diệu kỳ làm sao khi biết rằng tôi đã làm được một vài điều hữu ích đối với cô – cho dù cuốn sách đó có vẻ xa cách đến nỗi tôi hầu như đã tưởng nó được viết nên bởi một người đàn ông khác. (Tác giả cuốn sách đó rất gầy, ẻo lả và tương đối lạc quan!)
Tuy nhiên, nếu cô có gặp chính mình ở Amsterdam, xin vui lòng ghé thăm lúc nào rỗi rãi. Tôi thường xuyên ở nhà. Và có thể tôi sẽ đồng ý cho cô ngó qua cả hóa đơn mua hàng tạp hóa của tôi.
Trân trọng,
Peter Van Houten
chuyển qua Lidewij Vliegenthart
“GÌ CƠ?!” Tôi hét ầm lên. “CÁI ĐỜI GÌ THẾ NÀY?”
Mẹ chạy vào. “Có chuyện gì à con?”
“Không có gì,” tôi trấn an bà.
Vẫn lo lắng, Mẹ quỳ xuống kiểm tra Phillip để chắc rằng cậu ta vẫn ngưng tụ đủ ôxy. Tôi tưởng tượng đến cảnh ngồi trong một quán cà phê chan hòa ánh nắng với Peter Van Houten trong khi ông hơi nghiêng qua chiếc bàn chống trên hai khuỷu tay, bằng một giọng thầm thì nhất để không ai khác có thể biết được chuyện gì đã xảy ra với những nhân vật khác mà tôi vẫn nghĩ về nó hàng năm trời. Ông ấy nói rằng ông không thể nói chuyện với tôi trừ khi gặp trực tiếp, và còn mời tôi ghé thăm Amsterdam. Tôi giải thích cho mẹ nghe, và quả quyết, “Con phải đi.”
“Hazel này, mẹ yêu con, con cũng biết là mẹ sẽ làm bất cứ điều gì vì con, nhưng chúng ta không – chúng ta không có đủ tiền để thanh toán chi phí đi lại quốc tế, và còn những thiết bị kia nữa – con yêu à, chúng ta chỉ không –”
“Dạ,” tôi nói, cắt ngang lời mẹ. Tôi nhận ra mình thật ngớ ngẩn khi không tính đến chuyện đấy. “Mẹ đừng lo.” Nhưng trông bà vẫn lo lắng.
“Điều này thực sự quan trọng với con, phải không?” bà ngồi xuống hỏi, đặt một tay lên đùi tôi.
“Thật tuyệt vời ấy ạ,” tôi đáp, “là người duy nhất biết được chuyện gì đã xảy ra ngoại trừ chính tác giả.”
“Chắc chắn rất tuyệt vời,” bà nói. “Mẹ sẽ nói chuyện với bố con nhé.”
“Không, đừng,” tôi ngăn lại. “Chỉ là, con nói thật đấy, mẹ đừng phí tiền vào chuyện này. Con sẽ tìm cách khác.”
Tôi chợt nhận ra bố mẹ không còn tiền cũng chỉ vì tôi. Tôi đã tiêu tốn hết các khoản tiết kiệm của gia đình vào việc chi trả cho thuốc Phalanxifor dù đã có trợ cấp một phần, và Mẹ thì không thể tiếp tục đi làm vì bà đã dành trọn thời gian cho công việc Quanh Quẩn Quanh Tôi. Tôi không muốn đẩy họ lún sâu vào nợ nần thêm nữa.
Tôi bảo Mẹ tôi muốn gọi điện cho Augustus để bà rời khỏi phòng, vì tôi không thể chịu đựng được vẻ buồn bã kiểu tôi-không-thể-biến-ước-mơ-của-con-gái-thành-sự-thật của bà hơn được nữa.
Đúng kiểu Augustus Waters, tôi đọc lá thư thay vì chào cậu ấy.
“Wow,” cậu ấy nói.
“Biết mà, đúng không?” tôi nói. “Nhưng tớ đến Amsterdam thế nào đây?”
“Cậu có Điều ước chứ?” cậu ấy hỏi, nhắc đến cái tổ chức tên là Quỹ Genie, chuyên ban tặng cho các bệnh nhi một điều ước.
“Không,” tôi đáp. “Tớ đã dùng Điều ước trước khi Phép màu xảy đến rồi.”
“Cậu đã làm gì vậy?”
Tôi thở dài rõ to. “Lúc đấy tớ mới mười ba,” tôi nói.
“Không phải Disney chứ,” cậu ta nói.
Tôi im lặng.
“Cậu đã không đến Disney World.”
Tôi vẫn im lặng.
“Hazel GRACE!” Cậu ấy hét lên. “Cậu đã không dùng Điều ước duy nhất của mình để đến Disney World cùng bố mẹ chứ.”
“Cả Epcot Center nữa,” tôi lí nhí.
“Ôi, Chúa ơi,” Augustus nói. “Không thể tin tớ lại phải lòng một cô gái với những điều ước nhạt nhẽo như vậy.”
“Tớ mới mười ba,” tôi nhắc lại lần nữa, dù tất nhiên lúc đó tôi chỉ nghĩ về phải lòng phải lòng phải lòng phải lòng phải lòng. Tôi rất sung sướng như lại đổi chủ đề ngay lập tức. “Cậu không phải đến trường sao?”
“Tớ bùng để đến thăm Isaac, nhưng mà nó đang ngủ nên tớ ra sân làm bài hình học.”
“Cậu ấy sao rồi?” Tôi hỏi.
“Tớ không biết là nó chưa sẵn sàng đối mặt với thực tế phũ phàng của việc bị mù hay chỉ chăm chăm quan tâm tới việc bị Monica đá nữa, mà nó cũng chẳng nói chuyện gì khác đâu.”
“Ừ,” tôi đáp. “Cậu ấy còn phải nằm viện lâu không?”
“Vài ngày nữa. Rồi nó sẽ tới trung tâm phục hồi chức năng gì đó một thời gian, nhưng vẫn được về nhà ngủ, chắc thế.”
“Tệ quá,” tôi nói.
“Tớ thấy mẹ nó rồi. Tớ đi đã nhé.”
“Okay,” tôi nói.
“Okay,” cậu ấy đáp lại. Tôi có thể nghe thấy nụ cười nửa khóe miệng đó.
Hôm thứ Bảy, tôi cùng bố mẹ đi xuống chợ nông sản ở Broad Ripple. Một ngày nắng hiếm hoi vào tháng Tư ở Indiana, mọi người ở chợ đều mặc áo cộc tay cho dù nhiệt độ cũng không ủng hộ cho lắm. Chúng tôi, những người sinh ra và lớn lên ở Indiana, luôn lạc quan một cách quá đáng về mùa hè. Mẹ và tôi ngồi cạnh nhau trên một chiếc ghế băng đối diện với một cửa hàng xà phòng làm từ sữa dê, một bác trong bộ quần yếm công nhân cứ liên tục giải thích cho bất cứ ai ngang qua tầm mắt rằng phải, đó là dê của bác ấy và không, xà phòng sữa dê thì không có mùi dê chút nào.
Điện thoại tôi kêu. “Ai đấy con?” Mẹ cất tiếng hỏi trước khi tôi còn chưa kịp xem.
“Con không biết,” tôi đáp. Đó là Gus.
“Cậu có nhà không?” cậu ta hỏi.
“Ừm, không,” tôi đáp.
“Hỏi thế thôi. Tớ biết thừa đáp án rồi, tớ đang ở nhà cậu.”
“Ồ. Ừm. Ừ, tớ đang về đây?”
“Tuyệt. Tớ sẽ đợi.”
Augustus Waters đang ngồi ở bậc cửa khi chúng tôi rẽ vào nhà. Cậu ấy cầm trên tay một bó Tulip màu cam sáng mới chớm nở, mặc bộ áo nịt len của đội bóng rổ Indiana Pacers bên trong áo khoác lông cừu, một cách phối đồ chẳng giống ai, dù trông vẫn hợp với cậu. Cậu nhổm mình đứng dậy khỏi thềm, chìa bó hoa cho tôi và hỏi, “Có muốn đi picnic không?” Tôi gật đầu, đón lấy bó hoa.
Bố bước tới ngay sau tôi và bắt tay Gus.
“Áo của Rik Smits đúng không?” Bố tôi hỏi.
“Dạ đúng ạ.”
“Chúa ơi, bác thích anh này lắm,” Bố nói, và ngay lập tức họ mê mải với câu chuyện bóng rổ mà tôi chẳng thể nào (và cũng chẳng muốn) tham gia, thế nên tôi mang bó hoa vào trong nhà.
“Con có muốn mẹ giúp cắm chúng vào bình không?” Mẹ hỏi khi tôi bước vào, nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt bà.
“Không ạ, con tự làm được,” tôi nói. Nếu cắm chúng trong cái bình đặt ngoài phòng khách thì đó sẽ là hoa của tất cả mọi người. Tôi muốn chúng là hoa của riêng tôi.
Tôi bước vào phòng nhưng chẳng thay đồ gì cả. Tôi chải tóc rồi đánh răng rồi thoa một lớp son bóng rồi xịt một chút ít nước hoa nhất có thể. Tôi cứ nhìn mãi những bông hoa. Chúng màu cam một cách khiêu khích, gần như hơi quá màu cam để có thể coi là đẹp. Tôi chẳng có bình cắm hay gì cả nên đành lấy bàn chải đánh răng ra khỏi lọ, đổ nước ngập nửa rồi cứ để những bông hoa ở đấy trong nhà tắm.
Khi quay lại phòng, tôi thấy mọi người đang nói chuyện, thế nên tôi ngồi lại cạnh mép giường một lúc và lắng nghe qua khe cửa:
Bố: “Vậy là cháu gặp Hazel ở Nhóm Tương Trợ.”
Augustus: “Dạ, thưa bác. Nhà mình đáng yêu quá. Cháu thích cách hai bác trang trí chúng.”
Mẹ: “Cảm ơn cháu, Augustus.”
Bố: “Cháu cũng là người sống sót, đúng không?”
Augustus: “Vâng. Cháu vẫn chưa dứt được thằng bám đuôi này để tận hưởng niềm vui trọn vẹn, dù rằng nó cũng là một chiến lược giảm cân tuyệt vời. Chân cháu nặng quá rồi!”
Bố: “Thế sức khỏe cháu giờ thế nào?”
Augustus: “NEC khoảng mười bốn tháng rồi ạ.”
Mẹ: “Thế thì tốt quá. Những biện pháp điều trị bây giờ – thực sự đáng nể đấy.”
Augustus: “Cháu biết. Cháu thật may mắn.”
Bố: “Cháu phải hiểu là Hazel vẫn đang ốm lắm, Augustus à, và nó vẫn sẽ như thế trong suốt quãng đời còn lại. Con bé muốn theo đuổi cháu đấy, nhưng mà phổi nó thì –”
Đúng lúc đấy tôi bước vào khiến bố im bặt.
“Thế các con sẽ đi đâu?” Mẹ tôi hỏi. Augustus đứng dậy nhổm người về phía mẹ tôi, thì thầm câu trả lời rồi đưa một ngón tay lên môi. “Shh,” cậu nói với mẹ tôi. “Đây là một bí mật.”
Mẹ cười. “Con đã cầm điện thoại theo chưa?” bà hỏi tôi. Tôi giơ nó lên làm bằng chứng, nghiêng giá bình ôxy trên bánh trước của nó rồi bắt đầu đi ra. Augustus chen qua, đưa cánh tay cho tôi khoác lấy. Những ngón tay tôi nắm chặt quanh bắp tay cậu ấy.
Thật không may khi cậu ấy cứ đòi cầm lái, bất ngờ đúng là bất ngờ thế này đây. Khi chúng tôi bò tới nơi, tôi mới nói, “Cậu làm mẹ tớ cứ mê tít thò lò ấy.”
“Ừ, và bố cậu cũng hâm mộ Smits nữa. Cậu có nghĩ hai bác thích tớ không?”
“Chắc chắn luôn. Nhưng quan tâm làm gì chứ? Họ cũng chỉ là hai bậc phụ huynh vậy thôi.”
“Hai bậc phụ huynh của cậu đấy,” cậu ấy đáp, liếc qua tôi. “Còn nữa, tớ thích được thích. Nghe điên quá nhỉ?”
“Ừ, cậu không cần phải vội vàng ra giữ cửa hay cho tớ chết ngập trong những lời khen mới khiến tớ thích cậu đâu,” cậu ấy lại đạp phanh, tôi bay về phía trước đủ mạnh để khiến nhịp thở của mình cảm giác gấp gáp kỳ quặc. Tôi nghĩ về vụ chụp PET. Đừng lo lắng. Lo lắng cũng chẳng giúp ích gì đâu. Dù sao tôi vẫn cứ lo.
Lốp xe khét lẹt và gầm rú trước khi chúng tôi rẽ trái trước một biển dừng xe vào một chỗ gọi là Cảnh quan Hùng vĩ chắc chắn bị viết nhầm (có một góc nhìn ra sân gôn, chắc vậy, nhưng chẳng có gì gọi là hùng vĩ hết). Nơi duy nhất tôi có thể nghĩ đến đi khi theo con đường này là khu nghĩa trang. Augustus với tay lên bảng điều khiển, mở một hộp thuốc còn nguyên ra và lấy một điếu.
“Cậu có bao giờ vứt chúng đi không?” tôi hỏi.
“Một trong những lợi ích của việc không hút là những điếu thuốc ấy sẽ tồn tại mãi mãi,” cậu ấy trả lời. “Tớ giữ hộp này được một năm rồi. Một số điếu đã bị gãy gần đầu lọc, nhưng tớ nghĩ chúng sẽ dễ dàng theo tớ đến tận sinh nhật thứ mười tám,” cậu ấy kẹp điếu thuốc vào giữa hai ngón tay, rồi đưa lên miệng. “Đấy, vậy đó,” cậu ấy nói. “Được rồi. Giờ kể tên một vài thứ cậu chưa bao giờ thấy ở Indianapolis xem nào?”
“Ừm. Những người lớn gầy guộc,” tôi nói.
Cậu ấy cười. “Tốt. Tiếp đi.”
“Mmm, biển. Các nhà hàng gia đình. Địa hình địa vật.”
“Những ví dụ xuất sắc về cái chúng ta còn thiếu đấy. Cả văn hóa nữa.”
“Ừ, chúng ta chưa có một nền văn hóa lâu đời,” tôi nói, cuối cùng cũng nhận ra cậu ấy đang đưa tôi đi đâu. “Mình đang tới bảo tàng à?”
“Nói thế cũng không sai.”
“Ồ, hay mình tới công viên gì đó à?”
Nhìn Gus tiu nghỉu. “Ừ, chúng ta đang tới công viên gì đó,” cậu ấy nói. “Cậu cũng đoán được rồi, phải không?”
“Ừm, đoán gì cơ?”
“Không có gì.”
Có một công viên đằng sau bảo tàng nơi rất nhiều nghệ sĩ đã tạo ra vô khối tác phẩm điêu khắc to bự. Tôi có nghe nói nhưng chưa bao giờ đến đây. Chúng tôi lái qua viện bảo tàng và đậu ngay cạnh một sân bóng rổ với những đường cung thép màu xanh và đỏ khổng lồ tượng trưng cho đường bóng đang nhảy.
Chúng tôi đi qua một cái gò theo cách gọi của dân Indianapolis xuống một bãi đất trống có những đứa trẻ đang leo trèo trên những tác phẩm điêu khắc hình bộ xương khổng lồ. Mỗi chiếc xương phải cao đến ngang hông, cái xương đùi còn dài hơn cả tôi nữa.Trông như thể đó là bức vẽ của đứa con nít về một bộ xương thù lù nhô khỏi mặt đất.
Vai tôi đau nhói. Tôi sợ rằng ung thư đã lây lan từ phổi đi rồi. Tôi tưởng tượng đến những khối u di căn vào trong những chiếc xương, như con lươn trườn qua lại với ý định ngấm ngầm đục khoét vào sâu tận tủy. “Funky Bones,” Augustus nói. “Tạo nên bởi Joep Van Lieshout.”
“Nghe giống tên Hà Lan nhỉ?”
“Đúng thế,” Gus nói. “Cả Rik Smits nữa. Hoa tulip cũng vậy.” Gus dừng lại giữa bãi đất trống với một đống xương ngay trước mặt, lần lượt tuột quai ba lô khỏi vai bên này rồi đến vai kia. Cậu ấy mở ba lô ra, bày ra một khăn trải màu cam, nửa lít nước cam vắt, một vài chiếc sandwich đã cắt viền bọc trong giấy bóng.
“Sao toàn màu cam thế?” tôi hỏi, vẫn không muốn để mình tưởng tượng tất cả những chuyện này đều liên quan đến Amsterdam.
“Màu biểu tượng của đất nước Hà Lan đấy, dĩ nhiên rồi. Cậu có nhớ William xứ Orange và rất nhiều thứ khác nữa không?”
“Ông ấy không có trong bài thi GED đâu,” tôi cười, cố kiềm chế sự phấn khích của mình.
“Sandwich không?” cậu ấy hỏi.
“Cũng được,” tôi nói.
“Phô mai Hà Lan. Và cà chua. Nhưng cà chua này nhập từ Mexico. Xin lỗi nhé.”
“Cậu luôn là một nỗi thất vọng, Augustus. Ít nhất cậu cũng phải lấy mấy quả cà chua màu cam luôn chứ.”
Cậu ấy cười, và chúng tôi ăn bánh trong im lặng, nhìn những đứa trẻ chơi đùa trên các tác phẩm điêu khắc. Tôi không tiện hỏi cậu ấy về chuyện đó lắm, nên chỉ ngồi đấy giữa những thứ đầy chất Hà Lan, vừa lúng túng vừa hi vọng.
Cách một quãng, ngập tràn trong ánh nắng trong veo hiếm hoi và quý giá ở quê hương chúng tôi, một đám trẻ con đã biến bộ xương thành một sân chơi, nhảy qua nhảy lại giữa những chiếc xương giả.
“Có hai điều tớ thích về tác phẩm này,” Augustus nói. Cậu ấy lại đang kẹp một điếu thuốc chưa cháy trên tay, búng búng nó như thể đang gạt tàn tro rồi ngậm lại trong miệng. “Thứ nhất, các khối xương ở khoảng cách vừa vặn đến nỗi nếu cậu là một đứa trẻ, cậu sẽ không thể cưỡng lại ham muốn được nhảy nhót trong đó. Như kiểu cậu cần phải nhảy một phát từ lồng ngực đến hộp sọ. Điều này đồng nghĩa với việc, thứ hai là, tác phẩm đó căn bản đã bắt buộc lũ trẻ chơi đùa với những chiếc xương. Những làn sóng biểu tượng bất tận, Hazel Grace.”
“Cậu thích các biểu tượng nhỉ,” tôi nói, hi vọng kéo câu chuyện về những biểu tượng về đất nước Hà Lan của buổi dã ngoại này.
“Đúng rồi, mà nói về nó. Cậu chắc đang không biết tại sao mình lại phải ăn một chiếc sandwich phô mai dở tệ rồi uống nước cam vắt rồi tại sao tớ lại mặc chiếc áo thể thao của một vận động viên người Hà Lan trong môn thể thao mà tớ đã chán ghét đúng không?”
“Tớ có nghĩ thoáng qua chuyện đấy,” tôi đáp.
“Hazel Grace, cũng giống như nhiều đứa trẻ khác trước cậu – tớ nói chuyện này rất chân thành nhé – cậu đã hấp tấp sử dụng Điều ước của mình mà chẳng mảy may quan tâm đến hậu quả. Thần Chết lởn vởn trước mặt cậu và nỗi sợ trước cái chết mà Điều ước vẫn nằm trong túi, đã khiến cậu vội vàng chọn Điều ước đầu tiên cậu có thể nghĩ đến, và cậu, cũng như nhiều người khác, đã chọn thú vui nhạt nhẽo và giả tạo của công viên giải trí.”
“Tớ thực sự đã có một khoảng thời gian tuyệt vời trong chuyến đi đó. Tớ đã gặp Goofy mà Minn –”
“Tớ vẫn còn đang độc thoại mà! Tớ đã viết những thứ này ra xong học thuộc và nếu cậu cứ ngắt lời như thế tớ sẽ quên sạch,” Augustus ngắt lời tôi. “Làm ơn cứ ăn bánh sandwich và nghe thôi nhé.” (Chiếc sandwich khô không khốc, nhưng tôi vẫn cắn lấy một miếng.) “Được rồi, tớ nói đến đâu rồi nhỉ?”
“Thú vui giả tạo.”
Cậu ấy nhét điếu thuốc vào trong bao. “Phải, thú vui nhạt nhẽo và giả tạo của công viên giải trí. Nhưng để tớ trịnh trọng trình bày rằng những người hùng thực sự của Nhà máy Điều ước là những chàng trai cô gái còn rất trẻ sẵn sàng chờ đợi như Vladimir và Estragon đợi Godot và như những thiếu nữ Cơ đốc giáo đức hạnh chờ lúc kết hôn. Những anh hùng trẻ tuổi này kiên nhẫn chờ đợi mà không một lời ca thán cho đến khi Điều ước của họ trở thành sự thật. Có thể những Điều ước ấy sẽ không bao giờ đến, nhưng ít nhất họ có thể an nghỉ dưới nấm mồ vì biết rằng mình đã đóng góp một phần bé nhỏ để bảo toàn sự vẹn nguyên của Điều ước như một lý tưởng.
“Nhưng ngược lại, cũng có thể nó sẽ đến: Có thể cậu sẽ nhận ra rằng Điều ước thật sự của cậu là đến thăm Peter Van Houten đại tài trong Amsterdam xa xôi của ông ta, và thực sự mừng vì cậu vẫn giữ Điều ước cho mình.”
Augustus ngừng lại một lúc lâu đủ để tôi nhận ra bài độc thoại đã kết thúc. “Nhưng tớ đã không giữ Điều ước cho mình,” tôi nói.
“Ừ,” cậu ấy đáp. Rồi sau một lúc im lặng như thể cố ý, cậu nói thêm, “nhưng tớ vẫn còn.”
“Thật sao?” Tôi vô cùng ngạc nhiên khi biết Augustus cũng đủ điều kiện để có Điều ước, cậu ấy vẫn đến trường và bệnh tình đã thuyên giảm một năm rồi. Phải dặt dẹo lắm mới được Quỹ Genie ban tặng một Điều ước.
“Tớ đã có nó sau khi đánh đổi với cái chân của mình,” cậu giải thích. Ánh nắng tràn trên khuôn mặt khiến cậu ấy phải nheo mắt nhìn tôi, mũi chun lại rất đáng yêu. “Giờ thì, tớ sẽ không tặng Điều ước của tớ cho cậu hay gì đâu. Nhưng tớ cũng rất muốn gặp Peter Van Houten, và chẳng có nghĩa lý gì nếu gặp ông ấy mà không có cô gái đã giới thiệu cuốn sách cho tớ đi cùng.”
“Chắc chắn là không nghĩa lý gì rồi,” tôi nói.
“Thế nên tớ đã nói chuyện với Quỹ Genie, và họ hoàn toàn đồng ý. Họ nói Amsterdam sẽ rất đẹp vào đầu tháng Năm. Họ đề xuất khởi hành từ ngày mùng ba và trở về hôm mùng bảy.”
“Augustus, thật à?”
Cậu ấy nghiêng người chạm tay vào má tôi và trong một khoảnh khắc tôi đã nghĩ cậu sẽ hôn tôi. Cả người tôi căng ra, tôi nghĩ cậu ấy cũng biết điều đó nên mới rụt tay lại.
“Augustus,” tôi nói. “Thực sự đấy. Cậu không cần phải làm vậy đâu.”
“Chắc chắn đó là điều tớ sẽ làm,” cậu ấy đáp. “Tớ đã tìm được Điều ước của mình.”
“Chúa ơi, cậu là tuyệt nhất,” tôi bảo cậu ấy.
“Tớ cá cậu cũng sẽ nói thế với bất kỳ thằng nào tài trợ cho chuyến đi của cậu thôi,” cậu ấy trả lời.