Tôi luôn cố gắng làm những gì tôi chưa biết và nhờ đó, tôi có thể làm được những điều tưởng như ngoài khả năng của mình.

Pablo Picasso

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Kim duong
Upload bìa: Lương Vũ
Số chương: 8
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 7
Cập nhật: 2024-09-01 17:37:19 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4: Cay Đắng
ỉnh Sông Bé, vùng đất xám nghèo mùn của miền đông nam bộ. Một buổi trưa tháng ba chói chang trên vùng đất khô cỏ cháy, đây đó lơ thơ mấy mái nhà tranh cất vội, gia đình chị cùng với hàng trăm gia đình khác đặt chân xuống con lộ trải đất đỏ, bủn ngập mắt cá và bụi tung mù trời đằng sau những chuyến xe, bên dưới những bước chân vội vã.
Người ta phân cho gia đình chị một công đất ngập sậy và cỏ mỹ khô cháy với một mái tranh. Vâng, chỉ có mỗi một cái mái tranh thôi, không có vách che bốn phía. Tất cả tài sản của gia đình chị là hai cái vali con đựng quần áo của bốn người, một bao đựng mùng mền chiếu gối. Mấy cái soong chảo ấm chén đựng trong hai cái thau giặt là những thứ chị vừa mua được trước ngày rời thành phố. Không có giường nằm. Đêm hôm đó trên nền đất lởm chởm của cái nền nhà đắp vội, vợ chồng chị vùi đầu vào vai nhau mà khóc. Mẹ chị cũng rấm rức khóc ở chiếc chiếu bên kia, vừa khóc vừa đọc kinh.
Có kêu trời được không? Có cầu Chúa được không? Liệu có phải sự quan phòng của Thiên Chúa đã xô đẩy cho gia đình chị dập dềnh trên dòng đời đang cuộn sóng rồi đưa về đây hay là tại sự vụng tính của chị, của Ngạc? Nếu gia đình chị đừng rời Pleiku, nếu Ngạc đừng ra Nha Trang. Ít nhất bố chị đã không bị vùi thây vội vã bên đường; it nhất, nếu Ngạc không ra Nha Trang thì họ vẫn còn được ngôi nhà. Cho dù nhà nước có quản lý ít nhất cũng còn một ít tài sản. Còn bây giờ!
Tất cả đều là con số không. Không, vẫn còn đấy chứ. Còn một ít tiền vốn của Ngạc, còn sợi dây chuyền và cái lắc mà mợ Bảy đã cho - còn được nhờ vào sự phòng xa quá đáng của mẹ chị - bà cụ may buộc vào một sợi dây rút luồng quần. Chiếc đồng hồ nữa chứ. Chiếc đồng hồ Ngạc đang đeo. Thế thì, vẫn còn cớ để tạ ơn Thiên Chúa.
Ngạc nói với thằng cu con vào buổi sáng thức dậy trên mảnh đất cằn cỗi nầy:
- Thôi thì hãy xin nhận nơi nầy làm quê hương đi con. “Xin nhận nơi nầy làm quê hương, dẫu cho khó thương.” Vâng, có khó thương thì vẫn là quê hương còn hơn là một người không có quê hương. Em có đọc “khóc lên đi, ôi! Quê hương yêu dấu” chưa? Hay nhỉ? Nghe cái đề cũng đã hay! “Khóc lên đi, ôi! Quê hương yêu dấu.”
Ngày hôm đó, Ngạc đi tập họp hai lần, lần thứ nhất anh khệ nệ mang về một bao đựng hai mươi ký gạo. Khẩu phần của bốn người.
- Lao động chính, 21kg, lao động phụ 18kg, con nít 10kg. Tổng cộng 67kg. Đủ ăn.
Chị đùa:
- 67 ký là chừng đó à?
- Từ từ, trên rót xuống lúc nào ta nhận lúc đó, miễn đủ thì thôi. Chưa gì đã thắc mắc.
Lần thứ hai về anh xách một bên là đôi thùng gánh nước với cặp móc, bên tay kia là cái thùng tưới đựng một lưỡi cuốc, một bàn cào, một cái rựa và một cái gàu. Những món đồ kềnh càng làm anh bước đi khệnh khạng. Chị bật cười nhìn anh:
- Mua à?
- Không, được cấp phát đấy.
- Sao không kiếm cái cây mà gánh có phải đỡ hơn không?
- Ừ nhỉ! Sao mình dốt thế.
Nghỉ ngơi ba ngày để lo liệu sắp xếp nhà cửa. Đến ngày thứ tư là trong tổ họ kêu đi lao động tập thể.
Mười một giờ anh vác cuốc về, nhọc nhằn và dơ dáy trong bộ đồ lính nguỵ mà chị đã kiếm mua được ở chợ Dân Sinh, xoè hai bàn tay đỏ tấy cho chị xem:
- Nếu không có gì thay đổi thì cuối năm nay đây là bàn tay của một bác sĩ phẫu thuật trẻ.
Chị xót xa nhìn anh ứa nước mắt.
Sau hơn một tuần quen dần với công việc lao động, anh cũng kịp làm quen với một số người trong tổ mình và ở tổ khác nữa. Buổi tối anh thủ thỉ với chị:
- Có một bác sĩ quân y, một đại uý truyền tin, một đại uý huấn luyện của trường sĩ quan Thủ Đức, một anh chàng tuỳ viên bên toà đại sứ Anh, một chị tổng đài điện thoại phủ phó tổng thống. Nghe nói ở khúc dưới có anh sinh viên năm thứ ba toán, một giáo sư anh văn, một chàng hoa tiêu trực thăng, một anh cơ khí Cao Thắng. Hình như cũng có vài chàng nhà báo.
Im lặng một hồi anh thở dài:
- Những khối óc và những bàn tay đó là cả một tài sản quý giá. Người ta đã bỏ ra biết bao nhiêu tiền bạc, biết bao nhiêu năm tháng mà bây giờ mình lại không biết cách sử dụng, lại đang tâm vất bỏ. Biết đến bao giờ mới có thể đào tạo được lớp người khác thay thế họ. Từ đây cho đến khi có thể có lớp người kế tục sẽ là một lỗ hổng kiến thức lớn không lường được.
Sau hơn một tháng cuốc đất để chuẩn bị cho mùa mưa sắp tới, anh buồn buồn nói:
- Nếu bảo rằng cần phải có một thời gian để tẩy não, cần có một thời gian để cải tạo cái đám tư sản, tiểu tư sản, cái đám dân thành thị và cả cái đám bụi đời của miền nam nầy thì được; còn nếu nói đây là nơi xây dựng kinh tế nước nhà thì người ta đã đi sai nước cờ rồi.
Anh tâm sự:
- Em biết không, ước mơ trong đời anh là sau khi ra trường, anh sẽ đi về một vùng quê nào đó xây dựng một trang trại, anh sẽ trồng trọt, chăn nuôi, sống bằng những hoa lợi của trang trại; còn cái nghề thuốc thì chỉ là để giúp đỡ mọi người mà thôi. Nghề nông là nghề truyền thống của dân mình. Trong huyết quản của bất cứ người Việt nào cũng rạo rực nỗi đam mê ruộng đất. Nếu người ta quy định những vùng chuyên canh rồi để cho người dân ai là người muốn canh tác, muốn trồng trọt thì cứ về những vùng ấy. Đất thì được cấp phát theo khả năng lao động và theo vốn sản xuất còn nhà nước thì cứ việc đánh thuế. Anh bảo đảm với em như vậy sẽ có rất nhiều người từ thành phố tự động đi về nông thôn để canh tác, sản xuất. Khỏi phải vận động, khỏi cần cưỡng bức làm mếch lòng dân và hơn nữa tiền thuế mà nhà nước thâu vào sẽ cao gấp mấy lần cái kiểu làm ăn tập thể nầy.
Có hôm anh bảo:
- Đám dân “chuyên nghiệp đi kinh tế mới” chúng nó cuốc nhác cuốc nầy che đắp miếng đất kia lại. Nghĩa là nó chỉ làm một mà hưởng năng suất bằng hai. Đây rồi vài hôm sau lớp cỏ bên dưới ngóc đầu dậy thì đâu vẫn còn nguyên đó.
- Làm sao mình không góp ý?
- Góp ý góp kiến gì được. Lập luận của người ta là có làm tốt cũng từng đó gạo, có làm xấu cũng từng đó gạo thì dại gì mà đổ thêm mồ hôi. Tâm lý con người ở thời đại nào cũng vậy, người ta chỉ làm hết sức mình khi người ta có thể hưởng hết cái thành quả đó. Hơn nữa, đám nầy thì chỉ ở đây cho đến chừng nào hết cấp phát là họ sẽ vù đi nơi khác; họ cần gì phải làm cho tốt. Chỉ có những kẻ thật lòng xây dựng là bị thiệt thòi thôi.
Anh lắc đầu hoài:
- Sai lầm, thật là một sự sai lầm lớn.
Khoảng tháng 9 năm 1977, có tin gia đình Ngạc định cư ở Cali. Ông bà đã gởi thư đi khắp các nơi quen biết để hỏi thăm về thằng con út cứng đầu thế mà tuyệt nhiên ông bà không viết thêm cho anh vài chữ. Ngạc không dám phiền trách cha mẹ nhưng anh bảo Hồng:
- Nếu em có viết thư cho ba mẹ anh thì nói với ông bà là chỗ anh ở khó khăn lắm, không tiện trao đổi thư từ, nhất là thư từ ở ngoại quốc; cũng đừng gởi nhờ nhà ai, đường sá xa xôi, đi lại không tiện, phiền hà người ta tội nghiệp.
Chị nhìn anh:
- Anh giận ông bà cụ à?
- Không, anh không dám giận, anh chỉ muốn tự lượng sức mình trong cuộc sống mà thôi.
Cũng trong những ngày này là khai giảng năm học mới. Biết chị vốn là giáo viên, bên giáo dục đã vận động chị tham gia phong trào bổ túc văn hoá, xoá nạn mù chữ. Anh bàn:
- Em cứ nhận lời đi, dầu sao đó cũng là một bước để em đem khả năng của mình hoà vào cuộc sống mới.
Cuộc sống mới càng lúc càng khó khăn, việc cấp phát lương thực đầy đủ được đâu chừng vài tháng đầu rồi người ta rút dần, rút dần xuống. Khi mới bắt đầu rút thì người ta cấp một nửa gạo, một nửa lúa mì, rồi từ từ chả còn gạo, chỉ toàn là lúa mì.
Anh đập bàn:
- Dở thật, ba cái ông nầy. Lúa mì mà để như vầy thì làm sao mà ăn. Ăn làm sao mà tiêu nổi! Ba thằng Tây nó mà thấy được dân mình đem lúa mì trút rồi nấu nó cười vỡ bụng mất. Xay ra. Trời ơi! Không hiểu cái ông lương thực ổng tính kiểu gì không biết. Phải xay ra thành bột.
Ừ, muốn bột thì có bột. Chỉ toàn là bột, không còn một hột gạo. Chị trổ hết tài nấu nướng của mình để chế biến tất cả những gì có thể chế biến được. Thế mà thằng bé con chị đã mấy lần thỏ thẻ:
- Mẹ ơi! Bé muốn ăn cơm.
Chị xót xa nhìn con rồi cố dỗ dành cho thằng bé nhai cái bánh mì nướng bằng nồi gang. Mẹ chị rơm rớm nước mắt, cụ không dám than thở hay phát biểu theo kiểu thằng bé con, nhưng chị biết cụ cũng thèm một chén cơm gạo tẻ. Đừng nói gì, cả Ngạc, cả chị cũng vậy, có điều là cố nhịn mà thôi. Một bữa, nhìn thằng bé con vừa khóc vừa ăn miếng bánh bao nhân đậu đũa. Ngạc nói với chị:
- Anh không muốn trở thành một thằng chạy thuốc lậu, bị rình rập, bị theo dõi, bị lục xét. Cái vốn kiến thức y học ít ỏi của anh nếu không dùng được thì ít nhất anh cũng không muốn làm cho nó bị hoen rỉ. Anh cứ mong rằng một ngày nào đó, khi người ta tỉnh táo lại sau men say của chiến thắng thì anh sẽ khởi đầu lại. Thế nhưng, trong tình cảnh nầy, không còn cách nào khác. Từ ngày lên đây, bọn mình không thể làm gì để kiếm ra được một đồng; chỉ là được vài chục ký lương thực. Anh trăn trở hoài, không còn cách nào khác hơn là anh phải chạy thuốc trở lại.
Chị đưa cái lắc cho anh vì mấy đồng vốn cũ đã ăn hết từ bao lâu nay rồi; và Ngạc lại đi ra, đi vào, đi lên đi xuống với những túi xách thuốc tây và với lòng lo sợ.
Cũng trong những ngày nầy thì có tin anh Vinh. Một người quen của Ngạc có người thân đi cải tạo nhận được tin người nhà nói là có ở chung với anh Vinh, anh vợ Ngạc.
Mẹ chị mừng đến độ muốn bay ngay đi thăm con nhưng Ngạc bàn để anh viết thứ hỏi thăm rõ ràng; nếu thật anh Vinh còn ở trại ấy thì Ngạc sẽ đưa bà cụ đi thăm. Những ngày đợi chờ là những ngày khốn khổ.
Rồi cũng qua. Thư anh Vinh gởi về làm bà mẹ mừng đến luýnh quýnh, quên đầu, quên đuôi. Ngạc nhìn bà mẹ vợ rồi bật nói:
- Không biết liệu nhận được thư con ba mẹ con có mừng như mẹ hay không. Mẹ làm con cảm động quá.
Ngạc đưa bà cụ đi thăm nuôi anh Vinh. Đồng vốn ít ỏi lại bị bào mòn. Bà cụ đi về kể huyên thuyên đủ thứ việc rồi cuối cùng bà cụ nói:
- Thấy nó tao thương quá, thế mà nó bảo: mẹ đừng lo cho con, đừng thăm nuôi gì nữa, thỉnh thoảng viết thư cho biết tin nhà là đủ rồi; bởi vì nói nói: “cuộc sống của mẹ và vợ chồng Ngạc cũng chả hơn được hoàn cảnh của con là mấy đâu mà phải lo cho con.” Bây coi, nói nói như vậy có được không?
Ngạc vỗ về bà mẹ vợ:
- Không có gì quá đâu mẹ. Sau chiến tranh mà. Các nước tây âu, sau đệ nhị thế chiến còn thê thảm hơn mình nhiều. Coi mấy cái phim thế chiến thứ nhất, thế chiến thứ hai mới thấy dân Tây nhiều lúc cũng thê thảm đến khủng khiếp. Ở đây mình chỉ có đói chớ không bị rét. Rét mới là khủng khiếp hơn nhiều.
Thì biết là vẫn biết vậy, nhưng biết là một chuyện mà phải trải qua lại là một chuyện khác. Chị biết rằng những điều Ngạc nói chỉ là để an ủi mẹ chị, còn trong lòng anh, anh phải dằn vặt với biết bao ý tưởng.
Cuộc chiến tây nam diễn ra, diễn ra hồi nào thì chị không biết, chỉ biết rằng khi người ta đồn đãi về chiến tranh thì trong xã đã có người chết trong cuộc chiến.
Người ta đồn rằng ở cái xã ven biên giới, bọn Bôn Pốt tràn qua ban đêm phóng lửa đốt nhà, bắt đàn ông đứng xếp hàng rồi lấy mã tấu chặt đầu hàng loạt; đàn bà thì bị hãm rồi mới giết, còn con nít thì nó ném tung lên trời rồi mới nổ súng cho chết giữa không trung. Việt kiều Campuchia, dân Campuchia chạy nạn tràn về biên giới quá chừng. Đây rồi, chỗ mình cũng gần biên giới, nó tràn qua giết sạch.
Những người nhát gan đã cuốn gói về thành phố cùng với những người không kham nổi cuộc sống vất vả của vùng đất mới. Nhưng, phần nhiều người thì đi nước đôi, nghĩa là một vài người trong gia đình về lại thành phố kiếm sống và nuôi những người còn lại trên nầy.
Người chết trong cuộc chiến Campuchia của xã là người đi lao động quốc phòng đợt I. Anh ta bị pháo.
Danh sách đi đợt II có tên Ngạc và có tên những người hay đi lên đi xuống thành phố, không tích cực lao động sản xuất tập thể. Bà mẹ điếng hồn điếng vía và bảo:
- Thôi, con cứ ở dưới một thời gian, đừng lên đây làm gì. Để xem tình hình có dịu bớt đi không chớ nhỡ có chuyện gì thì biết làm sao?
Thế là Ngạc ở luôn dưới thành phố, chỉ mươi bữa, nửa tháng gởi ít lương thực lên tiếp tế. Chị tự an ủi mình: đó chỉ là biện pháp tạm thời mà thôi.
Hồng lên vào một ngày mưa tầm tã đem theo thư Ngạc và một cái tin buồn: Ngạc bị bắt hết hàng. Chỉ bắt hàng thôi, không bắt người. May quá!
Hồng mắng chị:
- May cái con khỉ. Mẹ Thủy xỉa thêm mấy xấp để bọn nó lờ cho hai người chạy đấy. Bây giờ ông Ngạc với mầy lấy đâu ra mà trả cho mẻ?
Chị đưa sợi dây chuyền còn lại cho Hồng bảo đem xuống cho Ngạc làm vốn. Hai hôm sau Hồng đem lên trả lại sợi dây chuyền.
- Ông Ngạc bảo không cần. Bà Thủy cho mượn dài hạn, chừng nào dư dả hẳn trả cũng được. Còn bây giờ thì coi như ông Ngạc làm công cho bả ăn chia.
- Nghĩa là sao?
- Nghĩa là ông Ngạc khỏi bỏ vốn, chỉ chạy hàng cho bả, lời chia bốn sáu.
- Sao hời thế?
- Hời cái con khỉ! Con mẹ nầy cáo lắm. Ông Ngạc mà không khôn là vô tròng với mẽ đấy.
Không, Ngạc không đến nỗi là người vụng tính lắm đâu. Còn bà Thủy mà Hồng nói là bạn cùng học với Ngạc hồi trước; học đến năm thứ ba thì bà ấy vớ được một tay bác sĩ quân y. Thế là khỏi cần học cũng thành bà bác sĩ. Giải phóng vào, anh chồng đi cải tạo. Ở nhà bà ta chạy thuốc tây. Ngay từ đầu Ngạc đi buôn cũng là do bà ấy dẫn dắt; cho nên, dầu sao cũng mang ơn bà ấy.
Cỡ tháng chín, tháng mười năm ấy bà vú lên thăm. Vú bảo:
- Một là con về dưới với nó, còn hai là bảo nó về lại đây. Vợ chồng cách biệt như vậy là không hay đâu con.
Chị nói với Vú:
- Không sao đâu vú, con tin nơi anh ấy. Cái thứ nhất con không về thành phố được là do con không có hộ khẩu gốc thành phố; về làm sao mà về. Cái thứ hai Ngạc mà về đây là họ ốp liền bởi vì cái kỳ lao động quốc phòng ấy, cũng có người như Ngạc trốn không đi chừng vừa thò đầu lên là họ bắt đến bây giờ còn chưa thả ấy.
- Vú nghĩ là con nên về dưới thì hơn. Biết bao nhiêu người không có hộ khẩu thành phố mà họ vẫn về. Về nằm đầy vỉa hè ra đó. Trên nầy cực khổ quá, lại cái cảnh chồng nơi vợ nơi. Về dưới với Vú đi con.
Ôi! Vú thương thì Vú cứ bảo vậy chớ về làm sao được mà về!
Ngạc vẫn gởi tiếp tế đều đều lên cho mẹ con bà cháu chị và theo thư anh Vinh thì Ngạc cũng có đi thăm nuôi anh một lần nữa. Ngạc tốt thế còn gì.
Noel năm 79, Ngạc gởi lên cho thằng bé con một bộ quần áo, một chiếc xe đồ chơi, hai gói bánh; gởi cho mẹ chị một xấp vải đen và cho chị hai xấp vải bông.
Rồi hơn hai tháng trời không nhận được tin tức gì của Ngạc.
Hai mươi tám tết, Hồng ào vào nhà như một con lốc và hét tướng vào mặt chị:
- Tao đã bảo mà mầy không nghe. Cái con mẹ Thủy nầy ghê lắm. Mầy không tin tao bây giờ cho mầy sáng mắt ra. Mẽ dẫn ông Ngạc đi mất rồi.
Chị chới với:
- Đi đâu?
- Còn đi đâu nữa! Vượt biên! Mầy biết chưa? Con mẽ dẫn ông Ngạc đi vượt biên mất rồi.
Móc trong giỏ ra cái thư, Hồng vất vào mặt chị:
- Mầy đọc đi, ổng gởi cho mầy đó.
- Gởi ai? Gởi hồi nào?
- Mầy cứ đọc đi rồi biết.
Chị lắc đầu bảo Hồng:
- Tao không đọc được bây giờ đâu. Mầy có đọc qua thì nói cho tao nghe đi, đầu đuôi là sao.
- Là sao nữa! Là cái con mẹ Thủy mẽ đã dẫn ông Ngạc của mầy đi mất rồi, mầy nghe thủng chưa? Nói cái giọng ơn nghĩa ngửi không vô. Ông Ngạc bảo là bà Thủy thấy ổng tội nghiệp quá. Chôn vùi cả tuổi trẻ, chôn vùi cả tương lai ở một cái xó chó ăn đá, gà ăn muối của một đất nước lạc hậu, nghèo hèn lại bị cai trị bởi những người mang đầy định kiến và thiển cận. Trong khi cha mẹ anh em ở chốn thiên đường hạ giới thì tội gì ông Ngạc phải tự giam thân ở đây. Không có tiền đi thì bả giúp. Còn ông Ngạc thì bảo là bà Thủy phần nào có lý. Ông ấy có thể đủ kiên nhẫn để chờ đến một ngày nào đó người ta tỉnh táo lại sau men say của chiến thắng. Ông ấy đủ can đảm để làm lại từ đầu những ước vọng của ông ấy để góp phần xây dựng quê hương. Thế nhưng tuổi trẻ không chờ ông ấy, năm tháng không chờ ông ấy. Ông ấy đã mất năm năm rồi. Năm năm trong cái thời con người bay vào vũ trụ là cả một thời gian dài đến chừng nào. Không thể để mất thêm nữa. Ông ấy ra đi để có thể làm lại. Rồi một ngày nào đó, qua cơn mê, người ta tỉnh táo lại thì ông ấy sẽ về, đem học vấn, đem tài năng và có lẽ lúc ấy đem cả tiền bạc về xây dựng quê hương.
Rồi Hồng hạ giọng:
- Tao nói thật với mầy, cái giọng đó chỉ có mầy ngửi vô thôi chớ tao thì không ngửi vô nổi, dầu ông ấy là anh tao. Cái con mẹ Thủy nầy nó Tây còn hơn Tây. Nó bỏ hai đứa con nó lại mà nó dắt ông Ngạc đi thì tao hỏi mầy nó toan tính cái gì đây?
Chị không còn biết Hồng nói gì nữa ngoài việc biết rằng từ đây vĩnh viễn chị không còn Ngạc nữa. Chị không dám trách Ngạc vì thật ra trên một phương diện nào đó Ngạc nói đúng. Năm tháng và sức lực của tuổi trẻ không đợi anh. Đã năm năm trôi qua vô ích cho Ngạc, rồi sẽ năm năm hoặc mười năm nữa người ta mới nhận thấy sự hụt hẫng của tri thức trong xã hội. Đến khi đó, liệu rồi những kẻ đã để thời gian trôi qua có làm lại được không?
Chị không dám trách Ngạc, chị chỉ buồn là tại sao Ngạc không nói với chị một tiếng; dầu sao đó cũng là cái bước chuẩn bị tinh thần. Có đâu như bây giờ, chị bàng hoàng đến không còn biết phải phản ứng thế nào nữa.
Khóc ư? Nước mắt chị đã khô cạn theo những ngày tháng nhọc nhằn và khốn khổ rồi. Chị đã khóc cha trên con đường di tản. Chị đã khóc cho cửa nhà tiêu tan, chị đã khóc trong cái đêm kinh hoàng mà mọi người bị cướp và hai cô con gái bác Hi bị hiếp. Chị khóc khi về đến Sài Gòn để rồi biết vợ chồng chị trở thành người tứ cố vô thân. Chị đã khóc khi bị trục xuất khỏi Ma Lâm và đã khóc trong những đêm nằm bụi ở bến xe Phan Thiết. Chị khóc cho chị, khóc cho Ngạc và khóc cho tương lai con trai mình khi đặt chân lên vùng đất cằn cỗi và khô cháy này. Thế thì bây giờ nỗi đau nầy làm sao bằng được với những nỗi đau kia chồng chất lại.
Ngạc ra đi, trên một phương diện nào đó cũng là tốt cho Ngạc. Chỉ ngại rằng rồi đây cuộc sống xa hoa của cải vật chất, cuộc sống vội, sống cuồng của những người sợ hãi thời gian trôi mau, cuộc sống vô tình và hiện thực của phương Tây sẽ xô đẩy hoặc cuốn hút, làm bầm dập, làm tiêu tan tâm hồn và ước vọng của anh mà thôi.
Ừ, sao Ngạc không nói với chị một tiếng để rồi nhận một lời nhắn nhủ của người ở lại quê nhà? Dầu sao thì chị cũng là vợ Ngạc. Chị chợt nghĩ đến Thủy. Ừ nhỉ! Tại sao bà ấy đi với Ngạc mà không đem theo hai đứa con mình?
Nỗi uất nghẹn từ đâu bỗng trào dâng chận ngang nơi cổ. Mắt hoa lên, tất cả quay cuồng, quay cuồng, quay cuồng… rồi chị không còn biết gì nữa.
Chị tỉnh dậy thì thấy bà Vú đang xoa bóp cho chị. Mẹ chị bế thằng bé con và cả hai bà cháu đang cùng thút thít khóc. Hồng cầm ly nước nơi tay, có lẽ nó đã đổ dộng đổ tháo vào miệng chị từ nãy giờ. Nghe tức nghẹn ở ngực, chị thì thào hỏi Vú:
- Vú lên hồi nào vậy?
- Thì vừa mới lên đây. Chưa kịp bước vô nhà là thấy mầy ngã lăn đùng ra đấy. Thôi con, đừng buồn con. Thì Vú đã bảo mầy rồi mà mầy không nghe vú. Vú bảo là thu xếp mà về dưới đó với nó. Đàn ông nó dễ lạc lòng lắm con ơi!
Rồi Vú kể với mẹ chị:
- Tôi cũng có biết gì đâu cho tới hôm qua nhận được cái điện tín. Cái điện ghi là “Ngạc đã đến nhà dì Phi, dì Phi bình an.” Tôi biết là nó chẳng có cái dì phi dì phiết nào cả. Hôm nó đi nó nói với tôi như vầy: “con đi chuyến nầy chắc hơi lâu, nếu mà lâu quá không có tin con thì Vú qua bên Hồng bảo Hồng qua nhà Thủy hỏi thăm tin tức. Con có gởi thư cho vợ con rồi. Có gì ở nhà nhờ Vú giúp đỡ vợ con.” Tôi cứ tưởng nó chạy thuốc như mọi bận, có điều chắc kỳ nầy nó ra đâu ngoài bắc. Ai có ngờ đâu. Cầm cái điện mà tôi cứ thắc mắc mãi, tới hồi đưa cho cô giáo bên nhà coi cổ mới nói, “đúng rồi đấy, nó qua tới Phi Luật Tân rồi.” Tại cái hồi thằng em chồng của cô cũng vượt biên rồi được tàu Úc vớt đi, nó đánh điện về bảo gặp được dượng út, dượng út dẫn về nhà. Trời đất! Ai mà biết được!
Hồng thì nói:
- Chiều ngày hôm qua thằng em con mẹ Thủy đem thư qua mới nói là ông Ngạc với bà Thủy đã đến Phi. Thư nầy ông Ngạc đưa từ hôm mới đi mà dặn là chừng nào có điện về mới được đem qua.
Chị lắc đầu buồn bã.
Vú bảo mẹ con chị:
- Thôi thì mẹ con nên thu xếp mà về dưới với Vú. Ở trên nầy làm gì. Về dưới với Vú buôn bán lây lất cũng sống qua ngày chứ ở trên nầy rồi lấy gì mà sống.
Không, chị không về thành phố đâu. Định mệnh - phải chăng có một định mệnh - đã đưa chị về đây thì chị sẽ ở đây và bây giờ dù có muốn về Sài gòn thì cũng không làm sao mà về được. Vú là bà vú nuôi của gia đình Ngạc, gia đình Ngạc còn chưa ơn nghĩa đủ với Vú thì bây giờ chị, chị lấy tư cách gì mà phiền đến Vú. Ở đây, dầu gì thì cũng đã quen. Từ khi phong trào Bổ Túc Văn Hoá ngưng lại, điểm dạy ở nhà chị trở thành một lớp học tư. Người ta đem con đến gởi chị dạy vì việc học tại nhà trường bữa có bữa không. Các thầy cô giáo từ thành phố, từ dưới tỉnh lên thì có người xế trưa thứ sáu, sáng sớm thứ bảy đã vội theo xe về nhà và mãi đến xế trưa thứ hai, xế trưa thứ ba mới lại lên tới. Như vậy là ít nhất một tuần mất hai buổi học. Lại nữa, lối dạy mới x,x y,y người ta không quen nên không thể kèm cặp cho con. Thế là họ tìm đến chị. Cũng nhờ vậy chị có thêm vài đồng mỗi tháng, không tới đâu nếu không nhờ Ngạc tiếp tế, nhưng trên phương diện xã hội thì chị đã có một vị trí. Bây giờ về thành phố liệu phải tốn bao nhiêu thời gian nữa mới hòa nhập vào cuộc sống?
Chị lắc đầu từ chối lòng tốt của bà vú và lời khuyên chân tình của Hồng. Cả Vú và Hồng đều chỉ biết bảo chị:
- Hãy cố giữ sức khoẻ để mà nuôi con. Đừng quá buồn rồi quỵ xuống thì mẹ già con dại không ai lo.
Thế nhưng người đã quỵ xuống vì quá buồn không phải chị mà là mẹ chị. Những biến cố dồn dập trút xuống, rồi những tháng ngày kham khổ thiếu thốn kéo dài. Bây giờ lại thêm một sự mất mát đột ngột nữa. Sức người có hạn. Bà cụ mất vào đầu mùa mưa năm 80.
Chúa ơi! Còn tai hoạ nào phải xảy đến cho chị thì cứ xảy đến một lần luôn đi chứ cứ như vầy hoài làm sao chịu nổi! Việc nầy chưa kịp qua lại ập đến việc khác. Biết đến bao giờ mới hết khổ trời ơi!
Chôn mẹ trong cái nghĩa trang mới ven rừng, chị chạnh nhớ đến nấm mộ đã vùi vội xác cha. Cha ôi! Mẹ ôi! Con bất hiếu vì hoàn cảnh phải chôn hai người hai ngã. Xin phù hộ cho con để rồi một ngày nào đó con đủ sức, đủ tiền đem cha mẹ nằm cạnh nhau.
Chị nằm vùi luôn cả mấy ngày sau đó. Nếu mà có thể chết được thì chị đã chết rồi. Thế nhưng nhìn thằng bé con đi ra, đi vô, thỉnh thoảng gọi “Mẹ! Mẹ!” thì làm như từ những tiếng gọi đó, sức lực lần hồi trở về với chị.
Không, chị không thể chết được! Chị là một người đã trưởng thành, đã được giáo dục để đủ khôn ngoan ứng xử với cuộc sống, thế mà, khi những cơn sóng dữ của cuộc sống quật vào chị còn không chịu đựng nổi thì thằng bé con ngây thơ của chị sẽ lấy gì mà chịu đựng với đời nếu bây giờ chị bỏ nó một mình.
Thế là chị đứng dậy. Từ những nỗi đau của mất mát, chị đứng dậy vì con trai mình.
Khóc Cười Theo Mệnh Nước Khóc Cười Theo Mệnh Nước - Nguyễn Thị Kim Liên Khóc Cười Theo Mệnh Nước