Reading means borrowing.

Georg Christoph Lichtenberg, Aphorisms

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Miền Hoang Tưởng
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Azazel123
Số chương: 18
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 29
Cập nhật: 2023-09-04 21:35:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2
gà ơi!
Anh đã viết xong bài hát đầu tiên tặng em. Đó là niềm hy vọng của anh. Đó là mối tình trong trắng của chúng ta. Em có nghe thấy tiếng con nai tìm bạn đang tình tự với mùa xuân ở trong nét nhạc đó không? Con nai hiền và yếu ớt chỉ biết gặm cỏ, chỉ biết âu yếm gọi nhau bên suối. Nó là chủ nhân xứng đáng nhất của núi rừng, vì trong rừng, nó là con vật hiền hòa nhất. Nhưng trong đời thực, điều đó chỉ là ước mong không tưởng. Anh căm thù loài hổ dữ, khinh ghét lũ chó xảo quyệt, lợm giọng khi trông thấy lũ dòi nhung nhúc đông đảo bám vào những mẩu thịt rữa nát cuối cùng; nhưng chính chúng mới là những ông chủ thật sự của núi rừng.
Em có thấy trong tiếng nhạc của anh hình bóng những cánh hoa ban mảnh dẻ mà chỉ một cơn mưa trận nắng cũng đủ phai tàn?
Em có cảm nhận được mùi hương rừng lan tỏa trong bài hát? Mùi dạ phong lan gọi loài bướm đến tình tự khi trời còn chưa tối? Mùi ngọt ngào của cỏ mật mùa xuân gọi bầy hươu tìm về thung lũng? Mùi thơm ngát của rừng và đỏ gọi ngàn vạn con chim bay về quần tụ mở hội nắng hè?
Đó là bài hát “Tiếng rừng”.
Những bài hát ấy đâu còn dáng vẻ như anh vừa kể. Khi anh mang đến đài phát thanh, những người biên tập bảo anh phải sửa đổi để biến thành bài hát “Đêm trăng Tây Bắc” – Anh tần ngần, nhưng rồi cũng sửa, cũng thay đổi…, vì chỉ làm như thế bài hát mới được dùng và được chuyển tới tai em. Thôi được, hôm nào lên thăm, anh sẽ hát riêng cho Ngà nghe những lời ban đầu, và giai điệu ban đầu mà anh muốn gửi tới cho em.
Lá thư vừa rồi em báo tin mẹ ốm. Anh gửi biếu mẹ ít thuốc, em đã nhận được chưa? Đàn gà chúng mình nuôi khi xưa, em nên thịt dần để bồi dưỡng cho mẹ.
Một người bạn gửi thư cho anh nói rằng đội trưởng Mai giúp đỡ em rất nhiều. Đó là một người bạn đã cùng chiến đấu với anh ở Trường Sơn.
Dạo này Tây Bắc hay có những cơn mưa bất thình lình. Mưa nắng thất thường, em phải giữ gìn sức khỏe. Nếu em ốm, anh biết làm cách nào chăm sóc em được?
Con vượn đen ở dẫy núi đá hình chóp nón trước nhà hàng ngày vẫn kêu buồn hả em? Giống vượn, tình thương thật bền. Anh vẫn nhớ như in cái buổi sáng đội trưởng Mai đã bắn chết chú vượn con. Con vượn nhỏ rơi từ cây hoa ban sau nhà xuống đất. Nó sóng soài, chân tay thẳng dẳng, miệng ứa máu. Trông như đứa trẻ con nằm chết. Trông xác con vật mà rùng mình. Còn đội trưởng Mai thì vẫn bình thản lạnh lùng. Anh ta vặt lông rồi đem hầm con vượn nhỏ. Hầm cả con để nấu cao vượn toàn tính. Con vượn trắng hếu nằm co trong thùng nước… Anh rùng mình, còn em thì chạy biến. Người Thái nói rằng cao vượn rất bổ, nhưng anh chẳng dám ăn.
Anh đã cùng ở với Mai mấy năm nên hiểu anh ấy. Mai đi bộ đội từ hồi đánh Pháp, lúc ở Trường Sơn là đại đội trưởng của anh. Một con người hiền như bụt, nhưng cứng rắn như thép. Hôm Mai bắn con vượn nhỏ, anh rất giận, anh nói:
- Một người đi săn thông minh… thì đừng bao giờ giết những con thú non.
- Này, ông bạn! Đừng lẩm cẩm! Hoài công mà thương súc vật.
- Giết một con vật còn bé bỏng như thế… Anh không thấy run tay sao?
Mai cười hiền lành:
- Mình chưa bao giờ run tay khi bắn.
- Em có nhớ không? Cái đêm bão rừng, đội trưởng Mai lồng lộn thâu đêm tìm đàn bò lạc. Sao hôm ấy anh mến Mai đến thế. Hồi ở bộ đội cũng vậy, có bạn anh và Mai đã mò mẫm cõng xác đồng đội bị thương trong vòng vây Mỹ. Mai đã cõng bạn trên lưng trốn lủi suốt một đêm ròng. Con người Mai thật lạ: khỏe như voi, vụng như gấu và ác như sói lang, có những lúc hung hăng như con hổ dữ, có lúc lại hiền khô như đứa trẻ thơ. Tình cảm của anh thật lẫn lộn. Anh vừa yêu, vừa ghét, lại vừa thương Mai. Nói chung anh chưa hiểu hết con người ấy. Người nông dân cường tráng ấy nghe đâu đang được đề nghị bổ sung vào Ban giám đôc nông trường.
Sao mà anh thương em đến thế!
Ngà ơi! Con nai nhỏ bé của anh ơi! Em đang ở rừng, rừng lại đầy bí hiểm; còn vũ khí của loài nai có đôi chân dài để chạy.
Ngà ơi, ước gì anh được bay đến bên em!
Anh Tư
Em thương mến,
Anh lại viết cho Ngà bức thư không gửi nữa đây. Anh vừa mua được chiếc đàn piano cũ rích. Còn chiếc nhẫn kỷ niệm mẹ vẫn gửi chị Trần, và cả chiếc xe đạp tàng cũng đem bán mà vẫn chưa đủ tiền, chị Trần lại phải giấu giếm chồng giúi cho mấy trăm. Đêm về, anh đánh đàn, buổi sáng đi học nhạc, buổi chiều đi vác gạo ở kho trung chuyển kiếm cơm. Dạo này anh trở nên ít nói, con chim lạc thì líu lo làm gì. Hôm anh đưa bản nhạc rừng đến Đài phát thanh, anh đặt tên nó là “Niềm hy vọng”, anh biên tập viên cười mỉm, đó là một con người tốt bụng rất quý anh. Trong cái quý mến anh có pha chút thương xót đối với một con người số phận hẩm hiu. Anh ta không biểu lộ ra tình cảm ấy, nhưng anh hiểu và cảm thấy ngay; người bần hàn, kẻ lép vế bao giờ cũng có một tài cảm nhận rất sắc bén, chỉ một biến sắc, một ánh mắt, một cử chỉ của bàn tay là đủ để con người lỡ cơ đó nhận ra ngay. Anh biên tập viên nói nhẹ:
- Sao Tư lại đặt tên là “Niềm hy vọng”.
- Con người bao giờ chả hy vọng.
- Bây giờ không cần phải hy vọng nữa, vì mọi thứ đã là hiện thực. Hết đau khổ rồi, còn gì mà phải băn khoăn. Âm nhạc bây giờ là vỗ cánh… Tư hãy nói về những cánh đại bàng, về những bầu trời cao, về ánh trăng… về những mơ màng hạnh phúc.
- Thế là… phải đổi lại tất cả?
- Chứ sao?… nếu như anh muốn bài hát được dùng.
Anh lặng lẽ… hồi lâu mới nói:
- Hay gọi là “Đêm trăng Tây Bắc”.
- Chứ sao!
- Sẽ có tiếng nai hạnh phúc… sẽ có con suối hát… sẽ có thảo nguyên và những đàn bò tắm ánh trăng và những con người phơi phới dời núi lấp sông…
- Chứ sao!… Nếu như anh còn muốn đi xa hơn nữa.
Anh trở về, lòng ngậm ngùi…
Cái con số không khổng lồ ở chân trời xa lại ló ra. Chúa Giê-su với ánh hào quang rực rỡ trên đầu lại hiện về trong giấc chiêm bao. Tôi cáu kỉnh:
- Sao Đức chúa trời lại chỉ cho loài nai đôi chân cao? Sao Người chỉ ban phát cho loài nai sự chạy trốn tài tình?
- Ta đã chẳng ban cho con nai, con hươu bộ sừng đẹp nhất trần gian?
- Sừng ấy mà làm gì? Cần một cặp sừng khỏe như sừng trâu, cần một bộ răng nhọn đủ sức cắn thủng một tấm da voi dày nhất.
- Ha ha! Chúa cười – ngươi hãy nghĩ kỹ, nai như thế là đồ quỷ – nai chứ đâu còn là con nai thực sự – và sau đó, nai lại lập tức đi bắt nạt giống khác. Và con hổ lại theo gương, đòi ta một bộ nanh to hơn, khỏe hơn,
- Vụ kiện ấy ta sẽ giải quyết ra sao? Thôi thì… con nhớn ăn thịt con bé, xưa nay vẫn thế.
Tôi nhìn Giê-su, nghiêm khắc:
- Phải chăng, đã có một lần Ngài nói rằng nếu ai tát má trái, thì ta phải chìa má phải?…
- Có lẽ khoảng hai ngàn năm trước ta đã nói như vậy. Nhưng giờ đây có người nối tiếp ta lại nói rằng: “loài người gần hai ngàn năm nay đã xài phí tình thương mà vô hiệu. Vậy phải tiêu diệt sự đau khổ bằng sức mạnh!”
Tôi giật mình, chằm chằm nhìn Chúa. Lạ chưa! Giê-su trông khác hẳn con người gầy gò khổ nạn trên cây thánh giá. Thấy phảng phất trên mặt Người nét dáng con người thé kỷ hai mươi. Còn vầng hào quang… cũng rực rỡ hơn. Oai nghiêm hơn. Tôi hoảng sợ lắp bắp. Người như đoán được ý tôi nên dịu dàng.
- Ta là Đức Chúa trời của thế kỷ hai mươi. Đúng như vậy. Tôi nức nở khóc… và chợt choàng tỉnh giấc.
Ông anh rể, từ hôm tôi đến ở, vẫn in lặng Cái im lặng lịch sự, song nặng nề. Anh Trần, từ xưa đến nay vẫn là người anh quý trọng. Anh Trần tham gia cách mạng từ năm 1945 đã bị thương nhiều lần. Có thể nói, từ lúc bé tôi vẫn quấn quýt bên anh, coi anh như một ông thánh, một thần tượng để noi theo. Những chuyện dũng cảm phi thường hồi đánh Pháp của anh, tôi coi là những huyền thoại. Tôi xung phong đi bộ đội cũng do ảnh hưởng của anh Trần. Tôi rời Hà Nội, lên Tây Bắc cũng vì chính anh thuyết phục. Dần dần, khái quát lại, tôi thấy toàn bộ lý thuyết ứng xử của anh Trần chỉ gồm trong hai chữ “Hy sinh” và “căm thù”. Phát hiện ra điều ấy, tôi suy nghĩ rất nhiều. Và bỗng nhiên cảm thấy một khoảng cách, một khác biệt giữa anh và tôi. Có lẽ anh Trần thuộc một thế hệ khác, một thế hệ ngây thơ và đẹp đẽ. Có lẽ cái tư duy ấu thơ về những ông bụt tôi đã chuyển đi đem đặt cả vào cho anh.
Cái khoảng cách ấy, từ khi tôi nhận ra, bỗng dưng làm tôi ngần ngại không muốn gần anh, thậm chí lảng tránh anh. Còn anh, thì cứ đinh ninh về cái vị trí ông bụt bất khả chuyển mình. Ông bụt thì cái gì chả đúng. Ông bụt thì cái gì chả đẹp. Ông bụt thì cái gì thay thế nổi…
Từ khi tôi đến ở, anh Trần chăm sóc tôi rất chu đáo. Áo quần anh cũng cho. Mua piano thiếu tiền, anh Trần cũng đưa thêm… Nhưng dần dà, càng ở cạnh anh Trần, cái hố ngăn cách lại càng thấy sâu thêm. Cảm thức ấy, có lẽ cả hai bên đều thấy. Tôi chăm chú quan sát anh Trần kỹ hơn, tỉ mỉ hơn, rồi bỗng dưng, con người thực của anh hiện rõ nét. Có thể con người thực bây giờ khác con người thực khi xưa mà ảo tưởng ngộ nhận về con người thực bây giờ.
Còn anh Trần, anh im lặng, không đả động gì đến công việc của tôi, nhưng tôi hiểu anh đã căn cứ vào một bảng giá trị của anh để đánh giá tôi, anh đã liệt tôi nằm ở một vị trí nào đó trong bậc thang giá trị của anh. Lẽ tất nhiên thôi.
Nói chung cả hai chúng tôi đều im lặng nghiền ngẫm. Cái im lặng thành lũy và ngăn cách.
Những buổi tối, cả nhà thường quây quần trong phòng khách. Nhà có bốn người: anh Trần, chị Trần, cháu Lê và tôi. Chúng tôi uống trà, anh Trần nói chuyện gia đình và đôi khi giảng giải thời cuộc cho chúng tôi nghe. Sau đây là vài câu nói của anh:
- Lần này đánh Quảng Trị, chúng ta dùng đến những vũ khí mới, đặc biệt: tên lửa cầm tay tự động tìm mục tiêu xe tăng, pháo tầm xa có đạn đặc biệt có thể làm nóng chảy những lô cốt thép kiên cố, súng phun lửa, vũ khí hóa học.
- Mỹ sắp hết máy bay rồi.
- Lê ơi, con chuẩn bị, kỳ này con sẽ sang Đức học. Các anh ấy đã hứa rồi.
- Cách mạng Việt Nam hiện nay là một thời điểm của lịch sử loài người. Vĩ đại chẳng kém gì cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789 và cuộc cách mạng tháng Mười Nga.
- Bọn họ láo thật! Đáng lẽ ra anh phải được bìa B rồi mới đúng. Đằng này họ cứ hãm minh mãi ở cái sổ C Vân Hồ. Kỳ này anh sẽ thắc mắc lên tận Ban tổ chức trung ương.
- Chủ nhật này, vợ chồng mình sẽ về Bưởi xem cái đất trên ấy. Có ba cây hồng xiêm, mười cây dừa và một vườn táo. Nếu em thích, ta sẽ mua miếng đất ấy.
Chao ơi! Cái khát vọng lấp biển dời non của con người hóa ra bây giờ cũng chỉ biết tận cùng bằng cách như thế thôi ư? Tôi im lặng! Tôi im lặng! Tôi là con chim lạc! Trong cái mớ âm thanh hỗn độn, một tiếng chích chòe chứ chưa phải là tiếng họa mi cũng đủ được liệt vào loại âm thanh thù địch.
Ngà ơi!
Sao anh nhớ em đến thế?
Hoang Tưởng Trắng Hoang Tưởng Trắng - Nguyễn Xuân Khánh Hoang Tưởng Trắng