Số lần đọc/download: 5076 / 146
Cập nhật: 2015-03-02 12:49:08 +0700
Chương 5
B
uổi trưa hôm ấy, mật thám đưa Hậu qua Hỏa Lò trên một lộ trình ngắn ngủi từ Boulevard Gambetta (Trần Hưng Đạo) tới Rue de la Prison (Phố Hỏa Lò) bên cạnh Tòa án. Hơn một tháng chịu đựng đòn thù, Hậu gầy rộc đi, già như một thiếu phụ sinh con bị bệnh hậu sản. Người Hậu vốn đã mảnh mai, ngay kinh qua đói khổ và cực hình, sa sút một cách thảm hại, bước đi xiêu vẹo như cái xác không hồn. Những vết trầy sát trên mặt đã trở thành sẹo, những đốt ngón tay xưng to như quả chuối ngự, những lằn roi sắt in hằn trên lưng, trước ngực và hai bắp đùi, những vết dùi nung lửa dí vào vú và mông, cả đời có lẽ sẽ là dấu tích để Hậu oán thù Thực dân Pháp và bọn tay sai phản quốc.
Hậu đi những bước khó nhọc, đôi chân run rẩy lúc nào cũng muốn quỵ xuống. Tuy thế, Hậu vẫn tự nhủ vẫn phải giữ vững tinh thần để hy sinh cho đảng trong những ngày dài sắp tới, trước mắt là thời gian nằm tạm ở ngục Hỏa Lò, chờ ra trước hội đồng Đề Hình lãnh án.
Cái tên Hỏa Lò thật ra đã ám ảnh Hậu từ khi từ giả Hải Ninh. Bao nhiêu đồng chí đi trước đã đếm tháng ngày nhọc nhằn trong đó. Mới đây, vụ án Quốc Dân đảng hồi đầu tháng 7, càng làm cho cái tên Hỏa Lò được nhắc đi nhắc lại nhiều hơn trên báo chí cũng như truyền miệng trong giới những người quan tâm đến thời cuộc.
Từ cổng chính nằm trên đường Rue de la Prison, tức phố Hỏa Lò, cai tù dẫn Hậu băng qua 3 lớp cổng sắt, rẽ trái để tới khu dành cho nữ can phạm. Đó là một dãy nhà tương đối nhỏ so với khu đàn ông và tầng lầu phía trên nữ tù là phòng giam dành riêng cho tội nhân ngừơi Pháp.
Trời cuối năm bắt đầu thấy gió heo may, sức nóng đã giảm dần mặc dầu buồng giam chật chội. Nhiều người vẫn lầm tưởng là nhà giam này nóng bức lắm nên mới có cái biệt danh là Hỏa Lò. Thật ra thì danh xưng Hỏa Lò không xuất phát từ nhiệt độ thời tiết, mà vì nhà tù được xây dựng trên mảnh đất cũ của làng Phụ Khánh, một làng chuyên sống bằng nghề nặn hỏa lò, tức là làm những cái bếp bằng đất nun đốt, đốt bằng than đá để sắc thuốc Bắc hay đun nước pha trà. Chung quanh nhà tù Hỏa Lò có xây bức tường cao hơn 5 thước, toàn bằng đá xanh, trong phạm vi ngăn bởi hai con phố lớn là Boulevard Rollandes (sau này đổi thành Hai Bà Trưng) và Boulevard Carreau (Lý Thường Kiệt), nằm ở phía đông thành Hà Nội. Ai đi ngang qua khu vực này, nhìn bức tường đá xanh quanh năm lạnh lùng, lại thêm tiếng gào thét rên xiết của tù nhân bên trong vọng ra, đều không khỏi cảm thấy rờn rợn kinh sợ. Chính vì vậy, đi tù Hỏa Lò, đôi khi cũng được gọi là “tống vào Nhà Đá”!
Ngục thất Hỏa Lò (Maison Centrale) cũng như Tòa Án Hà Nội ( Palais de Justice) được Thực Dân Pháp xây dựng năm 1906 cùng với Sở Liêm Phóng Đông Dương (Sureté Générale) cách đó không xa, là ba cơ quan nòng cốt để phục vụ nhu cầu đàn áp người bản xứ, nhằm duy trì chế độ thực dân lâu dài trên đất An Nam.
Lúc Hậu đặt chân vào khu nữ tù Hỏa Lò thì tội nhân bị nhốt trong đó phần đông đều là thường phạm. Những khuôn mặt dữ dằn chuyên trộm cắp, đánh nhau, đĩ điếm, buôn lậu v.v nói chung là tù hình sự đã thành án hoặc đang chờ phiên xử. Duy nhất chỉ có một chính trị phạm, cũng là người tù nổi tiếng nhất của nhà giam phụ nữ, là chị NguyễnThị Thuyết, đảng viên Quốc Dân Đảng, bị bắt trong cuộc bố ráp mới đây tại Hà Nội. Chị được dân chúng Hà thành dành sự chú ý đặc biệt vì chị là đảng viên phụ nữ đầu tiên của Quốc Dân Đảng bị mật thám bắt mà lại bắt vì tội mang đến ba khẩu súng và hơn một trăm viên đạn trong người! Tin ấy lúc vừa loan ra, đã làm nhiều người giật mình khiếp vía và hết lòng ngưỡng phục chị. Với tội trạng ấy, chị biết trước mình sẽ bị đánh đập tra khảo đến cỡ nào!
Lùi lại tháng 4 năm 1929, sau khi đảng bị thất thoát quá nhiều nhân sự, Nguyễn Thái Học triệu tập hội nghị toàn quốc tại Bắc Ninh – gọi là hội nghị Lạc Đạo, vì diễn ra ở gần nhà ga Lạc Đạo – chỉ thị phải huy động lực lược phụ nữ làm công tác liên lạc để tránh sự chú ý của mật thám. Cô Giang, cô Bắc, cô Tình, cô Tâm, cô Chính và hàng loạt phụ nữ thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau, kể cả các em học sinh, đều lũ lượt lao vào các công việc khẩn cấp của Đảng. Hội nghị này cũng là dịp để tổng bộ bổ sung thêm nhân sự vì hàng loạt đảng viên nòng cốt của Đảng bị bắt từ sau Tết Nguyên Đán. Ký Con Đặng Trần Nghiệp, Xuân Tùng, Nguyễn Văn Chấn và thầy giáo Vũ Văn Giản tức Vũ Hồng Khanh trở thành ủy viên trung ương tại hội nghị này.
Sau đó một tháng, tức tháng 5/1929, tình hình càng bi đát trước màng lưới khủng bố tòan diện của Sở Liêm Phóng. Nguyễn Thái Học lại triệu tập hội nghị bất thường lần thứ 2 tại Bắc Ninh – gọi là hội nghị Đức Hiệp vì diễn ra ở làng Đức Hiệp – để công bố một quyết định quan trọng là thành lập Tổng Bộ Chiến Tranh, chuẩn bị tổng khởi nghĩa.
Muốn tổng khởi nghĩa thì công tác phải thực hịên cấp thiết là chuyển vận vũ khí, song song với việc tuyên truyền vận động quần chúng cũng như các đơn vị binh lính ở các đồn trại do Pháp chỉ huy. Chị Nguyễn Thị Thuyết là một trong những đảng viên lãnh công việc tiếp tế vũ khí cho Tổng Bộ để Tổng Bộ phân phối đi các nơi.
Chị vốn gốc người huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định, đã lập gia đình, đời sống vật chất khá giả. Nhưng vì nặng lòng yêu nước, chị bí mật tham gia Quốc Dân Đảng từ đầu năm 1928. Có nghĩa là chị chỉ mới hoạt động cho đảng được hơn một năm thì bị bắt, mà oái oăm thay, chị bị bắt không phải vì bất cẩn hoặc vì công việc bị lộ dọc đường.Chị bị bắt ngay tại cơ quan được coi là an toàn của Đảng tại Hà Nội.
Nhìn một cách riêng lẻ, thì việc chị Thuyết bị bắt có thể gọi là xui xẻo. Nhưng nếu quan sát một cách toàn diện thì chuyện đó sớm muộn gì cũng phải xẩy ra, giống như bàn cờ domino, một quân đổ thì sẽ kéo theo hàng loạt quân bài khác ngã theo. Nếu 1928 là năm phát triển rực rỡ của Quốc Dân Đảng, thì bước sang 1929 chính là thời kỳ bi thảm của tổ chức này.
Lùi trở lại hồi đầu năm, để trả đũa cho cái chết của tên mộ phu đắc lực René Bazin, mật thám Pháp và tay sai đã giăng mẻ lưới qui mô, bắt giữ hơn 200 yếu nhân của Quốc Dân đảng và đóng cửa cơ quan kinh tài công khai là khách sạn Việt Nam ở phố Hàng Bông Đệm. Lúc ấy, sau một năm thành hình VNQDĐ đã bố trí được nhiều cơ sở bí mật dùng làm tụ điểm gặp gở để sinh hoạt, nằm rải rác khắp Hà thành. Nhiều nhất là ở khu Khâm Thiên, Nam Đồng và phố Hàng Giấy. Một trong những cơ quan đầu não là căn nhà số 9 Ngô Thanh Giám, nơi Nguyễn Thái Học cùng các ủy viên trung ương thường hay lui tới để bàn định kế hoạch sau khi khách sạn Việt Nam bị giải tán. Địa chỉ này được coi là trọng yếu và an toàn, mật thám chưa hề biết đến trong vụ càn quét toàn diện hồi tháng 2.
Nhưng điều bất hạnh không ngờ cho Quốc Dân Đảng là đảng trưởng Nguyễn Thái HỌc tinh dùng một đảng viên tuổi mới 20, tên là Nguyễn Văn Kinh, giao cho nhiệm vụ liên lạc viên, cho gã gần gũi và biết quá nhiều tin tức về sự đi lại của đảng trưởng cũng như các ủy viên trung ương. Hàng loat yếu nhân đã vào tù từ đầu năm, giờ đây chung quanh Nguyễn Thái Học chỉ còn lại Nguyễn Khắc Nhu cùng một số các đồng chí khác hết sức quan trọng cho sự sống còn của Đảng. Ấy thế mà lại bị kẻ phản bội tay trong bán đứng! Kẻ phản bội ấy chính là Nguyễn Văn Kinh.
Kinh vốn là người phủ Lạng Thương, một trong những cái nôi cách mạng đã sinh sản ra Nguyễn Khắc Nhu và 3 chị em cô Bắc, cô Giang, cô Tình. Tuổi trẻ hăng say và nhanh nhẹn. Kinh gia nhập Quốc Dân Đảng, giữ nhiệm vụ thông tin cho tổng bộ.
Đầu tháng 6, Kinh bị mật thám bắt khi đang công tác tại Hà Nội. Đích thân thanh tra Brides thẩm vấn và tra khảo vì hắn biết Kinh thường có dịp kề cận đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Brides áp dụng đòn phép cũ: Đánh đập trước rồi hứa hẹn sau. Kinh trẻ người non dạ, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần ái quốc, nên yếu lòng nhận lời bán đứng tổng bộ Quốc Dân Đảng cho địch.
Kinh khai ra một số địa chỉ mà Nguyễn Thái Học thường xuyên lui tới, từ Thái Nguyên, Bắc Ninh cho đến Hà Nội. Mật thám trả tự do cho Kinh rồi lập tức mở cuộc lục soát tất cả những địa điểm Kinh mật báo, chẳng hạn như nhà Phó Lý Quang, nhà Quản Khê, nhà cụ Nguyễn Tiến Nguyên ở Bắc Ninh, nhà chị Lê Thị Thăng ở Gia Lam, toàn những nơi Nguyễn Thái Học hay dừng chân làm việc. Nhờ may mắn và nhờ sự canh gát của các đồng chí, Nguyển Thái Học mấy lần thoát hiểm trong gang tấc. Ấy vậy mà tổng bộ vẫn chưa nghi ngờ Nguyễn Văn Kinh, vẫn cho đi bên cạnh đảng trưởng.
Thấy có thể tiếp tục khai thác được, giữa tháng 8, mật thám lại lôi cổ Kinh vào nhà giam, đánh cho một trận nhừ tử. Chịu đòn không nổi, Kinh lại báo cho thực dân biết một địa chỉ rất quan trọng của đảng. Đó là căn nhà số 9 Ngõ Thanh Giám Hà Nội, nơi Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Nguyễn Thị Giang và nhiều khuôn mặt lớn của Quốc Dân Đảng thường dùng làm chỗ hội họp và tiếp nhận vũ khí. Được bản tin quí giá ấy, mật thám huy động lực lượng đến bao vây ngay. Rất may là Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Nguyễn Thị Giang lại vừa lên đường đi công tác ở vùng biên giới Ai Lao, nên lại thoát nạn một lần nữa. Tuy nhiên, các đồng chí còn lại đều bị bắt hết, trong đó có Nguyễn Văn Viên, người chủ mưu và tham dự cuộc ám sát tên mộ phu René Bazin hơn nữa năm về trước, gây ra bao nhiêu điêu đứng cho đảng từ đó đến nay. Mật thám cũng tịch thu mất 650 đồng tiền cũ của Quốc Dân đảng tại cơ quan này.
Cơ quan Thanh Giám bị lộ rồi, mật thám gài người bố trí chặc chẽ chung quanh, hy vọng bắt thêm nhiều nhân vật vẫn hay lui tới chốn này. Chị Thuyết ở xa, không biết cơ quan của đãng nằm trong tay địch. Chiều hôm ấy, chị xách cái giỏ đựng súng đạn, thản nhiên mang đến cho cơ quan. Công việc này chị tự nguyện đảm nhận đã 3 tháng nay, từ sau hội nghị tòan quốc hồi tháng 5 ở Bắc Ninh khi Nguyễn Thái Học công bố quyết định thành lập bộ chiến tranh để chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Vốn là người lịch duyệt trên đường thương mại, lại là vợ của một ông chánh tổng, chị Thuyết thường hay phiêu bạt nay đây mai đó, buôn thuốc phiện lậu để lấy tiền mua súng đạn cho đảng. Thời gian khẩn cấp, chị đôn đáo làm nhiệm vụ, ít khi chị ghé về nhà, nghỉ ngơi bên cạnh chồng con được vài ngày.
Hôm nay không may, chị mang vũ khí đến cơ quan mà không bịết cơ quan đang bị phục kích. Chị vừa bước vào thì chúng lao ra tóm ngay. Trong giỏ của chị lúc ấy có 3 khẩu súng, mấy băng đạn và hơn một trăm đồng. Chị là nữ đảng viên đầu tiên của Quốc Dân Đảng bị sa lưới mật thám Pháp và lãnh án 5 năm tù về tội “tiếp tế vũ khí cho loạn đảng”.
Nằm trong Hỏa Lò, chị ôm mối hận ngút trời khi biết đảng bị kẻ nội tuyến phản bội. Cơ quan bị tiết lộ, hàng loạt đồng chí bị bắt, kế hoạch lớn phải ngưng trệ, lại thêm tin Nguyễn Văn Viên đã xé áo kết thành giây, thắt cổ tự tử trong tù, chị nghiếng răng tự hẹn lòng mình khi mãn hạn tù, đích thân chị sẽ thanh toán thằng “ranh con Nguyễn Văn Kinh”.
Nhưng chị Thuyết không phải ra tay. Các đồng chí ở ngoài đã nhanh chóng nhận ra kẻ nội thù. Điều ấy không khó, bởi hễ mỗi lần Kinh bị bắt thì ngay sau đó cơ quan của Tổng Bộ hoặc tư gia của đảng viên bị lục xét. Mật thám Pháp hình như cũng không còn khai thác Nguyễn Văn Kinh gì được nữa, bởi mọi điều Kinh biết, Kinh đã tiết lộ hết rồi! Nhốt Kinh tốn cơm vô ích, chúng liền thả cho Kinh về lần thứ hai. Kinh vẫn thản nhiên tìm gặp các đồng chí vì tin rằng chưa ai biết mình phạm kỷ luật đảng. Tổng bộ họp bí mật, tuyên án tử hình Nguyễn Văn Kinh và giao cho Ký con Đặng Trần Nghiệp thi hành. Ngày 06 tháng 10, Ký Con nhắn người thân rủ Kinh đi xem hát ở Phố Khâm Thiên. Kinh mừng lắm, vì gã vốn quí Ký Con. Hai người hẹn gặp nhau buổi chiều lúc nhá nhem tối trước chuồng voi trong sở thú. Kinh hân hoan đạp xe đến, ngồi chờ trên ghế đá. Một lúc sau, Ký Con cũng từ con Đường Thành Digue Parreau đạp xe tới. Đường Thành cùng với Đường Cổ Ngư là hai con đường nổi tiếng chuyên dành cho xe kéo đưa khách thượng lưu đi hóng mát hoặc ô tô của dân Tây chạy qua chạy lại để khoe khoang vẻ đài các của mình.
Thấy Kinh ngồi chờ sẳn, Ký Con dựng xe ở gốc cây rồi rút súng lục bắn vào đầu Kinh hai phát. Kinh gục xuống chết tại chỗ. Ký Con thản nhiên gắn bản án vào ngực Kinh rồi mới lên xe đạp về!
Kinh chết rồi, mật thám biết ngay là gã bị Quốc Dân Đảng trừng trị. Chúng nghe gà hóa cuốc nên bắt ngay Nguyễn Đức Lung chỉ vì Lung có biệt danh là Ký Cao mà chúng lầm tưởng là Ký Con!
Xử tử Kinh xong, tổng bộ tìm cách báo cho chị Thuyết biết. Bấy giờ chị mới nguôi đi mối hận trong lòng.
Chung đụng với tù nhân, chị Thuyết là một người có phong độ kẻ cả, thẳng thắng và can đảm. Lại hay giúp đở bạn tù nên ai cũng nể. Càng nể hơn khi họ biết chị là chính trị phạm, tham gia cách mạng chống Pháp. Vì chị ở tuổi trung niên, lại là vợ Chánh Tổng, nên ai cũng gọi là bà “Chánh Toại”. Thậm chí những cô gái ít tuổi hơn đều kêu chị bằng “mẹ” và mọi bất hòa trong nhà giam đều giao cho chị đứng ra phân xử hoặc giảng hòa. Chị Thuyết cũng lợi dụng sự thân thiện của mình với bạn tù để giảng cho họ nghe về nỗi nhục mất nước của người Việt Nam và kêu gọi mọi người hễ có cơ hội thì tham gia công cuộc đấu tranh giành độc lập.
Hôm ấy, cai tù đẩy Hậu vào, vài người xông ra hỏi ngay:
- Bị bắt vì tội gì đấy?
Toàn thân Hậu còn đang tê buốt, lại muốn để cho bọn tay sai thực dân nghe thấy, nên Hậu khinh khỉnh đáp:
- Chả có tội gì cả!
Ma cũ thường bắt nạt ma mới, nhất là trong nhà tù. Đám thường phạm chung quanh đều ngứa mắt vì thái độ của Hậu, có đứa toan nhảy vào tát cho Hậu mấy cái để thị oai, nhưng chị Thuyết kịp thời ngăn lại ngay. Nhìn Hậu ủ rũ như đứa ốm đói, với những vết thương còn hiện rõ trên thân thể, chị biết ngay Hậu không phải là tù hình sự. Kinh nghiệm bản thân cho chị biết, tù thường phạm không bị tra tấn đánh đập như thế này. Bất quá khi bị bắt, đội xếp hoặc cai tù chỉ tát cho mấy tát rồi bỏ mặc trong nhà giam. Chỉ có tội phạm chính trị mới phải kinh qua những nhục hình ác độc của mật thám Pháp. Vì vậy, chị tiến lại hỏi Hậu:
- Tôi đóan không lầm thì cô tham gia chống chính quyền Bảo Hộ?
Hậu giật mình ngước nhìn chị bằng ánh mắt dịu dàng nhưng không đáp. Nguyên tắc bí mật Hậu luôn tôn trọng. Nhưng nghĩ thêm một chút thì Hậu chợt nhớ ra mình in truyền đơn chống Pháp bị bắt quả tang, lại thêm cả nắm cờ búa liềm của Liên Xô thì còn giấu làm gì nữa. Giấu là khi tông tích chưa bại lộ để ra tòa còn có thể chối cãi. Chứ trường hợp của Hậu và Kiệt thì đã rõ như ban ngày, che đậy làm sao đuợc! Hậu toan lên tiếng thì chị Thuyết tiếp:
- Quốc Dân Đảng hay Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội?
Hậu càng sửng sốt hơn và chỉ trong khoảnh khắc thấy lòng mình ấm lại vì ít ra trong chốn lao tù cũng có người hiểu mình. Hậu mơ hồ đoán chị Thuyết cũng là người cùng đoàn thể nên hân hoan đáp:
- Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội giải tán rồi còn đâu! Bây giờ là Đông Dương Cộng Sản Đảng.
Chị Thuyết gật đầu nói:
- Tôi biết! Tôi là đảng viên Quốc Dân Đảng, mới bị bắt dạo tháng 8.
Hậu ngắt lời:
- Như vậy chị đây chắc là chị Chánh Toại?
Chị Thuyết mĩm cười hỏi lại:
- Sao cô biết?
Nhớ lời kể của Lê Tiến, Hậu đáp:
- Dạo chị bị bắt, em có nghe người ta nhắc đến nhiều. Cả báo cũng đăng nữa. Chị tiếp tế vũ khí cho Quốc Dân Đảng! Em phục chị lắm! Chả phải riêng em, ai nghe tin cũng phục chị!
Chị Thuyết hãnh diện gật đầu, Hậu nói nhỏ:
- Bị bắt quả tang đang tiếp tế súng đạn! Em thì bị bắt quả tang đang in cả đống truyền đơn, thành ra chị em mình hết đàng chối!
Từ đó, một Quốc, một Cộng, chị em kết thân với nhau bằng một sợi giây căn bản là chung cùng lý tưởng chống Pháp. Cách mạng quốc gia hay quốc tế, cách mạng tư sản hay cách mạng vô sản, tất cả những lý thuyết ấy giờ đây đều không đáng nghĩ đến mà chỉ tập trung một hướng duy nhất là đuổi thực dân, giành độc lập. Chị Thuyết săn sóc vết thương và xoa dầu chửa bệnh cho Hậu rất tận tình, mặc dầu chính chị vẫn chưa hoàn toàn bình phục. Chị an ủi Hậu:
- Cô biết không? Tôi bị hỏi cung một tháng bên sở Liêm Phóng. Chúng nó tra tấn đủ trò. Chắc cô cũng đã nếm mùi, tôi chả phải kể.Thằng Tây lai nó bảo tôi “Mày đã biết cái đòn lộn mề gà của tao chưa?”.
Hậu trả lời:
- Nó treo ngược chị lên chứ gì?
- Thì thế! Rồi cứ roi nó quất túi búi vào bụng vào lưng mình! Tôi tưởng tôi bị bán thân bất toại rồi. May mà giời thương! Chỉ còn cánh tay trái chưa cử động lại được như cũ!
Rồi chị khuyên Hậu nên vận động, đi tới đi lui, moi việc ra mà làm, đừng ngồi một chỗ để tránh bị phù thủng. Chị Thuyết và những bạn tù lâu năm, có thân nhân thăm viếng hàng tháng, đồng tình nhường bớt miếng ăn manh áo cho Hậu, khiến cô hết sức cảm động. Cô lại càng mừng hơn khi biết chị Thuyết cung cấp vũ khí cho Quốc Dân Đảng, bị bắt quả tang mà bị tù có 5 năm. Như thế thì cái tội in truyền đơn của cô chắc không đến nỗi bắt cô chết gục trong tù. Thằng Tây dù sao cũng nới tay với phụ nữ.
Bạn tù ở chung phòng không phải ai cũng có thiện cảm với Hậu. Họ cảm phục chị Thuyết vì ở cương vị vợ của một ông chánh tổng hét ra lửa, được hưởng nhiều đặc lợi của Tây mà vẫn cầm súng chống Tây bất chấp nguy hiểm. Họ cũng nể nang Hậu vì dám đi làm cách mạng, nhưng khi biết Hậu là cộng sản thì nhiều người tỏ ra e dè bởi hai tiếng cộng sản lúc ấy còn chứa đựng một cái gì rất mờ ám, đồng nghĩa với sắt thép, không có tình cảm gia đình và con người. Thời ấy chưa có đấu tố, chưa có cải cách ruộng đất vì cộng sản chưa nắm được chánh quyền. Nhưng chỉ cần nghe đồn cộng sản chủ trương vô gia đình và vô tôn giáo là họ đã thấy rùng rợn rồi. Hậu và các đồng chí của Hậu thời ấy cũng biết thái độ của đại đa số quần chúng đối với cộng sản như thế nào và Hậu rất bực mình vì họ không nhìn ra cái hay cái đẹp của cộng sản trong mục tiêu chống Pháp. Bao nhiêu thế hệ đã hy sinh cho cái lý tưởng cao cả ấy!
Nhưng họ chết đi là may! Bởi nếu sống đến ngày cộng sản chiến thắng, họ sẽ phải não nề chứng kiến cuộc cách mạng của họ hoàn toàn bị phản bội!
Cùng bị giam chung với Hậu, cũng có vài tù nhân theo đạo Thiên Chúa. Nhóm người này thì lại càng xa lánh Hậu một cách triệt để hơn bởi vì trong cách nhìn của họ, cộng sản đồng nghĩa với ma quỉ, chủ trương vô thần, không tin có Thượng Đế. Thậm chí họ không muốn đến gần Hậu, không dám ngồi ăn chung bàn với Hậu vì sợ gần gũi như thế thì có tội với Chúa. Bản thân họ là những tội phạm hình sự. Vậy mà họ vẫn cảm thấy họ phạm tội gì đi chăng nữa thì cũng vẫn dễ được Chúa tha thứ hơn là kết thân với Cộng sản vô thần!
Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Việt Nam, sau bao nhiêu bách hại của các vua triều Nguyễn, tính đến nay, 1929, vẫn có đến một triệu hai trăm ngàn tín đồ. Do ảnh hưởng, hay đúng hơn là mệnh lệnh của Đức Giáo Hoàng Pio Xl, người công giáo mặc nhiên phải coi cộng sản là kẻ thù. Một người không thể vừa là giáo dân vừa là cộng sản, bởi hai thứ ấy bất khả dung hợp.
Riêng chị Thuyết không cần nghĩ xa. Chị biết Hậu mang lý tưởng đuổi ngoại xâm là chị cảm thấy gần gũi ngay. Huống chi Tổng Bộ Quốc Dân Đảng và nhất là đảng trưởng Nguyễn Thái Học cũng chỉ nhắm một kẻ thù duy nhất là Tây, chứ chưa hề dạy chị phải căm thù các đảng phái khác, trong đó có cộng sản.
Tháng ngày gần gũi, chị em kể cho nhau nghe những kinh nghiệm hoạt động, vừa gian nan vừa sôi nổi. Nhưng dĩ nhiên chỉ kể những gì công khai hóa, nghĩa là những chi tiết mà mọi người đã biết, đồng thời cẩn trọng tránh nhắc đến bất cứ bí mật nào của đảng mình, Hậu có lúc cười buồn bảo:
- Chị còn làm được nhiều việc lớn, chẳng hạn như tiếp tế vũ khí đạn dược. Còn em chỉ nấu cơm gánh nước, chưa làm đuợc việc gì thì bị bắt!
Chị Thuyết an ủi:
- Cô còn trẻ mà lo gì! Đường còn dài, chỉ cần giữ gìn sức khỏe và giữ vững tinh thần, rồi sẽ có ngày chị em mình cùng cầm súng đánh Tây, giành độc lập cho nước nhà!
Rồi đến ngày mùng 5, tù nhân được phép ra thăm thân nhân. Hậu hoàn toàn không một chút hy vọng gì là cha mẹ cô đã biết cô ở đây. Nhưng thật bất ngờ, Hậu cũng được gọi tên ra khu tiếp tân. Đó là hai căn buồng nhỏ ở hai bên cổng chính trông ra phố Hỏa Lò, Hậu mím môi để khỏi òa lên khóc khi nhìn thấy bà Lương đứng bên kia song sắt, tay xách một cái giỏ khá nặng. Xa mẹ chưa đến một năm mà thấy mẹ già xọm hẳn đi. Hậu giơ tay vẫy rồi nghẹn ngào gọi lớn:
- Mẹ ơi! Mẹ có được khỏe không?
Bà Lương sụt sùi mãi mới trả lời được:
- Biết con còn sống là mẹ mừng rồi!
Hậu nhìn mẹ, lòng dâng trào xúc cảm nhưng vẫn nghĩ ngay đến Duyên và chi bộ Hải Ninh:
- Mẹ đi một mình hở mẹ? Bố con với các em con vẫn khỏe mạnh đấy chứ mẹ?
Bà Lương gạt nước mắt đáp:
- Ừ! Mẹ đi một mình. Cả nhà vẫn bình thường. Con cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng bận lòng lo nghĩ về bố mẹ và các em ở nhà.
Trong khi hai mẹ con nói chuyện thì giám thị đổ tung cái giỏ của bà Lương, khám xét tỉ mỉ từng chút trước khi trao lại cho Hậu. Hai bộ quần áo, lọ muối vừng, bánh kẹo và thuốc men. Hậu hơi thất vọng vì Duyên không đi chung với bà Lương. Cô nhắc:
- Mẹ ơi! Tháng sau mẹ bảo Duyên nó lên thăm con, mẹ khỏi phải lặn lội đường xá xa xôi!
Bà Lương gật đầu rồi cúi xuống. Bà đang đau đớn xé ruột vì Duyên cũng đã bỏ đi từ tháng nay. Nhà bây giờ chỉ còn thui thủi hai ông bà già và thằng Út Hoàn. Tân chết rồi, chả nói làm gì. Hậu trốn đi làm bà lúc tỉnh lúc mê hơn nữa năm nay vì tưởng Hậu cũng đã chết. Nay được tin Hậu vẫn còn sống, dù đang ở tù, niềm vui trong lòng bà cũng bùng lên được đôi chút nhưng lại tắt ngay vì Duyên đã từ giã lên đường. Bây giờ nghe Hậu nhắc đến Duyên, bà càng tủi thân nhưng không dám nói cho Hậu biết. Gia đình bà từ một năm nay, đời sống kinh tế xuống dốc lắm, song song với sự sa sút về mặt tinh thần khởi sự từ cái chết của Tân. Hậu bỏ đi, nhà bà mất đi một công lao động chủ lực. Lại thêm bà vì héo hắt tâm can, chả muốn làm lụng gì, cứ nay ốm mai đau, nói năng lẩn thẩn. Hơn lúc nào hết, Duyên thấy rõ mình bây giờ là trụ cột chống đỡ mái nhà này, vì vậy, tuy hăng say nhiệm vụ Đảng mà Duyên không hề sơ sót mọi việc lớn nhỏ trong nhà. Duyên muốn kéo cái gia đình mình trở lại cuộc sống bình thường, hy vọng thời gian sẽ giúp mẹ Duyên quên dần sự mất mát bi thương.
Nhưng rồi một hôm, cách nay chừng một tháng, Duyên đang thăm vườn ngô ngoài đồng thì Quảng từ tỉnh xuống tìm. Từ ngày Hậu đi, Duyên thay chị làm bí thư, cũng đã mấy lần lên gặp Quảng nhận công tác, hoặc có khi chính Quảng lặn lội xuống tìm Duyên. Hiệu thuốc lào của Quảng là cơ quan giao liên của tỉnh bộ, có nhiệm vụ tiếp nhận các đảng viên thoát ly, đưa xuống Hà Nội hoặc các thành phố lớn như Hải Phòng. Quảng cũng có đàn em lo việc thông tin liên lạc, nhưng khi cần ban bố một chỉ thị quan trọng thì đích thân Quảng sẽ tự đảm trách cho chắc chắn. Chẳng hạn như hôm nay Quảng phải gặp riêng Duyên, bí thư chi bộ Hải Ninh, không thể nhắn qua người khác được.
Quảng mặc bộ quần áo cũ bằng vải thô, đi chân đất, đầu đội nón rách, gánh đôi quang gánh giả làm người đi bán củ nâu. Hai cái thúng của Quảng để mỗi bên lưng lửng một phần ba, để gánh cho nhẹ và nếu chẳng may gặp mật thám theo dõi, thì Quảng có thể quăng luôn mà tháo chạy thoát thân.
Từ trên mặt đê theo triền dốc thoai thoải xuống, Quảng bước trên con đường chính chạy giữa cánh đồng làng, dừng lại bên cạnh ruộng ngô của Duyên. Mồ hôi ướt đầm đìa, ông đặt quanh gánh, ngồi nghỉ chân trên một mô đất thấp, phanh cúc áo ngực và tay phải cầm nón quạt mồ hôi lia lịa. Từ tỉnh về Hải Ninh, ông dự trù sẽ đến thẳng nhà Duyên, làm bộ mời mua củ nâu để ra ám hiệu gặp riêng Duyên. Nhưng may quá, vừa tới đây thì thấy thấp thóang bóng con gái đứng trong đám ruộng ngô, ông biết chắc đó là Duyên vì ông đã từng gặp Hậu ở đây một đôi lần trước khi Hậu thoát ly.
Ông quăng cái nón xuống chân vói tay lấy cái điếu cày ngắn ông mang theo, để trong thúng đựng củ nâu. Ông moi cái hộp thuốc lào loại hảo hạng, viên một bi nhét vào nõ và bật diêm, nghiêng đầu rít. Nước trong điếu đã đổ gần hết trong thúng, nên ông thấy khói thuốc khô rang, nóng rát cả cuống họng. Ông ngữa mặt nhả khói và ho lên mấy tiếng. Duyên từ trong ruộng ngô chui ra, ngơ ngác nhìn đăm đăm một hồi mới nhận ra Quảng, cô đưa mắt nhìn quanh, yên lòng khi không thấy ai bên cạnh. Những nông dân lao động rãi rác trên cánh đồng bao la, người gần nhất cũng phải cách chỗ cô cả mấy trăm thước, không ai tài nào nghe được tiếng nói của Quảng và Duyên. Dù vậy Duyên vẫn ngồi thụp xuống, khuất trong luống ngô sát lề đường cho kín đáo. Duyên mặc váy, cho nên cô phải lấy cái nón úp lên đầu gối cho đỡ ngượng trước mặt Quảng. Cô hăm hở hỏi:
- Anh xuống bao giờ thế? Chắc lại có công tác đột xúât?
Quảng gật đầu:
- Vâng. Tôi cũng vừa xuống đến nơi. May quá, gặp chị ở đây, tôi khỏi vào làng. Cuối năm mà giời còn nóng quá nhỉ!
Vừa nói, Quảng vừa đứng dậy tiến gần tới Duyên hơn để khỏi phải nói lớn. Ông vốn trọng nguyên tắc của Đảng, nên dù Duyên chỉ đáng tuổi con ông, ông vẫn gọi bằng chị. Ông ngồi bệt xuống bãi cỏ, ngay trước mặt Duyên và mở đầu bằng câu thăm hỏi thường lệ:
- Hải Ninh công tác vẫn tôt đấy chứ?
Duyên hãnh diện đáp:
- Vâng! Mọi mặt đều tốt cả! Tinh thần chị em rất cao!
Duyên nói thế cũng theo thói quen thôi chứ mấy tháng nay, Hải Ninh có công tác gì đâu! Chi bộ thì vẫn họp tối thiểu một tháng một lần để cùng nhau thảo luận những đề tài rất cũ, nhưng công tác cụ thể thì chả có gì ngoài việc rãi truyền đơn ngày Quốc Tế Lao Động và Cách Mạng Tháng Mười của Liên Bang Xô Viết.
Quảng cười hiền hòa:
- Vâng! Tỉnh bộ bao giờ cũng đánh giá cao Hải Ninh!
Dù biết đó là những lời sáo ngữ, Duyên vẫn thấy vui. Cô nói:
- Cảm ơn anh có lời động viên. Dưới này chị em chúng tôi lúc nào cũng cố gắng! Học tập và thảo luận đều, đúng như chỉ thị của Tỉnh Bộ.
Im lặng một chút, Quảng thay đổi đề tài:
- Hôm nay tôi xuống đây gặp chị để phổ biến một chỉ thị mới của Tỉnh Bộ. Rất khẩn trương!
Duyên mở to mắt, hồi hộp hỏi:
- Chỉ thị gì đấy anh?
Quảng nói chậm từng chữ:
- Đoàn thể cần chị thoát ly ngay ……
Duyên giật mình ngắt lời:
- Ngày là bao giờ?
Quảng nghiêm nghị nói:
- Sáng mai, chị đi được không?
Câu hỏi làm Duyên choáng váng, cô phân vân nhìn xuống chân, bàn tay lơ đãng nhổ những bông cỏ may bám vào gấu váy. Chẳng phải Duyên ngại thoát ly. Đã theo cách mạng thì biết trước sẽ có ngày bỏ nhà lo việc nước như Hậu. Nhưng mẹ Duyên lúc này yếu sức mà Duyên thì lại nặng tình gia đình hơn Hậu. Chẳng biết bà Lương mắc bệnh gì mà cứ dai dẳng nằm ho sù sụ, biếng ăn, khó ngủ, toàn thân sa sút thấy rõ. Ông Lương sắc bao nhiêu thuốc cũng không trị dứt. Duyên thì đoán chắc mẹ mình chẳng có bệnh gì ngoài sự dằn vặt nhớ thương Tân và Hậu. Bây giờ nếu Duyên lại đi thì mẹ cô sẽ ra sao? Đến héo mòn mà chết mất thôi! Cô ngẫng lên dè dặt nói:
- Hỏi anh cái này. Chi bộ Hải Ninh cử người nào thoát ly cũng được, hay cứ nhất định phải là tôi?
Quảng nhìn Duyên hơi thất vọng. Cái thái độ nhiệt tình của Hậu trước đây mới đúng là người làm cách mệnh. Còn Duyên, đoàn thể cần đến mà lưỡng lự thì không xứng đáng là một đảng viên chứ nói chi đến bí thư chi bộ!
Duyên cũng nhận ra ngay ánh mắt không vui của Quảng, lòng giằng co áy náy, cô vội phân trần:
- Mẹ tôi đang ốm. Ốm từ ngày chị Hậu tôi ra đi! Phần nhớ anh Tân tôi, phần thương chi Hậu! Giá anh cho tôi thư thêm một thời gian nữa thì tiện cho tôi hơn!
Một người cộng sản đúng nghĩa thì không được quyền nói như thế, bởi như thế thì vẫn còn hữu khuynh, vẫn còn biểu lộ tình cảm tiểu tư sản hèn yếu.
Duyên cũng biết vậy, biết mình còn lấn cấn chuyện gia đình. Nhưng những ngày ở bên mẹ sau khi Hậu giả vờ tự tử, Duyên mới hiểu được lòng mẹ thương con đến mức nào. Từ những cúng kiến, lên đồng, rồi những huy động xóm làng đi tìm xác Hậu, những đêm trăn trở đầy nước mắt và tiếng thở dài bất tận, khiến Duyên nhiều phen phải mủi lòng khóc theo và đã toan cho mẹ biết là Hậu chưa chết! Duyên nhớ có đêm trăng mờ, Duyên đã ngủ được một giấc dài lắm, tình cờ thức giấc vẫn còn thấy mẹ mình thơ thẩn ngoài hiên. Duyên vội chạy ra đở mẹ vào nằm chung với mình. Bà lương òa lên khóc lớn và bảo:
- Mẹ nhớ cái Hậu quá! Chả ngủ được!
Rồi bà sụt sùi kể:
- Dạo ấy, nó xin mẹ có mỗi cái áo dài nhưng mà mẹ không cho! Bây giờ nghĩ lại, mẹ thấy bứt rứt lắm! Con có muốn may sắm gì thì cứ cho mẹ biết! Mẹ không tiếc!
Duyên úp mặt vào vai mẹ để khỏi khóc thành tiếng. Khác với Tây phương, người mẹ Việt Nam thương con thường ít tỏ bằng lời. Chẳng những thế, nhiều bà hễ mở miệng ra là mắng con, quanh năm không đuợc một câu nói dịu dàng. Nhưng khi hữu sự mới thấy lòng thương con thâm sâu không bờ bến.
Nằm một chốc, Duyên tưởng mẹ đã ngủ rồi thì bà kể:
- Năm ngoái, năm kia, mẹ chỉ mong cái Hậu với con lập gia đình. Nhưng bây giờ thì khác. Hôm nọ bà Khán Huân gặp mẹ, có ý đánh tiếng hỏi con cho cháu bà ấy. Nhưng mẹ bảo để thư thả, nhà bây giờ neo người quá!
Duyên càng cảm động hơn. Đó chính là những sợi giây tình cảm giữ chân Duyên lại, ít nhất trong lúc bà Lương còn đang chữa bệnh chưa lành.
Quảng lại cầm cái điếu lên, lấy thuốc lào nhét vào nõ. Nhưng chợt nhớ ra nước trong cái điếu đã cạn khô, Quảng đứng dậy nhìn quanh rồi bước lại một vũng nước trâu đằm bên kia đường, vụt tay múc nước đổ vào điếu. Ông trở lại chỗ cũ, đủng đỉnh châm lửa hút. Rít xong hơi thuốc lào dài, ông mới bảo:
- Nhẽ ra thì tôi không tiết lộ cái tin này, vì nó phạm nguyên tắc bí mật. Nhưng chị đã bảo thế thì tôi đành nói thật.
Ông dừng lại, Duyên mở to mắt nhìn ông chờ đợi. Quảng thở dài rồi bảo:
- Chị Hậu bị bắt rồi!
Duyên hoảng hốt kêu lên:
- Bị bắt rồi! Bao giờ?
- Mới hôm kia!
- Chị tôi bị bắt ở đâu?
Quảng chậm rãi giải thích:
-Tôi chỉ được Thành Bộ Hà Nội thông báo là chị Hậu đã bị bắt. Chính vì thế hôm nay tôi phải về đây gặp chị ngay. Có hai việc cần phải trao đổi. Thứ nhất, chị phải thoát ly càng sớm càng tốt, vì chỉ nay mai mật thám có thể sẽ đến lục xét nhà chị. Chị không ở Hải Ninh được nữa. Thế nào cũng bị bắt. Thứ hai, chị về họp chi bộ ngay tối nay hay ngày mai, tuyệt đối đừng cho chi bộ biết tin là chị Hậu đã bị bắt. Chỉ nói rằng chi bộ cần cảnh giác, vì đang bị theo dõi. Tạm ngưng hoạt động một thời gian. Hay nói đúng hơn là chuyển hướng công tác, tránh hội họp, tránh gặp riêng nhau, không vận động tuyên truyền với bất cứ người nào khả nghi vì có thể bị gài vào tròng. Chắc chắn là mật thám sẽ chỉ thị lý trưởng và trương tuần theo dõi các đồng chí Hải Ninh! Phải hết sức đề phòng để tránh bị bắt …
Duyên lặng người ngồi im, cố mím môi để nước mắt khỏi trào ra. Anh Tân cô chưa làm được việc gì, chỉ lang thang ra biên giới rồi chết. Chị Hậu cô cũng chưa làm được gì, chỉ mới lên thành phố có nửa năm rồi bị bắt. Bị bắt thì cũng kể như chết, hoặc có khi còn khổ hơn là chết! Duyên đã nhớ lại cả mấy tháng trời mẹ cô vật vờ chết đi sống lại khi Hậu báo tin tự tử. Duyên trở thành điểm tựa của gia đình, là niềm an ủi cần thiết của bà Lương. Mẫu tử tình thâm, mẹ con càng ngày càng gắn bó hơn vì chỉ còn mình Duyên bên cạnh. Nhiều đêm bà bắt Duyên sang ngủ chung, xoa đầu Duyên như thuở còn con nít! Có khi trong giấc mơ, bà kêu tên Hậu, tên Tân, làm Duyên cảm thấy buốt nhói như có mũi dao nhọn đâm thẳng vào tim. Rồi bà giật mình choàng dậy, ôm ghì lấy Duyên và bảo:
- Con đừng đi đâu nhé con! Mẹ chỉ còn mình con với thằng Hoàn ….
Duyên trào nước mắt và hứa với mẹ trong niềm xúc động bao la:
- Con không đi đâu cả! Mẹ cũng đừng gả chồng cho con!
Rõ ràng so với Hậu thì Duyên yếu mềm lắm, thậm chí có lúc đã thấy ân hận rằng theo cách mạng là chọn lầm đường. Con đường ấy không có chỗ đứng cho những kẻ nặng tình cảm cá nhân như Duyên. Cái hăng say buổi đầu đã giảm đi quá nhiều làm cô lo sợ cái giây phút phải chia tay cha mẹ.
Nhưng cứ như Quảng vừa nói thì Duyên không thể ở lại được nữa, dù thương cha mẹ đến đâu cũng đành phải chia tay. Ở lại là chọn con đường vào tù. Quảng toan lên tiếng cắt nghĩa tiếp thì từ phía xa, trên con đường độc đạo, có một bóng người đàn ông vai vác cày, tay giắt trâu tiến về phía Quảng và Duyên. Duyên vội nhỏm dậy, khom người lủi nhanh vào sâu trong ruộng ngô. Quảng vẫn ngồi yên chỗ cũ, đội nón lên và lom khom cúi xuống thúng củ nâu. Chờ người vác cày đi qua khá xa, ông mới ho mấy tiếng làm hiệu, gọi Duyên quay ra để nói cho xong câu chuyện.
Duyên trở lại, mệt mỏi ngồi xuống chỗ cũ và hỏi:
- Còn gì nữa không anh?
Quảng phân trần:
- Sở dĩ tôi đề nghị chị thoát ly ngay là vì muốn bảo vệ chị, không để lọt vào tay địch! Chị thu xếp đi, sáng mai hoặc chậm lắm, sáng ngày kia, chị lên tỉnh gặp tôi. Chưa biết chừng chốc nữa chị về, mật thám đã cho người ở nhà chị rồi đấy! Chị Hậu bị bắt hôm kia. Lắm khi chỉ một ngày là có tin về đến làng! Đám mật thám bây giờ chúng nó quỉ lắm
Duyên hững hờ hỏi:
- Tôi đi Hà Nội hở anh?
Quảng nghiêm trang đáp:
- Trước mắt, Thành Bộ Hà Nội sẽ cho người xuống đón chị. Bố trí công tác cụ thể thì tùy các đồng chí ấy. Ở Hà Nội, Hải Phòng, cũng có thể ra tận Hòn Gai. Chữa biết thế nào!
Quảng nhón người dậy rồi bổng đưa tay vỗ lên trán rồi bảo:
- Tí nữa thì quên! Tôi dặn chị cái này quan trọng. Ngày mai chị lên tỉnh, chớ có lại hiệu thuốc lào như cũ. Chị Hậu bị bắt rồi, tôi không ở đấy được nữa. Nguy hiểm lắm. Chị lên tỉnh, cứ đi bộ theo con phố ấy, nhưng qua hiệu thuốc lào, đến số nhà 87, cửa hiệu bán gạo Thịnh Ký. Sẽ có người chờ chị ở đấy. Nhớ hộ tôi là không tạt vào hiệu thuốc lào. Tôi giao cho người ta rồi! Cơ quan Tỉnh Bộ bây giờ là Thịnh Ký, số nhà 87. Chị nhớ lấy!
Duyên gật đầu đáp:
- Tôi nhớ rồi. Hiệu bán gạo Thịnh Ký, số nhà 87.
Rồi Duyên uể oải đứng dậy, đội nón lên và bảo:
- Vâng! Thế thì ngày mai …. Chắc chắn hơn là ngày kia, tôi sẽ gặp anh. Ngày mai sợ không kịp, vì tối nay tôi còn phải họp chi bộ.
Nghe nói đến chi bộ, Quảng tha thiết dặn thêm:
- Chị đi là một chuyện. Nhưng cần nhất là chị phải sắp xếp công việc của chi bộ. Dặn các đồng chí ấy phải hết sức cảnh giác trong giai đoạn này! Tôi nhắc lại: Tạm thời ngưng tất cả, tránh không hội họp gì cả! Cần nhất là động viên các đồng chí ấy giữ vững tinh thần, dù trong bất cứ tình trạng hoàn cảnh nào!
Duyện gật đầu, lặp lại câu nói mỗi khi nhận công tác:
- Tôi nhớ rồi! Tỉnh bộ cứ tin tưởng ở chúng tôi!
Quảng đội nón, đứng dậy và gánh hai cái thúng nhẹ tênh quay lên dốc đê. Nhưng mới được mấy bước, Quảng quay lại bảo:
- Quên. Chị lấy một cái tên mới. Tên cũ ở làng không dùng được nữa vì rất dễ bị lộ. Chị lấy tên gì cho tôi biết ngay để tôi bảo với người trên Thành Bộ ngày mai xuống đón chị.
Duyên đang nghĩ đến cảnh chia ly với gia đình và làng cũ, nên đáp:
- Tôi lấy tên là Ly. Từ nay anh cứ gọi tôi là Ly.
Quảng hài lòng gật đầu:
- Tôi nhớ rồi! Tên đẹp đấy! Nhưng làm cách mạng thì cần cương quyết chớ không cần tên đẹp!
Rồi Quảng thoan thắt bước đi dưới ánh nắng xiên của buổi xế trưa.
Duyên cũng bước nhanh vào cổng làng. Nhưng thay vì về nhà, cô chạy sang tìm Nhâm, bảo Nhâm đi thông báo cho tất cả các đồng chí trong chi bộ tối nay họp phiên họp bất thường để Duyên phổ biến chỉ thị của Quảng, đồng thời từ biệt chị em lên đường. Bố mẹ Nhâm nhờ tiền chứa bạc và cho vay lãi cắt cổ, vừa tậu thêm được một căn nhà nhỏ ở sát cánh đồng làng, mua lại của một người thua bạc. Bố mẹ Nhâm dự định làm của hồi môn cho Nhâm mai say khi lấy chồng. Căn nhà ấy hiện chưa có người ở, vườn đất chung quanh, ngoài cây ăn trái xum xuê, còn có sẳn những luống lang và dàn đậu đũa chạy thẳng tới hàng rào tre sau nhà. Ngày ngày Nhâm thường ra chăm sóc hoặc múc nước dưới ao lên tưới. Những buổi họp gần đây của chi bộ Hải Ninh thường được triệu tập trong căn nhà trống này mà chẳng ai để ý bởi dân làng đều biết Nhâm bây giờ là chủ. Hai bên hông nhà và vườn sau, có nhiều bụi rậm, nhiều lối thoát quanh co dẫn ra cánh đồng làng hoặc thông sang vườn nhà hàng xóm. Giả như có bị phát hiện thì các cô cũng có thể chạy trốn dễ dàng.
Lúc Duyên đến, Nhâm đang luộc ngô trong bếp. Trên nhà tiếng nói ồn ào của hai bàn chắn ăn thua khá lớn. Để tránh mất thì giờ thảo luận trong buổi họp, Duyên dặn Nhâm trước:
- Tỉnh bộ vừa yêu cầu mình thoát ly ……..
Nhâm sửng sốt ngắt lời:
- Chị Hậu mới đi, bây giờ cậu lại cũng đi nốt ư? Sao không cử người khác? Thiếu gì đứa đang muốn thoát ly! Cái Nhu, cái Đoan. Đứa nào cũng mong đi!
Duyên gật đầu, nhấn mạnh:
- Nhưng Tỉnh Bộ chọn mình, mình phải chấp hành. Tối nay họp chi bộ, mình sẽ đề nghị bồ thay mình làm bí thư, lãnh đạo chi bộ.
Nhâm lắc đầu lia lịa:
- Không được đâu Duyên ơi! Chọn người khác đi.Mình tự thấy chưa đủ khả năng. Với lại hoàn cảnh nhà mình, cậu biết rồi. Người ra người vào tấp nập, nguy hiểm lắm, không có lợi cho đoàn thể!
Duyên cương quyết:
- Mình đã nghĩ kỹ rồi. Lãnh đạo chi bộ thì không ai bằng cậu! Thôi, mình không có nhiều thì giờ. Cứ nghe mình. Mình biết cậu làm được!
Nhâm chẳng biết nói sao, đành miễn cưỡng chấp nhận. Duyên đứng dậy từ giã. Cô vòng ra sau bếp, vạch hàng rào dâm bụt chui ra đường. Nhâm cũng tắt bếp, chạy vội đi thông báo buổi họp bất thường lúc 7 giờ tối tại căn nhà mới của Nhâm tại bìa làng.
Tối hôm sau, cơm nước xong. Duyên thu dọn mọi việc từ nhà trên xuống nhà bếp, vừa làm vừa sụt sùi ngấn lệ. Trăng thượng tuần chiếu ánh sáng mờ nhạt trên những khóm cây đang nhuốm lạnh hơi sương. Ông Lương đang ngồi uống trà ở gian giữa. Bà Lương đã vào buồng nghỉ sớm vì lúc này bà hay đau lưng. Thằng Hoàn cũng đã xuống ao rửa chân rồi lên phòng riêng ở đầu nhà phía bên kia. Xong hết việc nhà, Duyên mới đi tắm rồi vào bên giường mẹ và nói nhỏ:
- Mẹ còn thức không mẹ?
Trong mùng, bà Lương ngóc đầu dậy đáp:
- Còn! Gì đấy con?
Duyên đã chuẩn bị trước, mạnh dạn nói:
- Mời mẹ ra ngoài, con có chuyện cần thưa với bố mẹ!
Bà Lương ngơ ngác không hiểu gì, vì chưa bao giờ Duyên nói với bà bằng giọng nghiêm trang như vậy. Bà ngồi bật dậy và chỉ trong khoảnh khắc bà hoảng hốt nảy ra một ý tưởng ghê gớm trong đầu: Hay là con của bà chửa hoang, bây giờ lại thú tội với bố mẹ? Bà nghĩ thế vì gần đây, bà hay bắt gặp Duyên nói chuyện với thằng Kết bên kia bờ ao! Nếu quả thật như thế thì nhà bà hết phúc rồi, nhất là thằng Kết là con nhà cùng đinh!
Bà quơ chân tìm guốc rồi lết nhanh ra nhà ngoài, kéo ghế ngồi đối diện với ông Lương, Duyên khép cửa chính,hạ cửa sổ, đóng luôn cánh cửa ăn thông với buồng thằng em. Bà Lương hồi hộp theo dõi từng động tác của Duyên, lòng hoang mang như lửa đốt. Duyên tiến lại, đứng ở đầu bàn, khoanh tay nhắc lại:
- Con có chuyện muốn bẩm với bố mẹ ….
Ông Lương bình thản châm lửa đốt thuốc hút. Nhưng bà dằn không được, gay gắt ngắt lời:
- Chuyện gì? Mày đổ đốn ra rồi phải không? Con kia!
Ông Lương giơ bàn tay ngăn lại:
- Thì bà cứ để cho con nó nói cái đã!
Ông lúc này đổi hẳn tánh nết, trở nên dịu dàng hơn bà Lương rất nhiều. Duyên ngước nhìn bố thầm tỏ lời cám ơn rồi tiếp:
- Thưa mẹ không! Con không làm gì để bại hoại gia phong, xin bố mẹ cứ an lòng! Hôm nay con xin thưa với bố mẹ câu chuyện quan trọng hơn là: Chị Hậu con còn sống. Chị không chết …
Ông Lương vẫn ngồi yên,vì ông đã biết trước như thế. Nhưng bà Lương thì chồm đứng dậy, níu lấy cánh tay Duyên, giật mạnh kêu lên:
- Mày bảo sao, chị Hậu mày vẫn chưa chết ư?
Duyên dìu mẹ ngồi xuống rồi giải thích:
- Thưa mẹ chưa ….. chị Hậu con theo hội kín đánh Tây!
Bà Lương lại kêu lên:
- Ối giời ơi! Cái Hậu nó dám theo hội kín đánh Tây ư? Nó chưa chết thật à? Bây giờ nó ở đâu?
Duyên điềm tỉnh đáp:
- Vâng. Thưa mẹ, cả con nữa, con cũng vào hội kín chứ không phải riêng chị con. Ngày ấy, đoàn thể gọi đi thì chị con phải đi. Nhưng vì sợ liên lụy đến bố mẹ nên chị phải giả vờ tự tử để làng xã người ta khỏi điều tra lôi thôi, làm phiền đến bố mẹ!
Bà Lương hồi hộp nhắc lại:
- Cái Hậu nó còn sống ư? Thật ư? Thế bây giờ nó ở đâu?
Duyên chưa kịp trả lời thì bổng bà nhìn Duyên, uất ức mắng:
- Con phải gió này! Tiên sư bố mày! Thế tại sao bấy lâu nay mày không bảo cho tao biết, để tao khổ sở vất vả vì nó ….
Ông Lương lại chen vào:
- Bà cứ để cho con nó nói cái đã! Cái Hậu nó làm như thế là phải.Nó không giả chết thì nửa năm nay, lão Lý Bân có để cho nhà mình yên không?
Bà Lương không thèm để ý tới lời phân giải của chồng, bà nhắc lại:
- Tao hỏi mày, thế bây giờ cái Hậu nó ở đâu?
Trước giờ chia tay, Duyên không muốn biết tin cha mẹ đang ở tù nên cô đáp:
- Thưa mẹ! Con cũng không chị con đang ở đâu. Con chỉ biết chắc là chị con đang còn sống!
Bà Lương lại gắt:
- Làm sao mày biết nó còn sống? Ai báo tin này cho mày?
Duyên chưa kịp đáp thì ông Lương chen vào:
- Con nó nói thế thì bà hẵng cứ biết thế! Biết là cái Hậu chưa sao cả! Thế là đủ rồi! Con nó đang ở đâu thì từ từ rồi bà sẽ biết!
Bà Lương nghe lời chồng, không nói nữa, chỉ nâng vạt áo thấm nước mắt. Duyên lại hạ giọng nói nhỏ:
- Hôm nay con xin thưa thật với bố mẹ là dạo anh Tân con còn sống, anh con đưa chúng con vào Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội để là cách mệnh đánh Tây!
Ông Lương hơi giật mình ngước nhìn Duyên. Gần đây ông có nghe người bạn tâm giao của ông là ông Tú Nhân đề cập đến một tổ chức cách mạng là Việt Nam Quốc Dân Đảng đang bị mật thám Pháp truy quét rất gay gắt, nhất là tại Hà Nội. Ông tưởng con ông tham gia đoàn thể này, hóa ra không phải. Ngẫm nghĩ một chốc, ông mới đoán ra là lúc Tân còn sống, Việt Nam Quốc Dân Đảng chưa ra đời hoặc chỉ mới vừa thành hình mà chưa phát triển công khai. Nhưng điều ấy có quan trọng gì đâu! Các con ông có chí lớn muốn đánh đuổi ngoại xâm thì vào đoàn thể nào cũng được, bởi chính ông cũng chưa biết giữa hai tổ chức VNTNCMĐCH và VNQDĐ có gì khác nhau hay không? Ông ngồi im, lơ đãng nâng cốc trà mới rót, xoay xoay trong tay. Bà Lương cố ngăn dòng lệ nhưng chỉ nhịn được một lúc rồi bật khóc tấm tức. Duyên mủi lòng tiến lại, quì xuống trước mặt mẹ và nói:
- Con biết anh Tân con mất rồi chị Hậu lại ra đi, mẹ buồn lắm! Nhưng vì nghĩa lớn chúng con phải hy sinh tình nhà. Ngày mai, con xin phép bố mẹ, con lên đường!
Bà Lương òa lên khóc lớn, hai tay quờ quạng đặt trên vai Duyên rồi lùa vào tóc Duyên. Bà nghẹn ngào khá lâu mới nói được một câu:
- Các con bỏ bố mẹ đi hết hay sao?
Ông Lương nhắc:
- Bà nói khẽ chứ!
Duyên không ngăn được dòng lệ, gục mặt lên đùi mẹ. Cô nói:
- Bố mẹ ở nhà, giữ gìn sức khỏe, đừng quá bận lòng vì chúng con. Thôi thì mẹ cứ xem như chị em chúng con đi lấy chồng ở xa. Rồi thế nào con với chị Hậu cũng liên lạc về, khi điều kiện cho phép!
Bấy giờ ông Lương mới bảo:
- Các con đã chọn con đường ấy, thì bố mẹ cũng chả dám cản. Bố mẹ chỉ mong là hễ đã đi theo con đường cách mệnh, thì phải bền chí đến cùng, đừng bỏ cuộc giữa đàng!
Bà Lương đứng dậy, thấy thểu bỏ vào buồng. Duyên đi theo và đêm ấy lên giường ngủ chung với mẹ.
Sáng hôm sau, gà chưa gáy tiếng thứ nhất, Duyên đã ngồi dậy rón rén bước xuống thu xếp hành trang. Ngày Hậu ra đi, Duyên đã tràn ngập cái cảm giác chia ly. Hôm nay chính Duyên ra đi, cô càng hiểu nỗi xót xa của Hậu hơn nửa năm về trước khi phải từ biệt mái ấm đã cưu mang mình từ thuở lọt lòng.
Duyên về buồng mình, lấy cái tay nải bằng vải thô, bỏ mấy bộ quần áo vào rồi ngồi ở mép giường ngẫm nghĩ xem còn việc gì của chi bộ mà cô chưa giải quyết. Đêm hôm qua, bao nhiêu sách báo, tài liệu học tập, Duyên đã mang sang bàn giao hết cho Nhâm bởi cô đoán chắc nay mai thế nào lý trưởng cũng dẫn mật thám đến xét nhà mình sau khi hay tin Hậu bị bắt. Hải Ninh từ ngày Hậu đi, số đảng viên vẫn không tăng được người nào. Anh chàng Kết bên kia bờ ao đã được Duyên tuyên truyền nhiều lần, nhưng Duyên vẫn còn e ngại, chưa dám kết nạp. Ai cũng công nhận Kết rất nhiệt tình trong mọi công tác, lại đã đọc được chữ quốc ngữ do Nhâm dạy. Nhưng Duyên thấy rõ cái hăng say của Kết không do lòng căm thù Tây mà chỉ vì Kết là chàng thanh niên duy nhất có mặt giữa bầy phụ nữ trẻ. Sự kiện ấy xóa cho Kết cái mặc cảm nghèo vì bổng thấy mình trở nên quan trọng, được hoạt động chung với những cô gái mà bình thường Kết chưa bao giờ dám làm quen. Duyên mơ hồ cảm thấy cái đích của Kết không phải là làm cách mạng chống ngoại xâm mà là tìm dịp gần gũi các cô, nhất là Nhâm. Điều ấy rất nguy hiểm, bởi Kết chỉ cần thất vọng vì tình thì sẽ bỏ cuộc và có thể trở thành kẻ phản bội tổ chức. Chính vì thế mà Duyên vẫn lưỡng lự, chưa muốn cho Kết tuyên thệ gia nhập tổ chức. Có lần Duyên tâm sự riên với Nhâm:
- Cậu thấy anh Kết thế nào? Tham gia tổ chức được chưa? Mình thì mình thấy cần phải giáo dục Kết thêm một thời gian nữa!
Nhâm chẳng những nhất trí ngay với Duyên mà hơn thế nữa, cô còn muốn loại bỏ Kết ra luôn khỏi hàng ngũ. Từ lâu, Nhâm đã nhận ra Kết không có đủ phẩm chất cách mệnh. Duyên đã tuyên truyền lầm đối tượng mà Nhâm không dám nói ra. Thuở đầu Nhâm phụ trách dạy chữ quốc ngữ cho Kết, Kết siêng năng chăm chỉ lắm, lắng nghe tất cả những gì Nhâm giảng về con đường cách mạng. Lắng nghe nhưng không bàn cãi không thảo luận, chỉ cốt ý tìm dịp gần gũi Nhâm. Nhâm bảo gì Kết cũng nghe, sai cái gì Kết cũng làm, miễn Nhâm vui là Kết vui theo. Ngày ngày biết Nhâm hay ra chăm sóc ngôi nhà mới ở ven làng, Kết cũng len lén tìm đến gặp Nhâm, vờ vịt nhờ Nhâm đọc một trang sách truyện hoặc một bài chính tả. Nhâm ngại lắm vì rủi có ai bắt gặp hai người ngồi chung với nhau trong căn nhà trống thì tiếng đồn sẽ bay nhanh ra như bão tố trong làng. Nhưng cứ nghĩ đến lời Hậu và Duyên đã dặn. Chi bộ cần phải có cả đàn ông chứ không thể chỉ toàn phụ nữ. Nhâm lại đành chiều ý Kết dù biết lòng Kết không thẳng thắn
Mổi lần thấy Kết từ ngoài cổng bước vào, Nhâm khó chịu lắm. Kết thường làm bộ vác cuốc ra đồng hoặc mang cần đi câu cá, rồi tiện đường tạt vào để nhờ Nhâm dạy thêm. Quyển sách mỏng hoặc cuốn vở tập viết, Kết giấu trong áo, vào hẳn trong nhà Nhâm, Kết mới moi ra. Từ ngày được bố mẹ mua cho căn nhà này, Nhâm thích lắm, ngày nào cũng ghé đây coi vườn vì nó là giang sơn riêng của Nhâm. Nhưng Kết ghé nhiều quá, có tuần liên tục đến mấy ngày, khiến Nhâm lo sợ không dám ra nữa! Nhâm định chịu đựng thêm một thời gian nữa, nếu Kết không thay đổi tính thì chính Nhâm phải lên tiếng, bởi nếu Nhâm không nói thì có khi Kết lại tưởng Nhâm cũng có cảm tình với mình và cứ thế mà mạnh dạn tiến tới. Cho nên một hôm Nhâm bảo:
- Anh Kết ơi! Gặp riêng anh như thế này thì thật là không tiện tí nào. Ngộ nhỡ có ai nom thấy thì nguy to! Đề nghị anh, chỉ khi nào cần thiết lắm, anh mới ra đây tìm tôi …
Nghe giọng nói dịu dàng và tha thiết, Kết không cho đó là một câu đuổi khéo, trái lại còn thầm nể Nhâm là cô gái đoan trang cẩn trọng. Kết hăm hở nói:
- Vâng! Nhâm nói thế cũng phải. Thôi thế này. Từ nay, mỗi tuần tôi chỉ gặp Nhâm một lần thôi. Nhiều bài tôi đọc mãi mà chả hiểu. Nhờ Nhâm giúp hộ!
Nhâm rất bực vì Kết dám kêu tên mình, trái với nguyên tắc của của chi bộ là phải gọi bằng “anh, chị”. Bực mình nhưng Nhâm không đủ can đảm phê bình, nên Kết vẫn cứ có cảm tưởng Nhâm có thiện cảm với Kết.
Một hôm, Nhâm dạy Kết tập đọc. Bàn tay cô đang chỉ vào một chữ khó đánh vần trên trang giấy thì Kết đột ngột nắm lấy bàn tay Nhâm. Nhâm nghiêm mặt trừng mắt nhìn Kết và rút mạnh tay ra. Từ đó, cô không dạy Kết nữa. Nhâm không kể cho Duyên biết, nhưng trong lòng rất chán nản vì Duyên đã tuyên truyền lầm một người không xứng đáng
Chi bộ Hải Ninh vì vậy vẫn chưa có đàn ông!!
Sau buổi họp, chia tay mọi người rồi, Duyên nán lại bảo Nhâm:
- Cậu nhớ đấy nhé! Anh Quảng bảo Hải Ninh chúng mình đã bị địch phát hiện và đang ra sức theo dõi. Tạm thời cần án binh bất động. Tránh hội họp, tránh gặp nhau!
Nhâm gạt nước mắt nói:
- Mình nhớ rồi! Cậu cứ an tâm lên đường, cố gắng công tac tốt. Rồi sẽ có ngày gặp nhau!
Hai người ôm chầm với nhau trong vài giây rồi Duyên quay bước về nhà.
Sáng nay thức dậy, Duyên bổng thấy nhớ tha thiết những hoạt động bí mật thật sôi nổi hai năm qua ở Hải Ninh. Những khuôn mặt đồng chí đầy nhiệt tình nhưng mỗi người một tính, trong đó có Nhâm, tuy nhà giàu mà tốt bụng, luôn luôn tìm cách giúp đỡ bạn bè về vật chất. Từ hôm nay, dấn thân trên con đường cách mạng mịt mùng, chả biết có bao giờ còn gặp lại bạn bè ở Hải Ninh nữa hay không?
Duyên ra dàn nước rửa mặt. Trời mờ tối, hơi sương thấm lạnh. Lúc quay vào thì thấy bà Lương đã đứng chờ trong buồng. Bà dúi vào tay Duyên ít tiền và dặn:
- Con đi đâu, ở đâu, thân giá dặm trường, lúc nào cũng phải cẩn thận, nhìn trước trông sau. Thỉnh thoảng, con phải cố liên lạc về cho bố mẹ biết tin. Cái Hậu nữa. Con có gặp nó thì bảo nó biên thư cho bố mẹ để bố mẹ đỡ sốt ruột!
Duyên nén tiếng thở dài, nhìn mẹ tội nghiệp. Đã trốn đi làm cách mạng mà bảo biên thư về! Thư từ ở đâu gửi tới cũng phải qua tay lý trửơng rồi mới phân phối tới từng địa chỉ trong làng. Hậu và Duyên gửi thư cho bố mẹ thì có khác nào lạy ông con ở bụi này! Tuy vậy, Duyên cũng gật đầu cho mẹ yên tâm:
- Vâng! Thế nào chúng con cũng liên lạc về! Mẹ ở nhà, uống thuốc cho lại sức mẹ nhé. Dạo này mẹ gầy đi nhiều lắm. Chúng con lớn cả rồi. Mẹ đừng quá bận tâm cho chúng con.
Rồi Duyên xách tay nải, đeo lên vai và dứt khoát nói:
- Thôi con đi mẹ ạ! Mẹ chào bố hộ con. Bố con đang ngủ, con không muốn đánh thức
Bà Lương nghẹn ngào đứng trong bậc cửa nhìn theo Duyên lặng lẻ bước ra cổng rồi mất hút trên con đường làng vắng lặng dưới làn sương mỏng. Ngang qua nhà Nhâm, trên cùng một con đường, Duyên đưa mắt nhìn vào, biết chắc cả nhà giờ này còn đang ngủ vì bố mẹ Nhâm thường tiếp khách đánh bài đến khuya mới tan sòng. Nhưng thật là bất ngờ! Nhâm đã đứng chờ sẳn sau cây rơm gần cổng ra vào. Vừa thấy Duyên, Nhâm lao ra kéo tay Duyên vào khuất sau đống rơm khổng lồ. Nhâm bùi ngùi bảo:
- Cả đêm mình không ngủ được! Dậy sớm nấu ấm nước pha chè cho ông cụ rồi ra đây đứng chờ cậu!
Duyên cảm động đáp:
- Mình cũng không tài nào nhắm mắt được! Đi chuyến này chả biết đến bao giờ mới gặp lại nhau!
Nhâm gắt nhẹ:
- Đừng có nói gở! Còn sớm, hay là vào bếp ngồi với mình một tý. Cả nhà chưa ai thức cả!
- Thôi đứng đây được rồi. Vào bếp, nhỡ bố mẹ cậu thức dậy, bắt gặp thì biết nói năng làm sao! Con gái, con lứa mà đi đâu sớm thế này?
Nhâm giật nhẹ bàn tay Duyên:
- Chưa có ai dậy đâu! Đánh chắn đến quá nữa đêm, giờ này dậy làm sao được! Đi. Đứng đây, ai thấy mới là khó ăn khó nói!
Duyên lưỡng lự một chút rồi theo Nhâm vào bếp. Đó là dãy nhà ngang cách xa hẳn nhà trên, có nói chuyện cũng chả ai nghe thấy. Nơi đây dạo trước, Hậu thường cho họp chi bộ. Hậu đi rồi, Duyên cũng hay họp chi bộ ở đây vì Nhâm là phó bí thư.
Hai người rón rén vào bếp, lấy hai cái ghế thấp lè tè, ngồi trước bếp lửa vừa tắt nhưng than còn đỏ rực trong đó. Nhâm đứng dậy khép cửa rồi bảo Duyên:
- Mình gặp cậu để nói chuyện này. Lẻ ra mình phải nói với cậu lâu rồi, nhưng ngại quá đành để bụng ….
Duyên quay nhìn Nhâm, ngơ ngác hỏi:
- Chuyện gì đấy? Sắp lấy chồng ư? Tiếc là mình chả được ăn cưới!
Nhâm cười buồn:
- Cưới đâu mà cưới! Chuyện anh Kết … Mình thấy không được Duyên ơi! Hôm nọ dạy anh ấy tập đọc, tự dưng nắm lấy tay mình!
Duyên sửng sốt ngắt lời và thấy chẳng cần gọi Kết là “anh” nữa:
- Nó dám nắm tay cậu?
Nhâm gật đầu rồi thêm:
- Kém phẩm chất quá! Cứ tưởng là yêu nước mà theo cách mệnh, hóa ra chỉ vì mê gái thôi!
Rồi Nhâm ưu tư thêm:
- Cái khổ của mình là đã lỡ cho anh ấy tham gia, biết nhiều chuyện nội bộ của chi bộ mình. Nếy bây giờ làm anh ấy phật lòng, anh ấy đi tố giác thì vỡ cả chi bộ. Vào tù hết!
Duyên đăm chiêu nhìn xuống đống tro. Khá lâu cô mới nói một câu vô thưởng vô phạt:
- Cần phải giáo dục thêm một thời gian. Hy vọng anh ấy sẽ giác ngộ! Nhiều người cứng đầu lắm, xấu tính lắm, mà rồi cách mệnh cũng cảm hóa được!
Nhâm thở dài:
- Nhưng bây giờ mình không muốn gặp anh ấy nữa thì giáo dục làm sao được! Người như thế, có kết nạp rồi cũng chả đến đâu bởi nặng tình cảm cá nhân, thiếu lý tưởng cách mệnh!
Duyên cũng không biết nên xử trí thế nào về trường hợp của Kết. Im lặng một chút, Nhâm dè dặt lên tiếng:
- Trước khi cậu đi, mình hỏi cậu cái này: Nếu bây giờ chi bộ thẳng thắng phê bình thái độ của Kết, rồi anh ta thất vọng xấu hổ, đâm ra phá bĩnh và có thể trở thành kẻ phản bội, thì lúc ấy mình làm thế nào? …. Mình nghe nói đoàn thể sẳn sàng trừng trị những đứa phản bội, giống như bên Quốc Dân Đảng mới xử tử mấy thằng nội tuyến mà cậu đã kể với tớ …
Duyên giật mình ngắt lời:
- Trừng trị kẻ phản bội thì đúng rồi, nhưng anh chàng Kết này đâu đã đến nỗi nào! Cậu lo xa quá! Anh ấy có cảm tình với cậu, cậu không bằng lòng thì thôi chứ chả nhẽ. … thủ tiêu người ta!
Nhâm vẫn ưu tư:
- Chớ nó đi tố cáo thì vỡ cả chi bộ!
Duyên đặt bàn tay lên vai Nhâm an ủi:
- Nếu chi bộ không giải quyết được thì lên báo cáo với anh Quảng!
Dứt lời, Duyên quay nhìn ra sân và đứng dậy:
- Thôi, mình đi kẻo trễ quá! Từ đây lên tỉnh cũng xa!
Nhâm tiển Duyên ra tận cổng, Duyên bảo:
- Cậu ngại gặp Kết thì cư giao công tác cho người khác giáo dục nó. Chỉ có cách ấy thôi, chứ cậu làm nó xấu hổ, nó phá bĩnh thì nguy lắm!
Nhâm gật đầu, nắm tay Duyên bịn rịn. Duyên bảo:
- Cậu vào nhà đi! Mình đi đây! Vào đi, không nhỡ hai bác thấy.
Rồi Duyên quay gót, lầm lũi đi giữa hai rặng tre sương còn đọng lóng lánh.
Hơn một tuần sau, đúng như Quảng dự kiến, lý Bân đưa hai mật thám đến lục soát nhà ông Lương. Lúc ấy là khoảng 6 giờ chiều, bà Lương đang dọn cơm ra hè trong nỗi buồn vời vợi vì nhà bây giờ trống vắng quá. Bà vừa ngồi xuống, mở nắp nồi cá kho thì nghe tiếng xôn xao ngoài ngõ, bà giật mình nhìn ra rồi hoảng hốt quay đầu vào, run run gọi ông:
- Ông ơi! Ông lý dẫn người đến kia kìa!
Vừa nói, bà vừa đậy nắp nồi lại rồi bưng luôn cả mâm cơm chạy xuống bếp. Bà lo lắng tự hỏi:
- Không nhẽ Duyên mới đi có mấy hôm đã bị bắt?
Lý trưởng chống ba-toong dẫn đầu, theo sau là trương tuần rồi đến hai gã thanh niên mặc Âu phục, đứa nào mặt mũi trông cũng dữ dằn và kỳ bí. Ông Lương đã đoán trước sẽ có ngày hôm nay, nên ông bình tỉnh ra chờ ngoài hiên. Lý trưởng hầm hầm tiến đến. Ông Lương chưa kịp mở miệng chào thì lý trưởng đã mắng:
- Ông nuôi một lũ con làm giặc! Cái Duyên đâu? Lôi cổ nó ra đây! Tưởng là con nhà gia giáo, hóa ra đi làm loạn! Chuyến này tôi trừng trị thẳng tay, không nể nang gì nữa!
Ông Lương tức lắm vì bị lý trưởng nói nặng lời, nhưng ông ở thế kẹt vì con gái ông “làm loạn” thật! Ông từ tốn hỏi lại:
- Ông lý bảo sao?
Lý trưởng càng quát lớn:
- Ông im đi! Rồi ông sẽ biết!
Dứt lời, lý trưởng hùng hổ bước vào nhà, cùng tóan mật thám bung ra lục xét. Bà Lương khép nép đứng nhìn theo. Bao nhiêu năm nay ở làng này, hình như bà chưa bao giờ thấy lý Bân có vẻ tức giận như vậy!
Lý Bân tức là phải! Cách đây hai hôm, ông đang thưởng thức bửa rượu lậu bên mâm thịt chó béo ngậy ở nhà ông phó lý, có cả chánh tổng, phó tổng, chưởng bạ, thư ký, chánh hội, phó hội, nói chung là đủ mặt quan viên chức sắt trong làng, thì có lệnh quan Huyện đòi lên hầu việc khẩn cấp. Theo kinh nghiệm ngàn đời để lại thì hễ quan gọi là điềm dữ nhiều lành ít! Từ phút ấy, lý Bân ăn mất ngon. Bửa tiệc nhìn ông thông cảm. Không khí trầm hẳn xuống. Tháng này không phải mùa thuế thân, cũng chằng phải mùa nước lũ phải phòng chống vỡ đê. Thế thì quan trên gọi làm gì? Ông lật đật chan húp cho xong bữa rồi chạy về, chuẩn bị quà cáp và tiền mặt để nếu chẳng may quan gợi ý thì nộp ngay theo thủ tục bỏ của chạy lấy người!
Sáng hôm sau, lý Bân cắp ô đi từ lúc gà chưa gáy tiếng thứ nhất. Lên đến nơi thì vừa tan chầu, quan lui vào nghỉ trưa. Lý Bân lóng ngóng ngồi chờ trước công đường, không dám ra phố, mặc dù bụng đói mỗi lúc một sôi lên vì đói. Nhìn quanh, thấy cả năm bảy ông khăn đống áo dài giống hệt mình, mặt mũi ai cũng ưu tư thở vắn than dài, lâu lâu liếc về phía ông bằng ánh mắt lo âu, ông biết ngay đó là mấy ông lý ông tổng ở mấy làng khác cũng được quan gọi lên ban lệnh. Điều này làm ông an tâm hơn chút vì chắc là có chỉ thị chung cho cả huyện.
Hơn hai giờ chiều, lính hầu mới ho lên một tiếng rồi vén mành cửa để quan huyện từ bên trong khệnh khạng bước ra. Quan mới ngòai ba mươi nhưng nom bề thế như người ngũ tuần đang độ phát tướng, nhất là khuôn mặt tròn quay càng ngày càng béo ra, khiến cho cái mồm nhỏ hẳn lại. Vừa nhác thấy bóng quan, lập tức các ông lý ông tổng đều nhất loạt đứng bật dậy, cúi rạp xuống và chấp tay vái:
- Lạy quan lớn ạ! Bẩm cụ lớn ạ!
Quan không thèm nhếch mép. Mặt lúc nào cũng nghiêm và buồn bởi theo truyền thống của chế độ phong kịến là hễ làm quan lớn thì không được cười, vì cười sẽ làm giảm đi cái uy tín của bậc dân chi phụ mẫu! Quan đủng đỉnh ngồi xuống, lính hầu cầm quạt phe phẩy phía sau. Chả biết quan đọc giấy tờ gì mà cả mười phút sau mới ngẩng lên hỏi:
- Lý trưởng Hải Ninh có đây không?
Dĩ nhiên qua đả thấy ông ngay từ lúc bước ra công đường, nhưng vẩn hỏi một câu cho oai. Lý Bân đứng dậy, tiến lên vài bước, chấp tay vái mấy cái và đáp:
- Bẩm có ạ! Bẩm quan lớn! Con lên chầu quan từ sáng sớm đấy!
Quan khẻ nhướng mắt nhìn và chẳng cần bịết người đối diện mình bao nhiêu tuổi, hễ cứ cấp dưới là quan đều gọi bằng “mày” cho thân mật, cũng giống như bản thân quan, hễ gặp cấp trên như tuần phủ hay thống sứ thì lại đến lượt quan cúi rạp người và xưng con!
Mặt quan đang lạnh như tiền, bổng nổi giận bất ngờ, đập bàn quát:
- Làng mày dạo này chứa chấp cộng sản, phải không?
Lý Bân tái mét, run lập cập đáp:
- Bẩm quan lớn đèn giời soi xét …
Quan không thèm nghe, cầm xấp giấy lên rồi ném mạnh xuống bàn:
- Công văn trên tỉnh vừa gửi xuống. Cả ổ cộng sản hoạt động ngay trước mắt mà mày không biết! Mày mù sao hở thằng kia?
Lý trưởng Hải Ninh không nói nên lời. Những ông chức việc của làng khác cũng xanh xám mặt mày trước cơn thịnh nộ của quan huyện. Cũng như Hải Ninh, họ đã liên tiếp nhận được chỉ thị mật từ trên xuống là phải theo dõi và phát hiện Quốc Dân Đảng cũng như Cộng sản trong địa phận của mình. Vậy mà cứ lâu lâu quan lại được tin hội kín càng ngày càng tung hoành trong huyện. Hôm nay quan cho gọi một loạt lý trưởng lên đây cũng chỉ vì việc ấy. Quan chỉ tay vào mặt lý Bân, nhưng cốt ý là ban nghiêm lệnh chung cho tất cả các chức việc có mặt tại công đường:
- Mày chỉ biết lạm thu thuế thân, bòn rút của công! Còn an ninh trật tự trong làng thì mày nhắm mắt ngơ đi, có phải không? Tao hạn cho mày một tuần lễ mà không tìm ra chúng nó thì tao cách cổ, tịch thu bằng triện, nghe chưa?
Tất cả những ông lý ông tổng ở các làng khác đều run lên bần bật giống như lý Bân. Quan quay sang bảo thầy đề:
- Thầy giắt nó xuống. Người ta chờ dưới ấy lâu rồi!
Thầy đề dạ một tiếng rồi đứng ngay dậy, ngoắc tay bảo lý Bân theo gã. Lý Bân gập người từ giã quan huyện rồi lui dần ra cửa. Ông thở phào nhẹ nhõm theo thầy đề sang bên hông công đường, ở đó có căn phòng khang trang quan dùng để tiếp khách quí trên tỉnh xuống.
Buổi chầu hôm nay diễn ra nhanh chóng chưa từng thấy trong bao nhiêu năm nắm quyền ở Hải Ninh, khiến lý Bân hết sức ngạc nhiên. Bình thường, mỗi lần được lệnh lên hầu, bao giờ ông cũng bị quan hạch sách đủ điều mà lẫn trong những câu hỏi vặn vẹo rất khó trả lời của quan, thể nào cũng lộ ra cái ý đòi ông phải đút lót. Hôm nay thì khác hẳn. Quan chỉ mắng có mấy câu mà là mắng lấy lệ chứ rõ ràng chả có hậu ý gì. Khôn đòn quan, gái ngoan đòn chồng! Quan có yêu thì quan mới mắng, trò này lý Bân đã quen lắm rồi, miễn quan không vòi vĩnh là được! Nhưng như vậy là thế nào? Chả nhẽ quan cho gọi ông từ Hải Ninh lên đây chỉ để gặp quan có mấy phút cho đỡ nhớ? Ông lo lắng quay sang nói với thầy đề:
- Tôi hỏi cái này không phải thầy bỏ qua cho! Quan vừa bảo “người ta chờ ở dưới ấy lâu rồi”. Người ấy là ai thế hở thầy?
Thầy đề ghé tai lý Bân thì thầm mấy câu. Lập tức đôi mắy lý Bân trợn lên và da mặt bỗng chốc đổi sắc! Ông đứng khựng lại một chút rồi khúm núm theo thầy đề bước vào phòng khách vãng lai của huyện đường, ở đó có một ông Tây và một thanh niên Việt Nam nước da đen xỉn đang ngồi nói chuyện với nhau, khói thuốc tỏa lên dày đặc.Đó là gã thanh tra mật thám Léon và tên tay sai đắc lực vừa từ Hà Nội xuống để điều tra thêm về tông tích của Hậu sau khi được biết Hậu là người làng Hải Ninh. Cả năm nay, Léon làm việc không ngừng tay, trở thành thứ thanh tra lưu động của Sở Liêm Phóng, đi lùng bắt những thành phần hội kín khắp nơi trên đất Bắc. Gã đã đưa vào tù hàng loạt nhân sự VNQDĐ sau cái chết của Bazin hồi tháng 2 năm 1929. Bây giờ đến lượt khui tìm đường giây cộng sản vì bắt được cả thùng truyền đơn trong nhà Hậu. Lý Bân chưa biết Léon là ai, nhưng hễ cứ thấy Tây là cúi đầu chào kính cẩn. Thầy đề vốn có thiện cảm với lý Bân vì lần nào có việc lên hầu quan, lý Bân cũng không quên quà cáp cho thầy, nên thầy dịu dàng bảo:
- Ông lý vào gặp quan thanh tra đi! Tôi lên hầu quan lớn!
Léon dụi điếu thuốc, ngoắc lý Bân lại, mở cuốn sổ nhỏ ghi chép li ti bằng tiếng Tây lẫn tiếng Việt, rồi bằng tiếng Việt khá thành thạo, gã hỏi:
- Mày có biết Vũ Thị Hậu là con cái nhà ai ở làng mày không?
Lý trưởng giật mình đáp:
- Bẩm biết ạ! Nó là con ông giáo Lương. Nhưng bẩm quan lớn, nó chết lâu rồi ạ! Nó tự tử chết đến hơn nữa năm nay rồi ạ!
Thằng Tây toan vả vào mặt ông nhưng kìm lại được vì biết lý trưởng cũng là người tận tâm phục vụ cho nhà nước bảo hộ. Hắn văng tục một câu tiếng Tây rồi gay gắt bảo lý trưởng:
- Tự tử cái con mẹ mày! Sở Liêm Phóng mới bắt quả tang nó in truyền đơn và cờ búa liềm! Nó hoạt động cho cộng sản, mày nghe chửa?
Gã tay sai Việt Nam chen vào:
- In cả đống truyền đơn với cờ búa liềm ngay tại nhà nó tại Hà Nội!
Lý Bân choáng váng quay cuồng, ngơ ngác hỏi:
- Thật ư? Cái Hậu nó còn sống ư?
Rồi ông run run hỏi:
- Bẩm quan bảo sao ạ? Vũ Thị Hậu còn sống à? Lẽ nào lại như thế được!
Léon nhìn ông khinh bỉ:
- Mắt mày mù, nên mày mới tưởng là nó chết! Nó in truyền đơn cộng sản, bị bắt quả tang! Bây giờ nó đang bị nhốt ở sở Liêm Phóng!
Lý Bân còn đang lúng túng thì Léon tiếp:
- Nó khai nó hoạt động ở Hải Ninh lâu rồi mà mày không biết? Tao sẽ bảo quan huyện cách chức mày vì tắc trách!
Lý Bân sững sờ vừa lo vừa giận. Ông giận chính ông vì không ngờ mình bị lừa. Ông nhớ lại cái lớp dạy đan may và quốc ngữ ở nhà Hậu mà đáng lẽ ông phải để tâm theo dõi ngay từ khi mới khai trương. Hóa ra ông quá ngây ngô! Giờ này ông hối hận thì đã muộn mà nhất là ông không dám khai ra cái lớp ấy vì càng tiết lộ, ông càng bị khiển trách là lơ là nhiệm vụ.
Ông lập cập thưa:
- Bẩm quan! Chắc nó mới bị đứa nào dụ dỗ chớ làng con xưa nay làm gì có cộng sản. Đến Quốc Dân Đảng còn chả có, cộng sản lọt vào làng con thế nào được!
Léon nhìn lý Bân bằng ánh mắt khinh bỉ. Với những tù nhân chính trị chống chính quyền bảo hộ, León đánh đập không chút nương tay. Nhưng với những kẻ hợp tác trung thành có thể sai khiến được, chẳng hạn như lý Bân, thì dù có sơ sót vì khờ khạo, Léon vẫn sẳn sàng niệm tình tha thứ. Tuy vậy, gã không quên răng dạy nghiêm khắc:
- Mày nói ngu như thế mà cũng mở mồm mà nói! Mày bảo con Vũ Thị Hậu mới bị thằng nào dụ dỗ theo loạn đảng! Thế thì thằng anh nó đang học trường cao đẳng, bỏ trốn theo TNCMĐCH rồi chết vì sốt rét đã mấy năm nay, mày mù hay sao mà không biết?
Lý Bân run lên bần bật vì không ngờ mật thám đã có đủ hồ sơ về gia đình Hậu. Ông không dám lên tiếng nữa, đành ngồi im nghe chửi.
Léon hầm hầm nhìn lý Bân tiếp:
- Nếu nhà ấy chỉ có mình con Hậu theo cộng sản thì tao không phải thân hành xuống! Tao muốn là vì muốn moi ra tận gốc cái ổ nhà nó ở Hải Ninh, xem chúng nó hoạt động từ bao giờ và gồm những đứa nào. Mày hiểu chưa? Chắc là mày phải chờ cả làng mày treo cờ búa liềm thì mày mới mở mắt ra! Có đúng không!
Dứt lời, Léon quay sang gã tay sai người Việt từ nãy đến giờ vẫn ngồi hút thuốc Bastos bên cạnh. Tên gã là Nam, nhưng vì da mặt lúc nào cũng xám ngoét như chì, nên mọi người đều gọi gã là Nam đen. Léon bảo:
- Nam! Gọi tài xế. Đánh xe đi xuống Hải Ninh!
Thế là lý Bân được tháp tùng Léon, ngồi xe ô tô chạy về làng. Dọc đường, gã tay sai tên Nam đen đặt ra hàng loạt câu hỏi về hoạt động của Hậu, về lí lịch cả nhà ông bà Lương, nhưng lý trưởng cứ phải giấu quanh, che đậy giùm cho gia đình ấy, bởi ông sợ làm to chuyện thì sẽ bị cách chức vì thiếu kiểm soát nhân sự trong làng. Ông phân trần với Nam đen:
- Gia đình ông giáo Lương thuộc loại tử tế trong làng. Ai cũng quí cả! Sưu thuế nhà ấy chả năm nào thiếu!
Léon quay sang mắng:
- Tao không về đây để đòi thuế chúng nó! Tao về đây để bắt cộng sản!
Lý Bân sợ quá ngồi yên. Xe vào đến cổng làng, Léon đột ngột hỏi:
- Con em của Hậu là Vũ Thị Duyên, 20 tuổi, còn ở nhà với bố mẹ nó. Mày có theo dõi nó hay không?
Léon hỏi câu hỏi đó thật là chơi ép lý Bân quá! Mãi đến hôm nay ông mới biết là Hậu theo hội kín. Trước đó, ông có nghi ngờ gì đâu mà theo dõi! Ông đáp:
- Bẩm quan lớn. Con bé ấy nó vẫn đi làm ruộng với người ta …
Léon cắt ngang:
- Làng mày, đứa nào không làm ruộng? Mày tưởng hễ cứ làm ruộng là không làm loạn à?
Xe chạy vào sân nhà lý trưởng, dừng lại trước thềm. Lý Bân quát cái Nhung dọn ấm chén, pha trà mạn sen đón quan thanh tra từ Hà Nội xuống. Nhưng Léon chỉ thị:
- Tao không có nhiều thì giờ. Tao về đây không phải để uống nước chè với mày! Bây giờ, mày dẫn thằng Nam với tuần phiên của mày đến thẳng nhà con Hậu, lục xét thật kỷ cho tao. Tao ngồi ở đây! Bất cứ giấy tờ, sách báo gì ở nhà nó, cũng khuân hết về đây cho tao!
Lý trưởng luôn mồn vâng dạ. Ông mừng thầm vì Léon không đòi đi theo ông. Có mặt thằng Tây giữa xóm làng, dù sao thì thiên hạ cũng sẽ kinh động rồi tiếng đồn lan ra càng rộng. Ngày nào ông còn ngồi ghế lý trưởng, ngày ấy ông muốn ém nhẹm mọi việc, đừng để có bé xé ra to, quan trên sẽ kiếm cớ để cách chức ông. Léon quay sang bảo Nam đen:
- Tao giao quyền cho mày. Hễ bắt được tài liệu gì khả nghi ở nhà nó, thì lập tức trói cổ con Duyên với thằng bố nó, giải về đây cho tao, để tao đem xuống Hà Nội!... Đi đi!
Lý trưởng gọi ba người tuần phiên, rồi cùng với Nam đen và gã tài xế rảo bước đến nhà ông Lương. Nam đen chỉ thị một người tuần phiên gác cổng, còn tất cả xông thẳng vào nhà. Nam đen quát tháo ra lệnh cho cả nhà ông Lương tập trung ngoài hè, ai bỏ chạy là bắn bỏ ngay! Ông bà Lương và thằng Hòan run rẩy ngồi sát bên nhau, mặt mũi lo âu, nhưng không ai dám nói lời nào. Nam đen dẫn cả bọn xông vào, chia nhau từng buồng, bới tung từng cái rương, cái tủ, moi móc hết mọi ngõ ngách từ trên nóc xuống nền gạch. Lục lọi một lúc, lý trưởng quay ra hè, nhìn ông Lương hỏi:
- Cái Duyên đâu?
Bà Lương sợ hãi đáp:
- Chắc cháu nó sang chơi lanh quanh đâu bên hàng xóm!
Lý trưởng gằn giọng:
- Chơi lanh quanh ở đâu? Đi họp với cộng sản chứ gì?
Dứt lời, ông lại chạy vào nhà để cùng toán mật thám tiếp tục moi móc. Giờ này, khi được tin Hậu bị bắt quả tang đang in truyền đơn và cờ búa liềm tại Hà Nội, ông mới nhớ ra rằng âm mưu của chị em Hậu đã khởi đầu ngay từ cái lớp dạy may và chữ quốc ngữ ở nhà này. Kết luận ấy khiến ông càng căm thù ông bà Lương đã che chở cho Hậu, cho Hậu đi theo cộng sản mà còn giả vờ làm đám tang, mếu máo huy động dân làng đi tìm xác Hậu! Ông không ngờ cái lão Lương này xuất thân nhà giáo mà cũng lưu manh như vậy!
Lục lọi một hồi nữa vẫn chẳng có kết quả gì bởi Duyên ra đi không để lại dấu tích nào sơ hở, lý trưởng uất lắm! Trong phạm vi cai trị của ông vì có dấu vết của hội kín, khiến ông bị quan trên khiển trách nặng nề. Mấy lần truyền đơn chống Pháp rãi đầy khắp Hải Ninh, ông bứt rứt mất ăn mất ngủ vì không bíêt đứa nào là thủ phạm. Hóa ra chúng nó xuất phát từ căn nhà này!
Ngồi bên hè, bà Lương lấm lét liếc vào trong nhà, đau đớn nhìn hai gã mật thám cùng đám tuần phiên đổ tung từng cái hòm, cái rương, cái thùng. Chăn chiếu trên giường lôi xuống hết. Thậm chí cả bàn thờ gia tiên cũng không bỏ sót. Họ cần phát hiện một tờ truyền đơn, một xấp tài lịêu hay cờ búa liềm để kết tội. Nhưng chả có gì vì Duyên đã mang đi giao hết cho Nhâm.
Bên ngoài trời tối dần. Ông lý đứng chống nạnh trên hè, nhìn ra cổng rồi quay sang hỏi
- Cái Duyên nó đi đâu mà giờ này vẫn chưa về?
Ông bà Lương đưa mắt nhìn nhau rồi bà Lương đáp:
- Tôi cũng chả biết. Chắc tại vui bạn vui bè …
Bà Lương đang nó dở thì Nam đen từ trong nhà bước ra. Cũng như lý trương, Nam đen chưa biết Duyên đã đi khỏi làng cả tuần nay, nên gã kéo tay ông lý ra một góc và bảo:
- Ông Lý về đi! Dẫn lính về đi! Ông về trình với quan thanh tra là chúng tôi nằm lại đây. Kể từ giờ phút này, gia đình này nội bất xuất, ngoại bất nhập! Hai đứa chúng tôi sẽ mai phục lại đây để chờ cái Duyên! Nó đi đâu thì chốc nữa cũng phải về chứ chả nhẽ con gái mà đi cả đêm! Quan thanh tra dặn chúng tôi là phải bắt cho kỳ được con bé này! Nó với chị nó đều theo cộng sản cả!
Lý Bân gật đầu:
- Vâng! Để tôi về bẩm lại với quan thanh tra!
Rồi để lấy lòng Nam đen, ông nói:
- Xếp đã ăn uống gì chưa? Hay là để tôi bảo con gái tôi nấu nồi cháo gà bưng lại đây!
Nam đen phất tay gạt đi:
- Không dám phiền ông lý! Xong việc rồi tha hồ ăn! Vụ này, xem chừng quan thanh tra sốt ruột lắm! Từ Hà Nội về đây mà không bắt được con bé này thì quan thanh tra bực mình lắm. Thôi, ông lý cứ về đi!
Lý Bân gật đầu, quay vào gọi đám tuần phiên. Nam đen níu cánh tay ông và dặn thêm
- Ông bảo lính của ông phải tuyệt đối giữ im lặng. Nó mà nghe động tĩnh là mình lục soát nhà nó thì nó sẽ trốn biệt! Thôi! Ông về đi!
Nam đen quay lại vào nhà, bật đèn pin lục lọi tíêp. Lý Bân tiến lại bảo ông bà Lương:
- Từ giờ phút này, không ai được phép đi đâu cả! Ngồi hết trong nhà, nghe chưa?
Ông bà Lương ngơ ngác, chưa hiểu gì, nhưng không dám hỏi lại. Lý Bân cùng đám tuần phiên khệnh khạng bước xuống sân. Đi được mấy bước, lý Bân quay lại bảo ông Lương:
- Cái Hậu nó đang ở tù ở Hỏa Lò vì tội làm giặc! Mỗi tháng người ta cho thăm nuôi một lần, vào ngày mùng 5!
Dứt lời, ông quay phắt đi. Bao nhiêu năm nay làm chức lý trưởng, ông chí lo hai nhiệm vụ chính là đốc thuế và phòng vỡ đê. Nào ngờ gần đây lại có thêm một công tác nặng nề khác là lùng bắt hội kín. Mà cái công tác này thì ông chả ham tí nào, bởi vì chẳng có gì cho ông chấm mút thu lợi cho riêng mình.
Bà Lương nghe tin Hậu ở tù, choáng váng suýt kêu lên, nhưng cố nhịn, chỉ bấu chặt lấy vai cậu Út Hòan và quay sang đau khổ nhìn chồng. Nước mắt bà lập tức trào ra. Khá lâu bà mới thì thầm bảo chồng:
- Khổ thâm con bé!
Ông Lương thở dài bảo:
- Bà liệu thu xếp mà đi thăm con. Làm cho nó ít thức ăn với lại mang cho nó ít quần áo!
Bà Lương mếu máo gật đầu:
- Một thân một mình tôi, biết đàng nào mà thăm với nom. Phố xá Hà Nội …
Thằng Hòan ngắt lời:
- Con đi với mẹ!
Ông Lương không muốn thằng con trai duy nhất còn lại của ông dính dáng đến chuyện chính trị, nên ông bảo vợ:
- Bà sang hỏi thăm ông bà Truyền là hay hơn. Dạo trước, thằng Minh cũng nằm ở Hỏa Lò đến hơn nữa năm. Bà Truyền sẽ chỉ đường đi nước bước cho bà!
Trong nhà, Nam đen và gã đàn em tên Chiến sốt ruột đi tới đi lui, đến gần nữa đêm vẫn không thấy Duyên về. Nam đen mới ra hiệu truyền lệnh cho ông bà Lương và thằng Hòan vào ngủ và dặn cấm không được ra ngoài. Nam đen bảo Chiến vào nằm ngay trên giường của Duyên, mở hé liếp cửa sổ trông ra vườn. Còn chính gã thì ngã lưng trên chiếc võng căng ngay ở gian giữa, chắn ngang cửa ra vào. Ông bà Lương và thằng Hoàn nằm trong mùng, không tài nào ngủ được, nhưng không ai dám thở mạnh, không dám nhúc nhích, thậm chí buồn đái cũng đành phải nhịn!
Phục kích thêm khoảng hai tiếng nữa, vẫn không thấy Duyên về, Nam đen đứng ở cửa buồng ông bà Lương uất ức nói vọng vào:
- Con gái đi đêm đến giờ này vẫn chưa về thì một là đi họp với giặc, hai là đi đánh đĩ thập phương, chứ con nhà tử tế có ai lại như thế!
Ông bà Lương dĩ nhiên nghe thấy, nhưng sợ quá nằm im thin thít. Nam đen thất vọng lôi Chiến ra hiên. Ông bà Lương nghe tiếng mở cửa và tiếng chân bước ra ngoài, nhưng cứ nằm yên, không dám ngồi dậy theo dõi. Nam đen kéo Chiến băng ngang mảnh sân ra tận cổng, núp sau đống rơm dưới tàn cây mít, kiên nhẫn đứng thêm một lúc nữa mặc dầu trong thâm sâu, cả hai đều không còn chút hy vọng nào về Duyên. Chiến dè dặt nói:
- Anh cho là con bé ấy còn ở làng này hay sao mà đợi với chờ? Em sợ là nó đã đi mất biệt từ lâu mà lão lý trưởng gà mờ chả biết gì cả, cho nên mới làm phiền quan thanh tra và anh em mình xuống tận đây!
Bằng kinh nghiệm bản thân, Nam đen đáp:
- Tao cũng đóan như thế. Lúc nãy, khi ông lý hỏi, bố mẹ nó cứ nói quanh là nó sang chơi nhà hàng xóm. Nhưng nom nét mặt hai người, tao đã thấy đáng nghi rồi. Tuy nhiên, quan thanh tra đã đích thân xuống tới đây thì mình là phận thừa hành, quan bảo sao, cứ nghe như vậy, mai sau quan không trách móc được mình!
Đàn em gật đầu im lặng, bật diêm mồi thuốc trong bóng tối. Chiến vốn được tuyển vào sở mật thám làm tài xế, nhưng Léon cũng cho học thêm nghề điều tra bằng cách bố trí công tác tháp tùng Léon và Nam đen về các địa phương. Trong tương lai thể nào Léon cũng cất nhắc cho Chiến lên làm công việc chung với Nam đen. Chiến biết như thế, cho nên hễ có dịp đều tỏ ra chăm chỉ học hỏi kinh nghiệm của đàn anh.
Đêm không trăng, không gian thăm thẳm mờ mịt. Chỉ có tiếng gió đưa xào xạc trong các tàn lá và thỉnh thoảng mới có tiếng chó sủa văng vẳng từ xa vọng lại. Giờ này, nếu Duyên có mò về thì chắn chắn phải có cây đuốc trong tay, hai gã sẽ nhìn thấy từ xa.
Nam đen ngồi nhẹ xuống lớp rơm khô đã bắt đầu âm ẩm hơi sương. Chiến rít thuốc rồi quay sang đề nghị:
- Hay là mình vào nhà, lôi cổ bố mẹ nó ra, nện cho một trận, chúng nó sẽ khai ra hết, việc gì mình phải ngồi đây mà thắc mắc!
Nam đen đáp:
- Cứ như ý quan thanh tra đã dặn tao nhiều lần, thì mình không được trực tiếp dẫm chân vào việc của xóm làng, trừ khi mình bắt được quả tang. Chẳng hạn lúc nãy mà tao vớ được truyền đơn trong nhà này thì đời nào tao để yên! Nhưng vì không tóm được chứng cớ gì cả, thì mình nên giao việc theo dõi nhà này cho lý trưởng đảm trách. Tao theo quan thanh tra đi nhiều nơi, tao biết ý quan. Việc làng, việc xã, quan luôn luôn thông qua lý trưởng, không muốn để lý trưởng mất mặt!
Đàn em lẳng lặng hút thuốc, không nói gì nữa. Gã để ý thấy một điều là Nam đen lúc nào cũng tỏ ra tận tụy với xếp Léon, đúng là một kẻ bầy tôi trung thành tuyệt đối với chủ. Nhận xét này quả thực là đúng bởi gần đây Nam đen có một món nợ khá lớn với Léon khiến gã tự cảm thấy mình cần phải gắn bó mật thiết với Léon để đền đáp. Gần hai năm trước, lúc Nam đen còn phụ trách công việc tra tấn ở phòng giam sở Liêm Phóng. Có một nghi can chính trị phạm không may lọt vào tay Nam đen. Gã đánh đập nặng tay quá, làm người ấy bị dập lá lách, chết ngay trong phòng hỏi cung. Nam đen xanh mặt không biết làm sao, vội vàng báo cáo lên Léon. Với Nam đen thì chuyện này có thể bị lôi thôi, nhưng với Léon thì cách giải quyết đơn giản lắm. Gã xé áo nạn nhân, cuộn thành sợi giây rồi thòng vào song cửa sắt, dàn cảnh nạn nhân treo cổ tự tử. Lẽ tất nhiên với cặp mắt chuyên môn của các bác sĩ cũng như nhân viên điều tra thì họ nhận ra ngay là nạn nhân chết trước khi sợi dây tròng vào cổ. Nhưng làm gì có ai mua việc, bỏ thì giờ kiểm nghiệm một phạm nhân chính trị. Thành ra Nam đen không hề bị rắc rối, dù chỉ là cảnh cáo. Từ đấy, gã nhớ ơn Léon và coi cuộc đời mình trọn kiếp sẽ gắn chặt với Léon để đền ơn cứu tử!
Khuya lắm, có lẽ đã gần hết canh tư, Nam đen và Chiến mới xông vào nhà ông Lương một lần nữa để kiểm tra cho chắc ăn trước khi trở về báo cáo lên với Léon. Bắt được Duyên là thượng sách vì quan thanh tra muốn như thế. Nhưng hai đứa khua khoắng thêm một hồi không có kết quả. Chiến đề nghị trở lại nhà lý trưởng ngủ một giấc chờ sáng thì Nam đen bỗng nghĩ ra một kế. Gã vào buồng, lôi thằng Hoàn dậy và thản nhiên bảo:
- Dậy đi! Mày ra ngoài cổng, chị Duyên mày mới đi chợ về, đang chờ mày ngoài ấy!
Thằng Hoàn mắt nhắm mắt mở ngơ ngác mấy giây rồi buột miệng đáp:
- Chị Duyên cháu đi vắng đã cả mấy hôm rồi, làm gì có nhà mà đi chợ!
Nam đen hỏi tiếp:
- Chị Duyên mày đi đâu vắng nhà mấy hôm?
- Cháu có biết đâu! Nghe mẹ cháu bảo đi làm ăn phương xa! Cả tuần nay rồi!
Nam đen đưa mắt nhìn Chiến thật nhanh trong bóng đêm mờ mờ rồi nhỏ nhẹ bảo thằng Hoàn:
- Ừ! Thôi thế mày ngủ lại đi! Tao cứ tưởng là chị mày về, hóa ra không phải! Ngủ đi!
Chiến ứa gan, muốn lôi cổ ông bà Lương dậy ngay, thụi cho mấy quả cho hả giận vì cái tội nói dối, khiếm gã mất gần trọn một đêm canh gát. Nhưng Nam đen lôi Chiến ra sân và bảo:
- Như vậy là con bé này trốn đi đã mấy hôm rồi …
Chiến ngạc nhiên thấy hôm nay Nam đen hiền lành nhân đức quá! Gã gay gắt ngắt lời đàn anh:
- Chứ còn gì nữa! Sao anh không để tôi choảng cho cái vợ chồng già kia một trận cho nó chừa cái tật nói láo nói lếu! Thà cứ khai toẹt mẹ nó ra cho xong chuyện. Chối quanh để làm gì không biết! Vải thưa che mắt thánh!
Nam đen rảo bước ra cổng và nói:
- Mình cứ về trình quan thanh tra để quan định liệu. Tội của vợ chồng già ấy, ông lý sẽ không tha đâu!
Hai đứa toan bước chân ra cổng thì bỗng nghe có tiếng bước chân xa xa trên con đường đất chạy ngang. Rồi lại thêm cả tiếng xầm xì nói chuyện mỗi lúc một gần hơn. Nam đen vội kéo Chiến, thụt lùi trở lại sau đống rơm, hồi hộp chờ đợi. Có thể là Duyên đi họp hội kín về chăng? Chắc không phải vì thằng Hoàn vừa tiết lộ Duyên đã đi khỏi làng mấy hôm rồi. Nam đen trố mắt nhìn trong bóng tối. Hai bóng người đến gần, đi ngang cổng nhà ông Lương, nghĩa là qua ngay trước mặt Nam đen và Chiến. Hóa ra đó chỉ là hai gã tuần phiên vác gậy đi kiểm tra ban đêm theo lệnh lý trưởng. Bình thường thì chúng lười lắm. Chỉ kiếm chỗ nằm ngủ. Nhưng đêm nay có quan Tây về, không đứa nào dám lơ là.
Chờ tuần phiên đi khá xa, Nam đem mới lôi tay Chiến ra đường, mò mẫm quay lại nhà lý trưởng.
Từ cổng vào đến nhà lý trưởng, hai ba toán đứng gác bảo vệ quan thanh tra. Léon vừa chợp mắt được một chút, giật mình thức giấc, vén mùng chui ra ngồi trên xe hút thuốc. Một anh lính tuần đứng quạt muỗi cho Léon. Nam đen và Chiến đi nhanh vào, báo cáo chi tiết cho xếp nghe. Lập tức Léon quăng điếu thuốc, phóng vào nhà lôi cổ lý trưởng dậy.
Thấy đám tuần phu xúm lại chung quanh, Chiến đứng lại trên thềm lên tiếng thị oai:
- Lão lý trưởng này gà mờ thật! Người làng mình đi hay ở, mất hay còn, đố có biết! Chắc phải chờ đến lúc giặc xông vào nhà cắt cổ thì mới tỉnh ngủ!
Trong nhà, lý Bân vừa lóp ngóp chui ra khỏi mùng đã nghe tiếng Léon mắng như tát nước vào mặt:
- Mày làm lý trưởng chỉ biết ăn với ngủ thôi, có phải không?
Giọng Léon rõ ràng run lên vì giận. Gã lại châm thuốc, rít một hơi dài rồi lớn tiếng xỉ vả
- Con Duyên nó trốn theo cộng sản cả tuần nay rồi, mày có biết gì đâu! Mày thử nghĩ xem, mày có xứng đáng ngồi cái ghế lý trưởng nữa hay không? Đồ ăn hại! Hay là mày thông đồng bao che cho chúng nó làm giặc?
Lý trưởng mắt nhắm mắt mở gật đầu vâng dạ luôn mồm để tỏ vẻ nhận lỗi. Léon quăng mạnh điếu thuốc mới đốt, rồi gay gắt chỉ mặt lý trưởng và giảng thêm:
- Mày phải nhớ rằng: Quốc Dân Đảng cũng như Cộng sản, không có đứa nào hoạt động một mình. Đứa nào cũng nằm trong một tổ đảng gọi là chi bộ. Cho nên khi mày bắt được một đứa, đừng bao giờ vội mừng là đã xong việc! Bắt một đứa thì phải bắt luôn cả chi bộ của nó nữa! Nghe chửa? Chẳng hạn cái con Duyên này, mày đã biết là nó theo cộng sản, chị nó là cái Hậu in truyền đơn và cờ búa liềm bị bắt quả tang, anh nó là thằng Tân đang đi học bỏ trốn lên rừng rồi chết vì sốt rét. Như thế nghĩa là quanh con Duyên, con Hậu, còn cả một tổ đảng của chúng nó nằm ngay ở Hải Ninh này. Nhiệm vụ của mày là phải theo dõi, điều ra và phanh ra đường giây của chúng nó càng sớm càng tốt!
Lý trưởng khổ sở đáp:
- Bẩm quan lớn con sẽ cố gắng hết sức mình ạ!
Rồi để lấy lòng quan thanh tra, lý trưởng hướng ra cổng gọi lớn:
- Tuần đâu! Đến nhà giáo Lương, trói cổ cả nhà nó, giải về đây cho tao!
Nhưng lý trưởng chưa dứt lời, Léon đã quay sang bảo Chiến:
- Đánh xe về Hà Nội!
Nam đen ngơ ngác hỏi:
- Đi ngay bây giờ hả xếp?
Léon gật đầu:
- Đi ngay! Tao còn bao nhiêu việc phải giải quyết. Chịu khó một tí. Về đến Hà Nội, tao cho hai đứa chúng mày nghỉ một hôm!
Lý trưởng mừng thầm vì phái đoàn bỏ về tức là gỡ cho ông một gánh nặng, khỏi phải đãi đằng tốn kém. Tối hôm qua, bà lý và cái Nhung đã cấp tốc nấu một nồi cháo gà thơm phức, bưng lên mời Léon, nhưng gã quay mặt đi, không thèm động tới. Dù thế, lý Bân vẫn dặn vợ sáng mai phải chạy ra chợ sớm, mua cặp gà mái tơ về luộc, kèm theo vài món đặc biệt như giò lụa và lòng lợn để đãi quan thanh tra cùng phái đoàn đã cất công từ Hà Nội về Hải Ninh. Thói quen thù tiếp quan trên bao giờ cũng thế. Ấy là chưa kể còn phải dúi thêm quà cáp cho quan mang về ăn dọc đường! Bây giờ bỗng nghe Léon ngỏ ý đòi đi ngay khi trời chưa hừng sáng, lý trưởng khoan khóai lắm, nhưng vẫn làm bộ tha thiết, nói vài câu thủ tục:
- Rước quan lớn ở lại uống cốc rượu nhạt …
Léon cắt ngang:
- Rượu với chè cái gì! Tao hạn cho mày một tháng, mày mà không tóm được cái Duyên và bè lũ chúng nó thì đừng có trách tao! Tăng cường kiểm tra, cho lính đi lục xét từng nhà khả nghi! Tháng sau tao sẽ quay lại!
Lý trưởng chấp tay vâng dạ luôn mồm. Ba người lên xe và chiếc ô-tô con lăn bánh ra cổng. Hai ngọn đèn rực sáng rọi thẳng ra đường, in rõ lớp sương đêm đang tỏa xuống như cơn mưa phùn nhẹ hạt.
Từ hôm ây lý Bân đứng ngồi không yên vì vừa lo vừa tức. Ông thường xuyên đến nhà ông giáo Lương hoặc gọi giáo Lương đến nhà ông để đay nghiến cho hả giận. Tất nhiên lý Bân chẳng khám phá ra được điều gì mới mẻ ở làng này, bởi việc điều tra hội kín không phải sở trường của ông. Cũng giống như bao nhiêu ông lý ông chánh trên cả nước, lý Bân ra làm việc làng chỉ vì ham danh lợi chứ biết gì về chính trị đâu. Quanh năm ông chỉ quát nạt lương dân cho sướng miệng rồi nhận tiền đút lót của thiên hạ là đủ mãn nguyện lắm rồi, chứ đâu ngờ giờ này ông phải lãnh thêm cả công tác điều tra an ninh! Đứng trước chỉ thị của quan Huyện và nhất là sở mật thám, lý Bân lay hoay chả biết tính sao. Phản ứng duy nhất của ông chỉ là bắt tuần phu tăng cường canh gát và lệnh cho chúng nó chia nhau đi tuần tiễu hằng đêm trong làng, mặc dầu đi tuần như thế, thật ra chỉ ngăn ngừa được trộm cướp chứ không thể nào phát hiện được các thành phần hội kín.
Về phía ông bà Lương, tuy bị lý trưởng liên tục mắng nhiếc, nhưng bù lại, có được niềm vui là biết Hậu còn sống. Ngày mùng 4, bà Lương xuống Hà Nội ngủ trọ một đêm ở nhà người quen. Sáng hôm sau vào thăm Hậu lần đầu tiên trong Hỏa Lò. Mẹ con gặp nhau sau gần một năm xa cách, cả hai cùng già đi nhiều. Tuy thế, ngồi đối diện với mẹ, Hậu lúc nào cũng cố nở nụ cười để mẹ an lòng mặc dầu bao nhiêu vết thương trên thân thể cô vẫn còn đang nhức nhối. Bà Lương thì cứ nói được vài câu lại mủi lòng ấm ức khóc. Mãi đến lúc chia tay, bà mới bảo Hậu:
- Cái Duyên nó cũng bỏ bố mẹ, đi cả tháng nay rồi con ạ!
Hậu lặng người cúi xuống. Cô vừa trãi qua một tháng trời lãnh chịu những trận đòn tra tấn dã man nhất của mật thám, vết thương chưa lành được một phần nhỏ. Thế mà nghe tin Duyên đã ra đi, cô đã quên ngay những đớn đau của mình để chỉ ái ngại cho em gái. Biết đâu, chỉ nay mai, Duyên cũng sẽ bị bắt như Hậu! Bị bắt khi chưa làm được việc gì cho đoàn thể. Cô lắc đầu mấy cái, cố gạt đi, không nghĩ đến chuyện xui xẽo ấy nữa. Nhân thể gã cai tù cứ nhìn hai mẹ con đăm đăm. Hậu nói bóng gió:
- Con gái lớn ai cũng phải đi mẹ ạ! Thôi, mẹ đừng có buồn! Thư thả rồi em con cũng sẽ liên lạc về! Dù sao, cũng còn thằng Hoàn ở bên cạnh bố mẹ!
Bà Lương bật khóc nấc lên một lúc rồi cố dằn xúc động, nâng vạt áo hỉ mũi. Bà toan kể bao nhiêu nỗi khổ ở nhà từ ngày Duyên đi. Nhưng bà không kể được vì mấy gã cai tù cứ đi tới đi lui, hoặc cố tình đứng lảng vảng bên cạnh cho đến khi hết giờ thăm nuôi. Hôm ấy là đầu tháng 11 năm 1929. Lúc chia tay, bà Lương sụt sùi mãi mới nói được một câu
- Con cố gắng giữ gìn sức khỏe. Gặp con, mẹ đứt từng khúc ruột. Nhưng dầu con cũng còn nom thấy con! Chỉ khổ cái Duyên, chả biết rồi sẽ ra sao!
Hậu trấn an mẹ một câu vô nghĩa:
- Mẹ đừng quá lo! Em con chả sao đâu! Tháng sau mẹ lên, nhớ mang cho con cái áo bông. Mùa này giời bắt đầu rét!
Bà Lương tay nâng vạt áo lau nước mắt:
- Mẹ nhớ rồi! Thôi, mẹ đi đây!
Bà Lương lầm lũi bước ra cổng. Vừa đi, bà vừa nhớ lại trọn vẹn hình ảnh của Duyên buổi sáng sớm hôm ấy khi bà tiễn chân con trước thềm nhà.
Cũng giống như cuộc hành trình thoát ly của Hậu hơn nữa năm về trước, từ Hải Ninh, Duyên đi bộ qua cánh đồng làng, rẽ lên con đê cao rồi cứ thế mà cắm đầu rảo bước lên tỉnh. Cái tay nải bằng vải nâu đeo trên vai, làm Duyên trông giống như người đi tản cư chứ không có vẻ gì là một cô gái đi chợ. Điều này làm cô giật mình tự trách vì nhận ra mình thiếu thận trọng, nhất là mỗi khi có khách bộ hành đi ngược chiều, đăm đăm nhìn Duyên như theo dõi. Trước đây, mỗi lần lên tỉnh gặp Quảng nhận công tác, bao giờ Duyên cũng gánh đôi quang gánh, hay ít ra cũng bưng một cái thúng, đựng vài củ khoai hay bó rau để nhỡ có bị xét hỏi, người ta khỏi nghi. Hôm nay, Duyên biết mình sẽ không trở lại Hải Ninh, cho nên mới dùng cái túi vải gọn ghẽ để đựng mấy bộ quần áo và dăm ba thứ lặt vặt. Cũng may là dọc đường không gặp trở ngại gì.
Lên đến tỉnh, bước trên con đường quen thuộc giữa hai bên phố xá, Duyên liếc mắt vào hiệu thuốc lào, nơi cô vẫn thường gặp Quảng, hôm nay thấy một cặp vợ chồng lạ hoắc đang đứng sau quầy. Duyên vội cắm đầu đi thẳng một quãng đường khá xa đến tiệm gạo Thịnh Ký, mới dừng lại bên kia đường trông sang. Cô đứng tần ngần một chút, lấy nón quạt mồ hôi, quan sát kỹ lưỡng rồi băng ngang con lộ hẹp, bước nhanh vào tiệm. Những thúng gạo mậu đủ các loại, đổ vun lên thành ngọn, đặt san sát bên nhau cho khách chọn lựa. Vào sâu hơn, sát bức vách ngăn buồng, bên trong là từng đống bao tải căng phồng, còn nguyên, đặt chồng lên nhau, cao gần tới trần nhà. Chủ nhân là một người đàn ông trẻ tuổi Duyên chưa từng gặp bao giờ. Anh ta mặc quần nâu, áo may ô trắng cháo lòng, đang cân gạo cho một bà khách. Duyên nhìn anh ta, khẽ gật đầu chào. Qua ánh mắt, Duyên biết anh ta cũng nhận ra đồng chí. Duyên buông tay nải, ngồi xổm xuống bên thúng nếp. Cô vụt bàn tay vào lớp nếp mới trắng tinh, bốc một nắm, rồi xòe bàn tay ra chỗ ánh sáng và nói:
- Hôm nọ, ông để cho tôi mấy đấu nếp ngon quá. Vừa dẽo vừa thơm. Thành ra mẹ tôi bảo quay lại đong thêm lấy vài cân! Chả biết cửa hàng có còn loại ấy hay không?
Anh thanh niên mồ hôi nhễ nhại đáp:
- Thưa còn ạ! Nhưng bà cảm phiền chờ tôi một tí. Tôi đang dở khách!
Duyên vui vẻ đáp:
- Vâng! Ông cứ tự nhiên ạ!
Vừa lúc ấy lại có thêm hai người khách bưng thúng vào. Duyên đứng dậy bảo:
- Tôi chạy ra chợ một tí rồi tôi quay lại!
Duyên nhấc cái tay nải lên vai rồi lại hạ ngay xuống và nói:
- Ông cho tôi gửi nhờ cái này ở đây, có được không ạ?
Anh thanh niên rời cái cân, tiến lại phía Duyên và nói:
- Được ạ! Bà cứ để tôi cất vào trong kia!
Rồi anh đỡ cái túi vải và cười:
- Tiền bạc thì bà nhớ bọc theo đấy nhé! Một mất mười ngờ, ngộ nhỡ có gì lại trách oan tôi!
Duyên cũng cười theo rồi bước nhanh ra cửa, thả bộ theo con phố đang tấp nập người qua lại. Bấy giờ mới là xế trưa, nắng vàng còn rực rỡ nhưng trời cuối năm không nóng lắm. Nhìn những bà cụ buôn thúng bán bưng, dăm bó rau nhỏ, một mẹt cau mới bổ hoặc vài chục bánh gai bày bên lề đường, Duyên nôn nao nhớ đến mẹ dù chỉ xa cách có mấy tiếng đồng hồ. Khác với Hậu là người chủ trương cách mạng triệt để, Duyên mang bản tính yếu mền hơn nhiều, lại tận mắt chứng kiến những tháng ngày lao đao chết đi sống lại của mẹ vì thương con, nên việc thoát ly gia đình của Duyên là cả một biến cố lớn lao đôi khi làm cô hối hận muốn chùn bước. Đã thế, giờ này lại nghe tin Hậu bị bắt, Duyên càng thấy nản hơn vì thấy rõ một người mang chí lớn như Hậu mà chưa làm được gì đã bị tóm, huống chi là Duyên!
Duyên dừng bước lại trước cửa một tiệm vải. Những cô gái quê quanh năm nâu sòng như Duyên, khi lên thành phố, luôn luôn bị những sắc mầu rực rỡ của hiệu vải lôi cuốn. Tơ, lụa, nhiễu, nhung, từng xấp đặt bên nhau, làm Duyên thấy chóa mắt và bỗng nhớ ngay đến mẹ, muốn mua tặng mẹ một cái khăn nhung mà không làm sao gửi về được. Đang thèm thuồng ngắm nghía, chợt nghe thấy tiếng ồn ào phía trước. Duyên giật mình ngẫng lên nhìn, bạn hàng buôn thúng bán mẹt nhiều người ù té chạy. Hóa ra có đội xếp, tức cảnh sát, đang đi tuần sắp tới. Đội xếp kiểm tra đường phố luôn luôn đi hai người: Một Tây và một ta. Đội xếp Tây thì mặc sắc phục oai nghiêm, đi giày da và đeo súng lục trong bao da kẹp sát hông. Đội xếp ta thì đội nón lợp vải vàng, thắt lưng da to bản, hai ống quần quấn xà cạp, đi chân đất và chỉ cầm roi chứ không có súng! Dân chúng buôn bán hai bên lề đường chẳng cần biết mình có vi phạm luật lê hay không, hễ cứ thấy đội xếp là chạy cho chắc ăn!
Duyên bước hẳn vào trong tiệm vải, làm bộ quan sát chọn hàng. Chờ hai gã đội xếp đi qua khá xa, cô mới trở ra đường đi tiếp.
Đi lang thang một lúc, Duyên quay trở lại cửa hàng Thịnh Ký. Nhìn vào, thấy không còn khách, Duyên an lòng rẽ vô. Cô lại càng mừng hơn vì ngoài anh chàng bán gạo, giờ đây lại có thêm cả Quảng đang ngồi hút thuốc lào trên cái di-van nhỏ ở góc nhà, khuất sau mấy bao gạo. Duyên vừa bước vào, bỏ nón thì Quảng gọi:
- Chị Ly mới lên đấy ư? Vào đây uống cốc nước!
Duyên ngơ ngác nhìn quanh, mấy giây sau mới sực nhớ ra cái tên mới của mình. Cô vội mĩm cười bước vào bên Quảng. Quảng bảo cô ngồi rồi nói:
- Chị nhớ đấy nhé! Từ nay dứt khoát phải quên cái tên cũ dưới Hải Ninh. Nói dại, giữa đám đông, có đứa gọi “cô Duyên ơi”, mà chị quay lại là vào tù như chơi đấy! Từ hôm nay, chỉ nhớ bí danh thôi. Tên cha mẹ đặt là vứt hẳn!
Duyên ngượng ngùng đáp:
- Vâng. Tại hôm nay là lần đầu anh gọi, thành ra tôi chưa quen.
Anh thanh niên bán gạo mặc áo thung lá, mồ hôi vẫn đầm đìa từ mặt xuống đến vai, cầm cái quạt nan phe phẩy. Anh trao cho Duyên cốc nước rồi đưa mắt nhìn Quảng như nhắc nhở, Quảng nhập đề:
- Giới thiệu với chị đây là anh Tửu. Lẽ ra, chị chỉ ngủ tạm ở đây tối nay thôi, rồi sáng mai đáp tàu hỏa xuôi Hà Nội sớm. Nhưng vừa có tin mới đột xuất. Mai chưa thể đi được
Duyên thoáng để lộ niềm vui trong ánh mắt. Quảng nhận thấy ngay khiến ông có vẻ thất vọng về Duyên. Ông thấy rõ Duyên không hăng hái lên đường như Hậu ngày trước. Cái tin đột xuất mà ông vừa nói đến là Phó bí thư Thành Ủy Lê Tiến đã bị bắt, tất cả các đồng chí thành bộ phải phân tán mỏng mỗi người một nơi, nhất thời xa phố Hàm Long là cơ quan mà Quảng định gửi Duyên đến. Hậu bị bắt, Quảng phải bỏ hiệu thuốc lào đi nơi khác. Dĩ nhiên là Quảng tin là Hậu gan dạ. Nhưng biết đâu thực dân tra tấn nặng nề quá, cô chịu không nổi phải khai ra cái người đã đưa cô đi hoạt động là Quảng! Cũng vậy, Lê Tiến bị bắt, cơ quan phố Hàm Long tất nhiên không dùng được. Quảng nói:
- Chị cứ tạm nán lại đây đã. Chờ chỉ thị của Thành bộ. Không đi được nhưng cũng không trở về lại Hải Ninh được. Có thể mật thám đang rình chung quanh nhà chị rồi cũng chưa biết chừng. Chị quay về Hải Ninh bây giờ là vào tù ngay!
Duyên vội phân bua:
- Không! Tôi có định quay về đâu! Đã đi còn về làm gì!
Quảng lại dặn thêm:
- Tôi dặn hờ chị cái này. Cửa hiệu hàng sáo thì người ra người vào tấp nập cả ngày, chị ở đây thì chả có gì đáng ngại. Nhưng giả như có ai hỏi thì anh Tửu đây sẽ bảo với người ta chị là cháu của anh ấy, ở nhà quê ra đứng bán hàng hộ anh ấy. Cháu gọi bằng cậu. Anh Tửu là em của mẹ chị. Chị nhớ như thế kẽo trống đánh xuôi kèn thổi ngược thì nguy to. Ấy là nói phòng xa thế thôi chứ chị chả ở đây lâu đâu. Vài hôm là cùng!
Duyên nhìn Tửu gật đầu:
- Vâng. Tôi nhớ!
Tửu chộp cái khăn vải trên mặt bàn, đưa lên mặt mình lau mồ hôi rồi vui vẻ tiếp lời Quảng:
- Từ bây giờ chị bắt đầu gọi tôi là cậu xưng cháu cho nó quen đi! Có ai hỏi tôi sẽ bảo với người ta là cửa hiệu neo người quá, tôi phải về quê gọi cháu tôi lên trông nom giúp một thời gian! Nhưng tốt hơn cả là chị tránh đừng nói chuyện với ai. Việc bán hàng thì đã có tôi!
Duyên đáp:
- Vâng! Tôi cứ ở trong nhà. Anh cần sai bảo gì thì gọi tôi ra!
Nhân tiện Duyên hỏi Quảng:
- Nhà này chỉ có hai anh thôi sao? Còn ai khác hơn nữa không, anh Quảng?
Quảng lắc đầu:
- Không! Nhà này chỉ có mình anh Tửu thôi. Tôi ở chỗ khác. Cần gì thì anh Tửu sẽ liên lạc với tôi.
Trước khi đứng dây từ giã, Quảng dặn thêm:
- Nói gì thì nói, từ Hải Ninh lên đây, đường đi chưa đến nữa ngày. Người dưới ấy buôn bán trên này cũng nhiều, thành ra chị phải tránh tối đa, hễ không có việc gì cần thì không nên ra ngoài. Mà ra ngòai thì cũng phải nhìn trước trông sau. Ngộ nhỡ gặp người quen thì lộ hết bí mật!
Dứt lời, Quảng đội nón, đi nhanh ra cửa.
Còn lại mình Tửu, nhân lúc cửa hàng không có khách, anh chỉ cái divan đang ngồi và nói:
- Tối nay chị ngủ ở đây, tôi nằm trong kia.
Rồi anh ngoắc tay bảo Duyên theo anh vào buồng trong. Đó là một căn phòng hẹp, một bên làm bếp, một bên làm kho chứa những dụng cụ lặt vặt. Duyên nhìn quanh rồi buột miệng hỏi:
- Trong này chả có giường chiếu gì cả. Anh ngủ làm sao?
Tửu phất tay cười xòa:
- Chi không lo! Tôi kê miếng ván hay giải chiếu xuống đất cũng xong. Tôi dễ ngủ lắm. Nằm đâu cũng được!
Rồi Tửu nghiêm mặt, đẩy tấm ván che cái cửa sổ duy nhất phía sau và dặn nhỏ Duyên
- Đây này. Chị xem cho kỹ đi. Vạn bất đắc dĩ có chuyện gì thì chị leo cửa sổ này nhảy ra ngoài. Lúc nào tôi cũng để sẳn cái ghế đẩu ở đây, phòng khi cần thì đứng lên mà lao qua cửa sổ. Sau lưng nhà này có con lộ nhỏ quanh co, đi sâu vào xóm cũng được, mà đâm ra lộ chính phía trước cũng tiện. Ấy là nói phòng hờ thế thôi chứ chắc chả có gì đâu
Duyên tiến lại, thò đầu ra hẳn phía ngoài khung cửa để quan sát hai bên. Con đường đất nhỏ chạy ngang, có những đoạn lầy lội bùn đất. Cô quay lại hỏi cho có chuyện:
- Anh Quảng có hay lại đây không?
Tửu đang châm đóm lửa đốt thuốc lào, ngẫng lên đáp:
- Thỉnh thoảng thôi! Anh ấy lúc này bận lắm. Có đến đây thì cũng chỉ thoáng một tí rồi lại đi ngay!
Duyên nhìn Tửu, với cái dáng nhanh nhẹn bặt thiệp, gặp ai lần đầu đã thấy gần gũi thân tình. Tự dưng cô lấy làm lạ là tại sao cửa hiệu bán gạo tương đối to như tiệm Thịnh Ký này mà lại không có đàn bà. Một thanh niên như Tửu mà đứng quản lý, trực tiếp đong gạo, bán gạo cho khách hàng thì buồn cười thật! Việc này phải là việc của đàn bà chứ! Nghĩ thế, nhưng Duyên không dám hỏi Tửu vì đây không phải là chuyện cô được quyền biết đến. Duyên chỉ đóan thầm đây hẳn là một cơ quan kinh tài của Đảng.
Thật ra thì Tửu chỉ có mặt ở tiệm gạo này mới hai tháng. Đây là cửa hàng của người chị ruột Tửu, nhờ Tửu trông coi để về quê bán ruộng đất sau khi cha mẹ Tửu bị chết vì đắm thuyền trên sông.
Tuy còn trẻ, nhưng Tửu lên đường hoạt động trước cả Quảng. Từ năm 1925 đến 1927, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn mở các lớp huấn luyện cách mạng vô sản bên Quảng Châu, đào tạo được khoảng 200 cán bộ, Tửu có mặt trong số những người tiên khởi ấy. Tất cả đều đứng trước một Phạm Hồng Thái, tuyên thệ gia nhập Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội.
Trở về nước làm công tác tuyên truyền, Tửu chọn Sơn Tây là quê hương nội ngoại của mình, nhưng không thành công. Tửu xuống Hà Nội, gặp nhóm Ngô Gia Tự và Trần Văn Cung, vận động các chi bộ dẹp bỏ bảng hiệu VNTNCMĐCH để đổi tên thành Đông Dương Cộng Sản Đảng. Sau vụ thanh tóan hai đồng chí Như, Uyễn ở Hải Phòng, nhóm Cộng Sản tiền phong Trần Văn Cung, Nguyễn Đức Cảnh bị mật thám lùng bắt dữ dội. Tửu lại trốn về Sơn Tây, nương náu ở tiệm gạo của bà chị cho đến hôm nay.
Nữa ngày còn lại ở Thịnh Ký, Duyên lăng xăng học việc đong gạo, cân gạo, nhớ giá cả của từng loại gạo và đỗ. Xế chiều cô vào bếp thổi cơm, luộc rau và nướng cá khô, bưng lên divan, cùng ăn với Tửu. Cô thoáng nghĩ, thoát ly theo cách mạng mà được bố trí ở lại đây lâu dài, chỉ việc đứng bán hàng xáo thì cũng sướng thật! Nhưng ở lại đây sao được! Người làng Hải Ninh đi lại trên này nhiều lắm, sớm muộn gì cũng có người gặp Duyên. Thôi thì cứ nán lại đây được này nào hay ngày nấy. Dù sao đây cũng là trạm giao liên, là bước khởi đầu để Duyên dấn thân vào con đường chông gai sắp tới.
Tối hôm ấy Duyên đi ngủ sớm. Cái divan nhỏ có chiếu trải, có mùng căng, Duyên nằm giữa mùi thơm thoang thoảng của gạo thóc. Nhưng cô không tài nào ngủ nổi.Nhớ Hải Ninh quá! Hơn hai mươi năm, lần đầu tiên xa cha mẹ và nhất là bạn bè đồng trang lứa ngày ngày gặp nhau trên đồng lúa nương ngô. Mới đây, nhất là những đồng chí cùng hoạt động trong chi bộ. Nhắm mắt lại trong bóng đêm, từng khuôn mặt thân thương cứ hiện ra rõ mồn một trong trí nhớ làm Duyên càng ray rức, luyến lưu. Duyên cứ lăn qua lăn lại mãi, nghe tiếng ngáy nho nhỏ đều đặn của Tửu bên kia bức vách. Có lẽ đến gần sáng Duyên mới thiếp đi được. Một lúc sau, ngoài đường, tiếng rao hàng quà sáng đã bắt đầu vang lên, nhưng Duyên ngủ say quá chả biết gì cả. Tửu đứng bên cạnh divan cất tiếng kêu nho nhỏ, Duyên cũng không nghe không thấy. Tửu vạch mùng, thò hẳn đầu vào, đập nhẹ trên vai Duyên:
- Chị Ly! Chi Ly! Dậy đi!
Bấy giờ Duyên mới mở mắt và ngồi bật dậy. Cô kéo tấm chăn mỏng che ngang ngực rồi ngơ ngác hỏi:
- Sáng rồi à?
Tửu bước lui một chút rồi mỉm cười hiền hòa và nói:
- Chưa! Còn sớm. Nhưng tôi phải đánh thức chị dậy vì có lệnh bảo chị đi Hà Nội ngày hôm nay. Chị dậy chuẩn bị đi, rồi ra ga xe lửa cho kịp chuyến sớm!
Duyên xoay người thòng hai chân xuống đất và thất vong nhắc lại:
- Đi ngày hôm nay à?
- Vâng! Đi ngay! Tưởng giử chị lại được vài hôm cho vui. Hóa ra không được! Đêm qua, anh Quảng ghé đây, đưa chỉ thị …
Duyên im lặng không nói gì. Tửu ân cần đề nghị:
- Chị ăn tạm cái gì cho đỡ đói. Chốc nữa lên xe ngủ. Ăn xôi nhé?
Duyên lắc đầu:
-Thôi. Nếu đàng nào cũng phải đi thì để tôi đi ngay bây giờ cho chắc ăn. Ra ga rồi ăn cũng được!
Tửu giơ tay ngăn lại:
- Chị chờ độ nửa tiếng nữa, tốt hơn. Giờ này ngoài đường còn thưa thớt lắm. Nửa giờ nữa người ta mới ùn ùn gánh hàng ra chợ. Phố xá đông, mình đi lại không ai chú ý!
Duyên im lặng tháo mùng, gấp chăn, đặt ngay ngắn trên đầu giường. Cô đẩy liếp cửa sổ, trông ra con hẻm nhỏ phía sau đã bắt đầu mờ sáng. Tửu lại ân cần đề nghị:
- Hay là ăn bát bún riêu cho dễ nuốt. Tôi đã mua sẳn khúc bánh Tây. Nhưng bánh thì mang theo, ăn dọc đường! Gánh bún riêu của bà Ngát bên kia đường, giờ này chắc đã bắt đầu bày bán rồi! Để tôi gọi bà ấy bưng sang cho chị một bát!
Duyên cảm động trước sự chu đáo của Tửu, cô đành gật đầu:
- Vâng! Anh đã nói như thế thì tôi xin anh một bát!
Tửu quay ra, tháo then cửa, Duyên nhìn theo, chớp mắt nghĩ đến những con người lặng lẽ mà cô đã tiếp xúc trên chặng đường cách mạng. Từ Trần Khải theo Tân về Hải Ninh huấn luyện chị em Duyên, đến chị Thúy được bố trí về nhà Duyên để dạy lớp đan may, rồi đồng chí Quảng trực tiếp chỉ thị công tác cho chi bộ và bây giờ là Tửu. Mai mốt đây sẽ còn biết bao nhiêu người nữa. Những bóng hình ấy, thoáng đến thoáng đi, có khi chỉ kịp làm quen trong chốc lát rồi chia tay,chẳng bao giờ gặp lại!
Quá trưa hôm ấy, Duyên đặc chân xuống sân ga Hà Nội. Người đón Duyên vẫn là anh chàng kéo xe mà hơn nữa năm trước đã đã đưa Hậu về ngõ Lò Rèn. Hôm nay, anh chở Duyên tới khu Khâm Thiên, gửi ở nhờ một cơ sở cách mạng nằm ngay trong xóm cô đầu. Đó là tiệm thuốc Bắc Vĩnh An Đường mà khách hàng phần đông là những người đàn ông mê thú trăng hoa, không may bị mắc bệnh phong tình. Ông Lang Chu, tuổi khoảng 40, có tiếng là mát tay, thu hút đông bệnh nhân ra vào tấp nập. Nhờ vậy, hiệu thuốc trở nên một trạm giao liên rất thuận tiện mà mật thám Pháp chưa hề chú ý.
Anh phu xe bỏ Duyên xuống ngay trước cửa hiệu thuốc Vạn An Đường, nói vài lời từ giã rồi giục Duyên đi vào. Rồi anh bỏ nón, lôi cái điếu cày máng ở càng xe, ngồi xổm trên lề đường, lấy thuốc lào ra hút. Khi ông lang Chu, chủ nhân hàng hiệu thuốc, bước ra cửa ho mấy tiếng và đưa mắt làm hiệu đã tiếp nhận Duyên, anh mới đứng dậy kéo xe đi.