Số lần đọc/download: /
Cập nhật: 2025-11-08 19:49:05 +0700
Chương IV Suối Độc Rừng Thiêng
Đ
oàn xe cứ xuống dốc hoài, thỉnh thoảng mới leo qua một con dốc nhỏ. Tôi biết, chúng tôi đang bỏ miền cao, nhưng đi về đâu, chưa rõ! Từng đoàn người lũ lượt, đeo, vác, gồng, gánh từ 5 giờ sáng đã phải thức giấc, chuẩn bị sẵn sàng để di chuyển. Bữa ăn sáng, lưng chén bắp cứng như đá, không ai nuốt nổi. Hôm mới đến, lạ miệng, còn ăn, nay vừa nhìn thấy đã sợ!
Sáu, bảy trăm con người cùng di chuyển một lượt, tạo nên sự nhộn nhịp khác thường. Những tên cảnh vệ, cầm ngang khẩu AK đứng rải rác ở dọc đường, từ nơi ở đến ngoài lộ, chỗ xe đậu. Ra tới đất Bắc, chúng tôi không phải chuyển Trại ban đêm nữa. Rừng, núi, vùng đất cấm của Xã Hội Chủ Nghĩa, nên họ chẳng còn kiêng sợ gì, chúng tôi không thể trốn giữa một địa hình không quen thuộc, không có lực lượng võ trang nào hậu thuẫn. Tôi nhận thấy sự đề phòng của họ chỉ nhằm hình thức phô trương, chứ không kềm chế ráo riết như hồi ở trong Nam. Mỗi chiếc xe chở 30 người, không che bạt. Chúng tôi ngồi trong lòng xe tha hồ ngắm phong cảnh bên ngoài. Chiếc túi đeo lưng đã được sửa chữa lại, tuy không tốt lắm, nhưng tôi tin nó không thể đứt chỉ bất ngờ nhu ở bến Sáu Kho Hải Phòng.
Phong, người bạn trẻ mới quen, đề nghị, hành trang của hắn và tôi luồn trong cây đòn tre, mỗi người khiêng một đầu cho nhẹ vì từ chỗ ở ra ngoài lộ cũng khá xa. Hắn muốn giúp tôi cho đỡ vất vả. Tre và dang ở đất này không thiếu. Phong đi một lúc, kiếm được chiếc đòn tre đực, xỏ qua hai túi đồ, bảo tôi khiêng thử. Tôi nâng đặt lên vai, quả nhiên nhẹ thực.
Giờ di chuyển bắt đầu. Chúng tôi khiêng hai túi đồ lủng lẳng bước tung tăng như đi chơi. Nhưng khi vừa qua chiếc cầu gỗ, tên cảnh vệ đứng ngay đầu cầu, kêu lại:
- Các anh “nấy” cây đòn này ở đâu?
- Dạ tôi nhặt được ở khe suối!
Tên bộ đội quắc mắt:
- Anh nói “náo”. Cây đòn này của chúng tôi bị mất sáng nay. Bỏ “nại” ngay!
Phong bẽn lẻn đặt hai túi đồ xuống, rút cây đòn ra, đặt ngay dưới chân tên cảnh vệ. Nó không nói gì. Tôi nâng chiếc túi đeo lên vai. Phong làm theo, trước con mắt tò mò của anh em.
Đi một quãng, tôi hỏi Phong:
- Sao cậu lấy của tụi nó?
- Đâu có biết! Sáng nay đi tìm, thấy cây đòn tốt quá, bèn cầm về!
- Cậu nhặt nó ở đâu?
- Ngay trước cửa căn nhà tụi cảnh vệ ở!
- Sao lúc ấy nó không nói?
- Nào ai biết! Lúc con lấy, chắc tụi nó không để ý!
- Chẳng biết nó dùng cây đòn ấy làm gì?
- Để tụi nó chống cửa! Bố không trông thấy, một đầu còn dính đất sao?
Nói xong Phong nhìn tôi cười, nụ cười hồn nhiên của tuổi trẻ.
Ra đến lộ, tôi và Phong mỗi người lên một xe do sự phân chia của tên cảnh vệ áp tải tù. Trước khi leo, Phong ngoái đầu nói với tôi:
- Cái số con không được giúp Bố, chờ dịp khác vậy!
Phong đưa tay vẫy vẫy. Tôi thấy Tính và Cung có mặt trong đám người rời Trại. Có lẽ vì quá đông, họ không nhìn ra tôi.
Sớm nay không nắng. Mầu trời bàng bạc với những đám mây mang hình thù kỳ dị, dính cứng ở tầng cao như tấm bích họa khổng lồ. Tiếng máy xe nổ đều đều. Dọc đường, tôi nhìn thấy những chiếc cối giã gạo tự động, tạo bằng sức nước. Đó là sáng kiến lâu đời của dân miền núi. Không thấy ai canh gác, chiếc chầy cứ lên xuống đều đặn, nhịp nhàng. Có lẽ, do sự tính toán từ trước, mỗi cối gạo sẽ phải mất khoảng thời gian bao lâu. Sau thời gian đó, chủ nhân cứ việc sai người ra mang gạo về sàng, sảy là xong! Nền văn minh cơ khí còn lâu mới có ảnh hưởng đến vùng đất này.
Phía xa xa, ở chân dãy núi, những mái nhà sàn ẩn núp sau các bụi tre, chuối trông nên thơ. Hàng cau cao vút ngả nghiêng theo chiều gió làm cảnh vật thêm phần sinh động. Đoàn xe chạy qua những khu có nhà ở đông đảo. Chúng tôi sợ ăn đá, nên mọi người đều đề phòng, nhưng khi xe chạy qua, họ chỉ đứng nhìn, không một viên đá, không một câu chửi.
Đoàn xe đang chạy bỗng chia hai. Một quẹo vô con lộ đất. Một đi thẳng. Chiếc xe chở tôi, chiếc cuối cùng quẹo vô. Tôi biết sắp đến Trại mới. Ngay đầu con đường quẹo, tôi nhìn thấy tấm bảng “Không có gì quý hơn Độc Lập, Tự Do”, nền đỏ chữ vàng nổi bật giữa mầu xanh của núi rừng. Đoàn xe chạy thêm chừng dăm cây số ngừng lại giữa những đồi trà bát ngát. Chúng tôi được lệnh xuống. Trời bắt đầu nắng. Những tia nắng ác liệt đổ xuống làm mọi người mệt nhoài. Tên cảnh vệ áp tải bảo chúng tôi đi lên ngọn đồi trọc phía trước mặt ngồi chờ. Trời nắng như vậy phải ngồi phơi mình trên ngọn đồi trọc làm sao sống nổi? Nhưng dù không muốn, mọi người vẫn phải lếch thếch mang hành trang lên đồi. Khi lên đến nơi, người nào cũng mở bi-đông dốc nước vô miệng. Từ ngọn đồi, nhìn ra xa, tôi thấy khu nhà ở sâu phía chân núi. Đinh ninh thế nào mình cũng phải tới nơi ấy, tôi rùng mình lo sợ, dưới cái nắng này đeo nặng từ đây tới đó chắc hụt hơi!
Tính và Cung đã nhìn ra tôi. Hai người trèo lên, ngồi nói chuyện. Cung đến Sơn La trong đợt chuyển Trại 2 tại Suối Máu, trước tôi nửa tháng.
Cung hơi gầy. Trong câu chuyện không thấy hắn nói đến Thanh Nghị nữa. Chắc hắn đã nhìn rõ sự thực. Chúng tôi nhắc đến anh em đã gặp hoặc chưa. Còn Tính cứ thắc mắc hoài không hiểu tại sao họ lại đưa mình đến địa điểm này?
Cung nói, có vẻ bất cần:
- Thắc mắc làm chó gì cho mệt xác! Đưa đi đâu cũng vậy thôi! Ra đến đất Bắc là hết rồi!
Những tia nắng quái ác, mỗi phút hình như mỗi nóng thêm. Nhìn mặt mũi người nào cũng đầm đìa mồ hôi. Một anh mang theo chiếc lồng gồm gà mẹ và năm, sáu gà con. Anh ta bỏ chiếc nón lá đang đội xuống che cho gà, còn anh trùm chiếc khăn rửa mặt lên đầu che nắng! Tôi nhìn anh thầm cảm phục, ngoài hành trang nặng, còn mang thêm chiếc lồng gà. Quả phi thường!
Một tên bộ độ tiến lên đồi:
- Anh nào đi trên xe từ số 1 đến số 10, theo tôi!
Tính đứng dậy đi xuôi xuống chân đồi. Một tên khác nói:
- Anh nào đi từ số 11 đến số 20, theo tôi!
Cung đứng dậy hỏi tôi:
- Ông đi xe số mấy?
- Tôi cũng chẳng rõ, chỉ biết xe cuối!
- Số 20 rồi! Tôi số 16. Tôi với ông cùng đi.
Cung xách túi đồ lên vai. Chúng tôi men theo lối mòn đi chênh chếch hướng núi. Còn toán của Tính đi thẳng về phía khu nhà sát chân núi. Những bàn tay đưa lên trời vẫy vẫy chào nhau.
Tên bộ đội dẫn chúng tôi đi vòng qua đồi, rồi qua cây cầu gỗ bắc ngang dòng suối, đi sâu mãi! Đường không có, chúng tôi lần theo lối mòn, băng ngang nhiều vũng nước rộng. Chiếc túi đeo lưng nghiến vào vai mỗi lúc mỗi nặng. Người tôi ướt đẫm mồ hôi như vớt dưới....(sách in thiếu trang 362)
......
Có tất cả 10 người xung phong làm bếp. Lán tôi ở có hai anh. Mười anh làm bếp đi theo tên bộ đội. Lát sau họ khiêng một bao tải bột mì xuống nhà bếp ở gần con suối khá lớn, nước chảy ầm ầm.
Cả chiều hôm ấy chúng tôi được nghỉ ngơi, chờ cơm. Ngay sát nhà, có dòng suối chảy uốn éo. Con suối tuy nhỏ nhưng nước rất trong. Tôi cởi quần áo, ngồi trên tảng đá, múc từng lon nước xối vào người. Nước suối mát thật. Khi trước tôi nghe tắm suối rất độc, vì nước suối chảy qua nhiều khoảng có lá mục, nhất là lá lim, nên người yếu dễ ngã bệnh. Bệnh sốt rét không nhất thiết do muỗi gây nên, còn do khí núi, nước uống và tắm rửa nữa! Nhưng, tuy biết vậy, tôi không thể không tắm giặt, vì ngoài nước suối, còn nước đâu dùng?
Chỉ một thoáng, con suối nhỏ đã đầy người tắm. Người nào cũng chọn nước đầu nguồn, vì tắm dưới sợ tắm nước thừa của người trên dòng.
- Ủa, sao ông tắm ở đây. Tôi vừa ra suối lớn tắm giặt, đã ghê vậy đó!
Ngẩng nhìn, thấy Đàm, người bạn đã gặp ở Suối Máu.
- Lỡ rồi, để mai. Mà sao, lúc lên xe tôi không thấy ông?
- Đông quá sao nhìn thấy? Cả Hữu nữa, hắn tắm sắp về.
- Vui hé! Ông đi đợt 2, cứ tưởng không bao giờ gặp lại nhau nữa!
- Anh em mình thiếu gì! Tại ông không để ý đấy. Ông ở Lán nào?
- Lán 2, cùng với Cung!
- Tôi cũng ở Lán đó, phía đầu.
- Mình phía cuối!
Nói xong tôi đứng dậy, mặc quần rồi xách mấy chiếc quần áo ướt tìm chỗ phơi.
Đến tối mịt, chúng tôi mới được phát mỗi người một chiếc bánh mì luộc nóng hổi. Những chiếc bánh, theo nguyên tắc, đều có cân lượng y như nhau, nhưng mỗi cái lại có một hình thể. Có cái tròn vo như trái banh “ten-nít”, có cái chè bè như cái dĩa con, có cái hình bầu dục! Do hình thể khác nhau đó, làm người ta có cảm tưởng cái nọ to hơn cái kia. Vì thế nên khi bánh được chia đều cho mỗi Tổ 10 người, các Tổ viên muốn tỏ ra công bằng đều đồng ý, mỗi người mang một con số, rồi bữa nay số 1 lấy trước, muốn lấy cái nào tùy ý, đến số 2 cứ thế nối tiếp. Bữa sau, người số 2 lấy đầu, bữa tiếp nữa là người số 3 v.v...cho hợp lý!
Nhịn cả ngày trời, mới có chiếc bánh luộc, mọi người đều tỏ vẻ chán nản, nhưng chẳng ai dám nói ra. Trong khi ấy dưới nhà bếp, toán nấu nướng tha hồ ăn. Ăn thừa còn mang cho bạn bè thân thiết. Sở dĩ anh em biết được do một người trong Lán có tới 3 chiếc bánh luộc!
Lẽ dĩ nhiên, anh em có phản ứng. Từ hôm sau nếu dư bánh sẽ chia đều cho các Lán. Những người làm bếp có quyền ăn no, miễn đừng mang cho.
Buổi sáng, mỗi người được 1/4 chiếc bánh đút vừa một miếng.
Vừa ăn bánh sáng xong, chúng tôi được lệnh mang đồ ra điểm nghiệm. Lần điểm nghiệm này làm tại chỗ nằm. Mọi người đều bầy hết cả hành trang của mình ngay trước mặt. Cả Lán biến thành cái chợ bán tả-pí-lù, thứ gì cũng có. Hai tên bộ đội đi khám xét. Một tên cầm tập vở, mỗi khi có món đồ bị tịch thu, hắn biên vào. Thuốc men cũng thu. Một tên cầm chiếc túi vải, đồ nào tịch thu cho vô đó. Tôi sợ quá, chưa kịp giấu gói thuốc Lan cho và 2 vỉ Valium, tôi ấn đại nó qua khe sạp cho rơi xuống đất.
Bên ngoài, một tên bộ đội nhòm qua chiếc cửa sổ con đối diện. Sống lưng tôi lạnh buốt như có cục nước đá vuốt mạnh. Tôi cảm thấy trên trán rịn mồ hôi, sợ tên bộ đội nhìn thấy cử chỉ vừa qua. Nhưng mấy phút trôi đi không thấy nó nói gì, tôi mới yên tâm. Hai tên điểm nghiệm đã tới trước mặt. Chúng giở từng thứ một, tịch thu của tôi con dao ăn. Con dao này, tôi đã giấu thoát từ Long Giao, Suối Máu đến Sơn La. Nhưng ở đây, tôi chủ quan vì thấy có mấy con dao nhỏ của các anh em khác, không bị thu. Có lẽ, con dao này đẹp, nó thuộc lại “i-nốc” của Pháp. Sau cùng, một tên hỏi, có tiền Giải Phóng không? Tôi móc túi đưa 80 đồng. Tên cầm vở, biên tên và số tiền rồi bảo sẽ đổi ra tiền “ngàn”, tiền miền Bắc trả lại, vì bây giờ đã thống nhất. Tất cả mọi người có tiền Giải Phóng đều nộp vì nghĩ, ở trong tù bị giam giữ giữa rừng sâu, có gì để mua bán và tiền Giải Phóng đâu có giá trị ở miền Bắc?
Cuộc điểm nghiệm đến gần trưa mới xong. Chờ cho tụi bộ đội đi hết, tôi kiếm một chiếc que dài khều gói thuốc, lòng mừng khấp khởi.
Ăn chiếc bánh luộc buổi trưa xong, nghỉ ngơi một lát lại nghe tiếng kẻng. Buổi chiều, anh em lại phải làm bản kê khai lý lịch. Chán gớm! Trại tù nào cũng vậy, cũng ngần ấy thủ tục phải làm, đến chỗ nào cũng khai báo. Vì luôn luôn phải khai báo, nên chúng tôi đều thuộc lòng: tên, tuổi, số quân, chức vụ, đơn vị, ngày vào lính, sinh quán, trú quán, vợ con, cha mẹ, anh em v.v...
Sau khi làm xong, trao cho Đội trưởng để nộp. Tôi xem đồng hồ tay, mới hơn 5 giờ chiều, nơi đây đã chạng vạng. Tôi ngẩng mặt nhìn vòm trời, mầu mây vẫn xanh biếc, nhưng dẫy núi cao bao vòng xung quanh chiếc thung lũng nhỏ đã ngăn không cho ánh sáng lọt vô.
Từ chân núi, bốc lên làn sương mỏng. Đó là khí núi! Mầu tím ngăn ngắt trông dễ sợ. Ở đây, không có chân trời, vì bốn bề bao quanh bởi núi, đồi. Muốn nhìn trời, phải ngửa mặt. Tụi Cộng Sản tìm chỗ giam tù quá lý tưởng, lại luôn luôn di chuyển nên rất khó tìm. Cũng do đó, một đơn vị đặc biệt của Quân Đội Mỹ đã thất bại trong kế hoạch giải thoát tù binh tại Sơn Tây bằng trực thăng vận năm nào?
Tôi đi vòng quanh để tìm hiểu vị trí Trại. Ngoài ba chiếc Lán và ngôi nhà bếp ở dưới thấp, trên những ngọn đồi rải rác xung quanh, còn có những ngôi nhà lá khang trang dành riêng cho tụi cán bộ. Một chòi canh ngay đầu con lộ nhỏ, con lộ duy nhất dẫn vô Trại. Tên cảnh vệ súng trên vai, đi đi lại lại trước chiếc chòi như người máy. Chúng tôi không được đi ra ngoài khu vực hạn chế, tuy không có hàng rào phân chia giới hạn, nhưng ai cũng biết không được leo lên đồi hoặc băng ngang dòng suối để qua bên kia, dẫn vào chân núi. Cảnh vật nơi đây vô cùng buồn nản. Đời sống tù túng dễ làm con người cuồng trí, nếu suy nghĩ nhiều về nó!
Buổi tối, không có đèn nên anh em ai cũng buông mùng sớm, tuy chưa ngủ. Tiếng “kéo pháo” sòng sọc và tiếng nói chuyện thì thầm làm buổi tối đỡ buồn nản. Chẳng biết công tác nào sẽ đến với chúng tôi ngày mai khi thức dậy, vì đối với Cộng Sản, cái gì cũng bất ngờ!
Thức trong bóng tối mãi cũng chán, tôi chui vào mùng, nằm thẳng đơ, mắt nhắm chặt mong đi vào giấc ngủ càng sớm càng tốt. Tôi vừa thiu thiu, bỗng có tiếng gọi tập họp điểm số, người Lán nào đứng trước Lán đó. Một tên cán bộ xách cây đèn bảo đến giữa sân, bên cạnh lố nhố nhiều tên cảnh vệ vũ trang. Từng Lán một hô từ số 1 đến số chót. Sau khi điểm số xong, tên cán bộ cầm đèn, nói dằn từng tiếng:
- Các anh chú ý. Bắt đầu từ mai, các anh sẽ “nao” động. Trại có 3 “Nán”. “Nán” 1 gồm đội 1 và 2. “Nán” 2 gồm đội 3 và 4. “Nán” 3 gồm đội 5 và 6.
“Nán” 1 và 2 ngày mai phát quang sườn đồi phía sau. “Nán” 3, Đội 5 đào hố xí, Đội 6 “nàm” vệ sinh quanh Trại. Ban đêm các anh không được đi “nại” ngoài khu vực Trại. Nếu có gì cần kíp phải báo cáo với cán bộ cảnh vệ. Không được tự ý hành động! Các anh nghe rõ chứ?
- Rõ!
Tiếng nói âm vang giữa đêm sâu, trong lòng thung lũng.
- Tan hàng!
Anh em nhộn nhịp quay vào Lán. Vì quá tối, lối đi lại chật, nên có người dẫm chân lên nhau, hoặc va chạm, tạo nên những tiếng chửi thề thô tục!
Đêm nay, giấc ngủ không đến, tôi cứ trằn trọc, xoay qua trở lại bên cạnh tiếng ngáy đều đều của anh bạn nằm kế bên.
Có lẽ tôi cũng chợp mắt được một lúc. Hồi gần sáng bỗng giật mình thức giấc vì tiếng la mất gà.
- Thôi, chết cha, nó ăn mất một con rồi!
- Ai ăn?
- Rắn chứ còn ai vào đây nữa!
- Sao cậu không treo lên cao?
- Đâu biết có rắn!
Tôi nhỏm dậy, bước ra khỏi Lán, ngó về phía anh chủ gà đang nâng chiếc lồng lên ngang tầm mắt, nhòm vô trong:
- Đù mẹ, nó nuốt mất con to nhất đàn!
- Sao gà mẹ không chống cự?
- Gà nhìn thấy rắn, nín khe. Nếu nó dám kêu, mình chạy ra, làm sao rắn nuốt?
- Này, đừng có đùa, đêm cậu ra, rắn nó mổ luôn cậu, chết ngắc!
Vừa lúc đó, tiếng kẻng vang lên. Mọi người đều dậy. Một đám người bu quanh chiếc lồng gà, mỗi người góp một câu về vấn đề bảo vệ gà làm huyên náo góc sân.
Sáng nay, tôi trực, lo phần ăn cho anh em. Tay cầm chiếc rổ đi xuống nhà bếp, lãnh xong đem về chia cho Tổ. Cầm 1/4 miếng bánh mì nhỏ xíu đưa vô miệng, chỉ mấy phút sau, miếng bánh đã theo nước miếng vô bao tử. Từ hôm đến, chúng tôi chưa được ăn miếng cơm nào. Anh em nhà bếp nói trong kho hậu cần, bột mì đầy nhóc, không thấy gạo đâu! Có lẽ, phải ăn bánh mì luộc dài dài! Ăn gì cũng không bằng ăn cơm. Cơm ăn mát ruột, dù no hay đói, chứ ăn bánh mì luộc mãi chịu sao nổi? Nhưng chịu hay không cũng vậy thôi, tù làm gì có quyền đòi hỏi?
Một hồi kẻng dài báo giờ lao động. Tôi theo Tổ bước lên đồi phát quang. Tổ trực đã đi lãnh dao, cuốc ở kho vật dụng, nơi bên kia dòng suối nhỏ. Trong lúc chờ dụng cụ phát quanh, tôi ngồi dưới tàng cây có những bông hoa vàng nhỏ li ti như hạt kê, chẳng hiểu nó thuộc loại cây gì? Mỗi lần có gió thổi, những hạt kê vàng rơi lả tả như phấn rắc, tỏa mùi hương hăng hắc. Tia nắng đầu tiên chiếu trên ngọn cây cao phía xa. Ánh nắng lấp lánh nhảy múa qua cành lá còn đẫm sương buổi sớm, rung rung như những chiếc bóng đèn nhỏ treo giữa nền nhung xanh thẫm.
Dụng cụ phát quang đã được mang về và phân phối. Dụng cụ ít, anh em nhiều, nên thay phiên nhau làm. Những nhát dạo chặt đôm đốp vào thân cây, những nhát cuốc bổ ào ào xuống những bụi nhỏ. Khoảng nửa tiếng, xung quanh chỗ tôi ngồi đã quang hẳn. Một vùng ánh nắng đổ xuống chói chang. Mùi lá tươi xông lên ngai ngái. Chúng tôi cứ thay nhau làm đến trưa, một góc đồi đã trơ trụi. Chiếc Lán tôi ở, ngang tầm mắt nhìn và con suối uốn mình vòng theo chân đồi rồi mất hút sau bờ cây thấp. Vài người cởi áo vì trời bắt đầu nóng. Bỗng có tiếng kêu:
- Ong, ong,...anh em coi chừng!
Tôi nhìn ra xa, đám ong vò vẽ đang cất cánh. Tôi vơ vội một cành lá đề phòng. Mọi người đều chạy dạt, vừa chạy vừa mặc áo. Những cành lá khua vung vít để đuổi ong. Một anh nhanh trí bật lửa châm vào đống lá khô gần đấy. Ngọn lửa bén dần, nhờ gió bốc to, tỏa khói mù mịt một khoảng đồi. Đàn ong không dám bén mảng đến nơi có khói, chúng bay cao rồi biến mất. Một anh tiến đến chỗ có tổ ong, leo lên cây giựt xuống, cười hô hố:
- Đù mẹ, không có mật, nhưng nhiều ong sáp quá, nhậu cũng được một bữa!
Nói xong anh cho tay cạy từng con bỏ vào miệng.
Đội trưởng không phải lao động. Nhiệm vụ của Đội trưởng là nhận lệnh của cán bộ rồi xỉa lại cho anh em. Do đó các Đội trưởng đều nhàn rỗi. Tôi nhìn thấy Hà, Đội trưởng đội của tôi đang “cải thiện” gần bờ suối. Chẳng biết anh đun nấu gì, mùi thơm bay lên đến trên đồi!
Tiếng kẻng tan tầm khua vang. Tiếng vọng âm âm luồn qua khe núi một lát mới tắt. Chúng tôi ùa xuống suối, rửa tay chân, chờ lãnh chiếc bánh luộc! Buổi chiều vẫn ngần ấy công việc, nhưng anh em làm có vẻ uể oải vì quá nắng. Một tên bộ đội, cấp sĩ quan, đeo súng ngắn, đi kiểm soát công việc. Hắn dừng lại chỗ chúng tôi làm.
- Mấy anh, phát quang phải chặt sát gốc, nếu chừa gốc nhiều quá, cây có thể sống “nại” được, lúc đó phải đánh rễ “nôi” thôi “nắm”! Các anh rõ chứ?
Chúng tôi dạ cho êm chuyện! Tự nhiên, hắn nói thêm:
- Các anh “nà” may “nắm”. Khí hậu ở đây hiền hơn ở nơi các anh vừa rời khỏi. Dù sao cũng gần tỉnh.
Một anh nhanh nhẩu:
- Thưa cán bộ, anh em hết thuốc lào, cán bộ có đi Yên Bái làm ơn mua dùm!
- Được, tôi không đi, nhưng cán bộ hậu cần thường đi, có gì tôi bảo mua giúp!
Nói xong, hắn đi nhanh vòng qua phía bên kia đồi.
- Đây gần Yên Bái, anh em ơi! Tôi hỏi mánh, biết ngay!
Chúng tôi đều phục vì anh nhanh trí, nên biết được địa điểm mình đang có mặt.
Buổi chiều tôi ra suối lớn tắm. Dòng suối khá rộng, nước chảy cuồn cuộn. Chúng tôi chỉ được tắm ở phía dưới. Phía trên dành cho nhà bếp. Tôi đi men theo dòng nước, nhảy qua từng tảng đá lớn để đến nơi ít người. Tôi nhìn lên vách núi, cây cỏ mọc rậm rì, từng từng lớp lớp. Nơi bên kia bờ có nhiều thân cây đổ ngang, tạo nên một rào chắn tự nhiên. Tôi ngâm mình dưới lòng suối, nước chảy rào rạt bên trên như mơn trớn vỗ về. Do kinh nghiệm, tôi biết, sống trong nhà tù Cộng Sản có thể làm gì có ích cho bản thân cứ làm, vì không ai lường trước những gì sẽ xẩy ra tới cho mình trong giờ sắp tới.
Tôi trở về vừa kịp giờ lãnh bánh. Đàm cho tôi cục đường thẻ. Bánh mì luộc ăn với đường thẻ ngon tuyệt. Tôi cắn từng miếng nhỏ, tính toán sao cho miếng bánh cuối cùng vẫn còn đường. Ai đã ở tù, mới biết đường là quý! Tôi cảm ơn Đàm nhiều.
Buổi chiều nay, khoảng 6 giờ, chúng tôi phải tập họp để điểm số trước khi vào Lán chứ không muộn như đêm qua. Như tối trước, lần lượt mỗi Đội trưởng báo cáo số người, rồi mỗi người đọc số thứ tự của mình. Sau khi điểm số xong, tên cán bộ trực sinh hoạt giao công tác ngày mai. Từ đó trở đi, chúng tôi cứ như những chiếc máy: lao động, lãnh bánh, điểm số, thức ngủ theo đúng giờ giấc quy định.
Sau một tuần, công tác phát quang ngọn đồi đã xong, chúng tôi gom cây, cành vào một góc chờ khô, đưa xuống nhà bếp. Công tác làm hố xí do đội 5 phụ trách cũng xong. Anh em mỗi sáng đi cầu phải trèo lên con dốc cao khoảng 6 thước. Hố xí có chừng 20 căn, dành cho 300 người nên vẫn còn có người chờ, nhưng sự chờ đợi này không thê thảm như hồi ở Suối Máu.
Chiều nay, Tổ tôi được phân công đào giếng nước.
Đường kính miệng giếng rộng 4 thước, sâu 10 thước. Đó là chỉ tiêu, phải thực hiện xong trong một tuần.
Sớm hôm sau, chúng tôi khởi đầu công tác. Mười người hì hục làm, thay phiên nhau cuốc và bốc đất. Khu đào giếng ở gần con suối nhỏ, dưới chân đồi, nơi chúng tôi vừa phát quang, cả đất lẫn đá. Chúng tôi đào hết sức từ sáng đến chiều cũng chưa lấy được một lưỡi mai. Như vậy làm cách nào xong được chỉ tiêu đã ấn định? Thời gian cứ qua đi lạnh lùng. Một tuần lễ đã gần hết, chiếc giếng đào sâu độ 2 thước. Mỗi ngày tên cán bộ trực đi kiểm soát lắc đầu, chê “nao” động kém!
Hôm nay, ngày cuối cùng của công tác, chúng tôi hết sức đào tới giờ chót, đo lại được chừng 2 thước rưỡi. Lòng giếng khô ran, chưa một giọt nước!
Tuần sau, chúng tôi được thay công tác vì bị phê bình là “nề mề”, bầy nhầy, không chịu triển khai công tác, “nao” động tiêu cực, không đảm bảo chất lượng v.v... Chúng tôi được giao công tác trồng dứa trên quả đồi vừa phát quang bữa nọ. Tên cán bộ phụ trách trông nom và hướng dẫn cách trồng, luôn luôn có mặt. Hắn cuốc và trồng vài cây làm mẫu, chúng tôi cứ thế thi hành!
- Các anh trồng rồi các anh hưởng, chứ ai ăn vào đấy?
Hắn nói như muốn chúng tôi hiểu, mình làm cho mình, do đó, phải cố gắng thực hiện công tác! Nhưng hắn muốn nói gì thì nói, anh em vẫn “nề mề”, “bầy nhầy” vì mỗi bữa có một chiếc bánh mì luộc vô bụng làm sao có đủ sức để tích cực?
Nhưng rồi công tác trồng dứa cũng hoàn tất. Chúng tôi lại thay công tác, đi san nền nhà cho tụi Việt Cộng, ở rải rác trên đồi. Từ trên đỉnh đồi, tôi có thể nhìn bao quát khắp vùng. Tôi nhận ra con đường khi mới đến, cả cái Trại có Tính ở. Từ xa, nó trông giống khu nhà bình thường, không có vẻ nhà tù.
Phong cảnh buổi sáng thật đẹp, những dẫy đồi núi xen kẽ nhau, tạo nên một vòng đai muôn mầu rực rỡ dưới ánh nắng. Những làn mây trắng như bông gòn rải rác trong các khe núi. Tôi làm ít, ngắm cảnh nhiều. Mỗi nhát cuốc bổ xuống chỉ để che mắt chứ không đạt năng xuất. Nhưng công tác này cũng không kéo dài được bao lâu. Ít bữa sau, Tổ tôi lại thay công việc khổ sai.
Buổi chiều nay, tên cán bộ sinh hoạt cho biết:
- Từ ngày mai, các anh đi lấy dang trên đồi, để làm hàng rào! Ngọn đồi trước mặt các anh đó!
Chúng tôi nhìn lên, ngọn đồi cao ngất, ngay trên đỉnh có hàng cây xanh rì!
- Chỉ tiêu cho mỗi anh, 10 cây một ngày, mỗi cây có đường kính 6 phân, dài 4 thước. Các anh nghe rõ chứ! Vấn đề làm hàng rào không phải để kềm chế các anh đâu! Ở đây nhiều thú dữ, chúng tôi phải bảo vệ các anh, và ít nhất, để giữa chúng tôi với các anh có một chút phân biệt. Chứ cứ như thế này, không tiện! Có đúng không các anh?
- Dạ đúng!
Chẳng hiểu sao, chúng tôi lại đồng thanh cùng thốt ra tiếng nói đó.
Buổi tối, vẫn không có đèn, trong lòng chiếc Lán đen thui. Đó đây, tiếng “kéo pháo” nghe ròn rã. Giọng nói rì rầm trôi dần vào vắng lặng.
Từ sớm, mọi người đã thức, tuy kẻng chưa gõ. Đây, công tác đi xa Trại lần thứ nhất nên anh em có phần nào sốt sắng. Tiếng kẻng vừa gõ, tất cả đã ồ ra sân đi lãnh bánh và nước chứa đầy bi-đông. Miếng bánh luộc nhỏ bằng 2 đầu ngón tay. Nhiều người lo xa chưa ăn, cất trong túi áo, để dành lúc leo đồi vì con dốc khá cao!
Tên cán bộ quản giáo người Hà Tĩnh, đeo súng ngắn, đến dẫn các đội leo đồi. Tôi cùng mấy anh em băng qua con suối lớn, tiến dọc theo triền núi kiếm dang. Tôi leo con dốc thấp, chắc nơi đây đã có nhiều người qua lại nên thành lối mòn. Lên tới đầu dốc, tôi thấy mấy bụi dang. Mừng quá, vung dao chặt lia lịa. Con dao quá cùn, chặt mười mấy nhát chưa đứt một cây. Mồ hôi đã ướt đẫm áo. Nản quá, tôi vứt dao ngồi thở. Vừa lúc đó, có tiếng nói phía sau:
- Thôi, anh nghỉ đi. Tôi đã chặt sẵn mấy cây, lát nữa buộc lại để anh mang về!
Nghe nói, tôi vội nhìn xem ai, nhưng cố nhớ mà không ra.
- Anh không nhớ tôi sao?
Tôi nói ngượng ngùng:
- Xin lỗi, không nhớ!
- Anh không nhớ cũng phải vì tôi mới chỉ gặp anh một lần ở nơi làm việc. Tôi tên Tài!
- A, Tài, bạn ở vùng 4 phải không?
- Đúng!
- Cảm ơn bạn nhiều. Con dao của tôi cùn quá, chặt không nổi.
Tài cười, đi đến nơi đã chặt, rút dang ra khỏi bụi. Vấn đề rút dang cũng khá vất vả vì bị vướng cành, có khi chặt rồi, không tài nào lôi ra được, đành bỏ!
Tài rút ra 6 cây, lấy dao vát hết cành nhỏ, chặt ngọn dùng dây rừng buộc chặt. Theo tiêu chuẩn, mỗi người phải lấy 10 cây, nhưng vì sức yếu, tôi chỉ vác 6 cây. Mang về nếu tụi nó hỏi, tôi sẽ trả lời theo đúng chính sách: Lao động tùy sức!
Tôi cảm ơn Tài lần nữa, rồi vác bó dang lên vai đi đến đầu con dốc. Tôi hạ bó dang, tìm cách đưa xuống. Sau khi suy nghĩ, không tìm ra cách nào hơn là thả cho bó dang tự do lao xuống, muốn rơi vào đâu cũng được.
Nhưng nghĩ lại, trong lúc bó dang đang lao, nhỡ có người từ dưới leo lên, chắc chắn không tránh được tai nạn! Không biết sao hơn, tôi khum hai bàn tay đưa lên miệng làm loa, hét to: nguy hiểm, tránh xa! Sau khi la mấy tiếng, tôi đẩy bó dang xuống. Bó dang lăn nhanh, va vào đá, sợ dây buộc đứt tung, mỗi cây văng một ngả. Báo hại, tôi bò xuống đi nhặt từng cây rải rác, tìm dây khác bó lại. Công việc tìm dây không dễ dàng vì ở dưới thấp khó có dây rừng. Tìm mãi không ra, tôi đành đi nhặt các sợi dây bị đứt nối liền, buộc tạm.
Tôi vác bó dang lên vai, men theo sườn núi đi về. Đường đi cũng không dễ dàng, vì gập ghềnh, có khi phải lội qua những vũng nước rộng, bên dưới lổn nhổn đá lớn, nhỏ, rêu bám trơn như mỡ. Các cây dang trên vai, vì buộc không chặt nên mỗi cây choãi một ngả, rất khó đi. Cuối cùng, tôi cũng mang về tới nơi. Mồ hôi ướt đẫm áo quần. Tôi cứ để nguyên, nằm lăn ra đất.
Đội trưởng đang ngồi uống nước, thấy tôi về, chạy ra hỏi:
- Sao, có 6 cây, chỉ tiêu 10 cơ mà?
Tuy mệt, nhưng tôi cố nhỏm dậy:
- Lao động tùy sức! Anh khoẻ mạnh sao không đi lấy, lại ở nhà?
- Tôi là Đội trưởng, cán bộ cho phép không phải lao động! Tôi chỉ kiểm soát sự lao động của anh em trong Đội thôi!
- Kiểm soát cái con c....! Tù cả mà! Lại còn chức sắc!
Thấy tôi nổi nóng, anh không nói gì, quay vào. Anh em cũng lục tục mang dang về. Người nào quần áo cũng ướt sũng như ngâm nước, mặt mũi bơ phờ như vừa trải qua cuộc chạy đua quá mức.
Tôi đã lấy lại sức, đứng lên định ra suối tắm giặt, chợt nhìn lên trên đồi. Một đoàn người đông đảo kéo dài từ đỉnh đồi xuống đến lưng chừng, trên vai mỗi người đều có bó dang dài thượt dưới ánh nắng chang chang trông giống như con rắn khổng lồ đang trườn mình bắt mồi.
Tôi vắt chiếc khăn mặt lên vai, lững thững đến bờ suối. Tôi tắm ở con suối nhỏ sau nhà. Vừa tắm, vừa nhìn lên ngọn đồi trồng dứa, trông khá vui mắt.
Vào xế trưa, mọi người đều về đến nơi. Đàm vừa quăng bó dang xuống đã chửi thề:
- Đù mẹ, lao động dài dài kiểu này chắc chết quá!
Hữu cùng đi với Đàm, nhưng vốn hiền lành, có tinh thần chịu đựng, tuy trước kia là ông Toà của Toà Án Mặt Trận Vùng 8. Còn Cung ở đội khác, nên trong công tác ít gặp nhau, ngoại trừ lúc rảnh rỗi, thường nói chuyện tâm tình. Vốn dòng dõi quan liêu phong kiến, chắc Cung cũng đã nhìn ra cái thế của mình, nên lúc này hắn thường buồn hon vui. Những tư tưởng trong thơ đã nghiêng về giải bầy nỗi u uất thầm kín!
Những bó dang chất đầy khoảng sân. Cứ như vậy, trong một tuần lễ, dang chất kín mặt sân với bề cao trên 1 thước. Buổi chiều anh em được tự do.
Qua tuần sau, Đội 1 và 3 làm hàng rào. Những cây dang được vạt nhọn một đầu, chặt ngắn còn độ trên 3 thước, đan chéo cánh sẻ kín xung quanh khu vực. Công tác làm hàng rào cũng mất cả một tuần mới xong. Có lẽ, chiếc hàng rào chỉ nhằm phân cách giữa chúng tôi và khu vực của tụi Cộng Sản ở, nên vẫn còn ba nơi để chừa lại không rào. Nó như ba chiếc cổng. Chiếc thứ nhất thông ra con suối lớn. Chiếc thứ hai qua con suối nhỏ đến khu nhà bếp của tụi cán bộ và kho dụng cụ. Chiếc thứ ba ngay vọng gác, lối đi ra bên ngoài. Trong khi các đội khác làm hàng rào, Đội tôi làm công tác phát quang những bụi lá dong mọc dầy đặc xung quanh khu nhà bếp của tụi cán bộ. Trong khi chúng tôi ăn bánh mì luộc dài dài, tụi cán bộ Cộng Sản ăn cơm. Tôi nhìn thấy cả đống cơm thừa đổ giữa lòng suối, trong khi mình đói thắt họng. Không phải một chỗ, nhiều nơi như vậy, chứng tỏ bữa nào tụi nó ăn cũng dư. Tôi chưa thấy lá dong ở đâu nhiều như ở đây. Nhìn những tầu lá to như lá chuối ngã gục dưới lưỡi dao, tôi chợt nhớ, mỗi dịp Tết vợ tôi thường đi mua lá dong để gói bánh chưng, làm sao tìm được những chiếc lá tốt như thế này.
Mỗi tối, tên cán bộ quản giáo đều sinh hoạt kiểm thảo công tác. Tụi Cộng Sản hay thiệt, dù ở đâu chúng cũng đều nói chung một luận điệu, không thấy ngượng. Lúc vào đầu, bao giờ cũng khen. Sau câu khen giả dối, mới phê bình xây dựng, đập tan nát. Nào lười biếng, tránh né lao động, không hăng say tích cực!... Nào chỉ tiêu, nào đánh giá, nào học tập tốt, lao động tốt sẽ sớm được về! Câu này nghe mãi trở thành trò hề. Không ai muốn nghe, nhưng bắt buộc vẫn phải làm ra vẻ chú ý để tiếp thu những lời giáo huấn! Công tác của Trại thay đổi luôn luôn. Nay làm việc này, mai việc khác. Việc nào cũng khổ sai cả.
Đã hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có mỗi ngày lãnh hai chiếc bánh mì luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và 1/4 chiếc bánh buổi sáng 50 gram. Như vậy chúng tôi chỉ được ăn 450 chất bột với muối, không có chất béo, chất rau, chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy dộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc, theo giấy tờ, chúng tôi được ăn 18kilo chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng. Nhưng thực tế chúng tôi chỉ được ăn 13kí500 chất bột. Số bột dư và chất đạm, chất béo, chúng tôi hoàn toàn không có quyền được biết.
Buổi sinh hoạt chiều nay sau khi điểm số xong, tên cán bộ quản giáo hỏi:
- Ngày mai Đội nào trực?
Một cánh tay giơ lên:
- Dạ, Đội tôi!
- Sáng mai, anh cắt bốn người đi mua “nợn” cách xa Trại khoảng 15 cây. Những anh này phải mang theo dây, đòn khiêng và lương thực ăn bữa trưa. Nghe rõ chứ?
- Dạ rõ!
Nghe nói mua heo, ai nấy mặt mày tươi rói! Sau khi tan hàng, vào trong Lán, Đội trưởng sinh hoạt chỉ định Tổ trực phải cắt bốn người ngày mai đi khiêng heo. Tổ trưởng của Tổ trực lại sinh hoạt, tính toán số người đã và chưa thi hành công tác “đột xuất” để cử đi. Bốn người tới phiên, mặt mũi buồn xo vì biết đây là loại công tác vất vả.
Sáng sớm, khi anh em còn ngủ vùi, bốn anh đã nai nịt gọn ghẽ. Mỗi anh giắt theo chiếc bánh mì luộc, phần ăn trưa. Tên cán bộ hậu cần, đeo súng ngắn đứng ngoài Lán gọi vào:
- Đâu, những anh nào đi mua “nợn”?
- Chúng tôi đây, cán bộ!
Tiếng đáp từ trong vọng ra. Những tiếng chân đi ra ngoài, theo ánh sáng của chiếc bật lửa.
Anh em vẫn ngủ. Tiếng ngáy đều đều cất lên như thường lệ. Thật vô phúc cho anh nào khó ngủ lại nằm kế bên các ông “vua ngáy”. Nằm mãi cũng chán, tôi vùng dậy đi ra sân. Những vì sao chưa lặn hết nhấp nháy trên cao như những ngọn đèn sắp lụn. Cảnh vật vô cùng vắng lặng. Từ xa, tiếng chim “bắt cô trói cột” kêu ra rả như xé ruột. Hồi khuya, lúc thức giấc, tôi có nghe thấy tiếng rú thảm thiết, hình như tiếng rú của đàn vượn đang gặp cơn nguy hiểm. Tiếng rú chạy dài theo triền núi hồi lâu mới dứt. Núi rừng luôn luôn chứa trong nó niềm bí mật của đêm sâu. Khi ánh mặt trời đã tắt, không khí của núi rừng cũng thay đổi. Con người dù can đảm cách mấy cũng không có gan di hành một mình giữa cảnh thâm u của núi rừng ban đêm. Do đó, việc trốn Trại cũng khó thực hiện. Tôi nhớ đến Khắc, chẳng hiểu lúc này hắn ở Trại nào? Hắn còn nuôi ý định trốn Trại không? Trại ở đây không có kẽm gai và mìn, sự canh gác cũng lơ là chứ không kỹ như ở Long Giao hoặc Suối Máu, mà sao coi bộ khó lòng vượt qua được cái vòng đai thiên nhiên của núi rừng miền Bắc!
Trời sáng dần. Phía nhà bếp, ánh lửa cháy đỏ rực. Có tiếng vỗ cánh của bầy gà con bị nhốt trong chuồng. Cái chuồng gà nhỏ có tre dang, đã được làm lại kín đáo, không còn sợ rắn! Tuy không quen biết anh chủ gà, nhưng tôi vô cùng cảm phục tinh thần chịu khó, biết lo xa. Trong khi anh em ăn bánh mì luộc chấm muối, anh vẫn có trứng gà ăn đều đều.
Sáng nay, chúng tôi đi phát quang một khu vực ngoài Trại. Từ hôm đến, bữa nay, tôi mới được bước ra khỏi chiếc cổng gác. Phong cảnh nhìn theo mặt phẳng không đẹp bằng nhìn từ trên cao. Mặt trời chiếu chói chang trên những ngọn đồi trà phía xa trông tươi mát. Cảnh vật yên tĩnh, không có cả tiếng chim kêu. Chúng tôi, người vác dao, kẻ vác cuốc đi thành hàng dài theo lối mòn có sẵn, leo qua hai quả đồi trước khi đi vào địa điểm lao động.
Đây, một khu hoang, cây cối chằng chịt. hơn 200 con người phải làm sạch trong buổi sáng, để lấy chỗ trồng trọt.
Buổi sinh hoạt chiều qua, tên quản giáo nói:
- Hiện nay, Trại thiếu rau cỏ và thực phẩm. Các anh “Cải Tạo” phải giúp Trại tạo ra của cải vật chất để nuôi sống mình và người khác!
Một Đội được phân công phát quang từng mảng. Những tên cảnh vệ làm nút chặn trên các lối rẽ đề phòng việc trốn Trại. Có những tên đứng trên bờ đất cao để quan sát cho rõ.
Một hồi còi rúc lên, tất cả ào xuống khu đất đầy cây dại, cỏ gianh cao ngập đầu người. Từng nhát dao lia tới tấp, từng nhát cuốc bổ liên hồi. Khu đất quang dần. Các cây cao từ từ ngã xuống như những tên tử tội sau giờ hành quyết, được cởi dây trói, xác lìa khỏi cọc.
Trong khi mọi người đang làm, bỗng có tiếng hò reo vang dội từ mé trái. Tôi ngừng tay ngó nhìn. Một đám người đông đảo vừa reo hò, vừa khua dao, đập túi bụi từ góc nọ tới góc kia. Chừng 15 phút sau, tiếng reo hò lắng xuống. Một người giơ cao lên khỏi đầu một con vật mầu xám tro, có chiếc đuôi dài xù to như bông lúa. Nhìn thấy Quang, Đội trưởng Đội 5, từ phía đó đi lại, tôi hỏi:
- Cái gì vậy?
- Anh em bắt được một con chồn.
- To không?
- Bằng bắp chân!
Nói xong anh đi thẳng về phía tên quản giáo, hình như để trình bầy chuyện vừa qua. Từ xa, tôi thấy tên quản giáo gật đầu. Chờ Quang qua mặt, tôi hỏi nữa:
- Cán bộ nói sao?
- Cho anh em ăn!
Tôi vừa làm vừa ngẫm nghĩ, mấy chục người ăn một con chồn bằng bắp chân, cũng chẳng khác gì 180 người ăn một con gà chết khi còn ở Long Giao năm ngoái! Trong lúc đang chống cuốc đứng nghỉ mệt, bỗng có người từ một bụi rậm bước ra, đến gần tôi, nói:
- Uổng quá, đáng lẽ anh đâu phải có mặt ở nơi này. Sáng ngày 29-4, Đại tá Anderson lái xe tìm anh để đưa đi di tản, rất tiếc, ông ta không biết nhà anh, tôi cũng không biết mà chỉ. Chắc cái số của anh đi tù nên bỏ lỡ dịp may!
Nghe xong, tôi cười. Đại tá Anderson mến tôi qua hội họa. Tên thực tế, tôi và ông ta không liên hệ gì với nhau nhiều trên công tác.
Sau mấy câu chuyện tầm phào, người bạn tù quay trở về Đội mình, còn tôi lại cúi gập người bổ từng nhát cuốc xuống bãi đất như trút tất cả sự giận hờn vào cây cỏ vô tri.
Sau 6 tiếng đồng hồ lao động liên tục, khu đất phát quang đã trống trơn. Cây cối nằm rạp ngổn ngang như bãi chiến trường sau giờ quyết chiến. Trời nắng gắt, nhưng trên đỉnh núi mây phủ mù mịt, một góc trời tối sầm. Có thể, chiều nay sẽ mưa. Từ hôm đến Trại, chưa mưa lần nào. Suối lớn cũng khô cạn, để lộ những tảng đá mầu xám chì mốc thếch.
Chúng tôi đi về, quần áo ướt nhèm, lấm bê bết, thất thểu như đoàn quân bại trận trước họng súng của những tên cảnh vệ áo quần khô ran sạch sẽ!
Vừa về đến Lán, mọi người quẳng nhanh vật dụng vào một góc, chạy ào ra suối. Ai thích nhiều nước ra suối lớn, ai ngại đi, tắm suối nhỏ. Có lẽ chất nước làm con người tỉnh táo, sau những giờ mệt nhọc, nên tiếng nói cười lại cất lên ầm ĩ. Sống trong cảnh lao tù, anh em cũng cố tạo ra niềm vui khi có dịp để khỏa lấp những giây phút buồn tủi! Dẫy núi cao bao quanh chúng tôi như bức tường thành không cách nào kinh qua được.
Tôi nghe nói, con chồn bắt được hồi sáng, đưa xuống nhà bếp làm thịt. Vì không có mỡ và gia vị nên sau khi làm lông, cho vào lửa thui vàng, chặt nhỏ kho muối.
- Thịt chồn kho muối, bố ai ăn được?
- Đù mẹ, thèm thịt quá, có cũng tốt!
- Chết thì thôi, nhất định tôi không ăn thịt chồn, tanh ngòm!
Những câu đối thoại trôi đến tai, dù không muốn nghe. Trên con suối nhỏ hàng trăm người tắm, nên tuy vẫn chảy mà dòng nước đục ngầu vì bị khuấy từ phía trên.
Trời bỗng tắt nắng. Mầu sắc chìm xuống, lắng đọng. Tôi nhìn lên. Từng tảng mây đen trôi cuồn cuộn như bị xô đẩy bởi luồng gió cực kỳ mạnh. Trên đỉnh núi hàng cây nghiêng ngã. Một đàn sáo xoải cánh bay vội về hướng núi, chỉ một thoáng chúng đã chìm khuất vào mầu xanh âm u của rừng rậm. Gió bắt đầu thổi dữ dội. Những quần áo phơi đây đó, bị gió hất tung vương vãi. Một cơn lốc bụi đỏ bay mù trời.
Giờ phát bánh đã tới. Những chiếc bánh nguội ngắt vì nấu từ sáng. Tôi đưa chiếc bánh lên miệng cắn từng miếng lớn. Có lẽ, vì quá đói nên tôi nhai rất nhanh. Chiếc bánh biến hết vào dạ dầy, cứ tưởng như chưa ăn!
Tôi nằm chờ mưa, nhưng gió đã đẩy cơn mưa về phía khác. Mầu trời sáng lại. Những tia nắng lại chiếu xuống cảnh vật là không khí oi bức hơn lúc chưa chuyển mưa.
Chiều nay chúng tôi được nghỉ vì đã đạt mức khoán. Anh em lợi dụng thời gian này để làm công tác riêng như vá quần áo, xếp lại túi hành trang. Toán đi mua heo giờ này vẫn chưa về. Ánh nắng chiều đã trải rợp 1/3 sân. Tôi ngồi trong bóng mát nói chuyện với Hữu và Đàm. Nói cho đúng, những câu câu chuyện nói mãi với nhau cũng chán, còn ước đoán về ý đồ của kẻ thù lại nản hơn, vì không bao giờ đúng. Do đó, nhiều khi chúng tôi ngồi với nhau, chẳng ai nói câu nào!
Bỗng có tiếng reo:
- A, heo đã về!
Tôi nhìn ra cổng, thấy bốn người cởi trần, trông rõ từng chiếc xương sườn, đang ì ạch khiêng con heo khá lớn. Vừa vào qua hàng rào, bốn người đặt mạnh con heo xuống đất, nhưng lạ quá con heo không kêu. Tên cán bộ hậu cần, bước vô đến ngay chỗ con heo, nói:
- Mấy anh không được việc gì hết, có mười mấy cây số mà để heo chết! Không khiêng xuống nhà bếp làm thịt, còn chờ gì nữa?
Bốn người uể oải đứng lên, đưa cây đòn vào vai. Tám bàn chân lảo đảo khiêng con heo chết xuống nhà bếp. Sau khi thi hành xong nhiệm vụ, bốn anh trở về Lán, nằm vật ra thở dốc như sắp chết theo con heo.
Tuy không quen thân, nhưng tôi biết một anh là Đại Úy, hai anh là Thiếu Tá, còn một anh là Chánh sở Quan Thuế Sàigòn. Lát sau, chắc đỡ mệt, anh Quan Thuế nói với người bạn nằm kế bên:
- Ối cha, từ thuở có mặt trên cõi đời, chưa bao giờ cực như bữa nay. Đi xa quá, nó kêu 15 cây mà đi hoài có lẽ tới 20 cây. Đi và về tổng cộng 40 cây. Đù má, mình đã mệt bỏ cha, con heo cứ quẫy. Mỗi lần nó quẫy chiếc đòn nghiến vào vai, đau chịu không thấu. Tôi bảo nó: “Thôi heo ơi! Một là mày chết, hai là tao chết. Nếu mày cứ quẫy hoài thế này có lẽ tao chết trước mày.” Bốn thằng chia phiên khiêng. Mỗi cây số lại nặng thêm. Sau bàn nhau, hai thằng khiêng, còn hai thằng coi chừng tên hậu cần. Nếu nó lơ là, thoi vào bụng heo, thoi liên tục kỹ cho chết, chứ nó quẫy như vầy, sao khiêng nổi. Từ lúc ấy, chúng tôi vừa khiêng, vừa thoi vào mạng mỡ heo. Mỗi lần thoi, con heo lại rống lên như bị thọc huyết. Sau thoi mãi vừa đau tay vừa mỏi, chúng tôi đá. Tên hậu cần đi cách xa chừng 20 bước chân, đến chỗ nào khuất, đá đấm heo thoải mái. Á, heo nó cũng khoẻ lắm đa. Đấm đá như vậy, khi về gần đến Trại nó mới tử đấy. Đường xa mệt quá, hai đứa khiêng không nổi, phải dùng chiếc đòn dài, bốn đứa cùng khiêng con heo khoảng 60 kí. Vái trời đừng bao giờ ăn heo nữa!
Anh ta nói một hồi, xong vùng dậy, ra suối tắm rửa! Mấy anh kia, không ai nói gì. Chắc cuộc đời chiến đấu đã quen chịu đựng gian khổ, hay vì một lý do nào đó, không ai hay biết!
Bữa bánh chiều nay ăn muộn vì còn chờ thịt heo. Đến tối mịt, anh em mới được phát mỗi Tổ một chén thịt cả nạc, mỡ lẫn xương chia ra mỗi người được một miếng to bằng hai ngón tay và chút nước muối!
- Ủa, con heo to thế, sao anh em mỗi người được có miếng nhỏ như vậy?
- Đù má, tụi cán bộ ăn mẹ nó hết bộ lòng và gần nửa con, còn lại bao nhiêu chia cho 300 người lấy đâu cho nhiều?
- Tiên sư cuộc đời, khiêng mấy chục cây số gần chết, cũng chỉ được miếng mỡ mỏng dính thế này, có đau không?
Tiếng chửi bới chìm dần vào bóng tối. Dù chê bai, nhưng miếng thịt và nước muối cũng hết vèo trong nháy mắt.
Vì ăn trễ nên sinh hoạt cũng muộn. Chúng tôi tập họp giữa đêm tối. Ánh đèn bão cầm trong tay tên cán bộ quản giáo chỉ đủ rọi sáng chỗ hắn đứng. Sau khi điểm số xong, đến phê bình kiểm thảo rồi giao công tác mới. Ngày mai, Đội tôi phải đi kiếm củi cho nhà bếp, cứ hai người 1 thước khối. Tôi nghĩ ngay đến những khúc cây rải rác trên triền núi, chỗ lấy dang.
Sáng hôm sau, tôi giắt 1/4 miếng bánh vào túi, vác dao cùng với Kiểm, người bạn nằm kế bên, đi lấy củi. Kiểm, nguyên Trung Tá Trung đoàn Phó, Trung đoàn K. Anh vốn hiền lành, ít nói. Tôi không hiểu với tính tình ấy làm sao anh chỉ huy? Chúng tôi leo theo lối cũ. Khi tới nơi, tôi choáng váng vì đã có cả chục người đang gom các cây củi khi trước đây không ai để ý. Tôi và Kiểm đành đi tìm nơi khác. Chúng tôi leo qua triền núi phía bên kia chặt cây tươi vậy. Chúng tôi chặt hoài, tuy đã mỏi, nhưng vẫn chưa được bao nhiêu. Trong lúc tôi chặt, Kiểm nhặt gom vào một chỗ, đến gần trưa, chuyển dần xuống con dốc để đưa về Trại. Chúng tôi phải khuân làm mấy chuyến, xếp củi vào chiếc ô vuông quy định có chằng dây. Hai người làm quần quật cả buổi sáng mới được 1/3 ô. Tôi nói với Kiểm:
- Trưa nay tụi mình khỏi ngủ, ăn xong đi kiếm ngay mới đủ.
Kiểm đồng ý. Chiếc bánh mì luộc bữa trưa lọt thỏm vào bụng, biến mất. Tôi dốc bi-đông vô miệng uống ừng ực, lấy nước làm no rồi ngả lưng nghỉ mệt chừng mươi phút. Trời nắng gắt, toàn Trại ngủ im lìm, chỉ có hai chúng tôi vác dao leo núi. Chặt đến chiều vẫn chưa đủ chỉ tiêu, mới chỉ được 3/4 ô, trong khi các ô khác đầy nhóc. Đã đến giờ tên cán bộ hậu cần đi kiểm củi. Khi đến ô của chúng tôi, hắn hỏi:
- Ô này của anh nào?
- Dạ, của chúng tôi!
- Sao có chừng này?
- Dạ, vì sức yếu, lấy không nổi.
Tên hậu cần nhìn chúng tôi bằng con mắt lạnh lùng:
- Các anh ăn thiếu có được không?
Chúng tôi không trả lời.
- “Nần” này thôi, “nần” sau không được đâu nhá!
Chúng tôi thở đánh phào như trút được gánh nặng, rủ nhau đi suối lớn tắm, trước khi về Lán. Tắm giặt xong, tôi mặc chiếc quần ướt đi về.
Buổi tối, chúng tôi sinh hoạt chính trị toàn Trại. Đề tài thảo luận về 3 cuộc Cách Mạng do Nhà Nước Cộng Sản đề ra. Đêm nay trời có trăng nên không cần đèn. Mỗi đội chúng tôi ngồi quay tròn để sinh hoạt ngay tại chiếc sân lớn. Tên quản giáo đi đi lại lại từ Đội này qua Đội khác để tham gia ý kiến và đôn đốc cho cuộc thảo luận được sôi động.
- Đảng và Nhà Nước đề ra kế hoạch 5 năm để tiến hành 3 cuộc Cách Mạng. Thứ nhất, Cách mạng về sản xuất; thứ nhì: Cách mạng khoa học, kỹ thuật; thứ ba: Cách mạng văn hoá. Tối nay các anh hãy thảo “nuận” về cuộc Cách Mạng thứ nhất. Còn hai cuộc kia để tối khác. Các anh còn ở “nâu” “no” gì? Đây, nằm trong kế hoạch học tập, các anh nên cố gắng “động não” để có những ý kiến sâu sắc, nhằm đưa buổi học tập tới kết quả! Nghe rõ chưa?
Mấy trăm cái mồm cùng nói:
- Rõ!
Cuộc thảo luận bắt đầu. Anh nào nhanh mồm nhanh miệng đưa ra ý kiến, để tên quản giáo chú ý tới mình. Nào sản xuất để cải tiến nông nghiệp, nào sản xuất để hiện đại hoá nền công nghiệp, nào sản xuất về Quốc Phòng! Lời qua tiếng lại, thấm thoát đã 9 giờ đêm. Tên quản giáo cho lệnh nghỉ, tối mai tiếp tục.
Mọi người ùa ra, tìm chỗ khuất nơi bờ rào đi tiểu, xong vô Lán. Tối nay trăng sáng quá. Không ngủ được, tôi cứ đi loanh quanh gần nơi cổng, nhìn ra chiếc cầu gỗ bắc ngang dòng suối, do Đội 1 thực hiện. Tôi đứng nhìn chiếc cầu phơi mình dưới ánh trăng, nổi bật như chiếc cầu trong bức tranh Nhật Bản. Tiếng nước suối róc rách nghe rõ mồn một. Tôi nghĩ thầm, giá lúc này không có chiếc rào ngăn cách, tôi có thể ngồi trên chiếc cầu gỗ nhỏ bé kia, vừa ngắm trăng, vừa nhìn cảnh vật, tai nghe tiếng suối chảy, thú vị biết bao! Vừa nghĩ tới đó, bỗng có tiếng quát:
- Anh nào kia, đứng “nàm” gì đấy?
- Dạ, nóng quá, chưa ngủ được!
- Vào ngay!
Sau tiếng ra lệnh khô và sắc, có tiếng kéo cơ bẩm lạch cạch. Tôi vội vàng đi vào! Anh em còn nhiều người thức, hỏi:
- Sao, chuyện gì vậy?
- À, chưa ngủ đứng ngắm trăng bị đuổi vô!
Có tiếng mỉa mai thốt khẽ trong bóng tối:
- Nghệ sĩ cho lắm vào, có ngày ăn đạn!
Những buổi kế tiếp, chúng tôi vẫn lao động đều đều. Có Đội đi lấy tranh lợp nhà. Có Đội cuốc đất trồng sắn. Có Đội làm nền nhà, phát quang v.v... Công tác lấy tranh lợp nhà có vẻ gay go nhất: vừa đi xa, vừa gánh nặng.
Buổi sinh hoạt chiều nay tự nhiên có rất nhiều cảnh vệ tham dự. Không khí buổi điểm số, do đó rất trang nghiêm. Những tiếng hô âm vang giữa buổi chiều rừng núi, có tác động rất đặc biệt. Tên quản giáo, như thường lệ, khen chê xong bắt đầu:
- Ban Chỉ Huy trại biết, các anh đang thiếu thốn thực phẩm, không có thịt cá, rau dưa gì trong mấy tháng nay, nhưng các anh cũng thông cảm với hoàn cảnh khó khăn của trại, cũng ‘nà” khó khăn chung của đất nước sau mấy chục năm chinh chiến, mới hòa bình trên một năm nay, “nàm” sao có thể đầy đủ ngay được? Vì vậy, trại mới quyết định khắc phục khó khăn đó bằng kế hoạch trồng rau và đào ao thả cá. Cái khu bữa nọ các anh phát quang sẽ đào thanh ao thả cá. Cá giống, trại sẽ mua, các anh đào xong thả cá giống, chỉ trong vài tháng “nà” các anh tha hồ có chất đạm! Vậy, ngày mai toàn Trại sẽ “nàm” thông tầm. Nhà bếp sẽ phát bánh sớm để các anh “nãnh” cả phần ăn trưa “nuôn”!
Nói đến đây, hắn đưa mắt nhìn quanh quất:
- Các anh nhà bếp đâu?
- Dạ, chúng tôi đây!
- Sau buổi sinh hoạt này, các anh đến hậu cần “nãnh” “nương” thực. Các anh phải “no” sao, đúng 5 giờ sáng “nà” có bánh để phát. Nghe rõ chứ?
- Rõ!
-Như vậy “nà” xong! Tôi nhắc ”nại”, mai các anh “nàm” thông tầm, từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Tan hàng!
Anh em ai nấy đều tỏ ra sốt sắng trong công tác ngày mai, vì còn gì vui hơn mấy tháng nữa có cá ăn mỗi bữa, thay vì nước muối triền miên!
Đã có người thức từ 4 giờ sáng. Tiếng điếu cầy kéo sòng sọc. Giá như mọi hôm, chắc thế nào người hút cũng nghe chửi, nhưng sáng nay anh còn được cảm ơn vì nhờ tiếng điếu, anh em mới dậy sớm sửa soạn cho công tác đặc biệt. Tuy nhiên, không phải ai cũng đồng ý như vậy, có người lè nhè:
- Dậy đéo gì sớm thế? Đù mẹ, cứ làm như khi có cá được ăn cả ao! Còn lâu ạ!
Tiếng kẻng sáng nay gõ sớm hơn thường lệ. Anh em ai nấy đều sẵn sàng cầm chiếc túi nylon bọc chiếc bánh, để dành đến buổi trưa! Kẻng chưa dứt, đã có người chạy ra sân, lấy nước sôi vì sợ ra chậm sẽ hết! Những anh thuộc Tổ trực, sẵn sàng đi lãnh dụng cụ!
Trời chưa sáng, ai nấy đều đã có chiếc bánh và 1/4 nóng hổi trong tay. Có người cẩn thận chưa cho vào túi nylon ngay sợ thiu, để ở ngoài cho nguội, mới gói lại. Tôi không chịu nổi cơn đói, đưa 1/4 phần bánh buổi sáng vô miệng. Có chút bột, tự nhiên trong bụng thấy ấm áp. Đúng 7 giờ, từ ngoài cổng rất nhiều cảnh vệ đi vào cùng các tên quản giáo. Mọi người không ai nghi ngờ gì, sẵn sàng đi đào ao thả cá!
Một tên cán bộ, đeo K54, tôi chưa thấy mặt lần nào, dõng dạc nói:
- Các anh mang hết tư trang ra sân điểm nghiệm!
Tất cả đều chưng hững, quay vào Lán thu xếp đồ mang ra sân, cả ca cóong, lon, hộp! Lán 1 ngồi đầu, tiếp Lán 3, Lán 2 ngồi hàng cuối. Tôi đang sửa soạn, bỗng có mấy tên cảnh vệ xông vô Lán:
- Anh kia, còn “nàm” gì đây, sao chưa ra?
Tôi vội vàng ôm đồ, ngồi hàng cuối ngay cửa. Hôm trước, xin được chiếc lọ nhỏ, tôi đã cho tất cả số thuốc vào đó. Tôi để nó ở dưới chân, tìm chỗ giấu. Xung quanh tụi cảnh vệ vũ trang đứng đầy, khó lòng nhét vào đâu được. Tôi thoáng nảy ra ý kiến, chôn nó xuống đất. Tôi lấy chiếc cán muỗng “i nốc” cầm trong tay, ngoáy xuống đất. Không may, chỗ tôi ngồi đất lẫn đá quá cứng, khó khoét, nhưng trước tình thế này, không còn cách nào khác, phải cố gắng để giữ lọ thuốc. Tôi cứ ngồi xổm, chiếc muỗng trong tay, ngoáy liên tục. Tôi yên tâm phần nào vì chỉ có 4 tên, khám cho 300 người, còn lâu mới đến chỗ tôi. Sau 20 phút tận lực, tôi cũng có một cái lỗ vừa đủ chôn lọ thuốc. Chôn xong, tôi dẫm chân lên, như vậy tạm yên.
Cuộc khám xét lần lần từng hàng một. Mỗi phút qua đi, lòng tôi như lửa đốt. Mãi rồi cũng đến lượt hai tên khám đồ của tôi, không thu gì. Khi khám hết lượt, tên đeo K54 nói gọn:
- Các anh xếp đồ lại, chờ “nệnh”!
Mọi người lại thu vén nhanh nhẹn cho vô túi đeo lưng hoặc bao. Linh tính cho biết, sẽ có chuyện gì xảy ra. Tôi san đồ làm 2 gói, nếu có phải di chuyển, sẽ gánh cho nhẹ. Tôi đã có sẵn cây đòn trong dịp làm hàng rào.
Sáu tên cảnh vệ tiến ra giữa sân, rồi mỗi tên hô:
- Đội 1 theo tôi! Đội 2 theo tôi.
Cứ như vậy, sáu tên dẫn sáu Đội đi ra cổng. Trong khi chờ đến lượt Đội mình, tôi nhìn vào Lán, thấy tên quản giáo đang lục lọi, tìm từ góc cột đến mái nhà, xem tụi tôi có giấu gì không?
Chúng tôi đi theo tên cảnh vệ vũ trang ra cổng, rồi cứ vậy thẳng đường, tới ngọn đồi mà mấy tháng trước khi đến đã ngồi chờ tại đó. Từ trên đỉnh, tôi nhìn thấy trại của Tính. Nơi đó, cũng có đông người đi về phía chúng tôi. Chừng nửa giờ sau, khu vực tập họp đã đông nghẹt. Tính đã nhận ra tôi, giơ tay vẫy vẫy. Tôi vẫy lại, thay lời chào. Đây là lần cuối cùng, tôi và Tính thấy nhau. Tính có vẻ mập và trắng ra, chắc hẳn là công việc nhẹ tại trại, chứ không đi lao động. Ở trại nào cũng có một số công việc chuyên môn như đan rá, rổ, làm bếp, trồmg rau v v... thuộc loại công tác nhẹ. Ai không có sức khỏe, có thể xin làm công việc ấy, nhưng muốn xin, cũng không dễ vì số người được ở nhà rất hạn chế!
Sau khi tập họp xong, tên quản giáo cầm xấp giấy vẻ mặt trang nghiêm, nói:
- Theo “nệnh” trên, một số anh sẽ chuyển trại. Sau khi gọi, anh nào có tên, đứng sang phía tay phải của tôi. Nghe rõ chứ?
- Rõ!
Hắn mở xấp giấy, đọc tên và cấp bậc, toàn Trung Tá khoảng trên 100 người.
Sau khi đọc xong, hắn cho lệnh những người không có tên đứng vào ở riêng biệt.
Tôi xỏ 2 gói đồ vào chiếc đòn cho cân. Chúng tôi được lệnh di chuyển theo một tên cán bộ đeo súng ngắn không mang quân hàm, chắc cấp sĩ quan, tác phong có vẻ chững chạc. Hơn 100 con người gồng gánh, đeo, vác đi lần theo con đường mòn, không phải con đường đã đưa chúng tôi đến. Mọi người đều nghĩ, chỉ đi chừng 1 cây số sẽ có xe đón. Ai ngờ, cứ đi dài dài.
Ánh nắng buổi sớm mai chiếu chếch tạo nên sự tương phản về mầu sắc. Một bên rực rỡ, một bên ảm đạm, mơ hồ! Đường gập ghềnh rất khó đi. Qua khỏi con lộ đất, chúng tôi gặp con lộ đá khá rộng, có xe hơi chạy qua tung bụi mù. Hai túi đồ của tôi, theo nhịp chân, lúc la lúc lắc, làm chiếc đòn nghiến vào vai đau chịu không nổi. Tôi đặt nó xuống ven đường, tháo ra nhét vào túi đeo lưng. Vì không có thì giờ sắp xếp cho gọn, tôi nhét bừa nên nó đẩy ứ công kềnh. Tên cảnh vệ giục:
- Cái anh này, mau “nên”, còn ngồi đây đến bao giờ?
Tôi buộc vội rồi đeo lên vai, chạy lật đật để theo kịp dòng người. Vì đeo nặng lại đi gấp nên chóng mất sức. Mồ hôi vã ra đầm đìa! Tôi thấy khát nước, bỏ chiếc túi đeo xuống, lấy chiếc bi-đông ra tu một hơi gần hết 1/3. Theo kinh nghiệm di chuyển, trước khi đi xa, nên nuốt muối cho đỡ ra mồ hôi, lâu mất sức. Biết vậy, nhưng mọi người sáng nay không ai nghĩ sẽ phải làm cuộc “vạn lý trường chinh”, nên chẳng ai chuẩn bị. Sau khi đã cơn khát, tôi lại đi những bước chệnh choạng. Hơi nóng bốc từ mặt đường hừng hực. Thỉnh thoảng có dẫy nhà làm sát mé lộ, vài người đứng nói chuyện, thấy chúng tôi đi qua họ nhìn bằng những con mắt thương hại. Qua cái nhìn đó, tôi thấy xấu hổ vì chúng tôi không phải lũ ăn mày tình thương! Chúng tôi, những người thua trận, bị cầm tù gánh chịu nhục nhã do kẻ thắng trận muốn hành hạ để trả thù!
Dòng người rời lộ đá, quẹo vô con lộ đất đỏ au. Vừa quẹo khỏi khúc quanh, chúng tôi gặp một toán người lếch thếch, cũng gánh, gồng đeo vác, di chuyển ngược chiều. Một người hỏi:
- Cấp gì đó mấy anh?
- “Bò ngũ”. Còn mấy anh?
- “Bò tứ” và “Bò tam”! Mấy anh từ đâu đến?
- Từ Yên Bái! Còn mấy anh?
- Từ Nghĩa Lộ! Như vậy, chúng tôi đi, nhường chỗ cho mấy anh đó!
Tên cảnh vệ trừng mắt nhìn anh bạn đang trao đổi. Anh kia ngừng bặt.
Dòng người uể oải, lê bước, đi sâu vào con lộ, bắt đầu lên dốc. Một anh ngoái cổ hỏi:
- Còn xa không?
- Khoảng 4 cây!
Nghe câu trả lời, tôi rùng mình. Từ sớm, tôi đi khoảng 3 cây, bây giờ thêm 4 cây nữa!
Đeo nặng, di chuyển dưới nắng bảy, tám cây số, leo đèo xuống dốc, tuy mệt, nhưng chẳng ai khước từ được. Sau khi leo qua hai con dốc, mệt quá, tôi nằm lăn bên vệ cỏ.Tên cán bộ áp tải tù, thấy tôi như vậy, hắn dừng lại chờ. Tên này khá tử tế, tuy trông mặt cũng dữ dằn như mọi tên bộ đội coi tù khác. Hàm răng hô đưa ra khỏi môi như cười:
- Sao mệt quá hả? Sắp đến nơi rồi, cố lên!
Tôi biết, hắn nói câu đó, cũng như Tào Tháo đánh lừa quân sĩ sắp tới rừng mơ, khi họ quá khát nước. Chiếc bi-đông không còn giọt nào. Cổ họng khô cháy. Tôi nhắm mắt để tránh ánh nắng. Thấy tôi nằm lâu quá, mọi người đã đi xa, tên cán bộ xách chiếc túi của tôi lên, đeo vào vai hắn:
- Tôi mang dùm một quảng. Đứng dậy, đi!
Tôi nhỏm người, cảm thấy nhẹ nhõm. Tên bộ đội đeo dùm qua ba con dốc. Thấy tôi đã lấy lại sức, hắn trao trả. Tôi khoác chiếc túi đeo lên vai, từ từ xuống dốc. Con dốc khá dài. Nếu trại ở cuối con dốc này, hy vọng tôi sẽ tới nơi, yên lành! Nhưng không, sau khi xuống hết con dốc, một con dốc cao khác đã chờ trước mặt. Tôi lại cố gắng từng bước leo dần, leo dần. Khi lên tới đầu đốc, tôi hoàn toàn kiệt sức, ngã lăn trên bãi cỏ may, nằm đè lên chiếc túi đeo lưng. Tên cán bộ đã đi xa. Tôi nhìn về phía trái, cách xa chừng 100 thước, có nhiều dẫy nhà và những chiếc áo xanh qua lại. Tôi biết, nó là doanh trại của bộ đội. Dòng chữ “Không có gì quý hơn Độc Lập Tự Do” đập vào mắt. Tôi biết, sắp đến trại tù. Ở lưng chừng dốc, có hai người đang leo những bước chân lê lết! Lát sau, khi lết tới đầu đốc, họ cũng nằm lăn ra y hệt tôi. Thế là ba cái thân người sống dở, chết dở, nằm giữa vùng đồi núi mênh mông. Hai người lên sau, nằm chừng 15 phút, họ đứng dậy đi. Còn lại tôi, một mình nằm trơ như phiến đá. Chẳng biết nằm như vậy bao lâu, tôi bỗng nghe có tiếng chân đến gần. Mở mắt, thấy Hữu tôi mừng quá, gọi tíu tít. Hữu mỉm cười:
- Biết ông mệt, nên tôi ra đón!
- Trại còn xa không?
- Qua con dốc này là tới!
Vừa nói, Hữu vừa nâng tôi lên, tháo túi đồ treo trên vai tôi ra, đeo vào vai mình.Tôi ngồi dậy, đi từng bước mệt mỏi theo Hữu. Chúng tôi xuống hết con dốc, lại leo thêm con dốc nhỏ, tôi nhìn thấy vài dẫy nhà ở dưới thấp, và những thửa ruộng ngập nước. Hữu chỉ tay về phía trước:
- Trại đó!
Đi chừng nửa tiếng nữa tới trại. Lúc đó, 3 giờ chiều. Như vậy tôi di chuyển quảng đường dài khoảng 7 cây số, từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều, mất 6 giờ, trung bình 1 giờ đi được hơn 1 cây số!
Khi đến nơi, anh em đã vào Lán và chuẩn bị xong chỗ nằm. Trại gồm sáu Lán, chia thành hai dẫy, mỗi bên ba chiếc. Tất cả những người mới đến ở hai Lán, những người đã ở từ trước, gom trong bốn Lán. Toàn cấp Trung Tá. Tính trung bình khoảng trên dưới 300. Trại ở trên ngọn đồi thấp. Rất nhiều gốc cây còn sót lại, chứng tỏ trại mới đuợc dựng cùng với thời gian dựng trại Yên Bái, nơi chúng tôi vừa rời bỏ. Những anh em, tôi vừa gặp đi ngược chiều, chắc sẽ chuyển về nơi tôi ở cũ. Có lẽ, đây chỉ là việc hoán chuyển theo kế hoạch tập trung từng cấp cho dễ điều hành.
Tôi xin nước uống dưới nhà bếp. Mùi cơm thơm phức đưa vào mũi làm ứa nước miếng. Đã mấy tháng nay, chưa đuọc ăn hột cơm nào, nạy được ngửi mùi cơm đã thấy nôn nao, tưởng như có thể ăn hết cả thau.
Cơm ở đây được đựng trong những chiếc thau tráng men. Cứ mười người 1 thau cơm và 1 thau canh. Tuy đói, nhưng chưa đến giờ phát cơm, tôi đi xuống suối tắm giặt. Con suối ở đây cũng nhỏ như con suối ở Yên Bái, nhưng nghe anh em ở cũ nó, dưới xa, nơi chân đồi có dòng suối lớn, bề ngang rộng cả mấy chục thước. Tắm giặt xong, tôi nằm nghỉ trên sạp nứa, chỗ gần Hữu và Đàm. Một hồi kẻng gõ vang, giờ lãnh cơm.
Buổi chiều nay tôi được ăn một bữa cơm với canh cải nấu muối, như chưa bao giờ được ăn ngon như vậy. Ăn xong, tôi ngồi trên một gốc cây nhìn lên những ngọn núi nhấp nhô đan kín vùng trời. Trại chưa có hàng rào.
Khu tụi cán bộ ở phía bên kia con suối, trên những ngọn đồi cao hơn. Những mái nhà rải rác đó đây, trông khang trang sạch sẽ. Ngay dưới chân đồi, có vọng gác. Trên đồi chúng tôi ở, cũng có căn nhà lá dành cho tụi cảnh vệ và vọng gác. Cả hai nơi đều có thể quan sát, kềm chế mọi sinh hoạt của chúng tôi bất kể lúc nào.
Vào khoảng 7 giờ tối, tiếng kẻng vang lên. Từ trong các Lán, mọi người ào ra sân tập họp. Chúng tôi làm theo. Cũng như lần trước, chúng tôi, những người mới đến chưa có Đội trưởng. Một anh lại tình nguyện. Sau khi tập họp xong, đứng chờ. Một lũ bộ đội từ dưới đồi bước lên, mỗi tên cầm trong tay một chiếc lồng đèn. Vào đến giữa sân, chúng tỏa ra hai bên, mỗi tên đến một Lán.
Tên cán bộ hỏi:
- Các anh mới đến, đã có Đội trưởng chưa?
- Dạ, tôi! - Anh tình nguyện giơ cao tay.
- Tốt! Đây, buổi sinh hoạt đầu tiên giữa chúng tôi và các anh. Như các anh đã biết, chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước tha tội chết cho mấy anh, “nại” còn giáo dục để nay mai các anh trở thành những người “nương” thiện. Các anh cố gắng học tập tốt, “nao” động tốt để sớm trở về với gia đình. Trong thời gian ở trại này, các anh cố giữ gìn kỹ “nuật” tuân hành “nệnh” cán bộ, nếu không chúng tôi sẽ nghiêm trị, các anh nghe rõ chứ?
- Rõ!
Vẫn ngần ấy luận điệu, nghe chán quá! Tên cán bộ tiếp:
- Sáng mai, các anh sẽ khai báo lý lịch, học tập nội quy. Tan hàng!
Anh em kẻ vô Lán, người còn đứng ngoài. Những Lán có người cũ, tụi cán bộ nói lải nhải để sinh hoạt mãi chưa xong. Cây đèn dầu đặt dưới đất, ánh lên, không soi tỏ các khuôn mặt. Tôi chỉ thấy những thân hình và những bộ đồ tác chiến hòa trộn vào nhau thành một khối đặc sệt.
Một anh lên tiếng.:
- May quá, không có điểm nghiệm. Đỡ phải giấu đồ.
- Ừa, may thật, ngày mai chỉ khai báo lý lịch, học tập nội quy, cái đó quá quen thuộc! Đù mẹ, nội quy đéo thèm chép nữa, chỉ dò dò, ghi thêm, xóa bỏ những chỗ thừa, vì nó “xêm xêm” cả.
- Đồng ý, đồng ý, bồ nói có lý quá!
Đêm thứ nhất trôi qua trong trại mới bình an vì mọi người đều mệt, qua cuộc di chuyển 7 cây số đường rừng, vác nặng!
Sau khi ăn sáng bằng nửa chén bắp cứng hơn đá, chúng tôi được lệnh mang hành trang ra điểm nghiệm. Tên cán bộ quản giáo đã đứng ngay trước cửa. Không ai kịp giấu thứ gì. Mặt người nào cũng ngẩn ra như bị bắt quả tang ăn vụng. Luôn luôn, chúng tôi mắc lừa Cộng Sản, từ việc to đến việc nhỏ. Vì không ước đoán được ý đồ của họ, nên luôn luôn chúng tôi như những cô gái ngây thơ trước con điếm quá nhiều kinh nghiệm trong nghề!
Các vật dụng cá nhân được bầy hàng trước mặt mọi người, như mọi cuộc điểm nghiệm khác. Tên cán bộ quản giáo, đầu đội cối, lưng dắt súng ngắn, đứng dạng chân, hai tay chắp phía sau.
- Bữa nay điểm nghiệm, tôi yêu cầu các anh phải thành thực trình bầy tất cả tư trang của mình, không được giấu diếm. Mỗi anh phải làm một tờ kê khai, nộp cho tôi, ai có bật lửa phải trình ngay vì trại tuyệt đối cấm các cải tạo viên dùng. Ngoài ra, còn thuốc tây, ai có cũng phải nộp. Các anh nghe rõ chứ?
- Rõ!
Thế là chúng tôi, mỗi người cắm cúi ghi tất cả những thứ mình có vào tờ giấy, nộp cho tên quản giáo. Tôi có chiếc bật lửa Zippo còn mới, loay hoay tìm chỗ giấu cùng với lọ thuốc. Chiếc sân rất trống trải, xung quanh không có chỗ nào kín khả dĩ cất giấu, hơn nữa, tên quản giáo đứng lù lù, nhìn chăm chăm vào chỗ điểm nghiệm, làm sao giấu? Sau, tôi đánh liều, không nộp, chờ dịp. Tôi liếc mắt sang Lán bên, cũng vậy!
Cuộc điểm nghiệm bắt đầu. Tên quản giáo kiểm hàng đầu, từ trái qua phải. Hắn khám cũng không đến nổi khắt khe lắm. Có nhiều người đưa nộp bật lửa, kể cả bật lửa ga Ronson hoặc Dunhill rất đẹp. Tôi nghĩ, họ nộp cũng phải, vì lấy đâu ‘ga”‘ mà dùng? Lợi dụng lúc tên quản giáo đang khám, tôi cầm chiếc bật lửa thẩy xà mặt đất, như trẻ con chơi ném thia lia, xong đến lọ thuốc. Tôi liếc nhìn theo. Lọ thuốc lăn vô một lùm cỏ, còn chiếc Zippo phơi mình trắng xóa dưới ánh nắng giữa nền đất nâu xám! Tôi hoảng hồn, nhưng chẳng biết sao hơn, nếu tên quản giáo nhìn thấy, đành mất!
Công việc điểm nghiệm cũng mất khá nhiều thì giờ. Sau khi soát xong, tên quản giáo cầm trong tay một nắm bật lửa. Tuy làm ra vẻ không có gì khuất tất, nhưng trong lòng như có lửa đốt vì chỉ cái nhìn tình cờ nào đó, chiếc Zippo của tôi sẽ cùng chung số phận với những chiếc khác. Nhưng may mắn, hắn quay đi sau khi nhắc nhở, chiều nay học nội quy. Thế là thoát!
Chờ cho tên quản giáo đi khuất sau chiếc Lán, tôi đi ra nhặt lọ thuốc và chiếc Zippo, nhưng dù có nó trong tay, từ nay tôi cũng không dám dùng công khai, vì đã có lệnh cấm, chắc họ sợ chúng tôi dùng bật lửa để làm ám hiệu cũng như trốn trại!
Đời sống trong trại tù nào cũng vậy, vẫn ngần ấy công việc phải làm: ăn uống, tập họp và lao động! Sau những công việc thường lệ ấy, anh em lại bàn tán về chính sách, và thời hạn được tha. Cái yếu của chúng tôi là luôn luôn nghĩ thuận cho mình. Không ai nghĩ, hoặc nói đến những gì bất lợi. Thản hoặc, có người dám nhìn thẳng vào sự thực cũng không để lộ vì sẽ bị chỉ trích là bi quan, xuyên tạc chính sách của Nhà Nước!
Những ngày đầu qua đi, buồn nản vì phải thi hành một số thủ tục. Tôi nhìn những anh em cũ đi lao động từ sáng đến chiều, vác về những cây gỗ to để làm nhà, phát ớn! Trông họ thật thê thảm, quần áo tả tơi, lấm như vùi, mặt mày hốc hác! Rồi mai đây, đến lưọt chúng tôi, cũng phải lao động như mọi người vì đã ăn chén cơm của Cộng Sản, mà Cộng Sản không chấp nhận việc “ăn bám” tuy họ là “vua bóc lột”!
Mỗi buổi tối, đều có sinh hoạt do tên quản giáo phụ trách.
Công tác hôm sau, được quyết định từ tối hôm trước. Ngày mai, Đội tôi phải đi lấy nứa. Chỉ tiêu đề ra mỗi người 12 cây, dài tối thiểu 6 thước, đường kính 5 phân. Đi thông tầm, lãnh phần ăn sáng và trưa mang theo. Chắc chắn phải đi xa, nên mọi người đều lo sửa soạn từ tối hôm trước: nào áo quần lao động, dây nhợ, gô đựng cơm, bi-đông nước! Mọi người đi ngủ sớm để lấy sức. Tôi vốn khó ngủ, nên trằn trọc hoài giữa tiếng ngáy đều đều của Hữu và Đàm.
Tôi thức dậy trước tiếng kẻng, đi xuống nhà bếp xin nước. Những lò lửa đỏ rực, anh em làm bếp cởi trần trùng trục, mồ hôi nhễ nhại. Những chảo cơm bốc hơi nghi ngút. Hàng chậu men xếp ngay ngắn, để việc phân chia có thứ tự. Tuy không phải đi lao động leo đèo, trèo núi nhưng công việc làm bếp cho trên 300 miệng ăn cũng khá vất vả vì chỉ có 10 người. Như vậy, 1 người phục vụ 30 người. Ở đây, nấu ăn bằng nước giếng, nên anh em đỡ lo phần nào về bệnh sốt rét.
Trời sáng dần sau dẫy núi bao quanh Trại. Tiêng hô lãnh cơm từ nhà bếp vọng lên. Không khí sinh động toàn Trại bắt đầu. Vấn đề lãnh cơm và chia cơm do người Trực luân phiên phụ trách. Sự chia chác lúc đầu cũng không đến nổi gay go, vì dù sao anh em cũng còn coi nặng tình nghĩa hơn miếng ăn. Mỗi bữa, trung bình được “2 chén tầu thủy”, như vậy là thiếu, ngay cả đối với những ai ăn yếu. Do đó, anh em đi lao động trên núi về, đều mang theo túi măng tươi hoặc rau tầu bay để độn thêm cho đỡ đói. Rau tầu bay là loại rau trong thời gian kháng chiến chống Pháp, bộ đội thường ăn trừ cơm trong những ngày chưa nhận được tiếp tế, nhưng ăn nhiều bị mất máu.
Chúng tôi đi theo tên cán bộ quản giáo ra khỏi Trại, quẹo về phía trái, men theo sườn đồi. Đi chừng non cây số, gặp khu dân ở. Những căn nhà lụp sụp, mái lá, vách đất xiêu vẹo như bao cảnh nghèo nàn miền Bắc, tôi đã thấy từ mấy chục năm trước. Cái “mùi nhà quê” do rơm rạ, phân trâu, bò, lợn, gà tạo nên. Những đứa con nít cởi truồng, bụng ỏng, đít von vì thiếu dinh dưỡng, dòng nước mũi xanh lè chảy dài xuống mồm, mấy con ruồi nhặng bu quanh! Dòng người lội bì bõm qua những vũng nước, bùn đen ngập lưng bụng chân, mùi hôi xông lên nhức nhối. Không hiểu sao, sau mấy chục năm mà trình độ hiểu biết của dân chúng về vấn đề vệ sinh công cộng chưa được cải tiến? Chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa thường huênh hoang là chiếc nôi của loài người tiến bộ, là tiền đồn của Cộng Sản Quốc Tế, đã từng đánh gục quân Pháp tại trận Điện Biên Phủ năm 1963, đã làm tan rã 1 triệu mốt quân đội miền Nam với sự tham chiến của hàng trăm ngàn quân Mỹ và 5 Quốc gia Đồng Minh của Mỹ nữa, mà sao con người Việt Nam nói chung tại miền Bắc, vẫn sống trong nghèo khổ, lạc hậu? Ánh sáng văn minh hình như chẳng bao giờ chiếu rọi đến những vùng đất thiếu may mắn này!
Đoàn người bắt đầu leo dốc, con dốc không cao nhưng kéo dài men quanh sườn núi. Đôi chỗ, gặp con dốc cao, có thể nhìn bao quát quanh vùng. Ánh nắng sớm mai chiếu chênh chếch làm cảnh vật có chiều sâu và rực rỡ. Mầu xanh chỗ đậm chỗ nhạt, tạo nên sinh động không ngừng theo triền núi chạy dài trước tầm nhìn. Đi chừng hơn một tiếng, dòng người ra khỏi dẫy núi, gặp con lộ đá trải nhựa khá rộng. Môt chiếc xe hơi chở khách chạy băng qua để lại đám bụi mù mịt. Tên cán bộ quản giáo cho lệnh đoàn người băng qua lộ, đi thẳng vào dẫy núi trước mặt. Một con suối khá rộng chắn ngang. Tên quản giáo cúi xuống xắn cao quần, lội dọc theo. Con dao rừng, hắn đeo sau lưng đung đưa, lưỡi dao sáng loáng.
Mọi người làm như hắn. Nước suối trong vắt, lạnh buốt. Đoàn người ngược dòng, càng vào sâu càng tối, như đi trong chiếc hang do lá cây rừng từ trên cao rủ xuống, che khuất ánh mặt trời. Nước suối làm hai chân tôi tê dại bước dò dẫm trên những tảng đá ngầm và lá mục trơn trợt. Lội chừng 2 cây số, tên quản giáo tạt lên bờ, rồi dẫn chúng tôi vào một khe núi nhỏ, cho lệnh mọi người leo lên tìm nứa.
Tôi bám vách đá leo, con dao lủng lẳng bên hông, thỉnh thoảng va vào đá kêu leng keng. Khi lên cao, tôi nhìn thấy một vùng ánh sáng rộng lớn chảy tràn trề trên vùng thung lũng. Những gốc nứa đâm tua tủa như nhửng lưỡi dao sắc bén, nếu vô ý, sẽ cưa đứt chân như không. Khu này, chắc những người đến trước đã lấy nứa, nên bây giờ không còn. Muốn lấy, phải vào sâu nữa, qua sườn núi bên kia. Tôi rủ Đàm và Hữu cùng đi. Chúng tôi len lách dưới những lùm cây, chui qua nhiều vòm dây leo đan kết lâu ngày thành những chiếc cổng thiên nhiên. Hữu đi sau tôi, bỗng kêu:
- Vắt nó đeo đầy ống chân ông đó!
Tôi đứng lại, ngoái nhìn hai con vắt bám vào bắp chân như hai chiếc lá tre khô. Tôi nhổ nước miếng vào tay gỡ ra vứt ngay vào bụi.
- Hôm nay, trời nắng đấy, nếu mưa, vắt nó bám đầy mình, khó lòng gỡ!
Qua đến bên kia triền núi, tôi chặt 8 cây nứa thay vì 12 cây theo chỉ tiêu, vì nghĩ sức mình không vác nổi!
Tôi kiếm dây rừng bó chặt. Còn thừa, khoanh tròn buộc ngang hông, phòng hờ lúc dây đứt thì có để thay. Tôi gọi Hữu và Đàm cùng về. Tôi nhìn thấy hai người đang buộc 2 bó to, họ lấy đủ chỉ tiêu! Chúng tôi cùng xuống dốc, men theo lối cũ. Lượt về hơi khó đi vì vướng bó nứa dài thượt. Khi xuống đến chỗ tên cán bộ ngồi đợi, tôi thấy hắn đã chẻ được bó lạt to. Có lẽ, do thói quen, tụi lính Cộng Sản cố tìm ra việc để làm trong lúc rảnh rỗi. Hắn rút trong túi cây còi thổi ren réc. Tiếng còi “thu quân”. Chờ mọi người tập họp đông đủ, hắn cho lệnh đi về. Chúng tôi lội ra. Nước suối vẫn lạnh tê. Tới con lộ đá, tên quản giáo cho lệnh mọi người bỏ nứa xuống để kiểm chỉ tiêu và chất lượng. Tất cả đều đạt chỉ tiêu, trừ tôi. Vẫn như hồi ở Yên Bái, tôi lại nại cớ “Lao động tùy sức” Tên quản giáo nghiêm mặt, nói:
- Anh ”nà” bầy nhầy “nắm”! Chúng tôi đã nói nhiều “nần”, “nao” động cần có kỹ thuật, có kỹ “nuật” và đạt năng xuất! Anh chẳng đạt được yêu cầu nào. Kỹ thuật không có, ai “nại” chặt để cho vỡ nát cả thân nứa thế này, kỹ “nuật” gì mà không buộc như mọi người, dây nhợ chẳng chịt, năng xuất không đạt! “Niệu”đấy. Về sớm hay muộn, tùy anh!
Tôi đứng im chịu trận, rồi cũng qua!
Lúc đó đã quá trưa. Tên quản giáo cho mọi người ngồi nghỉ ngay ở ven lộ để ăn cơm. Tôi cúi xuống toan thả ống quần, bỗng vô cùng kinh ngạc khi thấy hai ống chân không con sợi lông nào. Tôi tưởng mình nhìn nhầm, quay sang chỗ Đàm và Hữu. Họ cũng như tôi, sửng sốt khi thấy chân mình trắng hếu! Đã từ lâu, tôi đã nghe nói ở miền thượng du Bắc Việt, có những dòng suối độc, ai vô ý lội qua, lông chân rụng hết, nay quả như vậy! Tôi chưa tin hẳn, hỏi vài người khác khi vén ống quần lên, y nhau! Ăn trưa xong, mọi người vác nứa lên vai trở về.
Lúc đi bao nhiêu con dốc, lúc về như vậy, chỉ đổi chiều thôi.Vác nặng quá, tôi để bó nứa xuống, dùng sợi dây thừng phòng hờ, một đầu buộc vào bó nứa, một đầu thắt thòng lọng, đeo vào vai như kiểu kéo thuyền, cứ thế bó nứa đi theo tôi hết đoạn đường núi. Khi gần đến xóm nhà dân, tôi vác lên vai, bó nứa đã dập hết, mềm nhũn, nhún nhẩy theo mỗi bước chân. Về đến trại, quẳng bó nứa từ trên vai xuống như quăng bó lạt lớn!
Công tác lấy nứa được thi hành trong một tuần lễ liền. Nứa đã chất đầy một góc sân. Tuần kế tiếp, ở nhà đập dập chẻ làm tranh lợp nhà. Trại đang xây cất thêm căn nhà Văn Hóa và Hội Trường lớn chứa khoảng ba, bốn trăm người dùng làm nơi học tập. Những ai có nghề mộc đều xung vào Tổ làm nhà. Những ai có nghề đan rổ, rá, thúng mủng, xung vào Tổ đan. Còn lại, leo núi, đốn cây rừng làm kèo, cột!
Một chiều, có lệnh, trại thành lập đội rau xanh, gồm những người già yếu không đủ sức lao động, lên núi vào rừng! Mỗi Đội ghi tên theo tiêu chuẩn ấn định. Tôi được chuyển sang đội rau ngày hôm sau, do Kiếm, trước ở ngành An ninh Quân Đội làm Đội trưởng. Đội Phó là Nhược, cựu sĩ quan Dù đã giải ngũ. Tôi chẳng hiểu Kiếm và Nhược khi trước, trong Quân Lực Cộng Hòa, họ làm ăn ra sao, nhưng chỉ biết hôm nay, họ phục tùng lệnh của tên quản giáo quá mức. Họ đôn đốc và ép anh em làm như bầy nô lệ. Một buổi, chẳng biết tên Nhược có điều gì không bằng lòng với một bạn tù, hắn nói to cho tên quản giáo đứng gần đấy nghe:
- Anh chống đối lao động, tức là chống đối Cách Mạng, anh hiểu chưa? Đến giờ này, anh còn ngoan cố phản động!
Anh kia trả lời:
- Anh đừng có chụp mũ, vì sức yếu, không làm nổi, nên tôi mới được qua Đội rau!
Tên quản giáo chỉ nhìn, không nói gì. Tên Nhược hầm hầm bắt anh kia đi gánh phân! Đó, trước kia là chiến hữu, nay chỉ vì một bất đồng nhỏ nhặt nào đó, lại có thể chụp mũ, giết nhau bằng lời nói ác độc. Cũng như có lần, tôi nghe thấy anh Trung Tá Truyền Tin xích mích với một anh khác, đã nói với tên bộ đội:
- Thưa cán bộ, anh này là sĩ quan Chiến Tranh Tâm Lý, nên nói hay lắm!
Câu này nói có ác ý, để mách cho tên Cộng Sản để ý đến công việc của anh kia làm khi trước, vì tụi Cộng Sản rất ghét ngành Chiến Tranh Tâm Lý. Với tinh thần như thế làm gì kẻ thù không đánh giá thấp Quân đội miền Nam?
Lần thứ nhất, từ khi ra Bắc, chúng tôi được viết thư về gia đình để yêu cầu gửi áo ấm ra, vì Nhà Nước chưa cấp phát. Miền Bắc đã bắt đầu vào mùa lạnh. Chúng tôi đã được Trại cấp một bộ đồ Dù để lao động. Mỗi lần mặc, tôi thấy tủi cho Binh Chủng Dù, một Binh Chủng bách chiến bách thắng. Cũng những bộ đồ hoa đó khi xưa uy dũng chừng nào, nay nó dùng để chứa nào măng rừng, nào rau tầu bay, nào sắn, nào khoai, lấy được từ đâu chẳng biết!
Hàng ngày đi lao động về, phần đông trút ra đủ thứ. Nhưng cũng còn một số người, dù hoàn cảnh nào cũng vẫn giữ được nhân cách.
Mỗi sáng chúng tôi đi lao động dưới vườn rau, sát dòng suối lớn. Sương mù dầy đặc, mặt trời nhô lên đã khá cao trên dẫy núi, sáng loáng như chiếc đĩa ngọc, nhìn rất đẹp giống cảnh trong mơ. Bây giờ đã giữa tháng 11 ta, chỉ còn hơn một tháng nữa đến Tết. Mùa này nước cạn, nhưng con suối khá lớn nên lúc nào nước cũng chảy dào dạt, miên tục. Làm từ sáng đến trưa, nào băm phân, tưới cây, lúc về lại leo con dốc cao bằng tòa nhà 10 tầng, để ăn chén cơm. Chiều lại xuống, lên như vậy. Nhưng được cái thú tắm suối. Chiều nào, trước khi về, anh em đều tắm giặt thoải mái. Nhưng cái thú nay cũng chẳng hưởng được bao lâu vì thời tiết tự nhiên lạnh giá. Ai nấy co ro, có cái gì khoác vào người cái ấy cho ấm. Cơn lạnh kéo dài, mỗi ngày tăng cường độ. Nhưng nhờ nước suối ấm, nên mỗi tuần chúng tôi đều tắm giặt vì sợ ghẻ.
Buổi sớm nay, trời xám nặng, gió thổi rần rật từng cơn như rứt thịt. Chúng tôi khom khom người đi dưới cơn gió. Những giọt mưa nhỏ bắt đầu rơi đến trưa mới ngớt hạt. Vì mưa gió nên được nghỉ lao động. Chúng tôi quây quần ngồi trong chiếc lều dựng sơ sài bằng những cành khô, mái lợp cỏ gianh. Căn lều này để tránh nắng chứ không phải trú mưa, nên có ngồi dưới lều cũng như không. Chỗ nào cũng ướt nhẹp. Trong khi anh em đang ngồi tán dóc, có tên Trung Úy hậu cần tới. Nam, Tổ trưởng Tổ gieo giống, vốn láu lỉnh, nói chuyện với tên này về chính sách 3 năm của Nhà Nước. Sau một hồi nói vòng ngoài, Nam đi vào câu hỏi:
- Thưa, cán bộ, theo đúng chính sách của Nhà Nước, những ai học tập tốt, lao động tốt được cứu xét cho về sớm phải không cán bộ?
- Ơ, anh này nói lạ nhỉ! Cái đó còn tùy tình hình chính trị nữa chứ! Tha các anh về sớm, để các anh nói xấu chế độ à?
Nói xong, hắn bỏ đi. Chúng tôi nhìn nhau ngán ngẫm. Nhìn thấy Kiếm, Đội trưởng ngồi gần đấy, có người nói bâng quơ:
- Đù mẹ, hăng say cho lắm vào. Nào kỹ thuật, nào kỷ luật, nào năng xuất... Mai về rồi đó!
Kiếm không nói gì, không phải hắn sợ người nói, chỉ vì hắn mới phạm một lỗi lớn đối với anh em. Nguyên do, mỗi sáng thức dậy, mọi người phải ra sân tập thể dục 5 phút, hắn lùa anh em ra hết, mình hắn ở lại Lán, lục đồ của anh em để ăn cắp. Bị mất mấy lần, An, người bị mất, rình bắt quả tang. Trong buổi sinh hoạt tối qua, hắn phải xin lỗi An cùng toàn thể anh em và hứa không bao giờ tái phạm!
Trại mấy bữa nay, hết gạo, phải ăn bánh mì luộc. Không hiểu sao chiếc bánh cứ nhỏ dần lại, đã đói, càng đói! An vì làm bếp, chắc ăn vụng no, nên mới có bánh để đành, chứ ăn không đủ, lấy đâu cất?
Vấn đề thuốc lào, thuốc lá cũng “căng” lắm. Thuốc “3 số 8” coi như tuyệt bóng, anh em bây giờ chỉ hút Thống Nhất hoặc An Thái do Trại phát. Thuốc nhạt phèo không đủ “đô” làm những ai sành thuốc cảm thấy luôn luôn thiếu thốn.
Thuốc lá cũng hiếm. Trời lạnh, có điếu thuốc cũng ấm thêm, nên đã có người nhịn cơm đổi lấy thuốc như trường hợp Lê Huy Linh Vũ. Mỗi ngày Vũ chỉ ăn một bữa, còn bữa kia do tên trung tá Truyền Tin lấy, mỗi ngày hắn phát cho Vũ hai điếu thuốc Điện Biên hoặc SaPa. Vì thiếu cơm nên Vũ phải ăn rau tầu bay trừ bữa. Rau cũng không dễ kiếm, Vũ cú gầy rạc đi trông như xác ma!
Trời mỗi ngày mỗi lạnh hơn, quá lạnh! Đã mấy chục năm xa miền Bắc, nay quay lại gặp ngay vụ rét quá mức. Mạ gieo hai lần, không mọc. Chắc chắn sẽ mất mùa chiêm. Bát nước để ngoài sân, sáng hôm sau, mặt nước đã đóng váng. Nghe nói vùng biên giới, có tuyết!
Cuộc sinh hoạt mỗi tối, theo thường lệ, để phê bình rút ưu khuyết điểm trại tù nào cũng vậy. Ở đây, có đặc điểm thỉnh thoảng đêm khuya, mở mùng rọi đèn pin vào mặt, điểm số. Có khi, bị gọi ra sân giữa cơn mưa phùn gió bấc tập họp, rồi từng ngời hô to con số của mình trước khi vô Lán. Đó là hình thức điểm tù, sợ tù trốn. Mỗi sáng thứ hai, trước giờ lao động, tên đại úy Trại trưởng đã dọa nạt đủ thứ, nào cùm, nào hầm tối để nản lòng những ai có ý định trốn Trại.
Theo sự phân công tối qua, Đội tôi phải đi Ba Khe lấy bột mì cùng các Đội khác. Ba Khe ở cách Trại khoảng 10 cây số. Mỗi người phải vác 20 kiIô. Đi Ba Khe ai cũng ngán.
Sau khi tan hàng, vô Lán, anh em ai có túi đeo lưng bỏ quần áo ra để ngày mai đựng bột mì; ai không có, lấy chiếc quần xanh có may nẹp trắng dành riêng cho tù, mới được cấp phát, buộc túm 2 ống quần để đựng. Bộ áo quần may kiểu này để phân biệt, khi đi lao động bắt buộc mọi người phải mặc nó, hoặc đồ Dù. Còn các quần áo mang từ nhà đi, phải gởi kỹ, cất một chỗ, không được dùng, do Đội trưởng trách nhiệm. Những quần áo ấm, mặc vào trong. Cho đến giây phút này, tôi chưa thấy hiện tượng nào chứng tỏ có ai muốn trốn Trại. Sự canh gác của tụi “cối xanh” không khe khắt lắm. Mỗi tối tập họp ra công tác, chỉ tiêu, ai muốn đi xa, đi gần tùy ý, miễn sao đạt được chỉ tiêu, sớm nghỉ sớm, muộn nghỉ muộn!
Từ sáng anh em đã lãnh bánh để đi Ba Khe. Vì đi xa, mỗi Đội đều có quản giáo đeo súng ngắn và tên cảnh vệ mang AK đi kèm. Chúng tôi đi lần theo những sườn đồi, qua nhiều chiếc cầu gỗ bắc ngang bằng một thân cây trên dòng suối sâu thẳm. Tuyệt nhiên không có nhà cửa.
Chúng tôi đi qua một khu trồng toàn bắp, rộng mênh mông. Khu này do anh em thuộc Lán 3 và 4 trồng. Theo lời tên quản giáo, “anh em trồng, anh em ăn”, nhưng theo kinh nghiệm, trước khi được ăn, đã chuyển Trại! Đi chừng 6 cây số đến con lộ trải nhựa. Đi khoảng trên 2 cây số nữa có nhà và trường Tiểu Học. Khi đoàn người ăn mặc đặc biệt đi qua, những đứa trẻ bỏ lớp ào ra coi. Cô giáo trẻ đứng nơi bậc cửa, hét to:
- Mấy em đi vào ngay! Các em xem họ có ích gì không?
Tuy cô giáo hét như vậy, đám trẻ vẫn không chịu vào, cứ đứng trơ trơ nhìn chúng tôi như nhìn lũ quái vật. Tôi liếc mắt, ngó vào ngôi trường. Trên bức tường quét vôi vàng, tôi thoáng đọc được nhiều dòng chữ viết bằng than, ngòng ngoèo toàn lời tục tỉu trong đó có câu: “L... cô giáo to quá”, kèm theo hình vẽ! Không ngờ, quả thực tôi không ngờ, học sinh dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa lại quá mất dạy như vậy! Tên quản giáo và tên cảnh vệ đi sau nói chuyện to nhỏ:
- Đéo mẹ, mình tới đó uống tí “nước cay” cho vui! Thèm bỏ cha!
À ra, dưới chế độ này nói và viết bậy đều là chuyện thường! Từ trẻ con đến người lớn như nhau.
Chúng tôi cứ đi theo con lộ tráng nhựa, bỗng gặp cây cầu xi-măng khá to và kiên cố? Bên dưới, dòng nước chảy cuồn cuộn. Tôi nhìn ra xa, có 3 nhánh nước rẽ ra 3 chiều, có lẽ do đó, địa phương gọi: Ba Khe! Qua chiếc cầu, đi khoảng 500 thước tới ngả ba, có nhà Bưu Điện, có Ngân Hàng Tiết Kiệm để đân chúng gửi tiền. Cơ sở này là căn nhà lá, nằm sát mé lộ. Tôi nghĩ đến những nhà Ngân Hàng to lớn, cao năm, mười tầng của Sàigòn với những chiếc tủ sắt, những hầm chứa tiền xây bằng xi-măng cốt sắt có năm, bảy lần cửa và luôn luôn có cảnh sát vũ trang đứng gác. Những dẫy xe hơi đủ kiểu bóng lộn đổ dài dài!
Ba Khe là một Huyện, nên sinh hoạt không có vẻ tấp nập. Hai bên lề đường, dưới bóng rợp của tàn soan tây, hàng quà bánh bình dân, bầy bán kẹo lạc, kẹo vừng, kẹo bột, chuối, mía v.v... và nước trà tươi. Nhìn thấy lọ kẹo lạc, tôi thèm ứa nước miếng. Từ bữa Đàm cho cục đường đến nay, tôi chưa có thêm miếng đường nào vô miệng. Có người thèm đường quá, gặp dịp có bệnh được đi nằm Bệnh xá nhất định xin ăn nhạt, để mỗi bữa có nửa chén đường khoảng gần 100 gram. Trong Lán tôi ở, một anh có lọ đường nhỏ bằng ngón tay cái, sau mỗi bữa ăn, anh chấm chiếc tăm vào lọ đường đưa vô miệng, mút chùn chụt, cứ như vậy độ dăm lần, anh đậy nắp cất đi. Anh chấm như vậy cả tháng trời, lọ đường chưa hao hụt bao nhiêu!
Chúng tôi đã tới kho lãnh bột mì. Đây là cơ sở Hợp Tác Xã. Trên một mảng tường có dán khẩu hiệu: “Ai bán cho Hợp Tác Xã một con lợn, được cấp một phiếu mua xe đạp!” Tôi hỏi mới biết dân chúng nuôi heo cho Nhà Nước được quyền giữ lại một phần để tùy ý bán theo giá thương lượng, tức giá tự do, cao hơn giá chính thức nhiều. Cũng như xe đạp nếu mua theo phiếu rẻ bằng 1/5 giá tự do. Do đó, mới có khẩu hiệu trên. Tuy vậy, nhưng cũng ít có ai bán heo theo giá chính thức cho Hợp Tác Xã vì có phiếu rồi, nhiều khi chờ cả năm chưa mua nổi chiếc xe, nên dân chúng chi tiêu theo lối mua bán tự do cho nhanh chóng! Ai muốn ăn thịt heo, có tiền cứ mua tự do. Xe đạp cũng vậy, khỏi phải chờ đợi mất công!
Cái sân nhà kho rộng mênh mông, đông nghẹt người. Không phải chỉ có Trại tôi đi lãnh, còn nhiều Trại khác thuộc khu vực Ba Khe đều phải lãnh ở đây. Tôi nhìn những người tù trẻ, lòng se lại. Vì cái tuổi của họ, đáng lẽ không phải gánh chịu sự nhục nhã này. Họ phải có quyền được xử dụng tất cả khả năng và tiềm lực tuổi trẻ vào một cái gì có ích và kiêu hãnh hơn là phải cúi đầu chấp nhận hoàn cảnh khốn khổ, mà giá trị con người được coi ngang hàng với súc vật.
Chờ đến chiều, sau khi lãnh xong, chúng tôi đeo trên vai một khối nặng 20 kilô. Tôi vắt chiếc quần đựng bột mì lên vai, theo đường cũ trở về. Những hàng quà buổi sáng không còn nhìn thấy ở hai bên lộ! Đường phố vắng ngắt. Một tên Công An đứng ngay nơi ngả ba để kiểm soát. Chiếc nón cối và bộ đồ vàng tạo cho hắn một hình thức khác hẳn, nổi bật giữa mầu nâu tối và mầu chàm của núi rừng.
Cái lộ trình này, tôi còn phải qua lại hai lần nữa: 1 lần lấy mền đắp và 1 lần lấy gạo, trước khi chuyển Trại. Còn các Đội khác vẫn đi đều hàng tháng!
Chúng tôi về đến Trại, trời vừa tối. Mọi người đi thẳng vào kho hậu cần, nằm ở con đồi chênh chếch với Trại, để nộp bột. Tôi tháo mép quần đổ bột vào bao tải. Tôi nắm hai ống quần, đồng thời nắm chặt chút bột trong đó, nhằm mục đích bớt lại để chống đói. Tôi cầm chiếc quần còn sót độ 100gram bột đi về Trại. Vào đến Lán, tôi trải tấm nylon, giũ bột ra, được một “chén tầu thủy”. Tôi nghĩ, ngày mai mang xuống vườn rau, nhồi làm bánh, ít ra cũng no được một ngày! Nhưng vì nhiều người lấy, hao hụt số cân quá lớn, nên các chuyến sau, tụi nó kiểm soát rất kỹ, chính tụi quản giáo giũ bao quần và túi đeo lưng.
Hôm nay, chúng tôi được ăn thịt trâu. Nói cho đúng, từ ngày đến Trại, thỉnh thoảng vẫn được ăn thịt heo hoặc trâu. Heo ít thôi nhưng trâu mỗi lần làm thịt, ăn 2 ngày liền. Ngày đầu ăn thịt, hôm sau ăn da. Da trâu ninh kỹ, ăn như “côn phoóc”. Bữa nào có trâu, tương đối, anh em đuợc no đôi chút, vì mỗi người cũng được lưng chén thịt.
Trời tháng chạp lạnh buốt. Cả tuần không thấy ánh mặt trời. Vòm mây nặng như khối chì vĩ đại, hình như lúc nào cũng muốn úp chụp xuống trái đất.
Khu trồng rau đã tươi tốt. Những luống cải xanh um sắp thu hoạch được. Những luống su hào, cải bắp mơn mởn. Hàng ngày tôi ngồi băm phân bên bờ suối. Tiếng nước chảy róc rách như khúc nhạc trầm trầm không thay đổi âm giai. Mầu trời như sơn bằng lớp ngân nhũ. Từng cơn gió thổi gay gắt. Tôi có cảm tưởng đang sống trong hầm nước đá. Tôi choàng thêm chiếc áo mưa để tránh gió. Tiếng hót của con khướu trong vòm cây xa nào đó vọng lại, nghe lảnh lót. Tiếng hót như mời gọi, quyến rủ! Chim rừng không thiếu nhưng chẳng con chim nào hót hay bằng con khướu. Tôi đang ngồi lắng nghe tiếng hót, bỗng có đàn chim rừng cả ngàn con sà xuống, đậu kín trên ngọn cây mọc gần suối. Đàn chim như đám mây đen, trừ một con có bộ lông đỏ như son. Từ trên cao nó lao xuống như mũi tên lửa, khuất vào tàn lá. Lúc sau, đàn chim lại bay vút lên. Tôi nhìn theo, con chim đỏ bay xuyên vào giữa đàn chim rồi mất hút sau triền núi. Quả thực, chưa bao giờ tôi được nhìn một hình ảnh vừa đẹp, vừa lạ như vậy.
Trong những đêm khó ngủ, tôi nghe thấy nhiều tiếng động của núi rừng, con chim “bắt cô trói cột” kêu hoài từ tối đến sáng. Con Từ Quy cứ từng hồi khắc khoải và tiếng rú thê thảm mơ hồ từ rừng sâu vọng đến, tôi chẳng phân biệt được tiếng của loài thú nào. Tôi đã nhìn thấy con rắn dài hơn 2 thước, to bằng bắp tay, trườn mình bắt mồi. Chiếc cổ cất cao, thân hình uốn lượn nhẹ nhàng, nó vồ hụt con gà rừng đang ngủ trên chạc cây. Con gà vỗ cánh bay loạn xạ, mầu lông sắc hoả hoàng nổi bật giữa mầu lá rừng bát ngát!
Mùa đông lê thê, buồn thảm. Vì không đủ ăn, nên ai cũng gầy. Có nhiều người ốm. Trung Tá Nguyệt khi trước, có thời gian phụ trách xưởng may cắt, đã chết ở đây. Tôi nghe nói, mộ anh ở sau con đồi, phía trước Trại. Chưa có dịp đến thăm vì không lao động bên đó.
Kế hoạch trồng sắn được phát động. Trừ Đội làm rau và Tổ chuyên môn, các Đội khác phải đi lấy hom sắn tại khu nhà dân, cách xa hàng chục cây số!
Tên quản giáo phụ trách kế hoạch này, có nói:
- Trại biết, các anh không đói, nhưng ăn chưa đủ no, bay giờ muốn khắc phục, ta phải lao động để có của cải vật chất. Các anh trồng hôm nay, ngày mai các anh tha hồ ăn, khỏi “no” đói. Nhất Trí không?
- Nhất trí!
Tuy nói vậy, nhưng ai nấy đều nghi ngờ vì Cộng Sản nói là một chuyện, còn làm lại chuyện khác! Công việc trồng sắn được thực hiện cấp tốc, chỉ trong vòng một tháng đã trồng được mấy chục mẫu. Ở tù, công việc nào cũng vậy. Không làm việc này, làm việc khác, Cộng Sản chẳng cho ai ở không, nên trồng sắn hay lên rừng lấy gỗ cũng vậy thôi!
Trại đã hết bột mì phải ăn độn bắp. Chỉ tội cho những người già và những ai thiếu răng không cách nào ăn được vì nó cứng như đá, dù nhà bếp đã ngâm vôi suốt đêm, hôm sau mới nấu. Thời gian nấu bắp lâu gấp đôi thời gian nấu cơm hay bột. Nhưng mọi người cũng được ăn độn 1/3 chén cơm. Tôi thuộc loại thiếu răng, nên mang đổi 2 chén bắp lấy 1/3 chén cơm, như vậy mỗi bữa, tôi ăn chưa đầy một chén cơm. Cơn đói hành hạ, thân xác teo dần!...
Vì quá đói, tôi phải lén lấy su hào, những củ su hào non ăn sống. Mỗi lần ăn, phải chui vào bụi rậm, nuốt vội vàng cho xong vì để quản giáo bắt được khó sống đã đành, mà anh em thấy cũng không yên. Nhưng ăn gì, cũng vẫn không bằng cơm. Thiếu cơm, thiếu tất cả.
Tết đã đến. Thời tiết càng lạnh. Toàn Trại sửa soạn ăn Tết. Đây, cái Tết thứ hai trong tù, cái Tết thứ nhất ở Suối Máu. Trại đã mua hai con heo, lo gạo nếp, đậu và hành để gói bánh chưng. Toán nhà bếp được tăng cường. Thực đơn ngày Tết được cải tiến gồm 7 món: Thịt luộc, thịt ram, thịt kho, thịt xào su hào, dưa hành, canh bún tầu và nước chấm. Anh em lao động đến hết ngày 28. Sáng 30 là vệ sinh doanh trại, chiều nghỉ ăn Tết. Anh em có được phát thuốc lào và thuốc lá Sapa hoặc Điện Biên để hút phì phèo cho vui.
Tết ở đây được ăn 3 bữa chính. Chiều 30, trưa mùng 1 và chiều mùng 2. Sau đó, lại trở về như cũ. Trong 3 ngày Tết được ăn cơm trắng, thay vì bắp.
Những tờ bích báo mừng Xuân mới, do mỗi Đội thực hiện, được treo trong nhà Văn Hóa. Tuy gọi, nhà Văn Hoá nhưng sự thực bên trong chỉ có vài tờ báo Nhân Dân, Quân đội Nhân Dân, Tuần báo khoa học phổ thông và Báo Ảnh Liên xô giống như tờ Thế Giới Tự do của cơ quan Thông Tin Mỹ phát hành, tuy khuôn khổ to hơn, ấn loát công phu hơn. Nó nhằm mục đích tuyên truyền.
Buổi chiều cuối năm, tôi ngồi trên gốc cây nơi cuối Trại để hồi tưởng. Đã hai cái Tết xa nhà, xa tất cả những gì thân mến nhất, một mình ngồi trong một góc nhỏ bé của Trại Cải Tạo, gửi hồn mình về chốn cũ. Không thể đoán biết những chuyện gì đã xảy đến cho gia đình trong thời gian qua, nhưng tôi tin, nó không tốt đẹp! Cái guồng máy cai trị bạo tàn của Cộng Sản không dễ gì buông tha cho những ai đã chống lại họ trong quá khứ. Nhưng dù cho sự nghi ngờ của tôi có phong phú đến chừng nào nữa, vấn đề cũng ở ngoài tầm tay!
Sương núi bốc ra phủ mờ cảnh vật. Rặng núi phía trước không còn phô những nét sắc sảo, nó mờ nhạt, ẩn khuất xa vời trước mắt tôi như tấm ảnh “halo”!
Cơm đã được phát. Từng món đã chia xong. Tuy đói, sao tôi chưa muốn ăn! Bữa cơm tất niên, có thịt, có canh ngon lành như thế, tôi có cảm tưởng như có vị chát bên trong. Tôi chợt nghĩ đến anh bạn cùng tù, ở sát lán tôi, tháng trước vì quá thèm mỡ, anh không ngần ngại thè lười ra liếm chiếc đĩa đựng thịt để duới đất sau khi chia xong, dù anh em cho biết, chiếc đĩa đó chó đã liếm rồi. Anh thản nhiên:
- Chó liếm chưa kỹ, người liếm lại đã sao?
Tôi thấy chua xót trong lòng, thầm phục tụi Cộng Sản đã dùng kỹ thuật “bóp bao tử” để kềm chế, hạ phẩm giá con người. Cũng do chuyện ấy, tôi thông cảm với mấy anh đi lượm những vỏ hộp thịt, do tụi cảnh vệ ăn xong, vứt ở lề đường, đem về cho chút cơm trộn vô để lấy hơi thịt. Một bữa, tôi nhìn thấy hai anh đuổi đánh con chó để giành cục xương heo. Con chó cùng đường, phải nhả cục xương nhe răng chống cự, nhưng người không đánh chó, chỉ cần lấy khúc xương. Hai anh dừng lao lao động đập vỡ nát chia nhau mút tủy! Cái sự thực 100% này đã làm tâm hồn tôi nhức nhối, mỗi lần hồi tưởng!
Số thịt heo và trâu do Trại cấp phát, tuy không đủ, nhưng chẳng phải hoàn toàn không có. Người tù luôn luôn cảm thấy thiếu thốn, thèm muốn, do đó, nếu không có nghị lực để chống đỡ, con người dễ sa ngã và trở thành thú vật trước sự đánh giá của kẻ thù qua miếng ăn, thức uống! Tôi cũng yếu đuối, cũng sa ngã và cái đói đã làm tôi đôi khi trở thành con người khác. Kẻ thù đã đẩy phe thua trận vào lối hẹp. Muốn sinh tồn, không có cách nào hơn phải mưu toan để tồn tại. Tới phút này, những giây phút cuối của một năm, tôi thấy hổ thẹn khi nhớ lại từng sự việc đã qua. Nhưng quả thực tôi cũng không dám đoan quyết còn giữ được sự hổ thẹn này tới bao lâu?
Trong những ngày trước Tết, có nhiều tin đồn sẽ có môt số được tha. Ai cũng hy vọng có tên tuy không nói, nhưng hôm nay đã 30 Tết, chưa có dấu hiệu nào chứng tỏ việc ấy xẩy ra. Tiếng đồn chìm dần vào không khí rộn ràng của ngày Tết, dù Tết trong tù! Chiều nay có vài người cởi quần áo ngồi bắt rận dưới nắng,. Cảnh tượng này trông thật thê thảm. Có người đã tắm gội xong mặc quần áo mới giặt, trông sáng sủa, gọn gàng. Để chuẩn bị cho bữa cơm chiều 30 Tết, nhiều anh em đã sửa soạn chén bát để đựng thức ăn, dù sao nó cũng khá hơn ngày thường nhiều.
Hai con heo làm thịt trong dịp Tết không phải chỉ dành riêng cho tù mà cho tất cả tụi bộ đội từ cán bộ đến cảnh vệ đều hưởng. Do đó, những miếng nào ngon lành cùng hai bộ lòng tụi nó chia nhau, tù chẳng được miếng nào. Ngoài phần thịt anh em còn được phát chiếc bánh chưng to bằng bàn tay. Tuy thèm, chưa ai dám ăn, phải để dành cho bữa sáng mùng 1.
Bữa cơm tất niên, mọi người đều vui, ít nhất cũng bề ngoài. Phần nhiều nhắc đến kỷ niệm những mùa xuân tự do đã qua và của ngon vật lạ đã ăn trong dịp Tết. Trời lất phất mưa, những hạt mưa như rây bụi trắng xóa không gian làm nhớ nhà vô cùng. Gió thổi giật từng cơn lạnh buốt. Từ ngọn đồi của Ban Chỉ Huy, tiếng pháo nổ vọng lại. A, tụi nó đốt pháo, vui ghê! Từ phía xa, nơi khu nhà dân, tiếng pháo cũng nổ lẻ tẻ. Giờ này, giờ sum họp gia đình, những kẻ vì mưu sinh đi làm ăn xa, mỗi dịp Tết, cũng cố trở về để hưởng từng giây phút thiêng liêng, ấm cúng dưới mái nhà thân yêu, ngoại trừ trường hợp bất khả kháng. Tất cả hình ảnh đó nhảy múa trong đầu tôi như những con múa rối, làm choáng váng như vừa uống xong ly rượu mạnh.
Trời bắt đầu tối hẳn. Những giọt gianh tí tách nhỏ ngoài thềm. Hai ngọn đèn dầu cháy le lói giữa bóng tối mênh mông buồn vô hạn! Tiếng điếu cầy rít ren réc. Chiếc điếu chuyền tay nhau, làm không gian nơi đây đỡ cô quạnh trong đêm 30 Tết.
Những cái gì qua, sẽ qua. Một vài anh em thức khuya để đón giao thừa, vừa uống nước, hút thuốc, vừa kể lể tâm sự đủ cho nhau nghe. Họ là những anh em cùng đơn vị hoặc cùng khóa quân trường khi trước.
Tôi cuộn mình trong chiếc mền cũ, tuy mắt nhắm nhưng tai vẫn nghe rõ từng tiếng động xung quanh!
Sáng mùng 1 Tết, mọi người đều ngủ trưa. Bên ngoài trời rét khan. Nằm trong chăn ấm ai cũng ngại dậy. Tôi phải cố gắng, lấy hết can đảm tung mền ngồi lên, cuộn mùng. Sau khi thu dọn chỗ nằm gọn ghẽ theo đúng quy định, tôi bước chân ra cửa. Sắc mây bàng bạc trải dài rộng khắp vùng trời.
Mầu núi xanh biếc. Mầu xanh đẹp như nhung, phơi phới tưởng bay lên được. Cũng như Trại Cải Tạo ở Yên Bái, Trại này cũng được rào kín bằng tre vạt nhọn đầu. Chiếc rào mới được thực hiện hồi trong Tết, chỉ để chừa một chiếc cửa có cánh đóng mở. Cũng vì chiếc hàng rào này, một anh suýt chết đuối, vì khi mang tre qua suối, buộc không kỹ, ra đến giữa dòng, nước chảy siết, đập vào đá, bó tre tung ra, trôi mỗi nơi một cây, quần áo anh để trên bó tre cũng trôi đi tuốt luốt. Dòng nước đã cuốn anh đi khá xa, cũng may biết bơi, nên lựa chiều bơi vào khe đá hẹp nước cạn, mới lên được bờ. Lúc về Trại, anh chỉ còn độc chiếc xi-líp. Tên cảnh vệ gác cổng không cho vô, anh phải năn nỉ mãi mới xong. Về đến Lán, anh thay vội quần áo, lại ra đi nữa, vì không muốn chịu kỹ luật. Đến chiều tối, sau khi anh em đã ăn xong, anh mới ôm được bó tre về.
Tôi nhìn chiếc hàng rào với con mắt thù hận. Sự thực muốn qua rào không phải chuyện khó, chỉ cần con dao nhỏ cắt vài đoạn lạt, gạt mấy cây tre qua một bên, tạo thành khe hở, dễ dàng chui qua, nhưng chui ra rồi, đi đâu? Cái đó mới quan trọng! Nếu chỉ cần chui qua để nhìn chơi thì không nên, vì nhỡ tụi cảnh vệ bắt được, bị ghép ngay vào tội trốn Trại chắc chắn sẽ bị giam vào hầm đá và cùm chân.
Chiếc hầm và chiếc cùm tôi đã nhìn thấy. Hầm giam là một lõm sâu, đục ngầm dưới chân núi, đào kiểu hàm ếch như hầm trú ẩn tránh bom. Ba bề là vách đá, còn mặt chính, cắm cây rừng đường kính khoảng 15 phân, ken sát bên nhau. Một chiếc cửa cũng bằng cây rừng, thân nhỏ hơn, có buộc sợi dây xích vào ống khóa to. Bên trong có chiếc giường tre, kê cao hơn mặt đất chừng một tấc. Những giọt nước từ trên núi thấm suốt, nhỏ tí tách suốt ngày đêm. Bên cạnh chiếc giường có đặt chiếc cùm làm bằng những cây gỗ thật chắc. Người bị phạt, ngồi vào lòng chiếc cùm, hai chân duỗi ra phía trước, có đục sẵn hai lỗ. Khúc trên nhắc lên, hạ xuống được do hai con chốt bằng sắt kềm hai đầu. Người bị phạt, tự mình nhắc khúc gỗ lên, cho chân vào đúng lỗ, xong hạ xuống rồi tự mình khóa lại. Chiếc khóa và sợi dây xích gắn sẵn ở đó. Phía sau chiếc cùm, có lưng tựa nghiêng nghiêng. Do đó, người bị cùm không nằm được chỉ ngồi dựa lưng vào những đống gỗ gồ ghề, khó lòng chịu nổi lâu. Tôi trông nó giống chiếc cùm thời Trung Cổ.
Tên quản giáo cho biết, chỉ tội nào nặng lắm mới thi hành kỹ luật cùm loại này. Còn thường ra, chỉ cùm một chân và được nằm trên sạp nứa.
Từ khi làm xong hầm giam và cùm, chưa thấy ai phạm trọng tội! Không biết chuồng cọp ở Côn Sơn và hầm giam loại này, cái nào tàn bạo hơn?
Cả ngày mồng 1 Tết, trời rất đẹp. Như thường lệ, anh em sau khi ăn sáng xong, chúc Tết nhau:
- Chúc bạn, năm nay được sớm sum họp với gia đình.
- Tôi cũng chúc bạn như vậy!
Ai ai cũng nói câu đó, nghe mãi thành mỉa mai!
Nếu nhà nước Cộng Sản giữ đúng lời hứa 3 năm, chúng tôi đã đi được nửa đường gian khổ. Nhưng ngày này qua ngay khác vẫn không có điều gì khích lệ! Mấy ngày Tết qua đi rất nhanh sau những bữa cơm có thịt, tương đối no nên anh em ai cũng phởn phơ, sẵn sàng tích cực lao động. Vườn rau của Đội tôi, trước ngày Tết, thu hoạch được một số lượng lớn, dùng không hết, phải bán đi cả ngàn kilô. Tiền bán ra, chúng tôi không được hưởng, chẳng biết nó biến vào đâu, không ai dám hỏi. Ngay cả số lượng rau khi chưa làm, tên quản giáo nói, nếu trồng được rau, các anh ăn tha hồ. Nhưng thực tế, khi thu hoạch xong, mang lên nộp kho hậu cần, chúng tôi cũng chỉ được ăn theo đúng tiêu chuẩn nhà nước ấn định. Qua thực tế đó, rồi đây mấy chục mẫu sắn và bắp, làm sao chúng tôi có thể ăn thoải mái được?
Luôn luôn chúng tôi bị mắc lừa, tụi Cộng Sấn vờn chúng tôi như mèo vờn chuột.
Căn nhà hội rộng lớn làm chưa xong, anh em vẫn phải đi lên rừng đẵn cây làm tiếp và hạ cả những cây thật lớn để đóng bàn ghế, giường nằm cho tụi cán bộ và cả cảnh vệ nữa. Đội cưa xẻ được thành hình gồm những người trẻ có sức khỏe. Tổ “xẻ” được ăn bồi dưỡng trên tiêu chuẩn, trong đó có một Đại Úy, sĩ quan tùy viên của một ông Tướng đã di tản, hắn kẹt lại. Xưởng xẻ được thiết lập ở nhiều địa điểm, nơi tiện đặt cây to! Gần vườn rau, sát bên suối, cũng có một xưởng. Trong lúc rảnh rỗi, tôi nhìn họ kéo cây cưa to tổ bố đưa lên hạ xuống suốt giờ lao động. Tuy mưa lạnh, áo họ cũng ưót đẫm mồ hôi! Họ được giao khoán công việc, không bị kiểm soát gắt gao như các Đội khác.
Qua Giêng, Trại thu hoạch số rau còn lại để cung cấp cho tù. Số lượng rau chẳng kéo dài được bao lâu cũng hết. Bây giờ đến mùa trồng rau dền và rau muống. Nhưng cả hai thứ rau đó, muốn ăn được cũng phải chờ từ 1 tháng rưỡi đến 2 tháng. Tên quản giáo phụ trách Đội rau tỏ ra nóng nảy trong thòi gian chờ đợi này. Hắn luôn luôn cau có, vì Trại thiếu rau trầm trọng. Cơm lúc nay phải độn thêm bột mì, tù ăn quá thiếu chỉ trông vào ít rau để đỡ đói. Nay rau không có, cơm không đủ, chắc chắn tù sẽ đuối sức và đau ốm nhiều, trách nhiệm đó Ban Chỉ huy Trại phải chịu. Cộng Sản chủ trương hành hạ, chứ không giết. Ăn đói cũng nằm trong chính sách. Tất cả chúng tôi, ăn không đủ no, đói không đủ chết, cứ sống lây lất, vật vờ như lũ ma đói, luôn luôn bị ám ảnh bởi miếng cơm, củ sắn! Số lượng cơm cứ sụt mức dần vì tên cán bộ hậu cần cân thiếu. Mức ăn tù 18 kí sụt xuống 15, lại bị ăn cắp nữa thì còn gì?
Một hôm, tên Trại trưởng xuống bếp tham quan việc ăn uống của tù. Sau khi xem xét những chậu cơm quá ít chia cho 10 người, hắn bảo Bếp trưởng có quyền được xem cân lượng có đúng theo tiêu chuẩn không?
Hôm sau, Bếp trưởng tuân lời, trèo lên bục để xem cân. Tên cán bộ hậu cần, quắc mắt hét: Xuống! Thế là anh nhảy tót xuống cái một, mặt mũi tiu nghỉu. Trong thời gian này, tôi phục vụ trong nhà bếp với nhiệm vụ chuyên đun 6 chảo nước uống cho anh em, mỗi ngày phát 3 lần và phụ gánh thực phẩm, chia cơm, canh mỗi buổi.
Làm nhà bếp cũng không sung sưóng gì. Phải thức dậy từ 4 giờ sáng. Trời mùa lạnh, mưa phùn gió bấc ra giếng kéo nước, trong lúc bụng đói cật rét, nhiều lúc tôi muốn xỉu. Làm bếp tuy không phải lên rừng xuống núi, tuy không phải gánh phân, băm phân mỗi ngày, tuy không phải mỗi ngày lên xuống 4 lần trên con dốc cao bằng căn nhà 10 từng lầu, lởm chởm đá vô ý là chảy máu, tuy không phải mỗi ngày xách hàng trăm “ô zoa” (Arrosoir: Việt Cộng gọi là Ô-zoa)nước tưới rau nhưng nó cũng có những nỗi khổ khác. Nào củi ướt, nhóm cả giờ chưa lên lửa, khói hun làm nước mắt chảy ràn rụa và còn nghe anh em chửi lên, chửi xuống vì nước chưa sôi hoặc phát thiếu! Còn lúc phụ chia cơm, phải rửa chậu, xếp chậu, khiêng các chậu đã chia để vào từng ô dành cho mỗi Đội, để khi anh em đi lao động về, vấn đề phân phối được thứ tự. Nhưng có điều an ủi, làm bếp được ăn vụng, ăn cơm cháy, nên phần nào đỡ đói. Một buổi, Trại cho ăn thịt heo, tôi được chỉ định chia. Trong lúc chia, tôi nhìn những miếng thịt nóng hổi ngon lành quá, không kềm chế được sự thèm khát, tôi ăn vụng, nhưng khi vừa cho miếng thịt vô miệng, một tên cán bộ xộc vô kiểm soát. Hoảng quá, không kịp nhai, tôi nuốt vội. Miếng thịt nóng không chịu trôi xuống dạ dầy lại nằm ngay cuống họng. Tôi phải đứng dậy, giả vờ đi ra ngoài như định tìm kiếm cái gì đó, nhằm mục đích nuốt miếng thịt cho xong. Cuối cùng, nó cũng trôi xuống, nhưng không ngon. Có thể nói, tất cả toán làm bếp đều ăn vụng, nếu ai nói không, tức nói dối, không thành thực. Cũng như những ai đi cải tạo từ Thủ Tướng trở xuống, nếu nói, chưa “bốc cứt” tức nói láo! Nói đến Cộng Sản là nói đến phân, vì phân là yếu tố căn bản để nuôi sống con người. Tất cả mùa màng hoa mầu tươi tốt, thu hoạch vượt chỉ tiêu, vượt mức kế hoạch là do phân cả. Vì mùa lạnh vừa qua quá khắc nghiệt nên công việc canh tác xúc tiến chậm.
Tôi được gọi lên để phục vụ Liên Trại một thời gian vì có chuyên môn. Ngày nào tôi cũng phải đi hai lần sáng và chiều. Liên Trại ở cách xa Trại khoảng 3 cây số thuộc khu vực Nông Trường Trần Phú chuyên sản xuất trà. Nơi đây, cơ sở chỉ huy tối cao toàn khu, gồm 6 Trại Cải Tạo. Mỗi ngày tôi đi như vậy khoảng 12 cây số, dù nắng hay mưa. Tôi đã nhìn thấy những người đàn bà kéo bừa thay trâu. Mùa rét vừa qua, trâu bò chết nhiều, vả lại, cũng tùy vùng, tùy nơi có nhiều, có ít! Đã mấy chục năm, mắt tôi mới lại nhìn thấy cảnh này. Dưới lớp mưa phùn dầy đặc, hai người đàn bà đội nón lá, mình khoác tấm nylon mầu, cúi gập người xuống, trên vai đeo sợi dây buộc vào chiếc bừa, cố kéo, phía sau cách 5 thước, người đàn bà khác cầm bừa. Họ làm từ lúc sáng tôi đi, đến trưa về còn thấy. Trông thật tội nghiệp! Có khi tôi thấy cả tụi sĩ quan đeo quân hàm, cũng bừa như vậy vì nghe nói, theo chính sách của Đảng và Nhà Nước, mỗi năm họ phải tự túc lương thực 3 tháng. Sự tự túc này, không phải thi hành trong một thời gian liên tục, nhưng rải rác mỗi tháng vài ngày, hoặc hình thức này, hình thức nọ. Nói cho đúng, tụi bộ đội coi tù không bao giờ chịu đói, họ lao động hình thức, để làm gương cho thuộc hạ vì chắc chắn họ là Đảng viên trung kiên của Đảng.
Trong thời gian này, tôi phụ trách kẽ những sơ đồ thành tích của Liên Trại. Nội dung sơ đồ, chắc chắn có sự khuếch đại về công tác huấn luyện, công tác sản xuất cũng như văn nghệ v.v.....
Vì tình cờ, tôi gặp Hùng, Trung úy Dù và rất nhiều anh em ở các Trại khác đến đây làm công tác xây dựng một hội trường lớn cho Liên Trại. Tuy chưa biết nhau trước, nhưng bạn tù dễ quen:
- Bố ơi! con tự tử hai lần, không chết đó! Lần thứ nhất cắt mạch máu cổ tay, khi máu chảy nhiều, con ngất đi, không hiểu sao chúng nó cứu được. Lần thứ nhì, cách đó ít lâu, con dùng lưỡi dao cạo mổ bụng, tụi nó lại cứu sống. Đây bố xem.
Hùng chìa cổ tay, một vết sẹo ngay “ven” chính, rồi vạch áo cho tôi thấy đường khâu ngay trên rốn, dài khoảng 2 tấc! Đã hai lần tự tử không chết, sau gần 2 năm cải tạo, Hùng vẫn to lớn, vạm vỡ.
- Chán quá, bố ơi! thế nào con cũng trốn Trại, sống không nổi, nhục quá! Sự thua trận này lỗi không phải ở chúng con mà do cấp lãnh đạo từ chính trị đến quân sự, bết quá, hèn quá, chưa chi đã chạy!
Nói xong Hùng mở trừng mắt nhìn đăm đăm về phía núi. Đôi chân mày rậm xếch ngược như chứng tỏ sự uất ức trong lòng! Qua hình ảnh của Hùng, tôi thấy xấu hổ, chẳng phải riêng mình, còn cho biết bao cấp chỉ huy lớn nhỏ khi lâm vòng tù tội, không giữ nổi nhân cách để kẻ thù khinh khi, đánh giá rất thấp.
Trong thời gian làm việc ở Liên Trại, tôi đói lắm, vì đi mỗi ngày 12 cây số, mỗi bữa chưa được hai chén cơm nhỏ độn bột mì và sắn, anh em gọi là cơm 3 tầng. Vì công việc khá nhiều nên có thêm hai người nữa cùng làm: Sử đã cùng với tôi ở Suối Máu và Phương, có khả năng viết chữ.
Xung quanh Liên Trại, các khu trồng sắn đã xanh um, cao ngất. Chúng tôi cùng đói như nhau nên bàn tính mưu kế lấy trộm sắn. Vì sắn do tù trồng chứ đâu phải do công lao động của tụi Cộng Sản? Sau vài ngày suy tính, chúng tôi quyết định sẽ lấy sắn ngay tại khu vực chỉ huy, vì chúng không ngờ tù dám đến đó. Vì lần đầu, chưa có kinh nghiệm nhổ sắn, chúng tôi cứ nhổ nguyên cây. Khu trồng sắn lá dầy san sát, nhổ một cây, tự nhiên đám lá xung quanh lay động, trong lúc toàn khu đứng im. Sử hoảng quá khi nhìn thấy hiện tượng đó. Tuy nhiên chúng tôi cũng nhổ được một gốc, có chừng dăm củ bằng cổ tay, bỏ vào chiếc túi vải, mang xuống suối rửa sạch, đốt lửa nướng ăn. Bữa đó, tương đối đỡ đói.
Nơi làm việc của chúng tôi xa cơ sở Liên Trại. Nó là căn nhà chứa xác chết cùa tù. Bất cứ ai chết ở Trại nào đều mang quàn tại đấy, trước khi chôn. Nghe nói, ít nhất 10 anh em Cải Tạo còn trẻ, đã nằm xuống. Có người chết vì đói quá ăn trái cây rừng, trúng độc, bị cấm khẩu và chết sau 24 giờ quằn quại. Có người chết vì bệnh sốt rét cấp tính, và thương hàn! Căn nhà xác ở xa đường, sát dòng suối lớn, nên ít ai qua lại.
Tuy đói đứt ruột, nhưng chúng tôi không dám lấy sắn luôn vì sợ lộ. Qua kinh nghiệm lần trước, các lần sau trước khi nhổ gốc, chúng tôi bẻ ngang thân cây. Thân sắn vốn dòn, dễ gẫy. Từ đó việc lấy sắn an toàn, có sự canh gác và hiệu lệnh báo nguy, nếu có gì bất thường xảy tới! Nhưng một hôm, khi chúng tôi đang luộc sắn trong lon ghi-gô, bỗng thấy toán cảnh vệ từ trên lộ đi xuống. Sử cầm vội chiếc lon lao thẳng vào bụi cây rậm gần đấy, còn tôi đổ nước vào đống lửa. Sau tiếng xèo xèo, lửa tắt ngấm. Làn khói mỏng vươn lên tản nhanh vào không khí.
Chúng tôi giả vờ cặm cụi làm việc. Toán cảnh vệ xộc vô, tên chỉ huy hỏi:
- Mấy anh “nàm” gì ở đây?
Tôi trả lời, làm công tác của Liên Trại.
- Sao “nại” có đống củi, dùng “nàm” gì?
- Dạ chúng tôi đun nước uống, vì làm thông tầm.
Tên chỉ huy không hỏi thêm, cho lệnh khám chung quanh.
Cả 3 chúng tôi đều hồi hộp, tim muốn ngưng đập.
Sau một hồi lục lọi các lùm cây, chúng tiến thẳng ra phía suối.
Về sau, tôi mới biết, toán này thuộc bộ phận an ninh đặc biệt, có nhiệm vụ canh phòng tù trốn Trại.
Sử đi nhặt lại chiếc gô cùng những mẩu sắn đem rửa rồi luộc lại. Từ hôm đó, chúng tôi hết dám lấy sắn. Cơn đói lại dài dài.
Một buổi chiều trên đường về, chúng tôi gặp một nông dân đã có tuổi vừa đi vừa chửi:
- Đéo mẹ cả “nàng” chúng mày. Ông sợ “nà” sợ chính sách của Đảng, của Nhà Nước, chứ ông đâu sợ chúng mày! Ông nghèo quá, có căn nhà muốn bán đi để ăn, chúng mày không chịu đóng dấu chứng nhận. Tiên sư cha cả họ chúng mày, ông đây từng “nà” chiến sĩ Điện Biên, đã chiến đấu chống Pháp khi tụi mày chưa sạch máu đầu, mà nay ông chỉ xin một con dấu, tụi mày không cho. Cha tiên sư bố, tổ tiên sư cha chúng mày nhé!...
Tôi nhìn ông ta, những nếp nhăn chạy phủ kín hết khuôn mặt hồng hồng như vừa uống rượu.
Bộ râu thưa mọc lởm chởm trên mép và cằm, nhiều sợi đã bạc, ông ta quay mặt nói với chúng tôi:
- Này các chú, chớ có theo tôi chửi tụi nó nhá! Tôi chửi được, vì tôi ở miền Bắc, còn các chú đi cải tạo, nếu chửi, nó cùm đó!
Chúng tôi không dám bắt chuyện sợ nhỡ vạ lây. Ông ta chửi mỏi mồm, nghỉ một lát, chửi tiếp, cứ như vậy suốt 3 cây số. Khi ông ta đi qua khu nhà tụi quản giáo ở, một tên đứng đó thấy vậy, kéo ông vô nhà mờì hút thuốc, ông vẫn chửi! Chúng tôi cắm cúi đi, coi như không biết chuyện gì xẩy ra!
Mỗi tối, chúng tôi bắt buộc phải sinh hoạt bằng cách đọc báo 30 phút. Ai tốt giọng đọc cho anh em nghe. Nói đúng, tuy ngồi nghiêm chỉnh nhưng ít ai nghe, vì nghe làm gì những tin tức Phái đoàn các nước Cộng Sản anh em viếng thăm Việt Nam; chỗ này vượt chỉ tiêu, chỗ kia vượt kế hoạch, trong khi chúng tôi vẫn đói như điên. Sau 1/2 giờ đọc báo, anh em lại quây quần tán dóc, có lẽ do sự thiếu thốn quá lâu, nên mặc cảm làm cho thèm khát hơn mức mình tưởng. Có nhiều người chịu khó chép cả cuốn sách dầy dạy về cách làm các món ăn, các loại bánh. Mỗi tối, lại đem ra đọc từ vật liệu đến cách làm, coi như món đó đã làm xong, mời anh em nếm thử. Cứ kể ra cái kiểu “ăn hàm thụ” như thế cũng vui vui. Nào món nộm sứa, nào xôi chiên phồng, nào bánh khoai môn, nào chả giò, nào ốc xào, ốc nấu ba ba, món nào cũng hấp dẫn. Có người ước, được làm chồng bà Quốc Việt! Nếu có bà làm vợ lúc này đỡ khổ. Bà sẽ thăm nuôi gửi quà bánh cho ăn thoải mái. Tôi chỉ ngồi nghe và cười, vì có được hân hạnh biết bà từ trước!
Ngoài ra, mỗi tuần lại còn có một buổi tối bình bầu chọn lao động xuất sắc. Đây, một trò hề. Trước anh em còn tin tưởng nên hăng say lao động, để có tên trong danh sách, mong sớm được tha về. Sau biết, chẳng ăn thua gì, có làm lắm chỉ khổ vào thân, nên bảo nhau không để Cộng Sản đánh lừa mãi. Từ đó về sau, mỗi tuần, tuy cũng bình bầu, nhưng mọi người đồng ý luân phiên, mỗi tuần hai người. Tên quản giáo biết, nhưng cũng chẳng có ý kiến, vì trong thâm tâm hắn thừa biết, xuất sắc hay không cũng vậy thôi!
Mùa lạnh đã phai dần. Ánh nắng bắt đầu chiếu rọi mỗi ngày làm cảnh rừng núi bớt phần âm u. Một sáng vừa thức dậy, nghe tin có người trốn Trại đêm qua đã bị bắt lại. Người trốn Trại, sĩ quan thuộc binh chủng Biệt Động Quân. Cả ngày hôm ấy, anh em không ngớt bàn tán về chuyện này và thầm tiếc cho người vượt ngục không gặp may mắn! Nhưng đến chiều, đi lao động về được tin anh đã được tha, vì tội đói quá, phá rào hồi 8 giờ sáng, qua bên kia đồi sắn, để ăn cắp, chẳng may bị cảnh vệ bắt!
Buổi tối sinh hoạt, tên tuổi anh được phổ biến để làm gương cho những ai có ý định đó. Tên quản giáo Đội tôi lên giọng:
- Đó, các anh xem, Đảng và Nhà Nước đâu để các anh đói, mà các anh phải ăn cắp của công. Sắn do công “nao” của các anh trồng, đúng! Nhưng ai nuôi và cho các anh hom sắn? nếu không phải nhân dân và Cách Mạng? “Nuôn nuôn” các anh kêu đói, thế chúng tôi không đói sao? Mức ăn của chúng tôi chỉ hơn các anh có 2 “kí nô” mỗi tháng, như vậy có đáng “nà” bao? Tôi đảm bảo, các anh không đói, chỉ ăn thiếu thôi! Mà thiếu thì cả nước đều thiếu, chứ riêng gì các anh? Đế quốc Mỹ và chính các anh đã gây ra thảm họa ngày hôm nay. Mỗi thước đất ăn một trái bom hay một viên đạn đại pháo “nàm” sao mà trồng trọt hoa mầu? Ấy “nà” chưa nói đến thuốc khai quang phá hoại bao nhiêu triệu mẫu rừng!...
Hắn nói, như quất vào mặt chúng tôi những ngọn roi thật mạnh, nhưng hắn quên không nói đến quân đội giải phóng từ miền Bắc vô Nam đã giết bao nhiêu dân lành, đã phá bao nhiêu cầu cống, đã ăn bao nhiêu cân rau, cân gạo của tù, ăn bao nhiều bột, sắn của tù, ăn bao nhiêu thịt heo, thịt trâu của tù, hỏi làm sao tụi quản giáo cũng như cảnh vệ đói được?
Buổi sáng, chúng tôi thương và cảm phục anh phá rào bao nhiêu, tối nay chúng tôi oán trách anh bấy nhiêu!
Câu chuyện đó rồi cũng qua đi, không ai nhắc nữa, vì nghe đồn anh phải nhận tội ăn cắp để tránh tội trốn Trại, mong anh em thông cảm.
Vào một buổi chiều, tên cán bộ hậu cần mua về con trâu mang bầu, định làm thịt, nhưng có lẽ vì kiêng cử hay lý do nào đấy, chưa làm.Anh em nhìn thấy trâu chắc mẩm được ăn, nhưng chờ mãi chưa có lệnh giết, cũng buồn. Mấy hôm sau, tên hậu cần lại mang về con nữa, cũng không làm thịt. Tổ mộc được lệnh làm chuồng trâu. Có tin đồn, cải tạo viên phải làm ruộng để tự túc, vì nhà nước không còn đủ khả năng nuôi tù. Nói đến chữ “tù” tôi nhớ tới viên đại úy Truởng Trại. Mỗi sáng thứ hai, có sinh hoạt nửa giờ, trước khi anh em đi lao động. Hắn là người Nùng, nói tiếng Việt chưa sõi. Hắn được điều đến thay viên Đại Úy Trại trưởng cũ “hiền” quá, “thương tù”, mỗi lần trời sắp đổ mưa, cho lệnh toàn Trại nghỉ lao động. Hắn khẳng định, các anh “nà” Cải tạo viên, không phải “nà” tù, tôi cấm không ai được nói chữ “tù”, nếu tôi nghe được, sẽ thi hành kỷ “nuật”! Nghe, có vẻ ngon nhưng thực tế, chúng tôi đúng là những người tù đang thi hành bản án khổ sai, không hơn, không kém!
Hôm nay, cũng sáng thứ hai. Không khí buổi sinh hoạt có vẻ gì khang khác. Ở giữa khe hở cách hai Lán, đều có cảnh vệ võ trang đứng gác. Tên Trại trưởng sắc mặt nghiêm túc, lù lù nhìn các Đội đứng xếp hàng ngay ngắn trước mặt. Sau khi nói vài câu thông thường, hắn sửa giọng gay gắt:
- Với tư cách Trại trưởng hôm nay, tôi báo cáo cho mấy anh rõ, nhân dân ta vừa bắt được ba tên trốn Trại! Những tên khốn kiếp đó đã được giải về đây giam giữ và họ sẽ chịu thi hành kỷ “nuật” nghiêm ngặt! Trốn không nổi đâu, vì nhân dân “nà” tai mắt của Đảng và Nhà Nước mà! Còn chính sách thì rất rõ ràng, minh bạch. Ai chịu cải tạo sẽ được cứu xét cho về, ai không chịu, nghiêm trị. Cái đó đúng qúá, phải không?
Nghe đến đây, tôi chợt hình dung đến căn hầm giam và chiếc cùm thời Trung Cổ. Từ lúc đó, tai tôi ù, không còn nghe rõ tên Trại trưởng nói gì?
Sau khi tan hàng để chuẩn bị lao động, tôi như người mộng du, đi những bước chơi vơi theo sau anh em như chiếc bóng.
Buổi chiều, Bếp trưởng cho biết, anh em toàn Trại phải bớt phần ăn, để nuôi ba người “tù đặc biệt” này. 300 người bớt phần ăn, nuôi ba người, quả thực chẳng ảnh hưởng gì cả, nhưng chứng tỏ Cộng Sản đã bất nhân, cắt khẩu phần của ba người trốn Trại, bắt tù phải nuôi tù!
Tôi còn được biết, họ không phải nhốt ở căn hầm đặc biệt, mà được giam tại một căn nhà hẻo lánh trên đồi, xung quanh rào kín, ngoài có cảnh vệ gác, mỗi bữa nhà bếp đưa cơm tới.
Công việc Liên Trại đã xong. Tôi trở về với công việc băm phân, gánh phân và tưới rau.
Một buổi, tôi phải gánh rau từ đưới suối lên kho hậu cần, vô tình tôi nhìn thấy ba người “tù đặc biệt” đang bị thẩm vấn trong căn nhà nhỏ giống như chiếc chuồng chim. Trại có tất cả 4 chiếc “chuồng” như vậy. Tôi cũng đã được gọi lên “làm việc” ở đây một lần, để hỏi về lý lịch. Tên cán bộ an ninh hạch tôi mãi về việc có gia nhập đảng Cần Lao của ông Diệm - Nhu hoặc đảng Dân Chủ của Nguyễn văn Thiệu không? Nếu không, sao tôi lại được mang cấp Trung Tá và nắm guồng máy tuyên truyền của “Ngụy quân”? Tôi không nhận đã ở trong đảng phái nào cả. Hỏi mãi cũng vậy, hắn quay sang vấn đề khác! Tại sao các anh lại vẽ Cộng Sản có đuôi? Tại sao các anh lại xuyên tạc chữ Việt Cộng là cộng vợ, cộng chồng, cộng tài sản? Tôi chối dài, hắn chán quá cho về lao động! Nay cũng trong cái chuồng đó, ba người “tù đặc biệt” đang ngồi để “làm việc” cùng tên cán bộ an ninh. Tôi chắc họ bị “quay” dữ lắm. Ở xa, tôi không nhìn rõ nhưng chắc họ còn trẻ, vì cái dáng điệu bề ngoài cho tôi đoán thấy. Trong lòng tôi dâng lên mối xót thương vô hạn!
Một đêm đang ngủ, có tiếng trâu kêu inh ỏi. Tên cán bộ quản giáo xách đèn lồng đi vô Lán kêu Đội trưởng và người giữ trâu. Hắn cho biết trâu sắp đẻ. Đội trưởng và anh giữ trâu tên Phúc cũng dậy, theo tên quản giáo đi xuống chuồng trâu đỡ đẻ, đến gần sáng mới về. Phúc được giữ trâu vì anh có bệnh đau dạ dầy, quá ốm yếu. Mỗi ngày, anh dắt trâu đi ăn cỏ, khi no cho về, thế là xong công tác! Bây giờ trâu đẻ, không dắt đi ăn được, anh phải cắt cỏ nuôi trâu, công việc khá khó nhọc đối với sức anh. Nhưng khi suớng cũng có lúc cực, anh vẫn chăn con trâu đực và cắt cỏ nuôi con trâu đẻ. Nhưng sự vất vả cũng không lâu. Chừng nửa tháng sau, anh dắt cả mẹ lẫn con đi ăn ở những bãi gần. Đã non 3 tháng, toàn Trại chưa ăn thịt, tên hậu cần quyết định cho làm thịt con trâu mẹ, khi thấy con nghé đã khá lớn. Việc hạ thịt, do Nhược, Đội phó đội rau xanh phụ trách. Nhược tuy già nhưng có sức khỏe hơn người, nên được tên quản giáo giao trách nhiệm. Hắn cầm cây búa tạ theo trâu. Phúc dẫn trâu đi theo lối cũ, men xuống chân đồi, chỗ bờ suối gần vườn rau. Lạ thay, giống vật cũng có linh tính hay sao, sáng nay nó nhất định không chịu xuống đồi. Phúc phải kéo mạnh dây, gần đứt mũi, phía sau có người cầm roi quật liên tục. Nó lừ lừ bước xuống, mắt tuôn hai dòng lệ đầm đìa!... Con nghé vô tư chạy lon ton bên cạnh mẹ. Khi đến nơi, Phúc buộc trâu vào cây cột tre đã được đóng sẵn từ chiều hôm trước. Giờ hành quyết đã tới. Nhược cởi áo, cầm chặt cây búa trong tay lấy thế. Bắp thịt nổi lên cuồn cuộn. Nhanh như chớp, hắn phang vào đầu một búa, nhưng nhát búa chưa đúng chỗ phạm, trâu chưa quỵ! Đau quá, nó lồng lên đứt dây mũi, quần nát cả mấy luống rau. Mọi người có mặt chạy tán loạn. Vô phúc, ai đón đầu, chắc chắn ăn sừng. Tên quản giáo đứng gần đó, rút khẩu súng lục, nhắm con trâu nổ mấy phát liền. Con trâu lảo đảo quỵ xuống. Con nghé không hiểu gì cứ chạy theo, lúc mẹ nó nằm xuống, máu chảy đầm đìa, nó cứ rúc đầu vào bụng để bú! Tự nhiên mắt tôi cay xè! Mọi người chạy ùa đến nơi trâu ngã, dùng dây trói chân cho chắc ăn, sợ nhỡ nó còn sức vùng dậy. Không ăn được thịt trâu, nhưng cũng vì nhìn thấy cảnh đó, tôi đâm ghét cả những ai ăn thịt con trâu đó! Con nghé từ ngày mất mẹ, nó bỏ ăn, cho cỏ non cũng chê, cứ đứng kêu gào suốt ba ngày mới thôi! Tôi nghĩ súc vật còn có tình nghĩa hơn nhiều con người tự nhận có lương tri, học vấn...
Từ buổi mất mẹ, nó mến Phúc, mỗi khi có tiếng kẻng báo giờ lao động, Phúc chưa kịp ra, nó đi thẳng vào chỗ Phúc ngủ, kêu nghè nghẹ như tiếng gọi!
Hôm nay tôi được gọi lên Ban chỉ Huy để lãnh gói quà đầu tiên của gia đình, cùng với nhiều anh em khác. Tôi vô cùng xúc động khi đứng chờ đến lượt mình được gọi. Tên cán bộ phụ trách việc phân phối nét mặt lầm lầm như chó ăn vụng bột. Tôi thầm mong gia đình gửi cho ít đường thẻ, bột Bích Chi, lọ mắm ruốc, thật quý hóa!.. Thư viết về nhà để xin quần áo lạnh, nhưng mùa lạnh qua rồi, vả lại, tôi cũng đã được cấp phát thêm tấm mền Trung Cộng đỏ chói và chiếc áo trấn thủ loại phế thải, cũ mèm, chắc còn lại từ trận đánh Điện Biên Phủ! Chúng tôi còn sợ đó là những chiếc áo được lột từ các xác chết ngoài mặt trận!
Đến lượt tôi được gọi tên. Bước lên thềm cao, nhìn thấy gói quà khá to. Tôi khấp khởi mừng thầm. Tên cán bộ tay cầm con dao nhỏ cắt từng dây buộc để khám. Gói quà được mở. Tôi vô cùng thất vọng khi thấy đống quần áo lạnh cùng gói nhỏ mứt bí đã chảy nước, lên men mốc xanh, và một bịch trà. Chắc vợ tôi nghĩ, mặc quần áo ấm ngồi uống trà, ăn mứt bí trong Trại Cải Tạo, giữa ngày Tết miền Bắc là nhất rồi. Sau khi khám xong, tôi ôm gói quần áo lê từng bước chân nặng nề xuống dốc. Tôi thấy nhiều gói quà không có mảnh vải nào, chỉ toàn đường thẻ và đồ mặn! Tôi thầm trách vợ con đã quá thật thà, không linh động trong vấn đề này, thư viết sao làm vậy!... Vợ tôi có biết đâu, nếu viết thẳng xin đồ ăn, khi tụi quản giáo kiểm duyệt, chắc chắn thư sẽ không được gửi đi, còn bị làm kiểm điểm nữa! Thôi, vợ dại đành chiu, biết trách ai?
Vứt mạnh gói mứt bí xuống dòng suối, tôi nhìn dòng nước cuốn nó đi một đoạn rồi mắc kẹt trong hốc đá. Khi về đến Lán, anh em hỏi nhận được gì? Tôi quăng gói đồ xuống chỗ nằm, nói:
- Ai thiếu áo lạnh, tôi biếu!
Anh em cười ồ:
- Ngày nào chuyển Trại, ông tha hồ vác nhé!
Tuy nhiên, tôi vẫn phải gói cẩn thận, cất vào nơi chứa đồ, vì quần áo gửi, không thuộc loại quần áo lao động!
Sáng hôm sau, đi lao động tôi mang theo bịch trà. Tôi múc nước suối vào chiếc lon sữa, đun sôi, pha trà. Tôi ngồi bên dòng suối, nước chảy dạt dào, thưởng thức từng ngụm trà. Cơn giận hôm qua tan biến theo chất nước thơm ngát, cổ họng ngon ngọt hưởng vị đặc biệt của loại trà ngon.
Tôi vừa uống xong, có tiếng ồn aò phía ngoài vườn rau. Tôi ngước nhìn. Nam, Tổ trưởng tay cầm con rắn dài khoảng 6 tấc, to bằng ngón tay cái, khoang trắng khoang đen. Anh tìm sợi dây, buộc đầu con rắn cạp nong treo lên cành cây, rồi dùng lưỡi dao nhỏ cứa xung quanh cổ rắn. Con rắn lắc lư, lắc lư như chiếc que. Tôi không hiểu bằng cách nào, Nam lột da con rắn nhanh như vậy? Da rắn vứt xuống suối, dòng nước cuốn đi trong nháy mắt. Nam hạ con rắn xuống mổ ruột, rửa nước suối rồi xắt ra từng khúc, bỏ vào lon ghi-gô, cho chút bột cà-ri mà lúc nào anh cũng mang theo, đổ chút nước, thêm ít muối rồi cho lên bếp lửa. Lát sau, hạ xuống, anh trịnh trọng ngồi trên tảng đá sát dòng suối, ăn hết con rắn một cách ngon lành. Sự đun nấu dưới vườn rau, bị cấm triệt để, nhưng chúng tôi vẫn đun lén được vì lấy cớ cần lửa hút thuốc, bật lửa đã bị thu.
Sống trong Trại Cải Tạo, không phải lúc nào cũng bình thản và để mặc dòng thời gian đẩy đưa, mọi người có thể “nín thở qua sông một cách bình yên!” Câu “nín thở qua sông” này như in sâu vào trí nhớ, khi tên cán bộ giáo dục Liên Trại đã lên lớp chúng tôi hai ngày học tập về chính sách 3 năm Cải Tạo của Đảng và Nhà Nước.
- Các anh, những người có tội. Chính sách 3 năm Cải Tạo đề ra, nhưng nó không phải là cái mốc nhất định cho tất cả mọi người! Các anh đừng có giả vờ “nín thở qua sông” để cho hết 3 năm thì về! Tôi nói thẳng cho các anh biết, có thể 3 năm cũng có thể 15 hay 20 năm đó!
Giọng nói trọ trẹ miệt Hà Tĩnh của tên cán bộ giáo dục nghe rất khó chịu, nhưng may mắn tên này không nói ngọng. Sự thực, muốn “nín thở qua sông” cũng không phải chuyện dễ, như trường hợp mấy anh nuôi heo và hồ cá!
Không hiểu vì đâu, đàn heo đang ăn uống ầm ầm, trong đó có mấy con heo nái sắp đẻ, tự dưng bỏ ăn một, hai ngày lăn đùng ra chết. Trong vòng mấy hôm, heo chết cả bầy chỉ còn lại ít con ngất ngư! Bỗng dưng chúng tôi được ăn heo. Vì ăn theo đúng tiêu chuẩn đã ấn định, nên dù heo chết, tụi hậu cần đem ướp muối, phát dần, chứ không cho tù ăn thả dàn. Những người phụ trách như Mậu, Tổ trưởng Tổ nuôi heo và bốn anh khác bị gọi lên, gọi xuống thẩm vấn trong chiếc “chuồng chim”! Tên cán bộ an ninh và tên quản giáo thay phiên nhau cật vấn:
- Các anh cứ khai thực đi, vì thèm ăn thịt, nên thuốc cho heo chết. Vậy các anh cho chúng tôi biết, đã dùng thuốc gì trộn vào thúc ăn của heo?
Cứ như vậy, ngày nào cũng trả lời câu hỏi đó và lý lịch ba đời. Mọi người đều phủ nhận tội thuốc heo, đổ lỗi cho thời tiết, nhưng tụi Cộng Sản nhất định không nghe. Công việc thẩm vấn kéo dài cả tháng làm các “anh nuôi” heo gầy rạc hẳn đi, mặt mũi người nào cũng bơ phờ như qua cơn đau nặng. Tất cả Tổ heo được lệnh nghỉ việc. Còn Tổ nuôi cá cũng vậy. Tuy cá không chết cả bầy nhưng tụi cảnh vệ bắt được một anh trong Tổ nuôi cá, vớt cá nướng ăn. Tội này nhẹ nên chỉ bị xỉ vả và đe đọa nghiêm trị nếu tái phạm!
Tổ nuôi heo được thay thế bằng số người lấy trong Tổ rau xanh. Tôi có mặt trong đó. Chúng tôi ai nấy đều sợ, vì còn lại mấy con heo bệnh, nhỡ nó lăn đùng ra bất tử thì chết cha! Tôi được phân công cắt rau khoai và bẹ chuối mang về băm nhỏ, nấu với khoai lang và cơm cháy do nhà bếp cung cấp. Việc nấu nướng, đích thân Tổ trưởng phụ trách. Tên quản giáo ra vô chuồng heo sùng sục. May mắn sao, công việc chúng tôi làm, một tuần lễ trôi qua, không con nào chết. Chẳng những thế con heo nái còn “động đực” nữa.
Cơn nguy hiểm đã qua, nhưng chúng tôi vẫn đói dài dài. Tôi nhìn những củ khoai lang ngon lành trong chảo đồ ăn nấu cho heo thèm rỏ dãi. Cuối cùng không chịu nổi cơn đói, tôi và Ngữ bàn nhau, vớt khoai ra ăn, vì sự sống của con người cần hơn. Heo dù có gầy đi chút ít, nhưng không chết là được! Chúng tôi ăn khoai ngon lành ngay trong chuồng, vứt vỏ cho heo. Tiếng ủn ỉn của đàn heo ngửi thấy đồ ăn nghe sốt ruột. Mùi phân heo xông lên hôi nồng nặc, nhưng cơn đói làm chúng tôi quên hết. Sau một tuần, hết khoai, chúng tôi ăn bớt cơm cháy, tuy không ngon bằng khoai.
Tôi chỉ làm công tác này chừng ba tuần rồi lại trở về vườn rau. Sau hai tuần ăn bớt cơm heo tương đối no, nay lại bắt đầu những ngày vất vả!
Mùa hạ miền Bắc vô cùng nóng bức, vùng rừng núi càng nóng. Vì làm gần suối, mỗi ngày tắm vài ba lần vẫn chưa đủ mát. Những cơn mưa lớn cũng bắt đầu. Mỗi lần mưa, rừng núi như chìm đắm trong thác nước khổng Iồ. Tiếng mưa gió luồn qua vách núi, kéo dài một điệp khúc bất tận! Dòng suối đang trong vắt nhìn thấu đáy, chỉ tiếng đồng hồ sau đã đỏ ngầu, nước cuốn cuồng nộ, như trận lụt hồng thủy. Dòng suối vốn hiền hòa sao lúc này hung hản như bầy thú dữ, lôi cuốn tất cả những gì cản đường trôi của nó. Căn lều nhỏ bé, run rẩy trước gió mưa! Mực nước dâng lên mỗi lúc mỗi cao. Chẳng mấy chốc, đã liếm đến chân lều. Những ngọn sóng đục ngầu chảy băng băng. Chúng tôi phải chạy trú trên đồi cao, ai nấy ướt như chuột. Những luống rau bị cơn mưa tàn phá nằm rạp xuống đất. Chúng tôi nhìn với con mắt lo sợ, rồi sau cơn mưa này, phải mất bao lâu mới gầy dựng lại được? Những luống rau muống ngập đầy nước. Theo tên quản giáo đánh giá, cứ “3 kí-lô rau muống bằng 1 kí-lô thịt bò!” Bây giờ cảnh vật trước mắt là những đổ vỡ, phá hoại! Ỏ triền núi, một cây cao mấy chục thước đổ xuống kéo theo đá lở ầm ầm. Căn lều nhỏ tự nhiên rã rời, trong nháy mắt, dòng nước đã cuốn nó đi mất hút. Cơn mưa cứ trút xối xả, sấm chớp liên hồi làm náo động khu rừng. Không ai nhìn thấy gì ngoài màn mưa đậm đặc. Cứ như vậy kéo dài. Tôi không biết mấy giờ, vì đồng hồ tay đã bị tịch thu. Trời tối sầm. Chúng tôi rủ nhau đội mưa đi về. Dốc núi trơn trợt, tôi té xuống. Đá như dao cứa rách áo quần. Tôi chắc máu chảy, nhưng không có thì giờ dừng lại để nhìn. Cố gượng dậy, tôi leo lên, leo dần từng bước. Những giọt mưa quất vào mặt ran rát. Khi leo tới đỉnh đồi, tiếng kẻng tan giờ lao động cũng vừa gõ.
Về đến Lán, thay quần áo xong tôi nhìn hai đầu gối có những vết xẻ dài như dao cứa, máu chảy dâm dấp, cánh tay cũng vậy. Tôi lau khô lấy thuốc đỏ bôi vô nhìn phát sợ! Ngủ qua đêm, sáng dậy, tôi lên cơn sốt, phải xin khám bệnh, được nghỉ lao động một ngày.
Sau cơn giông gió chiều qua, trời hôm nay rất cao và trong. Anh em đi lao động hết, ở nhà cũng buồn, chỉ ngồi hút thuốc lào vặt và nói chuyện với những người bệnh khác. Đến gần trưa, đã có nhiều người vác gỗ về. Trông họ lam lũ, bộ quần áo treillis bạc mầu, bết bê bùn đất. Mỗi người đều buộc con dao ngang hông. Nhìn họ, không ai có thể ngờ là những cấp chỉ huy đã tham dự nhiều trận đánh vang danh lịch sử: nào PIeime, Đồng Xoài, Cổ Thành Quảng Trị, Kontum và Bình Long, An Lộc! Trong số đó, tôi thấy một người nhỏ nhắn hảy còn trẻ, vác một cây gỗ to, dài khoảng 3 thước. Anh quẳng cây gỗ xuống cái “ầm”, xong cho tay phủi áo quần. Thấy khuôn mặt là lạ, tôi hỏi anh bạn ngồi gần:
- Ai đó?
- Một trong 3 người “tù đặc biệt” đấy! Hắn được lao động bình thường, chắc đã thành thực khai báo, còn hai người kia, hình như đưa về Hà-nội! Hôm nọ gặp, hỏi ra mới biết, các cậu trốn Trại ở Yên Bái, đi được 8 hôm. Đêm đi, ngày nghỉ, mãi chưa tới biên giới. Hết lương thực đói quá, mò đến khu dân ăn căp bắp, bị dân miệt núi bắt. Họ cho ăn uống tử tế. Sáng hôm sau giao cho bộ đội. Bộ đội giải đi, đến chỗ nào có dân dừng lại. Thế là ăn đòn hội chợ. Mỗi cú đấm, cú đá, lại kèm theo câu:
“Con ông chết ở Quảng Trị này!”
“Con bà què chân ở Kontum này!”
“Con tao bị gẫy tay ở Bình Long này!”
“Cả họ nhà tao chết vì B52 này!”
Cứ thế chịu trận, có người còn vác gậy đập nữa. Tên cảnh vệ áp tải chờ cho dân đánh chán tay, mới giả vờ nói: Thôi xin đồng bào đừng đánh đập họ, việc gì đã có Đảng và Nhà Nước “no”!
Cứ như vậy, đi ba ngày mới đến Trại. Vì còn trẻ mới chịu đựng được, chứ như tụi mình, ngoẻo rồi
Tôi nhìn người tù đặc biệt với cảm tình nồng hậu ở trong lòng, lại sực nhớ tới Khắc. Không hiểu sao mỗi lần nghe có người trốn Trại, hình ảnh hắn lại sống động trong trí nhớ!
Từ trên cao nhìn xuống thấp, nơi có vọng gác, tôi thấy anh em lao động về, đứng dài để báo cáo và chịu sự khám xét của tên cảnh vệ trước khi vô Trại. Đội rau xanh đang mở túi, vén áo để khám. Vì quá đói, nên mọi người đều tìm cách giấu củ sắn hoặc ít lá rau, lén mang về để “cải thiện”. Nếu thoát, bữa ấy no, nếu vướng, coi như thua, bị làm kiểm điểm. Nói vậy, chứ không phải ai cũng làm được việc ấy, vì rau, sắn khó kiếm, hơn nữa, cần phải có “‘máu lạnh” bất chấp hậu quả!
Tù được nghỉ một tuần lễ để học tập chính trị. Ai cũng mừng khi thấy khẩu hiệu được viết trên băng vải: “Vì sao chúng ta phải đấu tranh giai cấp?”.
Nhưng sau khi “lên lớp” anh em mới té ngửa vì bài học toàn chửi Đế quốc và giai cấp bóc lột trong đó có mình!... Theo Cộng Sản:
“Đế Quốc Mỹ, tên xen đầm Quốc Tế, nhất định sẽ bị tiêu diệt, vì toàn thế giới hiện nay đang tiến hành 3 dòng thác Cách Mạng:
- Cách Mạng giải phóng dân tộc,
Cách Mạng giải phóng thế giới,
- và Cách Mạng ngay trong lòng Đế quốc do công nhân phát động! “
Lại một lần nữa, chúng tôi chửi Đế quốc và tự chửi! Hơn nữa, có người sinh đẻ ở miền Nam, hăng say thảo luận đã kết án bố mẹ là địa chủ bóc lột nông dân đến xương tủy! Tôi chán ngấy, và không còn chút hy vọng ngày trở về, dù sau 3 năm!... ·
Tôi nhận được thư nhà trước ngay chuyển Trại gần hai tuần lễ. Trong thư vợ tôi “nói mánh” để hiểu, có gửi cho ít tiền giấu trong chiếc áo lạnh. Sáng chủ nhật, có thì giờ rảnh, tôi mở gói đồ, tìm tiền. Theo lời dặn, tôi moi ra được 50 đồng, tiền ngân. Số tiền này sự thực cũng không ích lợi gì vì ở giữa rừng không có chi để mua bán, hơn nữa, nội quy Trại cấm tù không được giữ tiền. Tuy có tiền, không được tiêu lại phải giữ kỹ như mèo giấu cứt!
Tin đồn, có một số sắp chuyển Trại được mọi người nhắc nhở mấy bữa nay, nhưng không biết những ai phải đi. Anh em vẫn lao động như thường lệ. Vì sức khỏe quá kém, tôi không còn lao động tại vườn rau mà được chỉ định phụ trách “nhà văn hóa” nơi có mấy tờ báo loe ngoe và chiếc radio cũ! Trong giờ anh em đi lao động, tôi nghỉ; giờ anh em nghỉ, tôi làm. “Nhà văn hóa” mở cửa buổi trưa, buổi tối đến 10 giờ đêm và những ngày nghỉ. Radio chỉ được mở nghe đài Hà-nội. Vì ở trên độ cao vưóng nhiều núi, nên khó bắt đài, pin lại yếu, nên ít khi nghe được tốt.
Một buổi chiều, tên trung úy Phó Trại, gọi tôi lên Ban Chỉ Huy hỏi:
- Tại sao anh nghe đài nước ngoài?
- Tôi đâu có nghe, cán bộ!
- Có người báo cáo cho tôi biết, anh “nén” nghe đài BBC?
- Chiếc đài đó làm sao nghe được? Nghe đài Hà-nội cán bộ thấy đó, nhiều khi bắt không nổi, nói gì BBC?
Tên Trại phó trước khi cho lệnh tôi về còn dọa:
- Anh “niệu”‘ đó, chúng tôi bắt được anh nghe đài ngoại “nà” cùm!...
Từ lúc đó tôi chán không muốn làm, có ý xin đi lao động lại. Buổi tối, nghĩ chuyện đó, tôi nằm hoài không ngủ được. Đêm đã khuya, bên ngoài trăng sáng lắm. Tôi muốn vùng dậy ra sân ngồi ngắm trăng giữa núi rừng, bỗng có tiếng nói:
- Cán bộ đi đái!
Giọng nói khác vọng lại:
- Anh kia, vừa nói gì đấy?
- Dạ, cán bộ đi đái, nội quy Trại đã ghi, trong đêm ai muốn ra ngoài đi tiêu hoặc tiểu phải báo cáo cán bộ cảnh vệ, tôi thi hành đúng, cán bộ!
Tiếng nói bên ngoài, có vẻ gắt gỏng:
- Anh đái hay tôi đái? Anh tưởng tôi không biết sao? Anh “nà” con người thiếu văn hóa!
Đây, lần thứ hai, tôi nghe thấy câu đó. Lần thứ nhất ở Long Giao. Anh kia không trả lời. Tên cảnh vệ tiếp:
- “Nần” này tôi tha, “nần” sau, cùm đó!
Rồi tất cả lại chìm vào vắng lặng!
Buổi chiều hôm sau, tên cán bộ hậu cần đi tất cả 6 Lán, hỏi một số người có gửi tiền Giải Phóng ở Yên Bái, để xác nhận xem có đúng không? Tôi có tên trong số được hỏi. Buổi tối, Đội trưởng Lán 5 cho biết những ai có tên là “đi đó”. Cán bộ quản giáo Đội cho biết vậy! Dù bán tín bán nghi, tôi cũng dùng số tiền sẵn có, đi mua hai bánh thuốc lào “3 số 8” của một anh vừa nhận được quà. Sở dĩ anh bán, chẳng phải cần tiền nhưng sợ hút không kịp, để lâu thuốc mốc. Mỗi bánh 20 đồng, bằng 10.000$ tiền cũ. Tôi ôm chặt hai bánh thuốc lào cho chắc ăn, dù chuyển hay không, cũng vẫn cần nó!
Một tuần lễ trôi qua như thường lệ. Chiều nay, cơn mưa đổ xuống dữ dội, anh em đi lao động về ướt hết. Cơn mưa đến tối còn lai rai. Tin chuyển Trại đến dồn dập từ hồi sáng. Tôi chuẩn bị thu xếp hành trang, nếu có lệnh, đã sẵn sàng. Còn không, cũng chẳng mất gì! Tên quản giáo đi kiểm soát Lán, thấy tôi thu xếp, không nói gì, tôi càng tin mình có tên trong danh sách.
Buổi tối, sau khi cơm nước xong, anh em đang ngồi tán láo, bỗng có lệnh tập họp.
Một lũ cán bộ và cảnh vệ xách đèn đi vô cổng Trại.
Sau khi tập họp xong, tên Trại phó bảo tên cảnh vệ soi đèn lên cao. Trước khi đọc, hắn nói:
- Theo “nệnh” trên, hôm nay có một số anh sẽ được chuyển Trại, theo nhu cầu điều hành quân số. Các anh có tên trong danh sách sắp được đọc sau đây, nên phấn khởi, hồ hởi, vì các anh sắp được đưa đến một nơi “chính quy” hơn, có đầy đủ tiện nghi và phương tiện để các anh sinh hoạt học tập. Nhưng ‘người đi yên trí, người ở “nại” yên tâm’, ở đâu cũng vậy, chính sách của Đảng và Nhà Nước trước sau như một! Sau 3 năm “nà” về thôi!
Cái giọng sậm sựt rất khó nghe, dù xung quanh im lặng như tờ! Mưa vẫn rơi lắc rắc đủ ướt áo.
- Bây giờ, tôi đọc danh sách chuyển Trại. Anh nào có tên, đi vào thu xếp tư trang trong vòng 16 phút.
Tên tôi được gọi vào hàng thứ 5, trong số 18 người, có cả Kiếm - Lán trưởng - và vài anh em khác cùng Lán! Tôi lặng lẽ đi vào. Vì đã chuẩn bị trước, nên chỉ còn mấy thứ lặt vặt chưa cho vô túi. Quần áo dư, đem gửi Hữu, nếu được về trước, mang dùm về trao lại cho gia đình tôi. Đi chuyến này, tôi không hy vọng được tha sớm.
Mấy phút sau, anh em đều trở về Lán. Mỗi người giúp tôi một chút để tỏ tình cảm lúc chia tay. Dưới ánh đèn mờ nhạt, tôi nhìn thấy sự hoan hỉ trên nét mặt mỗi người ở lại. Nhưng họ có biết đâu, kể từ ngày “18 vị anh hùng Lương Sơn Bạc” ra đi, trong vòng một tháng sau, họ cũng lần lượt rời Trại như những cánh chim lìa tổ. Mấy năm sau, tôi gặp lại vài anh chuyển về Trại Ba Sao, trong vùng núi Chinê nói cho biết lúc ấy, anh em đều nghĩ, 18 người chúng tôi có tội nặng với Cách Mạng nên được đưa đến một Trại đặc biệt để cải tạo!...
Mấy phút sau, tên quản giáo vào giục tôi lên đường. Trời tối và mưa, dốc đá trơn trợt. Hữu gánh dùm tôi qua đồi đến địa điểm tập họp. Khi sang đến đồi, chúng tôi được ăn cơm trắng với thịt heo kho muối, và còn được phát thêm nắm cơm vắt có nhân thịt, phần ăn ngày mai. Làm sao ăn trong hoàn cảnh này? Nhưng sợ di chuyển đêm sẽ đói, nên tôi cố nuốt. Sau bữa ăn, chúng tôi được lệnh mở đồ ra điểm nghiệm. Tên trung úy, quản giáo coi Lán 5, phụ trách khám xét. Hắn lục lọi từng thứ, thu hết ca coóng, muỗng, đũa, chén ăn cơm, dao kéo, bi-đông đựng nước, và thu lại một trong hai chiếc mền được cấp phát. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy sự tịch thu như vậy! Rồi mai đây, chúng tôi sẽ ăn và uống bằng cái gì? Nhưng mất gì cũng được trừ lọ thuốc. Tôi nhanh tay giấu nó vào góc tối. Sau khi tịch thu và khám người, lần lưng móc túi xong, tên quản giáo nói:
- Nơi các anh sắp đến, có đầy đủ tiện nghi, không thiếu thứ gì. Ở đấy “chính quy” hơn đây nhiều. Họ “no” cho các anh từ đôi đũa, cái bát, chứ đâu để các anh thiếu thốn! 4 giờ sáng sẽ khởi hành! Các anh có thể ngủ một “nát”!
- Thưa cán bộ, cho anh em xin lại chiếc bi-đông để đựng nước uống.
- Các anh có 18 người, đây tôi trả cho các anh 9 cái gô, hai người dùng chung nhau một cái.
Nhưng hắn tìm mãi chỉ có 8 cái, những người nhanh tay giữ trước. Còn tôi và một người nữa chưa có. Suy nghĩ 1 phút, hắn đưa cho tôi chiếc bi-đông nhựa của quân đội. Chậm hóa may. Tôi nghe nói, tên trung úy này đã hoạt động ở Hậu Giang lâu, nên nó biết rõ sinh hoạt của miền Nam trước đây. Nó thường nói về các trận đánh giữa tụi nó và Quân đội ở vùng IV.
Tôi trải tấm nylon xuống nền đất nằm nghỉ. Đàn muỗi vo ve bên tai, tôi dùng chiếc khăn mặt đập loạn xạ. Biết có nằm cũng không ngủ được, tôi ngồi dậy suy nghĩ về những gì sắp xẩy tới cho riêng mình. Đến Trại mới, sẽ lại điểm nghiệm, khai báo, sẽ phải gánh chịu thêm bao nhiêu nhục nhằn, rồi cuối cùng sẽ đưa đến chỗ chết. Đằng nào trước sau cũng một lần. Tôi cầm chặt lọ thuốc trong tay, Trong đầu tôi, nổi hằn từng mủi nhọn. Nào gia đình vợ con, nào kẻ thân người thuộc, nào sách, nào tranh, nào kỷ niệm! Tất cả như a vào để cản trở ý định điên rồ của tôi lúc ấy. Nhưng sau cùng, tôi quyết định không thể chịu đựng lâu hơn nữa. Tôi dự định, khi chiếc xe tiến vào thước rừng núi đầu tiên, tôi sẽ uống độc dược. Lúc ấy trời còn tối, tên quản giáo và tên cảnh vệ giải tù không ngờ! Khi chúng biết, đã muộn! 18 viên Chloroquine, 10 viên Nivaquine đủ để tiêu cuộc đời, nhưng sợ thuốc hành làm đau đớn tôi nuốt luôn 20 viên Valium để ngủ trước khi thuốc ngấm! Tôi đã quyết định như vậy không còn gì để suy nghĩ!
Đêm nay sao quá dài, chờ mãi không thấy tiếng động cơ nào vọng đến. Vài người dễ ngủ đã đánh một giấc ngon lành. Tôi kiểm điểm thành phần đi gồm các sĩ quan thuộc ngành Chiến Tranh Chính trị như Tâm Lý Chiến, An ninh Quân Đội, phòng 7, Phòng nhì, Tình Báo. Toàn ác ôn! Vì không có đồng hồ nên tôi không ước đoán chính xác được thời gian. Gà đã gáy dồn dập mấy lần, xe vẫn chưa đến. Nếu nó đến muộn, trời sáng, dự định của tôi chắc phải hủy bỏ!
Tên quản giáo ngủ ở đâu không biết, đã đến chỗ tôi, đánh thức:
- Các anh dậy, chuẩn bị đi, 3 giờ rồi!
Mọi người choàng tỉnh, đi lấy nước đổ đầy lon gô, sắp xếp lại hành trang.
Mỗi phút chờ đợi, sao lâu vậy? Khi tuổi nhỏ, mỗi lần chờ đợi người yêu, tôi đã cảm thấy lâu. Nhưng nay đang chờ đợi giây phút tự kết thúc đời mình còn lâu hơn nhiều. Có vài người đã mở cơm vắt ra ăn. Tôi thầm phục, vì họ dễ chấp nhận hoàn cảnh, do đó thời gian và không gian tù đầy chắc không làm họ e ngại!
Có tiếng máy xe dội lại từ xa. Mọi người đem đồ ra lề đường. Tên quản giáo mang quân hàm Trung Úy đỏ chói, đeo súng ngắn, tên cảnh vệ cầm AK chờ sẵn. Hai ngọn đèn pha, rọi thành một vệt ánh sáng dài xuyên qua bóng tối làm nổi bật từng viên đá, từng gốc cây. Tên quản giáo bật đèn pin ra hiệu! Chiếc xe hãm tốc lực, quẹo vào khu đất trống, quay đầu, rồi de lại đậu ngay trước mặt chúng tôi.
- Cho đồ “nên” trước, người sau.
Tên quản giáo ra lệnh. Chúng tôi làm theo. Lần di chuyển này, có ít người nên lòng xe rộng rãi, anh em ngồi thoải mái trên hai băng gỗ. Riêng tôi, ngồi xệp xuống sàn xe vì có ý riêng. Tên quản giáo ngồi một bên, tên cảnh vệ ngồi đối diện kẹp cây AK giữa bắp đùi.
Các Trại Cải Tạo đều nằm sâu trong những khu khuất nẻo, độc đạo, không ngờ! Con lộ chính như một thân cây, lối mòn là cành, tỏa sang hai bên. Thường thường Trại được thiết lập ở đầu các cành đó. Đi ngoài lộ không thấy gì, nhưng nếu tinh ý, nơi nào có hàng chữ “Không có gì quý hơn Độc Lập, Tự Do” thì cách đấy không xa, thế nào cũng có nhà tù.
Chiếc xe chuyển bánh, bắt đầu nuốt những cây số thứ nhất. Trời hãy còn tối. Sương mù buổi sớm giăng trắng xóa như sữa. Tôi nắm chặt lọ thuốc trong tay, chiếc bi-đông để bên cạnh, đăm đăm nhìn ra ngoài. Gió thổi vun vút, tôi kéo cổ áo đi mưa lên cao. Trong túi áo, tôi để tấm hình của vợ con ngay phía trái tim. Tôi muốn khi trút hơi thở cuối cùng, giã từ cuộc sống tù đầy khốn nạn này có vợ con bên cạnh, dù thực tế, ngàn trùng xa cách!
Chiếc xe chạy vòng vèo, tiếng máy rú nặng nhọc. Vách núi lù lù chắn ngang tầm mắt. Tôi biết đã đến giờ quyết định, nếu trù trừ, trời sáng, thuốc chưa ngấm, tụi nó có thể cứu được, nếu biết! Tôi không muốn được cứu vì khi được cứu sống, tội của tôi sẽ nặng thêm. Hôm nay, ngày 28-10-1977, trên đường di chuyển không biết đến nơi nào, tôi nhất định giã từ cuộc sống! Ai bảo tự tử là hèn? Không, không! tự tử rất khó! Phải can đảm lắm, quyết tâm lắm, thanh thoát lắm mới có gan nuốt độc dược để tự giải quyết đời mình! Con sâu, cái kiến con ham sống nữa huống gì con người! Không dám tự nhận mình can đảm, nhưng quả thực, tôi chẳng muốn kéo dài thêm những ngày tù tội chỉ chuốc lấy nhục nhã, đớn đau, và rồi đây đời tù với đói khổ, với rừng thiêng suối độc, sớm muộn gì cũng chết, một cái chết ô nhục nơi ven rừng, khe suối nào đó, chưa đoán biết!
Tôi bỏ từng vốc thuốc vô miệng, chiêu nước. Số thuốc bỏ chung trong một chiếc lọ, nên lúc này tôi cứ dốc ra tay chẳng biết mỗi lần nuốt bao nhiêu, nhưng sau 5 lần chiêu nước, chiếc lọ chẳng còn viên nào. Sớm nay, nhịn ăn, cho thuốc chóng ngấm, nên lúc này bụng thấy cồn cào, muốn nôn hết số thuốc vừa uống vào. Tôi cố giữ... Chiếc xe chạy vòng vèo theo đường núi càng làm ruột gan bồn chồn khó chịu. Hình ảnh bố mẹ, anh em, vợ con, bè bạn, thoáng hiện trong đầu lần cuối.Tôi lầm rầm xin lỗi và sám hối tất cả những gì đã gây ra từ lúc trẻ đến hôm nay đối với bố mẹ, vợ con, bè bạn! Khi tuổi niên thiếu, tôi không giúp ích cho bố mẹ, chỉ làm phiền chứ chưa đền ơn dưỡng dục! Còn vợ con, tôi đã không giữ tròn bổn phận làm chồng, làm cha! Bè bạn, kẻ ghét, người yêu! Sự nghiệp dang dở! Tôi ngất đi lúc nào không hay!...
Sức dội của thắng xe quá gấp làm tôi tỉnh dậy. Tai mơ hồ nghe tiếng nói:
- Ngủ gì, như chết! Xe chạy suốt mấy trăm cây số, không tỉnh!
Một tiếng nói khác:
- Chắc ông ấy mệt! Sức yếu quá!
Có bàn tay lay mạnh vào người:
- Ê, dậy đi ông, đến nơi rồi!
Tôi mở mắt, nhìn đờ đẫn như trong giấc mơ.
Những hình bóng xung quanh như khỏa lấp bởi một màn sương mờ ảo! Tôi cố mở to mắt rồi nhoài người về phía cuối xe! Cổ họng ngứa ngáy, tôi cúi xuống nôn thốc tháo, không sao kềm hãm nổi. Toàn thân rủ liệt, mệt không thể tả. Tôi nôn cả mật xanh, mật vàng cùng rãi rớt. Anh em đã xuống hết. Thấy tôi như vậy, một anh đỡ xuống, một anh kéo túi đồ ra khỏi lòng xe. Tôi nghe tiếng tên quản giáo:
- Ơ, anh kia con ngồi “nàm” gì đấy? Mang đồ vào Trại! Mau “nên”!
Tôi vẫn ngồi im không nhúc nhích. Túi đồ của tôi nằm lăn dưới gầm xe. Chiếc xe nổ máy, vụt đi!
Tôi cố gắng đứng dậy. Đôi chân lảo đảo, mắt hoa lên. Nhưng tôi vận dụng tất cả khả năng còn lại để đến bên túi đồ, cầm chiếc quai định đeo lên vai, nhung không có cách nào làm nổi! Anh em đã đi xa, không ai nhìn lại, cả tên quản giáo lẫn cảnh vệ.
Chiếc Trại mới với hàng rào tre cao ngất, quét vôi trắng tinh, cách xa khoảng 100 thước, sao lúc này đối với tôi nó xa lắc!... Những chiếc áo vàng qua lại nhộn nhịp. Tuy mệt, tôi cũng còn chút ý thức để phân biệt, cơ sở này thuộc Công An. Dùng tàn lực, tôi kéo túi đồ lê xềnh xệch dưới đất, từng bước một để thu ngắn đoạn đường. Sau cùng, tôi cũng lết tới cổng Trại. Vừa đi, vừa nghĩ tại sao mình không chết với 48 viên độc dược? Một con heo 100kí, chỉ 5 viên Chloroquine cũng đủ giết nó dễ dàng! Sao tôi, sau hơn 2 năm cải tạo, qua 5 nhà tù, từ 62 kí-lô, nay chỉ còn khoảng trên dưới 40 mà số lượng độc dược nhiều gấp 9 lần vì đâu không chết! Đây là định mệnh chăng, hay một phép lạ, hoặc tôi đã chết mà cảnh tượng hiện thấy thuộc thế giới bên kia?...·
Nhưng thực tế là thực tế. Tôi vẫn còn sống, đang cùng các nguời khác đứng nghiêm chỉnh nghe tên quản giáo đọc tên và hô “có mặt”, để giao tù cho tên Công An đứng ngay đó! Sau khi bàn giao xong, tên quản giáo cười, nụ cười đểu giả. Chính nó đã tịch thu tất cả những gì cần thiết cho đời sống của một người tù, chúng tôi không còn gì kể cả chiếc muỗng nhỏ để dùng!
Những người tù cũ đứng xa xa nhìn. Lát sau chúng tôi được cho ăn bát chè nóng. Đây coi như “bát chè tiếp tân” gây thiện cảm! Nhờ ăn bát chè đậu xanh, trong người thấy tỉnh táo. Chúng tôi được tên Công An hướng dẫn vô buồng. Căn buồng tuy bằng lá nhưng khá sạch sẽ. Mỗi người nằm một chiếu, bề ngang khoảng 80 phân. Trên đầu giường có để sẵn một chiếc mền, một bánh xà-bông, một ống kem và chiếc bàn chải đánh răng. Tuy mệt, nhưng hồi tưởng, thấy lời tên quản giáo nói có phần đúng.
Sau khi nhận chỗ nằm xong, chúng tôi ra sân tìm nước rửa mặt, tay chân. Chiếc bể lớn chứa đầy nước tha hồ dùng. Sau khi rửa ráy, mặt mũi người nào trông cũng tươi lên. Một anh bạn cùng chuyến, tên Trai, nói nhỏ:
- Lúc xe di chuyển từ Nghĩa Lộ lên đây, chắc Bác mệt lắm, tôi nhìn thấy chiếc đầu cứ lắc la lắc lư, tưởng gẫy cổ rồi chứ? Bác yếu quá, sao chịu nổi?
Tôi nhìn Trai, ông ta lớn hơn tôi một tuổi, người gầy ốm, hàng râu mép lưa thưa, nhưng lúc này còn mạnh, vì ông đâu có dùng 48 viên độc dược như tôi?
- Tôi bệnh lâu rồi, Bác ơi! Đây là đâu?
- Lào Cai! Trại này do Công An quản lý. Tôi nghe nói, tối họ khóa cửa.
- Thế đêm hôm đái iả ra sao?
- Có cầu tiêu trong buồng!
- Chết cha, hôi thối sao chiu nổi!
Chúng tôi đang nói chuyện, bỗng có tiếng còi thổi vang. Đằng, trung tá Dù được chỉ định làm trưởng Toán, kêu anh em tập họp. Tên Công An, tay cầm xâu chìa khóa, đứng trên thềm cao nói:
- Các anh ngồi xuống!
Tất cả ngồi chồm hỗm trên nền đất. Tên Công An tiếp:
- Trước hết, tôi xin giới thiệu với mấy anh, đây là “nhà tù của Xã Hội Chủ Nghĩa”
Ai nấy đều sửng sốt qua nét mặt, nhưng không ai thốt ra lời nào. Riêng tôi, lần thứ hai, chính tai nghe. Lần thứ nhất, trong đêm đầu ở Suối Máu! Vì tự nhận diện mình nên trong cuốn sách, tôi hay dừng chữ “tù” thay cho chữ “cải tạo”. Nhưng tụi Cộng Sản cấp cao, thường cấm mọi người nói đến chữ “tù”, chỉ được dùng chữ Cải tạo viên hay Trại viên, mỗi lần cần xưng hô! Đồ giả đối!
Nói xong câu đó, tên Công An dừng lại một phút, rồi nói thêm về cách ăn, ở trong buồng:
- Ban đêm, cửa sẽ khóa từ 6giờ rưỡi chiều đến 6giờ rưỡi sáng hôm sau. Kẻng báo ra, sau kẻng báo thức! Các anh phải cắt phiên trực để làm vệ sinh, đổ thùng phân, quét dọn cầu tiêu, buồng ngủ cho sạch sẽ, mền chiếu xếp gọn gàng đúng chỗ quy định. Các anh nghe rõ chứ?
- Rõ!
Chúng tôi xếp hàng hai đi vô buồng. Tên Công An đếm số người. Sau khi vô hết, cửa đóng tiếp theo tiếng dập khóa khô khan. Từ phút này, chúng tôi hoàn toàn cách biệt với sinh hoạt bên ngoài.
Vì quá mệt, tôi nằm lăn ra chỗ ngủ. Mùi chiếu ẩm mốc bốc lên. Tôi trải chiếc mền cho đỡ phải ngửi cái mùi khó thương đó. Tôi ngửa mặt, cố nhớ lại những gì mình đã làm, đã trải qua trong mười mấy tiếng đồng hồ vừa qua. Lúc tôi uống thuốc vào khoảng 5 giờ sáng. Sau 10 phút, ngất đi. Suốt từ đó tới khi đến Lào Cai, vào lúc xế chiều, như vậy, tôi hôn mê khoảng 12 tiếng đồng hồ liên tiếp. Từ phút này, tôi bắt đầu sợ định mệnh! Khi còn ở Suối Máu, tôi nhờ Vọng, một bạn tù giỏi Tử Vi lấy hộ lá số. Vọng cho biết tôi sống đến ngoài 80 tuổi và sẽ mất tại nước ngoài! Tôi cười nói:
- Ông ơi, cuộc đời tàn rồi, sống thêm ngày nào nhục ngày đó. Ham gì đâu mà sống? Còn chết ở nước ngoài, ai cho đi, làm sao đi được để chết?
- Lá số ông sao, tôi nói vậy, còn tin hay không, tùy!
Nay hồi tưởng, chuyện chết ở nước ngoài chưa biết, nhung sau lần tự tử hụt này, tôi biết mình khó chết.
Từ đó, tôi phó mặc đời sống cho định mệnh, chấp nhận mọi việc dù tốt, dù xấu!
Tôi đau ốm liên miên, người gầy rạc hẳn đi, chỉ còn da bọc xương. Lúc đi khám bệnh cân lại, đúng 35 kí-lô. Từ 62 còn 35, mất đi 27 kí-lô! Vì quá yếu, tôi không phải đi lao động, mỗi ngày được chích và uống thuốc! Tôi giấu kín việc tự tử. Cơm nước ở đây tương đối khá hơn ở Trại “cối xanh” quản lý, nhưng vẫn không đủ no. Chúng tôi thỉnh thoảng được ăn thịt trâu hoặc ngựa. Một buổi gần tới giờ cơm, xuống nhà bếp xin nước uống thuốc, tôi bất chợt nhìn thấy một anh trong Tổ làm bếp đang ngồi gặm đầu ngựa, đặt trong lòng chiếc chậu săt. Chiếc đầu ngựa trắng hếu với hàm răng nhe ra như cười, anh ta ghé miệng vào chiếc sọ cạp từng miếng thịt còn dính lại, gỡ chưa hết! Trông ghê quá!
Cái cảnh khám xét của Công An kỹ hơn bộ đội nhiều. Họ tịch thu lần nữa. Tôi lại mất luôn một số đồ. Khám xong tên Công An cho lệnh Đội trưởng khám người. Cũng lần lưng, bóp túi, nắn gấu áo, cạp quần đủ thứ, nhưng dù sao anh em khám cũng đỡ hơn Công An. Những đồ tịch thu như dây dù, dây nịt, thuốc men, quẹt máy đều được chuyển ra ngoài Trại ngay lập tức. Thuốc, tôi không còn nhưng tôi mất sợi dây dù dài khoảng 20 thước để căng võng và sợi dây lưng quân đội, nhưng vẫn giữ được chiếc Zippo. Vì có chiếc bật lửa này, mỗi sáng khi tôi vừa thức dậy hút thuốc, đã có một anh ngồi chờ xin lửa! Lửa ở đây quá hiếm!
Sau đó một hôm, chúng tôi học tập nội quy ở Hội Trường. Buổi học tập nội quy rất nghiêm chỉnh, mọi vấn đề đều được trình bầy đầy đủ trên lý thuyết. Hậu cần nói về ăn uống. Mỗi tháng tù được ăn bao nhiều cân gạo, bao nhiêu lạng thịt cá, bao nhiêu lạng rau v.v... Hàng tháng, còn được Nhà Nước cho thêm 3 đồng tiêu vặt, nhưng số tiền này sẽ được Trại thực hiện bằng thuốc lá, thuốc lào, kem đánh răng, xà-bông v.v... Cuối cùng, tên cán bộ giáo dục nói về hoàn cảnh đích thực của chúng tôi.
- Các anh như những con người sắp ra khỏi bóng tối. Lúc này đã 3 giờ sáng, chỉ còn mấy tiếng nữa, các anh sẽ nhìn thấy mặt trời. Cố lên, chớ làm điều gì để ân hận về sau!
Lời nói vừa tử tế vừa hàm ý đe dọa. Bản nội quy gồm nhiều điều ngăn cấm hơn bên bộ đội. Sau đó, chúng tôi mỗi người lại phải tự khai lý lịch và làm một bản liệt kê đã học tập những gì, ở đâu, nội dung ra sao?
Hôm sau nữa, chúng tôi phải đóng đấu chữ CẢI TẠO vô áo quần mặc, từ xà-lỏn tới áo thung. Những đồ nào không đóng dấu, không được dùng, phải gói lại cất vào kho riêng do Công An giữ chìa khóa. Có người không muốn gửi, đóng dấu tùm lum.
Căn buồng tôi ở sát ngay chiếc loa phóng thanh. Mỗi tối đài Hà-nội léo nhéo từ 6 giờ chiều đến 11 giờ đêm. Một tối,nghe thấy từ loa phóng ra câu: “Nói đến vô sản chuyên chính là nói cuộc đấu tranh sắt máu, không nhân nhượng, một sống, một chết với quân thù”! Qua câu đó, tôi biết ngay, Dương văn Minh là ông tướng không hiểu chính trị, nhất là không hiểu Cộng Sản, nên ngày 30-4-75, ông mới yêu cầu “người anh em bên kia” hãy ngừng bắn để điều đình với mục đích hòa hợp, hòa giải Dân tộc! Tôi biết Cộng Sản đã tha cho hai ông: Dương văn Minh và Vũ văn Mẫu không phải đi cải tạo để hứng chịu nhục nhằn, đói khổ. Có lẽ đó, một hình thức trả ơn!...
Nhưng tôi không ở Trại này lâu. Sau trên một tháng, chúng tôi và 32 người khác, tổng số 50, có tên chuyển Trại. Trong thời gian ở đây, tôi có gặp vài anh em cấp nhỏ cùng ngành, tuy không cùng buồng, nhưng thỉnh thoảng có dịp nói chuyện. Tôi có mang ơn một người bạn trẻ, Trung Úy ngành Quân Cụ, đã có sửa dùm tôi chiếc gọng kính bị gẫy. Không có kính, tôi như mù. Chiếc kính đó, tôi mang theo đến ngày vượt biên, bị cướp Thái Lan lấy mất. Nếu những dòng chữ này may mắn anh được đọc, xin nhận ở đây lời cảm ơn của người viết sách!
Cuộc chuyển Trại, được chuẩn bị từ sáng sớm, nhưng mãi đến 9 giờ mới khởi hành. Chúng tôi di chuyển theo đường bộ. Con lộ gập ghềnh lên xuống theo triền núi. Một dòng suối, nước chảy đen ngòm ngay dưới chân. Tôi đeo túi lên vai, lê những bước nặng nhọc vì sức khỏe mỗi ngày một suy yếu. Chúng tôi có gặp một toán di hành ngược chiều. Đây là việc hoán chuyển tù. Chúng tôi đi khoảng 3 cây số, mất tới 4 giờ. Một chiếc cổng lớn, cánh cửa sắt đóng im ỉm. Bức tường gạch cao ngất, nhẵn thín quay xung quanh, rất kiên cố. Trên nóc cổng có hàng chữ: Trại Cải Tạo Trung Ương số 1, tô mầu đen trên nền vôi trắng, trông gớm ghiếc.
Mấy tên Công An vũ trang đeo AK trên vai, đi lại trên mô đất cao, đầu đội mũ biên phòng, một loại mũ ấm, bắt chước kiểu mũ của lính Nga, vì lúc này đã bắt đầu mùa lạnh. Tôi nghe nói, nơi đây xưa kia là nhà tù của Thực Dân Pháp giam giữ những nhà Cách Mạng Việt Nam.
Tên Công An giải tù cho lệnh, tất cả đứng chờ.
Hắn đẩy cửa sắt đi vô một lúc rồi trở ra. Cánh cửa được mở rộng. Một toán Công An từ trong ùa ra. Một tên cho lệnh chúng tôi ngồi xuống, xếp hàng hai! Đếm xong, hắn cho lệnh đi vào Trại, rồi quay người nói với tên Công An đứng bên:
- Tôi giao cho đồng chí Đội này!
Tên Công An được giao, cười gượng, ngụ ý như miễn cưỡng phải nhận.
Tên Công An quản lý dẫn chúng tôi trèo lên những bậc gạch cao chừng 2 thước đi sâu vào chiếc hành lang, hai bên có tường cao, mỗi bên có hai chiếc cửa ra vào, đối điện. Tất cả cánh cửa đều có then và chốt sắt bên ngoài. Tôi liếc nhìn vào một chiếc cổng mở, thấy có vườn hoa tươi tốt, những đóa hồng nở tung xen lẫn cúc vàng. Phia cuối, căn nhà gạch dài khoảng 20 thước.
Chúng tôi được dẫn tới chiếc cổng cuối. Cánh cửa mở rộng. Có hai người chờ sẵn ở đó: Tướng Văn Thành Cao, Tổng Cục phó Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị và Trung Tá Kính khi trước ở Cục Tiếp Vận 3. Cả hai người khúm núm chào tên Công An. Chúng tôi, 50 người được lệnh bỏ đồ xuống, nghe tên Công An nói vài câu lấy lệ, rồi giao cho Tướng Cao, nói cho anh em biết về cách ăn ở, sinh hoạt của buồng. Tên Công An đi ra. Chúng tôi ào vào giành chỗ nằm. buồng có sạp gỗ hai bên, mỗi bên đều có gác, như vậy tương đối rộng.
Buổi trưa, nhà bếp mang cơm lên tận cổng. Tưóng Cao và anh Kính khiêng vô. Cánh cửa được đóng chặt, cài chốt bên ngoài. Tôi hỏi, mới biết, ở đây nhà bếp có nhiệm vụ khiêng cáng cơm đến mỗi buồng. Ăn xong, rửa nồi, chậu xếp vào cáng, xế trưa, nhà bếp lại lên lấy về. Mỗi ngày hai buổi như vậy. Nhà bếp có trách nhiệm đóng và mở cổng, mỗi lần đưa cơm. Nước cũng được phát hai thùng men, chứa khoảng 30 lít, sáng và trưa, trước giờ lao động.
Buổi chiều, hai tên CôngAn vô, cho lịnh điểm nghiệm. Một lần nữa, chúng tôi lại phải bầy đồ ra, đầy ứ chiếc sân toàn cát bụi đen ngòm. Tôi lại phải giấu bật lửa. Cuộc khám xét cũng mất vừa một buổi chiều, do hai tên Công An cùng khám.
Ăn cơm xong, chúng tôi nghe kẻng, ngồi xếp hàng tư giữa sân, chờ lệnh vô “chuồng”. Danh từ ”chuồng” bắt đầu được xử dụng từ đây!
Tên Công An Trực đi vô, tay cầm chùm chìa khóa lúc la, lúc lắc! Đội trưởng đứng báo cáo số tù. Tên Công An giọng lạnh lùng:
- Cho vào! Hàng trái vô trước, xong đến hàng phải, cứ 2 người một.
Sau khi vô hết, tên Công An dập cửa, kéo chốt sắt khóa lại. Thế là xong! Hai ngọn đèn điện đỏ quạch tuy không đủ sáng nhưng còn hơn Trại B, nơi chúng tôi vừa rời khỏi. Nhịp chân đi ra phía cổng, có tiếng cài chốt phía ngoài. Chúng tôi bị khóa tới hai lần.
Vì một may mắn nào đó, tôi đang cần chiếc lon gô để đựng cơm, tôi nhìn ngay trên chiếc đà, chỗ nằm, có một chiếc. Tôi lấy xuống, thấy có khắc tên Thanh. Tôi chắc của anh nào đó, mới đi sáng nay, bỏ quên. Thôi, tôi cảm ơn chủ nhân chiếc gô, tuy không quen biết, nhưng cũng là cái duyên. Tôi không dùng nó, người khác cũng dùng. Tôi tự nói với mình như vậy để khi dùng được yên ổn trong lòng. Vì cùng cảnh ngộ, cái gô này rất cần cho người tù. Tôi mang theo nó suốt từ ngày ấy cho đến khi được tha về.
Hôm sau lại khai báo lý lich và học tập nội quy do tên đại úy Phó Trại “lên lớp”. Nhà tù nào cũng ngần ấy thủ tục trong những ngày đầu! Chúng tôi được thong thả trong hai ngày xong bắt đầu lao động.
Buổi lao động đầu tiên chúng tôi ngồi thu lu bên cạnh các đội khác. Đội tôi, mang danh hiệu Đội 8. Tôi ngồi đây, nhưng chưa hiểu phải làm gì, lao động ở đâu? Từ trong hàng, tôi liếc nhìn qua chiếc bàn, nơi tên Công An đứng gọi từng Đội đi lao động, thấy trên mô đất cao phía ngoài cổng, lố nhố đầy Công An vác AK trên vai.
Từng Đội được gọi đứng lên, đi ra khỏi cổng. Tên Công An quản giáo đi theo, ra khỏi cổng, tên Công An vũ trang, từ mô đất nhẩy xuống đi kèm. Đội đi thẳng, Đội quẹo trái, Đội quẹo phải lung tung. Sự gọi Đội, hình như theo công tác lao động chứ không theo thứ tự. Chúng tôi chờ lâu lắm, khi các Đội đi gần hết, chiếc sân rộng mênh mông vắng hoe, Đội tôi mới được gọi.
Chúng tôi đứng lên đi ra, tên quản giáo theo sau. Khỏi cổng, một tên Công An vũ trang từ mô đất cao nhẩy xuống, cầm AK bám sát. Chúng tôi được dẫn đi xa khoảng 1 cây số rồi dừng lại trước lò gạch. Đã có nhiều người đang lao động ở dưới thấp, cũng như trên cao. Con trâu to mập đang đi vòng quanh bãi đất lổn nhổn, do một người cầm dây dắt. Rải rác đó đây, có những ụ đất cao. Chiếc lò gạch đang nung, làn khói vươn cao. Mầu trời ảm đạm. Mùa lạnh bắt đầu. Tôi nhớ đến mùa lạnh năm ngoái, phát rùng mình. Ở đây còn cao hơn, chắc sẽ lạnh nhiều. Chúng tôi đang ở địa điểm cách Phố Lu 9 cây số, thuộc tỉnh lỵ Lào Cai.
Đội chúng tôi được phân tán thành nhiều toán, để học việc làm gạch ngói, do Đội 9 đã ở lâu, phụ trách chỉ dẫn.
Tên Công An quản lý luôn luôn có mặt chỗ này, chỗ kia, xem chúng tôi “học tập lao động” ra sao?
Tôi được điều vào toán đạp đất. Tôi đi vòng quanh quả đất đường kính khoảng 3 thước, cao chừng 1 thước. Năm, sáu người cứ đi vòng vòng, một người cầm chiếc kéo cắt đất, xén lần cho rơi xuống. Chiếc kéo cắt đất làm bằng một cây sắt uốn vòng cung, có sợi dây thắng xe đạp buộc vô hai đầu thật căng. Người cắt ấn xuống, sọi dây cắt đất phăng phăng, mau và gọn! Chúng tôi dẫm lên nhiều lần, đất mịn như tảng bột. Cứ như vậy, hai chân tôi mỏi nhừ. Dẫm chừng 2 giờ được nghỉ 15 phút hút thuốc, uống nước trà tươi, hái từ quả đồi trước mặt. Xung quanh chỗ làm việc, toan đồi trà cằn cỗi, chưa kịp phá đi trồng lại. Nhưng tuy vậy vẫn hái được lá để nấu nước, mỗi ngày 2 thùng. Bụng đói như cào, chân vẫn đạp đều đều trên đất ướt. Tuy mới buổi đầu, tôi đã cảm thấy cam go! Đất được dẫm kỹ, nhuyễn rồi, cho vào khuôn ép thành ngói hay gạch. Chiếc máy ép ngói hoạt động liên tục. Một người cho đất vào khuôn, một người kéo cần giật, một người lấy ra cắt xén, xong đưa vào giàn phơi, chờ khô cho vô lò. Còn gạch hoàn toàn làm bằng tay với chiếc khuôn gỗ, đóng xong có người mang phơi nắng cho ráo chờ nung. Có 2 chiếc lò, một nung ngói, một nung gạch. Vẫn cái kiểu lò cũ kỹ, tôi đã nhìn thấy từ hồi còn niên thiếu.
Từ đó, Đội chúng tôi gắn chặt vào công việc làm gạch ngói. Sau thời gian học tập, chúng tôi bắt đầu làm riêng.Tên Công An quản lý, chia công tác cho mỗi người. Toán làm gạch, toán làm ngói, toán đạp đất, toán giắt trâu dẫm đất và cuốc bãi!
Theo nguyên tắc, muốn có đất làm gạch, phải cuốc đất thành một bãi đất có hình tròn, đường kính khoảng từ 6 đến 8 thước. Sau khi cuốc sơ, đổ nước vô cho trâu dẫm nát. Buổi sáng trâu dẫm xong, buổi chiều người lấy lên đắp thành từng quả đất. Sáng hôm sau, hai người đạp một quả. Vừa đạp vừa cắt, sao cho nhuyễn mịn, không còn cục đất sượng nào mới được. Cắt đạp hai, ba lần mới xong, vừa đúng một buổi sáng. Nếu ai đạp khỏe còn có chút thì giò dư đi “cải thiện”, đun nấu. Nếu không, nhiều lúc đến giờ về, chưa kịp rửa tay chân. Đất đạp xong, đậy bằng tấm liếp che nắng cho khỏi khô và được toán khác đưa đến chỗ đóng gạch. Gạch đóng xong mang phơi.
Các “khâu” ấy, “khâu” nào cũng nặng như nhau, chỉ có Đội trưởng được ngồi chơi, thỉnh thoảng chạy chỗ này một tí, chỗ kia một lát, đôn đốc anh em cho có việc, lại còn được tên Công An thỉnh thoảng cho khoai, sắn, mật, nấu chè riêng. Quyền lợi của Đội trưởng như vậy ai cũng ham, nhưng cũng khó tránh vì một khi đã ngoạm được miếng ngon trong miệng, khó nhả ra. Do đó, anh em làm gì tụi Công An đều biết rất mau chóng!
Trời bắt đầu lạnh gắt. Thỉnh thoảng lại mưa phùn làm con đường nhơ nhớp. Khu làm đất lầy lội, mỗi lần bước chân xuống, mỗi lần rùng minh. Vì mưa rét, nên ai cũng ngại lao động, nhất là cơn đói hành hạ liên miên. Suốt ngày chỉ nghĩ đến miếng ăn. Càng “ăn kiểu hàm thụ” càng đói, do đó, bất cứ con gì nhúc nhích từ cóc nhái, thằn lằn, rắn rết, cào cào, châu chấu đều bị tù tìm cách “bắt gọn” cho ngay vào lò lửa. Chỉ trong mấy phút chúng đã hóa kiếp biến vào dạ dầy. Nhưng người đói qua nhiều, các giống côn trùng ăn được lại ít, nên “thực phẩm trời cho” càng ngày càng khan hiếm. Từ các Linh Mục đến các thầy Tuyên Úy đáng kính, trước cái đói, đều giống nhau. Các vị đó còn “hăng say săn đuổi” hơn kẻ trần tục.
Tôi đã chứng kiến một vị Linh Mục trẻ, chiều nào trước khi vô “chuồng” cũng đi bách bộ vòng quanh sân, hay khoanh tay trước ngục, mắt ngước lên trời, lâm râm đọc kinh, săn đuổi một con rắn nhỏ bằng ngón tay út. Sau khi đập chết con rắn, chẳng cần lột da, cho ngay vào bếp lửa nướng, thân con rắn cong queo như chiếc lò-xo đen thui. Vị Linh Mục trẻ đưa vô miệng nhai ngon lành như ăn khúc xúc-xích!...
Cũng như tôi được chứng kiến ông thầy Tuyên Úy đói quá, đã ăn cỏ! Thầy cắt những mảnh cỏ non, mọc ở hai bên lề đường hoặc quanh nơi lao động, rửa sạch thái nhỏ, cho vào gô, đút vô bếp nấu nước, đun thật lâu, như ninh bánh chưng. Ninh xong, thầy ngồi trong tư thế nhập thiền rồi lùa từng muỗng cỏ vô miệng. Vừa ăn, thầy vừa nói liên hồi như tụng kinh: Trâu bò ăn được, người ăn được!...
Thật đau đớn! Con người một khi không trấn áp nổi dục vọng dù Linh Mục hay Đại Đức cũng vậy thôi, nhiều khi còn dữ đội hơn người thường. Có thầy thèm ăn quá, suốt ngày lải nhải nói về tưong, chao, và những bữa cơm chay trong các ngày đại lễ Phật Đản, Vu Lan! Nhưng vẫn ăn thịt trâu, thịt heo, thịt ngựa như điên! Có vị còn phạm giới và có hành động mà người thường vì danh dự không làm! Nhưng không phải mọi Linh Mục và Đại Đức đều có hành động như vậy. Có nhiều vị rất thánh thiện, rất thanh thoát! Thà chết chứ không chịu làm mất uy ín của Tôn giáo mình thờ phụng!
Một vài anh em, mang theo hạt giống rau cải, rau diếp, rau dền đã chịu khó cuốc những mảnh đất nhỏ, gieo trồng, nhưng phải chờ một thời gian mới có ăn! Trong thời gian chờ đợi, họ còn phải vất vả vì đói. Ở Trại nay, ăn bánh mì luộc dài dài, bột mì của Gia Nã Đại tặng cho nhân dân Việt Nam. Sao họ tặng nhiều thế, mấy trăm ngàn tù ăn hoài chưa hết, ấy chưa kể Nhà Nước và nhân dân. Ai cũng thèm cơm. Bữa nào được chén cơm, mừng húm, tuy chỉ được chia trên một “chén tầu thủy” mỗi bữa!
Sau hơn một tuần khi đến Trại, chúng tôi được gửi thư về nhà có kèm theo “phiếu quà” do Trại cấp, để ăn Tết sắp đến, nay thấp thoáng quà đã tới. Trong buồng tôi, có mười người nhận được. Trong những gói quà đó, ngoài đường thẻ, sữa, đồ mặn, bột Bích Chi, mì ăn liền, thế nào cũng có một vài bánh thuốc lào “3 số 8”. Anh nào biết hút, không nói làm gì. Có những người không biết hút, gói quà cũng có thuốc lào dùng để đổi chác, vì tiền ở đây không có giá trị. Những ai trót đa mang với “làn khói tương tư” mỗi lần thấy ai hút, hoặc ngửi hương thơm quen thuộc của khói thuốc ngon, trong người tự nhiên rạo rực! Một chén cơm đổi lấy 5 “bi” thuốc lào, mỗi ‘bi” to bằng hạt ngô. Tội nghiệp có nhiều anh chưa nhận được quà, thèm thuốc quá đành nhịn đói mang cơm đổi thuốc hút. Trường hợp này làm tôi nhớ đến Lê Huy Linh Vũ ở Nghĩa Lộ! Cơm đã thiếu, còn thiếu hơn ở Trại do Bộ Đội quản lý mà phải hy sinh phần cơm để đổi lấy 5 bi thuốc, sau 5 lần kéo pháo, tiêu tan! Hút có hà tiện lắm, cũng chỉ nửa buổi là hết. Nhưng dù sống hay chết, ai đã ghiền, đều để dành một điếu “3 số 8” cho buổi sáng, khi thức dậy! Điếu thuốc đầu tiên, buổi sáng sớm, có giá trị vô song. Nó làm tâm hồn bay bổng, quên đi được một vài phút đau khổ cuộc đời! Cho đến hôm nay, khi ngồi viết những dòng chữ này trong Trại Tỵ nạn Sungei Besi, tôi không thể hiểu nổi, tại sao con người lại có thể bóc lột nhau một cách tàn ác đến như vậy, trong khi cùng chung cảnh ngộ? Những kẻ bóc lột đó, đau thay, trước kia đều giữ chưc vụ khá quan trọng như Phó Tỉnh Bình Dương, Chánh sự vụ v.v...
Tôi đã hút thuốc lào từ lâu, và hút nặng, mỗi ngày năm, bẩy chục “bi”. Nhưng từ ngày vượt biên, bỏ lại chiếc điếu cầy và mấy bịch thuốc “3 số 8” nơi “bãi đáp”. Trong những ngày đầu, tôi cảm thấy hơi khổ sở, rồi mãi cũng quen, nhất là xung quanh không ai hút! Nhưng, nếu có một người hút, chắc không sao nhịn được, tôi cũng phải mang tất cả những gì mình có để đổi lấy thuốc lào!...
Gần cuối năm, tiết trời càng u ám. Từng cơn gió bấc thổi buốt ruột, như cắt da cắt thịt. Mỗi buổi sáng sương mù giăng đầy trời. Toán dắt trâu đạp đất vô “chuồng” kéo trâu ra. Con trâu to lớn với hai chiếc sừng cong veo nhọn hoắt, lừ lừ đi theo chân người dắt, nhưng khi vừa nhìn thấy bãi đất mà nó có nhiệm vụ phải quần cho nát như mọi ngày, đột nhiên nó vùng chạy. Anh dắt trâu cố ghì dây, nhưng không còn sức để giữ nó lâu! Một anh khác cầm roi quất vào mông trâu dồn nó xuống bãi. Nhưng nó chồm lên làm anh dắt trâu ngã sấp xuống, con trâu vùng chạy! Tôi vừa đạp đất vừa nhìn con trâu phóng qua dòng suối nhỏ, chạy mất hút vào lùm cây dưới chân đồi trà.
- Đù mẹ, trâu còn sợ lao động, nữa người! Mùa này cỏ ít, ăn không đủ no, lại làm nhiều, giống vật cũng không kham nổi!
Người bạn tù cùng đạp đất với tôi, nói bằng giọng vừa buồn vừa uất hận:
- Trâu trốn được đó, tụi mình trốn, là bỏ cha!
Gió thổi từng cơn vật vã. Từ sớm, tôi chỉ được ăn 2 khúc sắn, mỗi khúc dài 3 phân, khẩu phần ăn lót lòng 50 gram đã tan biến từ lâu. Lúc này cơ thể tôi vì nhu cầu sinh tồn nó tự ăn, nghĩa là nó rút tỉa từng chút, từng chút mỗi ngày làm cho thân xác mỏi mòn, người cứ gầy rạc đi vì thế! Hơi nóng trong người dồn xuống đôi chân, hơi lạnh của đất hút hết, nó lại dồn xuống. Cứ như thế, ngày nối ngày, giữa mùa lạnh khắc nghiệt! Tên Kỳ, Công An quản lý, vô cùng tàn nhẫn, nó xông xáo luôn luôn có mặt để kiểm soát, sỉ nhục, càng làm tinh thần chúng tôi căng thẳng.
Nhưng cảnh tù ở nơi đây cũng không hoàn toàn khô khan. Có Trại nữ tù ở cách Trại Trung Ương khoảng 2 cây số. Mỗi sáng họ đi làm ngược chiều. Vì đường lội mọi người phải xắn cao quần cho khỏi lấm. Tôi nhìn những bắp chân trắng nõn đi thoăn thoắt trên đường cả đàn, cả lũ. Có nhiều nữ tù trông cũng khá xinh. Nhiều cô trông dữ dằn không thua đàn ông du đảng. Chiếc xe bò chở gốc rau muống đi trồng, cao đầy như trái núi. Một cô kéo trước, hai người đẩy sau cố gắng lên dốc. Cô gái tóc ngắn đi bên cạnh, cằn nhằn, lèm bèm chửi cô kéo càng. Cô này đang kéo, buông tay. Chiếc xe mất thăng bằng dốc ngược, gốc rau đổ đầy đường. Thấy vậy, cô tóc ngắn đi bên, chắc Đội Trưởng, chẳng nói gì, tiến đến vươn tay túm tóc cô kéo càng, đấm đá túi bụi. Lần thứ nhất, tôi nhìn thấy hai người đàn bà uýnh lộn. Họ quần thảo cũng dữ dội lắm. Nào loi, nào đá, nào kêu, nào chửi, nào gào thét tùm lum. Tên nữ Công An từ phía xa đi lại. Người mập lùn, chiếc đuôi sam đong đưa qua lại, chiếc “cối vàng” úp sụp che gần hết khuôn mặt. Khẩu súng đeo bên hông lúc lắc theo nhịp đi. Khi đến gần nơi uýnh lộn, cô ta chống hai tay vào hông nhìn. Cuộc quần thảo giữa hai nữ tù vẫn tiếp diễn, người nào cũng lấm bê bết. Nhiều người đứng xem, không ai dám can. Hai nữ tù, chắc quá mệt cùng lăn xuống mặt bùn. Tên nữ Công An lúc ấy mới hét:
- Sâm, buông nó ra! Lát nữa về Trại sẽ xử!
Cô tóc ngắn, tên Sâm, đang nằm đè lên đối thủ, nghe lệnh buông ra, đứng lên, mặt đỏ bừng bừng như vừa uống xong ly rượu. Người nữ tù kia ngồi dậy, dòng tóc đen nhánh dính đầy bùn đất đỏ, vừa cho tay quấn tóc vừa chửi. Chiếc áo tuột khuy để lộ một mảng ngực trắng nõn!
Cô tóc ngắn, chỉ tay vào mặt cô kia:
- Trưa nay, mày biết tay tao!...
Anh em tù chính trị, đều ngưng làm, nhìn chăm chú hoạt cảnh vừa qua. Một vài tiếng cười nổi lên đây đó!
Vì sống mãi, quen nhìn, nên thứ gì cũng trở nên nhàm chán. Mỗi sáng dù có đoàn nữ tù đi qua, cũng chỉ là vui mắt chút ít. Có cô vừa đi vừa hát nghêu ngao: “Ngày mai em quyết băng ngàn, vượt suối đi tìm tình yêu!” Tình yêu chắc cô đã tìm thấy nơi một người trong bọn tôi, nên mỗi sáng anh ta vừa làm vừa nhìn ra phía lộ, chờ cô ta đi qua, anh mỉm cười gật đầu. Cô móc cạp quần nhìn nhanh xung quanh rồi ném chiếc bánh mì luộc vào lùm cây! Chờ đoàn nữ tù đi khuất, và ngó tên Công An quản giáo xem nó đứng ở đâu, tìm cơ hội ra nhặt chiếc bánh giấu ngay vào túi. Chả biết mối tình này có đi đến đâu không, nhưng chắc chắn anh bạn tù có bánh ăn mỗi ngày đỡ đói. Còn cô gái đa tình kia, chắc cũng phải có cách nào đó, để khỏi đói.
Buổi nay, tôi thấy Linh Mục Hoạt, tay ôm một bó dầy rau muống xuống khu đất gần chỗ làm. Vị Linh Mục này rất khéo tay, có nghề sửa đồng hồ, nên không phải lao động, chỉ ngồi sửa đồng hồ cho tụi Công An, toàn loại đồng hồ cà tàng từ hồi Pháp thuộc. Tên Công An Kỳ, có buổi vui miệng nói với Linh Mục Hoạt:
- Chúng tôi khổ lắm. Lương có mấy chục đồng, trừ tiền ăn còn lại khoảng 20 đồng một tháng. Năm nào, muốn mua chiếc đồng hồ phải hoản việc nghỉ phép về thăm nhà. Muốn về, khỏi mua đồng hồ. Còn “đài” và xe đạp coi như vấn đề lý tưởng, chỉ mơ ước thôi, suốt đời không hy vọng thực hiện!
- Vào ngành Công An, có khó không, cán bộ?
- Phải 3 đời bần cố, lý lịch tốt. Không có liên hệ và họ hàng với địa chủ, phong kiến, với Tây, với Nhật thuở trước. Bây giờ là “Mỹ Ngụy”. Vào Công An khó hơn đi Bộ Đội nhiều!
Tôi vừa đạp đất vừa nhìn Linh Mục Hoạt cuốc đất làm luống trồng rau muống. Tôi hỏi:
- Ông lấy giống ở đâu vậy?
- Có một bà Phước bị giam ở đây từ năm 54, bả mới quẳng sáng nay đấy! Trồng ít rau để cải thiện. Châu chấu, cào cào hết nhẵn rồi.
Nói xong ông cười, nụ cười rất hồn nhiên. Cách đây mấy hôm, không hiểu có chuyện gì với Tướng Cao, vị Linh Mục Tuyên Úy này đã có thái độ quyết liệt, nói thẳng:
- Tại sao, ông lại xuyên tạc sự thật? Ông báo cáo với cán bộ những điều tôi không làm, không nói?
Tướng Cao trả lời lạnh lùng:
- Ở đây, ai cũng có quyền báo cáo, chả riêng gì tôi!
- Đúng, báo cáo là quyền của ông, nhưng tôi chỉ mong ông đừng xuyên tạc sự thực là được. Chúng ta ở đây, mọi người đều là tù, không có Tướng Tá gì hết. Cách Mạng đã ghi trong nội quy như vậy. Ông muốn về sớm hơn anh em, ông có quyền làm tất cả những gì thuộc riêng ông thôi, đừng hại anh em, để được tha trước.
Nói xong, vị Linh Mục trẻ nay quay về phía anh em nói to:
- Phải lôi rắn ra khỏi hang mà đánh!
Câu chuyện đó rồi cũng qua đi, nhưng mọi người vẫn thắc mắc, không hiểu sao, chuyện gì xẩy ra trong buồng, tên Công An Kỳ đều biết. Mỗi sáng, khi anh em lao động ở “hiện trường”, tên Kỳ vô nói chuyện riêng với Tướng Cao nơi nhà ăn, nằm riêng biệt trên mô đất cao. Tướng Cao và một người nữa được tên Kỳ cho ở nhà, làm vệ sinh: đổ phân, quét dọn nhà tiêu, nhà ở và trông nom vườn hoa, khiêng cáng đồ ăn v v...
Tôi không có ý kiến gì, vì dù sao ông Tướng này cũng là vị chỉ huy cao cấp trong ngành tôi phục vụ. Nhưng tôi nghĩ, giá ở cương vị ông, tôi xung phong xin đi lao động dù có phải vất vả dầm mưa, dãi năng, còn hơn ở nhà làm việc nhẹ như quét dọn, bốc cứt, tuy có nhàn một chút nhưng mang tiếng.
Một buổi sáng, tôi phải đi sửa đường cùng với anh em. Quảng đường bị nước mưa ứ đọng, xe qua lại quá nhiều nên hư hỏng. Trong giờ nghỉ giải lao, tôi bỗng thấy một nữ tù trông có vẻ “trí thức” đang ngồi hái rau muống gần đó. Những lọn tóc đen lánh rũ xuống đôi vai thuôn thuôn. Chiếc áo nâu non làm tăng thêm sắc da trắng xanh, do thiếu ăn. Đôi mắt to đen nhìn sắc sảo. Mũi ngón tay thon nhỏ, thoăn thoắt bẻ những ngọn rau xếp thành từng bó. Tôi ngỏ ý xin. Cô nhìn tôi, rồi ngó xung quanh, nói khẽ:
- Không được đâu anh, con Đội Trưởng nó đứng kia kìa. Nó ác lắm, cho anh, nhỡ nó thấy, báo cáo với cán bộ, thì em chết. Nó đánh và nhốt vào phòng tối, khổ lắm!
Nghe vậy, tôi bỏ ý định xin rau, hỏi khẽ:
- Vì sao, bị đi cải tạo?
Cô gái cắm cúi vặt rau, nhưng vẫn trả lời:
- Khổ lắm, em đưoc điều vào làm ở Tòa Đại Sứ Ba Lan, nước bạn Xã Hội Chủ Nghiã anh em, vì biết Ăng Lê. Em trót yêu một sĩ quan tùy viên thuộc cơ sở đó. Em xin phép Đảng và Nhà Nước cho kết hôn. Vị sĩ quan kia cũng xin với thủ trưởng của họ như vậy. Nhưng kết quả, em bị cho nghỉ việc và bị đưa đi cải tạo, còn anh kia bị gọi về nước.
Tôi cuốc từng nhát uể oải, hình ảnh người nữ tù vì yêu bị đưa đi cải tạo, chập chờn trong đầu. Khi tôi ngưng tay cuốc nhìn về phía vườn rau, cô đã ôm bó rau xanh ngắt đầy ngực, đi đến phía cuối vườn. Tôi chợt thấy một bó nhỏ bên lề đường, chỗ tôi vừa ngồi nghỉ. Tôi biết bó rau đó, cô có nhã ý cho tôi. Gần hết giờ lao động, tôi bỏ chiếc mũ xuống, đến nhặt lên nhét vội vào, kẹp nách, làm ra vẻ tự nhiên chờ kẻng đi về!
Vì thiếu ăn và trời rét qua, tôi bị đau, khai bệnh.
Tôi và 5 nguời khác ôm sổ xuống bệnh xá ở gần nhà bếp. Chúng tôi ngồi chờ ở ngoài sân từ sớm. Gió thổi cắt ruột. Mặt mũi ngươi nào cũng xanh lè. Một tên “tu-bíp” của mình trước 75, mặt lạnh lùng nhìn chúng tôi. Hắn nhìn sổ bệnh, tưởng gọi vào khám, ai ngờ hắn không nói gì. Lát sau, có một tên béo tốt, chiếc ống nghe đeo lòng thòng trước ngực ra dáng bác sĩ. Tôi nghe anh em nói, nó là y tá, tên Mìn, tù hình sự, đã ăn cắp thuốc của Nhà Nước đem bán nên bị bắt. Nó được tụi Công An tín nhiệm giao việc khám bệnh cho tù. Và Hiệp, Bác sĩ quân y ở Cần Thơ phụ tá cho nó. Vừa nhìn thấy chúng tôi, nó trừng mắt:
- Khám bệnh gì mà đông như đi chợ thế này, ông lại cho đi lao động hết bây giờ!
Nói xong nó đi thẳng vô nhà khám bệnh. Chúng tôi uất ức lắm, nhưng không làm gì được, trong khi đó Hiệp lăng xăng, khúm núm “Thưa bác sĩ” ngon ơ! Tên Mìn cho lệnh Hiệp chích cho người này, cho người kia uống thuốc như nó là bác sĩ chính cống và Hiệp là Y tá. Trường hợp này tôi nhớ đến “tu-bíp” Tín ở Long Giao trong những ngày đầu cải tạo, nhưng Tín “tư cách” hơn nhiều!
Tôi được nghỉ một ngày và lãnh 4 viên thuốc cảm. Nhìn anh em khác, có người buổi chiều phải đi lao động! Cái cảnh khám bệnh như vậy nó khốn nạn quá, mất nhân phẩm quá, nên cùng lắm mới khai bệnh.
Sau khi tự tử không chết, thân xác tôi mỏi mòn dần, lại thiếu dinh dưỡng, lao động khổ sai, nên dễ nhuốm bịnh. Tuy không muốn, nhưng tôi vẫn phải đi khám, vì không cách nào khác hơn. Tên Công An Kỳ xuống tận phong khám bệnh hỏi về bệnh trạng của tôi. Một hôm Hiệp cho biết:
- Anh khám bệnh, nghỉ nhiều qua, cán bộ buồng đã lưu ý chúng tôi và cả anh nữa, lần sau sẽ khám kỹ và vấn đề cho nghỉ lao động hay không tùy cán bộ buồng!
Tôi cãi lại:
- Ông nói hay nhỉ! Tôi đau mới phải đi khám bệnh chứ? Tôi có bệnh hay không, ông là chuyên môn phải biết, chứ can hệ gì đến cán bộ buồng?
- Tôi chỉ nhận được lệnh như thế, nên cho anh biết để dè chừng.
Hiệp nói lạnh lùng. Tôi ngẫm nghĩ, rồi chửi thề:
- Đù mẹ, tinh thần như vậy làm đéo gì chẳng thua!
... Tết gần đến, nhiều người nhận được quà, riêng tôi và một số ít chưa có. Theo yêu cầu của Trại, mỗi tháng tù phải làm công tác xã hội chủ nghĩa hai buổi sáng chủ nhật. Sáng chủ nhật vừa qua đã lao động, nên tuần này được nghỉ. “Lao động xã hội chủ nghĩa” cũng có cái lợi, được ăn một chén chè nấu mật. Lúc trước, nhiều người chưa có quà, thèm đường nên mong được đi lao động xã hội chủ nghiã!
Sáng nay, anh em có phần hứng khởi hơn các buổi sáng chủ nhật khác, vì sẽ được xử dụng gói quà mình có. Cửa “chuồng” vừa mở, mọi người xếp hàng hai đi ra cho tên Công An điểm số. Sau khi tan hàng, một số ùa đến phía bếp, nơi có chiếc chảo lớn. Vì nhà bếp không phát nước ngày chủ nhật nên anh em phải tự thực hiện. Vấn đề đun nước ngày chủ nhật, luân phiên theo Tổ trực. Trại cấp cho chiếc chảo lớn, củi tự kiếm đem về đun. Trên nguyên tắc, Trại cấm đun nấu riêng, nhưng lợi dụng việc đun nước, anh em có thể đun nấu bằng gô, ghé xung quanh chảo nước. Nào mì ăn liền, nào bột, nào đường được biến chế thành món ăn, mời mọc nhau theo từng “băng”. Tôi không ở “băng” nào, nên chờ nước sôi múc uống cho no.
Trong những ngày tháng sống tại Trại Cải Tạo Trung Ương số 1, tôi có mang ơn hai nguời, đã giúp tôi ít nhiều để qua cơn đói. Cả hai người đó, tôi không quen từ trước: một ông Tòa ở Nha Trang, còn người nữa, công chức. Một buổi, tôi đang đứng lớ ngớ chờ cơm, một người đến bên hỏi, tôi có phải họa sĩ kiêm nhà văn không? Tôi nói đúng. Anh ta nắm chặt tay tôi nói:
- Hân hạnh, nghe tiếng lâu lăm, nay mới được gặp. Nếu không ở tù, chắc gì?
Tôi cười cười như mọi khi, mỗi lần nghe câu đó.. Nhưng một buổi, đang ngồi chờ đi lao động, tôi nhìn thấy anh đứng trong lối đi nhỏ, dẫn tới các buồng tù phía trong. Anh gật gật đầu như gọi. Tôi tìm cách băng qua. Vừa đến nơi, anh dúi cho nửa chiếc bánh mì luộc. Mừng quá, tôi quên cả cám ơn vội giấu vào túi, đi nhanh ra nơi tập họp. Từ hôm ấy, nhìn thấy anh, tôi cố tìm cách đi qua để lấy khi bánh, khi bắp, khi khoai, sắn. Theo lời anh dặn, nếu buổi nào không nhìn thấy, cứ vào buồng anh ở, anh để sẵn, có người sẽ đưa.
Một sáng, không nhìn thấy anh, ngại quá, định không sang, nhưng cơn đói giục giã, bụng dạ cồn cào, nên lại đi vào lối hẹp đến buồng anh ở.
Một anh đang quét sân, nhìn thấy tôi, nở nụ cười:
- À, Đ. có dặn, nếu anh đến, xin lỗi giùm, bữa nay không tiện. Nhưng tôi có đây, anh dùng tạm vậy.
Tôi ngẩn người, nhìn thấy chiếc bánh mì luộc còn nguyên tròn bằng chiếc đĩa, mập ú! Tuy thèm lắm, vì tự ái tôi từ chối, nhưng anh nhất định cứ dúi vào tay, buộc phải cầm và nói, anh Đ. sẽ đưa trả sau, ngại gì? Tôi đút chiếc bánh vào túi. Túi áo quá bé không vừa, tôi giắt vào cạp quần đi nhanh ra vừa đúng lúc tên Công An gọi Đội đi lao động! Sau hỏi, tôi biết, anh tên Danh.
Nhưng từ đó tôi nhất định không gặp Đ. nữa, vì thấy phiền quá. Cái bánh, củ khoai mà Đ. cho tôi cũng là ăn bớt phần của anh em, tuy nó chẳng đáng gì, nhưng trong lòng tôi vẫn áy náy. Thấy lâu tôi không đến, mỗi ngày Đ. gửi nửa chiếc bánh cho anh bạn cùng buồng ở nhà chuyên gánh nước,. Anh này chia lại cho tôi một nửa, tức 1/4. Để chấm dứt sự xin ăn lén lút, tôi làm một bài thơ tạ ơn Danh và Đ. Từ đó, tôi lại đói dài dài!...
Trong các “băng” ăn uống sáng nay, tôi thấy Linh Mục Cường, vị “Linh Mục bụi đời” đang lùa những sợi mì vàng óng nóng hổi vô miệng. Mỗi khi được ăn một bữa no, vị Linh Mục này thường cười nói:
- Bây giờ ta có thể một tay, nâng bổng trái đất. Linh Mục cũng là người mà.
Đợi lúc rảnh rỗi, tôi và vị Linh Mục trẻ tuổi thường hay bàn luận, tâm sự.
- Tôi không hiểu vì sao, lại trở thành Linh Mục? Có lẽ, theo ý muốn của gia đình. Nhà tôi có đồn điền cà phê hằng năm thu hoạch rất lớn. Tôi được gởi vào tu viện từ hồi nhỏ. Sau những năm dài theo học, còn năm cuối, theo luật Công giáo, tôi có một thời gian để suy nghĩ. Sau đó, một là xin xuất để vào đời, hai là học tiếp để được tấn phong Linh Mục. Trong 12 tháng suy nghĩ, tôi cảm thấy cuộc đời vui hơn, có nhiều điều kiện hoạt động, tôi nhất định xin xuất. Nhưng khi vừa có ý định ấy, ông Cha linh hồn đã thuyết phục được, nên tôi lại tình nguyện học tiếp để có ngày hôm nay. Tôi đã là Tuyên Úy Công giáo được 5 năm. Tôi thích uống uýt-ki và nhậu. Những cái đó, luật Công giáo không cấm.
Tôi định hỏi “Còn vấn đề đàn bà thì sao?” Nhưng nghĩ lại, thấy sỗ sàng quá, nên thôi!
Đêm Noël vừa qua, khi cửa “chuồng” đã khóa, tôi thấy 6 vị linh muc trẻ, ngồi tụ tập bàn luận và cầu kinh lầm rầm đến quá khuya. Sáu vị ngồi như sáu cây cột quây tròn, ở giữa có một chiếc chậu sắt thường dùng đựng cơm của nhà bếp để đầy món ăn, nhưng chắc chắn không có rượu lễ và gà tây!...
Để tránh mặc cảm, tôi qua buồng bên thăm Thanh Tâm Tuyền. Chúng tôi mới gặp nhau cách đây ít hôm, tuy ở sát vách. Trước đó, tôi nghe nói có Tuyền ở đây, không tìm ra, tuy Đội tôi và Đội Tuyền ngồi sát bên nhau. Từ ngày đi cải tạo, thân xác mỗi người đều đổi thay và áo quần lao động tơi tả, rách rưới, nhơ nhớp. Người nào cũng chụp mũ xuống gần nửa mặt để không muốn nhìn ai, và cũng chẳng muốn ai nhìn mình. Một buổi chúng tôi nhận ra nhau. Tuyền mở to mắt nhìn hỏi:
- Ông đó hả?
- Còn ông đó ư?
Chúng tôi cùng phá lên cười. Anh em xung quanh không hiểu gì, sững nhìn. Đội tôi bị gọi đi lao động. Tôi đứng lên, nói với Tuyền, mai sẽ ngồi đúng chỗ này để nói chuyện. Từ đó, chúng tôi mới đỡ cô đơn vì còn có nhau để tâm sự. Tuyền vốn ít nói, nhưng mỗi lời nói rất chắc, cũng như anh viết văn hay làm thơ. Tuyền dặn nhỏ tôi:
- Cậu ạ! đừng gọi biệt hiệu, sợ tụi nó biết, gọi mình là Tâm nhé!
Tôi cười dí dỏm:
- Cậu đánh giá tụi nó kém quá thế sao?
Tuyền vốn có bệnh trĩ, nên thường được nghỉ ở nhà làm việc nhẹ. Còn tôi, đã chán việc khai bệnh vì quá nhục nhã, nên thà lao động còn hơn, bởi vậy vấn đề gặp nhau cũng thất thường.
Sáng nay, tôi sang thăm Tuyền vì thấy cửa mở.
Vừa sang đến nơi, Tuyền đã cười khà khà:
- Chiều qua, nhớ cậu, làm được mấy câu thơ đây.
- Đâu, đọc lên nghe. Nhưng còn thuốc lào không?
- Để đi xin.
Tuyền định đi thì Trung, Đội Trưởng của Tuyền nhanh nhẹn đứng lên, đi xin thuốc giùm. Trung mang về một dúm thuốc “3 số 8” thơm phức. Tuyền nói với Trung
- Ông xin đâu hay thế?
- Ô thiếu gì, anh em mới nhận được quà mà!
Tôi vê thuốc cho vào nõ, châm lửa rít một hơi dài, thở khói xanh um, cả người bần thần ngây ngất vì đã lâu mới được điếu thuốc ngon. Tôi đưa điếu cho Tuyền. Nhồi thuốc xong, Tuyền cũng kéo hơi dài, thật dài nuốt luôn khói. Đôi mắt Tuyền lờ đờ như đắm chìm vào chuyến viễn mơ! Sau khi hả cơn say, Tuyền đọc:
Chờ cơm ôm bụng lép trên giường
Muốn sang thăm bạn cửa gài then
Chiều đổ cơn mưa, trời sập tối
Buông sách ngồi lên, ngó trống không!
Tôi nói với Tuyền:
- Đời chúng mình lúc này chẳng có gì để nhìn ngắm. Sau hơn hai năm bị đầy ải, miệng lưỡi đã tê mùi tân khổ, còn gì để ngóng đợi? Ba chữ “ngó trống không” nó cho tôi nhìn thấy hư vô, nhìn thấy cái cõi “Bất khả tư nghị” của Chân Như. Nó thâu tóm được biết bao nhiêu hình ảnh của kiếp sống phù du, công danh và sự nghiệp nào đó, mũ mãng cân đai nào đó, cũng chỉ là hư ảnh, có đúng vậy không cậu?
- Vì thế tôi mới tặng riêng cậu 4 câu thơ đó!
Tôi đi về vì sợ cửa bị khóa trái bất ngờ. Tôi cầm mẩu giấy có 4 câu thơ trong tay như giữ một kỷ niệm vô cùng thân mến!
Bị cơn đói hành hạ mỗi ngày một chút, lâu dần thanh thiếu hụt to lớn, làm con người muốn làm gì cũng không quên được nó. Hỡi những ai có may mắn chưa biết đói là gì, xin chớ khinh mạn cái đói của kẻ khác. Miếng ăn, miếng nhục, nhưng không có miếng ăn, còn nhục hơn. Vì miếng ăn, giá trị con người đã hạ thấp hơn hàng súc vật. Người đánh chó tranh xương! Người liếm thừa chó! Người ăn rắn, rết, cóc, nhái, người ăn cỏ luộc! Người làm đủ thứ, ăn đủ mọi loài để làm yên chiếc bao tử bé bằng bàn tay, nhưng lại có sức tiêu thụ vô biên! Trước cơn đói, con người không còn nghĩ gì khác ngoài miếng ăn. Bao nhiêu mưu tính để trốn Trại, vượt qua bao nhiêu nguy hiểm trước họng súng canh giữ của kẻ thù, chỉ vì đói phải tìm ăn, đến nổi bị bắt lại, cái đói quả thực ghê gớm! Cộng Sản đã dùng chính sách “nắm bao tử” để cai trị 25 triệu dân miền Bắc mấy chục năm qua. Nay chiến thắng thì chúng lại dùng để cai trị, áp đảo tù, những kẻ thua trận! “Ăn không đủ no, đói không đủ chết”quả là một tính toán vô cùng thâm độc, vô cùng dã man! Nếu người tù dưới chế độ Xô Viết bị đầy đi Tây Bá Lợi Á, phải ăn bánh mì đen, mút xương cá, nghĩ cho cùng, vẫn còn hơn những người tù chính trị là chúng tôi ở giai đoạn khốn khổ này. Chúng tôi không những mút xương cá mà nhai biến luôn, nuốt vô bụng, như ăn cóc nhái, côn trùng và cỏ vậy!
Về đến buồng, cáng cơm đã khiêng đến. Vẫn những chiếc bánh mì luộc quen thuộc, những hình dạng khác nhau. Do đó, sau khi bánh được chia cho Tổ 6 người, anh em có ý kiến nên quay số hoặc bắt thăm cho công bằng vì mọi người đều đói, ai may được cái to một chút, ai rủi lấy cái nhỏ! Việc bắt thăm được thực hiện bằng 6 chiếc que, có đánh đấu từ 1 đến 6. Mỗi người mang một con số. Một chiếc bánh được đánh dấu bằng cách đặt chiếc muỗng hay vật gì đó lên trên. Nếu thăm được rút ra có số 3, anh mang số 3 lấy trước cái bánh đã đánh dấu, sau đó, anh số 4 và tuần tự theo chiều kim đồng hồ, anh số 2 lấy sau cùng. Còn quay số cũng na ná như vậy, nhưng phải nhờ người ở xa cho một con số từ 1 đến 6. Anh kia hô: số 5, tức người mang số 5 lấy trước rồi tuần tự như rút thăm. Còn rau không đến nổi. Anh em tùy tiện. Phần nhiều là rau cải hay rau muống dai như chão rách, nhưng có nó, cũng đỡ đói phần nào! Qua sự kiện này, tôi hồi tưởng, xưa kia, những anh em có mặt nơi đây, ít nhiều cũng đã đi ngoại quốc, có tham dự nhiều buổi tiệc tùng thừa mứa thức ăn, nhiều khi đến món sau cùng thường là món mì hấp thập cẩm, mỗi người chỉ gắp vài sợi lấy lệ, đĩa mì ngon như vậy, chả ai thèm ăn vì đã quá no!
Nhiều lúc quẫn trí, nghĩ lẩm cẩm, có lẽ đây là sự phán xét cuối cùng của Thượng đế chăng?
Trời hôm nay nắng hanh, không rét bao nhiêu. Nhiều người ăn xong ngồi phơi nắng bắt rận, có người ngồi bóc vảy ghẻ. Vài người tắm bên chiếc bể lớn dội nước ào ào. Chiếc máy bơm nước bị hư nên nước rất hiếm. Các buồng đều cắt người ở nhà chuyên gánh nước cho anh em đi lao động dùng. Trong ngày nghỉ muốn tắm, tự mình mang nước từ giếng nhà bếp lên. Sự dùng cũng rất hạn chế. Tôi nghe nói, toán tháo ống lớn ra sửa, trong ống chuột chết đầy làm nghẹt. Tôi rùng mình khi nghĩ trước đây, mình vẫn dùng nước chuột chết để đánh răng, rửa mặt và đun nấu khi cần! Quần áo bẩn muốn giặt, phải mang xuống giếng nhà bếp xin nước. Giếng rất sâu, có “2 lực sĩ tù” thay nhau gầu nước làm cơm, nên có xin được một thùng cũng không dễ dàng!
Ngày áp Tết, Tuyền nhận được gói quà, mang cho tôi mấy chiếc kẹo:
- Các cháu biếu bác đó!
Tới hôm nay tôi vẫn chưa nhận được gì, Tết này đành suông vậy! Cũng may, có một tên Công An gả chồng cho em gái, nhờ tôi vẽ tấm bảng Song Hỷ, có đôi chim bồ câu ngậm dải lụa vàng bên dưới có lẵng hoa, trông thật quê mùa, thế mà anh ta thích lắm. Sau khi nhận, tặng tôi một gói thuốc lào An Thái, hai trái su hào to và một hũ mật nhỏ. Nhưng thuốc lào An Thái hút nhạt phèo, tôi không thích, chỉ có hũ mật là đáng giá. Nếu có bột mì, tôi sẽ nấu một gô chè mời Tuyền cùng ăn. Tháng trước đây, tên cán bộ giáo dục có bảo tôi vẽ cho Trại một tấm tranh cổ động, theo mẩu đã in trên tờ báo Nhân Dân. Tấm tranh đó to bằng 2 chiếc mền đắp. Vẽ bằng bột mầu. Tôi xin bột mì để nấu thành hồ pha vẽ. Tên cán bộ ký giấy cho tôi xuống kho hậu cần lấy. Tôi xuống kho. Tên Công An hậu cần bảo đến nhà bếp. Tôi xuống bếp. Bếp Trưởng bảo tôi lấy bao nhiêu tùy ý! Tôi nhồi đầy một túi nylon. Số bột mì thay vì khuấy thành hồ để vẽ, đói quá, tôi nấu ăn luôn, vẽ bằng nước lã. Qua một cơn mưa, bột mầu trôi hết, bức vẽ trở lại mầu mền cũ.
Trong những ngày dài đói khổ tại Lào Cai, tôi lao động gần hai người tù hình sự trẻ. Một anh can tội hiếp dâm bị kết án 20 năm, một anh can tội “buôn chui” bị bắt, án 15 năm. Họ được hưởng quy chế tự giác, có nhiệm vụ coi gác lò gạch. Cả hai đều đã ở quá nửa thời gian bản án. Vì được tự do tương đối, nên họ dễ kiếm thức ăn, nào khoai sắn, nào rau đậu linh tinh. Thấy tôi gầy yếu quá, một trong hai anh, tự nhiên cho tôi chiếc bánh lá. Khi tôi đang ăn, tên Công An Kỳ xộc tới. Hắn không nói gì. Lát sau, hắn gọi tên tù hình sự lên chỗ làm việc, ở trên đồi, ra lệnh từ nay không được cho tôi ăn nữa, như thế là “sai chính sách của Đảng và Nhà Nước!”. Tuy vậy, thỉnh thoảng họ vẫn lén lút cho tôi vài khúc khoai mì. Tôi lén mang xuống bếp đun nước, nướng nhờ, nhiều lúc tên Kỳ coi kỹ quá, không lấy ra kịp, khúc sắn cháy thanh than!
Người tù can tội hiếp dâm, có biệt tài chỉ huy trâu. Anh ta nói với trâu, như nói với người:
- Trâu, tao bảo mày quay trái cơ mà! Quay trái!
Lạ thay đàn trâu quay trái thiệt!
- Trâu, ai bảo mày đi lối ấy, đứng lại!
Đàn trâu đứng khựng tại chỗ!
- Vào “chuồng”. Tao bảo không nghe, tao đập chết cả lũ bây giờ.
Đàn trâu lặng lẽ vô “chuồng”.
Không phải một lần, nhiều lần tôi thấy như vậy!
Bữa nay, chiều 30 Tết. Cây đào trước cổng Trại đã thấp thoáng nở hoa. Mầu hoa phơn phớt hồng làm tôi nhớ đến những cái Tết tuổi ấu thơ, khi tôi còn sống dưới mái gia đình. Năm nào bố tôi cũng mua một cành đào thật đẹp để mừng Xuân.
Mấy bữa nay, tôi được nghỉ lao động đạp đất để lo trang hoàng buồng trong dịp Tết. Tôi trang trí hai cành đào trên hai chiếc cột ngoài hiên, vẽ chiếc đầu ngựa tượng trưng cho năm Ngọ. Tôi làm một công việc có tính cách trẻ con, nhưng nhờ nó, tôi được ở nhà để thân xác nghỉ ngơi ít hôm. Đôi chân đạp đất mấy tháng nay đã rã rời. Tôi chỉ còn là cái xác mà chưa chôn. Đã thua định mệnh một lần, nay tôi lại muốn thử lần nữa. Tôi nuôi ý định và tìm cơ hội trốn Trại. Không còn sức, kéo dài mãi cũng chẳng ích gì! Tôi không hề nói cho Tuyền biết, tôi đã tự tử một lần không chết, bây giờ lại đang tìm phương tiện giải thoát lần thứ nhì. Có sợi dây dù 20 thước đã bị tịch thu tại Trại B. Bây giờ lấy gì để xử dụng cho mục đích?
Tôi cứ quẩn quanh với ý nghĩ đó! Giữa chiều cuối năm, không nhận được tin nhà, quà bánh không có, lòng tôi buồn vô hạn! Ngày Tết ở đây cũng tổ chức những cuộc vui như đánh cờ tướng, tung “côn” (một trò chơi Xuân của ngươi dân miền núi) và các trò chơi lặt vặt khác. Bữa ăn có bánh chưng, thịt trâu, thịt heo, canh, dưa hành và cơm trắng. Cũng ăn 3 bữa chính. Ngoài ra, nghe anh em ở lâu cho biết, đúng Giao Thừa, Ban Giám Thị sẽ đến từng buồng chúc Tết tù. Đến sáng mồng 1 Tết, tù chúc lại tại Hội Trường! Có ca hát văn nghệ trong mấy ngày Xuân và múa Lân.
Mấy tối nay, buồng vui hẳn lên vì tập hát (dĩ nhiên, hát bài “Cách Mạng”!) để tham dự đêm văn nghệ được tổ chức tối mồng 3 Tết, gồm các Trại Trung Ương, Trại B và Trại Nữ. Vì không có giọng, nên tôi được miễn tập. Đói bỏ cha, lại còn hát, phải gào lên hàng tiếng đồng hồ ai chịu nổi? Trong lúc anh em tập, tôi trùm kín mền cố gắng đi vào giấc ngủ vì chỉ có giấc ngủ mới làm dịu cơn đói. Nhưng nhiều đêm, đói quá, tự nhiên cũng thức giấc. Tôi sợ những đêm như thế lắm!
Vào gần giờ lãnh cơm, Hoàng, nguời bạn trẻ mới quen mang cho một chén chè trứng và một hộp quẹt thuốc lào “3 số 8” để hút 3 ngày Tết. Từ mấy năm nay, tôi mới được ăn một chén chè ngon như vậy! Tôi cảm ơn Hoàng nồng nhiệt. Hoàng có biết vẽ chút ít, do đó anh mến tôi.
Buổi chiều 30 Tết trời xám nặng mầu chì, trông u uất, nhưng không mưa. Gió thổi căm căm. Lạnh quá, nên anh em có bao nhiêu áo đều mặc vô, trông người nào cũng béo tốt, trừ khuôn mặt.
Sau khi chia cơm xong, chúng tôi mang vô “chuồng” cất, chờ sau khi khóa cửa, sẽ ăn cho thoải mái, vì đây, bữa cơm tất niên, không thể ăn vội vàng. Mang cơm vô buồng là vi phạm nội quy, nhưng ngày Tết, Công An trực chắc cũng thông cảm. Thường ra, anh em vẫn có người vi phạm, mang cơm vô “chuồng”, nhưng ngày thường không có gì ngoài chiếc bánh luộc và chén canh rau, nay có vài ba món, khó giấu, nếu họ cố ý là khó. Lần đầu tiên, chúng tôi đã đoán đúng. Tên Công An trực chiều nay, không dòm vô “chuồng” như mọi lần. Khi nghe tiếng khóa đã đóng bên ngoài hai lần, anh em yên tâm, muốn làm gì cũng được. Chính vì thế, năm ngoái xẩy ra vụ trốn Trại ly kỳ và tức cười. Trong mấy tháng liên tiếp, hai anh tù đã có công phu khoét thủng một mảng trần nhà cầu mỗi đêm, khi mọi người ngủ hết. Khoét đến đâu, ngụy trang tới đó để tránh sự nhận biết của Công An cũng như anh em. Đúng giờ Giao Thừa, hai anh tù, ôm mỗi người chiếc túi nhỏ có đựng những thứ cần thiết cho việc trốn Trại và chiếc bánh chưng được phát hồi chiều, trèo lên lỗ hổng trên nóc cầu tiêu, gỡ ngói chui lên mái nhà. Đêm 30 trời tối như mực. Từ trên nóc nhà, hai anh loay hoay tìm cách leo xuống. Ở bốn góc Trại đều có vọng gác cao, còn thêm vọng gác trên chiếc cổng chính. Xung quanh bốn mặt tường cao ngất, nhẵn thín, đèn chiếu sáng rực. Nhưng hai anh tù cũng xuống được tới đất, tìm cách leo qua bức tường cao 5 thước. Không xong, vì đèn quá sáng, tên cảnh vệ gác trên chòi sẽ phát giác kip thời. Cứ như vậy loay hoay đến sáng, không sao ra được, hai anh bèn liều ngồi ngay ở nhà ăn, bóc bánh chưng ra ăn. Đang ăn, tên Công An trực rút then cổng đi vô để mở cửa. Hắn bỗng giật mình, khi thấy “hai ông tù” ngồi lù lù ngay nhà ăn, đang đánh chén bánh chưng. Tên Công An quát hỏi:
- Hai anh làm gì đây? vì sao có mặt ở nhà ăn giờ này?
- Dạ, chúng tôi trốn Trại!
Tên Công An trừng mắt nhìn hai người tù như nhìn hai quái vật, quên cả việc mở cửa “chuồng”, dẫn ngay hai người đi về Ban Giám Thị. Báo hại, anh em nóng ruột muốn ra khỏi “chuồng” ngày mồng 1 Tết, không được! Chờ gần 1 giờ sau cửa mới mở.
Tôi nghe chính một trong hai anh kể lại. Hai anh bị kiên giam mấy tháng trong nhà tối, sau cùng được tha với tờ khai lý lịch và kiểm điểm!
Đêm nay, cũng đêm Giao Thừa, nhưng chắc chẳng ai trốn Trại! Anh em ăn xong, ngồi tán dóc đợi Giao Thừa. Ngưòi nào nhận được bánh mứt trong gói quà, ngồi nhai nhóp nhép. Thiện, Tổ trưởng Tổ tôi, người may mắn nhận được 5 gói quà. Trước anh phục vụ tại Cục An Ninh Quân Đội và Tổng Nha Cảnh Sát. Có lúc anh thèm đường quá, khi được phát 300 gr, phần dồn lại của 3 tháng, anh đã ngồi xúc từng muỗng đường cho vô miệng, một lúc hết veo, vẫn chưa đã thèm! Anh và Kiếm (Đội trưởng cũ của tôi), thường bị gọi lên “làm việc” với “Trên” tức là bị thẩm vấn. Có lần tôi hỏi, bị khai thác những gì? Anh trả lời:
- Họ hỏi, bắt và giết bao nhiêu Cách Mạng, trong thời gian nào? Tôi nói, bắt và giết nhiều lắm, không nhớ hết!
Anh nói tỉnh bơ như nói đùa, làm tôi nghi hoặc! Còn Kiếm phải “làm việc” cả tuần. Sau tuần lễ đó, chắc vì lo nghĩ nhiều, gầy đi và bệnh luôn, phải nằm nhà.
Khi nghe pháo nổ, tôi biết đã Giao Thừa. Tôi chắp tay lên ngực lâm râm khấn vái bố mẹ đã khuất bóng, xong thầm chúc vợ con, anh em, bè bạn ở xa gặp nhiều tốt lành trong năm mới.
Những người còn thức, lại chúc nhau những câu như những năm trước:
- Chúc bác, năm nay sớm được về với bác gái và các cháu.
Có người “ba đá” nói thẳng:
- Thôi dẹp, tôi tự chúc: 15, 20 năm nữa sẽ về, hoặc bỏ xác nơi đây!
Có tiếng mở chốt cổng. Tất cả đều nhỏm đậy, kể cả những người đã ngủ. Tiếng chân dừng lại, rồi tiếng mở khóa lách cách. Hai cánh cửa “chuồng” mở tung. Tôi nhìn ra thấy ba tên Công An đội mũ lưỡi trai vành đỏ, quần áo vàng đại lễ mang quân hàm đỏ chói đứng ngay nơi cửa “chuồng”. Một tên nói:
- Năm mới, chúng tôi đại diện Ban Giám Thị đến chúc các anh một năm mới vui vẻ, học tập tốt, lao động tốt, sớm được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước!
Tiếng vỗ tay rào rào. Tôi chửi thầm: “Tiên sư tụi bay chuyên nói dối, cái nghề Công An có tử tế bao giờ?”
Đội trưởng kiêm “Chuồng trưởng” Đằng đứng lên, đại diện anh em đáp lễ. Toàn những lời giả đối! Cho đến giờ phút này, cả hai bên vẫn coi nhau như kẻ thù không đội trời chung, tuy ngoài mặt, một bên cố làm ra vẻ đại lượng; một bên, cố làm ra vẻ ngoan ngoãn, phục tùng và hối hận, ăn năn những “tội lỗi” đã làm trong 25 năm chinh chiến, máu đổ thành sông, xương cao bằng núi!
Chúc xong, một tên Công An đưa chọ Đội trưởng mấy bao thuốc lá Điện Biên, bảo phân phối cho anh em hút mừng năm mới. Sau khi chia xong, còn thừa mấy điếu, Đội trưởng đút túi. Phần “nghi lễ” đã xong. Cánh cửa lại khóa. Anh em lại hiện nguyên hình những tên tù chính trị với bản án lao động khổ sai vô thời hạn!
Sáng mồng 1, sau khi ra “chuồng”, ai nấy đều hăng hái “cải tiến” để mừng Xuân. Mấy chậu cúc nở vàng chóe, những bông hoa đủ mầu xòe cánh rực rỡ theo tiết xuân. Tôi nghĩ, tụi Công An lạ thực, khu nhà tù nào cũng có vườn hoa. Cảnh tượng gây mỉa mai hơn thưởng thức. Giữa những nỗi đau khổ của con người: nào đói khát, nào đọa đầy thân xác, trong các công tác lao động khổ sai, nào sự tù túng trói buộc làm tiêu hủy nhân phẩm, mà sao, tụi nó còn tổ chức mỗi buồng có một vườn hoa, như vườn hoa của các vị “đại trưởng giả ” khi xưa? Nhung dù sao có những bông hoa nơi đây cũng làm cảnh vật đỡ khô khan, u uất!
Trời hôm nay đẹp. Ánh nắng chiếu rọi từng tia ấm áp như để xua đuổi cái không khí ảm đạm của những ngày cuối năm. Mọi người đều cạo râu, chải đầu, ăn mặc lành lặn. Những bộ đồ lao động tạm cất vào một xó. Tôi bóc chiếc bánh chưng ăn sáng, uống nước trà phơi khô để mừng Xuân. Tôi hút thuốc lào của Hoàng cho chiều qua. Khói thuốc thứ nhất tạo cơn say đã qua rồi, nay chỉ còn chút ít khoái cảm. Tôi ngồi một mình trên bệ gạch. Xung quanh kẻ đi, người lại tấp nập, nói nói, cười cười, mời ăn, mời uống. Tôi biến thành một phiến đá vô tri giác! Chiếc loa phóng thanh, treo trên cao phát thông điệp đầu năm của Thủ tướng Phạm văn Đồng. Qua thông điệp này, tôi mới được biết, Việt Nam đã chính thức đánh Kampuchia do Pol Pot, Ieng Sary lãnh đạo. Hai đảng Cộng Sản anh em uýnh lộn cũng chỉ vì tranh chấp quyền lợi. Hồi trong Tết, tôi có nghe mấy anh tù hình sự nói cuộc chiến tranh biên giới giữa Việt Nam và Trung Cộng cũng đã xẩy ra, nhưng nhà nước ỉm đi chưa cho dân biết, sợ hoang mang! Trung Cộng với dân số gần 1 tỷ người, mỗi đứa đái một bãi, cũng đủ làm cho Việt Nam thành lụt lội!
Trong lúc rảnh rỗi, mạn đàm, ai cũng mong có chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Cộng, vì có thế, lực lượng Cộng Sản mới yếu đi, nếu có cơ hội, chúng tôi sẽ phục hồi quyền năng để giải tỏa hoàn cảnh khốn khó này. Nhưng đó chỉ là mơ ước!...
Tiếng trống múa Lân từ xa nổi lên ròn rã, dồn dập vọng đến, đưa tôi ra vùng ảo mộng! Từ ngoài ngõ Tuyền đi vô, vẫn bộ quần áo lao động, nét mặt gồ ghề, râu không cạo, đầu không chải. Tôi reo lên:
- A, năm mới, chúc cậu...
Tôi vừa nói đến đó, Tuyền đưa tay xua xua như bảo khỏi cần giả dối như vậy!
Ngồi xuống cạnh tôi, Tuyền nhìn những bông cúc đong đưa theo chiều gió, nói:
- Trời sinh ra những bông hoa đẹp cho mình ngắm, cũng như sinh ra mỹ nữ cho mình yêu, nhưng không phải cứ có hoa đẹp là phải ngắm và nơi nào có mỹ nữ là phải yêu. Như ở hoàn cảnh này chẳng hạn, hoa chẳng muốn nhìn, bây giờ ví thử có mỹ nữ đẹp như Tây Thi mời yêu cũng chịu!
Tuyền nhìn tôi như hỏi.
-Tôi cũng nghĩ như vậy đó!
- Ngồi đây buồn bỏ cha, cậu sang tôi. Có anh bạn, mời tụi mình uống cà phê và hút thuốc “3 số 8”.
Tôi đứng dậy đi sang khu Tuyền ở. Cả mấy chục cái bếp nhỏ kê bằng ngói, gạch, rải rác khắp chiếc sân rộng. Hôm nay ngày Tết, tụi Công An không vô, làm ngơ cho tù sinh hoạt thoải mái. Một người chạy ra đón chúng tôi vô nhà ăn. Trên mặt bàn, tôi thấy hộp sữa mới mở, chiếc gô đựng cà phê, chiếc điếu cầy và bịch thuốc mầu nâu sẫm. Nhìn mầu biết ngay thuốc ngon. Vừa ngồi xuống, chưa để mời, tôi đã vê thuốc nhồi vào nõ, châm lửa, đưa lên môi rít. Thuốc ngon thật, khói rất êm, say thấm thía. Biết tôi chưa nhận được quà, nên ai có gì cũng đưa mời, nào kẹo bánh, bột nấu, sau đến cà-phê sữa. Thuốc lào hút thả dàn. Tôi nghĩ, mọi việc đều có số, “nhất ẩm nhất trác, giai do tù định”. Không có quà, vẫn được ăn, uống, hút như mình có vậy. Chúng tôi ngồi nói chuyện văn học, nghệ thuật mãi tới trưa và nhắc đến số phận của Đổ Trọng Huề, trốn Trại bị bắt lại và Phạm văn Sỏn bị biệt giam ở Yên Bái cùng hơn 100 anh em làm văn nghệ ở Thủ Đô Sàigòn đã bị Cộng Sản bắt hết trong một đêm năm ngoái! Trong số đó có Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Nguyễn thị Thụy Vũ v v... Đối với những ai làm công tác văn học tức công tác tư tưởng, Cộng Sản không sao tha thứ! Cộng Sản thường rêu rao, văn hóa Miền Nam là văn hoa đồi trụy, lai căng, cần hủy diệt để xây dựng nền văn hóa vô sản phục vụ cho giai cấp công nông. Những ai bị bắt, đều bị xét nhà, tịch thu hết sách vở, cuốn nào cũng là đồi trụy, kể cả sách nghiên cứu. Trong một thư cửa vợ tôi gửi, có nói xa cho hiểu, trong đợt “kiểm kê văn hóa” tất cả sách vở trong nhà đã đem hiến cho Phường, bây giờ chỉ còn có kệ sách thôi!
Tuyền đưa tôi ra về vì cáng cơm đã khiêng tới. Tiếng trống múa Lân vẫn khua rộn rã. Buổi sáng, nó múa “chào mừng Ban Giám Thị” nơi hội trường, trong khi tù chúc mừng theo nghi thức đã ấn định, xong mới lần lượt đi múa các khu. Trại có 7 khu ngăn cách, mỗi khu có 4 buồng riêng biệt. Trong ngày mồng 1 Tết, Lân đi múa cho đủ. buồng nào cũng có “giải” cho Lân, có thể một gói bánh kẹo do anh em đóng góp, có thể một bao thuốc Điện Biện hoặc Sa-pa. Nhưng cuộc múa Lân được tổ chức chỉ nhằm vui chứ không vì giải.
Trước khi về buồng lãnh cơm, tôi ghé nhìn ra sân lớn, thấy một đám đông đứng xem đánh cờ tướng. Đám khác đang tung “côn” một quả cầu bọc vải sặc sỡ tung lên, rớt xuống giữa tiếng reo hò. Và một đám đang chơi trò nhẩy bị. Trò chơi này làm tôi nhớ đến hồi Pháp thuộc, mỗi năm đến ngày “cát-tó duy-dê” (14 Juillet) ngày kết thúc cuộc chiến Pháp Đức 1914-18 và Pháp đã thắng trận! Ngày đó, tụi thực dân Pháp cũng tổ chức nhiều trò vui như leo cột mỡ, nhẩy bị, bịt mắt tìm đồ v.v... Ai leo lên tới ngọn, muốn lấy thứ gì cũng được, nhưng chỉ được lấy một thứ thôi. Có nhiều người, xoa cát vào khắp người bám cột leo lên. Sau một hồi cố gắng, leo gần đến nơi, đuối sức lại từ từ tụt xuống, đành lắc đầu thở dài, chờ lấy lại sức leo nữa. Cứ thế, người này thay phiên người kia leo. Lâu dần cây cột hết mỡ và đồ treo cũng hết luôn. Thường thường việc này do tụi “du côn” bao giàn, ai lớ ngớ sờ vào cột, nó đánh hộc máu!
Bữa cơm sáng mồng 1, ăn vừa đủ no, thua Tết năm ngoái khi còn bị giam tại Nghiã Lộ, số lượng và chất lượng đều kém. Sau này, trải qua những cái Tết khác, tôi cho cái Tết tại Nghĩa Lộ là cái Tết “sang” nhất trong những năm bị giam cầm!
Buổi trua không ai nằm nghỉ, căn buồng ít người, rộng hẳn ra. Họ ở hết trên nhà ăn, để nói chuyện, uống nước, hút thuốc. Trời tự nhiên tắt nắng, nhưng không mưa, tuy gió thổi nhiều hơn, làm buốt giá. Mầu trời rất đặc biệt của miền Bắc mỗi độ xuân về, miền Nam tuyệt nhiên không có! Tiếng trống múa Lân, trôi dần vào hành lang hẹp. Tôi nhìn ra, chiếc đầu Lân đã dập dình ngay đầu cổng. Nó gục gặc, tiến vào. Ông Địa cầm chiếc quạt giấy phe phẩy, chiệc bụng to phình vì độn nhiều áo quần, lắc lư như muốn rơi. Đội trưởng Đằng, cầm trong tay cành tre có buộc một gói nhỏ đưa lên cao khỏi mái nhà ăn. Lân đi vào theo nhịp trống. Nó gật gật đầu sát đất chào rồi múa. Ông Địa đeo mặt nạ lúc nào cũng như cười, khuôn mặt no tròn hông hào, che lấp khuôn mặt thực sau nó. Lân múa được một lúc tự nhiên chậm dần, nhưng nhịp trống vẫn dồn dập! Qua vài điệu lên xuống, tự nhiên Lân nằm lăn quay ra đất. Ông Địa cúi xuống, quạt cho Lân tưởng như nó mệt. Quạt mãi không thấy Lân dậy, ông Địa cúi xuống nghe ngóng, bỗng ông cười sằng sặc:
- Lân đói qua, múa hết nổi rồi!...
Anh em đứng xem cười vang. Ông Địa giắt chiếc quạt vào dây lưng, cúi xuống nhắc đầu Lân lên. Anh múa Lân chắc quá đói mệt, mắt nhắm lại, nằm thở hổn hển. Đội trưởng Đằng trao giải cho ông Địa. Tiếng trống ngưng đánh. Cuộc múa Lân tan. Hai người xốc nách, dìu anh múa Lân đi về.
Thế là hết trò vui ngày mồng 1 Tết.
Bữa chiều, không có gì ngoài cơm, canh cải nấu muối. Theo thông cáo, anh em được ăn cơm trong 3 ngày. Mấy tháng ăn bột mì, nay ăn cơm với muối cũng ngon, chả cần thịt.
Ngày mồng 2 qua đi tẻ nhạt. Trời lất phất mưa phùn. Giá được tự do đi rong chơi dưới trời mưa bụi như hôm nay quả tuyệt vời! Nhưng tụ do đã mất từ lâu, an phận bị đầy ải qua những tháng năm dài gian khổ, còn gì để mơ ước?
Tối hôm mồng 3, có đêm văn nghệ. Tôi khai bệnh nằm nhà cùng nhiều anh em khác, cũng như đã nhiều lần tôi khai đau để khỏi đi xem ciné do Trại tổ chức. Những phim được chiếu phần đông của Liên Xô và các nước Cộng Sản anh em. Đôi khi phim do Cộng Sản Việt Nam sản xuất, với nội dung đề cao họ, mạt sát Quốc Gia, tức mạt sát chúng tôi. Khi mới đi tù, tôi có xem một phim thần thoại do Liên Xô sản xuất. Phim thần thoại gì mà có cả súng trường bắn đoàng đoàng? Còn ở Nghĩa Lộ, tôi cũng bị bắt buộc phải xem phim, trong lúc mình đói gần chết, phim lại chiếu toàn cảnh ăn uống, mâm cao cổ đầy, bánh trái ê hề, càng làm đói thêm. Từ đó, tôi nhất định không xem, nếu có điều kiện để từ chối! Mỗi tối có chiếu phim, ai đi thì ngồi một bên; ai không đi, ngồi một bên. Nhiều tối, số người ở nhà ngang với số người đi. Nhưng ở nhà cũng không được ngủ sớm, phải chờ anh em về. Tên Công An trực vô buồng đếm trước số người ở nhà, sau đó các người đi xem về, mới được vô.
Tối hôm nay, tôi ngủ sớm, dặn Tư, người bạn cùng ngành, khi nào anh em về, đánh thức hộ. Tư, nguyên trưởng Khối Hành Chánh nơi cơ quan tôi phục vụ trước đây. Anh, con chiên ngoan đạo. Vì lo xa, anh thường để đồ ăn “gối đầu”, nghiã là tính toán làm sao để lúc nào cũng dư một phần ăn, thay vì bữa nào xào bữa đó như tôi. Vì có sự để dành đó, nên đồ ăn không còn tốt, nhất là về mùa nóng! Vì không có hoàn cảnh nấu nướng lại ăn lâu ngày, anh bị đau ruột.
Trong buồng tôi, còn có 2 anh khỏe như voi, nhưng cứ nhất định khai đau bao tử, thỉnh thoảng trong giờ lao động lại lăn ra quằn quại, rên rĩ. Đi khám bệnh, tên Mìn và Hiệp xác nhận có đau, nên hai anh được ăn cơm mỗi ngày thay vì bánh luộc, hoặc khoai, sắn. Đôi khi thèm đường quá, có anh đem cơm đổi lấy khoai vì khoai ở Lào Cai thuộc loại khoai mật, rất ngọt. Nhưng bữa nào ăn khoai, anh em đều khóc thét vì quá ít, chưa được một phần bụng! Đã bao lần tôi thầm ước nếu được tha, đi qua Phố Lu, tôi sẽ mua 5 kí khoai, ăn cho đã những khi thèm, nhưng ước mơ đó chẳng bao giờ thực hiện được! Sau này chuyển về Ba Sao, hai anh ăn “bo bo áo giáp” như điên, vì mỗi Trại, một chế độ ẩm thực, chẳng thấy ai kêu ca đau ốm gì!
Sự thực, ở mỗi Trại tù tôi đã sống, anh em bị bệnh rất nhiều, đủ mọi loại bệnh. Khu bệnh xá tại Nghĩa Lộ gồm một dẫy nhà lá dài, lúc nào cũng đầy nhóc! Khi làm việc ở Liên Trại, ngày nào tôi cũng qua lại bốn lần. Lần nào cũng thấy những thây ma thơ thẩn vào ra! Tôi nghe nói, có anh thủ dâm sau thành bệnh hượt tinh, đủng quần lúc nào cũng ướt nhẹp. Trước kia anh “to con” khoảng 70 kí, nay chỉ còn trơ xương, mặt mày xanh lét! Bệnh tật, sống ở trong tù là đại họa. Thuốc men thiếu thốn, một cây kim chích cho cả chục người không thay, mỗi lần chỉ dùng cồn 90o lau sơ qua, chả bù với Đế quốc, mỗi lần chích xong một mũi, vứt luôn cả kim lẫn ống.
Chỉ còn đêm nay, mai chúng tôi lại phải lao động như thường lệ. Nghĩ đến những quả đất và bãi dắt trâu dầm, tôi lại rùng mình. Con trâu trốn lao động để bị làm thịt, một con trâu “mới vực” được thay thế. Con trâu này tuy trẻ, nhưng cũng khôn lắm. Khi nào mệt không muốn làm, nó nằm ngay xuống bùn, đánh thế nào, cũng không đứng. Con người cứ mắng nhau: đồ ngu như súc vật, nhưng tôi thấy câu mắng đó không đúng, phải nói lại: đồ ngu như con người! Trong đời, quả có nhiều người ngu lắm, như trường hợp một trong hai anh tù hình sự “tự giác”, người đã cho tôi chiếc bánh lá hôm nào.Tối 30 Tết, anh rủ vài “bạn tù” khác bắt trộm heo con của Trại, mang vô rừng đốt lửa quay để nhậu với rượu đế giữa đêm Giao Thừa. Lửa cháy to quá, tụi Công An vũ trang đi tuần, sợ tù chính tri trốn, chỉ không ngờ có chuyện trộm heo. Nhìn thấy lửa, tưởng cháy rừng, mò lên, bắt được trọn ổ. Từ đó, anh hết “tự giác” phải quay về Trại tù hình sự. Cũng kể từ đó, tôi không nhìn thấy anh nữa. Cái án hiếp dâm 20 năm, anh mới trả được quá nửa. Hoàng đã nói cho biết, hồi chiều qua, khi tôi sang thăm.
Buồng của Hoàng, đối diện với buồng tôi, cách nhau vài bước chân, những ngày Tết không sao, chứ ngày thường tụi Công An bắt được là có chuyện! Hoàng còn cho biết, căn buồng này đã giam các “giặc lái Mỹ” trong thời gian Mỹ ném bom miền Bắc. Hoàng chỉ cho tôi hàng chữ viết bằng tiếng Mỹ và cả những chữ ký còn hiện lờ mờ trên nắp gỗ, nơi để tư trang của mỗi người. Tôi nhìn một hàng tên: John, Robert, William, Bernard, Henry, Bob, v v...tuy thời gian có làm mờ phai nét mực! Tôi chẳng biết bây giờ họ ở đâu, họ đã được trao đổi theo Hiệp Đinh Paris năm 1972, ký kết giữa 4 bên chưa? Người nào còn sống đã trở về quê hưong bản quán, người nào đã gửi nắm xương tàn tại nơi rừng thiêng, suối độc này?
Trại Cải Tạo Trung Ương số 1, nằm trong khu lòng chão khá rộng, xung quanh toàn đồi trà và những dẫy đồi hoang vu khác. Xa hơn chút nữa, núi rừng trùng điệp. Khu có 2 Trại tù lớn, một thuộc quận Thanh Phong, một thuộc quận Xuân Phong, cơ sở hành chính là Lào Cai. Nền trời ở đây ít khi trong xanh, vòm cao lúc nào cũng đặc sệt mây. Dưới đất có rất nhiều hầm hố đào từ thời chiến tranh chống Mỹ đến nay chưa lấp. Chỉ có một con đường duy nhất để di chuyển, do đó đứng về mặt quân sự, nó là nơi hiểm yếu, dễ phòng thủ, khó tấn công. Rất thuận lợi cho việc đánh du kích nếu cần.
Tuy nằm, nhưng trong đầu tôi luôn luôn có những chuyện gì đâu làm nghĩ ngợi. Tư không phải đánh thức, tai tôi đã nghe thấy tiếng mở chốt cổng. Chúng tôi ngồi tại chỗ, chờ đợi.
Tên Công An mở khóa cửa, vô buồng đếm số người ở nhà xong hắn quay ra cho lệnh anh em vô. Lại tiếng khóa kêu lách cách quen thuộc. Chờ tên Công An cài cổng ngõ xong, anh em mới nói chuyện ào ào về chương trình văn nghệ. Họ khen ngợi một nữ tù hát hay như ca sĩ chính cống. Mấy bữa nữa, họ mời một số tù nam qua Trại nữ, tham dự Văn Nghệ. Trong số được mời có Linh Mục Cao, giỏi về nhạc lý làm quản ca Đội tôi. Vị Linh Mục này cao ráo, đẹp trai, mỗi chiều chắp tay trước ngực cầu Chúa, đi vòng quanh sân tù. Tôi nhìn Linh Mục nói đùa: “Khoái nhé! đêm nay tha hồ nằm mơ”. Ông cười:”Bác này lắm chuyện, ngủ đi! “
Hôm sau, cơ nào đội ấy lại lãnh 50gr khoai luộc, phần ăn sáng, lại mặc bộ quần áo lao động cứng như mo vì kết mồ hôi và bụi đất. Sau khi nghỉ mấy ngày, đi lao động ai cũng chán. Chiếc sân chứa gần 1000 người vẫn còn rộng. Số người chỉ ngồi hết nửa sân. Mỗi Đội lại đựợc gọi số, tuần tự đứng lên đi ra cổng đã có tên Công An vũ trang chờ sẵn. Tụi Công An vũ trang thay đổi Đội luôn, vì tụi nó cũng sợ nếu ở lâu có thể bị tù “móc nối”
Hiện trường đã ở trước mặt. Chiếc lò gạch không hoạt động nằm im lìm trơ vơ giữa khu đất mênh mông.
Những quả đất đã đạp xong, nghỉ Tết chưa dùng tới, che bằng những tấm liếp nứa dùng lâu ngày đen đúa. Những luống rau “cải thiện” đã xanh um. Chủ nhân mừng ra mặt. Mỗi ngày thu hoạch một gô,”cải thiện” đỡ đói lắm!
Vì còn nhiều đất để lại từ trong Tết, nên sáng nay chúng tôi phải chuyển gạch đã khô, vô bãi cát, chờ nung. Công việc khá nặng nhọc, mỏi cả chân lẫn tay.
Ít bữa sau vì sức yếu, tôi được chỉ định nấu nước cho anh em uống. Mỗi ngày, tôi phải xin phép tên Công An vũ trang ngồi trên chòi cao, lên đồi hái trà. Hắn cho phép với điều kiện không được đi xa, để lúc nào hắn cũng có thể nhìn thấy. Tôi lội qua dòng suối dơ dáy, chứ không đẹp và sạch như ở Nghĩa Lộ, leo lên đồi trà. Tuy bỏ hoang vì quá già, nhung vẫn hái được búp non và lá xanh vì mùa xuân có mưa phùn, thời tiết thuận lợi cho cây cỏ. Trời vẫn rét như cắt ruột, gió thổi như rứt từng mảnh thịt. Mấy bữa cơm thịt đã tiêu hóa cả rồi, nên lúc này lại đói. Tôi leo lên đồi, tai ù ù, chứng tỏ mỏi mệt. Người ta nói:”mệt bỡ hơi tai” là thế sao? Sau khi hái, được lưng nón lá, tôi quay về, lại phải nghiêm chỉnh báo cáo với tên Công An vũ trang: “Thưa cán bộ, tôi đã về!”, và lại xin đi gánh nước ở chiếc giếng dành riêng cho tụi Công An dùng. Gánh nước, tôi phải chờ một anh nữa, cùng khiêng. Tự mình phải kiếm củi, tổ chức chỗ đun. Đun xong, chia đều cho mấy chục người, cũng khá vất vả!
Việc này tôi làm chừng một tháng, bỗng một buổi tên Công An Kỳ gọi tôi lên chỗ hắn làm việc hỏi:
- Tại sao anh hái trà, lại để dành búp cho riêng anh uống, còn anh em uống lá? Có người báo cáo như vậy!
Thấy đúng quá, tôi không trả lời được, nhưng trong lòng thắc mắc, không hiểu ai đã báo cáo? Khi hái trà, tôi lấy ít búp, phơi khô để dùng, vì trót nghiện trà từ mấy chục năm, quen uống Long Tỉnh và Thiết Quan Âm. Nay đi tù không có, thèm quá, phơi ít búp uống đỡ thôi, có đáng gì đâu mà phải báo cáo? Uống trà cái kiểu đun bằng thùng sắt tây, có trà trời cũng không ngon nữa là vài cái búp? Như vầy tên Kỳ có ăng-ten, nhưng ai? Sau, tôi biết, hiện hắn vẫn còn tù! Tên Kỳ cho lệnh tôi nghỉ, cử tướng Cao thay thế! Ông Tướng này cũng nấu như tôi thôi, đun lá trà trong thùng sắt 20 lít, thế mà Đội trưởng khen: “có khác”! Tiên sư cái lưỡi!
Nhưng Tuớng Cao chỉ nấu có vài ngày, trở về buồng, làm công tác cũ.
Tôi lại đạp đất. Sao trời lạnh mãi thế này? Đói và lạnh làm người khô héo dần. Ngày tháng qua hờ hững giữa cảnh đồi núi âm u vây chặt oán thù!
Lệnh đổi tiền được loan ra. Ai có tiền Ngân cũ, mang đổi tiền mới. Tôi còn 10 đồng, nghĩ không thể đem đổi được vì nội quy đã cấm tù không được giữ tiền Ngân. Tôi xé nát vứt đi. Trong buồng, có anh tiếc của đem đổi, y như rằng, vừa mất tiền lại còn bị làm kiểm điểm nhận tội.
Trong Đội tôi, may mắn, có anh được thăm nuôi. Người mẹ già và cô em gái sau mấy chục năm, khi gặp không nhận ra nhau. Chiều hôm trước, anh đang ngồi nắm than đốt lò gạch bên lề đường, có bà cụ và cô gái gánh một gánh nặng đi ngang, dừng lại, hỏi thăm đường vào Trại.
- Thưa cụ, tìm ai trong đó?
- Tôi đến thăm nuôi đứa con tên Cát đang cải tạo.
Anh mở tròn mắt nhìn bà cụ, cô gái, rồi thét lên:
- Con đây mẹ, và cô Thủy phải không?
Hai mẹ con ôm nhau khóc. Cô gái cũng khóc luôn. Tên Kỳ nhìn thấy, đến hỏi, rồi đưa bà cụ cùng cô gái đi ngược lên, nơi căn nhà dành cho thân nhân những người cải tạo, sau lùm cây soan. Anh là người được thăm nuôi đầu tiên, cũng là người cuối cùng, từ lúc đến đây tới khi rời Trại. Tôi cảm phục bà mẹ và cô gái, vì tình thương con, thương anh đã mất bao nhiêu thì giờ để xin được cái giấy phép và cố lặn lội tìm đến nơi đèo heo hút gió này để thăm nuôi đứa con, người anh đã thuộc thành phần phản động, đối tượng chính trị nguy hiểm của chế độ Xã Hội Chủ Nghiã.
Anh Cát, người lùn mập vẫn tự nhận mình là hề Thanh Việt nhưng anh khôi hài rất vô duyên. Tuy biết trước nhưng sáng hôm sau, anh vẫn ngồi tập họp chờ đi lao động. Tên Công An trực gọi tên anh, được thăm nuôi. Gần 1000 cái đầu quay về phía Đội tôi ngồi, vì có người vừa đứng lên ra khỏi hàng. Chừng một giờ sau, khi chúng tôi đang lao động, nhìn ra phía đường, thấy Cát ăn mặc chỉnh tề đi theo tên Công An về phía nhà thăm nuôi!
Quanh đi quẩn lại một lúc đã thấy anh về, khệ nệ khiêng một bao tải đầy. Tên Công An đi sau, hai tay khoanh sau lưng. Chao ôi! đi bao nhiêu dậm đường, sau mấy chục năm xa cách, mà buổi gặp gỡ thâm tình phút chốc đã phải chia tay! Buồn thật! Tôi nhìn anh lê những bước chậm chậm một phần đồ nặng, một phần chắc trong lòng còn nhiều vương vấn! Một tiếng nói cất lên đâu đó.
- Thế là no rồi!...
Buổi trưa lao động về, thấy anh đang soạn quà. Hàng đống bánh chưng cùng nhiều gói khác bầy đầy chỗ nằm còn lan sang bên cạnh. Bữa trưa, anh biếu phần ăn cho người nằm kế bên. Anh này mừng húm. Thấy anh có quà, vài người tò mò nhòm ngó, thèm thuồng, nhưng trong hoàn cảnh này, ai có nấy hưởng, có nhòm chỉ thêm khổ, chẳng ích lợi gì?
Trong bữa cơm chiều, anh em vô cùng ngạc nhiên khi thấy Cát tặng mỗi Tổ một chiếc bánh chưng. Tất cả đều vui vẻ, khen nức nở. Sau khi cho xong, anh nói:
- Tôi biết, có thể bán, có thể đổi, có thể cho vay, để khi cần đòi lại, nhưng không làm vậy! Tôi muốn, anh em cùng vui với tôi hôm nay!
Tiếng vỗ tay ào ào. Chiếc bánh chưng được bóc ngay chia đều. Miếng bánh tuy nhỏ nhưng ngon vô cùng. Đúng mùi bánh chưng, chứ không như chiếc bánh Trại phát hồi Tết, có chiếc sống nhăn, có chiếc không nhân, không thịt, vì bị anh em “làm góp” đã thuồn thịt và đậu vào những chiếc vớ len dài của quân đội, lén mang về dùng riêng. Khi phát giác được, đã mất một số đậu, thịt lợn. Chính vì chuyện ăn cắp này xẩy ra nên buổi sáng thứ hai vừa qua, tên Công An giáo dục đã gay gắt xỉ vả thậm tệ toàn Trại. Hắn chống tay vào mặt bàn nói:
- Khi chúng tôi nhận được tin các anh sắp đến Trại, chúng tôi đã chuẩn bị chu đáo để đón tiếp xứng đáng với cương vị các anh lúc trước. Nhưng sau một thời gian sống gần để tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy, các anh không xứng đáng với cách đối xử của chúng tôi. Các anh làm những điều không tốt đẹp như ăn cắp của nhau, của Trại. Các anh đói ư? Chúng tôi trong mấy chục năm chống Mỹ cứu nước cũng đói lắm, sao chúng tôi không làm vậy? Bây giờ các anh mới chịu thiếu thốn ít năm đã không chịu nổi, làm những chuyện đê hèn, vì thế, hôm nay tôi nói thẳng: Tôi khinh bỉ các anh!
Nói xong hắn lạnh lùng nhìn khắp lượt. Gần 1000 con người không ai có phản ứng. Trong số hiện diện tại đây, có người đến trước, có người đến sau. Nhưng người ở lâu nhất, chưa tới hai năm. Nghị sĩ có, Dân biểu có, cả ông Chủ Tịch Nghiệp Đoàn Ký giả đã mang bị gậy đi ăn mày chung quanh chợ Sàigòn, làm nhục chính phủ và cũng đóng góp một phần vào sự sụp đổ của miền Nam sau này. Có từ anh Trung sĩ tới ông Đại tá. Đau vô cùng nhưng phải chấp nhận, vì đúng thôi.
Chắc nói đã hả, hắn lui ra, nhường chỗ cho tên Công An trực gọi các Đội đi lao động.
Tối hôm đó, anh Cát còn mời mọi người hút thuốc lào Tiên Lãng. Nhưng chỉ hơn một tháng, chính anh Cát lại đi lượm vỏ khoai lang để ăn cho đỡ đói. Qua năm sau, sống ở Trại Nam Hà trong dẫy núi Chiné, anh đau ốm phải đưa ra Trại Mể, thuộc tỉnh Hà Nam để chữa bệnh đau ruột, nhưng anh đã trút hơi thở cuối cùng tại đó. Trường hợp của Cát y hệt trường hợp của Tư, cũng đã mất tại Lào Cai vào khoảng tháng 4 năm 1978, sau hơn một tháng nằm bệnh. Người ta chở xác Tư vào ban đêm, khi các cửa buồng đã khóa, trên chiếc xe bò, đem chôn sau quả đồi, cách xa Trại khoảng 2 cây số! Tôi được nghe nói lại như vậy.
Trong buồng tôi còn có Hy, không hiểu anh có tội gì nặng với Cách Mạng cũng lẻo đẻo đi theo chúng tôi từ Trại này qua Trại khác. Khi ở Nghĩa Lộ, anh khá mạnh, gánh 20 kilô rau từ dưới suối lên đỉnh đồi, qua khu hậu cần coi như không. Nhưng nay anh bị phù, người chương lên, chân đi không vững. Anh được tên Mìn cho nghỉ lao động và ăn lạt. Mỗi bữa anh được nhà bếp cho một chén nhỏ mật mía. Mật ở đây rất nhiều vì gần Trại, có cơ sở nấu đường. Ruộng mía bạt ngàn. Nhưng tuy đường nhiều như vậy, chúng tôi vẫn thiếu đường. Có tháng phát 100gr, tháng không có. Đôi khi, mấy tháng được “ráp pen”, mấy trăm gram. Mỗi tháng, chúng tôi được nhà nước cho 3 đồng tiêu vặt, cũng chẳng thấy đâu! Thuốc lào, thuốc lá, kem đánh răng, mọi thứ đều không có, nhưng chẳng ai dám thắc mắc? Khi còn ở Nghĩa Lộ, có người đã nêu lên vấn đề, số tiền hơn 12 ngàn đồng góp tại Don Bosco trong ngày đầu trình diện, mới chỉ được ăn vài bữa, nay xin hoãn lại số dư. Tên Trại trưởng nói:
- A, a, vấn đề này các anh không nên đặt ra. “Trên” sẽ giải quyết.
Chờ mấy năm nay, chả thấy ai giải quyết. Thế mà mỗi khi chửi chúng tôi, tụi Cộng Sản cho rằng họ trong sạch, không tham nhũng! Qua những trại tù, tôi nhận thấy tụi Cộng Sản là “vua tham nhũng” chúng ăn chặn lương thực cũng như thực phẩm làm tù đã đói, lại đói thêm.
Anh Hy thèm thịt quá năn nỉ tôi bữa nào có thịt trâu đổi cho anh, tôi lấy chén mật bữa đó. Vì không ăn được thịt trâu, tôi hoan hỉ nhận lời. Có lẽ, một phần vì đó, bệnh của anh không bớt. Trên một năm sau khi chuyển về trại Nam Hà, anh cũng được đưa ra Trại Mể để chữa trị, nhưng định mệnh buộc anh phải giã từ cuộc sống, giã từ vợ con và “người tình” vĩnh viễn.
Tuy đã cuối tháng hai, tiết trời vẫn lạnh. Mưa gió dầm dề. Ban Giám Thị tổ chức học tập chính trị, cán bộ từ Trung Ương gửi lên để hướng dẫn. Số học viên được chọn lựa chừng 200 người. Trong thời gian học tập, các học viên được bồi dưỡng trứng, thịt và đường. Ngày khai giảng, chúng tôi tuy không được “hân hạnh” tham dự khóa học, nhưng mỗi người cũng được một trứng vịt. Trong giờ lao động, căn nhà ăn của mỗi buồng, được dùng làm lớp học. Mỗi toán, do một tên Công An đặc trách trông coi suốt 7 giờ mỗi ngày. Sáng 4, chiều 3. Nội dung bài học cũng là Bản Tự Khai, nhưng tỉ mỉ hơn nhiều, viết lại cả đời người từ năm lên 6 tuổi tới ngày 30-4-1975. Trời rét, tay tê cóng, vẫn phải viết. Mỗi ngày, viết xong bản nháp đưa nộp hết cho tên Công An phụ trách. Hắn mang về đọc sáng mai phê bình. Chỗ nào chưa sát, thiếu thành khẩn, viết lại. Viết xong, lại nộp. Khi viết xong, có bản dầy tới 2,3 trăm trang như một cuốn tiểu thuyết. Các “học viên” phải nộp cả bản nháp lẫn bản chính. Tôi rùng mình, lo sợ ngày nào đến phiên mình phải học tập kiểu này. Khi ở Long Giao, chúng tôi đã làm, nhưng so với bản “Tiểu Sử Lý Lịch” này, nó không thấm vào đâu. Người khai phải viết hết từng ngày, từng tháng, từng năm các công việc đã trải qua. Liên hệ gia đình, ông bà, bố mẹ, nội ngoại, vợ con, anh em, con cháu, họ hàng ngang dọc, làm nghề gì, còn sống hay chết, tham gia đảng phái nào? Thầy học, bạn bè, trưởng lớp. Ai chỉ huy mình, mình chỉ huy ai, cố vấn tên gì? Tham dự bao nhiêu chiến dịch và trận đánh? Bao nhiêu huy chương, vì sao thăng cấp? Giết bao nhiều quân Cách Mạng, ở đâu? Đi nước ngoài bao nhiêu lần? Học những gì? v.v...
Bản tiểu sử chia làm nhiều đề mục. Mỗi đề mục, một vấn đề nhất định, không thể thiếu sót. Có muốn bỏ bớt cũng không được. Có những vị Đại tá đã về hưu từ lâu, nay đi học tập, phải khai khoảng 60 năm dằng dặc! Chao ôi! 60 năm, một đời người được kể lại chi tiết trong mấy trăm trang giấy! Những người học tập, tuy được ăn bồi dưỡng, không phải lao động dầm nắng dãi mưa, nhưng ai nấy đều bơ phờ, gầy rạc hẳn đi. Mỗi sáng, chiều khi đi lao động tôi đều nhìn thấy họ ôm một xấp giấy đi vô các buồng, có tên Công An theo sau. Trong lòng tôi, thấy bồn chồn, tức tối, uất hận! Tôi nghĩ rồi đây, các tập “tiểu sử” đó sẽ được tụi Công An chuyên môn tra cứu, tìm hiểu, đánh giá và các con cháu của người khai, nếu chưa “chui” ra ngoại quốc được, sẽ chịu ảnh hưởng ít nhất, cũng ba đời...
Bữa nay, chúng tôi lại làm công tác sửa đường.
Cái cảnh nữ tù diễn hành mỗi sáng vẫn xẩy ra như thường lệ. Nhìn mãi hóa nhàm! Chiếc bánh từ lâu không được vứt vào bụi cây nữa, chắc lúc này khó khăn, cô gái không còn khả năng, tuy họ vẫn cười suông với nhau mỗi buổi. Nhưng anh kia đã có một luống “cải thiện” nên cũng đỡ. Đoạn đường sửa ở phía trên Trại nữ tù. Khi chúng tôi đi ngang qua đó, thấy một cô gái, xỏa tóc ngồi bên gốc chuối, khóc tỉ tê mồm nói lải nhải:
- Tại sao ông đánh tôi. Tôi là con gái mà, tôi có tội mới phải đi cải tạo để ông giáo dục chứ? Nếu tôi có lầm lỗi, ông dạy bảo, chứ sao ông lại đấm đá tôi? Tụi nó cởi truồng tắm không sao? Tôi tắm truồng ông lại bắt lỗi, vì không có quần áo thay, tôi mới tắm truồng chứ?
Cô vừa khóc vừa nói cà kê dê ngỗng! Cách xa độ mười thước, một nữ Công An, chống tay vào hông đứng nhìn cô gái. Đôi mắt tên Công An quắc lên, nói gằn giọng:
- Chị Cúc, tôi nói đi vào, chị không nghe hả?
Cô gái cứ khóc, nói:
-Tôi vào để ông ấy đánh chết tôi hả? Không, tôi không vào đâu! Muốn giết tôi, ra đây mà giết!
Tên Công An thấy chúng tôi đi chậm bước để nhìn cái cảnh đó, quát:
- Đi mau lên!
Tôi nhận thấy, tụi Công An ít nói ngọng chữ L thành N hơn bộ đội, tuy cũng thuộc giai cấp nông dân, có lẽ Công An được chọn lựa và có huấn luyện về văn hóa!
Chúng tôi rảo bước lên con dốc. Những ruộng mía trải dài trước mặt. Xuống hết con dốc, thấy đoạn đường bị lở do nước mua, tên Công An cho lệnh làm việc.
Những nhát cuốc bổ xuống; những tảng đất đỏ quạch được bưng lên đắp vào chỗ đường lộ. Mặt trời ló khỏi đám mây dầy soi những dòng nắng ấm áp, lúc này trời đỡ lạnh. Lao động một hồi thấy nóng, tôi cởi chiếc áo Dù đã bạc thếch để trên lùm cỏ. Đã mấy tháng, bữa nay tôi mới cảm thấy thân xác nhẹ nhỏm vì không phải mang nhiều áo trên người. Làn gió thổi nhè nhẹ, hây hây. Một đàn chim sẻ sà xuống bãi mía. Tiếng kêu ríu rít vọng đến làm không khí đỡ tẻ nhạt. Đàn chim vụt bay lên. Những chiếc cánh chấp chới dưới ánh năng đẹp vô cùng, nhưng chỉ một thoáng, chúng đã biến mất ở cuối bãi. Đây là vùng lòng chão rộng, nhiều đồi trọc hơn núi rừng nên ít có chim. Đêm ngủ, ít nghe tiếng thú rừng như ở Yên Bái, Nghĩa Lộ.
Khi làm xong, trở về qua Trại nữ tù, tôi không còn nhìn thấy cô gái nữa. Nhưng tôi biết, ở đằng sau chiếc hàng rào nứa kia, cô đang chịu những hình phạt xứng đáng với lời chửi rủa của cô lúc nãy.
Buổi lao động chiều, chúng tôi lại làm gạch. Mọi người đang đi theo đội hình bỗng có bóng người từ trong hàng chạy vọt ra. Đó là Linh Mục Khuê, ông cúi nhặt chiếc hoa chuối mầu đỏ sẩm nằm ngay đường mương.
- Ê, anh kia bỏ xuống mau!
Vị linh mục vội vứt xuống, mặt mày bẽn lẻn như đứa trẻ bị bắt quả tang nghịch bậy! Chiều nay, Đội được về sớm trước 1 giờ để đi suối tắm rửa. Lúc này Trại không có nước, máy bơm chưa sửa xong, tuy đã trên một tháng. Khi sắp qua Trại, tới con đường ra suối, tên Công An Kỳ cho lệnh tôi về buồng, khỏi đi tắm. Nghe lệnh, tôi linh cảm có chuyện gì không tốt cho riêng mình.
Khi vào đến buồng, tên Kỳ cho lệnh Linh Mục Cao, lúc này làm công tác vệ sinh buồng.
- Anh Cao, mang hết đồ của anh này ra đây!
Trong lúc, Linh Mục Cao đang tìm đồ của tôi mang ra, tên Kỳ lừ mắt hỏi:
- Anh có giấu tôi điều gì không?
- Dạ, không!
- A, anh không thành thực, nếu còn cố tình giấu diếm, tôi sẽ khám tư trang. Trước hết, anh hãy cởi quần áo ra.
Tôi nghe lời, cởi quần áo, còn mặc chiếc xà-lỏn. Tên Kỳ nắn hết túi áo, lẫn cạp quần xong, hét:
- Cởi nốt quần đùi ra!
Tôi bẽn lẻn, từ từ kéo xuống. Vừa tụt đến lưng chừng, tên Kỳ nghĩ sao, cho lệnh kéo lên.
- Nếu anh ngoan cố, tôi khám thấy, sẽ thi hành kỷ luật tối đa đối với anh.
Tôi nghĩ ngay đến chiếc Zippo mà tụi Công An mê lắm. Mấy hôm trước, một anh thuộc Đội 7 cùng làm chung ở hiện trường, sơ ý dùng chiếc Zippo để hút thuốc lào. Tên Bàng, Công An quản lý Đội, nhìn thấy tịch thu, dùng khơi khơi! Vì thèm bật lửa Zippo, tên Kỳ dò hỏi, biết tôi có nên cố ý lấy. Tôi biết có người mách. Thấy giấu không được, đằng nào cũng mất, lại còn mất thêm nhiều thứ nữa như con dao nhỏ, tôi thường dùng cắt bánh, cái kéo để cắt tóc và may vá, mấy hộp quẹt cây dự trữ khi không có xăng và đá lửa v.v... Linh Mục Cao khệ nệ ôm gói đồ của tôi ra ngoài hiên, đặt trước mặt tên Kỳ.
- Tôi có chiếc bật lửa.!
Nói xong, tôi cúi xuống moi túi đồ, lấy chiếc Zippo.
Tên Kỳ mắt sáng lên:
- A, có thế chứ. Tại sao anh giấu tôi, bây giờ mới chịu đưa?
Hắn đưa tay cầm chặt chiếc bật lửa. Trong lúc ấy, anh em người nào có ở nhà, lấm lét nhìn.
- Nay, anh nhớ không? Vì sức yếu, anh không lao động như anh Khuê, anh Cường, anh Trước. Anh đã xin tôi cho làm việc nhẹ, đúng không?
Tôi trả lời:
- Đúng, vì tôi không còn sức để lao động nặng nên mới phải xin cán bộ!
Tên Kỳ cứ cầm chiếc Zippo trong tay không nói gì. Tôi nhớ, hôm đó, ngồi trước mặt tên Kỳ, tôi cảm thấy uất ức và tự hỏi vì sao chúng tôi thua trận? Vì sao tôi không có hoàn cảnh để di tản trước ngày 30-4-75? Tại sao Đại Tá Anderson vì mến tài đã cố tìm nơi tôi ở để đưa tôi qua Mỹ trước giờ Cộng Sản chiếm Sàigòn nhưng không tìm ra nhà, hỏi không ai biết!? Vì thế, giờ này tôi mới phải chịu muôn vạn đắng cay nhục nhã tuy đã giải ngũ từ tháng 9 năm 1974. Tôi không có trách nhiệm gì về cuộc thất trận nay, sao tôi phải gánh chịu và gánh chịu đến bao giờ?
Tên Kỳ cầm chiếc bật lửa, hỏi:
- Bây giờ anh muốn làm biên bản hay không?
- Tùy cán bộ.
Tôi biết, nếu làm biên bản, tôi sẽ phải thi hành một hình thức kỷ luật nào đó, vì vi phạm điều cấm của Trại, chiếc bật lửa sẽ do Trại quản lý. Còn không, tên Kỳ sẽ được hưởng chiếc Zippo, tôi coi như vô tội.
Tên Kỳ cho lệnh tôi mang đồ vô, rồi hắn bước nhanh ra cổng. Nhìn kẻ báo cáo tôi có bật lửa, ngồi trên sạp, tôi muốn nhổ một bãi nước miếng vô mặt hắn, nhưng cố nén giận, tôi ôm đồ đến chỗ ngủ xếp lại.
Hôm sau, tôi thấy tên Kỳ châm thuốc lá bằng chiếc Zippo, nó còn tung lên, bắt lại, như khiêu khích. Mầu sáng bạc lấp lánh dưới ánh nắng!...
Câu chuyện đó cũng qua đi, tôi đành dùng mấy hộp quẹt cây để hút thuốc ban đêm, ngày châm bếp lửa, chứ không như trước, mỗi lần hút, bật Zippo kêu tanh tách.
Tôi nhận được 2 gói quà một lúc, do gia đình gửi từ trong Tết, không hiểu sao giờ này mới đến. Tên Kỳ mở đồ khám quà, tịch thu luôn 2 vỉ đá lửa hiệu Ronson tất cả 18 viên. Tôi nghĩ, cái số nó may, vừa có bật lửa lại có ngay 2 vỉ đá. Tụi Công An thường chó má như nhau, chẳng mấy đứa tử tế. Ngay cả người dân miền Bắc đã sống mấy chục năm dưới chế độ, vẫn chửi Công An như điên.
Vì nhu cầu lương thực, chúng tôi phải học tập phương pháp trồng sắn. Khi trước sắn được coi như thực phẩm không tính vào tiêu chuẩn cơm, nay nó được đánh giá 3 kí-lô sắn bằng 1 kí-lô gạo. Do đó, vấn đề trồng sắn là một nhu cầu cấp thiết. Tên Công An lo về sản xuất trình bầy phương pháp trồng mới, qua kinh nghiệm địa phương, thu hoạch nhất định vượt múc kế hoạch. Nào cách đào theo hình bình hành, cách bỏ phân, cách đặt hom sắn thế nào! Sau khi học xong, chúng tôi thực hành.
Công việc gạch ngói vẫn tiếp tục bình thường. Nhưng buổi sáng chủ nhật lao động Xã Hội Chủ Nghĩa, tất cả đi đào hố sắn.
Tên Công An Kỳ dẫn chúng tôi đi vòng phía sau Trại, qua một con suối nhỏ nước chẩy xiết. Chính chỗ này có đặt chiếc máy bơm đang được tháo tung để sửa. Tên Công An vũ trang lầm lì đi sau. Con đường từ Trại đến chỗ lao động khá xa, phải leo qua nhiều quả đồi, đã ươm hom. Đường đi đã hết hơi, còn sức đâu lao động? Nhưng muốn hay không, chúng tôi vẫn phải leo lên lưng chừng quả đồi để cuốc hố. Đội được chia làm 2 toán, mỗi toán phụ trách một quả đồi. “Chén chè Xã Hội Chủ Nghĩa” đã tiêu mất trong dạ dầy từ hồi nào, nhưng công việc giờ này mới bắt đầu. Tôi cuốc theo đúng kích thước đã học tập. Mỗi hố làm lâu gấp 5 lần thể thức cũ. Khi ở Nghiã Lộ, chúng tôi chỉ cuốc vài nhát, cắm nghiêng khúc hom, vùi đất là xong. Nay phải làm cẩn thận theo ni tấc. Tên Kỳ lại quan sát kỹ và ra chỉ tiêu, mỗi người 50 hố. Tôi nghĩ thầm, đào kiểu này đến tối chưa xong, nói gì một buổi sáng.
Nhìn sang đồi bên cạnh, anh em cuốc lơ là, cười nói hồn nhiên, coi công tác như sự giải trí buổi sáng chủ nhật. Tên Kỳ đi lại phía ấy, leo lên. Từ xa, tôi không nghe rõ hắn nói gì, nhưng nhìn thấy tất cả vác cuốc đi xuống. Tên Kỳ cho lệnh, họ bỏ cuốc xuống, rồi đứng nghiêm, nhìn lên chỗ chúng tôi lao động. Tôi không hiểu chuyện gì, chắc họ sẽ nghe xỉ vả. Nhưng không, họ chỉ đứng nguyên như vậy, và tên Kỳ trước khi trèo lên chỗ chúng tôi đang cuốc, nói với một câu:
- Các anh không muốn lao động cũng được, tôi cho các anh đứng xem người khác lao động!
Tội nghiệp, mấy chục con người đứng thẳng như những cây gỗ trồng giữa trời, nhìn lên phía chúng tôi làm.
Xung quanh, cảnh núi đồi chập chùng bát ngát, không một mái nhà, không một tàng cây, dưới ánh nắng hanh hanh của một ngày chớm hạ, trông thật thiểu não.
Họ có vẻ mệt mỏi, có lẽ còn mệt mỏi hơn chúng tôi nữa. Có người nhìn ra xa, có người nhắm mắt, như muốn khước từ hiện tại.
Họ cứ đứng ở cái thế nghiêm như vậy, cho tới hết giờ lao động, khoảng 3 tiếng đồng hồ. Những giọt mồ hôi thấm ướt áo. Khuôn mặt người nào cũng rắn đanh lại như tủi hận, căm hờn. Nếu có động cơ nào đó đột nhiên thúc đẩy, tôi chắc họ sẽ băm xác tên Kỳ thành một đống bầy nhầy ngay lập tức. Nhưng không, họ vẫn là những tên tù nhẫn nhục “nín thở qua sông,” chờ chính sách 3 năm thực hiện. Cho tới giờ phút này, chúng tôi đang ở vào khoảng 4 giờ 30 sáng. Chỉ còn 1 giờ 30 phút phù du nữa, chúng tôi sẽ có Tự Do, sẽ có tất cả!...
Trước khi đưa Đội về, tên Kỳ còn sỉ nhục toán bị phạt một lần nữa. Tên Công An vũ trang điểm số tù trước khi chúng tôi vác cuốc lên vai men theo lối cũ.
Vế đến buồng, câu chuyện bị phat được bàn tán thêm nhưng không ai dám công khai chửi tên Kỳ vì sợ đến tai nó, vạ thêm!
Dạo này, anh em bị mất bánh để dành trong chiếc tủ lưới đặt cạnh nhà ăn. Chiếc tủ như chiếc Gác- măng-giê, theo nội quy dùng để chén đũa, muỗng của mỗi Tổ cho sạch sẽ và thứ tự. Có vài người ăn dè, để lại một chút, phòng lúc lao động về, đói sẽ ăn. Nhưng đau thay, khi về, mẩu bánh không cánh đã bay.
Buồng chỉ có ông Tướng và vài người bệnh nằm nhà nên chẳng biết nghi cho ai? Sự mất này gây rất nhiều khó chịu vì chỉ một người ăn cắp, nhiều người bị nghi ngờ. Cái đói quả ghê gớm thật, nó làm mờ lương tri, tàn bạo hơn thú vật. Anh em ai cũng có phần bằng nhau. Kẻ để dành vì lo xa chưa chắc là kẻ dư thừa. Thế mà có đứa khốn nạn đến nổi chỉ nghĩ đến mình, quên luôn cái đói của người khác!
Buổi tối sinh hoạt, phê bình kiểm thảo, có anh Trung tá Không Quân phát biểu:
- Thưa quý bác, quý anh, tuy còn trẻ, nhưng tôi thấy có bổn phận phải nói thật, nói thẳng, nói hết những gì, mong quý bác, quý anh thông cảm và bổ khuyết cho, nếu sai lầm. Trong những ngày sống ở đây, tôi nhận thấy, các đàn anh bê bối quá, làm nhiều điều không xứng đáng với cương vị và tuổi tác mà chúng tôi hằng kính trọng. Do đấy, chúng tôi lấy gì làm gương mẫu để noi theo? Chúng tôi còn trẻ, mong được học tập và tiếp thu những cái tốt do quý bác, quý anh chỉ dạy, nhưng chúng tôi vô cùng thất vọng khi nhìn thấy qua thực tế, những gì đã gây cho chúng tôi nỗi đau đớn và tủi nhục ngoài vấn đề cải tạo, lao động...
Anh nói một hơi dài, không ai trả lời. Gian buồng im phăng phắc. Tôi nghĩ, anh nói đúng quá, cần nói mạnh hơn nữa để cảnh tỉnh những ai có tinh thần hèn hạ, khốn nạn bán xác anh em mưu lợi riêng, ăn cắp của nhau. Nhưng đau thay, trong lớp tuổi và cấp bậc cùng quân chủng với anh, cũng có người ăn cắp như máy, làm những điều đê tiện như quân vô học và anh bạn tù trẻ vừa mạnh dạn phát biểu, ít lâu sau cũng bị hộc máu vì quá hăng say lao động vẫn chưa thấy được về sớm! Sau cùng, tất cả đều buông xuôi theo giấc ngủ!...
Tính ra, tôi đã sống ở Trại Cải Tạo Trung Ương số 1 này được gần 8 tháng rồi đó. Qua mùa lạnh ghê gớm, và đang gánh chịu mùa nắng đổ lửa. Các vườn rau cải thiện đã bị phá bỏ vì tụi Công An cho rằng, tù chỉ lo tưới rau cải thiện, chứ không chịu lao động. Anh em lại đói dài. Trong những ngày gần đây có một số đông “tù tự giác” hình sự cũng lao động nơi hiện trường. Tội của họ, phần đông: ăn cắp, ăn trộm, đâm chém người, hiếp dâm, buôn chui v.v... Thường ra, họ bị xử rất nặng, ít có án nào dưới 10 năm. Có một tên còn trẻ lắm, tôi hỏi:
- Vì sao em bị tù?
- Em chém một thằng trong xóm vì nó chuyên báo cáo Công An hại xóm giềng.
- Em chém, nó có bị thương nặng không?
- Em mới chém được 2 dao, nó chạy thoát!
- Em bị xử bao nhiêu năm?
- 15 năm! Khi được ra, em sẽ tìm chém nữa, kỳ bao giờ nó chết mới thôi.
- Em ở mấy năm rồi, năm nay bao nhiêu tuổi?
- Em ở được 5 năm rồi, năm nay vừa đúng 20, khi được tha, mới 30 tuổi, còn đủ sức.
Tôi nhìn nó, vì thiếu ăn, nên thân hình quắt lại trông như mới 15, nhưng nó khiêng gạch rất giỏi.
Bỗng một tên tù khá lớn tuổi, nói:
- Cứ tưởng mấy anh “giải phóng chúng tôi” chứ ai ngờ tụi nó “giải phóng các anh!” Như vậy là thế nào? Phải sống dưới chế độ này suốt đời à?
Tên khác nói ngu ngơ:
- Không suốt đời thì cũng hết án 20 năm!
Chúng cuồi ồ.
Tôi cũng gặp cả những chiến sĩ Biệt Kích bị bắt cả mười mấy năm nay, đã trở thành công nhân viên của Nhà nước Cộng Sản! Họ đối với chúng tôi rất tốt, đôi khi mua hộ đường, nước mắm nếu ai có tiền. Theo họ nói, nếu không chịu ký làm công nhân viên tình nguyện cho Nhà Nước, bị tù hoài, không hy vong được tha! Người làm điện, kẻ sửa máy và mọi công tác khác hợp với khả năng. Tất cả đều chưa vợ. Chắc họ muốn, Nhà Nước cũng không cho.
Ngày tháng qua đi, một chiều, chúng tôi ngôi xổm trước cửa “chuồng” chờ giờ điểm số. Tên Công An xách chùm chìa khóa đi vô, hắn cho lệnh mang tất cả áo quần đang phơi vô nhà, bất luận đã khô hay còn ướt. Anh em đứng dậy, đi gỡ hết quần áo. Chúng tôi đoán biết có sự gì sẽ xẩy tới trong đêm nay hoặc sớm mai.
Sau khi vô “chuồng”, cánh cửa đã khóa được một lúc, anh em đang bàn tán về chuyện không cho phơi quần áo ngoài sân ban đêm, bỗng có tiếng mở cổng ngõ. Từ trong “chuồng” anh em nhìn qua chấn song, những chiếc cửa không có cánh, nên mùa rét vừa qua, chúng tôi đã phải che bằng những tấm nylon và áo mưa để cản gió. Nay mùa nóng để trống. Có năm, sáu bóng người đi vô, người nào cũng mang theo tư trang nặng lặc lè. Tên Công An đi trước mở khóa. Khi cánh cửa mở, Đội trưởng nằm ngay đó, nhổm dậy. Tên Công An nói:
- Đội của anh thêm 5 người.
Nói xong hắn cho lệnh 5 người mang đồ vô.
Tiếng khóa lại lách cách. Chờ tiếng chân đi xa, anh em mới xô đến hỏi chuyện những người mới đến. Họ cho biết, mới chuyển từ Trại B, tức Trại lúc đầu tôi đến, qua đây từ hồi chiều, đi 3 cây số, mang nặng, nên giờ này mới tới.
- Có nhiều người cùng chuyển không?
- Không, chỉ có tụi tôi!
Như vậy đã quá rõ ràng. Sáng mai, chúng tôi sẽ chuyển Trại cùng mấy “trự” này. Anh em không ai ngủ, đều lục cục xếp đồ vô túi, nhưng còn đồ gửi trong kho làm sao lấy ra? Mọi người nhao nhao hỏi, nhưng không ai trả lời được. Tướng Cao, người giữ chìa khóa nói:
- Các anh cứ yên tâm, khi có lệnh, tôi mở kho ngay, của ai để đâu, tôi biết cả mà!
Có tiếng nói mỉa mai:
- Ông biết, sao để mất chiếc quần “vía” của tôi gửi trong đó mà không hay?
Tướng Cao không trả lời.
Cuộc sửa soạn đến nửa khuya, anh em lăn ra ngủ, vì dù sao, đây cũng chỉ là phỏng đoán thôi.
Tôi vừa chợp mắt một lúc, tiếng mở khóa làm thức giấc. Những vệt đèn pin chiếu vào buồng loang loáng. Ba tên Công An vô buồng trong đó có tên Kỳ. Một tên cầm trong tay tờ giấy, chiếu đèn pin rọi chỗ này, chỗ khác. Mọi người đều ngồi dậy, ngơ ngác nhìn.
- Các anh chú ý, tôi gọi tên anh nào, anh ấy nói “có mặt” phải sửa soạn ra khỏi buồng, trong 15 phút.
Tất cả có 5 người được gọi tên, trong đó có tôi, Tướng Cao, Thiện (Tổ trưởng), Hy và Cát đúng với số người vừa được đưa đến buổi tối.
Chúng tôi sửa soạn vội vàng, gấp mùng mền cùng vài ba thứ lặt vặt khác. Có mấy hộp quẹt cây, tôi giấu trong hốc, moi mãi không được, đành để lại.
Mọi người mang đồ ra sân. Tướng Cao mở khóa kho cho anh em lấy đồ. Tên Kỳ giục giã liên hồi. Trong bóng tối mênh mông, ai nấy ấn bừa vô, bất kể trời đất. Ra đến ngõ, chợt nhớ quên chiếc nón, tôi xin quay vào lấy, tên Kỳ nhất định không cho.
Hôm ấy là 16-7-78. Thời hạn 3 năm theo chính sách đã qua đúng 1 tháng.