Số lần đọc/download: 296 / 41
Cập nhật: 2019-09-23 21:13:06 +0700
Phần Thực Tập Căn Bản
T
ổ chức lại hình thức tu tập
Đưa nội dung vào hình thức
Một trong những điều căn bản ta phải tránh là đừng để sự thực tập rơi vào cái bẫy hình thức. Đừng làm như một cái máy vì thực tập hình thức không đem tới kết quả. Ngồi thiền cho có, ăn cơm im lặng cho có... Trong khi làm những chuyện đó ta không có hạnh phúc thì ta thấy rõ sự thất bại của ta và ta đã không đóng góp được gì cho tăng thân bởi vì sự đóng góp của ta chính là hạnh phúc. Nếu ta không biết dừng lại, không tiếp xúc với nhiệm mầu của sự sống, cứ để bị trôi lăn theo những điều kiện sống bên ngoài thì làm sao ta hạnh phúc được?
Không phải chỉ những người tu theo đạo Bụt mà những người tu theo đạo Công giáo có trình độ tỉnh thức và nhận thức được sự thật thì sẽ không bị kẹt vào hình thức. Có một vị linh mục người Mỹ tu rất hạnh phúc trong khóa tu ba tuần. Trong một buổi thiền trà, ông chia sẻ: "Tôi thích pháp tu này nhưng làm sao khi trở về Mỹ tôi có thể tiếp tục thực tập?" Tôi mới hỏi: "Bên đó, nhà thờ có chuông không? Tại sao không thực tập: Thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười mỗi khi nghe đổ chuông? Bên đó, quý vị có uống trà hay cà phê với nhau không? Tại sao không thực tập: Chén trà trong hai tay. Chánh niệm nâng tròn đầy. Thân và tâm an trú. Bây giờ và ở đây? Nhà thờ có tổ chức ăn cơm chung với nhau không? Tại sao không tổ chức ăn cơm có chánh niệm? Nghĩa là linh mục có thể làm y hệt như ở Làng Mai dưới hình thức của nhà thờ". Vị linh mục đó mừng quýnh vì những điều đơn giản như vậy mà không thấy. Trong các sinh hoạt hàng ngày của nhà thờ, ta chỉ cần đưa vào chất liệu chánh niệm thì tự nhiên các hình thức đó sẽ đưa lại sự sống. Vấn đề không phải là hình thức sinh hoạt bên ngoài, điều quan trọng là những sinh hoạt có chất liệu của sự sống đích thực hay không.
Trong các sinh hoạt ở chùa cũng vậy. Ví dụ như tiếng chuông chánh niệm. Từ mấy ngàn năm nay chùa đã có chuông và sự thực tập nghe chuông. Chuông không phải chỉ để dùng báo hiệu giờ ăn hay giờ ngồi thiền không đâu. Chuông là một pháp khí để giúp ta tu tập. Nếu thông minh, ta xem tiếng chuông như tiếng nhắc nhở, tiếng gọi của Bụt để ta trở về với sự thực tập. Có những bài kệ ta thực tập trong khi thỉnh chuông. Ta phải thực tập thì mới thật sự là vị tri chung đích thực. Không có chánh niệm thì ta làm như cái máy. Mà tu đâu phải là làm cái máy. Ấy vậy mà có những người thỉnh chuông như cái máy. Thỉnh chuông là thực tập chánh niệm. Và người nghe cũng phải thực tập chánh niệm. Vậy mà có nơi chuông thỉnh thì cứ thỉnh, tri chung không thực tập khi thỉnh chuông và người nghe cũng ‘phớt tỉnh Ăng Lê’, nghe chuông cũng giống như nghe tiếng máy bay hoặc tiếng còi xe lửa mà thôi. Như vậy thì ta đã đánh mất nội dung của sự thực tập nghe chuông và thỉnh chuông, mà ta chỉ giữ cái vỏ hình thức. Trong khi đi, ta cũng đi như bị ma đuổi. Đức Thế Tôn và giáo đoàn ôm bát đi rất vững chãi và thảnh thơi vào thành Vương Xá khất thực. Khi quần chúng thấy quý vị khất sĩ đi như vậy thì họ lạy xuống vì họ thấy được dáng đi toát ra chánh niệm. Người ta lạy không phải vì tướng tu sĩ mà người ta lạy vì Đức Thế Tôn và giáo đoàn khất sĩ đã tỏa ra chất liệu vững chãi, thảnh thơi, chánh niệm và sự sống. Bây giờ có những thầy đắp y vàng, ôm bình bát đi khất thực nhưng không có chánh niệm gì cả thì có phải ta chỉ giữ lại hình thức, còn phần nội dung đã bị đánh mất hay không? Vì vậy ta phải đưa nội dung trở lại, và phải làm cho hình thức có ý nghĩa.
Tạo nguồn sinh lực
Trong Gia Đình Phật Tử, chúng ta có nhiều hình thức. Ví dụ như huy hiệu hoa sen trắng. Quý vị có biết ai là người đã vẽ huy hiệu không? Người vẽ huy hiệu đã tham gia Gia Đình Phật Tử năm 1930 tên là Lê Lừng. Khi vẽ anh chỉ vẽ mà thôi chứ không có ý nghĩa gì. Sau này các thầy thấy huy hiệu đẹp nên đặt thêm ý nghĩa vào. Gia Đình Phật Tử đặt thêm những ý nghĩa ngũ căn, ngũ lực, tín tấn niệm định tuệ. Đó là ý nghĩa của sự tu học. Nếu muốn, ta cũng có thể nói đó là biểu tượng của Năm Giới vì Năm Giới là con đường thoát duy nhất của thế giới hiện tại. Ba cánh dưới ta có thể nói là Tam Quy, đó là nền tảng của sự sống. Nếu ta về nương tựa Phật, Pháp, Tăng thì cuộc đời ta mới có sự vững chãi và có ý nghĩa. Quý vị có thể nói ba cánh dưới là ba viên ngọc quý và năm cánh trên là sự thực hiện cụ thể của Tam Bảo: đó là Năm giới quý báu. Không chỉ quý vị cư sĩ mới thực tập Năm giới mà các thầy, các sư cô đều phải thực tập.
Hình thức hiện thời của Gia Đình Phật Tử ta đã có nhiều rồi, ta có thể đưa vào những thay đổi nho nhỏ thôi. Thay đổi những hình thức để đưa vào chất liệu của nội dung. Ví dụ như tiếng còi: tiếng còi vẫn còn là tiếng còi nhưng khi nghe còi ta thực tập trở về với hơi thở thì như vậy có phải là ta đã đưa nội dung tốt vào không? Khi ta thổi còi, mọi người đi thiền hành về chỗ hẹn. Và nếu thổi nhanh là chạy thì chúng ta vẫn có thể chạy trong chánh niệm. Tại Làng Mai, các thầy và các sư cô đi thiền hành buổi sáng mùa đông đều có chạy hết. Đó là chạy bộ trong chánh niệm hay thiền chạy, tiếng Anh gọi là "jogging meditation". Đây chỉ là gợi ý, quý vị có thể quán chiếu, thay đổi thêm nhiều theo ý quý vị. Nếu cần họp đại hội để quyết định thì họp. Quý vị có thấy điều quan trọng là trong các khóa tu như vầy, ta không tốn thì giờ vào mặt hình thức mà ta phải cung cấp càng nhiều chất liệu càng tốt để các hình thức kia trở thành hiện thực, có sự sống và có ý nghĩa.
Trong khi làm các dấu hiệu này, ta không chỉ làm với hình thức. Ta có Bụt, Pháp và Tăng ngự trị trong thân tâm ta. Nếu ta không nương nhờ Tam Bảo thì làm sao có sự an ổn được.
Con nhất tâm nguyện sống đời lành
Đem thân mạng nương nhờ Tam Bảo
Quay về nương tựa Bụt, quay về nương tựa Pháp, quay về nương tựa Tăng thì ta sẽ có ba cái đó.
Chánh niệm là Bụt, soi sáng xa gần
Hơi thở là Pháp, bảo hộ thân tâm
Năm uẩn là Tăng, phối hợp tinh cần
Đó là sự thực tập. Ta có thay đổi gì đâu. Ta chỉ đưa thêm chất liệu đi vào trong đó thôi. Ví dụ khi chào thì ta bắt ấn cát tường. Cát tường biểu tượng cho sự an lành, hạnh phúc nhưng trong khi đó tâm ta làm gì? Tâm ta cũng phải có sự an lành, hạnh phúc và an ổn. Nụ cười và hơi thở chánh niệm cũng phải đi đôi với ấn cát tường đó. Chúng ta không cho chuyện hình thức thay đổi là quan trọng mà chúng ta phải nuôi dưỡng các hình thức đó. Thành ra bây giờ, đi cũng có chánh niệm, đứng cũng có chánh niệm, ăn cũng có chánh niệm, thổi còi và hát cũng trong chánh niệm.
Vấn đề là luyện tập
Ban đầu thì hạt giống chánh niệm của ta còn nhỏ nhưng nếu thực tập trong hai ngày, năm ngày, mười ngày thì năng lượng chánh niệm của ta lớn lên từ từ và mỗi khi cần năng lượng đó thì ta chỉ cần thở vào một hơi hoặc bước một bước chân là tự nhiên ta đụng tới nó và nó tỏa ra một vùng năng lượng lớn, ôm lấy nỗi khổ niềm đau của ta để chuyển hóa. Đây là vấn đề luyện tập chứ không phải vấn đề học hỏi. Trong khóa tu, nhất là khóa tu 7 ngày hay 21 ngày, chúng ta có nhiều thời giờ hơn để mọi người cùng thực tập với nhau. Khi một bà mẹ nghe con khóc thì dù đang ở trong bếp, bà cũng sẽ bỏ những thứ đang làm xuống và đi vào phòng con. Bà sẽ ẵm con lên và ôm cháu vào trong hai tay của mình. Tuy là bà chưa biết vì sao con khóc nhưng sự kiện ôm lấy em bé đã là một hành động rất hay rồi. Em bé đang đau khổ như vậy nhưng được ôm vào vòng tay của mẹ là đã cảm thấy dịu đi, cảm thấy bớt khổ liền. Trán em nóng như vậy nhưng bàn tay mẹ mới đặt lên một chút là đã thấy mát rượi, đã thấy đỡ khổ dù em chưa được uống thuốc. Chánh niệm cũng vậy. Mỗi khi ta đưa chánh niệm lên ôm lấy nỗi khổ niềm đau của ta thì tự nhiên ta thấy bớt khổ liền lập tức. Cho nên ta phải tu tập để có năng lượng chánh niệm ấy. Bà mẹ ôm đứa con chừng ba, bốn phút thì sẽ tìm ra được lý do tại sao con mình khóc. Con mình có thể đang đói, đang sốt hoặc tã đang dơ. Khi bà mẹ tìm ra lý do rồi thì có thể chuyển đổi tình trạng một cách nhanh chóng. Nếu con đói thì cho bình sữa, nếu con sốt thì cho uống thuốc, nếu tã dơ thì thay tã mới. Ta cũng vậy, ta có một nỗi giận, một nỗi buồn thì trước hết ta phải ôm lấy nỗi giận, nỗi buồn đó. Để nỗi giận, nỗi buồn ở một mình trong tâm thì sẽ rất nguy hiểm. Nếu để chúng ở một mình thì chúng sẽ xui khiến ta nói ra những điều, làm ra những điều có thể gây đổ vỡ. Đừng bao giờ để năng lượng giận hờn ở một mình. Khi năng lượng đó mới phát hiện thì phải mời năng lượng thứ hai lên lập tức. Năng lượng thứ hai là năng lượng chánh niệm. Chúng ta tới chùa, tới tu viện là để học phương pháp chế tác năng lượng chánh niệm. Quý thầy, quý sư cô không phải chỉ nói về chánh niệm mà họ đang thực tập, đang thật sự chế tác chánh niệm trong đời sống hàng ngày. Nhìn thấy họ, ta thấy có sự thảnh thơi, nhẹ nhàng, tươi vui. Có những thầy không được ở trong tu viện hay bận lo việc chùa, việc tang lễ, việc cúng kiếng, lo việc chạy tiền để trả tiền điện, tiền điện thoại nên không có thời giờ để tu tập với huynh đệ và năng lượng chánh niệm từ từ giảm đi. Người tu phải ở với chúng, phải ở tu viện chứ còn ở một mình thì rất khó tu. Chỉ cần ra ngoài ở chùa riêng chừng sáu tháng là năng lượng chánh niệm của thầy ấy, của sư cô ấy sẽ xuống rất thấp. Nhìn thầy ấy, nhìn sư cô ấy ta biết là họ cần phải trở về tu viện lập tức. Ta cũng vậy, nếu ta là cư sĩ thường xuyên lên chùa, thường tham dự các khóa tu tập thì mức chánh niệm của ta sẽ lên cao. Nếu ta phiêu lưu trong cuộc đời, sống chung với những tà hữu thì chỉ cần trong một tuần lễ là mức chánh niệm của ta sẽ xuống thấp và ta sẽ đánh mất mình. Những khổ đau, những dằn vặt, những giận hờn sẽ kéo ta đi. Vì vậy ta cần gần gũi các vị xuất gia, cần phải dự pháp đàm, học hỏi, cần phải lên tu viện thường xuyên để có cơ hội chế tác chánh niệm.
Có mặt đích thực
Ta hãy thực tập một bài tập rất đơn giản. Ta hãy ngồi cho đẹp, ngồi như thế nào mà thân và tâm ta hoàn toàn có mặt trong giây phút hiện tại. Ngồi bán già cũng được, kiết già cũng được, kiểu nào cũng được, miễn là ta ngồi cho thật thoải mái để có cảm giác là ta đang có hạnh phúc. Không hẳn ta phải bắt chước người khác. Rồi trong khi thở vào thì ta đem thân và tâm ta hợp nhất lại. Thở vào, tôi biết rằng tôi đang có mặt đích thực tại đây, trong giờ phút này. Trong khi thở ra thì chúng ta mỉm cười. Ta mỉm cười để chứng tỏ rằng ta đang thật sự sống hạnh phúc với giây phút hiện tại. Giây phút hiện tại này có thầy, có bạn, có anh, có chị, có em ở trong đoàn ngồi xung quanh ta. ‘Thở vào, tôi đang có mặt đích thực. Thở ra, tôi mỉm cười với hạnh phúc’. Có mặt đích thực có nghĩa là thân tâm nhất như, hoàn toàn có mặt ở đây, không lo lắng về quá khứ hay tương lai. Đó là thực tập của chúng ta trong hơi thở vào. Và khi thở ra thì ta nói: ‘Tôi đang mỉm cười với cái hạnh phúc được ngồi đây với thầy, với anh, với chị và với em.’ Chúng ta thở như vậy trong một phút thôi, không nhiều lắm đâu.
Chăm sóc thân thứ hai
Mấy ngày nay chắc quý vị đã có dịp quán sát các thầy và các sư cô ở đây về cách họ đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc chung với nhau, chắc quý vị có cảm tưởng rằng họ sống với nhau như một gia đình. Mà kỳ thực họ thương nhau lắm, có thể thương nhau hơn những người cùng cha mẹ. Đi xuất gia cũng như gia nhập vào một gia đình, gia đình của những người xuất gia, và sống đời sống đoàn thể, sống như một Tăng thân, chứ không phải chỉ sống đời sống cá nhân của mình mà thôi. Người này chịu trách nhiệm về hạnh phúc của người kia và mỗi người đều có một thân thứ hai để chăm sóc. Thân thứ hai là một thực tập rất hay và thiết thực của Làng Mai, tiếng Anh gọi là "The second body system", tiếng Việt là "pháp môn Đệ Nhị Thân". Tất cả mọi người trong Tăng thân của ta đều là thân thể của ta nên ta gọi đoàn thể ta là Tăng thân và ta có nhiệm vụ làm cho thân đó của ta có hạnh phúc. Ta có một thân thứ hai để chăm sóc, và thân thứ hai của ta cũng có một thân thứ hai khác để chăm sóc, nên ta chỉ cần chăm sóc thân thứ hai của mình thôi thì tất cả các thân khác ở trong đoàn thể đều được chăm sóc. Do đó bất cứ một khổ đau nào xảy ra cho một người ở trong Tăng thân là xảy ra cho tất cả đoàn thể, vì vậy cho nên có một sự liên đới, tương trợ và chăm sóc lẫn nhau như là mười ngón tay của hai bàn tay.
Ngồi lại để cống hiến những biện pháp cụ thể
Pháp đàm là một trong những thực tập khác của chúng ta. Đó là thiền quán, là nhìn sâu. Nhìn sâu để thấy, và cái thấy đó là sự giác ngộ. Chúng ta ngồi với nhau hơn một giờ đồng hồ, chúng ta đã dùng niệm, dùng định để quán chiếu và chúng ta đã thấy được một ít sự thực. Sự quán chiếu ấy phải được tiếp tục trong những buổi pháp đàm. Quý vị phải phát kiến ra được những biện pháp cụ thể để có thể cống hiến được đường hướng cũng như những phương thức chấn chỉnh, tổ chức lại, cấu trúc lại đoàn thể để Gia Đình Phật Tử có thể đóng được vai trò mà Đức Thế Tôn cũng như lịch sử đã giao phó cho quý vị.
Đầu tư tất cả vào trong sự thực tập
Trong những khóa tu tổ chức cho người Pháp, người Đức hay là người Mỹ, các thiền sinh thực tập rất nghiêm chỉnh, nghiêm chỉnh hơn trong các khóa tu của người Việt nhiều lắm. Trong vòng năm hay sáu ngày họ đã có sự chuyển hóa tại vì họ đầu tư tất cả vào trong sự thực tập. Để có thể đi dự khóa tu, họ đã phải sắp đặt rất lâu ngày mới có được cơ hội có những ngày nghỉ và họ phải đóng tiền, vì vậy họ không muốn bỏ phí thì giờ trong khóa tu. Họ thực tập sự im lặng rất nghiêm mật và trân trọng từng bước chân, từng hơi thở nên họ có sự chuyển hóa rất mau. Có những người đã tìm ra được hướng đi của đời mình.
Xuất gia để có hạnh phúc
Từ mười năm nay ở tại Làng Mai đã có 67 vị xuất gia. Ngoài các vị xuất gia tại Làng Mai còn có các vị xuất gia từ các nơi khác tới tu học. Trong số đó có những vị quốc tịch Việt Nam nhưng cũng có nhiều vị có gốc ngoại quốc, có vị người Pháp, có vị người Đức, có vị người Hà Lan, có vị người Úc, có vị người Hoa Kỳ, nhưng đa số vẫn là các thầy và các sư cô gốc Việt. Có nhiều vị đã tốt nghiệp đại học, có nhiều vị đã có bằng tiến sĩ, có nhiều vị mới học trung học thôi và đặc biệt có hai vị chưa bao giờ từng được đi học hết kể cả tiểu học từ Việt Nam. Tuy nhiên các vị đó học rất giỏi và tu rất thành công. Vị xuất gia trẻ nhất tại Làng Mai bây giờ được 15 tuổi, đó là sư cô Kính Nghiêm, người gốc Việt, sinh ở miền Nam tiểu bang California, xuất thân từ Gia Đình Phật Tử. Kính Nghiêm là sư em út nên được các sư anh và sư chị rất cưng. Hỏi tại sao con đi xuất gia? Kính Nghiêm nói rằng: "Con thấy những người trẻ xung quanh con ở tại miền Nam Cali khổ quá. Trong gia đình đã khổ rồi mà ngoài học đường cũng khổ nữa. Con có một cô bạn mới có 14 tuổi mà đã có thai, con thấy khổ lắm. Mỗi khi con thấy các thầy, các sư cô từ bên Pháp sang mở khóa tu, con nhìn các thầy các sư cô sao mà hạnh phúc quá, nhẹ nhàng quá, tươi vui quá, thành ra con muốn được đi xuất gia để có hạnh phúc như vậy và để có thể giúp được những người đang khổ xung quanh con.”
Cùng đi xuất gia với sư cô Kính Nghiêm có một sư chú cũng từ miền Nam Cali. Đó là sư chú Pháp Nguyên, có gốc Việt và Mỹ. Tên của chàng là Wayne, cho nên được đặt là Pháp Nguyên nghe cho hơi giống cái tên "Wayne". Pháp Nguyên nói tiếng Anh rất giỏi nhưng tiếng Việt còn hơi kém. Trong một buổi thiền trà để phát biểu tại sao muốn đi xuất gia, (hồi đó Wayne chưa được xuất gia, muốn xuất gia phải tới Làng thực tập ba tháng hoặc bốn tháng, để các thầy, các sư cô xem thấy có được hay không thì mới được xét.) Wayne nói rằng em nhận thấy cha, mẹ, con cái sống xung quanh môi trường của em rất đau khổ, mình đau khổ rồi mình làm khổ cả người mình thương. Mỗi khi Sư Ông qua tổ chức một khóa tu thì thấy người ta vui lên, đỡ khổ nhiều lắm. Rồi chừng ba, bốn tháng sau lại bắt đầu khổ như cũ mà phải đợi tới hai năm sau Sư Ông mới qua Mỹ lại thành ra sự tu tập không thấm thía gì hết. Vì vậy cho nên Wayne muốn phát nguyện xuất gia. Wayne còn nói thêm rằng: ‘Nếu con xuất gia mà giúp được dù chỉ một người bớt khổ thì cũng đáng công con đi xuất gia rồi’. Và bây giờ Wayne đã được xuất gia với pháp danh Chân Pháp Nguyên, đang tu học ở Xóm Thượng với các thầy và các sư chú. Tiếng Việt của sư chú cũng đã có nhiều tiến bộ.
Ở Xóm Thượng cũng có mấy người xuất gia trẻ khác như sư chú Chân Pháp Châu mới có 19 tuổi, gốc Nam Phi. Pháp Châu có một người bạn cũng là người Nam Phi rất dễ thương, vừa mới qua Làng Mai chừng một tháng mà cũng đã có ý định muốn đi xuất gia với bạn mình rồi. Có thể tuy là mình đang còn trẻ nhưng mình cũng đã có những khổ đau. Trong số những người xuất gia có những người trẻ chưa từng bị khổ đau, đã tới từ những gia đình rất lành lặn và là con nhà lành, nhưng cũng có các vị tới từ những gia đình bị tan vỡ hoặc đã từng khổ đau. Và thường thường sau một năm, hai năm hay ba năm tu tập thì người nào cũng được chuyển hóa. Sự tu tập theo pháp môn của Làng Mai rất nhẹ nhàng và dễ chịu. Ta học phương pháp chánh niệm trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, uống trà, nấu ăn, rửa bát, quét sân, lau phòng và tổ chức khóa tu một cách thảnh thơi trong chánh niệm. Mỗi động tác của ta, mỗi hơi thở, mỗi bước chân của ta đều đặt trong tinh thần chánh niệm. Vì vậy cho nên những tập khí, những thói quen như hấp tấp, vụt chạc, nóng nảy v.v... từ từ được chuyển hóa. Sự thực tập này không phải chỉ được xảy ra trong khóa tu. Sống trong Đạo Tràng Mai Thôn ta phải thực tập 24 giờ một ngày. Nghĩa là khi nào đi cũng phải đi trong chánh niệm, đi vào nhà bếp cũng phải đi có chánh niệm, đi về phòng ngủ cũng đi có chánh niệm và leo cầu thang cũng với từng bước chân chánh niệm giống như mình đi thiền hành vậy. Có vậy ta mới chuyển hóa được cái tập khí vụt chạc, hấp tấp, nóng nảy, hận thù của ta, và từ đó niềm vui mới có thể nở ra như bông hoa trong trái tim ta được.
Chúng ta phải thổi sự sống vào trong đoàn thể của chúng ta, tạo nguồn sinh lực mới vào trong đoàn thể của chúng ta. Chúng ta thực hiện được cái gì thì tất cả các đơn vị Gia Đình Phật Tử trong và ngoài nước đều được thừa hưởng. Cũng như chích thuốc vậy, chích vào tay hay vào bắp đùi thì thuốc đều thấm vào toàn bộ cơ thể ta. Trong nước, những người trẻ rất thao thức được tổ chức Gia Đình Phật Tử trở lại. Hiện giờ những người trẻ trong nước đang tổ chức lại các đơn vị Gia Đình Phật Tử khắp nơi. Chúng ta phải yểm trợ cho các anh chị em ở trong nước bằng sự tu học của chúng ta. Điều gì chúng ta có thể làm được ngoài này thì chúng ta làm để yểm trợ cho các anh chị em bên nhà. Công việc chúng ta có thể làm là tổ chức lại cho thật đàng hoàng, tạo ra hạnh phúc và hòa điệu trong những đơn vị Gia Đình Phật Tử của chúng ta. Chúng ta cũng có thể phiên tả, in ấn những tài liệu bên này và gởi về nhà để chia sẻ với họ. Vì vậy khóa tu này không chỉ phụng sự cho Gia Đình Phật Tử tại Hoa Kỳ mà còn là để phụng sự cho Gia Đình Phật Tử khắp nơi, trong cũng như ngoài nước.
Vậy thì chúng ta có cơ duyên thực tập được với nhau ba ngày này, chúng ta có nhiều pháp môn để thực tập, chúng ta có nhiều ước muốn và hoài bão muốn được thực hiện, chúng ta sẽ tu tập như thế nào để có được chuyển hóa, có được hạnh phúc và tuệ giác để đem về trao truyền lại và xây dựng cho Gia Đình của chúng ta!
Điều phục tâm hành
Chăm sóc cơn giận
Giận một người ngoài thì đó là chuyện có thể xảy ra, nhưng giận một người trong nhà, một người thương mà nếu không biết phương pháp để đối phó thì ta chưa phải là một người Phật tử chân chánh, một người con của Đức Thế Tôn. Có khi ta giận cha, có khi ta giận mẹ, có khi ta giận anh, hay chị, hay em. Có khi ta giận người bạn hôn phối của ta, có khi ta giận con của ta, con trai hay con gái. Khi những giận hờn đó phát xuất thì ta phải đối trị như thế nào trong gia đình huyết thống của ta? Và ngay trong tổ chức Gia Đình Phật Tử của ta, nếu các Huynh Trưởng giận nhau, nếu các Huynh Trưởng giận các em, nếu các em giận nhau, nếu các em giận ta, thì là Huynh Trưởng ta phải thực tập như thế nào? Phải có cách thực tập rõ ràng, phải có được sự chỉ dẫn trong từng bước. Và nếu áp dụng đúng phương pháp thì chỉ nội trong một tháng ta sẽ thấy tình hình sáng sủa hơn rất nhiều. Không tu thì thôi, mà hễ tu thì có kết quả. Không gieo hạt thì thôi, mà đã gieo hạt thì thế nào cũng lên cây. Chắc chắn như vậy. Lần sau hễ người kia nói một điều gì đó hay làm một điều gì đó làm cho ta giận thì ta phải lập tức trở về nắm lấy hơi thở. Hơi thở này là hơi thở chánh niệm, tiếng Anh gọi là mindful breathing. Tức là thở vào, ta phải biết đây là hơi thở vào. Phải thở cho thật là trọn vẹn. Ví dụ cây viết này là chiều dài của hơi thở vào. Đầu viết là điểm đầu của hơi thở vào và đuôi viết là điểm cuối của hơi thở vào. Khi thở vào ta thở một cách thong thả và nói rằng thở vào ta biết là ta đang thở vào. ‘Thở vào biết thở vào’ là một câu Bụt dạy trong kinh An Ban Thủ Ý. Nói vắn tắt là "Vào này". Ta biết đó là hơi thở vào và chỉ có một ý niệm đây là hơi thở vào mà thôi, ngoài ra không có một ý niệm nào khác. Lúc đó ta chỉ nghĩ về hơi thở vào mà thôi, không nghĩ tới chuyện gì khác hết. Người kia đang ngồi đó hay người kia mặt đang đỏ gay ta không cần biết, ta chỉ để ý đây là hơi thở vào này, đây là hơi thở ra này. Thở vào biết thở vào, thở ra biết thở ra. Bám sát lấy hơi thở, đừng buông hơi thở và hơi thở vào có thể dài 5 giây, 6 giây hay 15 giây, thì trong 5 giây, 6 giây hay 15 giây đó ta hoàn toàn chú tâm vào hơi thở vào. Đây là hơi thở vào và thấy không khí đang đi vào hai buồng phổi của ta, không có suy nghĩ gì khác. Theo hơi thở gọi là tùy tức. Thở vào xong rồi thì đến thở ra. Thở ra biết thở ra. Thở vào thở ra như vậy ba lần. Trong lúc đứng ta biết ta đang thở. Trong lúc ngồi ta biết ta đang thở. Ở tư thế nào của thân thể ta cũng thở được hết. Cho đến nằm cũng thở được. Nhưng mà phải thở với tất cả một trăm phần trăm của tâm ta, phải bám lấy hơi thở. Lúc đó ta mới tiếp tục theo dõi hơi thở và nói thầm: "Thở vào tôi biết tôi đang giận, thở ra tôi đang chăm sóc cơn giận của tôi." Cái giận của ta là một vùng năng lượng có tính chất nóng. Mà cái gì nóng là địa ngục. Nên người kia nói một câu hay làm một cái gì là chạm vào hạt giống giận của ta là hạt giống giận tóe lửa. Có một năng lượng trong người ta lúc đó là năng lượng của cơn giận. Lúc đó ta nên lập tức trở về với hơi thở và ta làm phát sinh ra một nguồn năng lượng thứ hai là năng lượng chánh niệm. Có nhiều cách làm phát khởi nguồn năng lượng thứ hai trong đó cách thở vào thở ra là một cách rất mầu nhiệm. Còn phép thực tập nữa là phép đi, đi thiền hay thiền hành cũng rất hay. Mỗi bước giúp ta chạm được hạt giống chánh niệm trong ta, làm hạt giống chánh niệm nảy bừng ra năng lượng chánh niệm, và chính năng lượng đó sẽ ôm lấy năng lượng của sự giận như một người mẹ đang ôm lấy đứa con đang khổ đau. Người mẹ không cần đánh lộn với đứa con. Năng lượng chánh niệm đi lên ôm ấp, vỗ về cái giận. Không có sự chống báng giữa hai cái vì cái giận cũng là ta mà năng lượng chánh niệm cũng là ta. Năng lượng chánh niệm ai cũng có.
Khi cơn giận phát hiện thì ta lập tức trở về hơi thở hay bước chân và nhất định không nói gì hết, không làm gì hết vì nói hay làm trong lúc mất chánh niệm thì sẽ gây đổ vỡ và ta sẽ hối hận. Thành ra ta nên ký với ta, với Bụt một hiệp ước là: "Bạch Đức Thế Tôn, con hứa với Ngài rằng lần tới khi con giận, con sẽ không nói gì hết, con sẽ không làm gì hết. Con sẽ trở về với hơi thở để con chế tác năng lượng chánh niệm, để ôm ấp nỗi khổ niềm đau của con." Viết xuống đàng hoàng. Đánh lừa ai thì được chứ đánh lừa Đức Thế Tôn, đánh lừa ta thì hơi khó. Giả bộ tu hình thức với ai thì được chứ giả bộ với Đức Thế Tôn, giả bộ tu với ta chắc khó. Thành ra ta không cần một người nào chứng minh hết. Ta viết xuống lời nguyện và có Đức Thế Tôn chứng giám. Hai thầy trò là đủ rồi. Cũng không cần thắp nhang nữa. Quan trọng nhất là tâm ta có đó và có sự kính thành. Đã hứa thì phải làm. Giận là không được nói, không được làm vì trong quá khứ, khi ta giận mà nói và làm đã gây đổ vỡ trong tự thân và trong người kia. Giữa hai người với nhau, giữa cha và con, giữa mẹ và con, giữa ta và người hôn phối đã có sự đổ vỡ thì bây giờ nhất định không làm nữa. Mà phải cương quyết lắm mới được vì đã có một lề thói quen rồi, nếu không phát tâm dũng mãnh thì không thể nào làm khác được.
Luộc khoai cho chín
Trong khi ta dùng năng lượng chánh niệm cái giận thì ta tiếp tục thực tập hơi thở và bước chân có ý thức. Cũng như khi luộc khoai, trước hết ta rửa khoai bỏ vào nồi, đổ nước vào, đậy nắp lại và đốt lửa. Ta biết rằng nếu tắt lửa sau 5 phút thì khoai làm sao chín được. Vì vậy ta phải để lửa cháy ít nhất là 20 phút, 25 phút thì khoai mới chín. Cũng vậy, cơn giận của ta là một củ khoai sống và nếu ta chỉ có chánh niệm độ vài phút thì chắc củ khoai đó không chín. Cho nên phải liên tục thở trong chánh niệm, đi trong chánh niệm, đôi khi phải cần 15 phút, nửa giờ hay một giờ thì lúc đó cơn giận mới đi xuống. Rồi ta bắt đầu nhìn thấy cái giận này có vì sự u mê ở phía trong. Cái u mê thứ nhất là ta tưởng rằng người kia là nguyên do chính của sự đau khổ của ta, ai dè nguyên do chính của sự đau khổ trong ta là cục giận của ta hơi lớn. Một người khác nghe câu đó thì không nổi giận mau như ta, nhưng ta nổi giận vì cục giận, cục lửa trong ta lớn quá. Đụng tới một cái là nổ liền. Còn người kia, trong lòng họ cũng có những nỗi bực niềm đau mà vì họ không biết tu nên họ hành xử như vậy, cũng tội nghiệp thôi. Bây giờ ta phạt họ thì khổ thân họ. Nếu ta giỏi, ta tu được, ta độ cho ta, ta tới độ cho người đó thì mới hay chứ bây giờ ta phạt người đó thì có ích gì cho người đó đâu. Thành ra trong khi thở như vậy ta cũng thấy được những điều rất sâu. Điều thứ nhất là nguyên do đầu tiên của sự đau khổ của ta là chính cái thói quen hay giận hờn của ta, cái cục giận trong ta quá lớn. Điều thứ hai ta thấy là người kia cũng có nhiều nỗi khổ niềm đau và sự bất an trong lòng. Và vì họ không biết tu, chưa học phương pháp tu nên làm vung vãi ra người xung quanh những nỗi khổ niềm đau của họ. Đôi khi người đó cũng đâu muốn làm người chung quanh khổ nhưng vì không biết tu nên mới nói ra điều gì, làm chuyện gì cũng khiến người chung quanh khổ hết, rất là tội nghiệp.
Ta phạt người đó thì tội nghiệp cho họ. Chỉ có giúp người đó mới có nghĩa thôi. Thường thường khi ta đau khổ, ta giận thì ta cứ tin một cách rất dại khờ rằng nếu người kia làm cho ta đau khổ thì bây giờ ta làm lại cho người kia đau khổ để trừng phạt cho đã tức thì ta sẽ bớt khổ. Vì vậy ta tìm một lời nói cho nặng để người kia đau điếng thì ta mới bớt khổ. Đó là một khuynh hướng bạo động trong lòng ta. Ta nói xong thấy người kia khổ quá chừng. Rồi người kia cũng muốn bớt khổ nên tìm một câu nói nặng trở lại. Tới phiên ta khổ thêm và lại tìm cách chống lại. Thế là hai bên leo thang làm khổ nhau. Chuyện này xảy ra thường lắm. Giữa cha mẹ với nhau, giữa bạn hữu với nhau, và giữa cha với con, giữa mẹ với con. Ta rất vô minh, rất dại dột. Ta đập vỡ hạnh phúc giữa ta và gia đình ta bằng những lối hành xử rất ngây thơ như vậy. Nên Đức Thế Tôn dạy rất rõ là khi giận thì không nói gì hết, không làm gì hết mà chỉ nên tìm cách thoát ra khỏi cái hoàn cảnh đó. Ta có thể đi ra ngoài, không khí ở ngoài rất trong rất mát và ta có thể đi thiền hành. Trong khi đi thiền hành như vậy ta thực tập thở trong chánh niệm để ôm ấp nỗi khổ niềm đau, rồi từ từ ta mới chuyển hóa được năng lượng nóng bức trong người. Có thể sau 20 phút đi thiền hành ta thấy khỏe nhẹ. Nếu ta làm đúng được theo lời chỉ dẫn của Bụt, của thầy thì lúc đó ta mới thấy tội nghiệp người kia. Bây giờ ta khỏe ta nhẹ còn người kia vẫn đang ở trong địa ngục, cái mặt còn hầm hầm và không biết cách thoát. Địa ngục đâu phải tìm xa đâu, địa ngục thẳng từ trong tâm đi ra. Lúc đó ta thấy tội nghiệp người đó, ta nghĩ thôi để ta về giúp người đó. Ta giúp người đó bằng cách về gặp họ và nói dịu dàng. Tại ta khỏe rồi mà, nên ta giúp người đó tu. Khi mà trong lòng ta thấy tội nghiệp và muốn giúp thì ta biết ta đã chuyển hóa rồi đó. Cái giận chuyển hóa thành cái thương. Cả cái giận và thương, cả hai cái đều có tính cách hữu cơ (organic). Ta biết rằng bông hoa kia là một thực tại hữu cơ, tuy bây giờ nó tươi, đẹp, thơm như vậy đó nhưng 10 ngày sau nó thành ra rác. Còn rác xấu, hôi nhưng nếu ta biết cách làm nó trở thành phân bón, thành ra xà lách, cà chua, dưa hấu, thành ra hoa trở lại. Vì vậy rác với hoa đều là những thực tại hữu cơ. Cái giận và niềm thương cũng vậy, cũng là hữu cơ. Tình thương mà không biết cách giữ gìn thì trở thành cái giận hờn, thù ghét, mà nếu biết cách thì cái giận đó chuyển hóa lại thành tình thương được. Vì vậy nếu ta có giận, có buồn, hay thù ghét thì đừng có sợ. Học pháp của Đức Thế Tôn đi rồi ta có thể chuyển chất hữu cơ này thành chất hữu cơ kia. Hay vậy đó. Đó là chuyển hóa và trị liệu.
Ba câu thần chú
Biết phương pháp thực tập rồi thì mỗi khi giận ta phải làm theo phương pháp này là khi giận thì phải trở về với hơi thở, chế tác chánh niệm, ôm ấp lấy sự giận đó, và sau đó phải nói cho người kia biết là ta giận, ta đang đau khổ, và ta muốn cho người kia biết. Tại vì nói ra được thì nhẹ, nhưng phải nói bằng lời nói rất ái ngữ. Theo pháp môn này thì ta không được giữ cái giận riêng cho ta quá 24 tiếng đồng hồ vì nó có thể làm ung thối tâm ta. Cho nên phải nói ra và câu nói như thế này:
Câu thứ nhất: "Em đang giận, em đang khổ, và em muốn anh biết chuyện đó" hoặc là "anh đang giận, anh đang khổ và anh muốn em biết chuyện đó" hoặc là "ba đang giận, ba đang khổ, và ba muốn con biết chuyện đó."
Đó là câu nói của ta nhưng ta phải nói bằng giọng rất bình tĩnh. Tại vì nếu giữ cái giận riêng cho ta thì rất nguy hiểm. Lỡ ta thực tập chưa thành công thì nó làm ung thối trong tâm ta, rất là nguy. Theo phương pháp đạo Bụt thì ta không đè nén cái giận xuống. Đè nén nguy hiểm lắm. Một ngày nào đó nó sẽ nổ bùng lên làm tan xác ta và tan xác người kia luôn. Cho nên phương pháp Đức Thế Tôn dạy là không đè nén mà ôm lấy và chuyển hóa. Trong khi chờ đợi sự chuyển hóa thì ta có thể cho người kia biết là ta đang giận, ta đang khổ và muốn người đó biết điều đó cho ta.
Câu thứ hai: "Em đang cố gắng với tất cả sức của em, nghĩa là em đang thực tập theo lời Bụt dạy, lời thầy dạy, nghĩa là em không nói, không làm điều có thể gây đổ vỡ và em đang trở về hơi thở của em để thực tập chuyển hóa.”
Khi người kia nghe câu nói đó thì sẽ nể ta, sẽ thấy ta là người biết quay về thực tập, ta đã cố gắng không nói, không làm trong cơn giận và người đó cũng sẽ quay trở về với sự thực tập của người đó. Thành ra một mũi tên mà ta có thể cứu được hai con chim. Nghĩa là một mũi tên bắn vào cành cây, hai con chim bay mất. Còn nếu ta bắn một con, người kia bắn một con thì chết hết cả hai. Bắn vào cành cây là tốt nhất.
Câu thứ ba là "Anh ơi, anh giúp em đi!" hay "Em ơi, em giúp anh đi!" hay "Ba ơi, ba giúp con đi!”
Tôi đề nghị là nếu trong vòng 24 tiếng đồng hồ mà ta chưa thể nói ba câu đó bằng giọng bình tĩnh thì ta phải viết ba câu đó xuống và đưa cho người kia, miễn là đừng quá 24 tiếng. Tại vì đưa cho người kia mà người kia đọc rồi thì ta bớt khổ liền. Phương pháp của Bụt không phải là phương pháp đè nén. Ta nhận diện cái giận bằng năng lượng chánh niệm, ôm ấp cái giận bằng năng lượng chánh niệm, chuyển hóa cái giận bằng năng lượng chánh niệm. Chánh niệm càng hùng hậu thì công việc càng dễ dàng. Muốn cho chắc ăn, ta lấy một miếng giấy rồi viết ba câu đó xuống rất rõ ràng bằng tiếng Việt hay bằng tiếng Anh. Viết trên miếng giấy nhỏ bằng tấm danh thiếp rồi bỏ vào ví. Khi nào giận thì rút tờ giấy đó ra và suy nghĩ xem ta nên đưa liền cho người đó hay thực tập trước. Nếu thực tập giỏi thì đâu cần phải đưa, tới nói thẳng thôi. "Anh ơi, em đang giận anh lắm đó. Em đang khổ lắm và em muốn anh biết chuyện này. Anh giúp em đi!" Nghĩa là có ý muốn nói anh đừng có nhởn nhơ, anh tưởng là mọi chuyện êm đẹp thì không đúng...
Một mũi tên cứu được hai con chim
Khi ta đưa người kia cái tờ giấy có 3 câu đó thì người kia sẽ giật mình và thấy là họ đã vô ý, đã thiếu chánh niệm, đã gây đau khổ cho người họ thương. Thì người kia sẽ suy nghĩ là họ đã làm gì, đã nói gì đến nỗi làm ta giận như vậy. Đọc tới câu thứ hai: "Em đang làm hết sức của em" thì họ thấy người này đáng quý thật, vì khi giận người này đã không nói năng gì, không làm điều gì, chỉ trở về với hơi thở, đi thiền hành và chăm sóc cơn giận thì thật là hay. Khi đọc xong câu đó thì thế nào người đó cũng trở về với hơi thở và sự thực tập. Một mũi tên cứu được hai con chim. Và câu thứ ba thì rất hay: "Giúp em với!" vì trong khi ta giận thì ta hay chứng tỏ là ta không cần người kia: "Tôi không cần anh, để tôi yên, tôi tự sống một mình được mà!" Con người sao mà dại quá chừng! Người kia thấy ta không hạnh phúc, người kia tới gần hỏi: "Em có sao không? Em có giận anh không?" Ta sẽ sừng sộ: "Giận hả? Tại sao tôi phải giận?" Nói vậy đó. Ta không công nhận sự thật. Và nếu người kia nói: "Anh thấy em khổ quá đi" thì ta trả lời: "Khổ hả? Tại sao tôi phải khổ?" Rồi người kia thấy tội nghiệp, để tay trên vai ta thì ta né ra và nói: "Để tôi yên, kệ tôi!" Đó là tánh con nít của mọi người chúng ta. Khi giận thì không muốn người kia động tới và không muốn kêu cứu với người đó. Tự ái ta rất lớn. Thà rằng ta đóng cửa, khóa lại và khóc thầm trong phòng hơn là nói với người kia là ta khổ. Vì vậy khi nói được với người kia "Giúp em với!" thì đó là lời nói của yêu thương. Tại vì khi ta cam kết sống với người đó suốt đời thì ta đã cam kết sẽ chia sẻ những khổ đau và hạnh phúc. Nhưng khi ta khổ đau mà nói: "Em không cần anh!" thì ta đã phản bội lời cam kết.
Đối với con ta cũng vậy thôi. Là cha con, mẹ con với nhau thì ta phải chia sẻ những khó khăn và hạnh phúc với nhau. Tại sao ta tự ái, để tự ái chia rẽ hai người? Cái đó không phải là tình thương đích thực. Khi có tự ái ở trong thì tình thương đó không phải là tình thương đích thực. Thành ra câu số ba quan trọng lắm. Câu "Giúp em đi!" chứng tỏ ta cần người kia. Khi thương ta phải biết nói câu đó. "Anh hãy cắt nghĩa cho em (hoặc em hãy cắt nghĩa cho anh) là tại sao anh nói câu đó, anh làm điều đó cho em khổ?" Cắt nghĩa rồi thì người kia sẽ hối hận, người kia sẽ thở và nói câu xin lỗi. Và khổ đau sẽ hết, tình thương sẽ được tái lập trở lại. Mà nếu sau khi thực tập thấy lỗi của ta thì ta nói rõ ràng: "Sau khi thực tập em thấy lỗi của em rất là nhiều, em xin lỗi anh." Cứ nói sự thật ra như vậy. Nếu ta là người chồng thì ta cũng viết như vậy. "Anh đang khổ, anh đang giận em lắm. Và anh muốn em biết cho điều đó. Anh đang cố gắng thực tập theo lời thầy dạy. Em giúp anh một phần với, em là người đạo hữu của anh, em là người bạn đời của anh trên con đường thực tập mà." Đối với con, ta cũng có thể thực tập như thế: "Con ơi, bố đang đau khổ, bố đang giận con và bố muốn con biết cho bố điều đó. Bố đang cố gắng thực tập đây, con giúp bố đi". Thì ta phải trở về giúp bố ta. Bố ta đang khổ, bố ta đang thực tập thì ta cũng phải thực tập. Thành ra lời nói đó là lời nói của thương yêu đích thực và không có dấu hiệu của cái gọi là tự ái trong đó. Chứ nếu ta nói: "Mình là cha nó chứ nó đâu phải ông nội mình mà viết thư cho nó!" thì lúc đó cái tình giữa hai người chưa phải là tình thương đích thực. Và bà có thể viết câu này nhưng đừng đưa cho ông coi, bà đọc thôi (ông cũng vậy, ông có thể viết câu này nhưng đừng đưa cho bà coi, ông đọc thôi): "Em đang giận anh lắm, em muốn trừng phạt anh, em muốn làm anh khổ cho bõ ghét. Nhưng em biết nếu có tai nạn xảy ra mà anh chết thì em sẽ suốt đời khóc thương anh". Cứ đọc câu đó đi là sẽ hết giận liền lập tức. Quý vị cứ ghi câu đó vô. Viết cho ta đọc thôi, giữ kỹ trong ví của ta, đừng cho ổng thấy. Mỗi khi giận quá thì rút tờ giấy đó ra đọc!
Chất độc
Trong con người chúng ta có hai chất độc, hai chất độc này làm cho ung thối con người của chúng ta, làm cho chúng ta không có hạnh phúc. Chất độc thứ nhất gọi là sự thèm khát, và chất độc thứ hai gọi là hận thù. Hận thù là một năng lượng ở trong con người của ta. Bắt đầu thì ta cũng như người khác, hạt giống của sự hận thù nhỏ thôi, nhưng tại vì ta không biết sống chánh niệm cho nên mỗi ngày ta cứ tưới tẩm hạt giống hận thù, giận hờn ở trong ta. Hạt giống đó lớn lên từ từ rồi biểu hiện ra trong lời nói và trong hành động. Và khi mà có năng lượng của sự sân hận, của sự oán thù ở trong người của ta rồi thì những lời nói, hành động của ta có công dụng làm đổ vỡ. Đổ vỡ cái gì? Đổ vỡ sự liên hệ giữa ta và người ta thương. Bắt đầu thì chỉ có một sự bực mình nho nhỏ, nhưng mà ta đâu có biết phương pháp để quản lý sự bực mình đó, vì vậy cho nên mỗi ngày bực mình thêm một chút, và sự bực mình đó trở thành sự hờn giận, sự hờn giận trở thành sự hận thù, đó là những cốt tủy khổ đau trong con người của ta. Khi đó những gì ta nói và làm đều có thể gây đổ vỡ cho người bạn lứa đôi của ta. Ban đầu khi hai người mới cưới nhau thì tin tưởng rằng nếu không có nhau chắc là sống không nổi. Sau đó một thời gian, không biết tu học thì hai người gây khổ đau cho nhau, đầy buồn giận, đầy oán thù, rồi bây giờ không thể nhìn nhau được nữa. Ban đầu thì hai người ngồi đó chỉ nhìn nhau là đủ no rồi, thấy người kia sao mà dễ thương quá, nếu người đó không có mặt chắc đời sống ta không có ý nghĩa. Bây giờ đây khi nhìn nhau sao ta thấy mặt người kia dễ ghét quá chừng, nếu ta có tự do thế nào ta cũng ly dị để khỏi phải thấy nhau nữa. Ban đầu thì nói rằng nếu không có em thì đời đâu còn có nghĩa gì nữa; bây giờ ta lại nói rằng nếu có em thì chắc anh sống không nổi quá.
Thương nhau là nhìn nhau
Có một tờ báo phụ nữ nổi tiếng ở Paris là tờ báo Elle có gởi một đặc phái viên tới Làng Mai để phỏng vấn các sư cô. Sau khi các sư cô đòi điều kiện là phải ở tu một tuần rồi mới cho phỏng vấn, bà ta cũng chấp nhận. Và sau khi ở tu một tuần rồi thì bà thích, bà thấy sao mà các sư cô sống với nhau có vẻ hạnh phúc, hài hòa và đem lại rất nhiều hạnh phúc cho những người tới với họ. Hôm đó tôi từ Sơn Cốc tới thăm Xóm Mới thì các sư cô sắp đặt để cho nhà báo đó được gặp tôi. Các sư cô dặn trước là gặp tôi đừng có hỏi lý thuyết mà hãy hỏi những câu hỏi rất thực tế vì tôi không có nhiều thì giờ. Bà ta hỏi tôi có phép thực tập nào giúp cho những người phụ nữ Pháp không thì tôi mới đề nghị phương pháp thực tập sau đây:
Hai vợ chồng người Pháp đang ngồi ở trong phòng khách, đang nhìn về hướng vô tuyến truyền hình thì người vợ mới xoay lại người chồng nói rằng: ‘Anh ơi! Anh có thể tắt máy truyền hình để em có chuyện rất quan trọng muốn nói với anh’. Người chồng có vẻ hơi bực, nhưng vì người vợ nói với tất cả sự dễ thương, nên người chồng đồng ý. Người chồng bắt buộc phải tắt Ti-vi, nhưng hễ tắt Ti-vi thì bắt buộc phải nhìn mặt vợ, mà bây giờ nhìn mặt vợ thì không có gì là hạnh phúc lắm. Lúc đó bà hãy thở vào một hơi cho sâu và thở ra một hơi cho thong thả rồi nhìn vào mặt ông, bà nói: ‘Anh ơi! Chúng ta có phải là một cặp vợ chồng có hạnh phúc không?’ Hỏi với tất cả trái tim của bà. Nếu câu trả lời là không thì tại sao, vì những lý do gì ta không có hạnh phúc? Tại sao ta có nhà, có xe, có công ăn việc làm, có địa vị trong xã hội, có trương mục trong ngân hàng, nhưng ta không có hạnh phúc? Nếu bà hỏi câu hỏi đó bằng tất cả trái tim của bà, đừng hỏi bằng giọng thách thức, châm biếm, buộc tội người đàn ông, thì người đó bắt buộc phải thực tập nhìn sâu với bà, nhìn sâu vào tình trạng hiện thời, để thấy tại sao họ có những điều kiện như vậy mà lại không có hạnh phúc.
Tôi nói với bà là tắt Ti-vi đi và cùng ngồi đó để nhìn vào tình trạng của họ. Đó là một phương pháp thực tập thiền quán. Nếu hai vợ chồng làm giỏi thì trong vòng một giờ đồng hồ là có thể tìm ra được lý do khiến cho họ đang không có hạnh phúc. Họ đã dại dột như thế nào, họ đã vụng về như thế nào để gây khổ đau cho nhau, gây khổ đau bằng lời nói và bằng hành động. Nếu nhìn sâu ta thấy rõ ràng rằng tại vì ta không quản lý được sự bực mình, sự giận hờn trong ta nên sự giận hờn đó được biểu lộ bằng lời nói, bằng hành động, làm đổ vỡ và sau đó chúng ta không thể nhìn nhau được nữa. Vì vậy cho nên những phương pháp Bụt dạy làm thế nào để quản lý cái giận, ôm ấp cái giận, chuyển hóa cái giận, là những phương pháp rất quý báu.
Quản lý những hạt giống tiêu cực
Nếu ta tự nhận ta là một người đệ tử của Đức Thế Tôn thì ta không thể không học những phương pháp đó, không thể không thực tập những phương pháp đó. Các thầy và các sư cô cũng có hạt giống của sự giận hờn, của sự bực bội, của sự thèm muốn, nhưng các thầy và các sư cô đã thực tập để quản lý được những hạt giống giận hờn, bực bội và thèm muốn của họ. Vì vậy cho nên các thầy và các sư cô tương đối có hạnh phúc, an lạc, vững chãi, thảnh thơi và có tình thương. Ta phải học những phương pháp đó để có thể có được sự hạnh phúc và an lạc như các vị xuất gia vậy.
Khi chúng ta được hướng dẫn đi thiền hành, khi chúng ta được hướng dẫn ăn cơm trong an lạc, khi chúng ta theo dõi hơi thở, tức là chúng ta có cơ hội trở về với chính ta, với giây phút hiện tại. Nhờ đó mà ta có thể chế tác ra năng lượng chánh niệm và chính năng lượng chánh niệm đó sẽ có tác dụng nhận diện và ôm ấp nỗi khổ niềm đau của chúng ta. Nếu không có năng lượng chánh niệm thì niềm đau kia sẽ tràn lấp, thúc đẩy chúng ta làm những điều và nói những điều gây ra đổ vỡ. Trong ta có những nguồn năng lượng, hạt giống tốt đẹp, lành mạnh và tích cực như năng lượng của tình thương, của sự tha thứ bao dung, như chí nguyện lợi tha, mong cho xã hội, cho nhân loại được tốt đẹp trong tương lai, mong cho đoàn thể mình có khả năng đem lại niềm vui, sự vững chãi, thảnh thơi và hạnh phúc cho các đoàn sinh của mình và cho gia đình của họ. Nhưng trong ta cũng có những nguồn năng lượng ma quái, tiêu cực, không lành mạnh. Và ta phải học làm thế nào để cho những năng lượng không lành mạnh, xấu ác này không tác yêu tác quái, sai khiến ta đi theo con đường của sự gây ra bạo động, tan vỡ và chết chóc. Có nhiều khi ta biết chắc rằng nếu nói câu đó thì ta sẽ gây khổ đau và tan nát, đỗ vỡ trong gia đình ta, trong đoàn thể ta, trong mối liên hệ của ta đối với người ta thương, nhưng ta vẫn cứ nói những câu như vậy, vẫn cứ làm những cử chỉ như vậy. Tại sao? Tại vì trong ta có những lực lượng của ma quái, của sự thèm khát, của sự cứng đầu, cho mình là đúng, tập khí nóng giận, tập khí muốn gây chia rẽ, muốn làm cho bỏ ghét, muốn trừng phạt người kia khi người kia không làm vừa ý mình. Những năng lượng của thói quen như thế đã được un đúc lâu ngày. Danh từ Phật học gọi là tập khí. Khí là khí công, là năng lượng. Tập là cái thói đã được un đúc, huân tập lại trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Tập khí tức là thói quen, lề thói đã được un đúc lâu ngày và nó kết lại dưới hình thức của hạt giống trong tâm thức ta và có khi nó biểu hiện lên trên vùng ý thức như hình thái của năng lượng. Chúng thường âm thầm sai sử ta. Tuy nhiên tập khí cũng có hai loại: tập khí tốt và tập khí không tốt. Ví dụ khi thấy một người ngã xuống, ta không cần suy nghĩ gì cả, tự nhiên chạy tới đỡ người đó lên, hỏi han và chăm sóc cho người đó. Đó gọi là tập khí tốt. Vì vậy, tu tập là để có khả năng nhận diện được tập khí và không để cho tập khí đó tác yêu tác quái, sai khiến ta nói những điều ta thật sự không muốn nói, làm những điều ta thật sự không muốn làm. Ta có đủ thông minh để biết rằng nếu nói như thế thì sẽ tan nát hết, làm như thế thì sẽ tan nát hết, nhưng tại sao ta đã nói, đã làm để gây ra sự tan nát, rồi ta đấm ngực, bứt tóc và than rằng: "Trời ơi, tại sao mình ngu dại quá vậy? Tại sao mình nóng nảy quá vậy?" Và ta tự hứa là lần sau ta sẽ không phạm vào lỗi lầm ấy nữa. Ta quỳ trước bàn thờ Bụt, bàn thờ tổ tiên và tha thiết, thành khẩn muốn làm mới, muốn thay đổi và có Bụt, có tổ tiên chứng giám cho ta. Ấy vậy mà khi hoàn cảnh xảy ra, ta lại phạm vào lỗi lầm ấy y như trước; ta lại nói những câu ta không muốn nói, lại làm những hành động ta không muốn làm và lại tạo ra sự tan vỡ một lần nữa. Ta trở nên bất lực, chán ghét chính ta, nghĩ rằng những tập khí ấy mạnh hơn ta, ta bó tay chịu thua. Cái đó gọi là ma chướng, là tập khí xấu mà trong người nào cũng có. Những tập khí xấu đó không hẳn là do ta làm ra. Đôi khi nó đã được trao truyền lại từ những thế hệ ông bà, tổ tiên, cha mẹ ta. Ta là người đã thừa kế tất cả từ cha mẹ ta. Tổ tiên, ông bà và cha mẹ đã trao truyền rất nhiều những hạt giống cho ta trong đó có những hạt giống rất tích cực, đẹp đẽ và thánh thiện. Nhưng họ cũng trao truyền cho ta những hạt giống của khổ đau, tuyệt vọng và giận hờn. Gia tài của ta có đủ những hạt giống của hạnh phúc, của khổ đau, của hy vọng và của thất vọng. Nếu không tu tập, mỗi ngày ta tạo điều kiện cho những hạt giống của khổ đau, tuyệt vọng, giận hờn, trách móc và thèm khát trong ta được tưới tẩm, thì ta sẽ trở thành con người khổ đau và tuyệt vọng, ta sẽ làm khổ những người ta thương. Thật ra ta đâu có muốn làm như vậy.
Hạ thủ công phu
Vì thế cho nên tu tập nghĩa là phải nhận diện hạt giống tốt mà ta đang có, và mỗi ngày ta phải tạo điều kiện để cho những hạt giống tốt ấy được tưới tẩm, cho chúng lớn lên và tìm cách duy trì, giữ gìn để những hạt giống xấu đừng bị tưới tẩm và nhất định là không để cho người khác tưới tẩm. Đó là nội dung của sự thực tập tinh tấn (tấn lực) trong giáo lý ‘tứ chánh cần’. Đó là ý nghĩa sâu sắc của chữ tấn mà các anh, các chị thuộc cấp Tấn phải hiểu rõ.
Chánh niệm là nguồn năng lượng có khả năng nhận diện được những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Khi đi tham dự những khóa tu là ta có cơ hội để chế tác ra năng lượng chánh niệm qua cách thở, đi (thiền đi), ngồi (thiền ngồi), ăn cơm trong im lặng, rửa bát v.v... Chánh niệm là năng lượng giúp ta có mặt đích thực trong từng giây từng phút, là khả năng an trú trong hiện tại. Chánh niệm là năng lượng của Bụt. Trong ta có hạt giống của chánh niệm và nếu ta học theo các thầy, các sư cô đi từng bước trong chánh niệm, thì mỗi bước chân như thế sẽ làm cho hạt giống chánh niệm lớn lên mạnh mẽ. Trong những ngày vừa qua quý vị đã có cơ hội quan sát cách đi, đứng, ngồi, nói năng và tiếp xử của các thầy các sư cô; quý vị thấy họ đi, đứng, ngồi, ăn cơm v.v... có chánh niệm. Đó là những bài pháp hùng hồn nhất của một người tu, là Phật sự của họ với tư cách một người tu. Trong đời sống hàng ngày, nếu ta không đi, đứng, thở, nói, cười, tiếp xử và làm việc trong chánh niệm, ta không chế tác được năng lượng chánh niệm, không có sự vững chãi và thảnh thơi, thì làm sao ta có thể giúp người khác được. Nếu tự thân ta không thực hiện được những yếu tố đó thì khi đi tổ chức khóa tu, hướng dẫn khóa tu, ta đâu có gì để cống hiến. Ta đâu có thể đi bán hàng giả. Vì vậy, điều quan trọng là không phải ngồi với nhau hàng giờ để nói thao thao bất tuyệt về những giáo lý, mà phải thật sự hạ thủ công phu, nghĩa là phải áp dụng thực tế những giáo lý mình đã học được vào trong đời sống tu tập hàng ngày. Một giờ học giáo lý phải là năm giờ thực tập. Ngày Gia Đình Phật Tử tụ về để sinh hoạt là ngày để cho ta thực tập chánh niệm và ta phải có những giờ chánh niệm, tổ chức những ngày chánh niệm để cho các anh, các chị trưởng và các em có cơ hội thực tập chánh niệm như các thầy và các sư cô ở chùa. Có năng lượng chánh niệm thì ta mới có khả năng nhận diện được những tập khí ma quái trong ta và chỉ khi nào ta nhận diện được nó thì ta mới có thể chuyển hóa nó. Mỗi khi cái tập khí đó biểu hiện thì chỉ cần nhận diện đơn thuần thôi, rồi ta mỉm cười và nói: "Anh bạn ơi, ta biết ngươi có mặt đó, nhưng ngươi chẳng làm gì được ta đâu." Nói như vậy thì cái năng lượng ma quái đó mới ngưng tác yêu tác quái, mới không sai sử ta mà thôi. Còn nếu ta không có khả năng nhận diện nó thì nó sẽ tiếp tục tác yêu tác quái, xúi ta làm những cái mà ta không muốn làm, nói những câu mà ta không muốn nói.
Tôi nhớ có một chàng thiền sinh trẻ người Hoa Kỳ về Làng Mai cách đây độ chừng tám năm để tu tập. Anh thiền sinh đó sống và tu tập rất hạnh phúc với các thầy và các sư chú ở Xóm Thượng, chùa Pháp Vân. Anh ta thực tập đi thiền, ngồi thiền, rửa chén, nấu cơm, giặt áo, chùi cầu tiêu, xếp đặt thiền đường giống như các thầy, các sư chú và anh ta được hướng dẫn để làm những công việc đó trong chánh niệm. Anh ta sống rất hạnh phúc, vững chãi và thảnh thơi. Thay vì chỉ ở một tuần lễ như đã dự định, anh ta đã xin phép ở luôn ba tuần lễ với tăng thân, với các thầy, các chú để được tiếp tục tu tập. Trong tu viện, người nào cũng thực tập đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc, nói, cười trong chánh niệm nên anh ta được nâng đỡ bởi năng lượng tập thể của Tăng Thân, và sự tu tập của anh ta tiến bộ rất nhanh. Tới tuần thứ ba, anh ta được phái đi chợ mua một ít thực phẩm để làm món ăn mừng ngày Tạ Ơn (Thanksgiving) được tổ chức theo tinh thần đạo Bụt. Đây là lần đầu tiên anh ta đi chợ sau hơn hai tuần tu tập tại Làng. Theo truyền thống đạo Bụt, ta có bốn sự biết ơn cao quý (tứ trọng ân), đó là ơn cha mẹ, ơn thầy tổ, ơn bè bạn và ơn mọi loài chúng sanh. Thiền sinh của mỗi nước tới với nhau để cùng nấu một món quốc hồn quốc túy của nước mình dâng lên bàn thờ Tổ Tiên. Thiền sinh Việt Nam thì nấu món ăn Việt Nam để dâng cúng, ví dụ như chả giò hoặc xôi năm màu v.v... Thiền sinh Hòa Lan thì họp lại với nhau để cử một người đi chợ mua thức ăn làm một món ăn Hòa Lan, thiền sinh Đức làm món ăn truyền thống của họ, thiền sinh Mỹ làm món ăn Mỹ. Thầy không nhớ năm đó thiền sinh Mỹ đã dâng cúng món gì, có thể là món bánh Pumkin Pie (bánh bí rợ) hay Apple Pie (bánh táo). Hôm ấy anh ta đi chợ ở thành phố St. Foy La Grande, một thành phố gần Làng Mai. Trong khi mua sắm, tự nhiên anh thấy có một nguồn năng lượng rất tiêu cực trào lên. Anh cảm thấy trong người rất bất an, cử chỉ và bước chân của anh ta trở nên hấp tấp, vụt chạc và cuống quýt; một nguồn năng lượng mà trong hơn hai tuần qua anh không hề có bỗng xuất hiện. Hơn hai tuần qua được sống trong tăng thân có sự tu tập vững chãi, thảnh thơi, nên sự thực tập chánh niệm của anh rất vững. Nhờ vậy mà năng lượng bất an, vụt chạc trong anh không có cơ hội trào lên. Bây giờ một mình ra chợ, không có sự yểm trợ của tăng thân, nên trong khi anh mua sắm thực phẩm thì năng lượng đó lại trào lên. Cố nhiên là trước khi tới Làng Mai năng lượng tập khí đó đã trào lên nhiều lần, nhưng trong ba tuần ở Làng Mai nó không xảy ra. Đó là nhờ sự nâng đỡ bởi năng lượng tu tập của tăng thân. Cho nên có tăng thân yểm trợ, nâng đỡ là sự may mắn rất lớn. Ngạn ngữ có câu: ‘ăn cơm có canh, tu hành có bạn’ là ý nghĩa đó. Lần này hoàn cảnh trở nên khác hẳn vì anh ta đã được thực tập ba tuần lễ trong tu viện và năng lượng chánh niệm rất hùng hậu nên anh có thể nhận diện được tập khí hấp tấp, lo lắng ấy khi nó phát khởi. Khi có một năng lượng của tập khí tiêu cực phát khởi mà ta không nhận diện được nó thì nó sẽ tác yêu tác quái ta, nó sai khiến ta nói hoặc làm những điều gây đổ vỡ, xa cách; nhưng khi ta đã nhận diện được nó rồi, thì sức mạnh của nó bị suy yếu dần đi. Do đó, khi anh ta nhận diện được trong mình đang bị nguồn năng lượng của tập khí hấp tấp, vụt chạc sai sử thì anh ta lập tức trở về với hơi thở và thực tập: ‘Thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười’. Anh thấy rõ ràng cái năng lượng này là năng lượng của mẹ anh vì mẹ anh là người thường sống trong sự cuống quýt, vụt chạc, bất an và bà đã trao truyền cho anh cái tập khí không lành mạnh đó. Cho nên với hơi thở chánh niệm, anh ta nhận diện được ngay đây là năng lượng tập khí mà mẹ đã truyền lại cho mình; anh mỉm cười và nói: " Chào Mẹ! con biết mẹ đang có mặt với con." Khi nói ra được câu nói đó thì tự nhiên cái năng lượng kia tan biến đi và anh phục hồi được sự bình an, vững chãi, thảnh thơi trở lại. Từ giây phút đó, anh ta giác ngộ rằng không có tăng thân xung quanh thì sự thực tập khó hơn trăm ngàn lần và phải thường trực theo dõi hơi thở chánh niệm thì mình mới không bị đánh mất mình, mới có thể duy trì được sự vững chãi, thảnh thơi. Với sự tỉnh thức ấy, anh ta đã làm tiếp công việc đi chợ của anh trong hơi thở có ý thức, trong sự vững chãi và thảnh thơi. Sau khi đi chợ về, anh ta kể lại chuyện đó cho thầy và tăng thân nghe.
Lực lượng ma quái
Trong chúng ta, người nào cũng có những nguồn năng lượng của tập khí ma quái này: nó hay xúi ta nói hoặc làm những điều ta không muốn nói, không muốn làm. Ta có đủ thông minh, lý trí để biết rằng nếu nói điều đó là dại dột; nếu làm cái đó là sẽ gây sự đổ vỡ, tan nát, ấy vậy mà ta vẫn riu ríu làm theo. Vì vậy, tu tập là để chế tác năng lượng chánh niệm để có thể nhận diện được những lực lượng ma quái đó. Và khi nhận diện được chúng rồi, ta mỉm cười với chúng thì chúng sẽ không thể làm gì được ta nữa. Đức Thế Tôn đã từng thực tập như vậy. Ngài đã thành đạo rồi mà thỉnh thoảng chúng vẫn còn xuất hiện và mỗi khi chúng xuất hiện để dụ dỗ, sai khiến Ngài, thì Ngài chỉ cần mỉm cười là chúng tự khắc tan biến. Có một lần nọ, hình như vào năm thứ hai sau khi thành Đạo, Ngài về thăm quê hương và gia đình ở tại thành Ca Tỳ La Vệ. Sau khi thuyết pháp cho hoàng gia, lắng nghe những khó khăn, những khổ đau của hoàng gia, của đất nước, Ngài chia sẻ những ý kiến để xây dựng một nước hùng mạnh, có nhân đạo, xong Ngài cùng với một số các thầy vượt biên giới qua miền Bắc nước Kosala. Sáng hôm đó, trong khi Ngài đang ngồi thiền với các thầy thì tự nhiên Ma Vương tới thăm. Ma Vương xuất hiện dưới hình dáng của một thân hào nhân sĩ, râu tóc bạc trắng, mặt mày hồng hào muốn được yết kiến với Đức Thế Tôn. Ma Vương nói: "Thưa Đức Thế Tôn, Ngài là người rất hiếm có. Ngài có tài năng hùng biện, có lòng từ bi rộng lớn, trí tuệ cao vời vợi; nếu Ngài đem tất cả những cái đó ra dùng để xây dựng đất nước thì Ngài sẽ trở thành một nhà chính trị rất lỗi lạc và chắc chắn thế giới này sẽ được thừa hưởng lợi lạc rất nhiều." Nói thế tức là Ma Vương muốn mời gọi Đức Thế Tôn nên bỏ đời sống của một vị Đạo Sư để ra làm một nhà chính trị. Đức Thế Tôn thở, mỉm cười, rồi nói: "Anh Ma Vương ơi, tôi biết anh quá mà." Đức Thế Tôn mới thốt lên một câu như thế thì Ma Vương tự nhiên biến mất. Ma Vương kia là sự biểu hiện từ hạt giống trong tâm thức Ngài, một nguồn năng lượng rất hấp dẫn; nó biểu hiện ra là vì Ngài mới về thăm nhà, thấy được những khó khăn, ước vọng của vua cha, của đất nước và thấy rằng chưa ai có thể thay thế vua cha lo việc nước. Dù vua cha và quan thần thân quyến không nói ra nhưng mọi người đều mong muốn Ngài sẽ nối ngôi vua. Họ nghĩ Ngài có thể vừa làm Bụt, vừa làm vua, tại sao lại không được? Trong thâm tâm, Ngài cũng nghĩ đơn giản như vậy, nhưng Bồ Đề Tâm của Ngài lớn quá, Ngài tự nhủ: "Tôi chỉ muốn làm thầy tu thôi, tôi không muốn làm vua, không muốn làm nhà chính trị." Chí nguyện làm thầy tu cao lớn như vậy; nhưng trong tâm thức cũng có hạt giống muốn làm chính trị dù nó chỉ nhỏ bằng hạt mè, hạt bụi. Và khi bị người ta tưới tẩm, họ nói: "Bụt ơi, Ngài giỏi quá đi. Trí tuệ của Ngài cao vòi vọi, lòng từ bi của Ngài rộng lớn như thái hư, khả năng hùng biện của Ngài không ai có thể sánh bằng. Nếu Ngài ra làm chính trị thì muôn dân sẽ hưởng được sự an bình, cơm no áo ấm." Và những lời ca ngợi đó thấm nhuần vào tâm thức của Ngài. Nếu những lời ca ngợi như thế được thốt ra từ những người của nước khác thì không đánh động Ngài được, nhưng đây là những lời được thốt ra từ những người thân nhất của Ngài. Vì thế, sau khi Ngài đi sang nước Kosala, trong giờ ngồi thiền thì Ma Vương hiện ra để dụ dỗ Ngài. Đức Thế Tôn đã nhận diện được ý đồ của Ma Vương. Lúc đó Đức Thế Tôn mỉm cười: "Tôi biết mà, anh có phải là Ma Vương đó không?" thì Ma Vương lè lưỡi và biến mất. Ma Vương hiện ra rất nhiều lần trong đời của Đức Thế Tôn. Có nhiều kinh nói tới Ma Vương lắm. Và mỗi lần nó hiện ra là Đức Thế Tôn nhận diện được. Đó gọi là phương pháp nhận diện đơn thuần. Khi ta nhận diện được nó thì nó không làm gì được ta cả. Ta cũng vậy, con ma tập khí nó trồi lên rất nhiều lần mà quý vị không nhận diện được nó thì nó kéo quý vị đi thôi chứ có gì đâu! Nó đẩy quý vị phải nói câu đó, làm việc đó, làm cho đổ vỡ, làm cho khốn đốn. Thành ra ta phải nhận diện được ma. Ma là ở trong ta. Tên cúng cơm của nó là tập khí. Mà tập khí đó, năng lượng đó đã được truyền xuống cho ta từ nhiều thế hệ. Ta phải nhận diện được nó thì mới chuyển hóa được từ từ. Trong ta có những hạt giống của sự thèm khát, hận thù, ganh ghét, của ý muốn trừng phạt người không làm vừa ý mình. Thỉnh thoảng những hạt giống đó biểu hiện lên thành những nguồn năng lượng. Nếu ta không có chánh niệm để nhận diện sự có mặt của chúng, thì ta sẽ trở thành nạn nhân của những tập khí đó. Nếu không thì khi ta có con, ta sẽ truyền cho con và con ta sẽ khổ vì tập khí đó. Có những đứa trẻ thấy ba mình khổ quá, má mình khổ quá nên nghĩ rằng khi lớn lên, có con thì mình sẽ không làm như ba, không làm như má, mình sẽ làm ngược lại. Vậy mà đến khi lớn lên có gia đình, có con thì nó làm giống hệt ba, má của nó. Đó gọi là luân hồi và luân hồi đi xa lắm. Chỉ khi nào ta nhận diện được nó bằng chánh niệm và chuyển hóa nó thì mới chấm dứt được luân hồi mà thôi. Cho nên chuyện nhận diện tập khí rất quan trọng. Ta nhận diện được tập khí của ta và ta cũng có thể giúp được người kia nhận diện tập khí của họ. Vì vậy ta phải ký một hiệp ước với nhau. "Anh ơi, anh có tập khí của anh. Em cũng có tập khí của em. Tập khí của em là như vậy nè, mỗi khi nó ló đầu ra thì em nhận diện nó mà nếu em quên thì nhờ anh nhắc dùm em." Nhắc chứ không phải là lên án, là chê bai. "Đó, đó, em thấy không, đó là tập khí của em đó." Làm như vậy rất là ích lợi. Hoặc nói bằng nụ cười: "Anh ơi, đó là tập khí của anh đó." Thì người kia nhận ra được tập khí của mình. Và nếu người kia nhận ra được tập khí của mình rồi thì tránh được không biết bao nhiêu là đổ vỡ.
Đừng kẹt vào sự tổ chức
Cho nên tu có nghĩa là chế tác năng lượng chánh niệm để nhận diện những nguồn năng lượng ma quái ấy khi chúng phát khởi ngay từ nơi tâm ta, vì thường chúng từ trong đi ra nhiều hơn là từ ngoài đi vào. Đức Thế Tôn đã làm như vậy, các thầy và các sư cô đang làm như vậy và ta là người Huynh Trưởng, ta cũng phải làm như vậy. Đó là tu. Chúng ta không nên đánh mất mình trong sự lăng xăng, tổ chức. Mục đích của sự tổ chức là để tu tập chứ không phải để khoe rằng mình có tài tổ chức. Có nhiều người không chịu tu, họ chỉ muốn tổ chức để cho người khác tu thôi. Dồn hết năng lực tổ chức cho thành công để cuối cùng gặt hái được những lời khen ngợi. Đó không phải là mục đích cao cả, đích thực của chúng ta. Mục đích cao cả của chúng ta là làm hạnh phúc thật sự cho tất cả các em của ta, làm sao cho các em của chúng ta có một tương lai, cống hiến cho họ con đường tu tập thực tiễn để cho các em tu tập chuyển hóa và trị liệu, xây dựng được hạnh phúc cho tự thân, cho gia đình và xã hội. Do đó, ta tuyệt đối không đi tìm niềm vui trong sự tổ chức, không nên để bị kẹt vào tổ chức và khao khát gặt hái những lời khen ngợi. Đó là sự thèm khát về danh, về lợi chứ không phải là lý tưởng cứu người, độ đời. Là con cháu của Đức Thế Tôn, chúng ta phải thấy cho được điều đó và tinh tiến tu tập chánh niệm. Chánh niệm sẽ nói cho chúng ta biết động cơ thúc đẩy ta làm chuyện này là từ đâu: vì danh, vì lợi hay vì tình thương, vì lý tưởng đích thực! Chỉ có chánh niệm mới soi sáng được cho ta thôi. Và nhờ chánh niệm của các bạn đồng tu soi sáng cho ta. Sau khi quán sát cách làm việc của ta họ có thể nói rằng: "Này anh, chúng tôi thấy anh làm rất siêng năng, anh làm cả ngày cả đêm không biết mệt mỏi, nhưng anh thử nghiệm lại xem cái động lực khiến anh làm cả ngày cả đêm như thế được phát xuất từ tình thương, từ chí nguyện muốn làm hạnh phúc cho các em, cho xã hội hay là do sự thèm khát về danh, về lợi?" Đó là câu mời mọc có công năng thức tỉnh ta. Và ta có thể giật mình thức tỉnh. Tại vì có thể ta đang làm như thế để cầu danh, cầu lợi, cầu tiếng khen mà ta cứ tưởng là ta đang phục vụ Đạo Pháp. Ta nhân danh Đạo Pháp, nhân danh dân tộc, yêu nước thương dân, nhân danh tổ chức, nhưng kỳ thực ta có thể đang phục vụ cho cái Ngã của ta. Nếu không có chánh niệm, không có bạn tu nhắc nhở, soi sáng cho ta thì ta có thể đi mãi trên con đường sai lầm đó. Không biết rằng ta đang bị đánh lừa và đang đánh mất lý tưởng cao đẹp ban đầu của ta. Vì vậy mới có câu kệ để giúp ta thực tập, đó là câu kệ trong bài kệ thực tập Quay Về Nương Tựa: "Chánh Niệm là Bụt, soi sáng xa gần.”
Cho nên hôm nay ta học phương pháp đối trị cơn giận và phương pháp nhận diện tập khí. Quý vị đem về áp dụng thì chắc chắn trong một thời gian ngắn sẽ có sự thay đổi trong bản thân và trong gia đình của quý vị.
Ái Ngữ và Đế Thính
Ta đã nói về việc sử dụng ái ngữ và lắng nghe sâu, như giới thứ tư, để thiết lập lại truyền thông. Chúng ta sẽ học tiếp về phương pháp lắng nghe và phương pháp sử dụng ngôn từ hòa ái. Chúng ta phải nắm cho thật vững hai phương pháp này và quyết tâm thực tập cho thành công. Thực tập được thành công thì hạnh phúc và tình thương yêu sẽ tăng tiến rất nhiều.
Lắng nghe với tâm từ bi
Lắng nghe là hạnh của đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Mục đích của sự lắng nghe là để giúp người kia bớt khổ. Khi người kia bớt khổ thì ta cũng bớt khổ. Khi ta đang lâm vào tình trạng bế tắc, khổ đau và tuyệt vọng, nếu không có ai có mặt đó để lắng nghe và hiểu ta, thì nỗi khổ của ta khó có thể thuyên giảm được. Cho nên khi có một người nào đó đang khổ, ta nên cống hiến sự có mặt của ta cho người đó và tập lắng nghe sâu để giúp người đó bớt khổ, chỉ cần lắng nghe thôi, không phán xét, không phản ứng, không đánh giá đúng sai, v.v... Làm được như vậy thì người đó sẽ bớt khổ rất nhiều, và khi người đó bớt khổ rồi thì người đó cũng sẽ có thể lắng nghe lại ta. Hành xử như vậy tức là ta đang hành xử với tư cách người đệ tử của đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Ta gọi ngài là đức Bồ Tát Lắng Nghe Quán Thế Âm vì ngài có khả năng lắng nghe rất sâu, lắng nghe với tâm từ bi. Quán Thế Âm nghĩa là lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời. Quán tức là quán sát, là lắng nghe. Thế Âm là tiếng kêu thương của cuộc đời. Trong người kia có những nỗi khổ niềm đau mà người kia chưa bao giờ có cơ hội bộc lộ ra được; hoặc nếu người kia muốn bộc lộ cũng không ai có khả năng lắng nghe. Muốn giúp người kia ta phải nắm vững pháp môn lắng nghe sâu của đức Bồ Tát Quán Thế Âm, bởi vì nếu khả năng lắng nghe của ta còn yếu thì ta khó tiếp nhận được những lời người kia nói. Ta hiểu rằng trong lòng người kia chất chứa quá nhiều những nỗi khổ niềm đau, những tri giác sai lầm nên khi nói ra, những nỗi khổ niềm đau đó được biểu hiện trong lời nói và lời nói trở nên chua chát, nặng nề, đầy dẫy những sai lầm, bất công, đầy dẫy những sự lên án buộc tội và trách móc. Do đó lắng nghe được người đó để giúp người đó vơi bớt khổ đau là sự thực tập rất khó. Nếu không phải là một vị Bồ Tát có tràn đầy tình thương yêu và lòng kiên nhẫn thì ta không thể làm được, không thể lắng nghe được dễ dàng. Tuy nhiên, có những người, vì khả năng lắng nghe còn yếu, nên họ chỉ có thể ngồi nghe năm phút là đã bị tràn ngập và càng nghe thêm họ càng mất hết sự can đảm, lòng kiên nhẫn và bỏ cuộc giữa chừng. Vì vậy, là đệ tử của đức Quán Thế Âm, ngày đêm niệm danh hiệu của ngài, biết tu tập, thì ta phải học cho được phần nào nghệ thuật và khả năng lắng nghe sâu, lắng nghe với tâm từ bi của ngài. Đây là một pháp môn thực tập rất quan trọng ở tu viện Làng Mai. Có khi ta ngồi lắng nghe người kia cả giờ đồng hồ và trong khi nghe, ta chỉ làm một việc thôi: đó là theo dõi hơi thở. Trong khi nghe như thế, ta có thể nghe toàn những lời buộc tội, những điều phê phán, những điều chỉ trích, trách móc nặng nề, những lời mang đầy những tri giác sai lầm của người kia. Tuy biết rằng những lời lên án, buộc tội và trách móc đều phát xuất trên căn bản của tri giác sai lầm, nhưng ta vẫn ngồi nghe thật chăm chú, bình thản, duy trì sự tươi mát, miệng luôn mỉm nụ cười thương yêu, chỉ lắng nghe với tất cả trái tim của mình. Nếu không có một ít năng lượng từ bi trong trái tim thì ta không thể ngồi lắng nghe được. Không có năng lượng của thương yêu, thì chỉ cần sau năm phút lắng nghe là ta đã bắt đầu phản ứng, phán xét, bắt đầu đùng đùng nổi giận và có khuynh hướng muốn trả lời lại, muốn phân minh đúng sai hoặc có thể lớn tiếng với người kia. Mỗi người trong chúng ta đều đã đi qua kinh nghiệm này. Ta có đầy thiện chí, ta muốn lắng nghe người đó để giúp người đó lấy đi những tri giác sai lầm về cuộc đời, về ta, ta muốn giúp người đó bớt khổ, nhưng vì khả năng lắng nghe của ta còn yếu kém nên chỉ cần nghe được năm phút là ta muốn nổi điên. Vì vậy ta phải tập luyện để có thể lắng nghe được thành công như đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Phương pháp thực tập là trong khi lắng nghe, ta phải luôn luôn theo dõi hơi thở và nuôi dưỡng ý niệm rằng lắng nghe như vậy không phải để chỉ trích, để phê phán. Lắng nghe như vậy chỉ với một mục đích duy nhất là cho người kia một cơ hội để nói ra, để bộc lộ những điều sầu khổ, đau buồn của người kia. Đó gọi là lắng nghe với tâm từ bi - bi thính. Lắng nghe vì từ bi, vì muốn giúp cho người kia bớt khổ chứ không vì mục đích gì khác. Cho nên khi người kia nói những điều rất sai với sự thật, nói với giọng chua chát, đầy dẫy sự trách móc, giận hờn, lên án, buộc tội hoặc thô bạo, thì ta vẫn giữ được sự tươi mát và điềm tĩnh. Cái làm cho ta giữ được sự tươi mát như một đóa hoa là lòng từ bi, rất mầu nhiệm. Không có từ bi thì ta trở thành trái bom nổ hay là núi phun lửa liền. Khi có từ bi trong trái tim thì dù người kia có nói gì đi nữa thì ta cũng vẫn tươi như một đóa hoa. Mầu nhiệm như vậy! Sở dĩ đức Quán Thế Âm làm được như vậy là vì ngài có từ bi trong trái tim. Người kia nói lời không dễ thương, nói những lời mang nhiều tính chất chê trách, chua chát, bất công, đầy tri giác sai lầm, v.v... nhưng ngài vẫn lắng nghe chăm chú để hiểu, ngài vẫn cười nụ cười tràn đầy tình thương yêu. Tại sao ngài làm được như thế? Đó là vì ngài có chất liệu đại từ đại bi.
Tình thương đích thực
Nhưng đâu phải chỉ có ngài mới có tình thương lớn, chúng ta ai cũng có tình thương lớn như ngài. Chúng ta không có mặc cảm gì cả. Người nào có tình thương trong trái tim thì người đó có hạnh phúc. Còn người nào mà chất liệu từ bi không được phát triển và nuôi dưỡng thì người đó không có hạnh phúc. Cho nên tu theo lời Bụt dạy, thì ta phải làm thế nào để cho chất liệu từ bi luôn luôn ứa ra trong trái tim mình; như khi đào giếng: ban đầu đào thì mặt đất khô cằn, gặp toàn đá, sỏi, nhưng nếu cứ tiếp tục đào thì một lúc nào đó ta sẽ chạm vào mạch nước và nước ngọt sẽ tuôn lên. Sự thực tập của ta cũng vậy. Ta phải tin rằng trong tâm ta có nguồn suối của tình thương. Nhưng vì nguồn suối ấy chưa được chạm tới, chưa được khơi dậy nên tình thương chưa trào lên mà thôi. Trước hết ta phải nhìn và thấy rằng người kia là hiện thân của sự khổ đau. Nét mặt, cách nhìn, cử chỉ, bước chân, lời nói của người kia biểu lộ vùng năng lượng khổ đau ấy. Khi đã thấy được rằng người kia là cả một khối khổ đau thì người kia cần sự thương yêu và tha thứ chứ không cần sự trừng phạt. Khi ta bị người đó làm cho đau khổ, ta luôn luôn có khuynh hướng muốn nói hoặc làm điều gì đó để trừng phạt người đó cho bõ ghét. Kỳ thực người đó rất cần tình thương của ta. Nhưng nếu ta không có tình thương thì làm sao ta có thể hiến tặng tình thương cho người đó? Muốn thương trước hết ta phải tập chế tác chất liệu tình thương và ta phải chế tác tình thương bằng chất liệu của hiểu biết. Nghĩa là khi người kia đang khổ và người kia không biết làm cách nào để bớt khổ, cũng chưa có ai có thể giúp người đó vơi đi những nỗi khổ niềm đau, thì ta là người có thể đến để có mặt cho người đó, giúp cho người đó bớt khổ. Đó là hành động, là bản nguyện của một vị Bồ Tát. Ta có thể là con gái, con trai, hoặc vợ hay chồng của người đó, ta thấy người đó đang khổ cực kỳ, đang ở trong trạng thái bế tắc, tuyệt vọng nên bây giờ ta nguyện trở thành vị Bồ Tát để có mặt cho người đó, giúp người đó bớt khổ. Chí nguyện cao đẹp ấy hay gọi là tâm thương yêu ấy phải được thực hiện bằng sự thực tập hàng ngày. Trước hết ta phải thấy rằng, phải nhớ rằng người đó là một người đang có nhiều đau khổ. Ta phải thực tập để có thể thương được người đó mà không đòi hỏi một điều kiện nào. Thương có nghĩa là không trách móc, không trừng phạt, không giận hờn, không đặt điều kiện. Nhưng phải có lòng thương thật sự mới có thể làm được việc đó. Lòng thương phát sinh ra từ nhận thức đơn giản rằng người kia đang khổ, đang cần được thương, được lắng nghe chứ không cần sự trừng phạt. Vì vậy ta tìm tới với người kia, ngồi xuống bên cạnh và nói với người kia như thế này: "Anh nói đi, anh nói cho em nghe đi. Em biết là trong anh có rất nhiều khổ đau và em chịu trách nhiệm ít nhiều về những nỗi khổ niềm đau đó của anh. Em biết em đã không chánh niệm, đã vụng dại gây ra cho anh những đau khổ, những điều bất như ý. Em rất hối hận và em không muốn lặp lại những lỗi lầm ấy nữa, em muốn đi một con đường mới đầy sự bao dung và thương yêu hơn. Nhưng nếu anh không giúp em thì em sẽ không làm được chuyện này. Xin anh giúp em. Xin anh nói cho em nghe những nỗi khổ niềm đau trong lòng anh để em có thể hiểu được anh, vì khi đã hiểu được anh rồi, thì em mới thương được anh đúng cách." Khi ta có thể nói được với người kia bằng thứ ngôn ngữ từ ái, đầy tính cách xây dựng như thế thì trái tim người kia sẽ có thể mở ra. Trong nhiều năm qua, có thể người kia đã đóng chặt trái tim lại vì thấy rằng sự truyền thông giữa người đó với ta hoàn toàn bế tắc. Cả hai bên đều không truyền thông được với nhau, không có sự thông cảm và trái tim của hai người hoàn toàn bị đóng chặt. Cho nên là người đã biết thực tập, ta phải mở trái tim của ta ra trước. Sở dĩ ta mở lòng ra được là nhờ ta thấy được người kia đang đau khổ. Nếu ta không giúp người kia thì ai trên thế gian này có thể giúp người kia được? Khi thấy được như vậy thì suối nguồn thương yêu trong ta tuôn trào và ta hiện thân thành một vị Bồ Tát để giúp người kia bớt khổ. Khi trái tim đã mở ra thì ta có thể nói được những lời thương yêu, tha thứ, đầy chân tình. Ta nói rằng ta đã vụng về trong quá khứ, ta đã dại dột, đã gây ra nhiều lỗi lầm trong quá khứ. Ta xin người đó tha thứ cho những lầm lỗi, vụng dại ấy và ta muốn thật sự làm mới. Ta thành khẩn xin người kia giúp ta. Nói với cách đó tức là nói với lòng chân thành mà chỉ có tình thương và sự giác ngộ mới khiến cho ta nói lên được những câu như vậy thôi. Nếu chưa có giác ngộ, chưa có tình thương thì ta không có khả năng nói được những câu chân tình như vậy. Khi ta nói được những câu đầy chân tình như thế rồi thì trái tim của người kia chắc chắn sẽ mở ra. Chìa khóa để mở trái tim của người kia là sự chân tình của ta, là tình thương đích thực của ta. Nhiều khi ta có cảm tưởng người kia là một cái gì khó có thể mở cửa ra được, không có chìa khóa nào có thể mở cửa trái tim của người đó được. Kỳ thực có một cái chìa khóa có thể mở được cửa trái tim người kia, đó là sự thức tỉnh của ta, sự giác ngộ và tình thương yêu của ta. Khi ta nói được những lời hòa ái, đầy sự chân tình như vậy thì trái tim của người kia sẽ mở ra và người kia bắt đầu nói cho ta nghe những đau khổ, những bực tức trong lòng. Ta ngồi lắng nghe một cách chăm chú, không để cho những tâm hành phán xét, phản ứng chi phối ta. Ta biết trước rằng người kia sẽ nói ra những điều rất bất công, sẽ buộc tội ta một cách không đúng chút nào hết, nhưng ta vẫn lắng nghe, và ta thầm nói: "Tội nghiệp quá! Tội nghiệp quá!" Ta nói tội nghiệp vì người kia nhận thức sai lầm, vì người kia nghĩ oan cho ta mà trái tim ta vẫn mang theo tình thương và lòng từ bi cho người đó. Nếu quý vị ngồi được như vậy nửa giờ hay một giờ mà lắng nghe với tất cả sự chăm chú thì người kia sẽ đỡ khổ nhiều lắm. Sau thời gian nói đó người kia sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Ta có thể nói: "Tội nghiệp anh quá, vậy mà em không biết." hay "Tội nghiệp em quá, vậy mà bấy lâu nay anh thật vô tâm, anh không hay biết gì cả. Anh thật đáng trách!", hay "Tội nghiệp ba quá, vậy mà con không biết.", hay "Tội nghiệp con chưa, vậy mà ba chẳng để ý, chẳng hay gì cả." Cũng cùng một ngôn ngữ nhưng ta là người có tu tập, ta được sanh ra trong đời sống tâm linh, ta phải học thở, học nghe, học đi, học cười và học nói trở lại.
Ngôn ngữ của tình thương
Phải học để nói bằng thứ ngôn ngữ gọi là ngôn ngữ của tình thương, của từ ái, ái ngữ. Phải học nghe bằng trái tim mở rộng, không thành kiến, không phán xét và không phản ứng. Không phải muốn thực tập lắng nghe là ta có thể thực tập được liền đâu. Ta phải tập luyện từ từ. Lần này ta lắng nghe con ta, lần sau ta lắng nghe chị ta, lần sau nữa ta lắng nghe em ta. Ban đầu ta chỉ có khả năng lắng nghe trong một thời gian ngắn thôi. Nhưng càng thực tập, thì khả năng lắng nghe của ta sâu hơn và lâu hơn mà không bị mệt mỏi và cảm thấy tràn ngập. Lúc đó ta sẽ có khả năng lắng nghe những người có những đau khổ lớn lao hơn. Khi làm nhà, người ta phải thiết kế, đào móng, xây nền, tính toán bao nhiêu xi măng, bao nhiêu tấn đá mới xây đủ căn nhà..., họ phải tính toán rất cẩn thận. Sự tu tập của ta cũng phải như vậy. Ta muốn cứu người kia, muốn mở cửa trái tim người kia, muốn thiết lập lại sự truyền thông với người kia, nhưng không phải cứ muốn và làm đại là được. Ta phải rất khéo léo, phải chuẩn bị tinh thần và cách thức trước một tuần, hai tuần, ba tuần hay cả tháng. Ta hành động như một vị kỹ sư mới được. Ta phải nắm lấy phần chắc thì mới thi hành, nếu không thì ta sẽ có thể làm hư, làm nứt rạn thêm. Như khi làm bánh, nếu chỉ biết sơ sơ phương cách làm bánh, thì quý vị sẽ làm bánh không thành hoặc bị cháy. Nhưng bánh bị hư hay bánh bị cháy thì không sao chứ ngôi nhà đang xây nửa chừng mà bị sập thì không được. Cũng vậy, khi ta muốn giúp cho người kia, ta cũng phải thiết kế, chuẩn bị trước, ta phải tập luyện nhiều lần trước mới có thể thành công được. Đó là phương pháp lắng nghe với lòng từ bi - bi thính. Khi ta cầu cứu đức Quán Thế Âm, ta niệm Nam Mô Đức Bồ Tát Lắng Nghe Quán Thế Âm, là ta muốn học lắng nghe được như ngài. Còn nếu một mặt ta niệm danh hiệu đó, một mặt ta nhất định không lắng nghe, thì niệm như vậy đâu có ích lợi gì đâu. Khi ta niệm như vậy có nghĩa là ta lạy Đức Bồ Tát Lắng Nghe Quán Thế Âm và quán tưởng con xin học theo hạnh ngài, tìm cách lắng nghe để làm cho người chung quanh con bớt khổ. Đó là sự thực tập của ta. Và khi thực tập được rồi thì ta dạy cho con ta, cho cháu ta để họ cũng có thể làm được. Đây là một sự thực tập rất quan trọng trong đạo Bụt.
Sự thực tập thứ hai gọi là ái ngữ. Ái ngữ tức là nói những lời hòa ái. Ban đầu ta rất có thiện chí, ta nói: "Kỳ này mình nói chuyện với người đó thì mình sẽ nói rất là dịu dàng." Ta tự nhủ là ta sẽ không bao giờ cao giọng, sẽ nói hết sức nhẹ nhàng. Ấy vậy mà khi đụng chuyện, ta có thể không làm được. Đó chỉ mới là ý chí của ta thôi, chưa chắc ta làm được, vì vậy ta phải tập luyện từ từ. Sở dĩ ta làm chưa được là vì ta đang có những nỗi niềm đau khổ trong lòng. Nếu ta không thực tập chánh niệm và học cách ôm ấp những niềm đau nỗi khổ đó thì mỗi khi ta nói, dù với tất cả thiện chí của ta, thì năng lượng của sự bực bội, khổ đau đó cũng tuôn ra theo lời nói. Câu nói đầu, câu thứ hai, câu thứ ba có thể là dịu dàng, nhưng đến câu thứ tư mà đụng nhằm hạt giống hờn dỗi khổ đau trong ta thì giọng nói của ta cũng bắt đầu thay đổi: trở nên cau có, khó chịu, trách móc và cộc cằn hơn vì những lời nói ấy bị chi phối bởi những hạt giống hờn dỗi, bực tức và khổ đau trong ta. Lời nói ấy phản chiếu cái rung động của sự bực tức trong lòng và ta biết ngay là mình thất bại. Vậy thì khi bắt đầu hé thấy sự bực tức đi lên thì ta lập tức ngưng lại sự nói năng và ta nên nói như vầy: "Ba xin lỗi con, bữa nay ba hơi mệt, kỳ sau ba sẽ nói tiếp. Con đi chơi đi." Đừng có tiếp tục. Đừng có cố gắng. Khi thấy mình đang bực bội thì điều quan trọng là đừng nói thêm điều gì cả dù điều ấy mình thấy là đúng, là cần phải nói. Ta biết đạo lực của ta lúc đó đang kém nên ta không thể tiếp tục được. Ta cần phải thực tập đi thiền hành thêm, phải ngồi thiền thêm, phải niệm Bụt và tụng kinh thêm. Và ta thực tập đến khi nào ta thấy khả năng lắng nghe và sử dụng lời hòa ái của ta tăng trưởng thì lúc đó ta mới nói chuyện với con ta trở lại. Ta tìm tới với con ta và nói: " Này con, hôm trước ba mới nói tới đó nhưng ba hơi mệt thành ra bữa nay cha con mình có thể ngồi chơi với nhau thêm được không?" Ta đưa con ta ra ngoài gốc cây và hai cha con nói chuyện tiếp. Lần này ta có thể làm hay hơn. Không phải ta không có quyền nói ra những nỗi khổ niềm đau trong lòng. Ta có quyền và có bổn phận phải nói cho con ta nghe, cho cha ta nghe hay cho người bạn hôn phối của ta nghe. Ta phải nói ra, không được dấu diếm điều gì cả, nhưng với điều kiện là phải sử dụng ngôn ngữ hòa ái trong khi nói, nói như thế nào để người kia có thể nghe, chấp nhận dễ dàng, nói như thế nào để người kia hiểu được mình. Đó gọi là ái ngữ. Nếu trước khi nói mà biết rằng ta chưa đủ khả năng sử dụng ngôn từ hòa ái thì ta chưa nên nói.
Khi viết thư ta có cơ hội nhìn lại
Có một phương pháp rất mầu nhiệm gọi là phương pháp viết thư. Nhiều khi ta nói chưa được khéo nhưng ta có thể viết thư khéo léo hơn. Tại vì sau khi viết xong lá thư thì ta có cơ hội đọc lại. Nếu ta thấy lá thư còn có sự chua chát, buộc tội, cay đắng, trách móc thì ta biết rằng lá thư này chưa dùng được. Ta sửa chữa hoặc viết lại lá thư khác. Khi đọc lại và thấy lá thư này lời lẽ đủ từ ái, ngọt ngào thì ta mới xếp thư lại, bỏ vào phong bì và trao cho người đó. Viết thư cũng là một hình thức nói nhưng lợi điểm ở chỗ lời lẽ trong thư thường được trình bày khéo léo, suôn sẻ và đầy đủ; còn người kia có cơ hội ngồi đọc lá thư một mình và chiêm nghiệm lá thư trọn vẹn hơn. Đôi khi ta ở chung trong một căn nhà nhưng ta cũng có thể viết thư cho nhau như thường. Và tôi xin đề nghị quý vị đừng đợi đến khi có vấn đề mới viết thư. Ta có những niềm vui nào, những hạnh phúc nào, ta thấy người kia có những cái gì hay, cái gì đẹp, cái ân tình gì thì ta viết vào trong lá thư và gửi cho người ấy để người ấy được nuôi dưỡng. Đó là cách tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc nơi người đó. Sáng hôm nay chồng mình nói được với con một câu rất dễ thương, ta ghi nhận lại những lời đó rồi tối về viết vào trong thư: "Sáng hôm nay anh nói với con một câu rất là dễ thương, em rất cảm phục anh." Đối với con cái cũng vậy. Thưa quý vị, nếu ngày nào quý vị cũng nuôi dưỡng con cái của quý vị bằng những lời nói dễ thương như vậy thì sự truyền thông giữa quý vị và con cái sẽ rất tốt đẹp và các cháu sẽ không cảm thấy cô đơn để phải đi tìm niềm vui ở nơi khác. Đó là sự thực tập. Chứ không phải tới chùa lạy cho nhiều hay cúng cho thật nhiều chuối, nhiều xôi, thắp cho thật nhiều nhang mà gọi là tu. Ta phải thực tập cho thật thông minh mới thành công và mới đem lại kết quả tốt. Điều tối kỵ là không nên để cho sự thực tập rơi vào cái bẫy của hình thức. Là cha, là mẹ, là vợ, là chồng, ta có bổn phận phải nói ra tất cả những gì ở trong lòng mình cho người mình thương rồi khi nói ta phải sử dụng lời nói dịu dàng, hòa ái. Và người ta thương có những đau khổ, những khó khăn, những ước vọng nào ta cũng phải làm sao để giúp người đó nói ra được. Người đó chưa nói ra được thì phận sự của ta chưa xong. Phải khuyến khích, nâng đỡ và khẩn cầu để người đó có thể nói ra cho ta nghe. Người đó sẽ nói nếu thấy ta có khả năng để nghe và có sự tha thiết muốn nghe. Nếu người đó thấy rằng ta chưa có khả năng nghe thì người đó sẽ không nói. Cho nên ta phải tu tập. Ta không nên nói: "Anh đâu có chịu nói cho mình nghe." Điều đó ta không thể trách người kia được, vì ta chưa chứng tỏ được với người đó rằng ta có khả năng nghe nên người đó chưa nói mà thôi. Ta không nên trách móc người đó. Ta phải thực tập thêm để tạo được niềm tin nơi người đó. Và sự thực tập được thể hiện qua hành động và cử chỉ của ta. Không cần nói gì người kia cũng có thể cảm được và người kia phát khởi lòng tin nơi ta. Thưa quý vị, thương được làm bằng chất liệu của hiểu. Nếu không hiểu thì ta không thể thương được. Hiểu và thương được thực tập trên căn bản ái ngữ và lắng nghe. Hai phép thực tập lắng nghe và ái ngữ thuộc về phạm vi của giới thứ tư trong Năm Giới mà người con Bụt cần phải học hỏi và thực tập cho thật sâu sắc trong đời sống hàng ngày.
Bốn chất liệu của tình thương đích thực
Thương yêu tức là đem lại hạnh phúc đích thực cho mình và cho người mình thương. Đức Thế Tôn có dạy bốn chất liệu của sự thương yêu đích thực là từ, bi, hỷ và xả.
Từ nghĩa là đem lại, hiến tặng niềm vui cho người ta thương. Làm sao cho bố ta, mẹ ta, em ta và người ta thương có hạnh phúc mỗi ngày. Mà muốn cho người đó có hạnh phúc thì trước tiên ta phải hiểu người đó, biết người đó cần cái gì, không cần cái gì chứ thương không phải là ép người ta theo cách của mình. Thương mà ép buộc người đó theo quan điểm, theo ước muốn của ta tức là đàn áp, là độc tài. Đó không phải tình thương đích thực. Đó là tình thương chiếm hữu. Ta phải thương như thế nào để người thương của ta được tự do, nghĩa là ta phải hiểu, phải biết người ta thương muốn cái gì, cần cái gì và không cần cái gì. Cho nên cái hiểu là bản chất của cái thương. Có hiểu ba thì ta mới thương ba được, có hiểu mẹ thì ta mới thương mẹ được, có hiểu con, thấy được những khó khăn của con thì ta mới thương con được. Hiểu con, thương con được thì mới cho con niềm vui đích thực. Nếu không cho người kia chút niềm vui nào hết, ngày nào người kia cũng khổ, cũng khóc hết thì ta đâu có thật sự thương theo tinh thần của từ. Cố nhiên cha mẹ nào mà không thương con, muốn con nên người, con cái nào mà không thương cha mẹ v.v... Nhưng tại sao càng thương ta lại càng làm khổ nhau? Lời nói thương yêu của ta có thể rất rỗng không. Ngày nào ta cũng thốt ra chữ thương, nhưng tại sao người kia ngày nào cũng khổ, ngày nào cũng khóc hết. Vì vậy ta phải quán chiếu lại xem tình thương của ta có mang bên trong chất liệu của từ hay không. Từ là khả năng hiến tặng hạnh phúc mỗi ngày. "Buổi sáng dâng niềm vui cho người" trong bài Sám Quy Nguyện là sự thực tập của ta.
Bi là gì? Bi là khả năng làm vơi đi, lấy đi nỗi khổ niềm đau nơi người kia. Ta thấy trong người kia có những nỗi khổ đau nào thì ta tìm tới hỏi thăm; và khi biết được những khổ đau của họ rồi thì ta thương, ta tìm mọi cách để giúp người đó chuyển hóa khổ đau, ta cố gắng không làm những điều này, tránh làm những điều kia và bảo hộ cho người đó để người đó không khổ đau nữa. Đó gọi là Bi. Từ Bi là hai chất liệu có công năng đem lại niềm vui đích thực cho người và làm vơi đi khổ đau của người.
Hỷ, niềm vui, là chất liệu thứ ba của bốn tâm vô lượng. Tình thương chân thật phải có niềm vui. Nếu thương nhau mà hai bên đều khóc mỗi ngày thì tình thương ấy không phải là tình thương đích thực, không phải là tình thương theo tinh thần của bốn tâm vô lượng. Vì thế, ta phải nên nhìn lại bản chất tình thương của ta xem thử tình thương ấy có chất liệu của hỷ không. Nếu không có chất liệu của hỷ thì tình thương ấy chưa phải là tình thương đích thực mà chỉ là thứ tình thương có tính chất độc tài, chiếm hữu. Ta xem người kia là vật sở hữu của ta. Thương như vậy thì càng thương ta càng làm cho người kia ngộp thở, mất hết tự do. Càng thương ta lại càng làm cho người kia bị thương. Cho nên hỷ là một chứng cớ cho ta biết rằng khi tình thương mang theo chất liệu của niềm vui. Hỷ là tình thương chân thật của Bụt dạy.
Tâm vô lượng thứ tư là xả. Xả là gì? Xả tức là không kỳ thị, không phân biệt, là khả năng bao dung không bỏ sót một ai dù người đó đã từng làm mình khổ đau, điêu đứng. Xả là một danh từ không phải dễ hiểu nhưng ý nghĩa thì rất sâu sắc. Ta lấy ví dụ của bàn tay. Bàn tay phải của tôi đã viết ra biết bao nhiêu cuốn sách, ít nhất là 75 cuốn, và đã làm biết bao nhiêu bài thơ; nó còn biết thỉnh chuông, thỉnh mõ, rải nước cam lộ tịnh thủy, viết thư pháp v.v... Bàn tay phải biết làm rất nhiều việc. Nhưng bàn tay phải của tôi không bao giờ chê bàn tay trái rằng: "Mày là đồ vô dụng. Tao là bàn tay mặt và tao gần như phải làm hết mọi việc, còn mày chẳng biết làm gì, chỉ ngồi chơi xơi nước thôi". Bàn tay mặt không bao giờ nói với bàn tay trái như vậy. Có một lần bàn tay phải cầm một cái búa, bàn tay trái cầm cây đinh, rồi bàn tay phải sơ ý làm sao đó, thay vì đóng trên cái đinh, nó lại đóng nhằm vào ngón tay của bàn tay trái. Đau quá chừng. Lúc đó bàn tay phải lập tức thả cây búa xuống rồi nắm lấy bàn tay trái mà chăm sóc. Trong lúc chăm sóc cho bàn tay trái, bàn tay phải không nói rằng: "Tao là bàn tay phải, tao đang chăm sóc cho mày, mày phải nhớ ơn tao nghen." Bàn tay phải không bao giờ có ý niệm phân biệt, kỳ thị như vậy. Tại vì bàn tay phải có tuệ giác rằng nó với bàn tay trái tuy hai nhưng kỳ thực chỉ là một. Hai bàn tay không bao giờ kỳ thị, phân biệt nhau. Cái đó trong đạo Bụt gọi là Vô Phân Biệt Trí. Vô Phân Biệt Trí tức là cái trí không có sự phân biệt ta và người, giữa người thương và người được thương. Thương là thương thôi chứ không phải người đó cùng theo một tôn giáo với ta, hay người đó cùng một nước với ta nên ta thương hơn hoặc vì người đó là con của ta nên ta thương hơn con của người khác. Đó là tình thương lớn, gọi là tâm đại bi. Hễ nơi nào có sự khổ đau là nơi đó cần có sự thương yêu, không kỳ thị màu da, chủng tộc hay tôn giáo. Thế nhưng bàn tay phải cũng phải biết thương bàn tay phải, chứ không thể cho rằng thương tức là thương những cái khác thôi chứ mình không có quyền được thương mình. Tại vì vô phân biệt tức là không có sự kỳ thị dầu là kỳ thị chính mình. Các bộ phận như tim, gan, tỳ, phế, thận đều hợp theo cái trí tuệ đó, nghĩa là không có sự chống báng nhau. Tay phải và tay trái cũng điều hợp theo cái trí tuệ đó. Cho đến hai chân cũng vậy, chúng không có sự kỳ thị, chống báng nhau. Ta phải học cho được cái Trí Vô Phân Biệt đó; có khi gọi cái Trí đó là Trí Vô Ngã, Trí Tương Tức, tức là không có cái ta riêng biệt. ‘Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ’. Nó có sự liên đới với nhau. Các thầy và các sư cô trong tu viện sống và tu tập theo tinh thần đó, tức là tinh thần của trí vô phân biệt, trí vô ngã và tương tức. Một người khổ thì tất cả mọi người đều thấy được và đến chăm sóc. Tại vì người đó cũng là thân thể của mình, gọi là tăng thân. Con mắt cá nhân của ta không thấy rõ bằng con mắt của tăng thân, gọi là tăng nhãn. Phải tập nhìn bằng con mắt của tăng thân, phải đi bằng bước chân của tăng thân. Cũng vậy, nếu ta nghĩ bằng cái nghĩ của tăng thân thì tự nhiên ta có cái trí tuệ gọi là vô phân biệt trí. Đây là giáo lý rất thâm sâu và mầu nhiệm của đạo Bụt. Khi thương con hay thương người bạn đồng hành của ta thì ta phải thương theo tinh thần đó. Phải thấy rằng tất cả niềm đau nỗi khổ của người đó cũng chính là niềm đau nỗi khổ của ta, tất cả niềm hạnh phúc của người đó cũng chính là hạnh phúc của ta. Thương được như vậy mới gọi là xả. Đó là tình thương cao quý nhất có công năng tạo dựng hạnh phúc đích thực. Tình thương ấy không bao giờ mang tính chất kỳ thị, phân biệt, không gây đau khổ và hận thù. Chúng ta phải có thì giờ để học hỏi cho sâu sắc hơn, vì đây là giáo lý rất thâm sâu, vi diệu của đạo Bụt. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta phải tập bớt bận rộn, đừng muốn có nhiều đồng ra đồng vô mà mất hết thì giờ học hỏi thêm về giáo lý của Đức Thế Tôn. Giáo lý đó có thể chuyển hóa khổ đau đem lại hạnh phúc cho ta và cho những người ta thương.
Thiết lập lại sự truyền thông
Khi quý vị có được kết quả của sự thực tập, ông chủ sở và những người bạn cùng sở của quý vị sẽ thấy được điều đó và họ sẽ được thừa hưởng sự vững chãi, thảnh thơi và bình an ấy nơi quý vị. Có lẽ một dịp nào đó họ sẽ hỏi sao ta có thể làm được như vậy? Thì lúc đó ta sẽ mỉm cười và tiết lộ bí mật của ta cho họ biết. Rồi họ cũng có thể bắt chước ta thực tập pháp môn mà ta đã được thực tập, một pháp môn thực tập rất đơn giản, thực tiễn nhưng có công năng đem lại lợi lạc rất lớn. Nếu quý vị thực tập một thời gian và thực tập thành công, thì người bạn hôn phối hay con cái của quý vị sẽ thấy được những chuyển hóa trong con người của quý vị, tự nhiên những giận hờn, bực bội của người đó đối với quý vị sẽ từ từ tan biến. Sau đó quý vị có thể thiết lập lại được sự truyền thông đối với người đó dễ dàng hơn. Có những cặp cha con mà không hề nói chuyện được với nhau hơn một năm trời. Có những cặp vợ chồng cũng không nói chuyện được với nhau, không nhìn được mặt nhau. Đôi khi họ chỉ mới cưới nhau có ba, bốn năm mà sự tình đã xảy ra như vậy. Có ai muốn làm khổ người kia đâu nhưng vì chúng ta vụng về, thất niệm không biết tu tập nên chúng ta đã tạo ra những niềm đau nỗi khổ cho người ta thương. Người đó khổ, mà ta cũng khổ không kém. Rồi trong thâm tâm của hai người, người nào cũng nghĩ rằng người kia chịu trách nhiệm hoàn toàn. Sự thật bao giờ cũng là hai bên, bên nào cũng có trách nhiệm. Có thể một bên ít hơn nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm như thường. Khi bị rơi vào tình trạng bế tắc như thế, người chồng có thể tìm cách tránh né người vợ. Và cách tránh né khéo léo nhất thường là ở lại văn phòng hay phòng mạch trễ hơn. Ông ta lấy cớ rằng: "Anh không thể về sớm được, tại anh phải nghiên cứu hồ sơ của bệnh nhân." Hoặc nói rằng: "Anh muốn có thời gian một mình để học, để thi thêm một cái bằng cấp nữa. Anh làm như vậy là vì tương lai của các con". Nói như vậy đó! Kỳ thực là tại vì về nhà không có hạnh phúc chi mấy. Về nhà không được dễ chịu cho lắm. Đôi khi người đó nói rằng anh cần phải đóng góp cho Cộng Đồng, anh phải đi dạy văn hóa Việt Nam cho các trẻ em. Mà trong khi đó con ta ở nhà thì ta không có lo gì hết. Bởi chúng ta đi tìm sự trốn tránh ở trong công việc, trốn tránh trong sự học hỏi, trốn tránh trong công tác xã hội. Ta tự đánh lừa ta. Ta cho rằng ta là người có lý tưởng và muốn thực hiện lý tưởng cao đẹp ấy; ta không thể để hết thì giờ cho gia đình được. Thực ra ta không có hạnh phúc khi về nhà, ta muốn chạy trốn thực tại ấy. Người vợ cũng tìm cách trốn tránh bằng cách bận rộn trong việc bếp núc hoặc trong công tác xã hội. Người vợ cũng muốn đi dạy văn hóa Việt Nam, đi làm việc xã hội, đi giúp đồng bào. Người nào cũng có lý do chính đáng cả. Cố nhiên là dạy văn hóa cho các cháu, đi làm việc xã hội, giúp đồng bào là việc tốt rồi, ta đâu có nói mấy chuyện đó xấu đâu. Nhưng ta phải làm những công việc đó với hạnh phúc, chứ không phải là tìm cách lẩn tránh tình trạng bằng cách vùi đầu vào các công việc đó để khỏi phải đối diện với sự thật là chúng ta đang không có hạnh phúc với nhau, đang làm khổ nhau. Có những ông chồng sau khi đi làm về, tắm gội xong, ăn vội vàng vài ba miếng rồi chúi đầu vào máy vô tuyến truyền hình, không cần biết những chương trình ấy hay hay dở. Có nhiều khi những chương trình Ti-vi không có gì thích thú cho lắm nhưng ông cứ dán cặp mắt vào đó giờ này sang giờ khác để trốn tránh, để khỏi phải đối diện với khuôn mặt khó chịu của những người chung quanh. Thay vì quy y Bụt, Pháp và Tăng thì người đó chỉ quy y Ti-vi, quy y công việc mà thôi. Quy y vào sự bận rộn để cho đỡ khổ. Vợ chồng mà cứ tránh nhau như vậy ngày này sang ngày nọ thì còn gì hạnh phúc trăm năm nữa. Tội nghiệp quá! Nhất là khi cặp vợ chồng còn trẻ. Vì sự truyền thông đã bị bế tắc, hai vợ chồng không nhìn nhau được nữa và không nói chuyện với nhau được nữa. Rồi hai cha con cũng vậy, hai mẹ con cũng vậy. Bây giờ đây ta quyết phải khai thông, phải thiết lập lại truyền thông chứ không thể để cho tình trạng kéo dài hoài như vậy nữa. Và ta phải khai thông bằng phương pháp đã được đề nghị. Nếu ta nói chuyện trực tiếp chưa được thì viết thư. Viết thư thường dễ dàng hơn là nói chuyện, vì nói chuyện đôi khi còn có sự cấn cái, người kia lại tưởng rằng ta sẽ trách móc và không mở lòng ra để nghe. Ta nói A mà người kia nghe B, dễ sợ lắm, bóp méo mọi chuyện vì cái đau khổ đã có sẵn trong lòng. Ta đâu có cố tình, đâu có muốn nói B, ta chỉ nói A thôi, vậy mà người kia nghe rõ ràng là B. Cho nên có lẽ an ninh hơn là ta viết một lá thư. Trong lá thư ta phải viết với những ngôn từ hòa ái. Trước khi viết một lá thư như thế, ta phải thực tập đi thiền hành, tập thở để tĩnh tâm. Khi thân tâm đã được an tĩnh rồi ta mới ngồi xuống viết lá thư đó và phải can đảm công nhận là trong quá khứ, ta đã từng vụng về, đã từng nói và làm những điều chạm tới những nội kết, tự ái và những niềm đau nỗi khổ trong lòng người đó. Có nhiều khi ta vô tình chứ không phải cố ý. Trong lá thư đó ta đừng nói lỗi của người kia, vì nếu nói lỗi của người kia thì người kia sẽ đóng trái tim lại và sẽ không đọc thư nữa. Dù rằng sự thật là người kia có một phần lỗi, có khi tới 50% hoặc hơn. Nhưng lá thư này không phải để thiết lập lại công bình xã hội, không phải để tính sổ hơn thua. Mục đích của lá thư này là để thiết lập lại sự truyền thông.
Nói với trái tim
Cho nên trước hết ta phải nói về lỗi của mình chứ không nên nói rằng: "Anh cũng có phần lỗi của anh." Nói như vậy, tuy đúng, nhưng chưa phải lúc và sẽ làm cho người kia đóng trái tim lại, không đọc nữa, không nghe nữa. Cho nên ta phải ngồi yên để lắng nghe lòng của mình. Trong lá thư đó ta viết ra các vụng về của ta: những câu nói, những hành động của ta mà ta nghĩ đã có thể gây đau khổ cho người kia. Và ta có thể nói thêm đó là những cái ta thấy và người kia thấy nhưng ta biết còn bao nhiêu điều vụng về nữa mà ta đã nói và làm gây cho người kia đau khổ mà ta không thấy. "Nếu anh không nhắc em thì chừng nào em mới thấy. Cho nên em rất cần anh giúp em, nói cho em biết để từ rày về sau, em sẽ không dại dột nói và làm những điều như vậy nữa." Ta phải nói với tất cả trái tim của ta. Vấn đề là hai bên phải có một người khởi sự thực tập. Không nên để cho tâm hành tự ái, tự hào làm chủ lấy ta. Nếu là người vợ, thì ta nên khởi sự chuyện thực tập này bởi vì người vợ luôn luôn đứng ở vai vế của người em. Và người đàn ông luôn luôn có sự tự hào của họ. Nói như vậy xin quý vị đừng hiểu lầm là tôi kỳ thị, nhưng vì trong truyền thống của người Việt Nam, người vợ đứng về vai em. Người vợ luôn luôn xưng em với người chồng. Vì vậy cho nên ta phải lấy tư cách người em mà viết lá thư đó. Ta nói rằng: "Anh ơi! Em biết rằng những năm qua anh khổ lắm. Em đâu phải là người mù, người câm, người điếc đâu mà không biết anh khổ. Em biết rằng em phải chịu trách nhiệm một phần quan trọng trong nỗi khổ của anh. Em đã không hiểu anh. Em đã có những tri giác sai lầm về anh, nên em đã có những lời nói, những hành động, những lời buộc tội, thái độ phán xét rất sai lầm. Em rất hối hận. Em muốn có cơ hội để làm mới trở lại. (Làm Mới Trở Lại là danh từ dùng để dịch chữ Sám Hối.) Mình đang còn trẻ, vợ chồng mình có thể làm mới lại. Tại sao chúng ta phải tiếp tục gánh chịu những đau khổ như thế?" Sau khi nói được những điều căn bản đó rồi, thì ta mới nói tiếp: "Em rất vụng về, em rất dại dột. Hôm đó em đã nói điều này làm anh bực. Nhưng anh quá dễ thương, anh đã không rầy la em một tiếng nào! Nếu gặp một người khác, thì người đó có thể đã rầy em hoặc đã đánh em rồi. Nhưng mà anh dễ thương quá, anh nhịn, anh im, anh chịu đựng. Em biết rằng anh đã chịu đựng em trong bao nhiêu năm tháng vừa qua." Ta phải nói với ngôn từ như vậy. Sự thật cũng có một phần như vậy. Ta không nên viết một lá thư có tính cách ngoại giao mà phải viết cho thật với lòng mình. Viết với tất cả trái tim của mình. Nhờ lá thư được viết bằng tất cả lòng chân thành, tỉnh thức, hiểu biết và thương yêu, với tất cả ý chí muốn tái lập lại sự truyền thông mà lá thư trở thành chìa khóa mở cửa trái tim của người kia đã bị khép lại từ hơn một năm nay hoặc hai, ba năm nay.
Tôi mong rằng quí vị có thể thực tập được thành công, tái lập lại được sự truyền thông với người thương của mình. Quý vị làm điều này không phải cho riêng quý vị mà làm cho Bụt, cho thầy, cho gia đình và cho con cái của mình. Làm cho bây giờ và cho tương lai. Đừng than rằng tại vì không có ai dạy tôi, hướng dẫn tôi, không có ai chỉ đường mở lối cho tôi cả. Thưa quý vị, có rất nhiều người đã tiếp nhận giáo pháp, đã đem ra áp dụng và đã chuyển hóa được tình trạng gia đình của họ. Trong số đó rất nhiều người thuộc gốc Công Giáo, Tin Lành, Do Thái Giáo v.v... Trong khi đó chúng ta là những người con của Bụt thì tại sao chúng ta lại không làm được, tại sao chúng ta nằm đó chịu chết? Lá thư đó có thể phải để ra cả tuần lễ mới viết được. Tức là khi viết xong một lần rồi, ngày mai ta đọc lại xem còn có chỗ nào vụng về hay không, còn thiếu chi tiết nào hay không. Và có thể ta phải đọc đi đọc lại nhiều lần để chữa lại cho hay, cho khéo trước khi gởi đi. Bởi vì đó là bức tâm thư của mình. Đó là kết quả của sự nhìn sâu, quán chiếu trong hơn một tuần qua. Trong thời gian viết bức thư đó ta đã cảm thấy khỏe khoắn, nhẹ nhõm đi rất nhiều trong người rồi. Tuy rằng người kia chưa được đọc nhưng ta đã thấy khỏe, đã có giải thoát. Và tự nhiên tình thương trong ta từ từ lớn lên. Lạ lắm, khi suối nguồn của tình thương trong lòng được khơi dậy và tuôn trào ra thì bao nhiêu niềm hiềm hận, tự ái, ích kỷ và hẹp hòi bớt đi rất nhiều. Sự thật là ta có thương người kia thiệt, nhưng vì ta chưa biết cách thương theo tinh thần của Tứ Vô Lượng Tâm, nên trong tình thương của ta có pha trộn ít nhiều chất liệu của sự ích kỷ, hẹp hòi và độc tài. Tình thương của Bụt dạy không có những yếu tố như vậy. Vì vậy cho nên ngưng lại một thời gian bảy ngày để nhìn sâu, thấy được phần lỗi của ta và thấy được một vài yếu tố tích cực về phía bên kia rồi viết xuống hết. Và trong vòng bảy ngày viết đi viết lại bức thư như thế thì ta đã chuyển hóa được tâm của mình. Tuy ta biết người kia chưa đọc nhưng trong lòng ta đã nhẹ, đã khơi mở rồi nên ta không thấy khó khăn gì nữa. Mà nếu ta thành công được với mình, thì ta sẽ giúp được người kia.
Phương pháp gỡ bom
Có một cặp vợ chồng ở Mỹ. Hai vợ chồng đều có bằng cấp tiến sĩ hết. Những đứa con của họ cũng đã lớn; có người đang học đại học và có người cũng đã có bằng tiến sĩ. Đó là một gia đình có thể gọi là thượng lưu. Ấy vậy mà họ không có hạnh phúc vì ông chồng giống như một quả bom, có thể nổ bất cứ lúc nào. Trong con người của ông ta có đầy chất liệu giận hờn và tự ái. Mấy đứa con rất sợ ba của chúng, không dám tới gần. Người vợ cũng là một nhà trí thức, nhưng cái trí thức của bà không giúp ích gì cho bà trong vấn đề giải quyết những xung đột trong gia đình và đem lại hạnh phúc cho gia đình. Bà cũng sợ ông và không dám tới gần. Không ai dám tới gần một trái bom cả vì sợ nó nổ là tan xác. Một hôm nọ trong buổi ăn cơm gia đình, không biết giận chuyện gì, ông ta xô ngã cả bàn ăn, cơm canh và tất cả đồ ăn thức uống đều lăn lông lốc xuống đất. Mọi người ai nấy kinh hoàng. Đúng là một trái bom! Sống trong một gia đình, có vợ, có con, thế nhưng ông ta hoàn toàn cô độc; mọi người trong gia đình không ai có khả năng hoặc dám tới gần để lắng nghe ông ta, bởi vì ông ta hay nói bằng giọng điệu lên án, quyền hành, chua chát và trách móc. Nghe được vài câu đã thấy dội, đã thấy nặng nề rồi. Thành ra mọi người tránh né cho yên thân. Càng làm như vậy thì ông lại càng có cảm tưởng là mọi người đều muốn tẩy chay ông. Kỳ thực là đâu có ai muốn tẩy chay ông đâu, họ chỉ sợ ông thôi! Bà vợ vốn là người gốc Thiên Chúa Giáo, bà thấy cuộc sống không còn có ý nghĩa gì nữa và muốn tự tử nhiều lần nhưng chưa có can đảm. Có một hôm bà được báo tin là người em trai của bà từ Việt Nam sẽ được qua để đoàn tụ gia đình. Bà mừng quá, nghĩ là mình có nẻo thoát, mình có thể sống cuộc đời của mình với người em trai. Trên đời này không có ai thương yêu mình thì ít ra còn có đứa em trai thương mình; bây giờ mình có người em để có thể thủ thỉ, tâm sự với nhau. Trong lòng bà phát sinh ra mối hy vọng và chắc mẻm là bà có thể sống hạnh phúc được với người em trai. Tại vì sống mà không có niềm vui, hạnh phúc thì thà chết còn hơn. Gia tài đó, bằng cấp đó, địa vị đó, có nghĩa gì đâu? Trong khi mỗi ngày mình gặm nhấm biết bao nhiêu mùi vị của khổ đau và cô đơn. Ngày mà bà ra phi trường đón cậu em trai, hai chị em ôm nhau khóc. Bà khóc sướt mướt. Bà khóc những giọt nước mắt của hạnh phúc, của niềm hy vọng. Nhưng hai chị em đâu có biết tu tập, thành ra sau ba tháng sống chung với nhau, hai chị em giận nhau. Người em gây khổ đau cho người chị, người chị gây khổ đau cho người em. Người chị nói: "Mày đi đâu thì đi cho khuất mắt. Tao tưởng bảo lãnh mày qua đây để chị em mình sống chung với nhau nhưng với cái cách sống của mày thì không có ai có thể sống với mày được hết." Khi cậu em bị đuổi thì anh ta cuốn gói đi liền. Lần này bà muốn tự tử thiệt. Bà hoàn toàn không có hy vọng nào nữa cả. Bà mới điện thoại cho người bạn thân mà bà tin tưởng đó là người duy nhất có thể nghe được bà. Đó là một bà Phật tử. Mà bà Phật tử này đã được nghe một bài giảng của tôi với đề tài là Nghệ Thuật Gỡ Bom. Bà bạn mới khuyên bà nên nghe một cuốn băng giảng của tôi trước khi muốn làm gì thì làm. Lúc đầu bà từ chối không muốn nghe. Bà nghĩ rằng bây giờ không có cái gì có thể lay chuyển ý muốn tự tử của bà được. Với lại bà là người Công giáo, tại sao bà lại đi nghe băng của một ông thầy tu Phật giáo. Nhưng người bạn năn nỉ bà quá chừng: "Chị ơi, chị nghe lời em một lần đi, trước sau gì chị cũng sẽ tự tử thì chị nghe băng giảng này đâu có sao. Nghe xong rồi chị muốn làm gì thì làm, em không dám cản." Vì chiều bạn lần cuối cùng nên bà đã đồng ý. Trong khi nghe băng giảng thì bà giật mình, bà giác ngộ rằng bà cũng chịu trách nhiệm một phần quan trọng của tình trạng đã và đang xảy ra trong gia đình bà. Bà được nghe về phương pháp gỡ bom trong khi ông chồng bà là một trái bom sắp nổ. Bà thấy rằng nếu bà không học cái nghệ thuật gỡ bom thì bà không giúp chồng được. Thì ra những khổ đau, ẩn ức của chồng phần lớn đều do hoàn cảnh chung quanh trong đó bà đóng một vai trò quan trọng. Bấy lâu nay tình trạng bị bế tắc, không có sự truyền thông, trái tim của chồng hoàn toàn đóng lại kín mít, mà trái tim của mình cũng vậy. Nhờ nghe cuốn băng pháp thoại đó mà trái tim của bà đã mở ra được. Trong cuốn băng đó có dạy về phương pháp đi thiền hành, phương pháp quán chiếu cơn giận và quán chiếu về phần trách nhiệm của mình. Bà ta giác ngộ và đã tìm ra được những nguyên do đưa tới cái khổ của chồng bà. Bà thấy ngày xưa chồng bà đâu có những thái độ, những cách hành xử như vậy và bà cũng đâu có cố tâm gây đau khổ cho chồng. Chỉ vì bà vụng về, dại dột mà thôi. Nghe xong cuốn băng đó, bà muốn về để thực tập gỡ bom cho chồng liền lập tức. Trong lòng bà có nguồn năng lượng mới, lòng bà tràn đầy niềm thông cảm, tha thứ, hiểu biết và thương yêu. Bà nghĩ rằng bà là người trí thức, có bằng tiến sĩ, thì với căn bản đó bà có thể trở về gỡ bom cho chồng. Lúc đó người bạn thân Phật tử của bà mới nói: "Này chị, chưa được đâu chị ơi! Chị chưa có khả năng lắng nghe sâu và khả năng sử dụng lời nói ái ngữ đâu. Chỉ khi nào mình nắm được phương pháp lắng nghe, chỉ khi nào mình sử dụng được lời ái ngữ, mình mới có thể ngồi nghe để cho người kia nói ra những niềm đau nỗi khổ của người đó. Chị mới nghe qua một lần bài pháp thoại, chưa có kinh nghiệm thực tập. Nếu chị nôn nóng quá thì chỉ sau mười, mười lăm phút lắng nghe và nhất là nghe toàn những câu buộc tội, chua chát là chị sẽ chịu hết nổi và những đau khổ của chị sẽ khiến chị phản ứng trở lại với những tâm hành giận hờn, trách móc, thì không những không hàn gắn được mà lại đổ vỡ nặng thêm. Chị phải thực tập một thời gian đã. Thầy em sắp qua Mỹ để hướng dẫn hai khóa tu tại vùng California; một khóa ở miền Nam và một khóa ở miền Bắc. Em khuyên chị nên ghi tên đi, khóa tu sẽ được kéo dài trong vòng sáu ngày liên tiếp, em cũng đã ghi tên tham dự khóa tu đó rồi. Chị em mình sẽ cùng tu học với nhau. Em tin chắc rằng sau một khóa tu như thế, chị sẽ có nhiều kinh nghiệm, vốn liếng, có đủ khả năng và tình thương để trở về thực tập lắng nghe chồng mình như chị đã mong ước. Và em tin là chị sẽ làm được."
Vấn đề sống chết
Thế là bà đã chấp thuận và người bạn đã điền đơn ghi tên tham dự khóa tu suốt sáu ngày liên tiếp giùm bà. Trong khóa tu đó, bà ta đã thực tập hết lòng. Đối với bà, đây là vấn đề sống chết của đời mình. Vì thế trong suốt khóa tu, bà đã thực tập thiền đi và hơi thở chánh niệm rất giỏi. Khi ta quay về nương tựa tam bảo hết lòng thì ta quyết tâm thực tập, nhờ vậy mà ta làm chủ được tình trạng thân tâm của ta. Khi làm chủ được thân tâm ta rồi thì ta biết rằng ta có thể thực tập lắng nghe được. Lắng nghe với tâm từ bi, danh từ chuyên môn gọi là bi thính. Bi thính nghĩa là lắng nghe một cách chăm chú, sâu sắc, lắng nghe với lòng thương của đức Quán Thế Âm. Trong khi thực tập lắng nghe, ta phải ngồi cho thật yên, luôn luôn trở về với hơi thở, nắm lấy hơi thở và chỉ làm một việc là lắng nghe thôi, nhất định là không để cho sự thành kiến, phân biệt đúng sai, giận hờn và trách móc chi phối. Hoặc nếu trong khi nghe mà những tâm hành ấy phát khởi thì ta nhận diện, mỉm cười với chúng và làm cho chúng lắng dịu trở lại. Ta không nên phân trần biện minh liền trong lúc đó. Ta chỉ lắng nghe với một mục đích duy nhất là để cho người kia có cơ hội nói ra được niềm đau nỗi khổ của họ. Sau một giờ đồng hồ được lắng nghe như thế, người kia đỡ khổ rất nhiều. Trái tim người kia sẽ mở ra và sự truyền thông có thể được thiết lập trở lại.
Chiều hôm đó là ngày cuối của khóa tu, bà ta trở về nhà. Ông chồng thấy bà đi từng bước chậm rãi, thanh thản, không nói năng gì, rất lặng lẽ và bình an. Tối hôm đó, bà tới ngồi gần ông ta, bà nói: "Ông ơi! Tôi biết là mấy năm qua ông đã khổ nhiều. Tôi rất hối hận. Nhìn lại tôi thấy tôi có trách nhiệm trong nỗi khổ của ông. Tôi đã dại dột, đã có tri giác sai lầm về ông. Tôi không hiểu được những khổ đau trong lòng của ông, tôi không thấy được những nỗi khó khăn của ông mà tôi lại còn đổ dầu vào lửa. Tôi đã nói và làm những điều gây khổ đau và khó khăn cho ông. Bây giờ tôi rất hối hận. Thật ra tôi đâu có muốn làm ông khổ, nhưng vì tôi chưa thấy, chưa hiểu được ông nên tôi mới vụng dại như vậy. Xin ông giúp tôi, nói cho tôi biết những nỗi khổ niềm đau của ông để tôi hiểu và cũng xin chỉ cho tôi thấy tôi đã nói hoặc đã làm những điều gì làm cho ông khổ trong bao nhiêu năm nay để tôi có thể tu tập mà sửa đổi. Nếu ông không giúp tôi thì tôi không thể nào thay đổi được. Tôi biết tôi đã từng vụng dại, không hiểu chồng mình nên thay vì thương, tôi đã làm cho ông khổ nhiều. Xin ông tha thứ cho tôi và cho tôi cơ hội để làm mới trở lại. Tôi chỉ muốn gia đình chúng ta có hạnh phúc, có thương yêu thôi. Xin ông giúp tôi để tôi không còn dại dột, vụng về như vậy nữa. Ông ơi! Ông giúp tôi đi! Tôi muốn thương ông, tôi muốn làm hạnh phúc cho ông, chứ tôi đâu có muốn làm ông khổ như vầy..." Bà đã nói với tất cả trái tim của bà. Lạ thay, sau khi nghe bà vợ nói như thế, ông ta đột nhiên bật khóc như một đứa bé. Nhà đại trí thức, cha của những đứa con đã tốt nghiệp đại học mà vẫn bật khóc như một đứa bé. Trong chúng ta, người nào cũng có một em bé đang còn có mặt. Khi bà thấy ông khóc như vậy thì bà mừng thầm biết rằng mình đã thành công, có sự chuyển đổi lớn trong trái tim của chồng mình. Bà ngồi yên lặng một lúc để cho chồng mình khóc, sau đó bà nói tiếp: "Ông ơi! Ông giúp tôi đi. Ông nói cho tôi nghe những khó khăn, những khổ đau của ông đi. Tôi muốn nghe lắm. Tôi thương ông quá đi, tôi xót xa lắm!" Bà thật lòng muốn lắng nghe ông và tìm đủ cách để giúp ông nói ra nỗi khổ của ông. Bà nhất định ngồi nghe và ông bắt đầu nói. Trong khi ông nói, bà ngồi thật yên, theo dõi hơi thở chánh niệm, bà thở vào thở ra nhẹ nhàng và nuôi dưỡng lòng từ bi trong suốt buổi lắng nghe. Bà ý thức rằng mục đích của sự ngồi nghe là để cho chồng mình bớt khổ, chứ không phải ông nói cái gì sai là mình sửa. Ngồi nghe như vậy chỉ với một ước muốn là để cho chồng mình có một cơ hội. Tối hôm đó là một buổi tối rất mầu nhiệm; ông ta nói ra được hết những khó khăn, khổ đau đã bị dồn nén trong mấy năm qua. Sau khi nói ra được rồi, ông ta thấy khỏe. Trong suốt buổi lắng nghe, bà ta không nói một điều gì cả ngoài mấy câu như: "Tội nghiệp ông quá. Tôi thiệt là đồ ngu." Và quý vị có biết cái gì đã xảy ra không? Bà thuyết phục được ông đi dự khóa tu thứ hai ở miền Bắc Cali. Lần này ông chồng tìm lại được người vợ ngày xưa, người đã từng biết nói những lời dịu ngọt, biết buông bỏ tự ái, biết nhận lỗi của mình và nhờ vậy sự truyền thông của hai vợ chồng được thiết lập lại. Những đứa con thừa hưởng được sự hàn gắn và hòa hợp của cha mẹ. Đó là niềm hạnh phúc lớn nhất của họ. Hai vợ chồng đã tới tham dự khóa tu, nhưng ba đứa con họ đã không tới được. Tuy họ là tín đồ Công Giáo, nhưng họ tu tập rất đàng hoàng. Bà bạn thân Phật tử của bà cũng có mặt đó trong khóa tu này. Trong buổi thiền trà kết thúc khóa tu, ông ta đứng dậy và nói: "Kính thưa đại chúng, tôi xin giới thiệu với quý vị một vị Bồ Tát trong đời tôi, một người mà tôi đã ngu dại gây đau khổ trong bao nhiêu năm qua, người đó là vợ của tôi. Nhờ bà mà tôi đã thoát ra được ngục tù của khổ đau trong bao nhiêu năm." Sau khóa tu đó, hai vợ chồng chuyển hóa rất nhiều và có rất nhiều hạnh phúc. Rồi sau đó không lâu, hai vợ chồng lại đến tham dự một ngày tu chánh niệm ở trung tâm tu học Spirit Rock cũng ở miền bắc Cali, gần thành phố San Francisco. Hôm đó có trên 2.200 người tới tham dự. Ngày tu chánh niệm bắt đầu từ 8 giờ sáng đến 6 giờ chiều. Những người đến tham dự toàn là người Mỹ. Lần này họ tới cùng với ba đứa con. Bà bạn Phật tử cũng đã đến tham dự và kể lại cho chúng tôi nghe hết những gì đã xảy ra với gia đình họ. Nhờ vậy nên tôi mới biết được câu chuyện này để kể lại cho quý vị nghe.
Đánh mất đứa con là đánh mất đất nước
Giáo pháp của Bụt được trình bày một cách cụ thể và vi diệu như thế. Nếu cặp vợ chồng đó thực tập thành công, thì tại sao ta không thành công được? Tại sao ta phải chờ đợi? Pháp môn lắng nghe và ái ngữ có thể áp dụng cho mọi lứa tuổi, dù ta còn trẻ hay đã lớn tuổi, người nào cũng có thể thực tập thành công được. Ái ngữ nghĩa là nói với những lời từ hòa. Trong khi nói, nếu ta thấy có sự bực bội nổi lên thì ta ngưng nói ngay, vì nếu ta tiếp tục nói thì lời nói của ta sẽ trở nên cộc cằn, chua chát và gây thêm sự đổ vỡ. Ta lập tức trở về với hơi thở, làm cho thân tâm lắng dịu trở lại rồi nói: "Em xin lỗi. Anh cho phép em được tiếp tục sự chia sẻ vào một hôm khác. Em cảm thấy không được khỏe lắm." Rồi ta trở về thực tập chăm sóc thân tâm, chăm sóc những cảm thọ của ta cho đến khi nào ta thấy ta có thể nói hết tất cả những điều trong lòng mình ra và có thể nói bằng giọng không trách móc, không giận hờn, không tự ái. Cái đó gọi là ái ngữ. Ái ngữ không có nghĩa là không được quyền nói ra sự thật, nhưng phải học nói sự thật như thế nào để người kia có thể chấp nhận được. Phương pháp lắng nghe và sử dụng ái ngữ không phải chỉ thực tập trong phạm vi vợ chồng mà cũng được áp dụng trong các liên hệ cha con, mẹ con hay anh, chị, em. Nếu sự truyền thông giữa cha với con, giữa mẹ với con bị bế tắc, thì quý vị cũng có thể thực tập theo phương pháp này. Là người cha, người mẹ, quý vị có nhiều kinh nghiệm hơn con quý vị. Tôi đề nghị là quý vị nên bắt đầu thực tập từ phía quý vị trước. Nếu quý vị đợi cho con của quý vị làm trước thì không biết bao giờ nó chịu làm. Cho nên với tư cách người cha, quý vị phải thực tập trước, quý vị nói như thế này: "Con ơi! hình như cha con mình không có hạnh phúc lắm. Nhìn lại, cha thấy cha đã vụng về, đã không thấy được những khó khăn, những đau khổ của con. Cha đã nhiều lần rầy la, mắng nhiếc con. Cha đã đối xử không có từ hòa với con và đã làm cho con khổ. Cha rất hối hận. Cha muốn bắt đầu làm mới trở lại. Xin con cho cha một cơ hội." Quý vị hãy làm thử đi. Quý vị hãy vì thầy, vì các vị tổ sư, vì Đức Thế Tôn, vì ông bà tổ tiên mà làm thử đi. Bởi vì nếu quý vị đánh mất đứa con của quý vị, thì quý vị sẽ không còn có tương lai nữa. Quý vị nói là quý vị yêu nước, yêu dân nhưng mà quý vị không yêu con được thì làm sao đất nước, dân tộc có tương lai? Cho nên sự thực tập của ông, của bà là làm thế nào chinh phục được lại đứa con của ông, của bà thì đất nước mới có tương lai, quý vị mới có tương lai. Bởi vì con của quý vị là sự tiếp nối của quý vị. Đó là bổn phận của ông, của bà. Đó là hành động yêu nước lớn lao nhất mà ông, bà có thể làm, chứ không phải ký một bản tuyên cáo yêu nước mới gọi là yêu nước đâu. Quý vị hãy ngồi lại với con của mình để thiết lập truyền thông trở lại. Thực tập như thế nào để tái lập sự truyền thông, sự hòa điệu và hạnh phúc giữa cha con, mẹ con, thì đó mới đích thực là hành động yêu nước sâu sắc. Còn nếu ta là một người trẻ, là người con, ta có vấn đề với cha, với mẹ ta, thì ta biết rằng mình phải đích thân bắt đầu sự thực tập. Ta có thể nói: "Ba mẹ ơi! Con là đứa con dại dột, bất hiếu nên đã nhiều lần làm cho ba mẹ lo lắng và buồn khổ. Tại con không hiểu được ba mẹ, ba mẹ cũng có những khổ đau, những bất đắc chí mà con không thấy được. Con chỉ biết đòi hỏi, chỉ biết trách móc và hờn giận ba mẹ thôi, chứ không biết tìm cách để hiểu ba mẹ đang có những khổ đau, khó khăn nào. Vì thế con đã gây ra nhiều lỗi lầm, vụng dại trong quá khứ. Xin ba mẹ cho con một cơ hội để bắt đầu trở lại. Xin ba mẹ nói cho con nghe những điều đau khổ, buồn bực của ba mẹ đối với con để con học hỏi mà tránh lập lại những lỗi lầm, vụng dại đó. Con biết con là sự tiếp nối của ba mẹ. Con chỉ muốn trở thành một con người tốt, hữu ích cho xã hội. Con xin ba mẹ, con xin ba mẹ giúp con!" Nếu ta nói được như vậy thì tim của ba, của mẹ sẽ mở ra, vì tình thương vẫn còn ở trong trái tim của cha mẹ. Dầu trong quá khứ cha hay mẹ ta có nói: "Mày không phải là con tao, tao từ mày, tao không muốn có gì dính líu tới mày hết. Mày đi đâu thì đi cho khuất mắt tao." Dù có nói như vậy, nhưng trong đáy lòng của cha mẹ lúc nào cũng có tình thương của một người cha, người mẹ đối với con. Cha mẹ nào mà không thương con, không muốn cho con nên người! Cho nên là người khôn ngoan, ta không nên mới nghe một vài câu nói như vậy của cha hoặc mẹ thì vội kết luận hoặc lên án rằng cha mẹ không thương mình, không tình nghĩa gì đối với mình cả. Đó là nhận thức sai lầm mà ta thường mắc phải. Sự thật là khi giận, người ta hay nói những lời như vậy để hả cơn giận mà thôi, chứ đừng nghe vài câu nói như vậy thì vội nghĩ là hết tình hết nghĩa. Cha mẹ ta cũng là con người, cũng có những lỡ lầm, vụng dại và ta cũng vậy. Thấy được như vậy, ta sẽ thông cảm cho cha mẹ ta nhiều hơn. Nếu ta bị tai nạn gì đưa tới sự thiệt mạng hoặc bị thương nặng, thì cha ta, mẹ ta sẽ than khóc suốt ngày suốt đêm. Cho nên đừng có dại dột đi tìm giải pháp tự tử hoặc phá hoại, làm tình làm tội thân thể của mình bằng những phương tiện như la cà trong các quán rượu, cờ bạc hay sử dụng ma túy. Ta không nên trừng phạt cha mẹ, gia đình ta bằng cách ấy. Tội nghiệp cho cha, cho mẹ, tội nghiệp cho dòng họ của ta. Nếu quý vị làm được chuyện đó, thì Bụt, Tổ và tôi sẽ rất hãnh diện, rất hạnh phúc và rất được nuôi dưỡng. Tình thầy trò có được khi ta thật sự tiếp nhận và thực tập những điều thầy dạy. Chúng ta tới chùa không phải để thầy an ủi hoặc ban phát cho chút đỉnh tình cảm mà tới chùa là phải có một mục đích cao cả hơn sự an ủi vỗ về tầm thường. Được thầy chào hỏi, được thầy sờ đầu, được thầy ngồi nói chuyện v.v..., điều đó không quan trọng. Quan trọng là học cho được nơi thầy những pháp tu học cụ thể để thực tập chuyển hóa những khó khăn, khổ đau, tiếp xúc được với niềm vui, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày. Nếu muốn là học trò dễ thương của thầy, là học trò đích thực của thầy thì ta phải hết lòng thực tập cho được những điều thầy đã trao truyền. Như vậy thầy trò mới xứng đáng là đệ tử của Bụt. Thành ra xin quý vị khi về nhà, hãy quyết tâm thực tập để tái lập lại được sự liên hệ với con mình, với cha mẹ mình hoặc với vợ hay chồng. Nếu quý vị thực tập thành công, thì xin viết thư cho tôi hay để tôi mừng. Mỗi khi tôi nhận được những tin vui như thế từ các thiền sinh, từ các đệ tử, tôi rất lấy làm hãnh diện và hạnh phúc. Đời sống mà không có tình thương thì trở thành khô khan vô nghĩa. Thương yêu không phải là sự thèm khát dục vọng như ta đã học, thương yêu là sự ao ước muốn đem lại an lạc, hạnh phúc và tự do cho chính mình và cho những người mình thương. Và muốn thương được thành công thì ta phải tập thương theo tinh thần của Bốn Tâm Vô Lượng, đó là từ, bi, hỷ, xả và phải biết khéo léo sử dụng hai yếu tố căn bản của sự thực tập: lắng nghe sâu và sử dụng ngôn từ hòa ái.
Chỉ và quán
Thiền là gì?
Thiền không phải là ngồi lim dim để quên hết chuyện đời. Thiền tức là thực tập ngưng lại. Ngưng lại để có thể nhìn rõ. Khi chúng ta còn chạy, còn hấp tấp thì chúng ta không thể nào nhìn rõ được. Ví dụ như chúng ta muốn nhìn một ngôi sao qua kính viễn vọng. Muốn nhìn một ngôi sao thì trước hết chúng ta phải ngồi xuống hoặc đứng một chỗ và tay cầm ống kính không được run. Mắt ta cũng như tay ta phải hướng về ngôi sao đó và chúng ta phải có sự ngưng lại hoàn toàn của thân thể thì mới có thể định hướng được ngôi sao đó ở chỗ nào. Tay không run thì ngôi sao đó mới hiện rõ ra ở trong cái viễn kính của chúng ta. Đây là thiền chỉ. Thiền chỉ tức là làm ngưng lại, ngưng thân và ngưng tâm lại, và khi ngưng lại như vậy thì ta có định. Khi đã có định thì chúng ta mới bắt đầu quan sát và thấy được sâu sắc đối tượng quan sát của chúng ta là ngôi sao. Đối với hoàn cảnh của chúng ta cũng vậy. Hoàn cảnh của chúng ta là một ngôi sao, là một đối tượng của sự thiền tập, hoàn cảnh của những khổ đau, những khó khăn. Chúng ta phải có cơ hội thực tập dừng lại, thực tập thiền chỉ. Chỉ nghĩa là ngưng lại. Ngưng lại thì chúng ta mới có cơ hội quán chiếu.
Đức Thế Tôn khuyên ta hãy dừng lại. Khi dừng lại và an trú được trong phút giây hiện tại thì tự nhiên ta sẽ khám phá ra ta có rất nhiều điều kiện hạnh phúc đang có mặt và ta có hạnh phúc liền lập tức. Hai mắt sáng là một điều kiện căn bản của hạnh phúc. Trái tim của ta đang hoạt động bình thường là một điều kiện của hạnh phúc.
Ta đã dừng lại từ lâu rồi
Hồi xưa, có một anh chàng tên là Ương Quật Ma (Angulimala). Anh ta là một anh chàng theo băng đảng du côn và có sức mạnh giết người rất ghê gớm. Anh ta đã giết gần 100 người. Một hôm anh ta vào thành phố, cảnh sát và quân đội đều lo sợ. Lúc đó Đức Thế Tôn đang đi khất thực ở thành Xá Vệ, ngài thấy nhà nào cũng đóng cửa giống như một thành phố chết. Có một nhà mở cửa, mời Đức Thế Tôn vào và nói: "Đức Thế Tôn không nên đi khất thực bữa nay, tại vì tên sát nhân Angulimala đã xuất hiện trong thành phố. Nó rất hung hăng, gặp ai nó cũng giết. Xin Đức Thế Tôn đừng đi khất thực hôm nay, chúng con xin cúng dường ngài." Đức Thế Tôn nói: "Ta cứ đi và ta có thể giúp được Angulimala". Đức Thế Tôn bước ra đường và tiếp tục đi khất thực. Trong khi ngài đi thiền hành bình thản, chậm rãi, thực tập hiện pháp lạc trú thì ngài nghe tiếng chân của một người chạy theo. Ngài nghĩ đây có lẽ là Angulimala nhưng ngài vẫn bình thản đi từng bước chân thảnh thơi. Chúng ta biết rằng trước khi xuất gia, Siddhatta rất giỏi về võ nghệ nên tuy đang ôm bình bát, không có binh khí trong tay nhưng Đức Thế Tôn rất tin ở khả năng tự vệ của ngài, cho nên ngài rất bình tĩnh đi từng bước. Angulimala rất lấy làm ngạc nhiên, vì mọi người khi thấy anh ta đều sợ quýnh lên như sợ cọp vậy. Nhưng ông thầy tu này, ông không có vẻ gì là sợ hãi cả, vẫn đi từng bước thảnh thơi như là chỗ không người. Anh ta kêu lên: "Ông thầy tu dừng lại!" Nhưng Đức Thế Tôn cứ tiếp tục đi không sợ hãi, mà cũng không dừng lại. Anh ta chạy theo và bắt kịp, đi ngang hàng với Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đi bên mặt, Angulimala đi bên trái và nói: "Ông thầy tu, tại sao tôi bảo ông dừng lại mà ông không dừng lại?" Đức Thế Tôn vẫn tiếp tục bước và nói rằng: "Này Angulimala, ta đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có anh là không chịu dừng lại thôi." Ngài chỉ nói có một câu và anh chàng hoảng hồn ngay lập tức, chưa bao giờ có ai nói với anh ta như vậy, và nói với một phong độ rất vô úy, rất ung dung: "Này Angulimala, (tại sao ông ta biết tên mình?) ta đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có anh là không chịu dừng lại thôi." Nghe câu nói đó, anh ta xúc động. Mà không chỉ vì câu nói đó, dáng dấp và phong độ của Đức Thế Tôn đã làm cho anh chàng bị thuyết phục và ngỡ ngàng. Anh ta mới trả lời: "Ông đang đi như vậy mà ông nói là ông đã dừng lại hả?" Đức Thế Tôn nói: "Trên con đường tạo tác khổ đau, tội lỗi cho mình và cho mọi người chung quanh, ta đã dừng lại từ lâu rồi, từ bao nhiêu kiếp rồi. Nhưng Angulimala, anh vẫn chưa chịu dừng lại, đây là lúc anh nên dừng lại." Nghe câu nói đó, anh ta rúng động. Anh ta khóc òa lên, liệng thanh đao xuống đất và nói: "Nhưng mà trễ rồi, làm sao tôi dừng được nữa?" Sự thật là vậy, muốn dừng lại thì cũng bị bắt vào tù và xử án như thường, tại vì mình đã giết người. Trong lúc Angulimala khóc rống lên, bứt tóc bứt tai như vậy thì Đức Thế Tôn nói: "Nếu anh muốn thực sự dừng lại, ta sẽ giúp anh." Bằng đức độ và tuệ giác của ngài, Đức Thế Tôn đã hàng phục được Angulimala. Ngài cho Angulimala được cạo tóc và xuất gia ngay tại chỗ rồi dẫn về tu viện.
Thông điệp của sự dừng lại
Thời gian đầu xuất gia, Angulimala chỉ ở trong tu viện để được huấn luyện, các thầy khác đi khất thực và chia sẻ phần thức ăn với anh ta. Angulimala đã thực tập rất giỏi trong thời gian này tại vì đây là vấn đề sống chết của thầy. Sau đó Angulimala được đi theo Đức Thế Tôn vào thành Xá Vệ để khất thực. Đoàn khất thực của Đức Thế Tôn có chừng 30 thầy. Khi Đức Thế Tôn bước vào nội thành thì gặp vua Ba Tư Nặc. Vua Ba Tư Nặc đang đích thân chỉ huy quân đội lùng bắt Angulimala. Đức Thế Tôn hỏi: "Hôm nay có chuyện gì mà Đại Vương phải điều động binh mã như vậy?" Vua Ba Tư Nặc đáp: "Tên Angulimala xuất hiện trong thành phố, vì sự an toàn của người dân nên trẫm phải thân chinh lùng bắt Angulimala". Đức Thế Tôn hỏi: "Một mình Angulimala mà Đại Vương phải điều động đến chừng này quân đội sao?" Vua Ba Tư Nặc đáp: "Angulimala rất lợi hại, tại Đức Thế Tôn không biết đó thôi." Đức Thế Tôn nói: "Giả sử Angulimala cải tà quy chánh, và phát nguyện từ đây về sau sẽ không tạo tác tội ác nữa, dừng lại hoàn toàn và thực tập con đường của người hiền lương thì bệ hạ có tha cho y được không?" Vua Ba Tư Nặc vốn là bạn và cũng là đệ tử của Đức Thế Tôn mới trả lời rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, nếu Đức Thế Tôn cải hóa được Angulimala, và Angulimala chịu sống đời hiền lương thì trẫm sẵn sàng tha tội cho y." Đức Thế Tôn lại hỏi tiếp: "Nếu Angulimala xuất gia trở thành một vị khất sĩ đạo hạnh thì đại vương có cho phép Angulimala đi khất thực trong thành này không?" Vua Ba Tư Nặc đáp: "Có chứ, nếu Angulimala trở thành một vị khất sĩ thực tập giới luật, uy nghi như tất cả các vị khất sĩ khác thì trẫm sẽ cho phép Angulimala được khất thực trong vương quốc và trẫm sẽ cúng dường thực phẩm, y áo cho Angulimala.”
Sau khi vua Ba Tư Nặc nói như vậy, Đức Thế Tôn quay lại chỉ vào một vị khất sĩ và nói: "Đại vương, đây là Angulimala, và cũng là đại đức Abihimsa. Abihimsa nghĩa là bất bạo động". Vua Ba Tư Nặc tiến lại phía đại đức Abihimsa và hỏi: "Bạch đại đức, đại đức xuất thân từ dòng họ nào và tôi có thể cúng dường y áo và thực phẩm cho đại đức không?" Đại đức Abihimsa chắp tay đáp: "Tâu đại vương, tôi đã có đủ ba y và mỗi ngày đi khất thực đủ ăn. Xin cảm ơn Đại vương đã chiếu cố." Sau khi vua gặp Angulimala như là một vị khất sĩ thì bãi binh rồi lạy Đức Thế Tôn ba lạy và nói rằng: "Lạ quá, Đức Thế Tôn, những điều mà quân đội và cảnh sát làm trong bao lâu nay vẫn không bắt được Angulimala, mà Đức Thế Tôn đã cải hóa được người ấy trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Quả thật ngài là bậc thầy của thiên và nhân.”
Câu chuyện này đã xảy ra trong lịch sử Phật giáo. Và nó cũng là thông điệp của sự dừng lại. Nếu chúng ta còn rong ruổi, còn tiếp tục gây khổ đau cho chúng ta và cho những người chung quanh thì đây là lúc chúng ta dừng lại. Dừng lại để học nghệ thuật sống an lạc trong cuộc sống hiện tại. Chúng ta không phải Angulimala, người đã tạo ra rất nhiều tội ác. Chúng ta không tạo ra những tội lỗi như vậy, nhưng chúng ta không được hướng dẫn để sống an lạc hạnh phúc và thảnh thơi để chúng ta có thể cung cấp những chất liệu này cho những người thân yêu của chúng ta. Dừng lại là phương pháp thực tập của chúng ta.
Niệm, định là thiền chỉ
Khi tham dự các khóa tu là chúng ta thực tập thiền chỉ. Đó là cơ hội để chúng ta ngưng lại những sự lăng xăng, những sự chạy đua để có thể ngồi yên. Trong khi ngồi, khi đi lại cũng như khi ăn cơm hay rửa bát, chúng ta phải ở tư thế chánh niệm và chánh định. Chánh niệm và chánh định tức là thiền chỉ. Nếu chúng ta không nói chuyện, không cười giỡn không phải là chúng ta bị cấm nói chuyện hay cấm cười giỡn mà tại vì chúng ta thật sự muốn ngưng lại, muốn lắng lòng lại để có cơ hội nhìn sâu vào những đối tượng mà ta muốn quán chiếu. Và khi đã biết đi được từng bước vững chãi, nắm lấy hơi thở, rửa bát trong chánh niệm, cắm lều trong chánh niệm thì tâm của chúng ta mới lắng lại. Mục đích của chỉ là làm cho lắng lại, làm cho tụ lại, (to calm down, to be concentrated), đó là mục đích của thiền chỉ. Làm cho lắng dịu lại, làm cho an tịnh lại, làm cho chuyên nhất lại, cái đó gọi là thiền chỉ. Mà nếu ta không thực tập được phần thiền chỉ thì ta không thể thực tập được phần thứ hai tức là thiền quán.
Thiền quán
Quán tức là nhìn sâu (looking deeply) vào đối tượng để thấy được bản chất của đối tượng. Chúng ta tới với nhau trong khóa tu này để ngưng lại, để làm lắng dịu thân tâm và cùng đưa mắt nhìn về một đối tượng. Đối tượng đó là Gia Đình Phật Tử. Chúng ta có những khó khăn nào, chúng ta có những khổ đau nào, có những mục đích nào, có những ước muốn nào, chúng ta phải thấy cho rõ vì khi chúng ta chưa thấy được thì chúng ta vẫn chưa tìm ra được con đường. Vì vậy chỉ và quán là hai pháp môn thực tập giúp cho chúng ta thấy được bản chất của vấn đề và mở ra cho chúng ta một con đường để chúng ta có thể ra khỏi tình trạng khó khăn và bế tắc.
Chỉ và quán giúp cho chúng ta có những phương pháp để thực hiện được những điều ta mong mỏi và ước mơ. Đó là sự chữa trị, nuôi dưỡng bản thân của ta, bản thân người Huynh Trưởng và sự chữa trị, nuôi dưỡng đứa em của ta mà gia đình huyết thống của em đã giao phó cho ta. Nếu ta không biết cách chữa trị và nuôi dưỡng ta bằng những chất liệu tốt lành và đẹp đẽ của nền đạo lý tốt lành mà ta tôn thờ thì làm thế nào ta có thể nuôi dưỡng và trị liệu cho em bé? Nuôi dưỡng và trị liệu cho em là hành động yêu nước, hành động độ chúng sanh rất cao cả. Đó là sứ mạng của một vị Bồ Tát. Người Huynh Trưởng nam hay nữ có thể là một vị Bồ Tát. Chúng ta không nên bằng lòng với những danh từ, với những hình thức, chúng ta chỉ bằng lòng khi chúng ta thực sự có những chất liệu yêu thương ấy.
Bí quyết của sự thực tập là hiểu và thương
Con đường của chúng ta là con đường hiểu và thương. "Vì muốn thực tập con đường hiểu và thương nên thọ nhận thức ăn này." Đó là câu quán nguyện cuối cùng trong sự thực tập quán chiếu trước khi ăn. Hiểu tức là Trí tuệ. Thương tức là Từ bi. Chúng ta chỉ cần thực tập hai điều đó. Nếu muốn hiểu thì chúng ta phải lắng lòng lại, tĩnh tâm lại mà nghe và nhận xét thì chúng ta mới hiểu được. Còn nếu chúng ta nổi nóng lên và mất đi sự bình tĩnh thì chúng ta không thể nào hiểu được. Cho nên phương pháp thực tập thiền chỉ, theo dõi hơi thở, bước chân, ăn cơm trong im lặng, làm việc trong im lặng là để tĩnh thân và tĩnh tâm trở lại. Đây là phương pháp mà người xuất gia cũng như người tại gia đều có thể thực tập trong đời sống hàng ngày. Có tĩnh, có lặng thì mới có định. Có định thì mới có tuệ, mới có thể hiểu được. Và khi mà hiểu được rồi thì ta không còn trách móc hay buồn giận nữa. Người kia có thể nói ra một câu ác độc, người kia có thể có những hành động có vẻ kỳ thị, ác độc với ta, nhưng ta hiểu được và do đó thương được người kia. Người kia có thể đang ở dưới một ảnh hưởng xấu, bị lôi kéo hay được tiếp nhận những nhận thức không đúng với sự thật nên họ có tri giác sai lầm và đã lên án, nói xấu, mắng chửi hay kỳ thị ta... Khi hiểu được như vậy thì ta không còn giận người đó nữa mà ta chấp nhận và tiếp tục thương họ được.
Thành ra cái hiểu chắc chắn đưa tới cái thương. Khi hiểu rồi thì ta thương được luôn cả những người khó thương. Những người dễ thương thì ta đâu cần phải cố gắng. Dễ thương thì ta thương thôi, và đó đâu phải là sự thực tập. Sư cô Bích Nghiêm đã sáng tác một bài nhạc rất đơn giản bằng tiếng Huế. Bài đó là bài nhạc đầu tiên của sư cô làm để tặng thầy của mình. Bài nhạc như sau: "Người ơi sao người dễ thương rứa? Ai người cũng thương như nhau. Dầu dễ thương hay không dễ thương, thì người cũng cứ thương thôi. Đẹp quá, đẹp quá đi người ơi, là con đường con nguyện noi theo." Vậy thì lỡ Thầy có rầy, Thầy có la mắng, Thầy có trách ta thì có thể là vì Thầy chưa hiểu ta, Thầy chưa thấy được những đau khổ và những khó khăn của ta. Bổn phận ta là phải lắng nghe để tìm phương cách, mà một trong những phương cách đó là sử dụng ái ngữ để giúp Thầy hiểu được mình. Đừng phản ứng bằng sự giận hờn và trách móc. Nếu Giáo Hội chưa hiểu thì chúng ta cũng phải hành động như vậy. Và kết quả trước hết là tâm ta khỏe khoắn vì trong tâm ta không còn sự giận hờn. Ta có khỏe rồi thì ta mới giúp người kia khỏe được. Do đó nên con đường hiểu và thương rất hay.
Con đường hiểu và thương không có nghĩa là đòi hỏi người khác hiểu mình, đòi hỏi người khác thương mình. Ở đời ai mà không muốn đòi hỏi hai cái đó? Hai cái đó là quý nhất rồi. Nhưng ta vô chùa đâu phải là để đòi hỏi, vô chùa là để tập hiểu và tập thương. Vấn đề người kia có hiểu ta hay có thương ta không là một chuyện, vấn đề thực tập của ta là ta phải hiểu và thương được người kia. Thành ra đừng có than phiền rằng: "Không ai hiểu tôi hết! Không ai thương tôi hết! Tôi bơ vơ một mình, tôi khổ lắm!" Điều đó ở ngoài đời thì ai cũng có thể than như vậy hết. Nhưng vào chùa, vào Gia Đình Phật Tử là ta thực tập điều ngược lại. Tôi không đòi hỏi ai hiểu và thương tôi tại vì tôi quyết tâm thực tập để có thể hiểu được người khác và để có thể thương được người khác. Ta quan niệm con đường hiểu và thương là như vậy. Nhưng mà lạ lắm! Đến khi ta hiểu được, tha thứ được, thương được rồi thì người kia có hạnh phúc và ta cũng được tiếp nhận năng lượng hạnh phúc đó rất mau. Giống như khi đài truyền hình gởi tín hiệu lên trên vệ tinh thì những tín hiệu đó được gởi trả về trái đất rất nhanh. Những chương trình tivi ta coi thường thường được gởi lên trên vệ tinh nhân tạo rồi vệ tinh nhân tạo gởi xuống lại trái đất liền lập tức, và ta có thể được coi gần như là đồng thời với chỗ đang phát chương trình ra. Sự thực tập hiểu và thương cũng đem lại kết quả như vậy. Giây phút mà ta bắt đầu hiểu và thương rồi thì người ta nhẹ ra, dễ chịu và tươi mát. Người kia được hưởng, người kia nở nụ cười, người kia có hạnh phúc thì tự nhiên niềm hạnh phúc đó cũng trở về cho ta hưởng. Thành ra ta không đòi hỏi được hiểu, được thương, ta chỉ cần hiểu và thương thôi thì sau đó ta sẽ được hiểu và được thương. Đó là bí quyết của sự thực tập.
Hạnh phúc không phải là vấn đề cá nhân
Trong khi thực tập ta thấy rõ ràng hạnh phúc hay khổ đau đều không phải là vấn đề cá nhân. Trong một liên hệ như liên hệ cha con, nếu cha mà đau khổ thì làm sao con có hạnh phúc được? Nếu con mà đau khổ thì cha cũng không thể có hạnh phúc. Trong liên hệ vợ chồng, nếu người chồng đau khổ thì làm sao người vợ có được hạnh phúc? Vì vậy nên làm cho người kia hết đau khổ tức là làm cho ta hết đau khổ; làm cho người kia hạnh phúc tức là làm cho ta được hạnh phúc. Nếu anh Huynh Trưởng làm cho em Oanh Vũ hay em thiếu niên của anh mỉm cười được thì anh Huynh Trưởng sẽ có hạnh phúc liền lập tức. Khi em bé nhoẻn miệng cười thì ta thấy như có hoa nở trong trái tim ta. Làm cho cha ta nở được nụ cười thì tự nhiên ta cảm thấy có hạnh phúc. Làm cho người bạn hôn phối của ta mặt rạng rỡ ra, hai mắt long lanh thì tự nhiên ta có hạnh phúc. Cho nên hạnh phúc không có thể đi tìm với tính cách cá nhân được. Nếu người kia không có hạnh phúc thì đố mà ta có hạnh phúc. Chúng ta phải cộng tác với nhau. Khi ta làm hạnh phúc cho người thương của ta thì tự nhiên ta có hạnh phúc, còn đeo đuổi theo một cái gọi là hạnh phúc cá nhân, tin rằng ta có thể đi tìm hạnh phúc cá nhân được thì đó là một ảo tưởng vô cùng sai lầm. Quý vị thử quán chiếu coi. Hạnh phúc cá nhân do ta đi tìm riêng cho mình, bỏ người kia lại, "ông ăn chả thì bà ăn nem", cái đó là một ảo tưởng không bao giờ có thể có thật được. Tại vì chúng ta là những người đã từng đau khổ. Chúng ta biết rằng đau khổ này có thể là do chúng ta tạo tác ra vì thất niệm, vì vô minh, vì nóng giận, v.v...Và khi ta làm cho người kia đau khổ thì ta tự làm đau khổ mình. Nếu có sự tan vỡ trong người kia thì đồng thời cũng có sự tan vỡ nơi ta. Khi giận, ta nói một câu nặng xúc phạm đến người kia, làm tan vỡ trong người kia thì tự nhiên ta thấy sự tan vỡ đó cũng xảy ra trong trái tim ta, có phải không? Cho nên lo cho sự an vui của người kia chính là lo cho sự an vui của ta. Rất rõ ràng. Điều này trong đạo Bụt gọi là tương tức (Interbeing).
Đức Thế Tôn dạy: "Cái này có vì cái kia có. Cái này không vì cái kia không". Cái này như thế này tại vì cái kia như thế kia. Nếu cái này không như thế này thì cái kia đâu có như thế kia. Ta có bài hát: "Bởi tôi sanh sự nên sự tình mới sanh. Nếu không sanh sự, sự nào có sanh" cũng cùng ý đó. Trong đạo Bụt có những câu nói rất đơn sơ nhưng thấm thía. Ở các tôn giáo khác, người ta đặt câu hỏi: ‘Từ đâu có vũ trụ, ai tạo ra?’ Rồi phải cắt nghĩa như thế này, như thế kia. Còn hỏi Đức Thế Tôn thì Ngài nói: "Đơn giản lắm! Cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không. Cái này như thế này thì cái kia mới như thế kia." Đó là trong kinh Trung A Hàm. Rất đơn sơ mà vô cùng sâu sắc! Đó là vũ trụ quan của Phật giáo. Vũ trụ quan của Phật giáo cắt nghĩa thế giới này hình thành do vạn vật tương quan tương duyên mà làm nên chứ không do một đấng thần linh nào làm ra hết. Cũng như tay mặt và tay trái. Tay mặt do tay trái làm ra, tay trái do tay mặt làm ra. Tay mặt và tay trái có đồng thời. Ta không thể nào nói tay trái có trước hay tay mặt có trước hoặc ta chỉ muốn có tay trái thôi, ta muốn cắt tay mặt vất đi. Nhưng điều đó không thể có được bởi vì sau khi ta cắt một khúc đi thì chỗ cắt đó trở thành ra tay mặt, tại vì hễ có "trái" là phải có "mặt". Những lời nói của Đức Thế Tôn đơn sơ như vậy mà rất khoa học và thâm sâu.
Tiếng gọi của Bụt
Khi thỉnh chuông ta để tay trái lên trên dùi chuông, rồi tay phải để lên trên tay trái. Là người hướng dẫn thì ta phải làm rất vững vàng, các em Thiếu Niên và Oanh Vũ mới có hạnh phúc được. Sau khi hai tay đặt trên dùi chuông thì người thỉnh chuông bắt đầu thở ba hơi vào ra theo bài kệ: "Ba nghiệp lắng thanh tịnh, gởi lòng theo tiếng chuông, nguyện người nghe tỉnh thức, vượt thoát nẻo đau buồn." Sau khi đã thở như vậy, tâm ta được tĩnh lặng và ta có đủ tư cách để thỉnh chuông. Trước hết ta phải thức chuông để tránh làm cho đại chúng giật mình. Thức chuông tức là nhắp một tiếng chuông. Khi nghe tiếng thức chuông, mọi người biết rằng sẽ có một tiếng chuông thực thụ vang lên. Phải chờ ít nhất một hơi thở vào sau khi thức chuông, rồi mới thỉnh chuông.
Tiếng chuông là tiếng gọi của Đức Thế Tôn, khi nghe một tiếng thức chuông thì ta biết rằng Đức Thế Tôn sắp gọi, ta phải chuẩn bị thân tâm cho thật sẵn sàng để đón chào Đức Thế Tôn. Ta nên để dùi chuông thật thẳng, và thỉnh như thế nào để tiếng chuông đừng chát chúa. Thỉnh xong, ta đem dùi chuông về vị trí cũ, và đặt hai bàn tay lên dùi chuông. Ta thở theo bài kệ: "Thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười". Thực tập như vậy trong ba hơi thở thì chúng ta bắt đầu thực tập với tiếng chuông thứ hai, thứ ba. Khi đã thực tập được ba tiếng chuông thì trong con người ta đã có đổi thay, tâm ta êm dịu lại và ta có thể mỉm cười được.
Tiếng còi của Huynh Trưởng phải biến thành tiếng chuông Chánh Niệm. Khi nghe tiếng còi dài, tất cả đoàn sinh đều trở về với hơi thở, ai đứng đâu thì phải đứng yên ngay chỗ đó để thực tập thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười. Khi nghe ba tiếng còi thì thở vào thở ra chín hơi thở. Nếu thời gian ít thì chúng ta dùng một tiếng còi thôi. Khi nghe "tíc, tíc, tíc" nghĩa là tiếng còi ngắn thì ta bắt đầu đi thiền hành tới chỗ tập họp, với những bước đi thảnh thơi và vững chãi như những người con của Đức Thế Tôn, chứ không phải đi như bị ma đuổi.
Hình thức hiện thời của Gia Đình Phật Tử đã có rồi, ta có thể đưa những thay đổi nho nhỏ vào trong đại hội. Thay đổi những hình thức để đưa vào chất liệu của nội dung. Ví dụ như tiếng còi: tiếng còi vẫn còn là tiếng còi nhưng khi thực tập trở về với hơi thở khi nghe còi thì có phải là ta đưa vào nội dung tốt không? Khi ta thổi còi, mọi người đi thiền hành về chỗ hẹn. Và nếu thổi nhanh (‘tic tic, tic tic, tic tic’) là chạy thì chúng ta vẫn có thể chạy trong chánh niệm. Tại Làng Mai, các thầy và các sư cô đi thiền hành buổi sáng mùa đông đều có chạy hết. Đó là chạy bộ trong chánh niệm hay thiền chạy.
Bí quyết của ngồi là buông thư
Tư thế ngồi là một trong những tư thế đẹp nhất của con người. Khi ngồi, đầu ta cùng một đường thẳng với lưng nhưng không cứng ngắc mà rất buông thư. Đức Thế Tôn ngồi như vậy dưới cây Bồ Đề đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày khác. Tuy rằng ngồi rất thẳng nhưng mà tất cả những bắp thịt trong con người ngài buông thư và miệng ngài mỉm cười. Nếu quý vị ngồi theo phương pháp đó thì không đau cổ, đau lưng, nhức đầu. Còn nếu quý vị tranh đấu, ráng gồng mình để mà ngồi thì chỉ nội trong mươi, mười lăm phút sau là quý vị bắt đầu nhức đầu, đau lưng và mỏi cổ.
Bí quyết của ngồi là buông thư. Khi ngồi đầu ta thẳng, trong khi đó xương sống và lưng ta cũng rất thẳng rồi ta buông thư tất cả các cơ bắp. Thở vào thì ta để ý tới một bộ phận của cơ thể, thở ra ta mỉm cười với bộ phận đó của cơ thể. Ví dụ như tôi thở vào và tôi để ý đến cái mặt của tôi. Trên mặt tôi có khoảng 300 bắp thịt. Và mỗi khi tôi lo lắng, giận dữ, ưu phiền thì 300 bắp thịt đó co rúm lại, người khác nhìn vào thấy rất rõ là tôi đang co rúm, "very tense". Nhưng nếu tôi thở vào và có thể ý thức được về cái mặt của tôi và thở ra tôi mỉm cười được với cái mặt của tôi thì sự co rúm đó tự nhiên mất liền lập tức, như là một phép lạ.
"Thở vào tôi có ý thức về cái mặt của tôi, về những bắp thịt ở trên đó", giống như ta dùng năng lượng chánh niệm để ôm lấy cái mặt của ta. "Thở ra tôi mỉm cười với cái mặt của tôi". Ta sẽ thấy có sự an lạc, nhẹ nhàng, buông thư ở trên mặt. Khuôn mặt ta trở nên tươi cười, nhẹ nhàng và trở thành một bông hoa như cũ. Mỗi khuôn mặt chúng ta đều là một bông hoa. Thở như vậy chừng ba bốn hơi với tiếng chuông. "Thở vào, đây là mặt tôi, thở ra tôi mỉm cười với cái mặt của tôi". Sau đó ta thở vào và để ý đến hai vai, những bắp thịt ở vai hay bị căng thẳng lắm. Và khi thở ra ta buông thư và mỉm cười với hai vai. Cứ như vậy ta đi từ từ xuống thì độ chừng năm phút sau là ta có thể điều thân được. "Điều thân" tức là ta điều phục cái thân thể của ta, làm cho cái thân thể ta nhẹ nhàng, buông thư. Đó là chuyện ai cũng có thể làm được trong giờ phút đầu của sự ngồi thiền. Và không phải chỉ ngồi ở trong thiền đường ta mới ngồi như vậy. Ngồi ở đâu ta cũng có thể ngồi trong tư thế đẹp như ngồi thiền và ta sẽ cảm thấy vững chãi, thảnh thơi. Ngồi ăn, ngồi học, ta đều ngồi thẳng và rất buông thư. Tôi hay nhắc thị giả của tôi đừng ngồi bằng cái lưng của bà ngoại mà hãy ngồi bằng cái lưng của Bụt, như Bụt.
Đi không cần đến
Trong ba ngày của khóa tu này chúng ta sẽ có cơ hội thực tập thiền hành với nhau. "Thiền hành" nghĩa là đi những bước chân vững chãi và thảnh thơi. Mỗi bước chân đưa ta trở lại trong giây phút hiện tại mà không đi như bị ma đuổi. Trong quá khứ ta bị ma kéo, bị ma đuổi, ta đi hấp tấp, vụt chạc mà không bước được những bước chân vững chãi, thảnh thơi và an trú trong hiện tại. Thiền hành tức là đi mà không cần đến. Mỗi bước chân đưa ta về trong giây phút hiện tại. Ta sống an lạc, hạnh phúc trong giây phút đó và ta phối hợp hơi thở với bước chân. Khi đi kinh hành, mỗi bước chân là một hơi thở vào hoặc một hơi thở ra, mỗi bước chân đều vững chãi, thảnh thơi. Khi đi thiền hành chúng ta đi mau hơn, mỗi hơi thở là hai hoặc ba bước chân. Bước chân nào cũng vững chãi, thảnh thơi hết. Mỗi bước chân như vậy có tính cách nuôi dưỡng, làm ta vững mạnh hơn. Khi giận mà ta biết cách đi thiền hành thì nội chừng mười phút sau là ta đã bớt giận. Khi ta không giận, không buồn gì hết mà đi thiền hành thì mỗi bước chân đều đem lại thêm chất liệu của vững chãi, thảnh thơi và an lạc.
Tôi rất hạnh phúc khi cầm tay các em thiếu nhi đi thiền hành. Tôi truyền cho em bé sự vững chãi, thảnh thơi và em bé truyền cho tôi sự tươi mát. Hai thầy trò đều được hưởng như nhau. Các anh chị Huynh Trưởng cũng vậy, cầm tay các em Oanh Vũ đi thiền hành quý vị sẽ thấy rất sung sướng. Sự vững chãi của các em chưa bằng mình, nhưng mà các em có rất nhiều sự tươi mát. Hai người có thể truyền cho nhau sự vững chãi và tươi mát. Theo kinh nghiệm của tôi thì một em bé chưa tới chùa lần nào, mà ta nắm tay nó đi thiền hành thì lúc đầu nó kéo ta đi qua bên này, qua bên kia, nhưng ta đi rất vững và nắm tay nó một hồi thì chỉ nội trong năm phút sau nó đi vững chãi được. Điều này rất hay. Thiền hành là một pháp môn rất mầu nhiệm, nếu Gia Đình Phật Tử mà không biết sử dụng thì uổng lắm.
Đã Về Đã Tới
Chút nữa chúng ta sẽ đi thiền hành theo bài kệ này:
Đã về, đã tới
Bây giờ, ở đây
Vững chãi, thảnh thơi
Quay về, nương tựa
Nay tôi đã về
Nay tôi đã tới
An trú bây giờ
An trú ở đây
Vững chãi như núi xanh
Thảnh thơi dường như mây trắng
Cửa vô sinh mở rồi
Trạm nhiên và bất động
Khi thở vào một hơi thì ta có thể bước hai bước hoặc ba bước và ta nói thầm hai tiếng: "đã về, đã về". Rồi khi thở ra thì ta bước hai hoặc ba bước và nói thầm: "đã tới, đã tới". Đây là thực tập trở về vì chúng ta đã chạy suốt đời rồi, bây giờ đến lúc chúng ta nghe lời Đức Thế Tôn, chúng ta dừng lại để sống sâu sắc với những giây phút của đời sống hàng ngày. Vì vậy khi thở vào ta bước hai bước và ta nói: ‘Đã về, đã về’, khi thở ra ta nói: "Đã tới, đã tới". Về đâu? Tới đâu? Về với giây phút hiện tại, về chốn này (The here and the now"), "Bây giờ và ở đây" vì theo lời Đức Thế Tôn: "Bây giờ và ở đây" là quê hương đích thực của chúng ta.
Sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại, vì quá khứ đã qua rồi mà tương lai thì chưa tới, chỉ có một giây phút mà trong đó ta có thể tiếp xúc được với sự sống là giây phút hiện tại. Vì vậy cho nên "Đã về, đã tới" tức là đã về với giây phút hiện tại, đã tới với giây phút hiện tại. Khi nào ta muốn bước ba bước thì cũng được vì có nhiều người thấy bước hai bước trong hơi thở vào hơi ngắn thành ra có thể bước ba bước: "Đã về, đã về, đã về", đó là ba bước và "đã tới, đã tới, đã tới" là ba bước nữa. Nhưng mà ba bước hay hai bước là tùy theo sở thích của ta, tùy theo phổi ta muốn mấy bước thì ta cho đúng mấy bước. Trong khi đi thiền hành ta phải cảm thấy hạnh phúc, trở về với quê hương đích thực của mình là bây giờ và ở đây. Rồi ta có thể bước những bước chân thảnh thơi, an lạc với thầy, với bạn. Như vậy mà ta không thấy hạnh phúc thì bao giờ mới có hạnh phúc được nữa? Và ta cứ khổ suốt đời. Cho nên ta dừng lại để sống sâu sắc trong giây phút hiện tại và để thấy được hạnh phúc ta đang có ngay trong giây phút hiện tại, đó là cách thực tập "đã về, đã tới’. Nếu ta làm giỏi thì trong mấy bước chân đó sẽ có Niệm, có Định, có Tuệ và hạnh phúc của ta được phát sinh ra từ Niệm, Định, và Tuệ đó.
Niệm là gì? Niệm tức là an trú trong giây phút hiện tại, biết cái gì đang xảy ra, đang bước thì biết rằng ta đang bước. Định tức là không suy nghĩ vẩn vơ tới quá khứ, tương lai, tới những chuyện khác. Ta chỉ tận hưởng cái chuyện đang đi của ta thôi, gọi là Định. Và Tuệ nghĩa là phát hiện ra rằng ta đang sống, ta đang được bước những bước chân thảnh thơi với thầy với bạn. Nếu có ba cái đó thì hạnh phúc tự nhiên tới. Cho nên một bước chân có thể làm ra Niệm, Định và Tuệ. Một người thực tập giỏi chỉ cần đi được một bước chân thôi đã có thể làm ra Niệm, Định và Tuệ. Thầy ta đang đi như vậy, các sư anh, sư chị của ta đang đi như vậy, các bạn ta đang đi như vậy thì ta cũng phải đi được như vậy. Ta phải cảm thấy an lạc và hạnh phúc vô cùng trong khi bước những bước đi như vậy. Còn nếu mà thiếu Niệm, thiếu Định, và thiếu Tuệ thì ta cũng đi như mọi người nhưng mà ta đang đi trong thế giới của thất niệm, của khổ đau; ta không đi trên Tịnh Độ như là những người khác đang đi, rất là uổng. Đó là "đã về, đã tới".
Sau vài phút thực tập như vậy thì ta chuyển sang "bây giờ, ở đây". "Bây giờ, ở đây" tức là ta trở về thời gian bây giờ và không gian ở đây. Đó là địa chỉ của quê hương đích thực của ta, là zip code của quê hương đích thực của ta, là bây giờ và ở đây. Bây giờ nếu mà ta muốn biết địa chỉ của Đức Bổn Sư, của các vị Bồ Tát thì dễ ợt. Địa chỉ của Bụt Thích Ca Mâu Ni là bây giờ và ở đây, đó là địa chỉ chính xác nhất của Đức Bổn Sư. Quý vị có thể gởi email hay fax tới địa chỉ đó, thế nào Đức Bổn Sư cũng nhận được. Và nếu ta muốn gặp Đức Bổn Sư thì đó là chỗ hẹn. Địa chỉ của Bụt và Bồ Tát, cả số nhà, tên đường, tên tỉnh và zip code đều thu gọn trong hai chữ Bây Giờ và Ở Đây, thành ra gởi tới đó thế nào Bụt cũng nhận được. Nếu ta muốn gặp Bụt, muốn gặp các vị Bồ Tát, muốn đối diện với sự sống thì ta phải trở về địa chỉ đó: The Here and The Now.
Quê hương đích thực
"Bây giờ, ở đây" không phải là những câu nói suông. Khi ta bước bước chân đó là ta trở về quê hương đích thực. "Bây giờ, bây giờ, ở đây, ở đây." Trong những bước như vậy ta phải trở về, đem thân và tâm trở về Bây Giờ và Ở Đây. Sau khi thực tập Bây Giờ và Ở Đây rồi thì ta thực tập Vững Chãi, Thảnh Thơi. Đó là hai cái đức tính của Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn luôn luôn sống vững chãi và sống thảnh thơi.
Vững chãi nghĩa là không bị những phiền não, tham giận, thèm khát, ngu muội, kiêu căng kéo sang bên này, kéo sang bên kia. Ngài an trú như một đỉnh núi. Bởi vậy cho nên đức Vững Chãi tiếng Hán Việt gọi là Bất Động, ‘Diệu trạm tổng trì bất động tôn’. Và khi đi ta phải làm sao cho cái niệm Vững Chãi trong người ta lớn lên để ta gần Đức Thế Tôn. Thảnh Thơi tức là ta không bị ràng buộc. Ta là một con người tự do, ta không bị lo âu, sợ hãi, thèm khát, căm thù trói buộc. Ta không để quá khứ hay tương lai kéo ta đi. Ta là con người tự do, giải thoát, thảnh thơi. Thảnh thơi là một đức tính rất quý của Đức Thế Tôn. Và ta phải buông bỏ hết mới có thể bước được những bước rất mầu nhiệm, rất vững chãi, rất thảnh thơi như Đức Thế Tôn đã bước. Là học trò của ngài thì ta phải tập đi như ngài, phải tập thở như ngài, chứ còn ta chỉ tôn sùng, chỉ lạy ngài không thì không đủ. Lạy ngài có nghĩa là con muốn làm theo ngài, đi theo ngài, mà muốn đi theo ngài thì phải học ngồi như ngài, học nói như ngài, học đi như ngài, học thở như ngài thì mới gọi là đi theo ngài được chứ!
Rồi chúng ta thực tập ‘quay về, quay về, nương tựa, nương tựa’. ‘Quay về, nương tựa’ tức là suốt đời con nguyện quay về nương tựa nơi Đức Thế Tôn, con xin hướng về nẻo đó. Sau khi đã thực tập "quay về nương tựa", ta trở về lại "đã về, đã tới". Chúng ta sẽ đi cho đến khi nào ta thật sự đã về, đã tới, không còn chạy nữa. Đi như thế nào mà như đang đi trong cõi Tịnh Độ. Tịnh Độ không ở đâu xa, vì địa chỉ của Bụt và Bồ Tát là bây giờ và ở đây. Ta trở về bây giờ và ở đây là ta đang đi vào Tịnh Độ. Khi đi, quý vị nên dồn tất cả chánh niệm xuống hai bàn chân. Đi cho thật vững và cảm thấy được rằng hai bàn chân ta đang tiếp xúc với mặt đất mầu nhiệm. Đây là đất đạo tràng Thanh Sơn, và nếu quý vị có chánh niệm vững chãi thì quý vị sẽ có hạnh phúc như đi trên cõi Cực Lạc vậy. Cực Lạc là đây. Tịnh Độ là đây. Đừng nghĩ Tịnh Độ ở một cõi khác. Trong khi quý vị đi, Tịnh Độ ở ngay trong tâm mình. Nếu tâm ta vững chãi, thảnh thơi, ta an trú bây giờ và ở đây, thì đó tức là Tịnh Độ. Mỗi bước chân đi với sự thảnh thơi, vững chãi thì tự nhiên đất dưới chân ta là đất của Tịnh Độ.
Trong khi đi ta không nói chuyện vì nếu nói chuyện thì làm sao mà về, mà tới được. Các thầy, các sư cô sẽ đi thiền hành với quý vị. Chúng ta đi như thế nào mà biến đất của Đạo Tràng Thanh Sơn thành ra đất của Tịnh Độ. Chuyện này chúng ta có thể làm được nếu quý vị biết dừng lại. Dừng lại để cảm nhận hạnh phúc thật lớn như Đức Thế Tôn dạy: ‘hiện pháp lạc trú’.
Ta đi cho có hạnh phúc. Và có hạnh phúc hay không thì quý vị tự biết lấy. Còn đi mà như đi trên than hồng, ta không an trú được trong hiện tại thì ta đi không thành công. Thỉnh thoảng trong khi đi mà có tiếng chuông, ta dừng lại ngắm trời, ngắm mây, ngắm cây, ngắm người thân thương và mỉm cười. Có mấy người được cơ hội có được cái hạnh phúc này, được tham dự vào khóa tu, được tiếp xúc với Bụt, Pháp và Tăng? Bất cứ sự tiếp xúc nào cũng mang lại hạnh phúc cho ta để nuôi dưỡng bản thân.
Nếu quí vị có một con đường để đi thiền hành phía sau nhà thì càng quý. Nếu may mắn xung quanh nhà mình có khoảng đất trống thì ta nên tìm một con đường đi thiền hành để cho cha mẹ và các con đi thiền hành mỗi ngày năm phút hoặc mười phút như chúng ta đã đi sáng nay. Bước những bước vững chãi và thảnh thơi. Đi thiền hành có hiệu quả rất lớn mỗi khi trong người bực tức, mệt mỏi, giận hờn. Và một lợi điểm nữa là khi đi thiền hành, hít thở được bầu không khí trong mát ở bên ngoài.
Mỗi sáng phải nhớ quán tưởng
Đối với các bạn Huynh Trưởng và các thiện tri thức đã lớn tuổi, trên 55 chẳng hạn - ở bên Pháp tuổi 55 là tuổi được về hưu - thì Đức Thế Tôn có dạy là mỗi buổi sáng thức dậy chúng ta phải nhớ quán tưởng: "Tôi thế nào cũng phải già; tôi thế nào cũng không tránh thoát cái già được". Chuyện này mấy người trẻ cũng phải thực tập nhưng họ không tin lắm. Ngày xưa khi đang còn trẻ tôi không tin rằng tôi sẽ già, ai ngờ bây giờ đã trên 70 tuổi rồi. Đức Thế Tôn dạy rằng dầu ta còn trẻ tuổi, sáng dậy ta cũng phải thở vào thở ra để nhận diện cái sự thật đó: "Tôi thế nào rồi cũng phải già nua, tôi không thể nào tránh thoát được sự già nua".
Điều thứ hai là: "Tôi thế nào cũng phải chết, tôi không thể nào tránh thoát được cái chết". Đó là Đức Thế Tôn dạy cho chúng ta đối diện với cái chết bằng tất cả sự quả cảm của chính mình. Chúng ta ai cũng đã thấy, đã từng thấy có một người chết nằm trên giường, cứng như một khúc gỗ, dầu chúng ta có làm cách gì đi nữa thì không thể giúp cho người đó sống lại được, có phải như vậy không? Một ngày kia sẽ có một lúc ta nằm trên giường và ta biết rằng ta sẽ chết trong vòng một hoặc hai ngày, lúc đó ta có muốn đứng dậy để bước những bước vững chãi thảnh thơi thì ta cũng không thể nào ngồi dậy được. Ta biết rằng hết rồi, dầu có muốn đứng dậy để đi thiền hành với thầy với bạn cũng không đứng dậy được. Cái giờ phút đó là giờ phút mà tất cả chúng ta không ai tránh được.
Bây giờ chúng ta đang có cơ hội đi thiền hành với thầy, đi thiền hành với bạn mà chúng ta không hưởng được những bước chân thảnh thơi và an lạc thì đó là một sự thiệt thòi rất lớn. Vào giờ phút đó, chúng ta mới nói: "Thầy đã dạy rồi, thầy đã chỉ rồi tại sao mình không làm" thì đã trễ. Người học trò giỏi là người học trò có thể thấy được cái ý của thầy và đem áp dụng những điều thầy dạy vào trong sự sống hàng ngày của mình. Nếu quý vị còn hai chân khỏe có thể chạy được, có thể đi được, có thể dẫm lên mặt đất để tạo ra sự vững chãi, sự thảnh thơi và sự an lạc mà không làm, đợi đến lúc nằm trên giường hấp hối, muốn đứng dậy để đi một bước thôi cũng không thể được nữa. Ngày hôm nay chúng ta có thể đi được bao nhiêu bước, chúng ta muốn bước năm bước thì chúng ta đi được năm bước, nếu chúng ta muốn bước mười bước thì chúng ta được đi mười bước, đó là cái cơ hội quý báu. Tôi xin nhắc điều này cho tất cả mọi người, không phải chỉ những người trên 55 tuổi, để rồi sau này đừng nói rằng trong đời tôi không ai nhắc tôi làm chuyện đó cả.
Năm lời quán nguyện
Ở trong thời của Đức Thế Tôn có một phương pháp ăn cơm gọi là "nhất tọa thực". Nhất tọa thực tức là khi ngồi xuống rồi thì ta không đứng dậy nữa cho tới khi ăn xong. "Nhất tọa" tức là "one sitting". Ngày xưa, sau khi mà Đức Thế Tôn và tăng đoàn đi khất thực rồi thì thầy trò vào trong một khu rừng, ngồi xuống, đặt bát trước mặt mình, và ngồi ăn rất thanh tịnh, có sự vững chãi, sự thảnh thơi, an lạc, hạnh phúc trong suốt thời gian ăn. Và từ ngày đó cho đến bây giờ tăng đoàn luôn luôn ăn theo phương pháp đó.
Trước khi ăn ta có năm lời quán nguyện gọi là "ngũ quán", tức là nhìn sâu vào thức ăn. Thứ nhất là: "Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời và công phu lao tác". Ta phải thấy được điều đó. Thứ nhì: "Xin nguyện sống xứng đáng để thọ nhận thức ăn này". Thứ ba là: "Xin nhớ ngăn ngừa những tật xấu, nhất là tật ăn uống không có chừng mực". Tức là ta có khuynh hướng ăn nhiều hơn là số lượng ta cần ăn. Thứ tư là: "Chỉ xin ăn những thức có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh". Thức ăn vặt (không có chất bổ dưỡng) thì ta không ăn. Thứ năm là: "Vì muốn thành tựu con đường hiểu và thương nên thọ nhận thức ăn này". Đó là ngũ quán.
Một người sẽ đọc lên năm lời quán nguyện đó để chúng ta nghe. Và trong khi ăn thì chúng ta ăn thật chú tâm. Ta ngưng hết mọi suy nghĩ và chỉ chú tâm đến hai điều thôi, như trong lời khai thị mà vị duy na hay chủ tọa nói: "Bụt dạy ta khi ăn nên duy trì chánh niệm, để ý tới thức ăn và tăng thân bao quanh mà đừng để tâm suy nghĩ vẩn vơ tới chuyện quá khứ và tương lai. Đại chúng nghe tiếng chuông xin nhất tâm thực tập năm quán". Rồi sẽ có người đọc năm quán đó, sau đó ta bắt đầu ăn. Ăn như thế nào mà trong suốt thời gian ăn, tâm của chúng ta chỉ để vào hai chuyện thôi: thứ nhất là thức ăn và thứ hai là tăng thân bao quanh. Tại vì được ăn cơm đã là hạnh phúc, mà lại được ăn cơm với thầy, ăn cơm với anh, với chị, với em là cái hạnh phúc rất lớn.
Giả sử bây giờ quý vị nghe báo tin là Đức Thế Tôn đã xuất hiện trên núi Thứu và quý vị có thể tới ngồi ăn một buổi cơm trên núi Thứu với Đức Thế Tôn thì quý vị có muốn mua vé máy bay để về ăn cơm với Đức Thế Tôn không? Chắc là muốn rồi. Vậy mà khi đến núi Thứu rồi, cầm dĩa cơm ngồi ăn thì ta không ngồi im lặng được. Ta có thể ngồi im lặng và thừa hưởng những giây phút được ngồi bên Đức Thế Tôn hay không? "Hôm nay thầy về đây, chúng con xin kính chào thầy". Thầy đây là Đức Thế Tôn. "Trong giờ phút vui này," chúng con có an trú được không? Chúng con có hạnh phúc được không? Chúng con có ngồi ăn cơm với Đức Thế Tôn đàng hoàng được không? Hay là ngồi đó mà cứ nghĩ: "Làm sao bây giờ có được người nào chụp cái hình mình đang ăn cơm với Đức Thế Tôn để về mình khoe cho vui. Cái máy hình hồi nãy để đâu rồi?" Ngồi ăn cơm mà không để ý tới ăn cơm mà cũng không để ý tới Đức Thế Tôn, mà cứ để ý đến cái hình đem về San Diego để khoe cho vui thôi. Đó là một ví dụ để ta thấy là ta không có khả năng an trú trong hiện tại. Vì vậy cho nên ngồi ăn cơm là một thực tập rất quan trọng.
Ăn như thế nào để hạnh phúc có mặt
Khi gắp lên một miếng đậu que hay một miếng đậu hũ thì ta phải nhìn nó một chút xíu. Nhìn để thấy được đây là đậu que hay là đậu hũ, và nhận diện nó. Nếu tâm ta có định và có niệm thì ta nhìn ra nó là miếng đậu que hay là miếng đậu hũ rất dễ. Nhưng khi tâm ta đang lo lắng chuyện này, chuyện kia thì ta gắp lên miếng đậu que mà cũng không biết nó là đậu que nữa, rồi ta bỏ nó vào trong miệng mà không biết là đã bỏ cái gì vào trong miệng. Mà nếu nó không rõ ràng là vì tâm ta đang bận về quá khứ, bận về tương lai, bận về những cái lo lắng và suy nghĩ. Phương pháp thực tập ở Làng Mai là khi tâm ta như vậy thì nên gọi tên nó lên: ‘đậu que’ hay ‘đậu hũ’, gọi như là ta gọi tên của người yêu vậy đó thì tự nhiên miếng đậu que đó sẽ xuất hiện một cách rất rõ ràng cho mình. Và khi ta thấy đó là đậu que chắc chắn rồi thì ta mới bỏ vô miệng. Khi bỏ vô miệng thì chỉ nên bỏ đậu que thôi, đừng bỏ những cái suy nghĩ, lo lắng, buồn phiền vào tại vì ăn mấy chất đó không bổ, chỉ có ăn đậu que mới có chất bổ thôi. Và khi mà bỏ đậu que vào rồi thì ta nhai và chỉ nhai đậu que thôi chứ đừng nhai những cái lo lắng, sợ hãi, buồn phiền của mình. Bí quyết của sự thực tập là ở chỗ đó. Vì vậy cho nên đối tượng cho chánh niệm của ta lúc đó là thức ăn. Ở trong các tu viện Thiên Chúa giáo thì không làm như vậy. Họ muốn cho người ta đừng để ý tới thức ăn trong khi ăn. Vì vậy trong khi mọi người đang ăn thì có một ông cha đứng đó đọc về đời sống của một vị thánh để cho ta để tâm ý vào câu chuyện đó chứ không để ý tới thức ăn. Trong đạo Bụt thì dặn ta ăn cái gì phải biết là ta đang ăn cái đó. Nếu đó là thứ độc hại thì ta biết đó là thức độc và ta không ăn. Nếu đó là thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh thì ta ăn và khi ăn phải thấy ngon mới được. Chứ còn ăn mà lo lắng, suy nghĩ, giận hờn thì đâu có ngon lành gì. Vì vậy cho nên niệm và định làm cho buổi ăn có phẩm chất và ta ăn rất ngon. Ta nên nhai chậm và kỹ vì có thầy, có bạn ngồi với ta cùng ăn, đó là một giây phút rất quý báu. Đối tượng của niệm và định lúc ta ăn là thức ăn và tăng thân. Tăng thân tức là đoàn thể tu học của ta. Ta có Phật thân, có Pháp thân và cũng có Tăng thân nữa. Tăng thân ta và tất cả mọi người trong Tăng thân đều là thân thể của ta hết, thân thể của đoàn thể tu học của ta. Cho nên thầy trò Bụt ngày xưa ngồi ăn rất chậm rãi, thỉnh thoảng lại ngừng ăn nhìn nhau và mỉm cười. Hạnh phúc là ở chỗ đó. Nhìn nhau mỉm cười, biết rằng ta đang có nhau, ta đang sống những giây phút hạnh phúc. Và trong các giờ phút khác cũng vậy. Như vậy trong ba ngày chúng ta sẽ sống rất trọn vẹn, có mặt thật sự cho nhau và cho chính bản thân của mình. Ăn theo phương pháp này thì chúng ta có thể ăn trong nửa giờ hoặc bốn chục phút. Ăn như thế nào để nơi chúng ta ngồi ăn cơm trở thành Tịnh Độ, trở thành Phật Độ. Cũng như khi đi, nếu chúng ta đi với sự giận dữ, ưu phiền, thù hận thì mặt đất của chúng ta đang đi là địa ngục. Mà khi ta đi với sự thương yêu, với sự thảnh thơi, với sự giải thoát thì mặt đất ta đang đi đó là Tịnh Độ chứ còn là gì nữa? Vì vậy cho nên khi ăn cơm với nhau chúng ta phải ăn như thế nào để hạnh phúc có mặt và miếng đất ta ngồi với nhau là Tịnh Độ hiện tiền bây giờ và ở đây. Ăn cơm ngon không phải là chỉ nhờ cơm thôi mà còn nhờ ở chánh niệm. Nhờ chánh niệm cho nên ta biết rằng ta đang có mặt với những người thương của ta, những người cùng lý tưởng của ta cũng đang có mặt.
Thiền sỏi
Bây giờ chúng ta học tới một phương pháp khác, gọi là thiền sỏi (pebble meditation). Các đoàn trưởng, đoàn viên, mỗi người có một cái túi với tám viên sỏi. Con số tám là con số của Bát Chánh Đạo. Nói là tám nhưng có khi ta chỉ dùng hai, ba, bốn, năm, hoặc sáu viên sỏi thôi. Các anh, các chị Huynh Trưởng có thể thực tập thiền sỏi với các em Oanh Vũ. Thiền sỏi rất dễ thực tập và rất vui. Người lớn cũng thích thực tập nữa.
Chúng ta may một cái túi rồi đi tìm ngoài bãi biển hay ngoài bờ sông tám viên sỏi thật là đẹp, rửa cho thật sạch, lau khô rồi bỏ vào trong túi. Đến giờ đi ngồi thiền, sau khi nghe tiếng còi của Huynh Trưởng, ta đi vào trong thiền đường để ngồi thiền chung. Ngồi thiền chung rất là vui. Giờ thiền tọa bắt đầu bằng tiếng còi của người Huynh Trưởng. Chúng ta đem túi sỏi theo, vào thiền đường, xá Đức Thế Tôn, đi đến gối ngồi, lấy túi sỏi, trút sỏi ra phía bên đầu gối của chân trái một cách chậm rãi, nhẹ nhàng để thực tập. Huynh Trưởng và đoàn sinh đều tập hướng dẫn thiền tọa. Không hẳn chỉ có Huynh Trưởng mới hướng dẫn thiền tọa, mà các em Oanh Vũ, người nào cũng có thể hướng dẫn thiền tọa hết. Chúng ta chia phiên nhau, hôm nay em này hướng dẫn, ngày khác em khác hướng dẫn thiền tọa. Mà các em phải tập mới có thể hướng dẫn được. Giọng người đó phải rõ ràng, trong sáng và truyền cảm thì mới hướng dẫn hay được. Trong cuốn sách ‘Sen Búp Từng Cánh Hé’ có rất nhiều bài hướng dẫn thiền tọa mà các Huynh Trưởng có thể học theo.
Là hoa, là núi, là nước, là không gian
Bây giờ ta mới bắt đầu thực tập thiền sỏi. Dùng hai ngón của bàn tay phải (bàn tay phải của ta là một bông hoa có năm cánh, đẹp không thua gì bàn tay của Đức Thế Tôn) ta cầm viên sỏi đầu tiên lên. Viên sỏi đầu tiên tượng trưng cho bông hoa và khi cầm lên, ta nhận diện: "A, đây là bông hoa" rồi ta mới nói: "Thở vào tôi thấy tôi là bông hoa, thở ra tôi thấy tôi tươi mát". Đặt viên sỏi đầu tiên lên lòng bàn tay trái, ta thực tập thở vào, thở ra từ ba đến năm lần trong khi nói ngắn lại: "là hoa, tươi mát". Trong khi thực tập, ta phải thấy ta biến thành một bông hoa và phải có chất liệu tươi mát. Khi nhìn những em bé, ta thấy rõ ràng chúng là những bông hoa. Khuôn mặt, con mắt, khóe miệng, bàn tay các em đẹp như hoa. Chúng ta là người lớn, ai cũng là bông hoa hết nhưng vì không biết tự chăm sóc thành ra ta hơi héo. Ta khóc nhiều quá nên mắt ta đục và không trong như trước nữa. Vì vậy bài thực tập này giúp ta lấy lại tính chất tươi mát của bông hoa trong ta. Hãy tươi trở lại, đó là mục đích của thực tập. Ta phải làm sao mà khi thở vào, dưỡng khí làm ta tươi lại như một bông hoa và khi ta thở ra, mỉm cười thì ta cảm thấy tươi mát. Ta làm cho Bụt hiện rõ ở trong ta, vì Bụt có chất liệu của sự tươi mát. Sau khi thực tập ba, bốn, năm hơi thở, thấy hoa tươi mát rồi thì vị hướng dẫn thức chuông và nói rằng: "Bây giờ xin đại chúng nghe một tiếng chuông, lấy tay cầm viên sỏi lên, cám ơn nó và để sang bên phía tay phải".
Rồi ta nhặt viên sỏi thứ hai lên. Viên sỏi thứ hai tượng trưng cho núi. Ta mỉm cười với núi, đặt nó lên lòng bàn tay trái rồi nói rằng: "Thở vào tôi thấy tôi là núi, thở ra tôi cảm thấy vững vàng". Trong khi thở, ta thực tập biến thành một ngọn núi vững vàng. Ta ngồi trong tư thế rất thẳng, rất vững. Trong ta có chất núi, chất vững vàng. Trong Đức Thế Tôn, chất vững vàng rất lớn. Ta cũng có chất vững vàng, nhưng ta cũng có khá nhiều những chất liệu ngược lại. Vì vậy chúng ta tập bài này để nuôi dưỡng chất vững vàng trong ta: "là núi vững vàng". Trong khi thực tập ba, bốn hay năm hơi thở như vậy, ta làm chất liệu vững vàng trong ta lớn lên. Sau khi nghe tiếng chuông, ta nhặt nó lên, mỉm cười rồi để sang bàn tay phải.
Rồi ta lấy viên sỏi thứ ba, thực tập "nước tĩnh lặng chiếu": "Thở vào tôi thấy tôi là nước tĩnh, thở ra tôi phản chiếu vạn vật một cách rất trung thực". Nếu tâm ta lắng đọng thì ta thấy được sự vật rất rõ ràng, nếu không thì ta có nhận thức sai lầm, méo mó về sự thật. Ta cứ tưởng mọi người muốn hại ta, muốn làm khổ ta và ta có tri giác sai lầm. Vì hiểu lầm nên ta làm chính mình khổ, làm người thương ta khổ. Đó là vì nước không có tĩnh, không lắng đọng xuống được. "Thở vào tôi thấy tôi là nước tĩnh". Hễ nước mà tĩnh thì có khả năng lặng chiếu. Có một bài thơ rất hay:
Bụt là vầng trăng mát
Đi ngang trời thái không
Hồ tâm chúng sanh lặng
Trăng hiện bóng trong ngần
Nếu hồ nước của chúng ta tĩnh lặng, thì ta phản chiếu được trăng tròn rất rõ ràng. Còn nếu xao động thì ta có rất nhiều nhận thức sai lầm, ta sẽ khổ và làm cho người thương của ta khổ. Đó là viên sỏi thứ ba, gọi là "nước tĩnh".
Viên sỏi thứ tư tượng trưng cho không gian. Người ta chỉ có hạnh phúc khi có không gian thênh thang. Không gian ở xung quanh và trong trái tim của mình. Nếu chúng ta có nhiều lo âu, tính toán, vướng mắc thì chúng ta không có thảnh thơi, giải thoát. Đức Thế Tôn có tự do rất lớn nên hạnh phúc của ngài rất vĩ đại, còn chúng ta không có tự do nên chúng ta đau khổ. Không có không gian ở xung quanh thì ta cựa quậy không được. Không có không gian ở trong tâm thì ta không thở được. Vì vậy không gian, tức là tự do, rất là quan trọng. Khi thương một người, ta có thể làm cho người đó mất hết tự do. Ta nói: "Anh phải suy nghĩ thế này, nếu suy nghĩ thế khác thì tôi sẽ không thương anh nữa." Có những người thương ta mà bắt ta suy nghĩ theo kiểu của họ, bắt ta thích cái họ thích, không được thích cái khác. Thương như vậy là bỏ tù, là lấy hết cả không gian của ta đi rồi. Càng thương thì càng làm cho người thương khổ, càng làm cho người thương ‘bị thương’. Cho nên ta phải có sự thảnh thơi. Thảnh thơi đây là tự do, nhưng tự do không phải là tự do chính trị. Đây là tự do đối với sự thèm khát, giận hờn, ganh tị, tức là những phiền não. Và ta thực tập để buông bỏ những phiền não. "Thở vào tôi thấy tôi là không gian, thở ra tôi cảm thấy thảnh thơi". Khi nào cảm thấy thảnh thơi thì ta mới có hạnh phúc.
Sau khi thực tập xong bốn viên sỏi đó rồi thì có một tiếng chuông để chấm dứt, ta có thể bỏ những viên sỏi đó vào trong túi sỏi của mình, xoa bóp chân cho máu lưu thông và sau đó tuần tự đi ra ngoài.
Con đã về tới nhà
Bây giờ xin các cháu nhỏ lấy 6 viên sỏi ra để chúng ta thực tập sự dừng lại. Trong khi thở, chúng ta dốc sáu viên sỏi ra lòng bàn tay trái, và chúng ta đặt sáu viên sỏi đó xuống sàn bên đầu gối trái của chúng ta. Khi nghe một tiếng chuông, chúng ta thở vào, thở ra ba lần, rồi chúng ta cúi xuống và lượm lên một viên sỏi và để vào lòng bàn tay trái, rồi để bàn tay trái lên trên bàn tay phải. Chúng ta bắt đầu thực tập. "Thở vào con đã về, thở ra con đã tới". Đó là ta nói với Đức Thế Tôn. Ta không chạy nữa. Ta về nhà rồi. Nhà của ta ở đâu? Địa chỉ nào? Địa chỉ của nhà ta là bây giờ và ở đây. Tại vì theo giáo lý của Đức Thế Tôn, sự sống chỉ có mặt bây giờ và ở đây mà thôi. Ta trở về với bây giờ và ở đây là ta tiếp xúc được với sự sống. Cho nên viên sỏi đầu tiên là đã về, đã tới. Đức Thế Tôn ơi con đã về tới nhà, con không còn chạy nữa. Con không chạy như Angulimala nữa, con không chạy như một người điên nữa. Và ta thở như vậy ba hơi. "Bạch Đức Thế Tôn con đã về, bạch Đức Thế Tôn con đã tới". Ta đừng có nói bằng miệng không, phải nói bằng cả thân và tâm của ta. Ta thấy ta ngồi vững chãi như núi Tu Di, ta an trú bây giờ và ở đây như Đức Thế Tôn ngồi dưới cội Bồ Đề. Sau ba lần như vậy, ta đưa viên sỏi lên bằng hai ngón tay, nhìn và mỉm cười với nó rồi đặt nó sang bên phải.
Dùng bàn tay phải, nhặt viên sỏi thứ hai lên và đặt nó trong lòng bàn tay trái, đặt bàn tay trái trên lòng bàn tay phải và bắt đầu thực tập câu thứ hai. Thở vào "Bạch Đức Thế Tôn con đang an trú bây giờ". Thở ra "Con đang an trú ở đây". Thở ba lần như vậy rồi cầm viên sỏi lên, mỉm cười và đặt nó qua phía tay phải.
Viên sỏi thứ ba: "Thở vào con cảm thấy vững chãi, thở ra con cảm thấy thảnh thơi". Đó là ta đang nói với Đức Thế Tôn.
Viên sỏi thứ tư: "Bạch Đức Thế Tôn, con đã quay về, bạch Đức Thế Tôn, con nương tựa Tam Bảo". Tam Bảo là nền tảng đời sống tâm linh của con. Quay về nương tựa, đó là những chữ ta dùng để dịch hai chữ quy y. Quy là quay về và y là nương tựa. Ta không phải là ma đói, là cô hồn. Ta có nhà cửa, quê hương. Mà quê hương tâm linh của ta là Bụt, Pháp, Tăng. Ta có chỗ nương tựa. Có những thanh niên họ không biết họ sẽ đi về đâu, sống cuộc đời không mục đích, không nền tảng; họ không có chỗ bám víu, chỗ quay về. Còn ta có nhà, có quê hương, có nền tảng để quay về, nhất là trong lúc ta buồn khổ. Đó gọi là quay về nương tựa. Chúng ta thực tập bài này với bốn viên sỏi. Chúng ta phải học thuộc bài kệ thì mới thực tập được. Bài kệ như sau:
Đã về, đã tới
Bây giờ, ở đây
Vững chãi, thảnh thơi
Quay về nương tựa
Nay tôi đã về
Nay tôi đã tới
An trú bây giờ
An trú ở đây
Vững chãi như núi xanh
Thảnh thơi dường mây trắng
Cửa vô sinh mở rồi
Trạm nhiên và bất động
Bây giờ đây chúng ta sẽ thực tập như một tăng thân. Chúng ta đưa tất cả bốn viên sỏi trở về bên trái và chúng ta sẽ thực tập chung. Nhớ viên sỏi thứ nhất là đã về đã tới, viên thứ hai là bây giờ, ở đây, viên thứ ba là vững chãi, thảnh thơi, viên chót là quay về nương tựa. Sau đó chúng ta sẽ thỉnh chuông để chấm dứt. Xin đại chúng cùng thực tập cho vui. Khi ta thực tập với nhau, ta có mặt trong giây phút hiện tại và ta truyền năng lượng cho nhau để có niềm vui và thấy được rằng ta đã dừng lại. Quý vị sẵn sàng chưa?
Ta cử ra một vị tri chung. Vị tri chung sẽ thỉnh tiếng chuông đầu để mọi người thở và thực tập thiền sỏi. Nếu không có chuông thì dùng còi vì tiếng còi cũng có hiệu lực tương đương như tiếng chuông. Thở vào, thở ra ba lần sau mỗi tiếng còi. Và các cháu tập hướng dẫn thiền sỏi với cái chuông. Phải nhớ rằng với mỗi viên sỏi, ta phải để cho mọi người được thở ít nhất ba hơi, và nhiều khi hơi thở của ta ngắn hơn người khác thì phải trừ hao một chút bằng cách thở thêm hơi thứ tư nữa để cho người khác được thở đủ. Vì khi mọi người đang có hạnh phúc trong lúc thực tập thiền sỏi mà ta cắt đứt hơi thở của họ thì tội nghiệp cho họ.
Tất cả mọi người cũng vậy, trong các sinh hoạt mà nếu cần tĩnh tâm trở lại, giúp ta an trú trong hiện tại thì ta cũng có thể dừng lại để thực tập ba phút thiền sỏi. Các cháu sẽ thấy rằng thực tập thiền sỏi rất là vui. Và trong khi ta đã về, đã tới thì Bụt có mặt trong trái tim ta. Tại vì Bụt là người luôn luôn có mặt, luôn luôn đã về, đã tới. Cho nên dù ta không nói tới danh từ Bụt Thích Ca, Bụt Di Đà thì ta vẫn có Bụt trong trái tim mình.
Các em thiếu nhi đã từng thực tập thiền sỏi và thực tập rất hạnh phúc. Vậy thì trong sinh hoạt Gia Đình Phật Tử, chúng ta có thể tổ chức thiền sỏi. Mỗi em Oanh Vũ nên có một cái túi đẹp để đựng sáu viên sỏi. Tăng đoàn Làng Mai đã tổ chức hai khóa tu tại Santa Barbara, Hoa Kỳ, cho thiếu nhi. Khóa tu nào cũng thành công. Hàng trăm thiếu nhi đến tu học và bố mẹ các em cũng đến để yểm trợ. Ban đầu các em không biết mình đến để làm gì. Con nít mà biết gì về tu, nhưng sau khi đã thực tập thiền sỏi và thiền nước chanh (thay vì thiền trà), đã đi thiền hành, đã nghe pháp thoại thì các em rất thích. Pháp thoại cho các thiếu nhi hay lắm. Tại vì các vị chưa nghe pháp thoại cho thiếu nhi, nói cho con nít mà người lớn nghe mê luôn. Các em mở lớn mắt mà nghe rất thích thú. Tư liệu về pháp thoại cho thiếu nhi, Làng Mai có thể cung cấp được cho các vị Huynh Trưởng. Các vị có thể căn cứ trên những pháp thoại ở Làng Mai để làm ra những pháp thoại khác. Nếu có giờ ta sẽ nói thử một bài pháp thoại cho thiếu nhi, rồi quý vị sẽ thấy rằng pháp thoại cũng vui, mà thiền sỏi, thiền đi, thiền ngồi, thiền ăn cơm cũng vui. Sau năm ngày tu học, các cháu mê quá, không muốn về nhà nữa. Các cháu hỏi: "Why do we have to go?" (Tại sao mình phải về?).
Đó là con nít Mỹ. Nếu con nít Mỹ tu được thì con nít Việt Nam chắc chắn là tu được, vì con nít Mỹ động hơn con nít Việt Nam rất nhiều. Các vị Huynh Trưởng nam và nữ nên tin rằng ta sẽ thành công dễ dàng hơn những người Mỹ vì con cháu ta dầu sao cũng có dòng máu của các vị thiền sư trong người. Vậy thì tại đoàn quán, chúng ta có thể tổ chức thiền tọa cho các em và cho chúng ta nữa. Hình thức dễ nhất của thiền tọa là thiền sỏi.
Viên Sỏi Hộ Trì
Đây là một phép thực tập thiền sỏi khác mà các cháu có thể thực hiện. Trong sáu viên sỏi mà chúng ta đã nhặt được chúng ta sẽ chọn một viên. Viên đó có thể là một viên sỏi lớn hơn các viên khác, nếu cần thì chúng ta có thể tìm một viên khác để thế viên đó. Nếu đó là một viên sỏi vừa lòng bàn tay của chúng ta, viên sỏi láng, tròn và nếu nắm lấy nó mà ta thấy dễ chịu trong lòng bàn tay thì tốt nhất. Chúng ta đặt tên viên sỏi đó là Hộ Trì. Hộ trì là sự che chở, bảo vệ. Hộ trì là một danh từ rất quan trọng trong đạo Bụt. Khi chúng ta quy y, thì năng lượng của Phật, Pháp, Tăng là năng lượng hộ trì cho chúng ta, hộ trì cho chúng ta đừng gặp tai nạn. Và thường thường tai nạn từ bên trong đi ra chứ không phải là từ bên ngoài đi vào. Nếu không có chánh niệm thì chúng ta có thể để cho sự bực bội, giận hờn biểu hiện thành lời nói và hành động mà có thể gây tai nạn cho mình và cho người kia, và đôi khi có thể làm hư cả cuộc đời của những đứa con ta. Vậy cho nên hộ trì có nghĩa là giữ gìn, che chở để cho đừng bị tai nạn. Nếu được thì trước khi lên xe rời Thanh Sơn, quý vị có thể đi một vòng và kiếm ra một viên sỏi như vậy. Ta sẽ rửa thật sạch viên sỏi đó cùng với năm viên sỏi khác. Ta xông trầm, đốt hương, rồi ta đặt lên bàn thờ Tam Bảo. Sau đó trong vòng một tuần, mỗi ngày chúng ta đều lễ lạy và cúng dường: cúng dường hương, cúng dường hoa, cúng dường quả. Sau bảy ngày chúng ta thỉnh sáu viên sỏi đó xuống rồi may một cái túi và để sáu viên sỏi đó vào trong. Trong những lúc thiền tập chúng ta có thể sử dụng sáu viên sỏi đó nhưng có một viên sỏi chúng ta phải mang theo ngày và đêm, đó là viên sỏi Hộ Trì.
Mỗi khi có sự bực bội phát sinh trong tâm, có sự hờn giận phát sinh trong tâm thì chúng ta lập tức cho tay vào túi và nắm lấy viên sỏi Hộ Trì, trở về với hơi thở. Thở vào ta nói: "Bụt ơi, con đang bực tức", hoặc "Bụt ơi, con đang giận hờn", hoặc là "Bụt ơi, con đang khổ". Ta kêu tên của Đức Thế Tôn thì tự nhiên năng lượng của Đức Thế Tôn xuất hiện ra trong ta, vì ta có hạt giống Đức Thế Tôn trong tâm nên điều đó sẽ xảy ra. "Bụt ơi, con đang khổ hoặc con đang giận..." nghĩa là con đang ở trong tình trạng nguy hiểm. Đó là hơi thở vào. Khi thở ra, ta nói: "Bụt ơi, xin che chở cho con, xin Bụt bảo hộ cho con và hộ trì cho con". Chọn chữ mà ta ưa để làm thành một Thiền Ngữ. Ví dụ: "Bụt ơi, con đang khổ, Bụt ơi, bảo hộ cho con ". Tuy ta không niệm Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát mà chất liệu Phật và Bồ Tát có thật ở trong đó. Khi ta biết trở về với hơi thở và nghĩ đến Bụt, thì tự nhiên năng lượng của Bụt hiện ra trong con người ta, bảo vệ cho ta. Có nhiều khi ta niệm Bụt như là cái máy thì không có năng lượng gì hết. Ví dụ như ta gặp một người mới ở ngoài cổng vô, ta chào: "A Di Đà Phật..." Ta nói như vậy thôi thì không có năng lượng gì hết. Thường thường người ta niệm Bụt chỉ là lập lại vài chữ thôi mà không phát ra được năng lượng. Còn khi ta trở về hơi thở, nắm lấy viên sỏi mà gọi Đức Thế Tôn thì viên sỏi đó có chất liệu Bụt với nhiều năng lượng. Nó hiện ra trong trái tim của ta: "Bụt ơi con đang khổ". Ta hãy tìm tới Bụt như tới một người cha, như tới một người thầy, rất là thân thiết. Đôi khi chúng ta nghĩ rằng Bụt là một vị thần linh xa lắc xa lơ không gần gũi. Thực ra, Bụt là một người cha, một người thầy, một người anh và rất gần gũi với chúng ta. Bụt đã từng khổ đau, cho nên Bụt đã thực tập vượt thắng khổ đau. Năng lượng của Bụt rộng lớn vô cùng. Có biết bao nhiêu người trong đời sống hằng ngày, nhờ nhắc đến tên của ngài mà trong lòng bớt khổ. Cho nên ta phải khám phá ra, phải tìm ra cái tính người của Bụt, phải biết đến với Bụt như đến với một con người chứ đừng đến với Bụt như một vị thần linh.
Bụt ơi!
Bụt là một người cha rất thương con, là một người thầy rất thương học trò. Nam Mô Bổn Sư tức là con lạy thầy của con. Bổn sư là thầy của con, Nam mô nghĩa là con kính lạy chứ có gì đâu. Vậy mà ta dùng chữ Bổn sư tức là thầy của con mà ta không đối xử với Bụt như là thầy mà chỉ đối xử như vị thần linh thì đâu có đúng. Cho nên khi ta nắm lấy viên sỏi đó ta gọi: "Bụt ơi!" thì tiếng "Bụt" đó rất tha thiết, giống hệt như là cha của ta hay là thầy của ta. Tự nhiên năng lượng của Bụt phát sinh ra trong lòng ta. "Bụt ơi! Con đang khổ. Bụt ơi! Xin bảo hộ cho con" và cứ tiếp tục như vậy mà thở.
Khi giận, khi buồn, khi thất vọng, khi tuyệt vọng, là ta phải đưa tay vào trong túi, nắm lấy viên sỏi và theo dõi hơi thở, đừng có nói gì nữa. Không nói và không làm gì hết, đó là hiệu lệnh của sự thực tập. Tại vì ta biết rất rõ là trong khi buồn, giận mà ta nói hay làm thì những điều ta nói, những việc ta làm sẽ gây ra đổ vỡ. Phương pháp thực tập là nắm lấy viên sỏi hộ trì và trở về với hơi thở, kêu cứu với Bụt và án binh bất động. Án binh bất động nghĩa là không làm gì hết. Án binh bất động là một danh từ quân sự tức là quân đội cắm trại, hoàn toàn im lặng. Mà có những lúc cần án binh bất động thì mới có thể thành công được, không thì bị quân giặc đánh tan. Vậy thì phương pháp của chúng ta là phương pháp án binh bất động. Không nói, không làm gì hết, chỉ trở về với hơi thở và làm cho năng lượng của Bụt hiện ra trong người của ta, để hộ trì. Nếu cần, cứ tiếp tục ngồi đó, vẫn có thể ngồi được, nhưng mà không nói, không làm và không nghe gì cả. Chỉ trở về với hơi thở của mình.
Cái đó gọi là tu tập, cái đó gọi là niệm. Niệm Bụt mà không cần nói ra tiếng A-Di-Đà hay Thích Ca hay Quan Âm, nhưng mà năng lượng của Bụt rất dồi dào, và lúc đó ta chỉ cần kêu lên: "Bụt ơi! Con đang khổ. Bụt ơi! Hộ trì cho con" thì tự nhiên năng lượng của Bụt sẽ bao trùm lấy người của ta. Hãy thực tập án binh bất động, tiếp tục theo dõi hơi thở và niệm cái câu đó: "Bụt ơi! Con đang khổ. Bụt ơi! Xin hộ trì cho con". Nếu có thể, thì đứng dậy, đi chậm rãi ra cửa, đi ra ngoài để thiền hành. Không khí ở ngoài bao giờ cũng mát mẻ hơn, phong cảnh ở ngoài tươi mát hơn. Mắt ta tiếp xúc với trời xanh, với cây xanh thành ra sự thực tập dễ dàng hơn, ít ngột ngạt hơn ở trong căn phòng kia. Ta đi như vậy trong vòng 10 phút, nếu cần thì đi thêm nữa và bàn tay ta luôn luôn nắm lấy viên sỏi đó.
Không để khổ đau leo thang
Đây là một pháp môn rất mầu nhiệm mà tôi trao cho quí vị. Nếu quí vị làm đúng thì quí vị có thể bảo hộ được cho chính bản thân của mình và cho gia đình mình. Có thể sau 10 phút hay 15 phút thực tập thì tình thương của ta lớn lên, ta không buồn, giận nữa. Ta thấy được rằng người kia vì vụng về, vì không biết quản lý cơn giận của mình, cho nên đã nói và làm những điều khiến ta bị thương tích và đau khổ. Người kia cần được giúp đỡ hơn là cần bị trừng phạt. Tại vì khi cảm thấy khổ thì chúng ta cứ nghĩ rằng phải trừng phạt người đó, người đã làm cho ta khổ, trừng phạt bằng cách nói một câu rất mạnh, rất đau. Đó là cách hành xử của người không tu. Ta tưởng rằng nói một câu rất đau cho người đó nghe, mà nếu người đó đau thì ta sẽ bớt khổ. Ta ngây thơ tin tưởng như vậy. Nhưng khi người đó đau thì người đó cũng muốn hết khổ, người đó cũng muốn nói lại một câu rất đau để cho ta khổ, để cho người đó bớt khổ. Ta tưởng là sẽ khỏe hơn, ai dè là ta leo thang chiến tranh. Tôi biết cách đó là dại dột lắm. Vậy mà có nhiều người 40, 50 tuổi, vẫn theo cái cách của con nít đó như thường. Trong khi đó có những sư cô, sư chú mới 20, 22 tuổi, mà đã thực tập được pháp môn này thì nhất định sẽ không leo thang chiến tranh, nhất định không cho khổ đau leo thang ở trong con người của mình và trong người kia.
Người kia có thể là người ta thương nhất trên đời. Mà làm khổ người ta thương nhất trên đời là chuyện dại dột. Tuy vậy mà ta đã làm và cứ thế mà làm. Ta đang làm, và cũng sẽ làm nữa mà không biết. Nếu quí vị thực tập pháp môn này thì quí vị sẽ thấy nó nhiệm mầu hơn bất cứ một câu thánh kinh nào. Năng lượng chánh niệm tức là năng lượng ta sử dụng để bảo vệ cho ta. Khi có năng lượng chánh niệm trong người ta rồi, thì ta có thể tiếp xúc với năng lượng chánh niệm của Bụt và của Bồ Tát. Cũng như là trong máy thu thanh của ta, nếu có pin thì ta mới bắt được những làn sóng điện của đài phát thanh. Nếu không có chánh niệm trong người của ta thì ta không bắt được, không tiếp xúc được với năng lượng của Bụt và Bồ Tát đang luôn luôn có mặt trong vũ trụ. Cho nên thực tập hơi thở và nắm lấy hòn sỏi Hộ Trì thì giống như ta lắp pin vào trong máy thu thanh của ta vậy thôi. Mở máy ra thế nào ta cũng tiếp nhận được những tín hiệu của đài phát thanh.
Ngày sẽ đẹp hơn
Ta thực tập như vậy và ta chỉ dẫn cho các con, các em ta cũng thực tập như vậy. Rồi một hồi thì chồng ta, vợ ta, cha ta, hay là anh ta sẽ thấy sự thay đổi. Thấy bây giờ sao ta trầm lặng, không hay nổi giận nữa. Thấy ta biết đi thiền hành, biết thở. Tự nơi bản thân của người đó sẽ phát sinh ra sự kính phục. Người đó sẽ thấy ta là người biết tu và ta bắt đầu chuyển hóa được tình trạng.
Ta cũng có thể tập cho em bé, con của ta. Cháu cũng có quyền có một viên sỏi hộ trì. Ta có thể tổ chức một phòng thở ở trong nhà. Mỗi tối trước khi đi ngủ thì hai cha con vào trong phòng thở đó, ngồi xuống, thỉnh một tiếng chuông, nắm lấy viên sỏi, thực tập thở vào và thở ra. Những lúc đó là những lúc ta không có giận. Thở vào ta nói: "Bụt ơi!" Thở ra ta nói: "Có con ở đây". Cứ thở vào: "Bụt ơi!" Thở ra: "Có con ở đây". Ta tập cho cháu thực tập ba hơi thở với viên sỏi đó rồi mới cho cháu đi ngủ. Còn ta thì mỗi sáng trước khi đi làm, ta vào trong phòng thở, thắp một cây nhang, ngồi thỉnh một tiếng chuông, rồi ta thực tập với viên sỏi đó là một thói quen rất tốt. Các thầy, các sư cô mỗi khi rời làng đi tổ chức khóa tu thì luôn luôn đi vào thiền đường, thắp một cây hương, thỉnh tiếng chuông, rồi lạy Bụt và lạy tổ ba lạy trước khi khởi hành. Ta cũng vậy, mỗi sáng trước khi đi làm, đi vào dâng một cây hương, ngồi xuống thỉnh một tiếng chuông, thực tập ba hơi thở, lạy ba lạy rồi mới đi làm. Đó là nếp sống văn minh, có khách hay không có khách tới nhà, ta cũng làm như vậy. Người khách của ta, người Việt hay người ngoại quốc, thấy ta làm như vậy thì họ sẽ thấy nếp sống của ta rất đẹp. Không những người lớn làm phương pháp đó, mà các em bé cũng làm được phương pháp đó trước khi đi học. Vào thỉnh chuông, thở và lạy ba lạy trước khi đi học.
Người Tây phương buổi sáng trước khi đi làm thì thường chúc nhau: "Have a good day!" (Chúc anh có một ngày đẹp). Nhưng đó chỉ là sự chúc tụng chứ chưa phải là sự thực tập. Còn ta bắt đầu một ngày bằng tiếng chuông, bằng ba hơi thở và ba cái lạy thì đó là ta đã thực tập, ta đã bắt đầu một ngày đẹp rồi. Đầu ngày ta đã biết tiếp xúc với tổ tiên tâm linh của ta thì cái ngày đó chắc chắn sẽ đẹp hơn và nhất là ta có đem viên sỏi đó đi theo, tức là tổ tiên của ta cũng đi theo để bảo hộ ta trong bất cứ trường hợp nào, khi sợ hãi, khi giận hờn, khi khó khăn để giúp ta giữ lòng cho thanh tịnh. Ta thực tập mà người ta đâu có biết ta thực tập, người ta chỉ thấy ta rất là bình tĩnh, rất là vững chãi. Giá trị con người ta biểu lộ ra nơi sự vững chãi đó.
Thiền Trà
Trong gia đình, ta có thể thực tập thiền trà. Ta mời một vài đoàn viên trong đoàn của ta về để tham dự thiền trà của gia đình. Tổ chức thiền trà tại nhà thì hay lắm. Nhờ tổ chức như vậy mà nhà ta sẽ sạch hơn, đẹp hơn, tại vì khi có khách ta phải lo cho nhà mình đàng hoàng hơn. Ta cũng có thể tổ chức thiền trà ở đoàn quán. Thiền trà là cơ hội để mọi người trong gia đình có mặt bên nhau trong chánh niệm và trân quý sự có mặt đó. Thiền trà là một nghi lễ. Với các em Oanh Vũ, ta có thể thay trà bằng nước chanh cũng rất vui và thích hợp với các em hơn. Trà chủ, trà khách, và trà giả (người pha trà), ai cũng thực tập chánh niệm trong từng cử chỉ: cách đi đứng, dâng hương, pha trà, chuyền bánh v.v... đều tỏa chiếu sự an lạc và thảnh thơi. Một buổi thiền trà có ba phần: nghi lễ mở đầu (dâng hương, dâng trà cho Bụt), uống trà trong im lặng, và chia sẻ. Không khí buổi thiền trà rất đạo vị và những chia sẻ cũng trong tinh thần đó. Ta cũng có thể có thêm bánh ngọt để ăn chung khi uống trà.
Trà chủ, trà giả được thực tập trước về phần nghi lễ. Bánh được xếp ra khay, trà và ly tách được chuẩn bị sẵn sàng và để trước mặt trà giả. Trà khách cũng được giới thiệu về ý nghĩa và những nghi lễ của buổi thiền trà trước khi được mời vào. Khi đến giờ đã định, có thể có tiếng chuông báo hiệu để mọi người tập họp lại, vị trà chủ và trà giả đứng hai bên cửa, chắp tay để đón chào khách. Mọi người đi vào thong thả, chắp tay chào lại trà chủ và đi vào chỗ được mời. Ta có thể ngồi thành vòng tròn đối diện nhau. Sau khi mọi người đã ngồi xuống, vị tri chung thỉnh chuông để mọi người im lặng theo dõi hơi thở trước khi dâng hương và lạy Bụt. Sau đó mọi người đứng đối diện nhau, chắp tay búp sen, vị trà chủ đọc câu kệ: "Sen búp xin tặng người, một vị Bụt tương lai" rồi mọi người cùng lạy nhau một lạy. Đây là một sự thực tập tương kính, nhận diện hạt giống giác ngộ nơi mỗi người rất đẹp. Mọi người ngồi xuống, ngồi thảnh thơi và an lạc như khi tọa thiền trong khi bánh và trà được chuyền đi từ tay trà giả. Trước khi nhận bánh và trà, ta chắp tay lại cung kính rồi sau đó tiếp tục chuyền khay bánh và trà qua người kế tiếp. Khi tất cả mọi người đã có trà và bánh, vị trà chủ nâng ly trà lên bằng hai tay, thong thả đọc:
Chén trà trong hai tay
Chánh niệm nâng tròn đầy
Thân và tâm an trú
Bây giờ và ở đây.
Mọi người cùng nâng ly và bắt đầu thưởng thức trà, bánh trong im lặng. Giây phút có cơ hội ngồi uống trà, ăn bánh chung với nhau, có mặt cho nhau là những giây phút rất hạnh phúc. Có khi ta chẳng cần nói gì cả, chỉ cần có mặt đích thực là đã đóng góp rất nhiều cho không khí an lạc của buổi thiền trà. Ta cũng có thể chia sẻ sau đó những niềm vui, cảm xúc, kinh nghiệm thực tập hoặc đóng góp một bài hát, một bài thơ, một câu chuyện trong tinh thần đạo vị và tưới tẩm hạt giống hạnh phúc trong mọi người. Khung cảnh chánh niệm được duy trì cho đến phút chót, khi vị trà chủ cảm ơn và ban trà giả tiễn mọi người ra về.
Ngoài thực tập thiền trà theo nghi lễ, ta cũng có thể thực hiện thiền trà không nghi lễ, nghĩa là không có phần dâng hương, lạy Bụt và lạy nhau, nhất là khi số lượng người tham dự khá đông và thời gian không được nhiều. Trong những buổi thiền trà như vậy, năng lượng chánh niệm và bình an cũng được chế tác và duy trì suốt buổi thiền trà. Ta có thể tổ chức thiền trà mỗi tháng một lần trong Gia Đình Phật Tử, trong gia đình, hoặc trong tăng thân tu học của mình để tạo thêm tình thân và chia sẻ niềm vui cho nhau. Các em Oanh Vũ, thiếu nhi cũng có thể làm "thiền trà" cho riêng các em rất thành công.
Bẻ gãy thế tam giác
Thế tam giác được thành lập
A là một người, và B là một người khác. A có thể là một Huynh Trưởng và B có thể là một Huynh Trưởng khác, hoặc là một đoàn sinh. Hai người có vấn đề với nhau, có những khó khăn với nhau. Có thể A đã nói gì, hoặc đã làm gì đó và gây ra cho B nỗi khổ. B không có khả năng tới A để giải tỏa, để làm mới, vì vậy B đi kiếm một người để than thở, và người đó thường thường là người không có cảm tình với A, người đó là C. Nghĩa là B âm thầm tìm C để mà liên minh chống A. Nếu C là một người rất thân với A, thì B không có đi kiếm C đâu. Đi kiếm C để C bênh người kia hay sao? Cho nên ta có khuynh hướng đi tìm người đồng ý với ta rằng người kia là người rất ác, rất khó tánh, rất dữ, không có lòng thương. Đi kiếm liên minh là một khuynh hướng của tất cả chúng ta. Thất bại đầu tiên của B là không đi thẳng tới A để làm mới và hòa giải. Thất bại thứ hai của B là không đi tìm tới một người thân A để nhờ giúp đỡ, mà lại đi tìm một người ghét A để lập thế liên minh. Do đó thế tam giác được thành lập. Khi thế tam giác bắt đầu thành lập rồi thì sẽ có những rắc rối, khổ đau và khó khăn. Chúng ta phải học làm thế nào để đừng có tạo ra thế tam giác trong đoàn của chúng ta. Nếu có thế tam giác rồi, ta phải học cách phá gãy thế tam giác.
Bẻ gãy thế tam giác
Vậy nếu ta là C mà có thực tập thì khi nghe B nói, ta chỉ ngồi nghe thôi chứ đừng nói gì hết. "Chị khổ gì thì nói em nghe đi!" Ta nghe người kia nói và thực tập phương pháp lắng nghe của Đức Bồ Tát Quan Thế Âm. Chúng ta người nào cũng phải đóng vai trò của C cho thật đàng hoàng thì mới phá gẫy được thế tam giác. Khi mà thấy hai người giận nhau, một người tìm tới ta thì ta phải thực tập lắng nghe trước. "Tội nghiệp chị quá. Chị khổ mấy ngày rồi? Chị đã nói được với ai chưa? Hay chị mới nói với em lần đầu thôi? Tội nghiệp chị quá." Nghe xong thì ta khoan nói gì hết. Ta tìm cách đến với A để hỏi thăm chuyện gì đã xảy ra, và ta có thể làm môi giới giữa A và B. Xong rồi thì ta tới B và nói rằng: "Chị ơi, Bụt đã dạy con đường ngắn nhất là con đường đi tới với nhau, tại sao chị có khó khăn như vậy mà không tới nói với A? Chị ngại ngùng hả? Chị ngại thì em đi với chị. Em yểm trợ chị." Tại vì ta đã nói chuyện với A rồi, và hiểu được cả hai phía. Ta nghe hai tiếng chuông rồi chứ không phải một tiếng cho nên có thể đóng vai người hòa giải. Ta làm một vị Bồ Tát trong đoàn của mình. Ta là em nhưng có thể giúp các anh chị của mình. Trước hết ta là Bồ Tát lắng nghe, khi lắng nghe xong thì ta làm Bồ Tát ái ngữ, nói lời dễ thương, nói lời hòa giải: "Chị đi với em, chúng ta đi tới với chị A đi". Đôi khi chỉ có mười tuổi hoặc mười hai tuổi thôi mà ta có thể làm vị Bồ Tát được.
Khi người kia nói tới chị A thì ta dùng lời ái ngữ nói rằng: "Chị A đâu có ý đó để làm khổ chị đâu", và ta giúp hai người làm hòa lại với nhau. Trước hết ta giúp cho B có thể nói ra hết nỗi khổ của B cho A nghe. Theo phương pháp này thì A chưa cần trả lời, mà chỉ lắng nghe thôi: "Tội nghiệp quá, chị khổ như vậy mà mấy ngày nay em không biết". A chưa nên thanh minh, cải chính gì hết. Vì theo phương pháp làm mới thì ta không thanh minh liền. Ta để cho người kia nói ra hết những đau khổ trong lòng để người đó được nhẹ. Nếu người đó nói đúng thì ta xin lỗi liền lập tức, còn nếu người đó có một nhận thức sai lầm mà nói ra như vậy thì ta khoan đính chính đã, hãy để cho người đó thảnh thơi mấy ngày, chờ khi người đó vui vẻ thì ta nói: "Chị ơi, hôm trước em nghe chị nói em buồn quá. Em buồn là tại vì chị buồn. Mà chị buồn như vậy thì không có căn cứ, vì sự thật không phải như vậy. Sự thật là như thế này...". Đừng có nói ngay cái bữa giải tỏa đó, phải đợi ba ngày sau, năm ngày sau, hay bảy ngày sau, khi mà người kia đã nhẹ, đã vui rồi thì ta mới tới để nói. Cái đó gọi là bẻ gãy thế tam giác.
Bồ Tát hòa giải
Vậy thì trong đoàn ta đã có thế tam giác chưa? Nếu đã có ba bốn cái tam giác rồi, thì ta đi tìm vị Bồ Tát nào để phá tan cái tam giác đó? Thôi ta tự nhận làm đức Bồ Tát đó cho rồi, chứ còn chờ ai nữa? B đã tới than thở với ta rồi mà, thì tức là ta thành C rồi. Vì vậy cho nên C ơi, anh ở đâu, chị ở đâu? Tại sao anh, chị, em không đóng vai của một vị Bồ Tát? Tại sao anh không thực tập lắng nghe (bi thính)? Tại sao anh không thực tập ái ngữ để mà hòa giải? Tại sao anh không đưa B trở về với A? Tất cả chúng ta, người nào cũng có thể đóng vai trò của một vị Bồ Tát hòa giải. Tất cả đoàn sinh trong đoàn sẽ phải học phương pháp đó gọi là bẻ gãy thế tam giác. Khi mà trong đoàn, các thế tam giác đều được bẻ gãy thì lúc đó đoàn mới có hạnh phúc.
Pháp môn bẻ gãy thế tam giác cũng phải được thực tập ở trong gia đình. Nếu ta là C mà ta cảm thấy yếu và không làm được vị Bồ Tát đó thì ta phải đi cầu cứu, phải đi tìm một anh, chị nào giỏi về hòa giải, yêu cầu người đó tới giúp để có thể đưa B trở về với A. A. Đừng có mặc cảm, ta phải có hảo tâm, chí nguyện trước, rồi khi cảm thấy sức mình chưa đủ thì ta cầu cứu với một người anh, một người chị hoặc một người em, tại vì đôi khi người em còn giỏi hơn mình. Còn nếu ta không thể bẻ gãy thế tam giác thì thế tam giác đó trở nên nhiều thế tam giác khác và sinh ra trong đoàn của chúng ta có năm, sáu cái tam giác nối liên tiếp nhau. Nó sẽ rối như là mớ bòng bong khiến cho các em nản chí không tới đoàn nữa. Tại vì nghe rồi, C cũng không có khả năng để làm gì hết. C đi than thở, đi truyền miệng với F, rồi F tới với G, v.v... và như vậy thì tùm lum hết.
Tam giác đầu đã không phá được mà tạo nên tam giác thứ hai. Tam giác thứ hai không phá được mà tạo nên tam giác thứ ba, và từ đó tạo nên nhiều tam giác khác nữa. Đó là tình trạng xã hội của cộng đồng người Việt chúng ta, rất tội nghiệp. Vì chúng ta không làm được phận sự của C cho nên mới tùm lum ra như vậy. C phải làm trách vụ của một vị Bồ Tát, phá cho được cái tam giác đầu, đừng tạo ra tam giác thứ hai, thứ ba. Tại chúng ta không thực tập giới thứ tư, tức là ái ngữ và lắng nghe, cho nên thay vì giúp được cho A và B, thì chúng ta đi tìm một người khác nữa là F và tạo ra thêm một tam giác. Rốt cuộc thì có một số người chống A, và A không biết tại sao có nhiều người chống mình như vậy. A cứ tỉnh bơ đến khi biết ra thì đã trễ rồi. Dù A hoàn toàn vô tội, A trở thành nạn nhân của bao nhiêu là chống đối. Nếu B hay C biết làm hòa giải thì A đâu có lâm vào tình trạng như vậy. Chúng ta biết rằng có rất nhiều người dễ thương, có lòng tốt rất lớn, giúp đồng bào, những người tị nạn, thuyền nhân, vậy mà trở nên nạn nhân của những sự nói xấu, bị chụp mũ, rất tội nghiệp. Đó cũng tại vì trong cộng đồng, trong đoàn, chúng ta không có những người có khả năng thực tập pháp môn bẻ gãy thế tam giác. Vì vậy trong đoàn, chúng ta phải làm thế nào để giáo dục mỗi người có khả năng bẻ gãy được thế tam giác và thiết lập lại được hòa thuận, tin yêu trong gia đình, trong đoàn, và sau đó là trong xã hội chúng ta.
Gốc rễ
Tiếp xúc với tổ tiên
Ai trong chúng ta cũng có ông bà, cha mẹ, anh chị em, đó là gia đình huyết thống. Nhưng nếu chỉ có một gia đình huyết thống thì chưa đủ hạnh phúc, nên mỗi chúng ta phải có thêm một gia đình thứ hai nữa là gia đình tâm linh. Đối với một đoàn sinh hay một Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử thì đoàn ta, chùa ta là gia đình tâm linh của ta.
Trong gia đình huyết thống, ta có bàn thờ tổ tiên. Theo truyền thống của người Việt Nam, mỗi buổi sáng ta dâng một cây hương trên bàn thờ tổ tiên. Nếu có bụi trên bàn thờ thì ta lấy khăn lau cho sạch. Trên bàn thờ có thể chỉ có một bức hình thôi: hình bà nội, bà ngoại hay là ông cố, nhưng mà bức hình đó đại diện cho tất cả tổ tiên của chúng ta. Nếu người khác không biết gì về truyền thống này, nhìn vào và không nhìn sâu, họ có thể nghĩ rằng ta mê tín. Họ nghĩ ta thờ tổ tiên là một sự mê tín. Nhưng kỳ thực nếu nhìn sâu thì họ sẽ thấy đó là một nền văn minh. Khi đi tới bàn thờ là chúng ta đang tới với ông bà của chúng ta, chúng ta không chạy như bị ma đuổi. Chúng ta đi từng bước chân vững chãi, từng bước thảnh thơi, nhẹ nhàng và tràn đầy sự cung kính. Khi rút ra một cây nhang và thắp nhang lên, ta làm với tất cả sự cung kính. Chúng ta dâng hương là dâng trái tim chân thành của chúng ta đến ông bà, tổ tiên. Vì vậy hành động đó phải được làm trong chánh niệm. Thân tâm nhất như. Cử chỉ rút một cây nhang ra và thắp cây nhang, đó là một sự thực tập. Ngày xưa khi hòa thượng chùa Từ Hiếu dạy tôi cầm cây hương, thầy nói: "Con nè, khi con cầm cây hương, con cầm bằng hai tay của con. Cây hương thì rất là nhẹ, chỉ cần hai ngón tay thôi. Nhưng khi con rút ra rồi cầm lên, con để tay trái lên trên tay mặt. Điều đó chứng tỏ là con dùng hết trăm phần trăm con người của con để cầm cây hương lên." Thân tâm là một. Đó là sự thực tập. Đốt cây hương lên và cắm trong bình hương là sự thực tập với tất cả sự cung kính, với tất cả thân tâm hợp nhất, có mặt hoàn toàn cho ông bà. Giây phút đó là giây phút tiếp nối với tổ tiên.
Điều này người Tây Phương cần phải học, vì người Tây phương không có bàn thờ tổ tiên nên mỗi buổi sáng họ không có thực tập móc nối, tiếp xúc với tổ tiên họ. Thành ra người Tây phương có nhiều người bị phóng thể, bị tách rời khỏi tổ tiên của họ, không có gốc rễ. Không có gốc rễ thì trở thành ma đói và đi lang thang trong cuộc đời. Vì vậy những người không tiếp xúc được với tổ tiên, với ông bà là những người không có hạnh phúc. Có một bàn thờ tổ tiên ở trong nhà để mỗi buổi sáng đi vào, thấy ông bà; để mỗi buổi sáng tới lau và cắm cây hương lên với tất cả sự chí tâm hoặc lau dọn một cách thành tâm là thời giờ thực tập để tiếp xúc với tổ tiên. Khi ta quỳ xuống và xá cũng là để tiếp xúc với tổ tiên. Nhờ vậy mà ta không bao giờ bị mất gốc. Nhờ vậy mà ta không trở thành những con ma đói bị bứng khỏi gốc rễ của mình. Thành ra ta có thể chia sẻ với người Tây phương sự thực tập này của văn hóa Việt Nam. Người Tây phương có nhiều người hoàn toàn bị mất gốc, không dính líu gì tới cha mẹ, không dính líu gì tới ông bà, một thân một mình cô độc. Đó là hiện tượng cô đơn, cô độc rất phổ biến. Có rất nhiều người Tây phương bị đau khổ và cô đơn vì họ không tiếp xúc được với tổ tiên. Tổ tiên trẻ nhất của ta là cha mẹ và anh chị ta. Những người nào lớn hơn ta một tuổi trở lên đều là tổ tiên của ta. Vì vậy trong gia đình ta phải làm sao thiết lập quan hệ tốt với tất cả những người tới trước ta: anh, chị, cha, mẹ, ông bà và tất nhiên là với cả những người đã khuất. Cắm rễ thật sâu sắc trong gia đình huyết thống thì con người mới có hạnh phúc. Nếu mà anh bị bứng ra khỏi gốc rễ đó thì anh là người bị mất hạnh phúc. Tây phương đang đào tạo ra những thế hệ trẻ không có gốc rễ và vì vậy họ rất đau khổ.
Có hai gốc rễ
Chúng ta có một gia đình rồi, chúng ta có một gốc rễ huyết thống rồi, nhưng chúng ta có thêm một gốc rễ khác gọi là gốc rễ tâm linh. Vì vậy chùa và Gia Đình Phật Tử là gia đình thứ hai của ta. Gia đình này cung cấp cho ta những chất liệu thực phẩm, những chất liệu tâm linh để nuôi dưỡng và để làm đẹp cuộc đời của ta. Tổ tiên tâm linh của ta có chư Phật, chư vị Bồ Tát, Tổ sư và tổ tiên trẻ nhất của ta là thầy Bổn Sư, các sư chú, sư bác, sư anh, sư chị của ta, và cũng là các Huynh Trưởng trong đoàn của ta. Các anh trưởng, chị trưởng trong đoàn của ta đều là tổ tiên tâm linh của ta hết vì Bụt truyền cho Tổ, Tổ truyền cho Thầy, Thầy truyền cho anh, cho chị và anh chị truyền cho chúng ta. Cho nên ta phải giữ mối liên hệ sâu sắc với gia đình tâm linh này, ta phải sống hài hòa hạnh phúc, ta phải cắm rễ vào Huynh Trưởng của ta, ta phải cắm rễ vào thầy của ta, ta phải cắm rễ vào sư ông của ta, ta phải cắm rễ vào vị tổ sư của ta, và như vậy ta mới cắm rễ được vào nơi vị đã sáng tạo ra nguồn gốc tâm linh mà ta gọi là Bụt.
Gia đình huyết thống
Tổ tiên
Ông bà, cha mẹ
Anh, chị, em
Gia đình tâm linh
Bụt
chư Tổ, thầy
Huynh trưởng
Nhìn vào hình vẽ trên, bên này ta có tổ tiên, ông bà, cha mẹ trong gia đình huyết thống; bên kia ta có Bụt, có thầy, có Tổ, có Huynh Trưởng. Tại nhà thì chúng ta có sự thực tập tại nhà; tại đoàn, tại chùa thì ta có sự thực tập tại đoàn, tại chùa. Ta sẽ học những thực tập mà ta phải có trong gia đình, những thực tập mà ta nên có trong chùa cũng như trong đoàn của ta. Nhờ sự thực tập trong gia đình huyết thống và trong gia đình tâm linh mà chúng ta có thể đóng góp được cho phẩm chất của học đường. Học đường nhờ có ta mà phẩm chất được tăng tiến hơn. Và chính hai gia đình huyết thống và gia đình tâm linh sẽ cải thiện không khí của học đường, và cố nhiên sau đó là không khí của xã hội.
Bây giờ chúng ta sẽ học pháp môn thực tập năm cái lạy. Thực tập năm cái lạy này giúp ta tiếp xúc trở lại với tổ tiên, đất đai, những người thân thuộc và giúp chúng ta hòa giải được với những người trong gia đình ta hoặc với những người mà ta đang có khó khăn trong sự truyền thông. Năm cái lạy là một pháp môn được chế tác tại Làng Mai và hiện bây giờ thiền sinh ngoại quốc thực tập rất nhiều. Hàng chục ngàn người đang thực tập thiền lạy ở khắp nơi. Có người thực tập giờ đầu tiên thôi đã khóc nức nở và chuyển hóa được, hòa giải được với cha mẹ, chồng con, anh chị mình. Những người lớn cũng vậy, nếu chúng ta có khó khăn với con, với cháu chúng ta thì chúng ta thực tập thiền lạy để có thể giải thoát ra được nỗi khổ đó. Lạy không phải là cầu xin, quỵ lụy mà là thực tập để chuyển hóa.
Nghi thức thiền lạy
Đại chúng đứng ngay ngắn, thư giãn, theo dõi hơi thở. Vị duy na nhấp một tiếng chuông nhỏ xong bắt đầu xướng cái lạy thứ nhất:
Lạy thứ nhất: Trở về kính lạy, liệt vị tiền nhân, dòng họ tổ tiên, gia đình huyết thống, hai bên nội ngoại.
(Chuông, lạy xuống)
(Vị duy na đọc để mọi người quán niệm theo trong tư thế năm vóc sát đất.)
Con thấy cha mẹ mà xương thịt và sự sống đang có mặt và lưu nhuận trong từng tế bào và mạch máu của con. Qua cha con và mẹ con, con thấy ông bà, bên nội cũng như bên ngoại, đã và đang đi vào con với tất cả mọi trông chờ, mọi ước mơ cũng như tất cả trí tuệ và kinh nghiệm của tổ tiên trải qua bao nhiêu thế hệ. Con mang trong con sự sống, dòng máu, kinh nghiệm, tuệ giác, hạnh phúc và khổ đau của các thế hệ tổ tiên. Những yếu kém, những tồn tại và những khổ đau truyền đạt lại, con đang tu tập để chuyển hóa. Những năng lượng của trí tuệ, của kinh nghiệm và của thương yêu mà liệt vị truyền đạt lại, con đang mở rộng trái tim con và xương thịt con để mà tiếp nhận. Con có gốc rễ nơi cha, nơi mẹ, nơi ông bà, tổ tiên. Con chỉ là sự nối tiếp của tổ tiên và dòng họ. Xin cha mẹ, ông bà và tổ tiên hỗ trợ cho con, che chở cho con, truyền thêm năng lượng cho con. Con biết rằng con cháu ở đâu thì tổ tiên ở đó; con biết cha mẹ nào, ông bà nào cũng thương yêu, đùm bọc và hộ trì cho con cho cháu, dù khi sinh tiền có lúc gặp phải khó khăn hay rủi ro mà không bộc lộ được niềm thương yêu và sự đùm bọc đó. Con thấy cha ông của con, từ Lạc Long Quân qua các vua Hùng Vương và biết bao thế hệ những người khai sáng đất nước, mở rộng cõi bờ, gìn giữ núi sông và un đúc nên nếp sống Việt Nam có thỉ, có chung, có nhân, có hậu. Con là sự tiếp nối của liệt vị. Con cúi rạp mình xuống để đón nhận năng lượng của dòng họ và tổ tiên gia đình huyết thống con. Xin tổ tiên phù hộ độ trì cho con.
(Nhấp chuông, mọi người đứng dậy, chắp tay)
Lạy Thứ Hai: Trở về kính lạy, Bụt và tổ sư, truyền đăng tục diệm, gia đình tâm linh, qua nhiều thế hệ.
(Chuông, lạy xuống)
(Vị duy na đọc để mọi người quán niệm theo trong tư thế năm vóc sát đất.)
Con thấy thầy con, con thấy sư ông của con, người đã dạy cho con biết hiểu, biết thương, biết thở, biết cười, biết tha thứ, biết sống trong giây phút hiện tại. Con thấy, qua thầy của con, qua sư ông của con, con tiếp xúc được với các thế hệ thánh tăng qua các thời đại: các vị tổ sư Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Vạn Hạnh, Đại Đăng, Tuệ Trung, Trúc Lâm, Pháp Loa, Huyền Quang, Nguyên Thiều, Liễu Quán; con tiếp xúc được với các vị bồ tát và với Bụt Thích Ca Mâu Ni, người đã khai sáng gia đình tâm linh của con, đã có từ hai ngàn sáu trăm năm nay. Con biết Bụt là thầy con mà cũng là tổ tiên tâm linh của con. Con thấy trong con có chất liệu nuôi dưỡng của Bụt, của tổ, của các thế hệ cao tăng và năng lượng của liệt vị đã và đang đi vào trong con, đã và đang làm ra sự bình yên, an lạc, hiểu biết và thương yêu trong con. Con biết Bụt đã giáo hóa cho gia đình huyết thống của con, đã làm đẹp, làm lành nếp sống đất nước của con và của dân tộc con. Bụt đã làm cho dân tộc con trở nên một dân tộc thuần từ và văn minh, điều này con thấy rõ trong nền văn minh Lý Trần. Con biết nếu không có Bụt, có tổ, có thầy thì con không biết tu tỉnh và thực tập an lạc cho con và cho gia đình con. Con mở rộng trái tim và xương thịt con để tiếp nhận kinh nghiệm, tuệ giác, tình thương, sự che chở và năng lượng từ bi của Bụt và của các thế hệ thánh tăng, gia đình tâm linh của con. Con là sự tiếp nối của Bụt và của các thế hệ tổ tiên tâm linh của con. Xin Bụt và chư tổ, xin sư ông và thầy truyền cho con nguồn năng lượng thương yêu, an lạc và sự vững chãi của liệt vị. Con nguyện tu tập để chuyển hóa và để truyền cho thế hệ tương lai năng lượng của Bụt, của tổ và của thầy.
(Nhấp chuông, mọi người đứng dậy, chắp tay)
Lạy Thứ Ba: Trở về kính lạy, liệt vị tiền nhân, khai sáng đất nước sông núi khí thiêng, hàng ngày che chở.
(Chuông, lạy xuống)
(Vị duy na đọc để mọi người quán niệm theo trong tư thế năm vóc sát đất.)
Con thấy con đang đứng trên đất nước này và tiếp nhận công ơn khai sáng của tiền nhân đất nước này, trước hết là các vua Hùng, rồi các vị lãnh đạo các triều Tiền Lê, Tiền Lý, Ngô, Đinh, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn, cùng với các thế hệ tổ tiên và với biết bao người có tên tuổi và không có tên tuổi đã đem tài trí, kiên nhẫn và chịu đựng để làm cho đất nước này trở nên nơi nương náu của bao nhiêu giống dân đủ các màu da; đã lập nên trường học, nhà thương, xây dựng cầu cống, đường sá, chợ búa; đã thiết lập nhân quyền, luật pháp, phát minh khoa học làm cho mức sống được nâng cao. Con tiếp xúc được với những thế hệ tổ tiên ngày xưa đã sinh sống trên đất nước này và đã biết sống an lành với mọi loài và với thiên nhiên. Con sống ở đây, học hòa hợp với thiên nhiên, với con người và con cảm thấy năng lượng của đất nước này đi vào trong con, yểm trợ con, chấp nhận con. Con xin nguyện tiếp tục giữ gìn và làm tiếp nối những dòng năng lượng ấy. Con xin nguyện góp phần chuyển hóa những bạo động căm thù và vô minh còn tồn tại trong xã hội này. Xin liệt vị độ trì cho chúng con.
(Nhấp chuông, mọi người đứng dậy, chắp tay)
Lạy Thứ Tư: Trở về kính lạy, gia đình huyết thống, gia đình tâm linh, gia hộ độ trì cho người con thương.
(Chuông, lạy xuống)
(Vị duy na đọc để mọi người quán niệm theo trong tư thế năm vóc sát đất.)
Những nguồn năng lượng vô biên mà con vừa tiếp nhận được, con xin truyền đạt cho cha con, cho mẹ con, cho những người con thương yêu: những người đã từng khổ đau, đã từng lo lắng, đã từng buồn khổ vì con, vì những vụng về và dại dột của con trong quá khứ, và cũng đã từng lo lắng buồn khổ vì hoàn cảnh khó khăn và không may của các vị. Con xin truyền đạt nguồn năng lượng ấy để nguyện cầu và tiếp sức cho cha con, cho mẹ con, cho anh chị em của con, cho tâm hồn họ lắng dịu lại, cho khổ đau trong lòng (những) người ấy được chuyển hóa, cho (những) người ấy nở được nụ cười, cho (những) người ấy cảm nhận được niềm vui sống, cho (những) người ấy được nhẹ nhàng trong thân thể và an lạc trong tâm hồn. Con hết lòng cầu mong cho (những) người ấy có hạnh phúc và an lạc. Con biết nếu (những) người ấy có an lạc thì con cũng có an lạc. Con cảm thấy trong lòng con không có oán hận trách móc những người ấy một mảy may nào. Con lạy tổ tiên, ông bà trong gia đình huyết thống và trong gia đình tâm linh của con phù hộ độ trì cho người con thương, cho những người mà con đã nguyện thương yêu và chăm sóc. Con thấy con không còn là một cái ta riêng biệt mà con đã trở thành một với những người con thương.
(Nhấp chuông, mọi người đứng dậy, chắp tay)
Lạy Thứ Năm: Trở về kính lạy, gia đình huyết thống, gia đình tâm linh, gia hộ độ trì, người làm khổ con.
(Chuông, lạy xuống)
(Vị duy na đọc để mọi người quán niệm theo trong tư thế năm vóc sát đất.)
Con mở rộng lòng ra để truyền đi năng lượng hiểu biết và lòng xót thương của con tới những người đã làm con khổ đau và điêu đứng. Con biết người ấy cũng đã đi qua nhiều khổ đau, đã chứa chấp quá nhiều cay đắng và bực bội trong trái tim nên đã làm vung vãi những khổ đau và bực bội của người ấy lên con. Con biết những người ấy không được may mắn, có thể là từ hồi còn bé thơ đã thiếu sự chăm sóc và thương yêu, đã bị cuộc đời dằn vặt và ngược đãi bao nhiêu lần. Con biết những người như người ấy chưa may mắn được học, được tu, đã chứa chấp những tri giác sai lầm về cuộc đời và về con, nên đã làm khổ con và làm khổ những người con thương. Con xin gia đình huyết thống và gia đình tâm linh của con truyền năng lượng cho (những) người ấy, để cho trái tim của họ được tiếp nhận giọt nước cam lộ mà nở ra được như một bông hoa. Con chỉ cầu mong cho người ấy được chuyển hóa, để người ấy tìm ra được niềm vui sống, để không còn giữ tâm hận thù mà tự làm khổ mình và làm khổ người. Con biết vì những người ấy khổ mà không tự chủ được nên đã làm khổ con và làm khổ những người con thương. Con cũng cầu mong cho tất cả những ai đã làm cho gia đình con khổ, dân tộc con điêu đứng, kể cả những kẻ xâm lăng, cướp nước, những người hải tặc, những kẻ ích kỷ, dối trá và tàn bạo được nhờ ơn Bụt, ơn tổ, ơn tiền nhân mà cải hóa. Con thấy họ khổ và nỗi khổ ấy đang kéo dài qua nhiều thế hệ và con không muốn giữ tâm niệm sân hận, oán thù. Con không muốn cho họ khổ. Con có gốc rễ nơi tổ tiên, nơi dòng họ huyết thống và dòng họ tâm linh; trái tim con đã nở ra như một đóa hoa, con xin buông bỏ tất cả mọi hiềm hận, một lòng cầu nguyện cho kẻ đã làm khổ con, làm khổ gia đình và dân tộc con được thoát vòng tai nạn và đớn đau để họ có thể thấy được ánh sáng của niềm vui sống và an lạc như con. Tâm con không còn mang mảy may trách móc và oán thù. Con xin truyền đạt năng lượng của con cho tất cả những người ấy. Lạy Bụt, lạy tổ, lạy ông bà chứng minh cho con.
(Chuông, mọi người đứng dậy, xá và lui ra)
Đây là văn bản thực tập điển hình. Ta có thể thêm vào những chi tiết cụ thể về những người ta muốn quán chiếu trong khi lạy, gọi tên họ ra để có thể tiếp xúc sâu sắc hơn.
Hiện pháp lạc trú
Góp củi cho mùa Đông
Trong đời sống hàng ngày, ta bị những buồn phiền, lo lắng, giận hờn, sợ hãi trấn ngự và che lấp. Những lúc như vậy ta phải biết làm thế nào để xử lý cái buồn phiền, lo lắng và sợ hãi của ta. Nếu ta không có năng lượng của chánh niệm, không có khả năng an trú bây giờ và ở đây thì ta không làm được chuyện đó, nghĩa là ôm ấp những khổ đau của ta để chúng êm dịu lại và chuyển hóa chúng. Những lúc ta không bị những buồn phiền, lo lắng, sợ hãi trấn ngự thì ta phải biết lợi dụng cơ hội để thực tập trở về an trú trong hiện tại và tiếp xúc với những điều kiện của hạnh phúc đang có mặt. Như là trời chưa lạnh, chưa cần đốt lò sưởi thì ta vẫn gom góp củi để đốt lò sưởi trong mùa đông. Đây là sự thực tập rất quan trọng. Ta nên sử dụng những phút giây an bình của đời sống hàng ngày, lúc mà ta không bị buồn phiền trấn ngự, để thực tập vì lúc đó ta thực tập rất dễ. Thực tập trở về giây phút hiện tại rất dễ và là công tác nuôi dưỡng. Nếu ta không nuôi dưỡng ta được thì ta cũng không thể nuôi dưỡng con ta và các em ta được. Nuôi dưỡng tức là trị liệu. Ta có những thương tích và ta muốn trị liệu các thương tích đó. Có hai cách: một là ôm ấp lấy niềm đau và chuyển hóa nó, hai là nuôi dưỡng niềm hạnh phúc trong ta. Hạnh phúc trong ta cũng có khả năng trị liệu. Giống như ta uống thuốc, có loại thuốc chỉ là thực phẩm thôi nhưng trong khi ta ăn thì cảm thấy vừa ngon miệng vừa trị liệu được bệnh của ta. Ví dụ sâm bổ lượng, đó là thức ăn nhưng mà nó có dược tính. Cũng như khi trời nóng, ta ăn chè đậu xanh thì rất ngon và cũng trị liệu được khí nóng trong người. Vì vậy trị liệu không hẳn phải cần thuốc đắng, có thể dùng thức ngọt như thực phẩm. Khi ta có niềm đau, nỗi khổ, ta có thể trị liệu được bằng những phương pháp chuyển hóa, và ta cũng có thể trị liệu bằng cách đưa vào những chất liệu nuôi dưỡng. Những chất liệu nuôi dưỡng này có thể trị liệu nỗi khổ đau của ta. Đây là phương pháp mà Bụt gọi là hiện pháp lạc trú.
Sống cho đáng sống
Ta phải sắp xếp đời sống hàng ngày như thế nào để có những giờ phút mà ta sống có niềm vui, sống có sự thảnh thơi và hạnh phúc. Sống cho đáng sống, tiếp xúc được với những mầu nhiệm của đất trời và thiên nhiên. Ta dùng trí thông minh của chúng ta để làm gì? Ta thường dùng trí thông minh của ta để đạt được sự thành công này, giật được mảnh bằng kia, đạt tới địa vị nọ, hay để thực hiện được công trình đó. Nhưng ta không biết dùng trí thông minh để sắp đặt, tổ chức để ta có thể sống những giờ phút thật đáng sống trong đời sống hàng ngày. Ta cứ phóng về tương lai và ta không có hạnh phúc ngay trong hiện tại. Cho nên nếu ta là một người biết sống thì ta dùng trí thông minh để sắp đặt cuộc sống hàng ngày. Làm sao trong đời sống hàng ngày có những giây phút đáng sống, giờ phút có hạnh phúc thật sự để ta nuôi dưỡng thân và tâm của mình. Ở Làng Mai, các thầy, các sư cô vừa phải chăm sóc cho 300, 400 thiền sinh vừa phải nấu ăn, rửa nồi, rửa bát, chuyên chở người, nhưng họ thực tập để làm các công việc đó mà vẫn an trú trong hiện tại, làm các công việc đó mà vẫn có hạnh phúc, có niềm vui. Họ không làm các công việc đó cho xong. Họ làm trong chánh niệm. Làm như thế nào để cảm nhận sự sống xung quanh. Ví dụ trong khi rửa bát, họ phải rửa như thế nào để niềm vui có mặt từ đầu cho đến lúc rửa xong chén bát. Họ không nghĩ đó là việc lao động, họ không cố làm cho xong để có thể đi ngồi thiền. Làm như vậy thì trong suốt thời gian rửa bát họ không có an lạc, không có hạnh phúc. Thành ra phải sắp đặt như thế nào để thời gian ta rửa bát, dù là 10 phút, 15 phút đều là thời gian đáng sống. Rửa bát như thế nào để trong suốt thời gian rửa bát ta vẫn có an lạc, hạnh phúc. Điều này là điều có thể làm được. Mỗi cái bát ta rửa, ta rửa cẩn trọng với tất cả tấm lòng và chánh niệm của ta giống như đang tắm cho một đức Bụt sơ sinh. Trong khi đó ta theo dõi hơi thở, ta mỉm cười chánh niệm và như vậy thời gian rửa bát cũng là thời gian thiền tập. Quét nhà, dọn dẹp, nấu cơm, chuẩn bị bữa ăn sáng cũng vậy. Tất cả những công việc đó đều trở thành sự thực tập được hết. Khi các thầy, các sư cô xuống bếp chuẩn bị bữa ăn sáng, họ đã được học là niềm hạnh phúc, sự an lạc, thảnh thơi có thể có được trong lúc chuẩn bị. Họ không làm gấp gáp. Muốn không gấp gáp thì họ phải dậy sớm hơn một chút cho có nhiều thì giờ hơn và có thể làm công việc một cách nhẹ nhàng, thong dong, thảnh thơi. Họ luôn luôn theo dõi hơi thở và có nụ cười chánh niệm, có mặt trong suốt thời gian chuẩn bị bữa ăn sáng. Điều đó tất cả chúng ta đều có thể làm được nếu chúng ta có quyết tâm và có thông minh. Thời gian chúng ta lái xe hoặc ngồi trên xe buýt tới sở làm đều là những thời gian thiền tập được hết. Khéo léo một chút là ta có thể thực tập lời dạy của Đức Thế Tôn về "hiện pháp lạc trú". Nếu ta có mặt trong giây phút hiện tại và tiếp xúc được những mầu nhiệm của sự sống trong ta và chung quanh ta thì ta có khả năng nuôi dưỡng thân tâm. Mà nuôi dưỡng được thân tâm thì những bệnh tật, khổ đau trong ta sẽ từ từ được trị liệu. Rồi với năng lượng đó, những khi khổ đau, buồn phiền trỗi dậy thì ta có khả năng ôm lấy, quán chiếu và chuyển hóa nó.
Nuôi dưỡng và trị liệu là mục đích của khóa tu.
Trong những khóa tu tổ chức ở Châu Âu và Bắc Mỹ thì tôi cũng chỉ dạy phương pháp đó thôi. Một là nuôi dưỡng, hai là trị liệu. Người nào cũng có những khổ đau trong thân và trong tâm; làm thế nào để nhận ra những khổ đau đó và ôm ấp để trị liệu nó là mục đích của khóa tu. Và khi người ta tới học, người ta chuyển hóa được một phần khổ đau, rồi họ mang pháp môn đó về nhà để tiếp tục thực tập cho đến khi họ có thể chuyển hóa hoàn toàn những khổ đau trong lòng họ để cho hạnh phúc có mặt. Người Huynh Trưởng phải có khả năng làm việc đó cho chính bản thân mình, phải biết nuôi dưỡng, trị liệu mình cũng như nuôi dưỡng và trị liệu cho gia đình mình, cho đoàn sinh mình. Và khi ta chăm sóc cho một đoàn sinh tức là ta cũng chăm sóc cho gia đình của người đoàn sinh đó.
Trẻ em có khả năng an trú trong hiện tại nhiều hơn người lớn. Người lớn lo lắng về tương lai, tiếc nuối quá khứ, nhưng trẻ em thì sống trong hiện tại nhiều hơn. Đức Thế Tôn dạy rằng: quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới, chỉ có giây phút mình sống cho cuộc đời mình là giây phút hiện tại. Vậy mà hầu hết chúng ta không có khả năng an trú trong hiện tại. Chúng ta chỉ muốn chạy về tương lai hoặc thả hồn về quá khứ và khi làm như vậy là chúng ta đánh mất cuộc đời của chúng ta.
Thâu lại chủ quyền
Trong kinh Bhaddharattasutta mà chúng ta dịch là ‘Kinh Người Biết Sống Một Mình’, Đức Thế Tôn có nói:
Đừng tìm về quá khứ
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi
Trong giây phút hiện tại
Đó là lời của Đức Thế Tôn dạy. Vậy thì giây phút hiện tại là giây phút duy nhất mà ta có thể sống thật sự. Đây là một sự thực tập. Không phải muốn là ta có thể làm được. Tại vì ta có thói quen rong ruổi, đánh mất mình trong thất niệm. Trong đạo Bụt ta có danh từ trầm luân. Trầm tức là chìm xuống, luân là lăn. Trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày ta có thể là đang trầm luân, đang chìm trong quên lãng và ta đang lăn lóc trong thất niệm. Ta không thức dậy được để có thể sống trong giây phút hiện tại. Trầm luân ở đâu? Trầm luân trong biển khổ, chìm đắm và trôi lăn trong biển khổ. Đó là chuyện mà ta đang làm hàng ngày. Ta không có khả năng sống an lạc và hạnh phúc trong hiện tại. Ta để quá khứ giam hãm, để tương lai đe dọa. Vì vậy chúng ta không sống được sâu sắc những giây phút của đời sống hàng ngày. Thực tập thiền là thâu lại chủ quyền, để có thể sống những giây phút của đời sống hàng ngày một cách sâu sắc. Đó là mục đích của sự thiền tập. Đức Thế Tôn có dạy một phương pháp tu mà ở các chùa, quý thầy ít khi nhắc nhở chúng ta, đó là hiện pháp lạc trú. Hiện pháp lạc trú là sống an lạc hạnh phúc ngay trong phút giây hiện tại. ‘Hiện Pháp’ có nghĩa là bây giờ và ở đây, tức là những cái gì đang xảy ra bây giờ và ở đây. Tiếng Phạn là drstadharma. ‘Lạc Trú’ nghĩa là an trú, an trú trong hạnh phúc, tiếng Phạn là sukhavihara. ‘Sukha’ là hạnh phúc và ‘vihara’ tức là an trú, là sống. Hiện pháp lạc trú tức là ‘drstadharma sukha vihara’. Giáo lý này cần phải được những người trẻ trong Gia Đình Phật Tử phát huy và xiển dương tại vì có nhiều người nghĩ tu là phải khổ, khổ như vậy rồi thì hai mươi, ba mươi năm sau sẽ được sinh về cõi Cực Lạc, cõi hạnh phúc, cõi Tịnh Độ hay Niết Bàn. Điều này trái với giáo lý của Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nói phải có hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Đừng có mong mỏi hạnh phúc trong tương lai. Trong bản chữ Nho, Đức Thế Tôn nói hiện pháp là những gì đang xảy ra trong hiện tại mà ta có thể thấy được, lạc là hạnh phúc, trú là sống. Trong bản tiếng Phạn thì Sukkha là hạnh phúc, vihara tức là trú. Sống hạnh phúc trong hiện pháp tức là trong giây phút hiện tại. Những lời Đức Thế Tôn dạy còn ghi chép rất rõ ràng trong Đại Tạng tiếng Phạn cũng như tiếng Hán. Và cái năng lượng giúp ta trở về sống an lạc trong giây phút hiện tại, năng lượng đó gọi là chánh niệm. Chữ niệm viết theo chữ Hán hay lắm: phía trên có chữ kim, có nghĩa là bây giờ; phía dưới có chữ tâm, có nghĩa là tâm của mình. Tâm trở về giây phút hiện tại là chánh niệm. Và chính năng lượng chánh niệm đó giúp cho ta trở về với giây phút hiện tại để thật sự có mặt. Nếu không có mặt thì làm sao ta có thể sống được trong giây phút hiện tại? Vì vậy ta có thể nói rằng chánh niệm là năng lượng của sự có mặt. Khi người đó ngồi mà tâm trí đang trôi lăn đâu đâu thì người đó đang sống trong thất niệm. Khi ta tới và hỏi: "Có ai ở nhà không?" thì tâm của người đó trở về. Hồn nhập vào xác trở lại! Lúc thân tâm nhất như thì người đó mới có mặt. Ta giúp cho người đó có mặt. Thành ra trong gia đình của ta, nếu có người vắng mặt, vắng đây là vắng tâm trí thì ta giúp người đó trở về. Nhiều khi tôi đi vào nhà bếp, thấy một sư chú hay một thiền sinh đang gọt cà rốt thì tôi hỏi: "Sư chú đang làm gì đó?" Sư chú hiểu liền và không bao giờ nói: "Bạch thầy con đang gọt cà rốt". Nếu sư chú mà trả lời như vậy thì tôi sẽ chê liền. Tại vì tôi thấy sư chú đang làm gì mà, đâu cần sư chú phải trả lời như vậy. Tôi hỏi như vậy để coi sư chú có đang thật sự có mặt trong lúc gọt cà rốt hay không hay là tâm của sư chú đang trôi lăn trong quá khứ hoặc trong tương lai. Thường thì sư chú sẽ trả lời: "Bạch Thầy, con đang thở". Có khi sư chú không trả lời mà chỉ mỉm cười thôi. Đó là những câu trả lời rất hay. Còn nếu sư chú trả lời: "Bạch Thầy con đang gọt cà rốt" thì hỏng. Câu hỏi của tôi: "Con đang làm gì đó?’ như là một tiếng chuông đưa ta trở về với thực tại. Ta có mặt thật sự trong giây phút hiện tại và ta thật sự đang sống. Còn nếu không có mặt trong giây phút hiện tại thì ta đâu có sống.
Nhà văn Pháp Albert Camus có kể một câu chuyện trong đó ông viết ‘có người đang sống mà như chết’, (il vit comme un mort). Người đó còn sống thiệt, nhưng mà sống như đang chết, tại vì không thật sự có mặt. Bây giờ quý vị cứ nhìn thử xung quanh đi. Ra thành phố, đứng ở một ngã tư và nhìn mọi người chung quanh trong một đám đông thì ta thấy phần lớn đều là những người chết. Tức là những người tuy thân ở đó nhưng mà tâm họ thì không ở đó. Thân tâm không nhất như, họ không sống vững chãi và thảnh thơi trong giây phút hiện tại. Và mục đích của thiền tập là sống vững chãi thảnh thơi trong giây phút hiện tại. Bụt, đời sống của Bụt, con người của Bụt là một bài thuyết pháp linh động. Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, Đức Thế Tôn cũng vững chãi, thảnh thơi và có mặt trong giây phút hiện tại. Nếu quý vị quan sát các thầy, các sư cô trong khóa tu thì quý vị cũng thấy các thầy, các sư cô cũng đang thực tập để được như vậy. Phẩm chất của sự sống, sự có mặt của quý thầy, quý sư cô lớn hơn người bình thường một chút là tại vì các thầy, các sư cô luôn luôn sử dụng hơi thở, bước chân, công việc của mình để trở về an trú trong hiện tại.
Chỉ có giây phút hiện tại để sống mà thôi
Đời sống có những khổ đau, nhưng cũng đầy mầu nhiệm trong ta và chung quanh ta. Nếu ta không có mặt trong phút giây hiện tại thì làm sao ta tiếp xúc được với những mầu nhiệm đó của sự sống và có hạnh phúc được. Ví dụ như sáng hôm nay lúc thức dậy, ta thấy mây bao phủ xung quanh núi, đẹp một cách lạ kỳ. Bây giờ cũng vẫn còn đẹp. Khi sư chú, sư cô đi thiền hành thì sư chú, sư cô an trú trong hiện tại nên sư chú, sư cô tiếp xúc được với cái đẹp đó, và thấy mình may mắn được đứng trong khung cảnh này. Sự tiếp xúc đó đưa lại chất liệu an lạc, hạnh phúc để nuôi dưỡng và trị liệu các vết thương trong thân và tâm của mình. Nếu anh vắng mặt thì làm sao anh tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống? Vì vậy anh phải có mặt. Đó là sự thực tập của chúng ta. Ví dụ như có mười lăm người đứng ngắm mặt trời lặn, mặt trời lặn có thể rất huy hoàng, ai cũng thấy cảnh mặt trời lặn mầu nhiệm vô cùng. Chúng ta nhiều người bận rộn đến nỗi không có thì giờ nhìn trời, nhìn đất để thấy cây cỏ, thấy mặt trăng lên, thấy mặt trời lặn, rất là tội nghiệp. Vậy thì mười lăm người đứng trên đồi nhìn mặt trời lặn, người nào cũng có thể thấy được cái đẹp của mặt trời lặn, nhưng có một người trong số mười lăm người không thấy được vẻ đẹp đó, tại vì người đó đang sầu đau, đang tưởng về quá khứ, đang lo sợ về tương lai cho nên người đó tuy là đứng chung với mười bốn người kia nhưng không tiếp xúc được với mặt trời lặn. Thân và tâm người đó không có mặt cùng một lúc, vì vậy người ấy không có mặt trong giây phút hiện tại và không thể tiếp xúc với cuộc sống. Đức Thế Tôn dạy:
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Và ta chỉ có phút giây hiện tại để sống mà thôi. Nếu ta không trở về giây phút hiện tại thì ta đánh mất sự sống. Vì vậy cho nên sự ước hẹn của ta đối với sự sống là trong giờ phút hiện tại. Nếu ta đánh mất giây phút hiện tại thì ta lỡ hẹn với sự sống. Quý vị thử tự hỏi mình đã lỡ hẹn với sự sống bao nhiêu lần rồi? Có nhiều người sống 40, 50 năm mà chưa bao giờ gặp được sự sống. Chúng ta hẹn gặp đủ thứ người: hẹn gặp bạn, bác sĩ, luật sư, thầy, nhưng chúng ta không chịu hẹn gặp sự sống. Mà cái hẹn đó là trong giây phút hiện tại. Ta phải trở về phút giây hiện tại để có thể tiếp xúc với sự sống. Cái năng lượng giúp cho ta trở về giây phút hiện tại là chánh niệm. Cho nên những người tu, những người xuất gia hay tại gia đều là những người đang chế tác năng lượng đó. Vậy thì nếu ta là một phụ huynh, một Huynh Trưởng mà muốn trị thương cho chính mình, muốn nuôi dưỡng cho mình, muốn đem lại chất liệu dinh dưỡng cho bản thân thì ta phải biết thực tập hiện pháp lạc trú, trở về với giây phút hiện tại và tiếp xúc với những mầu nhiệm của cuộc sống, có mặt trong giây phút hiện tại. Nếu không thì làm sao ta nuôi dưỡng, trị liệu cho ta, cho các em mà ta đang chăm sóc, và cho gia đình ta? Hiện pháp lạc trú là sự thực tập của chúng ta.
Điều kiện của hạnh phúc nằm trong giây phút hiện tại
Hai mươi năm hay ba mươi năm có thể đi qua như một giấc mộng và đến khi tới giờ phút hấp hối thì ta tự hỏi ta đã thật sự sống được bao nhiêu giây phút đồng hồ trong cuộc sống của ta? Ta sẽ ngạc nhiên mà thấy rằng ta chưa từng bao giờ thật sự sống hết. Suốt đời, ta chỉ chạy mà thôi. Ta chỉ rong ruổi, trôi lăn mà thôi. Ta chưa bao giờ thật sự sống sâu sắc được tại vì chưa bao giờ ta được học phương pháp trở về an trú trong phút giây hiện tại. Chúng ta bị sự mê tín chi phối là hạnh phúc không thể có bây giờ được, hạnh phúc phải nằm ở tương lai, nên người nào trong chúng ta cũng chạy về tương lai. Chỉ có tương lai mới có hạnh phúc. Những điều kiện của hạnh phúc ta có chưa đủ, ta còn thiếu một, hai, ba, bốn điều kiện nữa. Ban đầu ta nghĩ rằng có bằng cấp thì ta hạnh phúc. Đến khi có bằng cấp ta vẫn không hạnh phúc. Hay ta vẫn còn thiếu cái nhà, cái xe hơi? Và ta chạy đi kiếm cái điều kiện mà ta thiếu. Nhưng khi có những điều kiện đó rồi ta vẫn chưa thấy có hạnh phúc. Và như vậy ta tiếp tục chạy cả đời, không bao giờ có thể dừng lại được. Trong khi theo giáo pháp của Đức Thế Tôn thì những điều kiện của hạnh phúc đã có sẵn trong giây phút hiện tại. Nếu ta ăn trong chánh niệm, tiếp xúc sâu sắc thì ngay trong hiện tại đã có rất nhiều hạnh phúc rồi. Đôi khi nó còn nhiều hơn những gì ta thật sự cần. Một trong những ví dụ là ta có hai con mắt. Hai mắt ta còn sáng và ta chỉ cần mở mắt ra là thấy núi, mây, trời, cỏ cây, thấy khuôn mặt quen thuộc của người ta thương. Chỉ cần ngồi trên bãi cỏ ngắm nhìn mùa xuân thì ta có thể tạo ra thiên đường của thiên nhiên đầy màu sắc. Có nhiều cái đẹp quá chừng xung quanh ta nhưng ta không có khả năng hưởng và tiếp xúc. Chỉ đến khi bị mù thì ta mới biết rằng có đôi mắt sáng là quý vô cùng. Khi đã bị mù rồi thì không thể nhìn thấy hình ảnh, màu sắc nào nữa hết, lúc đó ta mới nói rằng tiếc quá, ngày xưa mình đã không biết sử dụng đôi mắt của mình. Bây giờ ao ước duy nhất của ta là có một ông bác sĩ nào có thể chữa lành đôi mắt và làm cho ta có thể thấy được hình ảnh và những màu sắc, thì khi đó ta giống như được đưa vào thiên đường của màu sắc, của hình ảnh. Nhưng thật sự chúng ta ở đây ai cũng có hai mắt sáng, đang ở trên thiên đường, nhưng có mấy ai trong chúng ta đã tiếp xúc được với thiên đường của màu sắc, của hình ảnh? Mấy ai đã hạnh phúc trong sự tiếp xúc đó? Tại vì sao? Tại vì ta không có chánh niệm, không có khả năng an trú trong hiện tại, tại vì ta tiếp tục chạy.
Ngay cả trong giấc mơ, ta vẫn tiếp tục chạy, chứ đừng nói là trong khi ta thức. Ta không dừng lại được vì ta quen chạy rồi. Ta đã chạy từ nhiều kiếp xa xưa, khi ta là tổ tiên, ông bà, cha mẹ; bây giờ làm con, ta vẫn tiếp tục chạy. Và khi ta sinh ra cháu, cháu cũng sẽ tiếp tục chạy. Cho nên Đức Thế Tôn bảo ta hãy dừng lại. Đó là thiền chỉ. Chỉ nghĩa là ngưng lại, phải ngưng lại, phải biết an trú trong phút giây hiện tại thì tự nhiên ta khám phá ra được là có rất nhiều điều kiện hạnh phúc đang có mặt cho ta và tự nhiên ta có hạnh phúc liền lập tức. Hai mắt sáng là một điều kiện căn bản của hạnh phúc. Trái tim của ta đang hoạt động bình thường là một điều kiện của hạnh phúc. Có nhiều người không có trái tim bình thường, họ có thể bị đau tim bất cứ lúc nào. Luôn luôn họ nơm nớp lo sợ. Họ chỉ mong ước có trái tim bình thường như của ta thôi mà cũng không có được. Thành ra ta có rất nhiều điều kiện hạnh phúc nhưng ta đạp lên trên đó mà đi rất uổng! Cho nên trở về với giây phút hiện tại là điều gởi gắm của Đức Thế Tôn. Ta có rất nhiều điều kiện hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Và ta có thể bắt đầu có hạnh phúc liền lập tức. Cái đó gọi là hiện pháp lạc trú.
Câu nói ‘hiện pháp lạc trú’ và ‘sống an lạc, hạnh phúc trong giây phút hiện tại’ là một câu nói rất quan trọng của Bụt nhưng mà chúng ta rất ít khi được nghe, không hiểu tại sao.
An lạc ngay trong giờ phút hiện tại là nghệ thuật của sự tu học
Nghệ thuật của sự tu học là để được đạt tới sự an lạc ngay trong giờ phút hiện tại bởi vì trong giờ phút hiện tại chúng ta đang có những điều kiện của hạnh phúc. Nếu biết trở về với giây phút hiện tại thì ta có thể tiếp xúc được với những điều kiện hạnh phúc đang có mặt trong giây phút đó. Vì vậy Đức Thế Tôn dạy là chúng ta có thể có an lạc ngay trong giờ phút hiện tại, bây giờ và ở đây, mà không cần chạy theo những cái ảo ảnh của hạnh phúc xa vời trong tương lai hay bám víu những hình bóng hạnh phúc của quá khứ. Phần lớn chúng ta không có khả năng an trú trong hiện tại. Có thể là chúng ta đang ôm ấp một hình ảnh của quá khứ mà chúng ta không buông bỏ được; có thể là chúng ta đang lo lắng, sợ hãi và mơ ước cho tương lai và vì vậy chúng ta không có khả năng an trú, không có khả năng tiếp xúc được hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Phương pháp thực tập của Đức Thế Tôn là giúp cho chúng ta trở về, an trú, vững chãi trong giây phút hiện tại, bởi vì sự sống chỉ có trong giây phút hiện tại mà thôi.
Trong Gia Đình Phật Tử có một bài mà ta hay hát mỗi khi có thầy tới. Đó là bài Kính Mến Thầy: "Hôm nay thầy về đây, chúng con xin kính chào thầy. Trong giờ phút vui này, chúng con biết làm gì đây?" Câu "chúng con biết làm gì đây" buồn cười lắm, tại vì ta mừng quá cho nên ta không biết làm gì. Rồi ta lăng xăng, lo chuyện này, lo chuyện khác cho đến khi thầy trò phải chia tay nhau. Rốt cuộc thầy với ta không được sống hạnh phúc với nhau trong giờ phút gặp gỡ. Quý vị nghĩ lại thử xem: giờ phút hiện tại mà ta được gặp người thương, người thương của ta là thầy, là các anh, các chị, là các em, thì ta phải biết an trú trong giờ phút đó để tận hưởng, để sống một cách sâu sắc niềm hạnh phúc mà ta đang có. Có rất nhiều người có những điều kiện hạnh phúc nhưng không an trú được trong hiện tại, vì vậy họ không sống được sâu sắc với những giờ phút mà đáng lý họ phải có hạnh phúc. Do đó có mặt trong giây phút hiện tại và sống sâu sắc với giây phút hiện tại là giáo lý rất sâu sắc của Đức Thế Tôn. Ta bị quá khứ ám ảnh, ta bị tương lai lôi kéo. Ta đã quên đi và đã đánh mất khả năng có thể sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Đó là vì chúng ta không an trú được. Và vì vậy cho nên sự thực tập của chúng ta phải đi theo đường lối đó. ‘Trong giờ phút vui này, chúng con biết làm gì đây?’ Rất rõ ràng là trong giờ phút vui này chúng con phải an trú trong hiện tại để có thể hưởng được một cách rất sâu sắc sự có mặt của thầy, của anh, của em, của chị. Vì vậy mời quý vị thay đổi câu đó thành: "Hôm nay thầy về đây, chúng con xin kính chào thầy. Trong giờ phút vui này, chúng con quyết lòng ngồi đây..." Ngồi với sự vững chãi, thảnh thơi, an trú trong hiện tại để có thể thấy được rằng thầy ta đang có mặt đó, Huynh Trưởng của ta đang có đó, chị ta có đó, em ta có đó, và giờ phút này là giờ phút tuyệt vời.
Có mặt cho nhau
Ta biết rằng nhiều khi thân ta ở đó mà tâm ta ở chỗ khác nên ta không thật sự có mặt. Ví dụ em ta đi tới với một nụ cười rất tươi, rất hồn nhiên, rất thơ ngây. Em tới để kiếm một chút xíu sự chú ý của ta tại vì con nít lúc nào cũng cần sự chú ý của người lớn. Nhưng tuy ta ngồi đó mà tâm ta đang rong ruổi trong quá khứ, trong tương lai, trong những sự lo lắng này kia nên ta không thật sự có mặt cho em. Và em bé sẽ thất vọng. Ta không có mặt đó cho em ta, ta không có mặt đó cho con ta, ta không có mặt đó cho cha, cho mẹ ta, ta luôn luôn vắng mặt. Có khi ta sống với mẹ ta mười năm, hai mươi năm mà tâm ta không bao giờ an trú và chưa bao giờ ta từng thật sự có mẹ và sống bên cạnh mẹ. Một ngày nào đó mẹ ta mất rồi thì ta mới tiếc. Ta nói rằng mình sống bên mẹ mười năm, hai mươi năm nhưng chưa bao giờ ta thật sự sống được một cách sâu sắc những giây phút bên cạnh mẹ. Đó là thông điệp của đoản văn "Bông Hồng Cài Áo". Ta cũng vậy, ta sống bên cạnh những người thương của mình nhưng ta không có khả năng an trú trong giây phút hiện tại. Vì vậy cho nên cùng sống dưới một mái nhà mà không hẳn là sống dưới một mái nhà. Chúng ta không có mặt cho nhau tại vì chúng ta bị quá khứ lôi, bị tương lai kéo. Ta không an trú được trong giây phút hiện tại và ta không thừa hưởng được những điều kiện của hạnh phúc đang có mặt trong giây phút hiện tại. Những điều kiện đó có rất nhiều nhưng khi ta dẫm lên chúng mà đi qua rồi thì ta than rằng ta không có hạnh phúc. Khi ta thực tập hơi thở có ý thức thì một phép lạ sẽ xảy ra. Tuy thân ta ngồi đây mà tâm ta đang rong ruổi ở chỗ khác nhưng giữa thân và tâm có một sự liên kết gọi là hơi thở. Khi thân đi một đường và tâm đi một nẻo thì ta ở trong trạng thái không có mặt thật sự. Trạng thái này danh từ Phật học gọi là ‘thất niệm’.
Chánh niệm là có mặt đích thật
Thất niệm có nghĩa là quên lãng. Ở giữa thân và tâm có một cây cầu. Cây cầu đó là hơi thở và khi ta nắm lấy hơi thở, thở một cách có chánh niệm: "Tôi đang thở vào và tôi biết tôi đang thở vào. Tôi đang thở ra và tôi biết tôi đang thở ra", cái đó gọi là hơi thở chánh niệm. Ta chỉ cần thở một hoặc hai hơi có ý thức như vậy thì tự nhiên thân và tâm ta trở lại và đoàn tụ với nhau. Thân và tâm mà trở về với nhau thì ta thật sự có mặt trong giây phút hiện tại. Trong kinh gọi là trạng thái "thân tâm nhất như", tức là thân với tâm hòa hợp lại, thành ra một. Đó là trạng thái của sự có mặt thật sự, trạng thái của sự tỉnh thức và chỉ cần một hơi thở chánh niệm, hai hơi thở chánh niệm là có thể đưa ta về trạng thái "thân tâm nhất như" rồi. Khi ngồi, khi đứng, khi đi, và cả khi lái xe, nếu ta biết thở vào và thở ra có chánh niệm thì ta đem thân về hợp nhất với tâm và ta tự nhiên có mặt. Có mặt ở đâu? Có mặt ở trong hiện tại. Có mặt ở trong cái bây giờ và ở đây. Đó là bắt đầu trạng thái tỉnh thức. Bụt là người tỉnh thức, tại vì Bụt luôn luôn có mặt khi mà chúng ta thở những hơi thở có ý thức. Khi đi mà ta biết là ta đang bước đi, tức là có ý thức về thân ta đang đi, thì lúc ấy chánh niệm có trong ta. Khi ăn cơm mà ý thức là ta đang ăn cơm, thì lúc đó gọi là ăn trong chánh niệm. Khi rửa bát mà ta rửa bát có chánh niệm thì năng lượng chánh niệm có trong ta. Có hai cách rửa bát: một là vừa rửa bát vừa nghĩ vẩn vơ, nghĩ chuyện này chuyện khác, đánh mất mình trong quá khứ, trong tương lai, trong sự lo lắng, trong sự buồn khổ, trong sự giận hờn. Đó là rửa bát trong thất niệm. Còn nếu biết tu thì ta phải rửa bát trong chánh niệm, tức là ta có mặt hoàn toàn trong giây phút rửa bát. Ta biết rằng ta đang sống và rửa bát cũng là một phép lạ. Rửa bát có thể là một hành động tu tập rất sâu sắc, ta có thể có an lạc và hạnh phúc ngay trong khi đang rửa bát. An trú trong hiện tại. Giờ phút rửa bát cũng quan trọng như giờ phút ngồi thiền, giờ phút niệm Bụt hay giờ phút họp đoàn bởi vì trong giờ phút đó, chánh niệm có mặt. Chánh niệm có mặt tức là Đức Thế Tôn có mặt. Đức Thế Tôn được làm bằng một chất liệu gọi là chánh niệm. Và vì vậy cho nên ngài luôn luôn có mặt ở trong giây phút hiện tại. Ngài có mặt nên sự sống cũng có mặt. Nếu ta không có mặt thì làm sao mà sự sống có mặt được? Bụt dạy: "Sự sống chỉ có thể tìm ra, chỉ có thể tiếp xúc được trong giây phút hiện tại mà thôi". Ngài đã nói:
Đừng luyến tiếc quá khứ
Đừng mơ tưởng tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Sự sống chỉ có thể được tiếp xúc trong giây phút hiện tại.
Vì vậy khi ta trở về với giây phút hiện tại, thân và tâm hợp nhất thì ta có thể tiếp xúc được với sự sống. Lúc đó ta là một con người thực sự sống. Lúc đó ta mới thực sự có mặt. Ví dụ như khi ta ngồi hay đứng nhìn cảnh mặt trời mọc. Cảnh mặt trời mọc rất huy hoàng, rất tráng lệ. Nhưng nếu ta đứng đó mà tâm chỉ nghĩ tới quá khứ, nghĩ tới tương lai và tâm bị kẹt trong sự lo lắng, sợ hãi, buồn phiền thì cảnh mặt trời huy hoàng đang mọc đó không phải cho ta, nó không thật sự có mặt. Chỉ khi nào thân tâm ta hợp nhất và có mặt một cách đích thực trong giờ phút hiện tại thì cái cảnh tráng lệ của mặt trời mọc mới là cho ta mà thôi. Vì vậy cho nên thực tập chánh niệm tức là làm cho mình có mặt thật sự và sống động. Đó là sự thực tập căn bản của đạo Bụt gọi là ‘hiện pháp lạc trú’. Nếu ta có mặt thì tất cả những mầu nhiệm của sự sống đều có mặt cho ta. Mẹ ta, em ta, thầy ta, đoàn ta là một hiện tượng mầu nhiệm của sự sống. Mặt trời mọc, đám mây, cây ổi, bông hường, tất cả những cái đó đều có mặt đích thực nếu ta có mặt đích thực. Vì vậy cho nên sự thực tập của chúng ta là có mặt. Khi chúng ta được gặp mặt nhau như thế này thì chúng ta phải thực tập thật sự có mặt để ta có thể hưởng được sự có mặt của nhau, sự có mặt của thầy và sự có mặt của một cơ hội rất lớn. Đó là cơ hội được ngồi với nhau, được đứng với nhau, được thở với nhau, được đi thiền hành với nhau và được quán chiếu với nhau về quá khứ, hiện tại, và tương lai của Gia Đình Phật Tử.
"Nam mô A Di Đà Phật, hôm nay thầy về đây, chúng con xin kính chào thầy". Kính chào thầy chỉ cần xá một cái, đâu cần phải có thì giờ nhiều. "Trong giờ phút vui này, chúng con biết làm gì đây?" Bây giờ thì ta biết làm gì rồi đó! Chúng con quyết tâm có mặt tại đây để chúng con có thể hưởng được sự có mặt của thầy và của tất cả các bạn trong giây phút này. "Chúng con nguyện tinh tấn, diệt tan tham sân hận... Ánh đạo hằng mong tiến đến gần." Tôi đề nghị như vậy vì chánh niệm là bản chất của sự tu học của mình. Năng lượng chánh niệm càng lớn thì ta càng có mặt đích thực. Vì vậy ta tu tập làm sao cho năng lượng chánh niệm càng tăng tiến, vững bền. Câu này có thể thay cho câu "ánh đạo hằng mong tiến đến gần". Ta không cần mong "tiến đến gần" ánh đạo. Ta thực tập thở, thực tập đi, thực tập ngồi cho có chánh niệm thì năng lượng của chánh niệm tự nhiên tăng tiến, đó không còn là một điều mong ước, chúc lành mà là sự thật đang xảy ra.
Lãnh thổ của Bụt
Phòng thở
Trong thế kỷ thứ 21, mỗi nhà đều phải có một căn phòng, gọi là phòng tĩnh tâm, thiền phòng, hoặc phòng thở (breathing room). Trong nhà, chúng ta có đủ thứ phòng: phòng khách, phòng bếp, phòng ăn, phòng ngủ, nhưng chúng ta còn thiếu một căn phòng để dành cho đời sống tâm linh của ta. Có nhiều lúc ta cần nuôi dưỡng ta, tĩnh tâm, lấy lại niềm vui và sự thăng bằng trong thân và tâm. Vì vậy ta cần thiết lập một phòng thở trong gia đình để có dịp cho cha mẹ và con cái thực tập với nhau. Đó là lãnh thổ của an bình, tĩnh tâm và chánh niệm. Mỗi khi ta bước vào phòng là bước vào lãnh thổ của Đức Thế Tôn. Ta bước rất nhẹ và chánh niệm, tại vì có Đức Thế Tôn đang ngự tọa ở trong phòng.
Căn phòng đó nhỏ thôi, hai hoặc ba thước cũng được. Ta không cần phải trang trí nhiều. Ta chỉ cần một cái bàn nho nhỏ, một bình hoa với một bông hoa. Quan trọng nhất là ta có một cái chuông nhỏ. Nếu ta tìm thấy một tượng Bụt rất đẹp, có nụ cười mà khi nhìn vào ta cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát thì mới nên thỉnh về, không thì ta nên chờ đợi. Trong khi chờ đợi, ta cắm một bông hoa vào trong bình. Bông hoa đó tượng trưng cho Đức Thế Tôn. Ta xá bông hoa là xá Đức Thế Tôn. Ít nhất bông hoa cũng có sự tươi mát và sự mầu nhiệm, xứng đáng đại diện cho cả vũ trụ. Vì vậy bông hoa xứng đáng đại diện cho Đức Thế Tôn trong khi chúng ta chờ đợi một tượng Bụt thật đẹp mà nhìn vào ta cảm thấy hoan hỉ và hạnh phúc.
Mỗi khi ta bất an, giận hờn, buồn tủi thì ta có thể đi vào trong phòng thở đó để thực tập thở với tiếng chuông. Tiếng chuông phải được xem như tiếng gọi của Đức Thế Tôn gọi ta trở về với tự tâm, để ta có thể làm mới lại thân tâm, để ta có thể khôi phục lại được sự vững chãi, thảnh thơi và an vui trong hiện tại. Trong gia đình chúng ta phải ký một hiệp ước với nhau là mỗi khi có người thực tập ở trong phòng thở, thỉnh chuông thì tất cả những người khác phải tắt hết các máy cassette, radio, Ti-vi vì giờ đó có người đang sử dụng phòng thở. Và nếu ta đang làm công việc gì như đang học bài, đang nấu bếp thì ta phải làm những công việc đó một cách rất im lặng, tôn trọng sự thực tập của người kia. Tại vì người kia đang bất an, đang giận dữ, đang buồn tủi nên người đó đang cần sự thanh tịnh để thực tập thì ta cũng thực tập như vậy. Điều này không có gì mới vì trong chùa cũng vậy, buổi sáng trong giờ công phu và thiền tọa thì dưới bếp cũng có các thầy, các sư chú đến phiên phải làm thức ăn sáng cho đại chúng nhưng tất cả mọi người đều làm trong im lặng, theo dõi hơi thở và lắng nghe tiếng chuông cũng như tiếng kinh. Trong gia đình ta cũng có thể bắt chước như vậy.
Có một nền văn minh gọi là nền văn minh tu viện (monastic culture, monastic civilization) và nền văn minh đó có thể chia sẻ bớt cho thế gian. Những phương pháp được thực tập trong tu viện đó đều có thể đem chia sẻ với những người cư sĩ sống ở thế gian, trong gia đình và trong xã hội. Vậy thì cái phòng thở đó trong gia đình là một thiền đường rất nhỏ và chúng ta có không gian để làm mới lại thân tâm. Chúng ta có không gian để có thể khôi phục lại được sự thanh tịnh, vững chãi và thảnh thơi của chúng ta. Vì vậy cho nên tất cả mọi người trong gia đình, từ cha mẹ đến con cái đều phải tôn trọng cái không gian đó và chỉ vào trong phòng thở những lúc mình thực tập thôi, không được dùng phòng thở vào những mục đích khác.
Món quà lớn nhất cho con là hạnh phúc của cha mẹ
Ở nhiều gia đình không khí có thể trở thành ngột ngạt rất mau chóng. Nhiều khi cha nói một câu gì đó và mẹ đau khổ, mẹ khóc hay là mẹ nói một câu gì đó làm cho cha bực bội rồi không khí gia đình trở nên khó thở. Đứa con sống trong không khí đó không được lành mạnh lắm và khi cha mẹ làm khổ nhau thì đứa con bị vết thương trong trái tim. Trái tim của em còn ngây thơ, dễ bị tổn thương. Mỗi khi nghe ba nói nặng mẹ một câu, mẹ khóc, cha nổi trận lôi đình thì trái tim em bé đi qua một vùng bão tố lớn. Khi người lớn nổi giận, làm khổ nhau thì không để ý tới điều đó. Ta gây thương tích trong trái tim của đứa con ta mà không biết. Đứa bé lớn lên, sẽ giữ mãi thương tích đó. Nhiều người trẻ nói rằng món quà lớn nhất mà cha mẹ có thể để lại cho con cái là sự hạnh phúc của chính hai người. Nếu cha mẹ không có hạnh phúc, làm khổ nhau thì không giữ được gì cho con hết. Đứa con không cần tới một chiếc xe hơi, một trương mục, hay một căn nhà lầu. Nó cần nhất là hạnh phúc, không khí đầm ấm của gia đình, nơi mà em được nuôi dưỡng và lớn lên. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói của trẻ thơ.
Ngày xưa khi còn ở Việt Nam, chúng ta có những ngôi nhà với vườn lớn, ao, hồ xung quanh. Khi đau khổ, em bé có thể chạy ra vườn hoặc chạy qua nhà một người dì, người cô, người chú để than thở và trốn tránh. Bây giờ ở chung cư, em bé không có cách nào để chạy thoát không khí nặng nề và ngạt thở đó. Nó vô trong toilet, đóng cửa lại nhưng vẫn không thoát. Tiếng cha mẹ cãi nhau, làm khổ nhau vẫn vọng vào trong toilet như thường. Nếu có được phòng thở, em bé có thể trốn vào đó và thỉnh lên một tiếng chuông thì cả cha mẹ đều nghe tiếng chuông đó, đều biết rằng mình đang làm khổ con và sẽ ngừng lại sự cãi lộn hay làm khổ nhau. Thành ra tiếng chuông mà em bé thỉnh trong phòng thở là một tiếng kêu cứu rất lớn, kêu cứu Bụt và kêu cứu cha mẹ.
Tiếng chuông chánh niệm
Nếu ta là một gia đình tin Phật thì ta phải cam kết với nhau, cam kết giữa cha mẹ và con cái là mỗi khi nghe một tiếng chuông thì tất cả đều ngừng lại để thở và để khôi phục lại sự thanh tịnh, an lạc trong chính mình. Phòng thở đó là lãnh thổ của an lạc, hòa bình và hòa thuận. Khi mà chúng ta đã vào phòng thở ngồi rồi thì không ai có quyền đi theo. Những khi em bé bị la rầy mà đi vào phòng thở, ngồi thỉnh chuông thực tập thì cha mẹ không có quyền đi theo để mà la mắng. Mỗi khi người vợ đau buồn, khổ sở thì thay vì vào trong phòng đóng cửa khóa lại mà khóc một mình thì nên học đi thiền hành về phía phòng thở, mở cửa phòng ra xá Đức Thế Tôn, thỉnh chuông và ngồi xuống thực tập. Khi tiếng chuông vọng lên thì người chồng biết là vợ đang đau khổ và người chồng sẽ quán xét trở lại xem mình đã nói gì, đã làm gì để cho người hôn phối của mình đau khổ. Những đứa con cũng vậy, biết là mẹ đang đau khổ và các con sẽ nhẹ nhàng hơn, im lặng hơn trong các động tác hàng ngày.
Mỗi buổi sáng, trước khi đi làm hoặc đi học, chúng ta dành ra hai hoặc ba phút, mở cửa phòng thở, bước vào nhẹ nhàng. Ta khép cửa lại, xá Bụt hoặc bông hoa, ngồi xuống và bắt đầu thỉnh chuông. Chúng ta thở ba hơi "thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười". Chúng ta thực tập ba tiếng chuông là chín hơi thở, rồi đứng dậy xá Đức Thế Tôn và đi làm. Nếu con chúng ta còn đi học thì ta cũng dạy cho các con, sau khi mặc áo, soạn sách vở xong thì đến phòng thở, để cặp ở bên ngoài, mở cửa nhẹ nhàng, thở vào thở ra rồi bước vào trong phòng. Khi bước vào phòng, cháu hướng về bàn thờ xá Bụt hoặc xá bông hoa một cái, rồi ngồi xuống và thực tập thỉnh chuông y như vậy. Thở được chín hơi, cháu đứng dậy, xá Đức Thế Tôn, mở cửa đi ra ngoài, cầm cặp sách và đi học. Chúng ta phải thực tập như vậy.
Thường thường, người ta hay chúc nhau có một ngày đẹp ("Have a nice day"), nhưng đó chỉ là chúc tụng, còn đây là sự thực tập. Nếu chúng ta bắt đầu ngày mới bằng những hơi thở nhẹ nhàng chánh niệm và nụ cười thì chúng ta đã bắt đầu bằng một ngày rất đẹp rồi. Ta thật sự bắt đầu một ngày đẹp bởi sự thực tập của ta, chứ không cần ai chúc tụng cả. Chúc thì cũng tốt, nhưng quan trọng là mình thật sự có được một ngày rất an lạc. Trước khi đi ngủ chúng ta cũng thực tập giống như buổi sáng, ngồi xuống thỉnh ba tiếng chuông, tập thở trước khi đi ngủ. Ta cần phải làm như vậy và tập cho các con chúng ta làm như vậy. Đó là một nếp sống rất đẹp.
Trong các gia đình Thiên Chúa giáo, trước khi đi ngủ các em bé chắp tay cầu nguyện. Bây giờ không còn nhiều em làm như vậy nữa, nhưng ngày xưa, trước khi lên giường em quỳ dưới chân giường nói chuyện với Chúa một, hai câu rất đẹp. Đức Thế Tôn là người mà chúng ta kính trọng và yêu mến. Ta phải nói chuyện với Đức Thế Tôn, tại vì Đức Thế Tôn nằm ngay trong trái tim của chúng ta. Mỗi khi em bé khóc, khổ đau và giận hờn thì người mẹ, hoặc người cha phải nói với con: "Con cầm tay cha và hai cha con mình đi vào trong phòng thở, cùng thực tập với nhau". Ta nắm tay em bé với tất cả tình thương, dắt em bé đi từng bước vững chãi và nhẹ nhàng tới phòng thở. Từ giây phút được cha hay mẹ nắm tay thì em bé đã thấy đỡ rồi. Có cha, mẹ biết thực tập, hướng dẫn cho mình thực tập, là một sự kiện rất mầu nhiệm. Ta mở cửa phòng thở, bước vào, đóng cửa lại nhẹ nhàng, xá Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống và bắt đầu thỉnh chuông. Hai cha con hoặc hai mẹ con ngồi thực tập với nhau, giúp em bé lấy lại sự trầm tĩnh trong trái tim. Đó là một hành động rất đẹp trong gia đình. Chúng ta có thể mua một bức tranh rất là mắc tiền của Van Gogh. Nhưng bức tranh đó sẽ không đẹp bằng cảnh tượng hai mẹ con, hai cha con ngồi xuống thực tập với nhau. Khi người kia nói một câu xúc phạm tới ta, làm cho ta đau khổ, thay vì cãi lại, ta trở về chăm sóc cái giận của ta. Ta đứng dậy, theo dõi hơi thở và bước về phía phòng thở. Thấy như vậy, người kia phải biết trách nhiệm của mình. Họ đã nói gì, đã làm gì khiến cho ta đau khổ. Đó là tiếng chuông chánh niệm. Thấy ta thực tập, tự nhiên người đó phát khởi trong tâm sự cung kính đối với ta.
Lập phòng thở là một hành động cần thiết
Trong nhà, ta có tất cả các phòng cho mọi sinh hoạt khác mà chúng ta không có một phòng nào cho hệ thần kinh của ta. Hệ thần kinh của chúng ta bị đánh động nhiều lần trong một ngày. Những lúc giận, buồn, hay tuyệt vọng thì ta không có chỗ trú ẩn. Vì vậy thiết lập một phòng thở trong gia đình là một hành động cần thiết. Là người Huynh Trưởng, chúng ta phải khuyến khích các em về nói với ba mẹ thiết lập một phòng thở cho các em. "Gia đình em có phòng thở không? Chưa có à? Có cần anh nói với ba mẹ không?" Những người trong gia đình không có cơ hội ngồi im lặng, tập thở với nhau, là một thiếu sót rất lớn. Người Huynh Trưởng phải làm thế nào để cho tất cả các em đều có một phòng thở ở trong nhà. Dĩ nhiên người Huynh Trưởng phải có phòng thở của chính mình ở trong nhà. Một ngày nào đó anh hay chị mời tất cả các em tới thăm phòng thở của ta, làm thiền trà ở trong đó. Phòng thở của anh như vậy đó và mỗi khi anh buồn, anh giận, anh không có bình an trong tâm thì anh sử dụng phòng thở này để lấy lại vững chãi, thảnh thơi và an lạc của anh. Anh mong các em cũng có một phòng thở như vậy trong nhà của các em. Rồi ta hỏi các em: "Phòng thở của em đã sắp đặt xong chưa? Chừng nào chúng ta có thể đến để khánh thành phòng thở ở nhà em? Chúng ta sẽ tổ chức một buổi thiền trà nhỏ để đánh dấu ngày bắt đầu sự thực tập của gia đình em."
Thưa quý vị, đã có hàng chục ngàn đệ tử ngoại quốc của tôi thiết lập phòng thở trong nhà của họ và thực tập theo những lời chỉ dẫn đó. Vì vậy chúng ta, những người trong Gia Đình Phật Tử, cần cấp tốc thiết lập phòng thở. Chúng ta chỉ cần một cái gối ngồi thiền, một bình hoa, và quan trọng nhất là một cái chuông nhỏ. Mọi người đều phải im lặng khi có người trong nhà vào phòng thở và thỉnh chuông. Tiếng chuông đó gọi ta trở về giây phút hiện tại với Đức Thế Tôn, tĩnh lặng và mỉm cười.
Nếu chúng ta có phòng thở thì sự an lành hạnh phúc trong gia đình sẽ tăng tiến rất mau, nội trong một tuần lễ thôi là không khí gia đình đã đổi khác. Chúng ta phải tận dụng sự có mặt của phòng thở trong nhà chúng ta. Vì vậy một trong những pháp môn mà các Huynh Trưởng cần thực hiện là làm thế nào cho tất cả những đoàn sinh của đoàn Oanh Vũ, đoàn Thiếu Niên, hay tất cả mọi người đều có một phòng thở trong gia đình. Ta phải hỏi thăm, đôn đốc, làm sao mà trong vòng một năm tất cả các đoàn sinh trong nhà đều phải có phòng thở hết.
Cái bánh trong tủ lạnh
Có một phương pháp thực tập mà chúng tôi hướng dẫn cho các em thiếu nhi Tây Phương để các em xử dụng khi ba má các em đang cãi vã, làm khổ nhau, đó là phương pháp ‘Cái bánh trong tủ lạnh’. Rất nhiều thiếu nhi Hoa Kỳ và Âu Châu đã tiếp nhận phương pháp đó và đã thực tập rất thành công. Mỗi khi ba má cãi vã nhau, lớn tiếng với nhau thì không khí trong gia đình trở nên ngột ngạt, khó thở, các đứa con trở thành nạn nhân, ngộp thở và gánh chịu tất cả những lời chua chát, đay nghiến... của cha mẹ. Chúng không biết phải làm gì và ngồi đó chịu trận. Nhưng đâu phải chỉ có những người con mới bị ngộp thở, cả hai vợ chồng cũng bị ngộp thở, cũng chịu chết mà không có cách gì để thoát ra. Trong tình thế như vậy thì phương pháp ‘Cái bánh trong tủ lạnh’ có thể giúp cả gia đình thoát ra được cái bầu không khí ngột ngạt đó. Phương pháp là như thế này: Khi em bé thấy không khí trong gia đình quá ngột ngạt, khó thở, thấy mình đau khổ quá, trái tim bị xiết chặt lại, thân thể bị tê cứng lại, thì em lập tức trở về với hơi thở chánh niệm: thở vào ba hơi, thở ra ba hơi thật thoải mái rồi em thốt lên một câu thần chú: "Má ơi, hình như là mình có cái bánh ở trong tủ lạnh phải không?" Đó là một câu thần chú. Em bé chỉ cần thốt lên câu thần chú ấy thì tức khắc ba má sẽ hiểu. Câu đó có nghĩa là: "Ba má ơi, con đang khổ lắm. Ba má làm khổ nhau và điều đó làm khổ con." Nhưng em bé không cần nói trực tiếp như vậy, em bé chỉ cần nói: "Má ơi (hoặc ba ơi), hình như là mình có cái bánh ở trong tủ lạnh phải không?" Thì lúc đó cả ba và má đều thấy được tâm trạng của người con. Lúc đó mẹ có thể vin vào câu nói đó để tiếp: "Đúng rồi con, tại sao con không đi vô lấy cái bánh đó rồi con đem tách trà ra sau vườn đặt lên bàn, má sẽ đi làm trà, pha cà phê cho ba con." Thế là em bé có cơ hội chạy thoát vào bếp, má cũng có cơ hội để đi vào bếp làm trà hay pha cà phê. Ông chồng sẽ cảm thấy hơi quê nếu ngồi trơ ra đó một mình vì ông biết rằng con mình đang đau khổ, vợ mình đang đau khổ; hai người đã nghe lời Sư Ông dạy và đang thực tập để thoát ra khỏi tình trạng nặng nề. Hai mẹ con đang cố gắng thực tập để phá vòng vây của sự hờn giận, thì là một người chồng, một người cha, mình cũng nên đóng góp vào một tay, mình có thể đi vào Phòng Thở để thỉnh chuông và thực tập thở trong chánh niệm. Ta thấy rõ ràng là hai vợ chồng và đứa con, cả ba người, đều biết thực tập theo lời dạy của Đức Thế Tôn. Đó là điều rất đẹp. Cho nên việc thiết lập Phòng Thở trong nhà rất quan trọng. Trong Phòng Thở chỉ cần có một cái chuông nhỏ, một bình hoa và thêm gì nữa tùy thích của quý vị. Trong nhà, chúng ta có phòng ngủ, phòng tắm, phòng ăn, phòng khách... nhưng có thể chúng ta chưa có Phòng Thở. Nếu chưa có thì tôi đề nghị quý vị nên mau chóng thiết lập một Phòng Thở trong nhà để thực tập. Có thể quý vị sẽ hỏi, các cháu sẽ hỏi: "Nhưng lỡ trong lúc đó trong tủ lạnh không có cái bánh thì sao?" Có cái bánh hay không có cái bánh, điều đó không quan trọng. Quan trọng là quý vị cứ nói câu ‘thần chú’ đó ra, tại vì Cái Bánh mà Sư Ông trao cho có công năng rất mầu nhiệm, có thể giải cứu được tình trạng khó thở, bế tắc, quý vị không thể thấy được đâu. Thành ra nếu trong tủ lạnh không có cái bánh, thì quý vị vẫn cứ nói như thường; nếu không nói với mẹ, thì nói với ba: "Ba ơi, hình như trong tủ lạnh có cái bánh!" Đó là lời kêu cứu của người con và ba có thể nương vào đó rồi nói: ‘‘Đúng rồi! Đúng rồi! Cha con mình vô bếp để lấy cái bánh.’’ Người mẹ cũng có thể căn cứ vào đó để nói: ‘‘Anh và con đi lấy bánh còn để em vô pha cà phê, pha trà.’’ Thế là trong cả ba người đều thoát ra khỏi tình trạng khó khăn trong vòng một hoặc hai phút đồng hồ. Nếu để cho cái không khí nặng nề đó kéo dài một giờ, hai giờ hoặc ba giờ thì tội nghiệp cho cả ba người, chứ không phải chỉ tội nghiệp cho đứa bé mà thôi. Đó gọi là pháp môn ‘Cái bánh trong tủ lạnh’. Quý vị có thể đem dạy cho các em Oanh Vũ để các em đem về thực tập mỗi khi ba mẹ các em gây gổ, lớn tiếng với nhau. Tuy nhiên quý vị cũng nên chia sẻ pháp môn này cho các bậc cha mẹ của các em để họ có thể thực tập chung với các em. Pháp môn ‘Cái bánh trong tủ lạnh’ không phải chỉ dành riêng cho các em mà thôi, các bậc cha mẹ cũng có thể thực tập được. Mỗi khi vợ chồng gây gổ với nhau và tình trạng trong gia đình trở nên khó thở, bế tắc thì ta thực tập: Thở vào, tâm tĩnh lặng. Thở ra, miệng mỉm cười. Rồi ta nói với con câu ‘thần chú’ đó, bởi vì bây giờ nói với vợ hơi khó, ta đang giận mà. Vì vậy ta phải nhờ người thứ ba. Có người thứ ba là đỡ lắm. Thầy luôn khuyến khích các thầy, các sư cô và sư chú nên ở ba người một phòng, vì lỡ hai người có giận nhau thì còn có người thứ ba cứu vãn tình thế. Sau này các tu viện nên xây những tăng xá mà trong đó các liêu phòng có ít nhất là ba giường ngủ. Ta giận vợ chứ ta đâu có giận con; thành ra ta có thể dễ dàng nói với con rằng: "Con ơi, hình như là mình có bánh ở trong tủ lạnh, đó con!" Ta muốn làm hòa với vợ nhưng ta còn hơi mắc cỡ, thành ra ta nói chuyện với con dễ hơn. Đây là tâm lý chung của nhiều người. Em bé rất thông minh, lanh lẹ nói: "Đúng rồi ba, để con vô lấy nghe." Rồi em bé thoát khỏi cái bầu không khí ngột ngạt ấy và ta cũng đi theo em bé. Trong lúc đó vợ ta đứng một mình cũng quê, nên bà sẽ đi vào Phòng Thở, ngồi yên lại, thỉnh lên ba tiếng chuông và thực tập thở. Đó là một hình ảnh rất đẹp trong gia đình. Chúng ta có đau khổ, có vụng về nhưng chúng ta biết cách vượt ra khỏi những đau khổ, những vụng về để tái tạo lại sự an lạc cho gia đình. Đó là sự thực tập. Chúng ta vẫn còn là con người phàm phu, vì thế chúng ta không thể tránh khỏi được những giây phút vụng về, gây ra lầm lỡ, nhưng nếu lầm lỡ mà không biết cách thoát ra và chuyển hóa thì ta sẽ vẫn tiếp tục đau khổ triền miên. Nếu ta biết chuyển hóa thì ta có thể thoát ra được. Nếu các đệ tử của tôi thực tập được như vậy thì tôi lấy làm rất hãnh diện vì đệ tử của tôi biết thực tập những điều tôi dạy. Pháp môn ‘Cái bánh trong tủ lạnh’ nghe có vẻ đơn giản, nhưng nó rất mầu nhiệm có thể giúp ta thoát ra khỏi cái tình trạng nặng nề khổ đau, đem lại sự an vui cho gia đình.
Làm mới
Phương pháp tưới hoa
Tại đoàn quán, chúng ta cũng tập cho các em phương pháp làm mới. Làm mới tức là làm cho mới tinh trở lại, không còn vết gợn của sự giận hờn, dù nhỏ cách mấy đi nữa. Khi có sự giận hờn và sự hiểu lầm, dù nhỏ cách mấy chúng ta cũng đừng nên bỏ qua. Ta phải tẩy cho thật sạch như là một chiếc áo của Oanh Vũ, không có một vết mực, vết dơ nào trên đó hết. Ta giặt cho thật sạch. Tâm của chúng ta cũng vậy. Giữa anh Huynh Trưởng và em đoàn sinh, nếu mà có sự hiểu lầm, xích mích, giận hờn thì ta nhất định đừng để lâu, hãy làm mới liền. Phương pháp làm mới là chúng ta ngồi một vòng tròn năm hoặc bảy người, ở giữa có một bình hoa. Trước hết chúng ta thực tập tưới hoa.
Trong bài học trước, chúng ta đã học về ‘tấn’, tức là tinh tấn, là tứ chánh cần. Những hạt giống nào tốt của các anh, các chị, các em, ta phải biết tưới cho nó lớn. Nếu thấy em Oanh Vũ có những tài năng và đức tính tốt gì thì trong khi cầm bông hoa, ta nói: "Nơi em có hạt giống này rất là tốt, anh (chị) rất mừng thấy em có hạt giống đó, hạt giống của sự siêng năng, hạt giống của sự biết vâng lời người lớn." Phải khen em. Khen không có nghĩa là nịnh. Ta chỉ nói sự thật thôi. Ta không tưới tẩm những hạt giống tốt của em thì tội nghiệp cho nó. Nếu ta là em, mà thấy anh mình có hạt giống tốt thì cũng phải biết tưới tẩm: "Anh là Huynh Trưởng tuyệt vời của em, em chưa thấy ai thương đoàn sinh như là anh. Anh hy sinh, anh ở xa nhưng mà thấy có chuyện gì là anh tới liền." Ta nói với người Huynh Trưởng của ta như vậy. Ta phải nhận diện những hạt giống tốt để mà tưới tẩm. Ta tưới tẩm cho nhau, cho các em của ta, cho trong đoàn có hạnh phúc. Tưới tẩm những hạt giống tốt thì niềm vui đến rất mau. Chỉ cần mười lăm phút là người kia tươi lên như hoa. Nếu các đoàn sinh Gia Đình Phật Tử, các vị Huynh Trưởng mà không biết pháp môn tưới hoa thì uổng lắm, uổng vô cùng. Kết quả của sự thực tập này mau hơn là pha cà phê uống liền nữa, mau hơn là làm mì ăn liền. Quý vị hãy thử đi. Chúng ta có rất nhiều pháp môn thực tập mang lại hạnh phúc rất mau chóng, ở trong đoàn quán cũng như ở trong gia đình.
Phương pháp hóa giải
Nếu ta có nỗi buồn khổ gì thì ta xin được nói ra, nhưng trước hết ta để nỗi buồn khổ của ta qua một bên để tưới hoa cho các em, các anh, các chị trước, xong rồi ta mới nói: "Em có một nỗi buồn, em xin được nói!" Ta nói điều đó ra bằng ngôn từ gọi là ‘hòa ái’. Nói xong ta chắp tay xá, rồi để hoa lại chỗ cũ. Sau đó, vị điều hợp hỏi có ai muốn chia sẻ gì thì nói tiếp. Sau khi tưới hoa và nói được chuyện buồn ra rồi thì chúng ta giải tán. Chúng ta không trả lời ngay, mà phải đợi ba, bốn, năm ngày, hoặc cả tuần sau mới trả lời. Nếu thấy người đó đau khổ vì hiểu lầm thì ta tới nói chuyện riêng với người đó và giải thích sự hiểu lầm. Ta có thể nói: "Hồi nãy nghe em nói, anh thấy tội nghiệp quá. Em hiểu lầm cho nên em mới khổ. Sự thật là như thế này..." Ta giải thích cho em nghe. Rồi chính em đó, trong dịp làm mới sau, có thể nói: "Hôm trước em có nói lên nỗi đau của em, nhưng đó là do tri giác sai lầm mà em khổ, chứ anh Huynh Trưởng của em không có ý làm cho em đau khổ." Chính em nói ra thì anh Huynh Trưởng không phải tự mình thanh minh gì hết. Nhưng ta phải đợi đến lúc hai anh em vui với nhau rồi mới nói: "Hôm trước em nói điều khổ đau của em, anh rất là thương. Anh thấy em khổ mấy ngày tội nghiệp quá, nhưng mà anh muốn nói cho em biết rằng em khổ như vậy là tại em hiểu lầm rồi. Anh đâu có muốn làm như vậy đâu." Giải thích cho em, em sẽ hiểu và tự ý em sẽ đính chính kỳ sau. Ta không cần phải đính chính thì hay lắm.
Trong đoàn quán ta có thể thực tập làm mới. Ta thực tập tưới hoa và hóa giải. Hóa giải là gỡ ra những nút thắt, gặp người kia để mà nói cho người kia nghe những đau khổ của ta. Sau đó vài ba ngày, người kia có dịp giải thích cho ta biết hoặc là nếu có lỗi thật thì xin lỗi. Rồi tình anh em, chị em sẽ được lại như cũ, đó gọi là làm mới. Dĩ nhiên về phía gia đình huyết thống, chúng ta cũng phải thực tập làm mới.
Hiệp Ước Sống Chung An Lạc
Hôm nay chúng ta bắt đầu học về phương pháp gọi là Hiệp Ước Sống Chung An Lạc mà ta có thể thực tập trong gia đình và trong đoàn. Tôi sẽ cống hiến cho quý vị một vài ý niệm căn bản rồi tôi sẽ mời một vài thầy và sư cô lên trình bày cho quý vị về nội dung của hiệp ước cũng như phương pháp áp dụng hiệp ước này trong đời sống của đoàn, của gia đình.
Ta đã học về Tấn, tức là Tinh Tấn trong Tứ Chánh Cần. Chúng ta cũng đã học về hạt giống và tâm hành. Chúng ta có hạt giống của thương yêu, nhưng mà chúng ta cũng có hạt giống của sự thù hận và giận hờn. Vì vậy Hiệp Ước Sống Chung An Lạc này là để thực tập một cách rất cụ thể giáo lý về Tinh Tấn ta mới học. Chúng ta không phải là Thánh, chúng ta là những người thường, và vì vậy cho nên ta không tránh khỏi những nhận thức sai lầm và những vụng về trong đời sống hàng ngày. Ta có thể vì vụng về, vì thất niệm mà nói ra những câu nói làm người kia buồn và tạo ra những đổ vỡ. Không ai tránh khỏi việc này. Người kia có thể là người ta thương, người kia có thể là con ta, mẹ ta hay là chồng ta, người yêu của ta. Người kia cũng có thể là anh ta, chị ta, hay là em ta. Rất nhiều khi ta chỉ vụng về thôi, ta không muốn làm người kia đau khổ, nhưng mà vì vụng về và thiếu chánh niệm cho nên ta đã nói và làm những điều có thể gây rạn nứt và làm cho người kia giận hờn. Hiệp ước này sẽ giúp chúng ta thực tập để mỗi khi cơn giận phát khởi thì ta biết ta phải làm gì.
Cùng ký hiệp ước với nhau
Theo lời Đức Thế Tôn thì mỗi khi giận, ta không được nói, không được làm gì hết, ta không được có phản ứng. Những lúc đó ta cũng không nên đè nén cơn giận của mình xuống. Rất nguy hiểm vì khi cơn giận bị đè nén được một vài lần rồi thì nó cũng sẽ bùng lên và làm ta còn giận hơn trước. Lúc đó ta sẽ nói ra những điều còn độc hại hơn, làm ra những điều còn có tính cách gây đổ vỡ nặng nề hơn nữa. Cho nên phương pháp dằn xuống, đè nén không nên áp dụng. Ta phải tìm hiểu, nghiên cứu hiệp ước này cho kỹ. Rồi sau khi đã đồng ý với nhau rằng đây là phương pháp có thể giúp cho chúng ta tránh bớt được sự rạn nứt và bồi dưỡng lòng thương yêu thì chúng ta phải ký, phải lạy trước Tam Bảo, trước tăng thân (tăng thân tức là sự có mặt của các thầy, các sư cô, tất cả các Huynh Trưởng, các đoàn sinh). Ta lạy xuống và một khi đã ký hiệp ước đó thì ta phải làm theo hiệp ước. Như vậy ta chắc chắn sẽ có thêm an lạc. Tại Làng Mai, mỗi khi chúng tôi làm đám cưới cho một cặp vợ chồng, chúng tôi dạy cho họ hiệp ước sống chung, và chúng tôi bảo họ phải lạy xuống trước đại chúng, trước Bụt, Pháp, Tăng và ký hiệp ước sống chung an lạc rồi thì hai người mới được làm đám cưới. Bởi vì làm đám cưới mà hai người không có thực tập thì nguy hiểm lắm, sau này có thể làm khổ nhau. Theo hiệp ước này, ta không được nói gì hết, không được làm gì hết khi ta đang giận vì ta biết rằng trong khi giận, những câu nói và những hành động có thể đưa tới sự tan vỡ. Cho nên lúc đó ta chỉ nên thực tập hơi thở có ý thức, và nếu có thể được thì mở cửa đi ra ngoài, thực tập thiền hành. Nếu ta cho phép năng lượng giận hờn có mặt một mình thì rất nguy hiểm. Vì vậy ta phải mời năng lượng thứ hai là năng lượng Chánh Niệm đi lên bằng cách thở, đi thiền hành. Ta nuôi dưỡng năng lượng chánh niệm để ôm ấp và chăm sóc năng lượng giận đang có mặt trong ta. Giống như ta có một đứa em đang đau khổ, đang khóc, thì ta tới ôm em ta trong vòng tay. Ta là cơn giận mà ta cũng là Chánh Niệm. Ta ôm lấy cái giận của mình và làm cho dịu xuống bằng phương pháp thở Chánh Niệm, bằng phương pháp đi Chánh Niệm, đi thiền hành và hơi thở có ý thức.
Em đang khổ, em muốn anh biết điều đó.
Sau đó ta trở về nhà, ta thấy nhẹ nhàng hơn, lúc đó ta mới tìm cách nói cho người kia biết ta đang giận và đang khổ. Bởi vì nói được cho người kia biết ta đang giận, đang khổ thì ta sẽ cảm thấy đỡ vô cùng. Nhưng ta phải nói bằng ngôn từ hòa ái gọi là ái ngữ. Theo hiệp ước này ta có bổn phận phải cho người kia biết là ta đang giận, đang khổ. Ta không thể để quá hai mươi bốn giờ đồng hồ, để quá hai mươi bốn giờ là vi phạm hiệp ước. Thành ra trong hai mươi bốn giờ đó ta phải thực tập hơi thở, thực tập bước chân đàng hoàng để cơn giận lắng dịu rồi ta mới có thể nói được với người kia là ta đang giận người kia và ta muốn người kia biết điều đó. "Anh ơi, em đang giận anh, em đang khổ, em muốn anh biết điều đó". Chuyện này rất quan trọng và trong hai mươi bốn giờ đồng hồ ta phải làm cho được. Nếu người làm cho ta giận là cha ta, ta cũng phải làm như vậy. "Bố ơi, con đang giận bố, con đang khổ lắm". Nếu ta là cha thì ta cũng phải làm như vậy đối với con, ta không được la mắng, chửi bới con của ta, vì như vậy là vi phạm hiệp ước. Ta cũng phải đi thiền hành, ta cũng phải thở. Ta cũng phải dùng tất cả sự nhẹ nhàng của ngôn từ ái ngữ mà nói: "Con ơi! Ba đang giận con, ba đang khổ, ba muốn con biết điều đó." Phải cho người ta thương biết là ta đang giận và ta đang khổ.
Trong trường hợp hai mươi bốn tiếng sắp qua mà ta chưa lắng xuống, chưa bình tĩnh, chưa đủ sức dùng được ái ngữ thì trong Hiệp Ước có một phương pháp rất hay. Ta lấy một tờ giấy và viết xuống như sau: "Bố ơi! Con đang giận bố, con đang khổ, con muốn bố biết điều đó cho con." Và ta làm thế nào để cho tờ giấy đó tới tay cha ta trước 24 tiếng đồng hồ, thì tự nhiên ta bớt khổ nhiều lắm. Ở trong bản Hiệp Ước Sống Chung An Lạc này, người đang chịu đau khổ vì sự hờn giận có mười điều phải thực tập và người mà được nghĩ rằng có trách nhiệm làm người kia giận thì có bốn điều phải thực tập. Hiệp Ước Sống Chung An Lạc này phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đừng có ký đại, phải được học hỏi, hiểu thấu phương pháp thực tập rồi thì lúc đó mới nên ký. Trong gia đình, nếu ta giận ai thì ta phải thực tập và nếu ta nghĩ rằng người kia thấy ta là nguyên nhân cái giận của họ thì ta cũng phải thực tập; hai bên đều phải thực tập và hai người hẹn sẽ gặp nhau vào chiều thứ sáu (hay một buổi nào đó thuận tiện mà ai cũng có thể có mặt). Từ đây cho đến ngày thứ sáu còn ba hay bốn ngày nữa nhưng người nào cũng có cơ hội để nhìn sâu, để thực tập, để có cái nhìn rõ ràng hơn. Và đến chiều thứ sáu có thể ta hết giận, có thể ta thấy cái giận của mình do một nhận thức sai lầm, nhận thức vội vã mà có.
Vọng tưởng
Trong đạo Phật gọi vọng tưởng là nhận thức sai lầm (wrong perception). Khi ta đưa tờ giấy đó cho người kia rồi thì ta khỏe ra nhiều lắm. Còn khi mà ta giận, ta khổ mà người kia không biết, thì ta còn giận, còn khổ hơn nữa. Cho nên đưa như vậy là giúp cho ta có một sự nhẹ nhàng, bớt khổ liền. Nếu ta là người kia thì khi nhận được tờ giấy, ta sẽ nghĩ: "Trời đất ơi, mình đã nói những gì, mình đã làm những điều gì để người kia giận vậy kìa?" Rồi ta sẽ quan tâm và trong khi lái xe đi làm hoặc nấu ăn thì ta phải tập thở để quán chiếu lại coi ta đã nói gì, làm gì khiến người kia giận. Nếu trong khi quán chiếu như vậy mà ta tìm ra nguyên nhân là ta đã nói điều đó hoặc đã làm việc đó khiến cho người kia giận thì ta phải lập tức gọi điện thoại và xin lỗi ngay. Để cho người kia giận lâu thì rất tội nghiệp người đó nên khi ta nhìn thấy lỗi của mình thì ta lập tức liên lạc bằng điện thoại, bằng fax, bằng email với người đó càng sớm càng tốt. Còn nếu ta đang giận thì ta cũng phải quán chiếu. Thường thường ta có nhận thức sai lầm rằng người kia muốn làm cho ta khổ, muốn trừng phạt ta trong khi sự thật thì người kia không có ý muốn làm cho ta khổ. Tri giác sai lầm đó, vọng tưởng đó ai cũng có và vì vô minh, vì đa nghi cho nên ta là nạn nhân của những cơn giận, những hờn ghen của chính ta rất nhiều.
Quý vị có nhớ câu chuyện của thiếu phụ Nam Xương không? Khi chàng Trương hiểu và biết mình sai lầm thì người thiếu phụ Nam Xương đã chết. Chúng ta cũng vậy, chúng ta còn bị kẹt vào những tri giác sai lầm của chúng ta nhiều lắm và chúng ta cứ ôm lấy những mối nghi ngờ, những nỗi hờn giận không căn cứ. Người kia không muốn làm ta khổ mà ta cứ tin rằng người kia muốn trừng phạt ta, muốn làm ta khổ, vì vậy mà ta kéo dài cơn giận của ta, có khi đến suốt đời. Cho nên hai người đừng làm như là chàng Trương và thiếu phụ Nam Xương. Hai người là ai? Hai người là vợ chồng. Hai người là ai? Là hai cha con, là hai mẹ con. Nhiều khi hai người giận nhau vì một tri giác sai lầm mà cứ tiếp tục làm khổ nhau. Cho nên phải biết tới với nhau để nói cho rõ. Nhưng khi tới với nhau thì phải có khả năng ngồi cho yên, sử dụng ngôn ngữ hòa ái và phương pháp lắng nghe.
Phương pháp lắng nghe trong đạo Phật gọi là Đế Thính, đó là hạnh của đức Quan Thế Âm. Ngôn từ hòa ái gọi là Ái Ngữ. Ái ngữ và đế thính là hai yếu tố mà mỗi đoàn sinh, mỗi Huynh Trưởng phải thực tập cho kỹ thì mới có thể tạo dựng lại, khôi phục lại hạnh phúc trong gia đình và trong đoàn của mình. Hiệp Ước Sống Chung An Lạc sở dĩ thực tập được thành công là nhờ hai loại thực tập đó, tức là lắng nghe sâu và sử dụng ngôn ngữ hòa ái. Ta phải làm cho được thì ta mới dạy các em trong đoàn thực tập. Còn chính ta là Huynh Trưởng mà ta không có khả năng lắng nghe, không có khả năng dùng lời ái ngữ thì ta không thể nào dạy các em ta được. Thầy luôn luôn nói với các thầy, các sư cô rằng chúng ta sống với nhau cho có hạnh phúc, có hòa điệu. Nếu chúng ta sống không có hạnh phúc, không có hòa điệu mà chúng ta đi mở những khóa tu cho người khác là chúng ta đang bán hàng giả. Tại vì chúng ta đâu có hạnh phúc, chúng ta đâu có hòa điệu, chúng ta có tin yêu nhau đâu mà chúng ta đi dạy người ta hòa thuận, tin yêu và hạnh phúc? Vì vậy đoàn thể của chúng ta phải có hòa thuận, hạnh phúc, phải có niềm tin, phải có vững chãi, phải có thảnh thơi thì khi đi ra hướng dẫn khóa tu, dạy người ta tu, ta mới không bán hàng giả. Một người Huynh Trưởng, cũng như một vị thầy hay một vị sư cô mà trong gia đình không có hạnh phúc, không có khả năng lắng nghe, không có khả năng sử dụng ái ngữ, không có khả năng khôi phục lại được sự hòa thuận và tin yêu trong gia đình, thì làm sao có thể dạy các em của ta trong đoàn được. Cho nên người Huynh Trưởng phải có khả năng thực tập trong chính gia đình của mình thì mới có thể làm được "nghề Huynh Trưởng" một cách vững chãi và thành thật ở trong đoàn của mình. Nếu không thì chúng ta cũng đang bán hàng giả và điều đó lương tâm ta không cho phép.
Lắng nghe và ái ngữ
Từ bây giờ, theo Hiệp Ước này, khi có vấn đề thì ta viết giấy đưa cho người kia và nói rằng: "Anh ơi, em đang giận anh, em đang khổ, em muốn anh biết điều đó và thứ sáu này chúng ta sẽ ngồi lại để cùng quán chiếu chung". Quán chiếu có hai phương tiện để hành đạo tức là lắng nghe và ái ngữ. Nếu không có hai yếu tố đó mà ngồi lại thì dễ cãi lộn và đánh nhau lắm. Vì vậy cho nên trong gia đình cũng như trong đoàn, tất cả mọi người phải thực tập hai chuyện đó. Bồ Tát Quan Âm là người có khả năng lắng nghe rất giỏi và ngài dùng những lời rất hòa ái. Có một đức Bồ Tát nữa tên là Diệu Âm. Đức Quan Âm lắng nghe rất giỏi, còn đức Diệu Âm thì nói ra những lời rất hòa ái. Hai vị Bồ Tát đó đều có mặt trong kinh Pháp Hoa.
Chúng ta phải thực tập. Người Huynh Trưởng phải thực tập hai điều đó thật vững chãi. Có được hai điều đó thì việc khôi phục lại hạnh phúc trong gia đình rất dễ cũng như khôi phục lại hạnh phúc và niềm tin của các đoàn sinh rất dễ. Từ bây giờ đến thứ sáu, chúng ta phải thực tập và nếu mà ta tìm ra được là ta đã thất niệm, ta đã nói năng vô ý, đã gây ra khổ đau cho người kia thì ta phải gọi điện thoại xin lỗi liền. Khi ta thực tập và ta biết rằng sở dĩ ta khổ đau, ta giận hờn là vì ta quá hấp tấp, ta có nhận thức sai lầm, người kia không muốn làm ta khổ mà ta cứ nghĩ rằng họ muốn làm ta khổ. Biết được điều đó rồi ta phải lập tức gọi điện cho người kia và nói rằng: "Anh ơi! Em đã giận lầm anh rồi, em có nhận thức sai lầm, em vội vã, em hấp tấp, em có tri giác sai lầm cho nên em đã giận. Thôi thứ sáu này mình ngồi với nhau, uống trà, ăn bánh, khỏi cần quán chiếu gì hết." Làm được như vậy thì người kia sẽ khỏi buồn. Nhưng nếu trường hợp tới chiều thứ sáu mà chưa đạt được kết quả đó thì hai người hãy ngồi lại với nhau. Phải ngồi cho thanh tịnh, trang nghiêm, tập thở năm phút, rồi một người được phép cầm đóa hoa trên tay và nói lên tất cả nỗi khổ của mình cho người kia nghe. Giữa hai người là một bình hoa và chỉ có một bông hoa thôi. Chỉ khi nào ta cầm hoa trên tay thì ta mới có quyền nói và người kia không được quyền nói. Theo nguyên tắc thì ta có quyền nói hết tất cả những nỗi khổ niềm đau của ta cho người kia biết với điều kiện là ta phải nói với ái ngữ. Khi ta có cảm tưởng ta không nói được ái ngữ thì ta xin lỗi: "Em xin lỗi, em ráng hết sức nhưng bữa nay em chưa đủ sức dùng ái ngữ, xin anh cho phép em hoãn lại chừng năm ngày hay là tuần sau." Ta làm cha, ta giận con thì ta cũng phải thực tập như vậy. Ta làm vợ, ta giận chồng thì cũng phải làm như vậy. Có nhiều cặp vợ chồng cưới nhau tại Làng Mai và thực tập theo phương pháp này có rất nhiều hạnh phúc. Và mỗi tuần dù không giận nhau thì họ cũng ngồi với nhau để làm mới. Ban đầu luôn luôn có những hạt rất nhỏ của sự không hạnh phúc nhưng mà nếu ta không giải quyết nó, không hóa giải nó, thì nhiều tuần liên tiếp sau nó sẽ lớn lên và sẽ thành một khối nội kết rất lớn khó mà chuyển hóa. Vì vậy làm mới mỗi tuần là điều rất cần thiết.
Làm mới mỗi tuần là điều cần thiết
Trong gia đình của ta, mỗi tuần nên thực tập làm mới một lần. Danh từ ngày xưa là "sám hối". Quý vị có thể hiểu sám hối là lạy xuống cầu xin Bụt tha tội, nhưng bản chất của sám hối không phải là cầu xin tha tội, bản chất của sám hối là làm mới lại tâm của mình. Những vụng về, những tội lỗi đều do tâm cả. Nếu mà ta làm sạch tâm ta, ta nguyện từ đây về sau sẽ không làm như vậy nữa, đó là sám hối. Chắc quý vị biết câu này rồi:
Tội tùng tâm khởi tương tâm sám
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chơn sám hối”
Có nghĩa là những lỗi lầm của ta đều từ tâm mà ra, nhưng tâm ta đã sửa lại rồi thì những tội lỗi này sẽ không còn nữa. Và khi ta thấy được rằng ta đã vụng về, đã vội vã, đã vì vọng tưởng và tri giác sai lầm mà nói và làm những điều gây đổ vỡ; bây giờ ta đã tự giác, đã giác ngộ, đã biết được rồi; và ta phát nguyện từ giờ về sau sẽ không làm như vậy nữa thì tự nhiên ta mới trở lại. "Anh ơi, em biết rằng trong khi vội vã, trong khi bực bội, trong khi thất niệm, em đã nói những điều đó, đã làm những điều đó và gây nên đổ vỡ. Em quyết từ đây về sau em sẽ cẩn thận, sẽ chánh niệm, sẽ không nói và làm như vậy nữa." Đó là làm mới. Dầu không có giận hờn chúng ta cũng nên ngồi lại uống trà, ăn bánh với nhau và hỏi xem có ai muốn cầm cái hoa lên để nói không. Cành hoa luôn luôn có đó. Nếu ta có chuyện gì hơi bực một chút, ta đừng nên để bụng một mình rất nguy hiểm. Cho nên khi có một điều gì buồn, điều gì giận, thì đó là cơ hội để nói ra và làm mới. Lúc đó ta chắp tay lại xin được nói và khi mọi người đồng ý thì ta đứng dậy, từ từ bước tới cầm cành hoa lên, đi trở về chỗ, ngồi xuống thở ba hơi rồi bắt đầu nói. Ta có thể nói như vầy: "Hôm trước ba nói như thế này... con đau khổ lắm vì con thấy ba không hiểu con nên ba mới nói như vậy. Sự thật là như thế này... con muốn ba hiểu con hơn..." Nói cho hết tất cả những điều cần nói vì nó có công năng đưa những độc tố của giận hờn ra khỏi cơ thể của ta. Và trong khi ta nói thì tất cả mọi người trong gia đình đều lắng nghe. Không ai khác có quyền nói, chỉ có ta với cành hoa trên tay là có quyền nói mà thôi. Nói xong ta đi từng bước trở lại để bỏ bông hoa vào bình hoa, rồi lạy tạ mọi người đã lắng nghe. Những người ngồi xung quanh bình hoa đều là đệ tử của đức Bồ Tát Quan Thế Âm, nghĩa là người nào cũng có khả năng lắng nghe hết. Trong một gia đình mà không ai biết lắng nghe ai thì gia đình đó là một địa ngục. Hiện bây giờ có nhiều gia đình như vậy lắm, không ai biết lắng nghe ai, không ai biết dùng ái ngữ với ai hết, hễ nói là nói lời chua chát, lên án, trách móc. Cho nên chúng ta phải học hai hạnh đó, một là của Bồ Tát Quan Âm, hai là của Bồ Tát Diệu Âm. Ví dụ ta là cha mà con ta đau khổ, con mình đã nói ra rồi, thì ta đừng có trả lời liền lập tức vì không có hiệu năng tốt. Ta nói rằng: "Con đã nói, bố đã nghe và đã ghi nhận". Rồi thôi, "bây giờ mình uống trà đi!". Dầu con của ta có nói sai, không nói sự thật, chưa biết được sự thật, ta cũng để cho con nói mà khoan trả lời, tuần sau sẽ đến lượt ta. Con ta nói ra thì khỏe rồi, nhưng mà ta biết rằng con ta có một tri giác sai lầm, hiểu sai lời nói của ta. Tuy nhiên ta để lần sau sẽ nói tới, bởi vì nói bây giờ thì tình trạng sẽ thành ra sự đôi co với nhau và hạnh phúc của người được nói ra bị mất đi liền lập tức. Hãy để cho người đó hưởng niềm hạnh phúc của người được nói trong vòng bảy ngày và tuần sau hoặc là ba, bốn ngày sau ta gặp con ở ngoài, khi hai cha con đang vui thì ta nói: "Con ơi! Hôm trước con nói thì cha nghe thôi, nhưng mà con hiểu lầm rồi, cha đâu có nói như vậy, cha nói như vầy nè..." Thì chính trong khung cảnh hòa ái đó, ta nói và con ta có thể nghe được, rất hay. Phương pháp này ở Làng Mai chúng tôi thực tập rất thường.
Không làm nạn nhân của cơn giận
Trong phương pháp làm mới, trong bình hoa chỉ có một bông hoa thôi và người cầm hoa là người duy nhất có quyền được nói, tất cả mọi người khác đều thực tập lắng nghe như đức Quan Thế Âm hết, còn người cầm hoa phải thực tập hạnh của đức Diệu Âm tức là phải nói lời từ ái. Còn khi ta được cơ hội nói mà biết rằng mình chưa có khả năng nói được lời hòa ái thì ta xin lỗi và nói hôm nay ta được cơ hội để nói nhưng mà khả năng sử dụng ái ngữ của ta chưa vững thành ra ta chưa nói được.
Ở khóa tu dạy cho người Mỹ tại Santa Barbara, tôi có dạy: Khi giận, ta đi thiền hành. Xong rồi, ta viết trên một miếng giấy ba câu:
1. Em đang giận anh. Em đang khổ và em muốn anh biết điều đó (Darling, I am angry at you, I suffer, I want you to know it.)
Đó là câu đầu, nhưng mà nó chưa đủ vì chứng tỏ rằng ta chưa biết thực tập.
2. Em đang cố gắng hết sức mình thực tập hơi thở, thiền hành và nhìn sâu (Darling, I am doing my best to practice breathing, to do walking meditation and looking deeply.)
Người Phật tử khi giận thì phải thực tập chứ không phải buông xuôi và chấp nhận là nạn nhân của cơn giận. Chúng ta là con Bụt, là học trò của Thầy, và vì vậy chúng ta phải thực tập.
3. Anh hãy giúp em! (Please help me!).
Cả ba câu đều là ngôn ngữ của thương yêu. Khi ta đang đau khổ, giận hờn, ta phải cho người ta thương biết; và cho người kia biết rằng ta cũng đang thực tập chứ không phải ta chỉ giận suông. Ta không thực tập một mình vì sợ thực tập một mình sẽ không thành công nên ta nhờ người kia thực tập nữa. Vì vậy nếu ta là người trẻ và giận cha thì ta cũng phải làm như vậy. Ta phải nói cho được rằng: "Ba ơi, con đang giận ba. Con đang khổ. Ba ơi, con đang cố gắng thực tập. Ba ơi, ba giúp con đi". Bởi vì thường thường khi giận, ta hay nói: "Tôi không thèm anh, tôi không cần anh, để tôi ở một mình, tôi ghét anh (I don't want you, I don't need you, stay away from me, leave me alone, I hate you)".
Xong quý vị đưa ba câu đó cho người mình giận. Ta giận, nhưng ta muốn thực tập để sự truyền thông giữa hai bên tốt đẹp hơn. Và nhất là ta không muốn ta khổ và người kia khổ. Nên khi đưa được tờ giấy đó cho người kia thì sự hòa giải sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Người kia sẽ hiểu được ta, sẽ tôn trọng cảm thọ giận của ta và hai người có thể đến để làm mới với nhau trong một tinh thần thực tập. Khi tôi dạy ở Santa Barbara, tôi dạy ba câu đó, rất là đơn giản và có nhiều người đã chảy nước mắt. Phương pháp nói trên rất là dễ nhưng nếu quý vị làm theo được thì tránh được sự đổ vỡ rất nhiều.
Văn bản về Hiệp Ước Sống Chung An Lạc
Dưới đây là văn bản về Hiệp ước sống chung an lạc. Có nhiều cặp vợ chồng đã ký văn bản này trước mặt những người bạn để làm chứng và yểm trợ cho sự thực tập của họ. Văn bản này cũng được họ đọc lại chung với nhau thường xuyên để nhắc nhở nhau thực tập. Ta sử dụng văn bản này trong gia đình, trong đoàn, với những người ta thương và cùng muốn thực tập với ta để giữ gìn hạnh phúc cho nhau.
Hiệp Ước Sống Chung An Lạc
Để sống chung với nhau hạnh phúc lâu dài, để tiếp tục xây dựng tình thương và sự hiểu biết, chúng con, những người ký tên dưới đây, xin nguyện cam kết và thực tập đúng theo những điều khoản sau đây:
Người đang chịu đau khổ vì sự giận hờn:
1. Không nói hoặc làm bất cứ điều gì có thể tạo thêm đổ vỡ và làm cho cái giận của hai bên lớn thêm.
2. Không đè nén cái giận xuống, không đàn áp sự hờn giận của mình.
3. Nắm lấy hơi thở, thực tập hơi thở chánh niệm, quay về nương tựa hải đảo tự thân.
4. Cho người kia biết một cách bình tĩnh là mình đang giận và đang khổ, trong thời hạn tối đa là 24 tiếng đồng hồ.
5. Bình tĩnh xin hẹn gặp người kia vào tối thứ sáu để cùng nhìn lại vấn đề cho rõ.
6. Nếu chưa được bình tĩnh để có thể nói thẳng thì có thể điền vào mẩu giấy báo tin, gọi là giấy hẹn, và đưa cho người kia.
7. Đừng tự ái nói: "Tôi đâu có giận - Có sao đâu - Tôi có khổ gì đâu
- Có gì đâu mà giận - Không có gì đáng cho tôi giận.”
8. Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, lái xe hoặc làm việc, thực tập hơi thở chánh niệm và quán chiếu sâu sắc để thấy:
a. Đôi lúc tôi cũng thiếu chánh niệm, thiếu khéo léo.
b. Tôi đã làm cho người kia buồn khổ nhiều lần vì tập khí của tôi.
c. Hạt giống của sự giận hờn trong tôi là nguyên nhân chính làm tôi đau khổ.
d. Người kia chỉ là người tưới tẩm hạt giống giận hờn trong tôi.
e. Người kia cũng đang khổ cho nên mới làm như vậy.
f. Chừng nào người kia còn khổ, chừng ấy tôi vẫn chưa có được an lành và hạnh phúc.
9. Nếu thấy được sự vụng về và thiếu chánh niệm của mình, hãy tìm cách xin lỗi người kia ngay, đừng đợi đến chiều thứ sáu.
10. Nếu tối thứ sáu mà còn chưa đủ bình tĩnh thì xin dời hẹn đến thứ sáu tuần sau.
Người có trách nhiệm về việc làm người kia giận hờn:
1. Thấy người kia giận, đừng chế nhạo. Phải tôn trọng cảm thọ của người ấy và để cho người ấy đủ thì giờ lấy lại sự an tịnh.
2. Đừng ép người kia phải giải bày liền về cái giận của người ấy.
3. Nói với người kia là mình đã nghe hoặc đã biết rằng người kia giận, bằng lời nói hoặc bằng cách viết trên một mảnh giấy, và hứa với người kia rằng mình sẽ có mặt vào chiều thứ sáu.
4. Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, lái xe hoặc làm việc, thực tập hơi thở chánh niệm và quán chiếu sâu sắc để thấy:
a. Trong tôi cũng có những hạt giống của sự không dễ thương, của bực bội và hờn giận.
b. Tập khí trong tôi đã có nhiều phen gây ra đau khổ cho người kia.
c. Tôi tưởng làm cho người kia khổ thì tôi sẽ bớt khổ, và tôi đã lầm.
d. Làm cho người kia khổ, tôi cũng làm cho tôi khổ theo.
5. Nếu thấy được sự vụng về và thiếu chánh niệm của mình, hãy tìm cách xin lỗi ngay, đừng chờ đến chiều thứ sáu. Xin lỗi mà đừng tìm cách biện bạch.
Trước sự chứng minh của Đức Thế Tôn và với niệm lực của Tăng Thân, chúng con xin nguyện thực tập theo những điều khoản của hiệp ước này. Cầu xin Tam Bảo gia hộ cho chúng con có đủ niềm tin và sự sáng suốt. Chúng con nguyền nương vào Phật Thân, Pháp Thân và Tăng Thân để thực tập tu học.
Hiệp ước làm tại ngày tháng năm.
(Các đương sự ký tên)
Soi Sáng
Tự Tứ
Hôm nay chúng ta học về pháp môn gọi là Soi Sáng. Pháp môn này đã có từ thời Đức Thế Tôn. Thường thường đến ngày Tự Tứ, tức là ngày kết thúc ba tháng tu học mùa mưa thì các thầy, các sư cô làm lễ Tự Tứ. Lễ Tự Tứ là một cơ hội để ta cầu sự soi sáng của những người bạn đồng tu, và nếu quý vị được phép quan sát các thầy, các sư cô thực tập Tự Tứ thì quý vị có thể rất cảm động và có thể chảy nước mắt.
Cầu soi sáng
Trong lễ Tự Tứ đó quý vị sẽ thấy một thầy đắp y chỉnh tề đến trước một thầy khác, lạy xuống ba lạy rồi quỳ lên và nói: "Thưa sư anh (hoặc là thưa sư em), trong ba tháng tu tập vừa qua thế nào em cũng có những khiếm khuyết, những lầm lỗi; vì vậy cho nên em cầu xin sư anh soi sáng cho em để em có thể có được tiến bộ trong những ngày tới." Nói xong thầy đó lạy xuống ba lạy. Cái đó gọi là cầu soi sáng. Nếu là sư cô thì ta lạy xuống trước một sư cô khác, người đó là sư chị hay sư em của ta để cầu xin soi sáng. Ta có thể cầu xin không phải chỉ với một người mà ta có thể cầu xin hai người, ba người, bốn người, năm người và ta có quyền cầu xin tất cả mọi người trong đại chúng, trong tăng thân soi sáng cho ta. Ta phải lạy người kia và mong muốn người kia đem lòng từ bi mà chỉ dạy cho ta để ta thấy được những điểm nào ta còn yếu, cần được soi sáng. Ở Làng Mai số người tối thiểu mà các thầy, các sư chú, sư cô cần phải được soi sáng là sáu người. Mỗi người phải tới với sáu người mà ta chọn lựa và tin tưởng. Ta tới với từng người một, ta cầu xin người đó soi sáng cho ta. Nếu ta không cầu xin thì không ai soi sáng cho ta cả vì nói sự thật ra ta có thể buồn hay giận họ, do đó ai dại gì mà nói. Vì vậy cho nên ta phải lạy xuống, phải khẩn thiết, phải cầu xin thì người kia với tấm lòng thương tưởng của họ, với ý thức trách nhiệm mình là một người sư anh, một người sư chị hay là một người sư em, phải có bổn phận soi sáng cho người bạn tu của mình, họ mới nói ra những lời soi sáng. Thường thường thì người được cầu xin hay nói ra những điểm tích cực của người kia trước để tưới tẩm những hạt giống tích cực này rồi mới nói đến những khuyết điểm và những điểm tiêu cực của người đó. Thường thường ta cầu xin một người lớn tuổi tu hơn ta, nhưng cũng có nhiều người mới tu mà ta có đức tin rất lớn tại vì người đó tu rất giỏi, rất thành công thì ta cũng có thể lạy xuống trước người đó để cầu xin. Con mắt ta tuy có chất liệu trí tuệ, vì ta đã tu một năm, hai năm thì thế nào con mắt ta cũng có chút tuệ nhiều hơn trước, nhưng mà mắt ta làm sao mà so sánh được với mắt của Tăng thân? Tăng thân tức là thân thể của đoàn thể ta. Vì vậy cầu xin Tăng thân soi sáng là một phương pháp thực tập đã có từ thời Đức Thế Tôn còn tại thế.
Những lời trung thực
Sự thực tập này của tu viện, của chùa cũng có thể được chia sẻ ra ngoài để thực tập trong gia đình huyết thống và trong gia đình tâm linh của ta. Nghĩa là trong các đoàn của Gia Đình Phật Tử, đoàn thiếu nam, đoàn thiếu nữ hay trong đoàn Oanh Vũ ta cũng có thể học hỏi và thực tập phương pháp soi sáng này. Các em Oanh Vũ tuy mới 6, 7, hay 10 tuổi nhưng ta có thể tập cho các em biết cầu xin sự soi sáng hoặc ta cầu xin sự soi sáng nơi các em vì con mắt của đoàn thể thế nào cũng sáng hơn con mắt của chính mình. Trong Tăng thân người nào cũng tu tập, người nào cũng có cái thấy của họ. Các em bé nhiều khi thấy được những điều mà người lớn không thấy và các em bé có thể nói ra một cách dễ dàng những điều mà người lớn khó nói ra được. Ở Tây phương cũng như ở Đông phương người ta thường nói: "Sự thật được nói ra từ miệng của trẻ thơ". Vì vậy cầu xin soi sáng không hẳn chỉ cầu xin nơi những người lớn tuổi và có kinh nghiệm hơn mình. Ta có thể cầu xin ở tất cả, ở cả những người trẻ tuổi hơn ta. Những lời soi sáng đó không phải là những lời mắng nhiếc hay chê bai mà là những lời trung thực được nói ra với tình thương để giúp cho người kia thấy được những ưu, khuyết của mình mà chuyển hóa và đi tới. Vì vậy trong Gia Đình Phật Tử, ta phải biết học hỏi và thực tập phương pháp soi sáng mà người xưa gọi là Tự Tứ.
Đừng để tự ái bít lấp
Cố nhiên là các anh trưởng, chị trưởng và các đoàn sinh phải ngồi với nhau để mà pháp đàm, nghĩa là đàm luận để tìm ra phương pháp áp dụng. Chúng ta ai cũng có tự ái cả, nhưng mà tu là để làm gì? Tu là để ta có thể vượt được tự ái của mình. Tự ái của ta có thể không cho phép ta lắng nghe và chấp nhận sự thật. Nhưng mà sự thật là gì? Sự thật là cái năng lượng có thể giải phóng ta được. Người Tây phương cũng tin như vậy. Vì thế đừng để cho sự thật bị bít lấp vì cái tự ái của ta, và vì sự thật đó có thể được nói ra từ những em bé và từ những người bạn tu của ta cho nên ta phải lạy trước sự thật. Tôn trọng sự thật là một trong Năm Điều Luật của người Phật tử. "Phật tử trau dồi trí tuệ, tôn trọng sự thật". Sự thật làm sao để thấy được? Sự thật chỉ có thể có được, có thể biểu lộ được khi mà ta dẹp tự ái của ta. Nếu mà chị Huynh Trưởng, nếu mà anh Huynh Trưởng tự ái thì làm sao các em không tự ái được? Vì vậy người Huynh Trưởng phải làm gương cho các em. Người Huynh Trưởng phải tiếp nhận sự soi sáng và cầu xin sự soi sáng của những người trong Gia Đình mình. Quý vị có thể phỏng theo mô thức thực tập ở chùa, ở tu viện. Quý vị có thể mời năm hoặc sáu vị khác ở trong Đoàn hoặc ngoài Đoàn, những người mà đã có nhận xét về mình, rồi quý vị cầu xin những người đó soi sáng cho và quý vị phải hứa trước là mình sẽ thành khẩn tiếp nhận những lời soi sáng đó. Có thể là những lời soi sáng đó không đúng 100% nhưng mà ít nhất nó cũng đúng 60%, mà 60% là đã nhiều lắm rồi. Có khi nó đúng tới 70%, 80% hay 90%. Chính nhờ những sự soi sáng đó mà ta chấp nhận những yếu kém của ta và khi đã chấp nhận được thì dù chưa tu gì cả, chưa thực tập gì cả nhưng điều đó đã đưa ta đi tới rất xa. Chỉ cần chấp nhận thôi, chấp nhận được những yếu kém của mình là ta đã vượt qua bao nhiêu là dặm đường rồi. Quý vị hãy tin nơi tôi, những người mà không có tiến bộ, không có chuyển hóa là tại vì họ không chấp nhận được những yếu kém của họ. Một khi họ đã chấp nhận những yếu kém của họ rồi thì họ bắt đầu đi rất mau trên con đường chuyển hóa. Ta phải làm gương cho em ta, ta phải cầu xin và tiếp nhận sự soi sáng từ người khác. Ta đừng có khư khư giữ lấy ý của mình, bảo vệ cho hành động của mình; thái độ đó gọi là thái độ cố chấp. Người Tây phương gọi đó là một trở lực lớn cho sự lớn lên của một con người, luôn luôn lý luận để bảo vệ cho hành vi, thái độ của mình và không mở lòng ra để đón nhận sự soi sáng của người khác. Người khác tại sao phải soi sáng cho mình? Tại sao phải nói ra những điều đó để cho mình giận, mình không ưa, mình ghét? Vì vậy người ta không muốn nói ra đâu, tội gì người ta nói để cho mình nổi sân, nổi si lên rồi ghét họ. Thành ra đừng tưởng cầu soi sáng là dễ. Muốn cầu người ta soi sáng thì ta phải chí thành, chí thiết, chí tâm; phải lạy xuống thì người ta mới chịu soi sáng cho mình. Ở trong chùa như vậy và ở ngoài đời cũng vậy. Có khi ở ngoài đời còn khó hơn nên nếu ta không biểu lộ tâm thành của mình thì đừng mong có người khác soi sáng cho ta. Vì vậy nếu làm trong Đoàn thì ta phải làm thế nào cho không khí trở thành trang nghiêm; có khi ta phải lên Chánh Điện và mời những người mà ta mong muốn soi sáng ngồi xuống để ta lạy ba lạy rồi ta nói ra những lời thành khẩn thì những người đó mới soi sáng cho mình. Và khi họ soi sáng như vậy không phải là họ chê trách ta đâu, họ làm với tất cả tấm lòng xót thương của họ và ta phải lạy họ sau khi họ đã soi sáng cho ta, dù ta nghĩ rằng sự soi sáng này không đúng 100%. Lúc đầu có thể ta thấy không đúng nhưng khi về, quán chiếu thì ta sẽ thấy tại sao người kia lại có cái thấy như vậy. Lần lần ta thấy người soi sáng đó có cái lý của họ và đứng về quan điểm khác thì người kia có thể thấy được những điểm mà ta không thể thấy được khi đứng ở quan điểm của mình. Ví dụ như khi đi Sea World thì đứng ở góc độ này quý vị chỉ có thể thấy được cái bụng của con cá nhưng mà đứng ở điểm khác quý vị có thể thấy được lưng của con cá, có phải như vậy không?
Pháp môn này có thể sử dụng trong Gia Đình Phật Tử là gia đình tâm linh của chúng ta, nhưng người Huynh Trưởng phải áp dụng pháp môn này trong chính gia đình của mình. Người Huynh Trưởng còn trẻ có thể chỉ có chị, có anh, có cha, có mẹ thôi; nhưng người Huynh Trưởng lớn tuổi có thể có em, có con. Đối với các thành viên của gia đình huyết thống của mình, ta phải áp dụng phương pháp soi sáng. Gia đình của ta là nền tảng mà căn cứ trên đó ta có thể trở nên một người Huynh Trưởng kiểu mẫu và có thể thực hiện được lý tưởng đạo đức của mình. Các em đoàn sinh có thể nhìn vào gia đình ta để đoán định cái khả năng Huynh Trưởng của ta. Nếu ta thất bại trong gia đình huyết thống của mình thì làm sao ta có thể thành công trong gia đình tâm linh được? Cho nên điều tiên quyết là ta phải thực tập ngay trong gia đình huyết thống của ta, đối với cha mẹ, đối với con cái, anh em của ta. Khi các em thấy ta xuất thân từ một gia đình có hòa điệu, có hạnh phúc như vậy thì các em có niềm tin rất lớn và ta nói gì các em cũng sẽ nghe theo.
Sự tiếp nối của ta
Nếu ta làm con thì cố nhiên cha và mẹ sẵn sàng soi sáng cho ta, nhưng mà soi sáng không có nghĩa là la rầy và nói ác. Vì vậy người con có thể đứng dậy chắp tay nói: "Ba ơi, con xin lạy Ba ba lạy để Ba soi sáng cho con, cho những yếu kém, những lầm lỗi của con" rồi lạy xuống ba lạy. Người cha sẽ ngồi rất bình tĩnh, sẽ dùng ngôn từ hòa ái mà chỉ ra những yếu kém của ta. Nếu người cha không làm như vậy mà chỉ biết sử dụng ngôn từ chửi mắng, nguyền rủa, chê bai thì người cha không phải là một Phật tử đích thực. Người Phật tử đích thực là người có thể dùng ngôn từ hòa ái gọi là Ái Ngữ. Ta không thể lấy tư cách của một người cha để chửi mắng, nguyền rủa, chê bai con ta. Trong giáo lý của Đức Thế Tôn thì con ta là ai? Con ta là ta, là sự tiếp nối của ta. Nếu ta nhục mạ con ta thì chính là nhục mạ bản thân mình. Ai sinh ra nó? Có phải ta sinh ra không? Ta làm ăn như thế nào mà để con ta đi tới tình trạng này, tình trạng mà ta phải chửi bới, phải nhục mạ, phải từ nó? Có phải ta là người chịu trách nhiệm đó không? Vì vậy ta phải biết rằng con ta là tác phẩm của ta, và nếu tác phẩm đó hư hại thì ai chịu trách nhiệm nếu không phải là cha là mẹ của tác phẩm đó? Khi tôi dạy một người đệ tử, đệ tử tại gia hay đệ tử xuất gia thì tôi biết rằng đây là tác phẩm của mình. Nếu người đệ tử không thành công thì đó một phần lớn là do tài năng của mình thiếu kém, đức độ của mình thiếu kém và tôi không đổ lên đầu người đệ tử đó tất cả những lỗi lầm, trách móc. Ta phải thấy được điều đó. Và nếu ta có một đứa con mà ta không vừa ý thì ta biết rằng ta phải chịu trách nhiệm một phần khá quan trọng trong chuyện con ta trở thành như vậy. Đứng về phương diện thân giáo, nghĩa là giáo dục không phải bằng lời nói mà bằng sự sống hàng ngày của ta, ta đã có thể làm gương cho con ta hay chưa? Ta có nói những lời ái ngữ và ta có lắng nghe hay không? Nếu ta không biết nói lời ái ngữ, lễ phép và lắng nghe thì làm sao ta trông đợi con ta nói những lời ôn tồn, lễ phép, hay biết lắng nghe. Do đó ta phải thấy trách nhiệm của mình và khi con ta cần soi sáng thì ta phải soi sáng cho con bằng tất cả tình thương của mình. Nghĩa là trước hết ta phải nói về những điểm tích cực của con, thế nào cháu cũng có những điểm tích cực. Không có người nào mà chỉ có những điểm tiêu cực, người nào cũng có những điểm tích cực trong đó. Cháu có những tài năng gì thì ta phải biết. Khi dạy một người đệ tử tôi luôn luôn nhìn kỹ để khám phá ra những tài năng của người đệ tử đó, và tôi khen ngợi, tưới tẩm những hạt giống ấy để những điểm tích cực ấy lớn lên, chuyển hóa những điểm tiêu cực kia. Sư cô Chân Không ngày xưa không chịu hát thì tôi nói với sư cô là "con phải tập hát vì con có giọng có thể hát hay được." Từ đó trở về sau sư cô Chân Không phát hiện dần tài hát của mình và sư cô đã hát không biết bao nhiêu lần tại nhà thờ, tại chùa và ở các buổi tu học. Tiếng hát của sư cô Chân Không là một dụng cụ rất hữu hiệu trong sự hướng dẫn người ta tu học. Tôi đã khám phá ra tài hát của sư cô Chân Không. Ở Làng Mai có một chị thiền sinh tên là Tịnh Thủy và cũng chính tại Làng mà tài năng của Tịnh Thủy đã được khám phá ra. Tịnh Thủy đã sáng tác những bài hát đạo trong đó có bài "Từng Bước Chân Thảnh Thơi" mà có thể quý vị đã biết. Bài đầu tiên Tịnh Thủy viết là bài: "Nhìn Thầy lòng thanh thoát, nghe Thầy hết đắm say. Ngồi bên Thầy ấm áp, buổi chiều qua không hay. Mê, nghe kinh trọn kiếp. Ngộ, chỉ một phút giây. Gần Thầy trong chốc lát, thanh thản nẻo đi về". Ngay bài đầu đã hay rồi và đến bài "Từng Bước Chân thảnh thơi" lại càng hay. Vì vậy làm cha, làm mẹ, ta phải khám phá ra những điểm tích cực mà cha ông tổ tiên đã trao truyền cho con ta qua ta. Đôi khi ta muốn con ta học cái này, làm cái kia nhưng mà con ta có thể không có khiếu về cái đó, con ta có những năng khiếu khác mà ta chưa khám phá được. Vì vậy ta phải sống rất chánh niệm, rất sâu sắc mới thấy được những hạt giống tích cực và tiêu cực ở trong con ta. Những hạt giống tích cực thì ta ca ngợi và tưới tẩm để nó lớn lên. Những hạt giống tiêu cực thì ta chỉ cho con biết: "Này con, con có những điểm yếu này, con phải nhận thức để đừng có tưới tẩm và để đừng cho nó lớn lên". Người cha cũng như người mẹ dùng ngôn từ hòa ái để soi sáng cho con. Ngôn từ của chửi rủa, trách móc, của la rầy không soi sáng được cho con, trái lại sẽ tạo ra một cái hố rất sâu giữa ta và con ta.
Là cha hay là mẹ ta cũng cần được soi sáng. Ta nhờ người bạn hôn phối soi sáng cho mình: "Này em, thế nào anh cũng có những điểm tiêu cực, những yếu đuối và anh mong rằng em sẽ soi sáng cho anh." Đó là tiếng nói của tình thương, tình thương đích thực, tại vì chúng ta ai mà không có những điểm yếu kém? Và ta cũng có thể nói những điều đó với con mình: "Con ơi, thế nào ba cũng có những điểm yếu kém và con thấy ba nên chuyển hóa những điểm yếu kém nào thì con cứ nói đi!" Đứa con sẽ dùng một ngôn từ rất lễ phép, rất kính cẩn để chỉ cho ta thấy những điểm tiêu cực của ta. Dĩ nhiên trước khi nói như vậy thì nó ca ngợi những điểm tích cực của ta; và vì vậy hai cha con có thể giúp soi sáng cho nhau, hai vợ chồng có thể giúp soi sáng cho nhau và ta có thể cầu xin sự soi sáng của tất cả mọi người trong gia đình. Đó là sự thực tập ở trong gia đình huyết thống.
Là người Huynh Trưởng, là anh, là chị, ta có thể tạo dựng hạnh phúc cho rất nhiều gia đình. Mỗi đoàn viên, mỗi đoàn sinh trong Đội của ta, trong Đoàn của ta đều có mái gia đình riêng của họ. Ta theo dõi, ta nâng đỡ, ta liên đới, ta có thể giúp gia đình của đoàn sinh đó thiết lập được, khôi phục lại được những cái mà ta đã thiết lập, tạo dựng, khôi phục trong chính gia đình của mình. Vì vậy khi ta thực tập thành công pháp môn này trong gia đình thì ta cũng có thể chia sẻ được kinh nghiệm đó trong đoàn.
Con mắt của tăng
Có một cách soi sáng khác có tính cách tập thể hơn, có nghĩa là thay vì mỗi người tự lựa cho mình 5 hay 6 vị để lạy xuống cầu soi sáng thì tất cả đại chúng ngồi lại để đóng góp cái nhìn của từng người. Có khi đương sự có mặt, có khi không có mặt. Nếu có mặt thì thời gian ngồi trong buổi soi sáng ta lắng nghe với tất cả lòng khiêm cung và cầu tiến. Soi sáng không có nghĩa là chỉ trích. Soi sáng tức là chỉ cho ta thấy rõ về tình trạng, về những khả năng và những yếu kém của ta, và trong thời gian soi sáng đó ta được nghe không phải là một người mà là được nghe tất cả mọi người trong chúng nói cho mình. Một người có thể không thấy rõ tất cả những gì thuộc về mình, nhưng mà nhiều người thì thế nào với con mắt của tăng, gọi là Tăng Nhãn có thể thấy được ta rõ hơn tại vì mỗi người, ai cũng có con mắt cả. Thấy được mình rõ hơn thì ta biết rằng ta phải thực tập như thế nào để có những bước tiến. Trong buổi soi sáng đó, ban đầu ta nghĩ rằng người được thừa hưởng là người đang được soi sáng, nhưng mà kỳ thực tất cả mọi người trong chúng đều được thừa hưởng sự thực tập của pháp môn soi sáng đó hết. Vì trong những buổi đó ai cũng học được hết, ai cũng thấy được mình nhiều hơn, thấy được người em, người anh, người chị của mình rõ hơn. Tại vì thường thường ta có một cái thấy về ta, và cái thấy về ta có thể rất là sai lạc. Do đó ta cần phải có anh ta, chị ta, em ta chỉ cho ta thêm về ta. Hơn nữa, ta cũng có những cái thấy về người kia mà ta nghĩ rằng đúng, nhưng những cái thấy đó có thể là những cái thấy sai lầm. Cho nên sau khi ta soi sáng cho người đó rồi thì ta lắng nghe những người khác soi sáng. Có người thì có vài cái nhận thức giống như ta đã có, nhưng mà cũng có những nhận thức khác mà ta không có. Và khi ta ngồi lắng nghe tất cả mọi người trong chúng rồi thì ta thấy cái nhận thức ban đầu của ta đối với đương sự được soi sáng đã thay đổi.
Nếu người kia đồng ý với ta thì không nói gì, nhưng mà nếu người kia nói rằng cái ta thấy đó là sai thì cái đó gọi là Phản Đề. Và cái Đề này (nhận thức của mình) đang được đối diện với cái Phản Đề, và đối diện lần thứ nhất có thể là chưa có kết quả bởi vì ta không thấy được các yếu tố tích cực ở trong điều người kia nói, ta chỉ thấy những cái tiêu cực thôi. Nhưng mà có thể khi nghe một người thứ hai nói, người thứ hai nói có thể hay hơn, giỏi hơn thì tự nhiên ta thấy có một vài điểm đúng ở trong Phản Đề đó. Thành ra trong nhận thức ta bắt đầu có sự chuyển đổi. Ta nghe nhiều người nói rồi thì có thể cái Đề của ta dung hợp với những Phản Đề khác thành ra một cái Hợp Đề. Sau khi nghe hết tất cả mọi người nói rồi thì ta có một nhận thức rất là khác, khác với nhận thức ta có lúc ban đầu. Và sau buổi soi sáng đó cái thấy của ta rất gần với cái thấy của tăng thân, cái thấy của ta rất gần với Tăng Nhãn (con mắt tăng), tại vì ta thấy được qua con mắt của những người khác trong tăng thân, trong đoàn. Cái này gọi là thực tập ‘ Kiến hòa đồng giải’.
Quán nguyện trước khi soi sáng
Tại Làng Mai, trước khi soi sáng thì đại chúng phải ngồi thiền cho tĩnh tâm trước, rồi sau tiếng chuông thì một người sẽ đọc lời quán nguyện. Dưới đây là văn quán nguyện:
"Lạy Bụt, lạy Tổ, chúng con thực tập soi sáng cho các sư anh, sư chị, sư em của chúng con, chúng con biết tất cả chúng con đều là những thành phần của cùng một tăng thân, tất cả chúng con đều là xương thịt của cùng một tăng thân. Vì vậy, chúng con ý thức rằng soi sáng cho bất cứ ai trong tăng thân cũng là tự soi sáng cho chính mình. Chúng con nguyện sẽ đem hết tình thương và sự hiểu biết của chúng con để thực tập công việc soi sáng. Chúng con nguyện tất cả những gì chúng con nói ra đều phát sinh từ thiện ý, muốn đi tới một cái thấy chính xác về đối tượng soi sáng, và cống hiến cho đương sự những đề nghị thực tập thực tế để có thể đưa tới những chuyển hóa tốt đẹp cho đối tượng soi sáng. Chúng con nguyện cố gắng không để cho sự buồn giận, thành kiến làm sai lệnh cái thấy của chúng con. Chúng con nguyện bất cứ lời nói nào của chúng con cũng đều phát xuất từ tình thương. Chúng con biết trong khi soi sáng cho một thành phần của tăng thân, chúng con cũng đang soi sáng cho bản thân chúng con, vì vậy việc thực tập soi sáng cũng đem lại lợi lạc cho bản thân mỗi chúng con. Lạy Bụt và chư Tổ gia hộ cho chúng con để buổi thực tập soi sáng này được thành công viên mãn.”
Soi sáng phải khiêm cung
Khi soi sáng cho một người, ta ý thức rằng tình thương ta chỉ có hạn và sự hiểu biết của ta về người đó cũng có hạn, nhưng ta đem hết tất cả những cái đó ra soi sáng. Có cái gì ta hiến tặng cái đó, ta không thể hiến tặng hơn những cái mà ta đang có, nhưng điều đó cũng đỡ lắm rồi. Ta cũng ý thức rằng soi sáng cho người này cũng là soi sáng cho chính ta. Tại vì những ưu điểm của người này có thể ta cũng có, và những khuyết điểm của người này có thể ta cũng có, có thể những khuyết điểm của người này ta có nhưng mà ít hơn, nhẹ hơn, hay có khi lại nhiều hơn. Và mỗi khi ta nói được những ưu điểm của người này thì ta nhìn lại coi mình có những ưu điểm đó hay không, và nếu có thì ta mừng vui và phát nguyện rằng ta sẽ phát triển thêm. Nếu có ít thì ta hổ thẹn, tự nói rằng ta sẽ cố gắng cho được như người này hoặc hơn người này. Thành ra trong khi soi sáng người khác ta có thái độ rất khiêm cung, sợ hãi. Sợ hãi này là một sợ hãi rất là lành mạnh, tức là ta không quá tin rằng những điều ta nói là đúng. Cũng như các vị tổ Long Thọ, khi mà đi vào trong một tác phẩm của mình viết, dầu mình có kiến thức phật pháp rất là sâu rộng, nhưng các Tổ luôn luôn viết kệ nói trước: "Con cầu mong chư Bụt gia hộ điều con nói đây phù hợp với giáo lý của Ngài". Các Tổ như Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân đều viết những câu như vậy trước khi đặt bút xuống viết một cuốn Luận. Còn ta, ta là ai mà không có sự khiêm hạ, không có sự khiêm cung trong khi soi sáng cho sư anh, sư chị, hay sư em của mình? Ta phải khiêm cung lắm mới được.
"...Chúng con biết tất cả chúng con đều là những thành phần của cùng một tăng thân, tất cả chúng con đều là xương thịt của cùng một tăng thân". Ở Việt Nam ta nói anh em như thể tay chân, tay và chân cùng là một xương thịt hết, thành ra tay phải đối với tay trái cũng vậy, tất cả cái đau nhức của tay trái cũng là của tay phải, tất cả những hạnh phúc của cánh tay phải là của tay trái. Phải soi sáng dưới tinh thần đó thì mới đúng. Vì vậy cho nên ta không muốn làm ta đau. Cho nên ta soi sáng như thế nào để người kia không bị đau, tại vì người kia đau chính là ta đau. "Chúng con nguyện đem hết tình thương và sự hiểu biết của chúng con để thực tập công việc soi sáng". Ta có tình thương, ta có nhận thức về người kia cũng như về ta, ta ý thức được tình thương của ta còn hạn hẹp, hiểu biết về chính mình và về người kia cũng đang còn hạn hẹp, nên ta không quá tin chắc là cái ta thấy đó tuyệt đối đúng. Điều này quan trọng lắm. Và đây là thực tập cho mình chứ không phải là cho ai hết. "Chúng con nguyện tất cả những gì chúng con nói ra đều phát sinh từ thiện ý muốn đi tới một cái thấy chính xác", tức là ta chỉ đóng góp một vài yếu tố để đi tới cái thấy chính xác đó thôi chứ không hẳn ta nghĩ rằng ta có đủ tất cả những yếu tố chính xác. Ta phải nhờ vào mắt của tăng thân nữa. Và cống hiến những đề nghị thực tập thực tế có thể đưa tới những chuyển hóa tốt đẹp cho soi sáng. Tức là nếu quả thực ta thương em ta hay là chị ta, ta muốn cho người đó có cơ hội chuyển hóa thì lời ta nói không có tính cách chỉ trích. Trong khi nói, tình thương của ta được biểu hiện ra thì người kia sẽ không bao giờ giận, mà tình thương đó, thiện chí đó ai cũng thấy nơi ta hết. Vì vậy cho nên ta phải sử dụng sự thông minh và kinh nghiệm của ta để cống hiến cho đương sự một nẻo thoát. Nếu ta không cống hiến được điều này thì dù ta có tình thương rồi nhưng ta không có trí tuệ thì tình thương đó chưa phải tình thương đích thực.
Có tình thương, muốn giúp nhưng mà phải tìm ra cách. Vậy trước buổi soi sáng ta đã tìm ra cách chưa, ta đã từng giúp em của ta chưa, ta đã từng gọi em tới hỏi han chưa? Nếu ta đã từng giúp em rồi thì trong buổi soi sáng này chỉ là sự tiếp nối của điều đó thôi và tình thương cũng như thiện chí của ta không những em nhận thấy được mà tất cả mọi người cũng thấy được, thấy được cái giá trị đó, tin được cái giá trị đó của ta, và ta sẽ làm gương cho những người khác. Khi soi sáng như vậy, ta là cái gương soi sáng cho những người khác. Và khi đến lượt họ soi sáng, họ cũng sẽ tập nói được như ta. Ở trong đoàn mà có một số người có thể làm được như vậy trong buổi soi sáng thì mọi người đang được học hỏi. Đó là một thứ thiền quán, gọi là thiền quán tập thể. "Chúng con nguyện cố gắng không để cho những buồn giận, những thành kiến làm sai lệch cái thấy của chúng con". Có thể là ta bực mình người đó trong cuộc sống hằng ngày, và bây giờ nhân buổi soi sáng này ta nói cho bõ ghét. Điều đó không đúng. Là con người ta còn có buồn có giận, nhưng cái buồn cái giận đó là một cơ hội cho ta thực tập, ta phải biết nhận diện cái buồn cái giận của mình, phải biết đi tới người kia để thiết lập sự truyền thông trở lại. "Chúng con biết trong khi soi sáng cho một thành phần nào của tăng thân thì chúng con cũng đang soi sáng cho bản thân chúng con, vì vậy việc thực tập soi sáng cũng đem lại những lợi lạc cho bản thân của mỗi chúng con". Trong một buổi soi sáng ta học được thêm về người đó có nghĩa là học được thêm về chính mình. Tại vì tất cả những điều của bất cứ ai nói ra đều có thể giúp ta thấy được mình rõ hơn, chứ không phải chỉ giúp cho ta thấy được người kia rõ hơn. Mỗi người trong chúng ta đều có những ưu điểm và những khuyết điểm hết nên khi ngồi trong những buổi soi sáng, ta thấy ta và ta thấy được người kia, nhìn người kia mà thấy ta.
Tính Bụt trong lòng
Buddha là danh hiệu của một người tỉnh thức
Chỉ hơn 500 năm sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt thì đạo Bụt mới được truyền sang Việt Nam. Đạo Bụt được truyền sang Việt Nam do những thương gia Ấn Độ vào thế kỷ đầu của kỷ nguyên Tây Lịch. Thuở đó các nhà buôn Ấn Độ thường cung cấp hàng hóa và thực phẩm cho đế quốc La Mã. La Mã rất cần những sản phẩm hiếm hoi như tiêu, quế, đinh hương, đại hồi và vì vậy các thương gia Ấn Độ mới dong buồm sang vùng Đông Nam Á để mua các thứ hương liệu đó về bán cho La Mã. Mỗi khi đi một chuyến xa như vậy thì các thương gia thường mời một hoặc hai thầy đi theo để ngồi thiền, tụng kinh hộ niệm cho chuyến đi được bình an. Khi tới Đông Nam Á, họ thường đổ bộ lên Giao Chỉ, tức là nước Việt Nam để buôn bán. Thông thường họ phải đợi đến năm sau, khi thuận gió thì họ mới giong buồm trở về Ấn Độ. Trong thời gian ở lại như vậy, các thầy cũng niệm Bụt, ngồi thiền và chia sẻ giáo pháp với người địa phương, tức là người Việt. Vì vậy đạo Bụt đã được truyền sang Việt Nam vào giữa thế kỷ thứ nhất và đã ở lại Việt Nam 2000 năm, trong khi tuổi của đạo Bụt tính đến nay đã gần 2600 năm. Vì vậy ta có thể nói rằng chính các hương liệu như là tiêu, quế đã mang đạo Bụt sang cho đất nước ta. Tiêu, quế và các hương liệu đã trở thành một thứ môi giới để cho dân tộc Việt và đạo Bụt kết duyên với nhau. Từ thế kỷ đầu cho đến thế kỷ thứ 14, tức là 1400 năm, chúng ta đã gọi Buddha là Bụt. Các nước Đông Nam Á chung quanh ta cũng gọi Buddha là Bụt. Gọi đúng là Butha, mà gọi tắt là Bụt. Chữ ‘tha’ phía sau không đọc rõ. Gotama đọc là Gotam. Nhật Bản vẫn còn gọi Buddha là Bụt. Đến thế kỷ thứ 14 khi bị phương Bắc đô hộ, chúng ta đã bắt đầu phát âm theo người Trung Hoa. Người Trung Hoa phát âm là Fó mà ta đọc là ‘Phật’, nhưng trước đó ta đã sử dụng danh từ ‘Bụt’. Như vậy từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 20 ta mới dùng tới danh từ ‘Phật’, chỉ mới 500 năm thôi. Trước đó trong suốt 1400 năm ta dùng danh từ Bụt và bây giờ thì ta trở về gốc, việc này không có gì mới mẻ hết. Tất cả các nước đều gọi Buddha là Bụt thì ta gọi Buddha là Bụt cũng hợp lý thôi. Chữ Buddha có nghĩa là tỉnh thức, không mê ngủ, không lãng quên. Chữ Buddha cũng có nghĩa là Biết. Vì vậy chữ Buddha không có nghĩa là tên của một người. Đó chỉ là một danh hiệu. Chúng ta biết rằng đức Bổn Sư của chúng ta tên là Shakya Muni, tức là ông thầy tu dòng họ Shakya. Hồi còn trẻ Bụt tên là Siddhatta Gotama. Gotama là tên dòng họ, dòng họ Gotama Shakya. Và vì Bụt là một người tỉnh thức, luôn luôn có chánh niệm, luôn luôn có hiểu biết, luôn luôn có thương yêu cho nên chúng ta gọi Gotama Shakya là Bụt. Đức Thế Tôn có nói rằng trước khi Ngài ra đời đã có những vị Bụt khác, những vị Bụt quá khứ, và sau khi Ngài nhập diệt trên thế gian sẽ có những vị Bụt tương lai như là Bụt Di Lặc. Vì vậy Bụt không phải là tên của một người mà là danh hiệu của một người tỉnh thức, có đầy đủ hiểu biết và thương yêu. Khi chúng ta nói chuyện với người Bắc Mỹ, chúng ta phải nói cho họ biết Bụt không phải là một vị thần linh, Bụt là một con người như chúng ta. Đức Thế Tôn là một con người như chúng ta, đã từng đau khổ lúc còn trẻ. Ngài đã tìm ra được con đường thoát khổ và đã trao truyền lại cho chúng ta. Vì vậy chúng ta phải nhớ là đừng biến Đức Thế Tôn thành một vị thần linh mà phải khám phá ra cho được đức tính con người, đức tính nhân bản của Ngài.
Mọi người đều có tính Bụt trong lòng
Đức Thế Tôn đã nói rằng mỗi người đều có tính Bụt trong lòng và nếu thực tập cho giỏi thì cũng có thể tỉnh thức, cũng có thể có hạnh phúc, cũng có thể có thương yêu được. Tính Bụt đó được gọi là Phật tính. Tiếng Anh là Buddhahood hay Buddha nature. Nếu chúng ta biết tu tập, tính Bụt đó sẽ biểu hiện ra và chúng ta sẽ có đầy hạnh phúc, đầy hiểu biết, đầy thương yêu và đầy tỉnh thức. Buddha là người tỉnh thức, người biết an trú trong phút giây hiện tại. Người biết cái gì đang xảy ra cho mình và cho hoàn cảnh xung quanh mình. Nếu ta có thực tập thì ta cũng có thể tỉnh thức được. Thực tập hơi thở chánh niệm, bước chân chánh niệm và ăn cơm trong chánh niệm, ta cũng sẽ có chất tỉnh thức như Bụt. Tuy nhiên lâu lâu ta mới tỉnh thức một lần rồi lại bị sa vào thất niệm, quên lãng; vì vậy ta không phải là Bụt toàn thời gian, mà chỉ là Bụt bán thời gian. Năng lượng giúp cho ta duy trì sự tỉnh thức được gọi là Chánh niệm (Mindfulness). Chánh niệm là gì? Ta phải nói cho bạn ta biết chánh niệm là năng lượng giúp cho ta có mặt trong giây phút hiện tại. Ta phải nhớ như vậy. Vì trong đời sống hàng ngày, có thể thân ta ngồi đây nhưng tâm ta lại ở chỗ khác; hoặc chìm đắm trong thương tiếc quá khứ, hoặc băn khoăn, lo sợ về tương lai, hoặc bị cái giận, cái buồn, cái phiền, cái ganh ghét kéo đi. Thân không ở chung với tâm và vì vậy ta không thật sự có mặt cho cuộc đời. Có vẻ dường như ta đang có mặt đó nhưng kỳ thực ta đang rong ruổi nơi nào khác.
Có ai ở nhà không?
Nhiều lúc cha ta ngồi đó nhưng ông không thật sự ở đó vì tâm của ông đang ở chỗ khác. Ông đang lo sầu về tương lai, buồn phiền về quá khứ hoặc ông đang mắc lo, mắc giận. Ông ngồi đó nhưng tâm ông không có mặt ở đó. Nhiều người quanh ta cũng đều giống như vậy, không thật sự có mặt với sự sống. Những lúc như vậy ta cần tới gần cha ta, vỗ vai cha và nói: ‘Có ai ở nhà không?’ Tại cái nhà này là nhà trống, chỉ có thân mà không có tâm. Mỗi khi gặp một người thất niệm, tức là một người không có mặt, thì ta tới vỗ vai người đó và hỏi: ‘Có ai ở nhà không?’ Nếu làm được như vậy thì ta đang giúp người đó trở về trạng thái thân tâm nhất như, thân tâm hợp nhất. Khi thân hợp nhất với tâm, thì ta tỉnh thức. Mỗi khi ta thở vào hơi thở chánh niệm, tức thở vào biết thở vào thì tự nhiên thân và tâm hợp nhất rất mau chóng. Khi bước một bước có chánh niệm thì thân tâm hợp nhất trở lại. Vì vậy trở thành người tỉnh thức không khó khăn gì hết, chỉ cần vài giây đồng hồ thôi là có thể trở nên người tỉnh thức. Có điều là có duy trì được trạng thái tỉnh thức đó để đừng rơi lại vào trạng thái lãng quên thì mới là hay. Chánh niệm là trạng thái tỉnh thức và có mặt hoàn toàn. Ngược lại với chánh niệm là thất niệm. Thất là đánh mất, niệm là chánh niệm. Thất niệm là đánh mất chánh niệm. Mỗi khi ta gây lầm lỗi, ta nói lời ác độc, ta làm những hành động không dễ thương, những lúc như vậy là ta không có chánh niệm. Những lúc như vậy ta bị thất niệm, bị kéo đi. Ta không phải là ta nữa. Ta không có chủ quyền đối với thân tâm của ta. Bụt là người có chủ quyền, Ngài an trú trong chánh niệm. Là học trò của Bụt, ta cũng phải thực tập như vậy. Quý vị tới đây nên thực tập đi từng bước chân chánh niệm, thở hơi thở chánh niệm, ăn cơm có chánh niệm. Đừng nói chuyện nhiều quá, đừng suy nghĩ vẩn vơ nhiều quá, phải trở về để sống trong chánh niệm.
Năng lượng của Bụt
Khi uống nước mà ta biết là ta đang uống nước, ta hoàn toàn để tâm vào chuyện uống nước trong suốt thời gian uống thì lúc đó là uống nước có chánh niệm. Còn khi uống nước mà tâm ý ta để ở chỗ khác thì lúc đó gọi là uống nước không có chánh niệm, hoặc là uống thất niệm, có nghĩa là đánh mất chánh niệm. Khi thở, ta để hết tâm vào chuyện thở thì đó là thở có chánh niệm. Thở có chánh niệm, uống có chánh niệm, đi có chánh niệm thì trong khi làm như vậy ta chế tác được năng lượng chánh niệm. Và nếu đang giận hờn mà ta chế tác được năng lượng chánh niệm thì năng lượng đó sẽ ôm lấy năng lượng của sự giận hờn trong ta. Năng lượng đó là năng lượng của Bụt ở trong ta. Người nào cũng có thể uống nước trong chánh niệm, đi trong chánh niệm, thở trong chánh niệm. Người có thực tập thì duy trì chánh niệm được lâu hơn, nhưng người chưa thực tập thì mới đi được hai bước là đã quên, mới uống có chánh niệm được một giây là đã lo suy nghĩ: "Trời ơi, hồi nãy mình quên lấy đồ ở ngoài trời vô; bây giờ trời mưa thì làm sao?" Khi tâm ta bị tán loạn đi, chánh niệm không có mặt được lâu dài. Chánh niệm là gì? Đó là khả năng có thể an trú được trong giây phút hiện tại, có thể ở yên trong giây phút hiện tại, có thể biết được những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Chánh niệm là năng lượng giúp cho ta có mặt tại đây để biết những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Đó là định nghĩa đầu của chánh niệm. Người tu là người chế tác ra năng lượng chánh niệm hàng ngày. Khi đi, các thầy và các sư cô tập đi trong chánh niệm; khi thở họ tập thở trong chánh niệm; khi ngồi, khi nấu cơm, khi rửa bát cũng vậy, họ cũng theo dõi hơi thở để chế tác năng lượng chánh niệm chứ không phải họ chỉ ngồi trong thiền đường để tu mà thôi. Ở trong nhà bếp, ở ngoài vườn rau cũng vậy, họ vừa làm, vừa thở, vừa thực tập chánh niệm. Chánh niệm càng nhiều, càng mạnh thì càng dễ có khả năng đối phó với những giận hờn, thất vọng, sợ hãi của ta vì chánh niệm là năng lượng của Bụt ở trong lòng ta.