Số lần đọc/download: 309 / 22
Cập nhật: 2020-07-08 19:36:12 +0700
Chương 5
T
ìm kiếm thông tin về Verona Bonn là một nhiệm vụ không tưởng. Tôi bắt đầu từ những nơi đơn giản, những trang web dòng họ, hồ sơ lưu trữ công cộng, tranh thủ thời gian giữa những lần trả sách và thêm những câu hỏi thông thường vào danh mục. Nhưng ngoài một bức ảnh một người phụ nữ mảnh dẻ đang giữ thăng bằng trên một bục nhảy cầu được cắt từ một bài báo, hầu như không có nhiều kết quả xuất hiện. Những kết quả chi tiết hơn đòi hỏi tôi phải trả tiền mới truy cập được hoặc là tôi phải sáp nhập với các tổ chức. Hiện tại tôi không thừa tiền để kết nối vào các trang gia phả. Giống như mẹ tôi, có lẽ bà tôi cũng làm việc dưới các nghệ danh khác nhau. Chắc hẳn Verona Bonn là cái tên cuối cùng của bà, nên có rất ít manh mối về việc tại sao một người nào đó lại viết nguệch ngoạc tên của bà ở phía sau một cuốn sách rất cũ, một cuốn sách thật khó hiểu.
Gánh xiếc Phép thuật Di động của Peabody không tồn tại ở bất cứ đâu ngoài cuốn sách, và tôi cũng không thấy bằng chứng nào về những gánh xiếc lưu động đương thời. Hình thức giải trí đặc biệt của Hermelius Peabody không được chào đón trong suốt thời kỳ cách mạng cho đến mãi năm 1792, khi John Bill Ricketts dựng một sân khấu ở Philadelphia. Tuy nhiên, từ những gì tôi biết, Peabody đã biểu diễn, lưu diễn và kiếm tiền ngay từ những năm 1774.
Tồi tệ hơn, những cái tên trong đó là thật.
Trên bàn tôi là một trang báo Catskill Recorder, số ngày 26 tháng 7 năm 1816 được in ra. Phải mất ba ngày tôi mới tìm thấy nó, nhưng lúc này, tôi đã đọc đi đọc lại trang báo nhiều đến mức khi nhắm mắt lại, những từ ngữ đó cứ bồng bềnh trong tâm trí tôi theo chiều hướng tiêu cực.
Ngày 24 tháng 7 năm 1816. Bess Visser, một diễn viên làm trò tiêu khiển đã chết đuối ở bến phà sông Hudson đoạn băng qua Fishkill, đoán chừng là đã tự kết liễu đời mình. Cô được cho ràng đã bị mất trí, phải chịu đựng những con mất ngủ liên miên. Cô qua đời, để lại cô con gái Clara bốn tuổi.
Ngày 24 tháng 7, và không chỉ đơn thuần là một vụ chết đuối, một vụ tự tử, giống như mẹ tôi. Có quá nhiều sự trùng hợp ở đây. Khi không tìm được bất kỳ một kết quả nào về Clara Visser, tôi lại tìm đến cuốn sách. Ở đó, trang phía sau, tôi đã tìm thấy Clara Petrova.
Chính điều này đã khiến tôi gọi lại cho Martin Churchwarry.
- Tôi nghĩ là ông muốn biết tôi đã tìm được gì.
- Tuyệt! Vậy có phải cuốn sách nói về bà anh không?
- Không, không trực tiếp đến thế. Dù vậy tôi còn tìm thấy những cái tên khác trong cuốn sách đó, một người nào đó tên là Bess Visser và cô con gái tên là Clara. Mẹ tôi biết cái tên Bess, vì vậy giữa họ có một sự kết nối nào đó. - Có điều gì đó trong tôi ngăn tôi không nói về ngày cả hai người họ cùng tự tử. Tôi cảm thấy đây là một chuyện khá riêng tư không nên chia sẻ. Thay vào đó tôi nói - Tôi nghĩ, trong một chừng mực nào đó, ông thực sự đã đem đến cho tôi một chút thông tin về gia đình tôi. - Tôi gần như có thể nghe thấy ông ấy cười.
- Anh thật tử tế khi nói vậy, Simon à. Cám ơn anh! Tôi rất vui khi biết rằng cuốn sách đó đã tìm được một ngôi nhà tuyệt vời.
- Thật sự là rất tuyệt vời. Tôi rất muốn cho em gái xem cuốn sách này. Có những hình vẽ bài Tarot trong đó, mà em gái tôi lại là một người bói bài. Mẹ tôi cũng vậy. Ước gì tôi biết nhiều hơn về chúng. Những hình vẽ rất thú vị. Hơi khác biệt một chút. - Tôi nghĩ về Enola, nó rất trầm lặng, nên tôi không thể tưởng tượng rằng con bé có thể nói với tôi mọi điều - Ông có cuốn sách nào hay về Tarot không?
- Bói bài hả? - Ông ta vừa nói vừa khẽ cười - Tôi chắc là có cuốn nào đó loanh quanh đây. ít nhất thì tôi cũng luôn có chút hứng thú với chủ đề này. Anh chờ máy một lát nhé.
Tôi nghe thấy tiếng ông ta bước quanh, tiếng đôi dép lê lướt xuống sàn, tiếp theo là tiếng móng vuốt cào vào gỗ cứng và một tiếng lẩm bẩm “Xuống ngay, Sheila”. Hóa ra là ông ta nuôi một con chó trong cửa hiệu. Tôi tưởng tượng đó là một con chó săn thỏ. Có điều gì đó về Churchwarry khiến tôi nghĩ đến chó săn thỏ. Ông ta đi xuống cầu thang, có một sự thay đổi mơ hồ ở những tấm ván cọt kẹt.
- Xem nào, thường thì tôi không tích trữ nhiều sách về vấn đề huyền bí, cha tôi hay sưu tầm những tác phẩm kinh điển hơn tôi, nhưng lưu giữ vài cuốn này cũng không bao giờ là một ý tưởng tồi tệ. A, ôi, đây rồi, Những nguyên lý tiên tri. Đó là tất cả những gì tôi có trong thời điểm này. Ấn bản thú vị. Năm 1910.
Tôi ghi nhanh tiêu đề cuốn sách lên một chiếc phong bì rồi kẹp vào cuốn sổ.
- Phiền ông xem giúp tôi xem có lá bài cụ thể nào trong đó được không? Ý tôi là, nếu ông không bận ấy.
- Ôi, tôi không bận gì đâu. Marie sẽ rất vui khi tôi nói chuyện với khách hàng. - Ông lão cười khúc khích, tôi không thể không hình dung đến một bà vợ nhẫn nhịn suốt một thời gian dài, có mái tóc bạc lưa thưa và hai má phúng phình. Tôi miêu tả lá bài và lắng nghe ông ta nhẹ nhàng lật giở từng trang sách.
- Có, có đấy. Hình vẽ anh mô tả có vẻ rất giống lá bài Tòa Tháp. Mục diễn giải nói rằng nó báo hiệu sự thay đổi đột ngột, có thể là mạnh mẽ. - Có một tiếng lẩm bẩm khe khẽ - Có một lời giải thích chi tiết hơn rất nhiều, nhưng tôi lại không hiểu. Tôi không biết nó hữu ích chừng nào bởi vì cuốn sách của chúng ta có trước cuốn Những nguyên lý ít nhất là một thế kỷ. Tuy nhiên, tự anh cũng có thể tra cứu được. Những nguyên lý là một cuốn sách tương đối phổ biến, dù bản của tôi tuyệt vời hơn, nếu anh quan tâm. Mép sách mạ vàng. Bìa sách dập nổi.
- Tôi có cảm giác rằng tôi không đủ tiền mua cuốn sách của ông.
- Và tôi càng giữ nó lâu hơn, tôi càng ít khả năng tài chính để giữ nó hơn. vấn đề hai mặt. - Ông ta thở dài.
- Vừa bán vừa cho thuê.
- Nhưng cũng chẳng có lấy một xu dính túi. - Ông ta vui vẻ nói -Dù vậy, tôi rất thích nói chuyện với anh. Tôi hy vọng anh sẽ cho tôi hay nếu anh tìm thấy bất cứ điều gì khác.
- Tôi sẽ làm vậy, ông Martin. - Tôi nói, và tôi giật mình nhận ra rằng tôi thực sự có ý đó. Nhưng không còn thời gian để ngẫm nghĩ nữa. Còn công việc của thư viện nữa.
Tôi tắm rửa, cạo râu. Khuôn mặt tôi trông thật mệt mỏi. Mái tóc đen rối bù, cằm chẻ, những nốt sần đỏ vì chiếc dao cạo cũ và vì độ ẩm không bao giờ để cho mồ hôi kịp khô. Alice đã hôn lên khuôn mặt này. Tối nay chúng tôi sẽ đến uống ở Oaks. Sẽ có một ban nhạc, một nhóm tứ tấu nhạc jazz, hay có thể là nhạc funk. Âm nhạc và rượu có thể biến nó thành một buổi hẹn hò, hay hai người bạn nghe nhạc và uống rượu. Tôi ấn tay vào cái cằm đang rớm máu. Phải chăng đây là khuôn mặt trong bữa sáng của tôi?
Tôi chộp lấy cuốn sách và chiếc phong bì. Tôi ngồi trong xe, nhìn chằm chằm về phía ngôi nhà. Cái mái xối lủng lẳng dưới mái nhà. Nó đã bị như vậy từ khi nào? Tôi nhìn đồng hồ. Tôi cần phải buộc lại vài mối. Công việc chắc cũng đơn giản thôi.
Vừa đi vừa nghĩ đến những chỗ thủng, mái nhà bị dột, nhóm tứ tấu nhạc jazz hay funk, cuối cùng tôi cũng đã đến thư viện. Những cô gái ở quầy lưu hành không nhìn tôi. Marci quay đi khi tôi đi ngang qua. Lời chào hỏi duy nhất là một không khí ngượng ngùng, với một cái ôm rất rộng.
Tôi sắp mất việc.
Một người đàn ông có phẩm giá có thể đi thẳng vào phòng Janice, nhưng tôi không phải là kiểu người đó. Tôi cần bàn làm việc của mình. Điều cuối cùng tôi có thể kháng cự là ngồi vào chiếc ghế đã trở thành một phần của tôi.
Chưa đầy năm phút sau tôi đã nghe thấy tiếng gót giày lộp cộp trên tấm thảm đang tiến đến. Hôm nay Janice mặc một bộ vest màu hồng thẫm, một bộ đồ quá ấm áp cho một ngày tháng 7. Bông tai ngày hôm nay là hai vỏ ốc bằng bạc.
- Simon?
- Chúng ta có thể nói chuyện ở đây không, Janice?
Trông cô ấy có vẻ không thoải mái, mắt cô ấy thậm chí còn có vẻ hơi lấp lánh. Nước mắt chăng?
- Nói chuyện trong phòng tôi sẽ dễ dàng hơn.
- Nếu điều đó chẳng có khác biệt gì thì tôi không muốn bước qua mọi người một lần nữa.
Môi cô ấy hơi hé mở, buông ra một tiếng a.
- Tôi hiểu. Chắc chắn rồi.
Cô ấy bắt đầu bằng việc nói chi tiết rằng cô ấy đã đấu tranh mạnh mẽ như thế nào, rằng nếu có cách xoay xở nào để tôi không phải ra đi thì cô ấy đã phải tìm thấy rồi. Tôi không thể nghe, ngay cả khi cô ấy nói đến việc cô ấy rất thích làm việc cùng tôi và thấy tôi phát triển. Giả vờ lắng nghe là một chiếc mặt nạ ưa thích dễ mang.
- Bộ phận tham khảo sẽ phải chịu tổn thất. - Cô ấy nói.
Dù cô ấy có ý định nói thế thật thì nó cũng gợi lên một sự đáng tiếc. Ở đó, bên cạnh chồng tạp chí định kỳ, là một bím tóc dày màu đỏ. Ôi, mẹ kiếp! Alice chắc hẳn đã nghe thấy tôi bị sa thải.
- Tôi rất lấy làm tiếc về chuyện này. Tôi không thể làm gì khác được.
Tôi nghe thấy chính mình đồng ý nghỉ việc trong hai tuần. Janice đề nghị sẽ gọi điện cho tôi. Tôi nói “Được rồi”. Lúc này tôi đang cám ơn cô ấy vì đã để tôi ra đi, chính việc này cũng thật bẽ bàng.
Sửa một cái máng xối bị gãy trở nên vô nghĩa khi tôi chẳng có tiền để sửa phần còn lại. Chỉ trong vòng vài phút đồng hồ, cả hai ngôi nhà của tôi đã đi tong.
Janice đã sai; tôi đã làm việc ở đây được mười hai năm, chứ không phải mười năm. Mười hai năm lúi húi làm việc một mình -sắp xếp, phân loại, kiểm tra, ghi mục lục, nghiên cứu, viết thư xin tài trợ, kêu gọi ủng hộ quỹ, và sửa sách. Tôi đã trở thành một phần của giấy tờ. Chúng là của tôi, mười hai năm làm việc với giấy và sách. Giờ thì tôi chỉ có một cuốn sách.
Alice bước về phía tôi. Chúng tôi đã cố gắng tránh nhau ở nơi làm việc. Thư viện là những nơi mọi người ngồi lê đôi mách - tất cả mọi người đều biết về thói nghiện rượu của chồng Marci gần như trước cả cô ấy. Chúng tôi rất cẩn trọng khi làm việc, chỉ nói chuyện với nhau khi cần thứ gì đó, khi tôi muốn mục lục của một phòng, hay khi cô ấy muốn hình ảnh của một chiếc loa, hay khi phải với thứ gì đó. Mọi người có thể với mọi thứ thế nào khi tôi đã ra đi chứ? Cô ấy đi vòng qua. Chiếc quần màu nâu bình dị quệt vào một cuốn sách khổ lớn. Tôi đã thấy điều đó: sự thương hại. Nó xuất hiện trong cái miệng mím chặt. Nó xuất hiện trong mí mắt khép hờ, khiến lông mi Alice bắt ánh sáng. Đó là một ánh nhìn đi kèm với câu Em rất, rất lấy làm tiếc. Mà từ rất thứ hai chính là yếu tố chủ chốt. Khả năng của từ rất thứ hai thật kinh khủng. Tôi bắt gặp ánh mắt cô ấy. Khuôn miệng biểu đạt Anh có ổn không? Tôi nhún vai, bởi vì tôi có thể làm gì khác chứ? Cô ấy đang đứng bên cạnh chiếc máy photocopy thì một người đàn ông lớn tuổi hơn vỗ vai cô ấy. Đôi giày thoải mái, tất trắng, áo sơ mi cài cúc cổ bằng vải mịn, quần soóc, đầu gối nhăn nheo. Những người đàn ông lớn tuổi yêu Alice. Cảm ơn Chúa vì điều đó. Ngay lúc này tôi không thể nói chuyện với cô ấy, sẽ không nếu tôi chưa cố gắng làm được điều gì. Tôi nhấc điện thoại lên và quay số của thư viện Millerston.
- Có phải Leslie đó không? Xin chào, tôi là Simon Watson ở thư viện Grainger.
Suốt 45 phút tiếp theo tôi đã nói chuyện hay để lại những lời nhắn cho các giám đốc của gần như tất cả mọi thư viện từ Babylon cho tới Mattituck. Gina ở thư viện Comsewogue rất tử tế, cô ấy nói với tôi rằng Janice đã gọi điện đến đó vì tôi.
- Cô ấy rất đau lòng. Anh sẽ nghĩ rằng anh chính là con trai cô ấy. Chúng tôi sẽ nhận anh vào nếu có thể, nhưng chúng tôi cũng chung cảnh ngộ. Điều duy nhất tôi có thể đề nghị là anh hãy làm việc tình nguyện cho tới khi anh có thể chuyển sang làm bán thời gian khi bọn trẻ trở lại trường học. Đó sẽ là một sự sỉ nhục.
Cấu vào làn da đầu mũi có thể không khiến tình hình thay đổi, nhưng cơn đau khiến cho cuộc trò chuyện trở nên dễ dàng hơn. Mọi việc thậm chí còn tồi tệ hơn với Laura ở thư viện Outer Harbor.
- Ước gì tôi có thể giúp anh, nhưng tôi cũng đang tìm chỗ cho chính mình. Hai tuần trước tôi đã nói chuyện với Janice hy vọng chỗ các anh có khả năng biến báo. Chẳng phải các anh có quỹ cho bộ sưu tập nghề săn bắt cá voi sao?
- Không đủ.
Khi tôi gác máy, chẳng có gì thay đổi ngoài thời gian cả. Hội người yêu sách gặp gỡ nhau trong những chiếc ghế bành cạnh những ô cửa sổ trước, một nhóm trẻ trèo lên bậc cầu thang. Sách phải được cho mượn, xếp lên giá, và sửa chữa. Tôi vẫn cần phải hoàn thành ứng dụng trợ cấp cho quỹ danh mục điện tử. Nó sẽ tiếp tục mà không có tôi. Tôi bắt đầu xem trang web Liz Reed đã gửi, xem xét các liên kết. Mục New York đầy những công việc trong thành phố: chuyên viên lưu trữ văn thư điện tử, kiến trúc sư thiết lập hệ thống thông tin, bất kể điều đó có nghĩa là gì. Ngay cả nếu tôi có biết nó nghĩa là gì, tôi cũng không thể nào giải quyết vấn đề đi lại được. Việc làm ở Long Island thì ít ỏi, chủ yếu đòi hỏi nhân viên thực tập hay những người chuyên về ngân quỹ, mà tôi thì không phải dạng nào trong hai dạng này. Ở cuối trang là một hộp nhỏ màu xanh quảng cáo vị trí phụ trách bản thảo cho Cơ quan lưu trữ Sanders-Beecher, một thư viện chuyên ngành ở Savannah, Georgia. Sau vài cú nhấp chuột tôi đã vào được trang web của cơ quan lưu trữ, đó là một tòa nhà hình trụ cổ kính đẹp đẽ. Ảnh chụp bên trong tòa nhà cho thấy những giá sách bằng gỗ tối màu lộng lẫy - gỗ óc chó hay anh đào nhỉ? - Và những căn phòng đầy những cuốn sách bọc da được xếp tù dưới sàn lên tận trần. Một đoạn giới thiệu ngắn gọn mô tả Sanders-Beecher là một cơ quan lưu trữ có “một sự tiếp cận cá nhân với một lịch sử rộng lớn hơn”. Họ tuyên bố mình là chủ sở hữu của từ những cuốn sách, tạp chí lần đầu được in ấn của Georgia, nhật ký của những người khai hoang thời kỳ đầu, và một chi nhánh bảo tàng. Tôi ngước nhìn bộ sưu tập về nghề săn bắt cá voi - một bức ảnh tĩnh chụp sự ám ảnh của Philip Grainger bị nhồi nhét vào hai căn phòng vô ích. Tôi cảm thấy có chút gì đó ấm áp và sống động khi nghĩ về Sanders-Beecher. Có thể đó là sự lãng mạn của lòng khát khao qua lăng kính màu hồng từ xa. Khoảng cách từ đây đến Savannah khiến cho vị trí đó giống như một điều ước hơn một thực tế, đặc biệt khi tôi còn có một ngôi nhà còn nhiều trăn trở. Và Enola thì lại sắp về nhà.
- Chào anh! - Alice thả một chồng sách gãy sống xuống bàn tôi. Cô ấy cúi người xuống, vuốt ve gáy sách. Móng tay cô ấy ngắn và được dũa cẩn thận, còn móng tay tôi bị cắn tới mức không còn móng tay nữa. Lòng thương hại của cô ấy đi kèm với một cái thở dài, điều đó cũng ổn thôi. Tôi muốn một chút thương hại.
- Chào em! - Tôi trả lời.
- Em rất tiếc rằng đó không phải là em.
- Em thật tốt bụng khi nói vậy, nhưng em không phải nói dối thế đâu.
- Được rồi. Em mừng rằng đó không phải là em, nhưng em rất tiếc rằng đó lại là anh.
- Tốt hơn rồi đấy.
- Tối nay em mời, được chứ? Anh muốn uống bao nhiêu cũng được, bất kể thứ gì. Anh có thể sướt mướt, anh có thể ở qua đêm ở chỗ em và em sẽ không kể với bất cứ ai cả.
Thậm chí tôi còn không biết tôi sẽ uống gì.
- Em uống gì khi em bị sa thải?
- Em nghĩ là rượu whisky lúa mạch đen.
- Nghe kinh khủng đấy.
Cô ấy mỉm cười:
- Nghe có vẻ ổn. - Chúng tôi cứ như vậy. Máy in kêu vo vo, máy photocopy rền rĩ, ngón tay gõ vào bàn phím - Anh mang cuốn sách đó đến mọi nơi. Tại sao vậy?
Tôi không biết chính xác là tại sao. Có cảm giác những lời ghi chép và hình vẽ thân quen một cách mơ hồ. Rồi đến việc chết đuối, và lý do tại sao mẹ tôi biết tên của Bess Visser, sự kỳ cục về ngày 24; nó trở thành một thứ khiến tôi thấy khó chịu.
- Có lẽ người gửi cho anh thứ này đã đúng. Anh chắc là nó phải có liên quan gì đó đến gia đình anh.
Alice liếc nhìn chiếc đồng hồ phía trên gờ máy tính. 11 giờ, cô ấy sắp phải chuẩn bị cho một diễn giả. Don Buchman nói về chủ đề những loài chim đầm lầy nước mặn. Cô ấy vươn vai:
- Anh không thể tìm thấy gia đình trong một cuốn sách đâu Simon à.
Tôi nhún vai:
- Em không thể chỉnh anh với những lời nói vô vị ấy đâu, Alice.
- Không, anh là một người bất trị. - cô ấy trả lời. Một tiếng cười khúc khích nhẹ nhàng, của tôi, của cô ấy. Bờ môi cong lên. Cô ấy nắm lấy tay tôi và cả hai chúng tôi cùng siết chặt - Em có thể làm bất cứ điều gì cho anh không?
Có thể là bởi vì Alice đã nói ra điều đó, có thể là bởi vì Enola vẫn chưa xuất hiện, song tôi muốn tìm kiếm gia đình tôi, trong cuốn sách này hay ở một nơi nào đó khác, để biết được đã có chuyện gì xảy ra với chúng tôi.
- Em có phiền nếu tìm hiểu kỹ hơn chút nữa cho anh không? Anh đang cần tìm bất cứ điều gì em có thể tìm được về hai người phụ nữ, tên là Verona Bonn và Celine Duvel. Anh gặp chút trở ngại.
- Em đang nghĩ đến điều gì đó liên quan đến việc rời đi sớm, nhưng được rồi, chắc chắn em sẽ làm. Em sẽ kiểm tra bạn tình tương lai cho anh.
- Không phải vậy đâu... họ là họ hàng với nhau. Chỉ là anh có chút tò mò. Anh nghĩ có thể họ có chút gì đó giống nhau.
Alice nhướng một bên mày:
- Anh có thể nói rõ hơn một chút không?
- Thực sự thì cũng không có gì. Chỉ là anh cần một dự án thôi. Em biết anh rồi đấy, anh giỏi với một dự án hơn.
- Em biết.
Tôi dành cả buổi sáng để dính bìa sách và chỉnh sửa lại ngôn ngữ tài trợ. Tôi gửi một sơ yếu lý lịch qua thư điện tử trong bữa trưa. Tôi cũng gửi một bản tới Sanders-Beecher, thậm chí là cả một bản đến một bảo tàng ở Texas nữa. Cái hay của việc nộp hồ sơ điện tử chính là khả năng tưởng tượng - hàng ngàn dặm biến mất chỉ với một cú nhấp chuột. Sau đó tôi giúp một cô bé tên là Lucinda tìm một cuốn sách trong mục văn hóa dân gian. Đó là một cuốn sách về selkie, một cuốn sách dày, có bìa bằng vải thô hồ cứng màu xanh lá. Tôi nhớ là mình đã lôi những sợi dây từ bìa sách nhiều năm về trước. Không xa cuốn sách về selkie là một cuốn sách nhỏ hơn có gáy sách trông thật sầu muộn. Những câu chuyện cổ tích - chuyện dân gian Nga, thần thoại và thơ ca Baltic. Mẹ đã đọc cuốn đó cho tôi nghe. Tôi không có quyền hơn bất cứ ai khác, nhưng tôi nhét nó dưới nách và lang thang trở lại nơi các chồng sách. Tôi cần thêm một cuốn sách nữa.
Cuốn Những nguyên lý tiên tri của thư viện có bìa bằng vải màu đỏ giản dị, chứ không được dập nổi như cuốn sách của Churchwarry. Nó là ấn bản mới hơn, đầy những hình minh họa mang hơi hướng nghệ thuật mới và dường như nó chỉ là một văn bản mang nhiều thông tin hơn là một sự tôn kính thuyết thần bí. Churchwarry nói đúng. Hình vẽ lá bài trong cuốn sách của tôi xem ra là một nguyên mẫu diễn tả quân bài Tòa Tháp, dù nó thô hơn bức tranh trong cuốn Những nguyên lý, và chỉ có một chứ không phải hai người đàn ông từ Tòa tháp rơi xuống những con sóng dữ dội. Hình minh họa trong cuốn Những nguyên lý thật đẹp và tinh tế, nhưng không giống hình trong cuốn sách của tôi. Nó báo hiệu một sự thay đổi, và cũng có thể đánh dấu một khởi đầu hay một kết thúc. Một quân bài phù hợp đáng để nghiên cứu cho những người mới mất việc. Tôi lẩn vào kho khoảng một tiếng đồng hồ để xem qua cuốn sách đó. Nhà kho là vương quốc của tôi, đó là một căn phòng có những tủ đựng tài liệu mốc meo không mấy khi được chạm tới để mà có được một vị trí trên giá sách. Lịch sử in ấn thuộc địa, nghề chăn nuôi, những tiểu sử bị lãng quên. Một ai đó khác sẽ phải trở lại đây. Khi tôi rời nhà kho và trở lại bàn mình, Alice đã để lại một chồng nhỏ những bài báo, ảnh, và dữ liệu in ra từ máy tính. Phía trên cùng chồng tài liệu là một tờ phiếu yêu cầu được viết bằng nét chữ nghiêng nghiêng sít sao.
M... một số thông tin về những cái tên anh yêu cầu. Bức tường phí với những thứ này là sao? Em có nên đề cập rằng anh đang tìm kiếm những người phụ nữ quá cố không? Tái bút: Cha em mới gọi cho em. Máng xối nước nhà anh bị rơi, vỡ rồi. Chúng ta hãy cùng say sưa nhé. Hãy đón em lúc 8 giờ. - A
Tôi kẹp những tờ giấy này vào giữa các cuốn sách rồi rời đi. Bước ra khỏi cửa đem đến cảm giác gần như đi bơi, và tôi hầu như không nhận ra bức tượng dây thép mà tôi ghét cay ghét đắng kể từ khi nó xuất hiện ở đây năm năm về trước. Tôi tung những cuốn sách lấy trộm vào ghế ngồi cạnh ghế lái cùng với cuốn sách của Peabody. Tôi có hai tuần để trả cho Janice, nhưng tôi sẽ không trở lại. trong gia đình tôi, chúng tôi không kéo dài thời hạn chia tay.
Tôi tăng tốc suốt quãng đường lái xe về nhà. Khi chiếc xe chạm đáy một chỗ trũng cạnh bến cảng, tôi phá lên cười.
Thực thế rằng ngôi nhà gần với vách đá trở nên thật rõ ràng khi tôi rẽ vào nhà. Thay vì ngồi xuống để xem những tài liệu Alice đã in cho tôi hay tắm rửa để đi chơi tối ở the Oaks, tôi lại sửa sang mái nhà.
Tôi nện búa và vật lộn để cho thanh kim loại bị cong trở lại hình dạng như một máng xối đang hoạt động. Dầm và ốc vít vẫn dính liền, như thể chính mái nhà đã dịch chuyển. Một tiếng đồng hồ quai búa và còng lưng, cái máng xối đã sẵn sàng được gắn trở lại mái hiên gie ra. Gỗ rơi tung tóe khi tôi mới bắt vít. Tôi điều chỉnh và thử lần nữa, nhưng nó lại bị lệch ra ngoài một lần nữa, làm cho một miếng gỗ đâm sầm xuống đất. Lần cố gắng thứ ba và thứ tư chỉ càng khiến cho những tấm ván lợp bị bung ra và mái hiên rời ra. Cái máng xối rơi xuống, bắt đầu một nét phác thảo vòng quanh thứ mà chẳng mấy chốc sẽ là một ngôi nhà chết. Mái nhà đang rất lụp xụp. Đây là thứ tôi nên biết để mà sửa chữa từ nhiều năm trước, nên biết rằng nó cần được bảo dưỡng, song không ai nói với tôi cả. Tôi bị bỏ lại với một ngôi nhà và một cô em gái mà không kèm theo bất cứ lời chỉ dẫn nào cả. Và vách đá thì ngày càng tiến sát gần hơn.
Tôi và Enola đã thường chạy xuống dưới đó, chân ngập sâu xuống. Tay trong tay, chúng tôi kéo nhau chạy đến rìa vách đá, há hốc miệng và hét vang. Chúng tôi đã nhảy xuống, đếm giây trước khi chạm xuống đất. Chúng tôi rơi với tư thế chân quỳ xuống, đất bên dưới đỡ lấy chúng tôi và nhường đường, để chúng tôi trượt xuống dưới biển. Mỗi bước chân làm mất dần những ngôi nhà quanh chúng tôi, ngôi nhà của tôi.
Tôi muốn lấy lại từng bước chân đó.
Tôi cứ để cái máng xối nằm đó. Nhảy qua nó để đi lên bậc thang, giật mạnh cánh cửa chết tiệt chưa bao giờ mở ra. Đi vào phòng khách. Cầm điện thoại lên. Gọi cho Alice.
- Anh đây.
- Anh đã bỏ trốn. - Cô ấy nói. Thật khó mà biết cô ấy cảm thấy như thế nào về chuyện đó.
- Anh xin lỗi! - Tôi nói, để cho an toàn - Em có phiền không nếu anh đón em sớm? Vậy có được không? Anh không thể ở đây ngay lúc này.