Đôi khi cố gắng hết sức cũng chưa đủ, mà còn phải làm những gì cần làm.

Sir Winston Churchill

 
 
 
 
 
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Cuckoo's Calling
Dịch giả: Hồ Thị Như Mai
Biên tập: new wind
Upload bìa: new wind
Số chương: 8
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3213 / 102
Cập nhật: 2015-11-04 19:05:47 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5: Phần Ba
orsan et haec olim meminise invabit.
Một mai giông bão tan rồi
Chuyện xưa nhắc lại bồi hồi có khi.
- Virgil, Aeneid, Quyển 1
1
Thứ Tư trời bắt đầu đổ mưa. Thời tiết đúng kiểu London, ẩm ướt và xám xịt. Thành phố lạnh lùng, đầy những gương mặt nhợt nhạt dưới bóng dù đen, mùi áo quần mãi không khô và cả tiếng mưa rơi đều đều đập vào cửa sổ văn phòng của Strike mỗi đêm.
Mưa ở Cornwall rất khác. Strike còn nhớ những cơn mưa quất vào ô cửa phòng hắn ở nhà mợ Joan cậu Ted. Hắn từng ở với cậu mợ mấy tháng, học trường làng ở St Mawes. Căn nhà nhỏ lúc nào cũng thơm mùi hoa và bánh nướng. Những kỷ niệm thời thơ ấu tự dưng ùa về khi hắn sắp đi thăm Lucy.
Chiều thứ Sáu. Mưa vẫn rơi rộn ràng trên bệ cửa sổ. Robin đang gói con búp bê lính nhảy dù cho thằng Jack. Ở góc bàn đối diện Strike viết một tấm séc, điền vào số tiền bằng lương tuần của Robin trừ đi khoản hoa hồng của Giải pháp Tạm thời. Lát nữa Robin sẽ đi dự phỏng vấn xin việc “nghiêm túc” (cuộc phỏng vấn thứ ba trong tuần đó). Hôm nay cô mặc complet đen, tóc búi cao, trông rất gọn gàng chỉnh tề.
“Xong rồi,” cả hai cùng lên tiếng. Robin đẩy món quà xinh xắn gói giấy in hình những chiếc tàu vũ trụ bé tí về bên kia bàn. Strike chìa tấm séc ra.
“Cảm ơn cô,” Strike nói, cầm lấy món quá. “Tôi không biết gói quà.”
“Hi vọng nó sẽ thích,” Robin vừa nói vừa nhét tấm séc vào túi xách.
“Vâng, chúc cô đi phỏng vấn may mắn. Cô có thích việc đó không?”
“Việc khá tốt. Bộ phận nhân sự của một công ty tư vấn truyền thông bên phía Tây thành phố,” cô đáp, chẳng có vẻ gì là nhiệt tình. “Anh đi ăn tiệc vui nhé. Hẹn thứ Hai gặp lại.”
Trời vẫn mưa dai dẳng, chuyện đi bộ hành xác ra phố Denmark chỉ để hút thuốc cũng trở nên khó nhọc hơn. Strike đứng dưới mái hiên nhô ra chỉ vừa đủ che mưa. Hắn ngẫm nghĩ có nên bỏ thuốc và tập luyện trở lại. Sức khỏe của hắn hình như cũng đang đội nón ra đi, theo chân tiền nong và nơi ăn chốn ở ấm cúng. Điện thoại bỗng đổ chuông.
“Báo cho anh biết là vụ anh cho manh mối có kết quả ngon lành,” Giọng Eric Wardle hể hả. Strike nghe cả tiếng máy xe và người nói chuyện ở đầu dây bên kia.
“Nhanh nhẹn đấy,” Strike bình luận.
“Ừ, tụi tôi nói là làm liền.”
“Vậy việc của tôi cũng xong luôn chứ?”
“Thì tôi gọi cũng là vì chuyện đó. Hôm nay thì hơi trễ. Thứ Hai tôi sẽ đem qua cho anh vậy.”
“Sớm hơn được không? Tôi sẽ nán lại đợi.”
Wardle cười, hơi móc máy.
“Anh tính công theo giờ mà đúng không? Sao không dây ra cho nhiều?”
“Tối nay đem qua thì tốt hơn. Nếu anh đem qua tối nay, lần sau có vụ gì anh sẽ được biết trước hết.”
Wardle im lặng trong giây lát, Strike nghe tiếng đàn ông trong xe Wardle rủa:
“Cái mặt thằng Fearney chết tiệt…”
“Được rồi,” Wardle trả lời. “Lát nữa tôi sẽ đem qua. Có khi bảy giờ mới qua được. Anh chờ được không?”
“Chắc chắn được,” Strike đáp.
Ba tiếng sau hồ sơ được mang đến, khi hắn vừa ăn cá tẩm bột và khoai tây chiên trong hộp xốp để trên đùi vừa xem tin tức London buổi tối trên TV. Người chuyển phát bấm chuông, Strike ký nhận một bưu kiện khá to gởi từ Sở cảnh sát London. Hắn mở ra, bên trong là một kẹp hồ sơ dày màu xám đựng đầy các bản sao. Strike mang hết về bàn của Robin vùi đầu nghiền ngẫm.
Hồ sơ gồm có lời khai của những người gặp Lula vào đêm cuối cùng trong đời cô, kết quả AND thu được trong căn hộ, bản sao sổ trực bảo vệ ở tòa nhà số 18, Kentigern Gardens; đơn thuốc rối loạn lưỡng cực của Lula, báo cáo khám nghiệm tử thi, y bạ của năm trước đó, danh sách các cuộc gọi vào máy di động và cố định và bản tóm tắt các nội dung tìm thấy trên máy tính xách tay của cô người mẫu. Ngoài ra có thêm một đĩa DVD, trên mặt đĩa Wardle ghi nguệch ngoạc Camera an ninh – 2 người bỏ chạy.
Ổ đĩa DVD trên chiếc máy tính cũ mèm của Strike đã bị hỏng từ khi mới mua. Hắn thảy cái đĩa vào túi áo khoác treo trên cửa gương rồi trở về bàn tiếp tục nghiền ngẫm hồ sơ, bên cạnh để sẵn cuốn sổ ghi chép.
Màn đêm buông xuống bên ngoài, ánh sáng vàng óng từ chiếc đèn để bàn đổ tràn lên mỗi trang giấy. Strike miệt mài đọc từ đầu đến kết luận cuối cùng. Giữa những lời khai đã được chuốt gọn, các mốc thời gian tỉ mỉ và mớ bản sao nhãn lọ thuốc trong tủ nhà Landry, Strike tìm kiếm sự thật hắn ngửi thấy sau những lời nói dối của Tansy Bestigui.
Khám nghiệm tử thi cho thấy Lula chết do va chạm với mặt đường, bị gãy cổ và xuất huyết nội. Phần trên cánh tay bị bầm. Khi ngã xuống cô chỉ mang một chiếc giày. Ảnh chụp tử thi cho thấy đúng như trang LulaNguồnCảmHứngBấtTận.com đã nhận xét, Lula có thay áo sau khi về nhà. Tử thi mặc áo đính kim sa và quần âu chứ không phải bộ đầm trong hình chụp cô ta lúc mới về đến nhà.
Strike đọc đến mấy bản lời khai không nhất quán của Tansy; lời khai đầu tiên chỉ nói chuyện đi từ phòng ngủ vào nhà vệ sinh; lời khai thứ hai thêm vào chuyện mở cửa sổ. Trong cả hai lần khai bà ta đều nói Freddie nằm trên giường. Cảnh sát có tìm thấy nửa tép cocaine trên thành bồn tắm và một túi xốp đựng cocaine giấu bên trong hộp băng vệ sinh trong tủ đồ ngay trên bồn rửa mặt.
Freddie khai là khi Landry ngã xuống thì ông ta đang ngủ, sau đó bị tiếng la hét của bà vợ đánh thức bèn chạy ngay vào phòng khách. Ông ta chỉ kịp thấy Tansy chạy qua, trên người mặc mỗi đồ lót. Bình hoa hồng dành cho Macc mà viên cảnh sát hậu đậu đã vô ý đánh vỡ đúng là quà của ông ta mừng Macc mới đến, cũng là để tự giới thiệu. Ông ta đúng là có muốn làm quen với nghệ sĩ nhạc rap này, có nghĩ tới chuyện mời Macc vào một vai trong bộ phim hành động gay cấn sắp tới. Ông ta phản ứng hơi quá về vụ bình hoa chẳng qua cũng là vì quá sốc trước cái chết của Landry. Ban đầu ông ta tin lời bà vợ khi bà ta nói có nghe thấy tiếng cãi nhau trên lầu. Sau đó, mặc dầu có phần lưỡng lự, ông ta cũng chấp nhận quan điểm của cảnh sát là lời khai của Tansy chịu ảnh hưởng bởi cocaine. Thói chơi thuốc của bà vợ làm cho cuộc sống của hai người rất căng thẳng. Ông ta thừa nhận với cảnh sát là ông có biết việc bà vợ thường xuyên dùng chất kích thích, nhưng không biết trong nhà sẵn có thứ đó.
Sau đó Bestigui nói thêm rằng ông ta và Landry chưa bao giờ vào thăm nhà nhau, ngay cả lần gặp ở nhà của Dickie Carbury (hình như sau đó cảnh sát mới biết vụ này vì Freddie được lấy lời khai tới hai lần) cũng không làm hai bên thân thiết gì hơn. “Cô ấy chủ yếu nói chuyện với những người khách trẻ tuổi, còn tôi thì phần lớn thời gian nói chuyện với Dickie, ngang tuổi tôi.” Lời khai của Bestigui trơn tuồn tuột, không có chỗ nào khúc mắc.
Strike đọc tiếp phần mô tả sự việc bên trong căn hộ nhà Bestigui rồi viết thêm mấy câu vào sổ. Hắn đặc biệt quan tâm tới nửa tép cocaine trên thành bồn tắm, và khoảng thời gian mấy giây sau khi Tansy thấy Lula ngã xuống bên ngoài cửa sổ. Ở đây cái cần có là sơ đồ căn hộ của Bestigui (không có sơ đồ hay bản vẽ gì đính kèm hồ sơ), nhưng Strike cứ nghĩ mãi về một chi tiết không thay đổi trong cả hai lời khai của Tansy: bà ta luôn khẳng định lúc sự việc xảy ra ông chồng vẫn còn đang ngủ. Hắn nhớ lại cách Tansy lấy tay vờ vuốt tóc để che mặt khi hắn cố hỏi chi tiết này. Xét một cách toàn diện, mặc cho cảnh sát đã kết luận, Strike cho rằng vị trí chính xác của hai vợ chồng nhà Bestigui khi Lula Landry ngã xuống vẫn chưa thể xác định rõ.
Hắn đọc tiếp hồ sơ. Lời khai của Evan Duffield gần khớp với những gì Wardle kể lại. Duffield thừa nhận là có ghì cánh tay bạn gái để giữ cô ở lại Uzi. Nhưng Lula vùng ra được và bỏ về; ngay sau đó hắn có đuổi theo. Chỉ có một câu nhắc tới mặt nạ chó sói, viết theo đúng ngôn ngữ khách quan không cảm xúc của viên cảnh sát phỏng vấn Duffield: “Tôi có thói quen mang mặt nạ đầu chó sói khi muốn tránh sự chú ý của giới săn ảnh.” Lời khai ngắn gọn của tài xế cũng khớp với diễn tiến Duffield kể. Ban đầu anh lái xe chở hắn tới Kentigern Gardens, rồi sau về phố d’Arblay, thả hắn xuống đó và đánh xe đi. Rõ là cảnh sát viết sẵn lời khai cho anh ta ký nên rất ngắn gọn, chỉ tường thuật sự việc mà không thể hiện thái độ căm ghét Duffield như Wardle có kể.
Thêm một vài lời khai khác làm chứng cho Duffield: từ người đàn bà nói có thấy hắn đi lên lầu để gặp tay buôn thuốc và từ chính Whycliff, tay buôn thuốc. Strike nhớ lại đoạn Wardle nói là cũng có khả năng Whycliff bao che cho Duffield. Nếu vậy, biết đâu bà ở dưới lầu cũng bị mua chuộc theo? Những người khai có thấy Duffield đi lang thang trên phố London đêm hôm đó thực ra chỉ có thể khẳng định là có trông thấy một người đàn ông đội mũ hóa trang chó sói.
Strike châm điếu thuốc rồi đọc lại lời khai của Duffield. Hắn ta vốn nổi tiếng nóng nảy và có thừa nhận là đã cố dùng vũ lực để ép Lula ở lại. Chỗ bầm tím trên cánh tay Lula chắc hẳn từ đây mà ra. Tuy nhiên, nếu đúng là tay này có chơi thuốc ở nhà Whycliff thì rất ít khả năng hắn đủ tỉnh táo để đột nhập vào tòa nhà số 18 Kentigern Gardens rồi nổi điên lên tới mức giết người. Strike biết quá rõ hành vi của những con nghiện heroin; hắn đã thấy khá nhiều hồi ở nhà hoang với mẹ. Khi dùng heroin người ta trở nên thụ động, dễ bị sai khiến, hoàn toàn trái ngược với màn hung hăng la hét thường thấy ở người nghiện rượu hoặc trạng thái hoang tưởng giậm giật khi vừa chơi cocaine. Strike biết hết thảy các thể loại nghiệp ngập, trong quân đội cũng có mà ngoài đời cũng có. Hắn thấy kinh tởm khi báo chí mạnh tay tô vẽ thói nghiện ngập của Duffield. Heroin không có gì hay ho cả. Mẹ hắn chết thảm trên tấm nệm dơ dáy ở góc phòng sau khi chơi thuốc, mãi sáu tiếng đồng hồ sau mới có người phát hiện ra.
Hắn đứng dậy, bước tới mở cửa sổ lấm tấm mưa tạt, bên ngoài tối đen. Tiếng bass từ dưới quán bar vọng lên to hơn nữa. Vẫn hút thuốc, hắn nhìn về phố Charing Cross lấp lánh ánh đèn xe và những vũng nước đọng. Nơi đó người ta đi chơi tối thứ Sáu, lảo đảo băng qua cuối phố Denmark, tay cầm dù nghiêng ngả, cười nói rộn ràng trong tiếng xe cộ. Strike tự hỏi không biết đến bao giờ hắn mới lại đi uống bia tối thứ Sáu với bạn? Khái niệm đó giờ đây thuộc về một thế giới khác, một phần đời đã lùi hẳn về sau. Giai đoạn dở dở ương ương mà hắn đang sống, gần như chỉ giao thiệp với mỗi Robin, rõ ràng không thể kéo dài mãi được. Nhưng hắn vẫn chưa sẵn sàng để bắt đầu lại. Hắn đã mất đi cuộc sống trong quân đội, mất cả Charlotte và một nửa cái chân. Hắn thấy mình cần phải tự làm quen với chính con người mới này, trước khi sẵn sàng đón nhận thái độ ngạc nhiên và thương hại của người khác. Đầu lọc thuốc lá màu cam rơi xuống con phố tối om, tắt ngúm trong rãnh nước đọng. Strike kéo cửa sổ xuống, trở về bàn và kéo tập hồ sơ về phía mình.
Lời khai của Derrick Wilson không có gì mới lạ. Hồ sơ không hề nhắc tới Kieran Kolovas-Jones hay mảnh giấy màu xanh mà anh ta có nói tới. Strike giở tiếp đến phần lời khai của hai cô gái ở cùng Lula trong buổi chiều cuối cùng, Ciara Porter và Bryony Radford.
Chuyên viên trang điểm nhớ lại là Lula rất vui vẻ và phấn khích về chuyện Deeby Macc sắp dọn đến. Nhưng Porter lại nói rằng hôm đó trông Landry “không giống cô ta thường ngày”, có vẻ “buồn và lo lắng”, nhưng khi hỏi thì không nói gì. Lời khai của Porter có một chi tiết lạ, chưa có ai nhắc đến. Người mẫu này nói rằng chiều hôm đó Landry tự dưng nói rất cụ thể về ý định “để lại hết” cho anh trai. Ciara không khai rõ Lula nói vậy trong hoàn cảnh nào; nhưng đọc qua thì có cảm giác như hôm đó Lula đang nghĩ quẩn.
Strike tự hỏi tại sao Bristow lại không nhắc đến chuyện Lula để lại hết tài sản cho anh ta. Đương nhiên Bristow đã có sẵn một mớ tài sản từ ông già. Có lẽ vì vậy mà một đống tiền nữa với anh ta cũng không có gì đáng nói, khác hẳn với Strike, trước nay chưa từng được thừa kế một xu teng.
Strike bắt đầu ngáp, hắn đốt một điếu thuốc nữa cho tỉnh ngủ và đọc lời khai của mẹ Lula. Theo như lời phu nhân Yvette Bristow, hôm đó bà vẫn còn khá mệt và chưa tỉnh táo hẳn vì mới vừa phẫu thuật, nhưng khẳng định rằng cô con gái “hoàn toàn vui vẻ” khi ghé thăm bà buổi sáng hôm đó. Lula không có biểu hiện gì khác thường, chỉ lo lắng cho tình trạng sức khỏe và khả năng hồi phục của bà. Strike đọc thấy trong lời khai của phu nhân Bristow một thái độ kiên quyết phủ nhận sự thật, nhưng cũng có thể là do cách viết cụt ngủn, không có cảm giác gì của viên cảnh sát lấy lời khai. Chỉ có một mình phu nhân Bristow cho là Lula chết do tai nạn, chắc sơ ý trượt chân ngã từ ban công xuống mặt đường đóng băng đêm đó.
Strike đọc lướt qua lời khai của Bristow, hoàn toàn khớp với những gì ông ta đã kể. Sau đó là lời khai của Tony Landry, cậu của Lula và John. Ông ta khai có đến thăm phu nhân Yvette Bristow sáng hôm đó, có gặp Lula và thấy Lula có vẻ “bình thường”. Sau đó ông ta lái xe xuống Oxford để dự hội nghị quốc tế về luật gia đình, đêm đó ở lại khách sạn Malmaison. Lời khai của Tony đi kèm với mấy dòng bình luận không rõ ràng về những cuộc điện thoại nào đó. Strike mở phần bản sao danh sách cuộc gọi xem có giải thích gì không.
Trong một tuần ngay trước khi sự việc xảy ra, Lula hầu như không hề đụng tới điện thoại để bàn. Ngày hôm trước khi cô ta chết thì hoàn toàn không dùng. Tuy nhiên hôm đó cô ta lại gọi hơn sáu mươi cuộc bằng điện thoại di động. Cuộc gọi đầu tiên lúc 9 giờ 15 phút sáng là gọi cho Evan Duffield; cuộc thứ hai lúc 9 giờ 35 phút cho Ciara Porter. Mấy tiếng sau đó không gọi cho ai cả, rồi từ 1 giờ 21 phút buổi chiều cô ta liên tục gọi cho hai số, cứ hết số này đến số kia. Số thứ nhất là Duffield, số thứ hai, theo như mấy chữ nguệch ngoạc bên cạnh dòng ghi lại cuộc gọi đầu tiên, là Tony Landry. Cô ta liên tục gọi cho hai người này. Thỉnh thoảng nghỉ hai mươi phút, rồi gọi trở lại, chắc chỉ bấm nút “redial” trên điện thoại. Lula hẳn đã gọi điện khi ở trong căn hộ có mặt cả Bryony Radford và Ciara Porter, mặc dù lời khai của cả hai đều không nhắc gì đến chuyện Lula liên tục dùng điện thoại.
Strike quay ngược lại phần lời khai của Tony Landry, trong đó không hề giải thích tại sao cháu gái lại muốn liên lạc với ông ta đến vậy. Ông ta khai là đã tắt điện thoại khi dự hội nghị, mãi sau đó mới thấy những cuộc gọi nhỡ buổi chiều. Ông ta không biết tại sao Lula gọi, và cũng không gọi lại vì khi ông ta thấy cuộc gọi nhỡ thì Lula cũng đã thôi không gọi nữa. Ông ta đoán (đúng y) là khi đó Lula đang ở hộp đêm.
Strike ngáp liên tục; hắn nghĩ tới chuyện đi pha cà phê nhưng không đứng dậy nổi. Đã rất muốn ngủ nhưng theo thói quen hắn vẫn muốn làm cho xong việc. Hắn lật đến phần bản sao sổ trực, ghi lại những người ra vào tòa nhà số 18 ngay hôm trước khi Lula Landry chết. Cuốn sổ cho thấy Wilson cũng không ghi chép kỹ lưỡng gì. Như Wilson đã nói với Strike, sổ không ghi lại những lần ra vào của chủ nhân các căn hộ, vậy nên trong sổ không nhắc gì đến Landry và hai vợ chồng Bestigui. Dòng đầu tiên là nhân viên bưu chính, tới lúc 9 giờ 10 phút sáng; sau đó lúc 9 giờ 22 phút là Giao bình hoa, nhà số 2, và cuối cùng lúc 9 giờ 50 phút là nhân viên bảo trì từ Securibell. Wilson không hề ghi nhân viên bảo trì đi khỏi lúc mấy giờ.
Ngoài những người đó ra thì đúng như Wilson nói, hôm đó khá yên tĩnh. Ciara Porter đến lúc 12 giờ 50; Bryony Radford lúc 1 giờ 20. Radford ra về lúc 4 giờ 40, có ký trong sổ khi ra về. Sau đó là mấy người mang đồ ăn cho nhà Bestigui lúc 7 giờ. Ciara đi ra cùng với Lula lúc 7 giờ 15 và người mang đồ ăn ra về lúc 9 giờ 15.
Strike khá bực mình vì cảnh sát chỉ photocopy lại mỗi một trang trong sổ, trang của ngày trước khi Landry chết. Vậy mà hắn đã hi vọng là biết đâu tìm ra được tên họ đầy đủ của Rochelle ở đó.
Gần nửa đêm, Strike đọc tới phần báo cáo các nội dung tìm thấy trên máy tính xách tay của Landry. Có vẻ như cảnh sát muốn tìm những email cho thấy tâm trạng trầm cảm hay manh mối về ý định tự tử, nhưng không tìm thấy gì cả. Strike đọc tất cả những email Landry gửi và nhận trong hai tuần trước khi cô ta chết.
Nghe có vẻ vô lý nhưng chính vô số hình ảnh lưu giữ sắc đẹp lạ thường của Lula khiến Strie có cảm giác cô người mẫu dường như không phải là người thật. Cô ta xuất hiện ở khắp mọi nơi, những đường nét dần trở nên trừu tượng và chung chung, cho dù gương mặt ấy vẫn đẹp không lẫn vào đâu được.
Giờ đây, giữa giấy trắng mực đen, giữa những dòng chữ thỉnh thoảng mắc lỗi chính tả, giữa những chuyện đùa và biệt danh mà chỉ người trong cuộc mới hiểu, bóng ma Lula dường như dần dần hiện ra trước mắt Strike, ngay trong văn phòng tối om. Email của Lula cho thấy điều mà những bức ảnh không thể nào làm được: Strike nhận ra, bằng cảm xúc chứ không phải lý trí, rằng trong đêm hôm đó, trên đường phố London phủ tuyết, đã có một con người thật sự, sống động, từng khóc từng cười; cô ngã xuống mặt đường và chết đi, cơ thể bầm dập tan nát. Hắn hi vọng sẽ thấy được bóng dáng thấp thoáng của tên sát nhân trong hồ sơ, nhưng thay vào đó, hắn chỉ thấy Lula hiện ra, nhìn hắn chằm chằm, như kiểu nhìn của những nạn nhân bị bạo hành, giữa đống tàn tích của một cuộc đời dang dở.
Hắn cũng hiểu được tại sao John Bristow khăng khăng là em gái ông ta không hề nghĩ đến cái chết. Người con gái từng gõ những dòng này hẳn là một người bạn nhiệt tình, quảng giao. Cô ta hơi bốc đồng, bận rộn nhưng lạc quan; say mê công việc và như Bristow có nói, rất phấn khích về chuyến công tác đến Morocco.
Phần lớn email gởi cho nhà thiết ké Guy Somé. Không có gì đáng lưu tâm, ngoại trừ giọng điệu gần gũi, vui vẻ nhẹ nhàng và một lần nhắc đến người bạn đặc biệt:
Geegee ơi, làm cho Rochelle một kiểu gì đó nha? Gần sinh nhật nó rồi. Tốn bao nhiêu em chịu hết. Làm cái gì dễ thương chút (đừng chơi ác nha). Ngày 21 tháng Hai được hông? Iu cưng nhiều. Cuckoo.
Strike nhớ trang LulaNguồnCảmHứngBấtTận.com có viết rằng Lula yêu mến Guy Somé như “một người anh trai”. Lời khai của Guy Somé trong hồ sơ cảnh sát cũng là lời khai ngắn nhất. Tuần trước ông ta ở Nhật Bản, vừa mới bay về ngay trong đêm Lula chết, Strike biết rằng nhà Somé rất gần Kentigern Gardens, nhưng có vẻ như cảnh sát không có nghi vấn gì khi ông ta khai là đi ngủ ngay khi vừa từ sân bay về. Strike để ý thấy nếu đi từ phố Charles đến Kentigern Gardens thì ngược chiều hẳn với camera an ninh đặt trên phố Alderbrook.
Strike đóng tập hồ sơ. Hắn đi lại trong văn phòng, nhọc nhằn cởi quần áo ngoài, tháo chân giả và mở giường xếp ra. Giờ hắn chẳng thể nghĩ gì hơn, chỉ thấy mệt mỏi kiệt sức. Hắn chìm ngay vào giấc ngủ, giữa tiếng xe cộ rì rào, tiếng mưa lộp độp bên ngoài và hơi thở không ngừng nghỉ của thành phố.
2
Ngay phía trước nhà Lucy có một cây mộc lan rất lớn. Cuối mùa xuân hoa sẽ rụng khắp bãi cỏ, như những mẩu khăn giấy bị vò nát. Bây giờ mới tháng Tư, cây mộc lan đội một đám mây trắng bồng bềnh đầy những cánh hoa màu cơm dừa. Strike chỉ mới đến đây có vài lần. Hắn rất ít khi tới nhà Lucy vì ở nhà lúc nào em gái hắn cũng luôn tay luôn chân, và cũng vì muốn tránh mặt ông em rể hắn không ưa gì.
Bóng bay cột đầy cổng, nhấp nhô trong cơn gió nhẹ. Strike đi trên lối vào hơi dốc trước cửa, gói quà kẹp dưới tay, tự nhủ rằng cuộc thăm viếng sẽ chóng xong thôi.
“Charlotte đâu?” Lucy hỏi ngay khi vừa mở cửa. Cô hơi thấp người, tóc vàng, mặt tròn.
Trong phòng khách có rất nhiều bong bóng to bằng giấy kiếng vàng, toàn là hình số bảy. Lâu lâu lại có tiếng trẻ con la hét không biết từ góc nào trong nhà, không rõ là đang phấn khích hay bị đau, làm náo động cả khu ngoại ô bình lặng.
“Cuối tuần này cổ phải về Ayr,” Strike nói dối.
“Sao vậy?” Lucy hỏi tiếp, bước lùi lại nhường lối đi cho hắn.
“Chị gái cổ có chuyện gì đó. Thằng Jack đâu rồi?”
“Tụi nó ở ngoài đó hết. Lạy Trời, vừa kịp tạnh mưa, không thì phải để tụi nó ở hết trong nhà,” Lucy nói, dẫn hắn ra vườn sau.
Ba thằng cháu của Strike đang chạy trên bãi cỏ đằng sau nhà, cùng với khoảng hai mươi đứa nhỏ khác, tất cả xúng xính áo quần. Chúng đang chơi trò gì đó, đua nhau chạy về mấy cái cột bóng cricket có dán hình trái cây, vừa chạy vừa la hét inh tai. Đám phụ huynh trợ giúp đứng chung quanh trong ánh nắng nhạt, tay cầm cốc nhựa đựng rượu. Greg, chồng của Lucy đang đứng chỉnh chiếc iPod đặt trên bàn xếp. Lucy mang ra cho Strike một ly bia lạnh, rồi lại chạy ào ra dỗ thằng con nhỏ nhất vừa ngã oạch một cú, vẫn còn gào ăn vạ.
Strike chẳng muốn con cái gì. Charlotte cũng đồng ý với hắn. Đây cũng là lý do tại sao những mối tình khác của Strike đều không đi tới đâu. Lucy hay xót xa chuyện này và cả những lý do đằng sau đó. Lucy dễ phật ý mỗi khi Strike nói về những thứ hắn muốn trong đời, vì khác hẳn với cô em gái. Những lúc đó, Lucy phản ứng như thể hắn đang lên án những quyết định và lựa chọn riêng của mình vậy.
“Khỏe không, Corm?” Greg lên tiếng. Ông em rể vừa nhường vị trí chỉnh nhạc cho một ông bố khác. Greg là một kỹ sư khối lượng công trình, luôn lúng túng không biết phải nói chuyện với Strike ra sao, cuối cùng thành ra kiểu xởi lởi đãi bôi. Greg hồ hởi: “Charlotte xinh đẹp đâu rồi? Không lẽ mới chia tay chia chân nữa hả? Ha ha ha. Thiệt bắt tin hai người muốn không kịp luôn.”
Một cô bé vừa bị xô ngã, Greg vội chạy đến giúp bà mẹ đang đỡ nó dậy, lại khóc mếu và cỏ ướt vấy đầy người. Trò chơi của bọn trẻ con càng lúc càng ồn ào, hỗn loạn. Cuối cùng người thắng cuộc được công bố. Đứa về nhì òa lên khóc, phải dỗ nó bằng một phần quà an ủi vừa lấy ra từ túi ni lông đen đằng sau bụi hoa tú cầu. Trò chơi bắt đầu lại lần nữa.
“Chào anh!” Một bà đứng tuổi rụt rè đi tới chỗ Strike đứng. “Hẳn anh là anh trai Lucy!”
“Vâng” hắn đáp.
“Tụi tôi có nghe vụ chân cẳng của anh, khổ thân,” bà ta nói tiếp, nhìn xuống chân hắn. “Lucy có kể hết. Hay thiệt hả? Lúc anh mới đi vô tôi chẳng thấy anh cà nhắc tí nào. Đúng là y học ngày nay tiến bộ ghê? Có khi bây giờ anh còn chạy nhanh hơn cả hồi xưa!”
Chắc bà ta tưởng hắn cũng mang một cái chân giả hình lưỡi liềm bằng sợi carbon như các vận động viên Paralympic. Hắn uống một hớp bia, gượng gạo mỉm cười.
“Có đúng vậy không?” bà ta vừa hỏi vừa liếc mắt điệu đà, tò mò lộ liễu. “Anh là con của Jonny Rokeby thiệt hả?”
Sự nhẫn nại của Strike đứt phựt một phát như mấy sợi chỉ mỏng manh bị kéo căng.
“Tôi cóc biết,” hắn đáp. “Sao chị không đi mà hỏi ông ta?”
Bà ta sửng sốt. Sau vài giây bà lẳng lặng bỏ đi. Hắn thấy bà ta đến nói gì đó với một bà khác, bà này ngay lập tức liếc về phía hắn. Lại một đứa trẻ con chạy ngã, đập đầu vào cột bóng cricket có gắn hình một quả dâu khổng lồ rồi hét lên một tiếng muốn rách cả màng nhĩ. Tranh thủ lúc đám đông đang xúm vào xuýt xoa nạn nhân mới, Strike bỏ vào nhà.
Phòng khách đơn giản, tiện nghi với ba chiếc ghế nệm màu xám. Trong phòng có bản in một bức tranh trường phái Ấn tượng treo trên bệ lò sưởi và mấy khung hình ba đứa cháu trai mặc đồng phục học sinh màu xanh đặt rải rác trên kệ. Strike đóng cửa phòng khách lại cho khỏi ồn rồi lấy đĩa DVD trong túi ra, bỏ vào đầu máy và bật TV lên.
Trên đầu TV có đặt một tấm ảnh chụp Lucy hồi sinh nhật ba mươi tuổi. Rick, bố của Lucy đang đứng với người vợ thứ hai, Strike đứng đằng sau, cũng là vị trí quen thuộc trong tất cả những bức ảnh có mặt hắn kể từ khi 5 tuổi. Lúc đó hắn còn đủ cả hai chân. Đứng cạnh Strike là Tracey, đồng nghiệp cũ của hắn ở SIB và cũng là chị dâu hụt của Lucy. Tracey sau đó làm đám cưới với một người bạn chung của cả hai và gần đây vừa sinh con gái. Strike định gởi hoa chúc mừng mà loay hoay mãi thế nào vẫn chưa gởi.
Hắn nhìn lên màn hình, rồi bấm nút “play”.
Đoạn băng trắng đen lấm tấm bắt đầu chạy. Một con phố phủ trắng tuyết, những bông tuyết dày rơi đều đều trước máy quay. Góc máy 180 độ cho thấy chỗ giao nhau giữa phố Bellamy và phố Alderbrook.
Một người đàn ông đi bộ một mình xuất hiện từ phía góc phải màn hình, tay đút trong túi quần. Ông ta mặc nhiều lớp áo, mũ áo chụp lên đầu. Phim trắng đen làm gương mặt ông ta thoáng nhìn qua rất lạ; rất dễ đánh lừa con mắt người xem. Ban đầu Strike tưởng là hắn thấy một gương mặt trắng bệch đeo băng bịt mắt màu đen, mãi một lúc sau mới nhận ra đó là một gương mặt người da đen quàng khăn trắng bịt hết cả mũi, miệng và cằm. Trên áo của người này có một hình gì đó, trông giống logo; ngoài ra không thể nhìn rõ gì khác.
Khi đến gần camera ông ta cúi đầu xuống, có vẻ như đang xem một vật gì vừa rút từ trong túi ra. Vài giây sau, ông ta đi về phía phố Bellamy và ra khỏi khung hình. Đồng hồ điện tử dưới góc phải màn hình cho thấy lúc đó là 1 giờ 39 phút.
Đoạn phim tắt phụt, chuyển cảnh. Sau đó là hình ảnh mờ mờ, cũng đoạn đường đó nhưng vắng tanh. Tuyết vẫn rơi dày cản tầm nhìn, đồng hồ ghi 2 giờ 12 phút. Hai người đàn ông xuất hiện. Người thứ nhất là người mang khăn quàng cổ trắng trong đoạn băng lúc nãy; chân dài và trông rất khỏe. Ông ta chạy thục mạng, hai cánh tay vung mạnh, thẳng xuống phía phố Alderbrook. Người thứ hai nhỏ con hơn, mặc áo thun có mũ và đội mũ rời; Strike để ý thấy bàn tay tối màu đang nắm chặt khi ông ta chạy hết tốc lực sau người thứ nhất, càng lúc càng bị bỏ xa. Dưới ánh đèn đường, chữ in trên lưng áo của ông ta ánh lên trong thoáng chốc. Đến giữa phố Alderbrook ông ta đột ngột rẽ trái theo đường nhỏ.
Strike xem lại đoạn băng thứ hai, rồi thêm một lần nữa. Hắn không thấy hai người này có liên lạc gì với nhau cả; không có dấu hiệu có gọi hay nhìn nhau, khi cả hai chạy khỏi màn hình. Cứ như mạnh ai nấy chạy.
Hắn xem đoạn băng lần thứ tư, rồi loay hoay bấm dừng hình ngay ở chỗ lưng áo của người thứ hai ánh lên. Hắn ghé sát mắt vào TV, nhìn thật kỹ hình ảnh mờ nhạt. Sau khoảng một phút nhìn chăm chú, hắn gần như chắc chắn từ đầu tiên trên áo kết thúc bằng chữ “ck”, nhưng từ thứ hai mà hắn nghĩ là bắt đầu bằng chữ “J” thì không thể đọc nổi.
Hắn bấm “play”, tiếp tục đoạn phim và cố xem người thứ hai đi về con phố nào. Sau ba lần xem thì hắn chắc chắn ông này đã rẽ vào phố Halliwell đúng như Wardle nói, dù bảng tên phố trên màn hình rất mờ.
Cảnh sát suy luận rằng nếu sau đó người thứ nhất gặp ngay người bạn ở quanh đó – mặc dù camera không ghi lại được, thì ít có khả năng anh ta là sát thủ. Nhưng nói vậy cũng có nghĩa là giả định hai người trong đoạn băng có quen biết. Strike phải thừa nhận rằng chuyện cả hai người cùng xuất hiện tại một nơi, trong điều kiện thời tiết như vậy, vào cùng một thời điểm và hành động gần như giống nhau thì rất có khả năng là đồng phạm trộm xe.
Đoạn băng tiếp tục, chuyển đến cảnh bên trong một chiếc xe buýt. Một cô gái vừa lên xe. Máy quay hẳn đặt ở vị trí ngay phía trên đầu lái xe. Gương mặt cô gái như bị kéo gần lại và bị phủ bóng nhưng vẫn thấy rõ cô có tóc vàng, buộc đuôi ngựa. Người đàn ông đi lên xe ngay sau đó rất giống với người đi ở phố Bellamy về phía Kentigern Gardens. Ông này trông cao lớn, mũ áo trùm đầu, choàng khăn trắng bịt mặt, phần mặt trên bị khuất ánh sáng không nhìn thấy được, nhìn kỹ trên ngực áo có chữ GS.
Hình ảnh lại nhảy đến cảnh phố Theobalds. Nếu người đang đi rất nhanh trên phim là người lên xe buýt thì đến lúc này chiếc khăn quàng cổ trắng đã được tháo ra, mặc dù vóc dáng và tướng đi rất giống. Strike thấy như ông này có vẻ đang cố cúi đầu xuống.
Phim đã chạy hết, trên màn hình chỉ còn màu đen. Strike vẫn ngồi đó, mắt nhìn màn hình, tiếp tục suy nghĩ. Một lát sau sực tỉnh, hắn hơi ngạc nhiên khi nhìn lại những thức có nhiều màu sắc và nắng rọi chung quanh.
Hắn lấy điện thoại ra gọi ngay cho John Bristow, nhưng không ai nghe máy. Hắn để lại lời nhắn, báo là đã xem hết các đoạn băng ghi hình và đọc hồ sơ của cảnh sát, hắn muốn hỏi Bristow thêm vài câu, liệu có gặp nhau tuần tới được không.
Sau đó hắn gọi cho Derrick Wilson, lại bị chuyển cuộc gọi vào hộp thư thoại. Hắn nhắc ông ta chuyện cho hắn vào xem bên trong số 18 Kentigern Gardens.
Strike vừa dập máy thì cánh cửa phòng khách mở ra, Jack, thằng cháu thứ hai rụt rè bước vào. Mặt mũi thằng bé đỏ gay, kiểu vừa chạy nhảy tưng bừng xong.
“Con nghe có tiếng cậu,” Jack nói. Thằng đó đóng cửa, cẩn thận y như ông cậu lúc nãy.
“Con không chơi ngoài vườn nữa à Jack?”
“Con vô nhà đi tè,” thằng bé trả lời. “Cậu Cormoran có quà cho con không?”
Strike vẫn còn cầm gói quà từ lúc mới đến. Hắn đưa cho thằng bé, ngắm những ngón tay bé xíu của nó xé toạc lớp giấy Robin đã cẩn thận gói ghém.
“A hay quá,” Jack reo lên. “Một chú lính.”
“Đúng rồi,” Strike đáp.
“Có súng đàng hoàng, đủ hết nè.”
“Ờ có hết.”
“Hồi trước cậu có súng không?” Jack hỏi, lật cái hộp lại để xem hình.
“Có hai khẩu lận.” Strike đáp.
“Cậu còn giữ không?”
“Không, cậu đem trả hết rồi.”
“Chán vậy.” thằng bé nói thản nhiên như không.
“Con không ra ngoài chơi à?” Strike hỏi, vừa lúc có tiếng la hét vọng vào từ ngoài vườn.
“Con không thích,” Jack trả lời. “Cho con mở hộp ra nghe cậu?”
“Ừ con mở đi,” Strike nói.
Trong lúc thằng Jack hào hứng xé luôn cái hộp, Strike rút đĩa DVD ra khỏi đầu máy và bỏ vào túi. Rồi hắn giúp thằng bé tháo chú lính nhảy dù ra khỏi tấm bìa cứng đính kèm và lắp súng cho chú.
Mười phút sau Lucy bước vào, thấy hai cậu cháu vẫn đang ngồi đó. Thằng Jack cầm chú lính, giả vờ bắn súng từ sau ghế sofa còn Strike thì ôm bụng giả vờ bị trúng đạn.
“Trời ơi, Corm, hôm nay là sinh nhật nó, nó phải ra chơi với mấy đứa kia! Jack, mẹ đã dặn là con vẫn chưa được mở quà kia mà… nhặt lên ngay… không, để đó, không được mang ra ngoài… không được, Jack, để hôm sau chơi tiếp… gần dọn thức ăn rồi còn gì…”
Lucy bực bội, vừa nhanh tay lùa ông con còn chần chừ ra khỏi phòng vừa quay lại liếc Strike một cái. Lucy mím môi lại, trông y hệt mợ Joan, mặc dù hai người chẳng máu mủ gì.
Gương mặt thoáng gợi nhớ mợ Joan ấy khiến Strike tự động hợp tác. Đúng ý Lucy, hắn không gây rắc rối thêm gì trong suốt buổi sau đó. Phần lớn thời gian hắn phân xử mấy vụ cãi nhau ỏm tỏi của đám trẻ con phấn khích, rồi hắn lánh sau cái bàn xếp chất đầy sương sa và kem, tránh mặt mấy bà mẹ nhiều chuyện lảng vảng xung quanh.
3
Sáng sớm Chủ nhật Strike còn đang ngủ thì điện thoại đổ chuông. Chiếc điện thoại vẫn còn đang cắm sạc ngay bên cạnh giường. Bristow gọi. Giọng ông ta nghe có vẻ căng thẳng.
“Tôi nhận được tin nhắn của anh từ hôm qua, nhưng mẹ tôi đang mệt mà chiều hôm nay lại không có y tá. Lát nữa Alison sẽ đến ở cùng tôi. Nếu anh rảnh ngày mai tôi gặp anh vào giờ nghỉ trưa nhé? Đã có gì mới chưa?” Ông ta hỏi, có vẻ hi vọng.
“Có vài thứ,” Strike đáp cẩn trọng. “À này, máy tính xách tay của em gái anh giờ ở đâu rồi?”
“Ở đây, ngay nhà mẹ tôi. Sao vậy?”
“Anh cho tôi mượn coi được không?”
“Được thôi,” Bristow đáp. “Ngày mai tôi sẽ mang theo.”
Strike đồng ý gặp ngày mai. Bristow đưa tên và địa chỉ chỗ ăn trưa yêu thích của ông ta ở gần văn phòng rồi dập máy. Strike với tay lấy điếu thuốc, nằm trên giường vừa hút thuốc vừa ngắm nghía mấy vệt ngang dọc trên trần do ánh nắng chiếu qua mành cửa. Hắn tận hưởng sự im lặng một mình, không có tiếng trẻ con gào thét, không có Lucy cố vặn vẹo hỏi chuyện hắn trong khi thằng con nhỏ nhất vẫn la hét inh tai. Strike tự nhiên thấy cái văn phòng này thật bình yên dễ chịu. Hắn dụi tắt điếu thuốc, ngồi dậy và chuẩn bị đi tắm ở trường Đại học như thường lệ.
Cuối cùng mãi đến khuya Chủ nhật hắn cũng liên lạc được với Derrick Wilson, sau vài cuộc gọi nhỡ khác.
“Tuần này chưa được,” Wilson nói. “Bà Bestigui dạo này hay qua đây lắm. Tui còn phải lo công chuyện của tui, anh hiểu chớ? Khi nào tiện tui sẽ gọi ngay cho anh, được không?”
Đầu dây bên kia có tiếng chuông cửa.
“Anh đang trực hả?” Strike hỏi, trước khi Wilson kịp dập máy.
Hắn nghe người bảo vệ nói với người mới vào:
“(Ký vô sổ giùm cái). Ờ, sao?” Wilson lớn giọng hỏi hắn.
“Nếu anh đang ở ngay đó, anh tìm luôn trong sổ trực tên họ của một người bạn của Lula được không? Khi trước thỉnh thoảng cô này có ghé qua.”
“Bạn nào kia?” Wilson hỏi. “(Dà, chào ha.)”
“Người mà Kieran có nhắc tới; bạn quen hồi đi trị bệnh, tên là Rochelle. Tôi muốn biết họ của cô ta là gì.”
“À cái cô đó hả,” Wilson đáp. “Được rồi để đó tui sẽ tìm rồi tôi sẽ g…”
“Anh tìm luôn giờ được không?”
Hắn nghe tiếng Wilson thở dài.
“Thôi được rồi. Đợi đó.”
Có tiếng bước chân qua lại, tiếng đồ đạc va vào nhau, tiếng lạo xạo rồi sau đó là tiếng mấy trang giấy sột soạt. Trong khi chờ đợi, Strike dạo mắt qua các mẫu thời trang do Guy Somé thiết kế trên màn hình máy tính.
“À đây rồi,” giọng Wilson vang lên. “Tên cổ là Rochelle… đọc không ra… hình như là Onifade.”
“Viết sao?”
Wilson đánh vần từng chữ, Strike ghi lại.
“Lần cuối cùng cổ ghé qua là khi nào vậy hả Derrick?”
“Hồi đầu tháng Mười Một,” Wilson đáp. “(Dà, xin chào.)” Tôi phải đi đây.”
Ông ta dập máy lúc Strike cảm ơn. Hắn quay trở lại với lon bia Tennent’s, xem tiếp mấy mẫu thời trang mặc ban ngày của Guy Somé, cụ thể là một cái áo khoác có khóa kéo và mũ, có gắn chữ GS hoa hòe mạ vàng bên ngực trái. Logo đó hầu như có ở tất cả các mẫu trang phục nam ở mục “đồ may sẵn” trên trang web. Strike không hiểu còn bày đặt nói tránh là “đồ may sẵn” để làm gì, nghe rõ rành rành ý là “đồ rẻ tiền hơn”. Mục thứ hai của trang web, được gọi đơn giản là “Guy Somé”, gồm toàn những mẫu áo quần lên tới vài ngàn bảng. Mặc cho Robin đã rất cố gắng, tác giả của những bộ complet màu hạt dẻ, các thể loại cà vạt len bản mỏng, những chiếc đầm mini gắn mảnh thủy tinh và các kiểu mũ phớt bằng da này vẫn tiếp tục giả điếc trước tất cả những lời yêu cầu phỏng vấn liên quan đến cái chết của cô người mẫu mà ông ta từng cưng nhất.
4
Mày tưởng tao không dám làm gì mày nhưng mày xai rồi thằng mặt lờ kia tao xẽ cho mày biết tay. Tao tin mày mà mày dám làm vầy với tao. Tao sẽ bẻ quách cái của nợ của máy rồi tộng xuống họng mày. Khi người ta tìm ra xác mày họ xẽ thấy mày nghẹn của nợ mà chết. Xong rồi bà già mày cũng xẽ không nhìn ra mày tao xẽ diết chếch mày thằng Strike thúi tha kia.
“Trời đẹp thật.”
“Anh làm ơn đọc cái này được không? Đọc giùm tôi một lần đi.”
Hôm đó là sáng thứ Hai. Strike vừa mới đi hút thuốc dưới phố về. Trời nắng tưng bừng, hắn vừa nói chuyện được một lúc với cô gái ở cửa hiệu đĩa nhạc đối diện. Robin thả tóc xuống; rõ là hôm nay cô không phải đi phỏng vấn. Suy luận nhỏ nhoi đó, cùng với ánh nắng sau những ngày mưa làm Strike thấy vui vui. Nhưng Robin trông có vẻ căng thẳng. Cô đứng sau bàn, đưa cho hắn tờ giấy màu hồng in chi chít hình mèo con.
“Lại nữa hả?”
Strike đọc qua bức thư, vừa đọc vừa nhe răng cười.
“Tôi không hiểu tại sao anh không báo cảnh sát,” Robin nói. “Mấy thứ ông ta dọa anh…”
“Cứ bỏ chung vô mấy cái trước đó.” Strike thờ ơ đáp, búng bức thư xuống bàn rồi lục lọi chồng thư còn lại.
“Được rồi, nhưng không chỉ có mỗi chuyện đó,” Robin nói tiếp, rõ là bực mình với thái độ của hắn. “Bên Giải pháp Tạm thời vừa gọi tới.”
“Vậy sao? Họ muốn gì?”
“Họ hỏi tôi có đây không,” Robin đáp. “Rõ là họ nghi ngờ tôi vẫn còn làm ở đây.”
“Rồi cô nói sao?”
“Tôi giả bộ làm người khác.”
“Thật nhanh trí. Cô giả ai vậy?”
“Tôi nói tên tôi là Annabel.”
“Cô biết không, người ta hay nói ra tên bắt đầu bằng chữ A khi bất thình lình phải bịa ra một cái tên.”
“Nhưng nếu họ cho người tới kiểm tra thì sao?”
“Thì sao?”
“Họ sẽ đòi tiền anh, không phải tôi! Họ sẽ bắt anh phải trả phí tuyển dụng!”
Strike mỉm cười trước nỗi lo hết sức thật lòng của Robin về chuyện hắn không có tiền để trả. Hắn đang định nhờ cô gọi điện cho văn phòng của Freddie Bestigui một lần nữa và tìm trên danh bạ số điện thoại bà dì ở Kilburn của Rochelle Onifade. Thay vào đó, hắn nói:
“Thôi được rồi, hôm nay mình sẽ đóng cửa đi ra ngoài vậy. Sáng nay tôi định đi tới Vashti rồi mới đi gặp Bristow. Có khi cô đi cùng tôi thì trông tự nhiên hơn.”
“Vashti? Boutique thời trang?” Robin nói ngay.
“Ừ, có có biết hả?”
Lần này đến lượt Robin mỉm cười. Cô từng đọc về Vashti trong các tạp chí. Với Robin, Vashti là nơi quyến rũ nhất ở London; nơi các biên tập viên thời trang tìm thấy những món đồ tuyệt vời để giới thiệu cho độc giả, toàn những món giá xấp xỉ sáu tháng lương của Robin.
“Tôi có nghe nói,” cô trả lời.
Strike với tay lấy áo khoác của Robin đưa cho cô.
“Mình sẽ giả bộ như cô là em gái Annabel của tôi. Cô sẽ giúp tôi chọn quà cho vợ.”
“Cái ông dọa giết anh đó bị làm sao vậy?” Robin hỏi, lúc hai người đang ngồi trong tàu điện ngầm. “Ông ta là ai?”
Cô đã kiềm chế sự tò mò về Jonny Rokeby và người đẹp tóc đen chạy khỏi văn phòng của Strike hôm đầu tiên cô đến làm, cũng không nhắc gì đến cái giường xếp. Nhưng rõ là cô có quyền hỏi vụ này. Vì chính cô chứ không ai khác mở hết cả ba cái bì thư màu hồng và phải đọc những dòng chữ bạo lực gớm ghiếc viết nguệch ngoạc trên nền đám mèo con đang đùa giỡn đó. Strike thì chẳng bao giờ thèm ngó tới.
“Ông đó là Brian Mathers,” Strike đáp. “Ổng tới gặp tôi hồi tháng Sáu năm ngoái, nghi ngờ là bà vợ đi ngủ nghê lung tung. Ổng muốn tôi theo dõi bà ta, vậy là tôi theo dõi trong một tháng. Bà ta rất bình thường: không xinh không xấu, ăn mặc lôi thôi, tóc uốn xồm xoàm; làm kế toán trong một nhà kho phân phối thảm lót. Ngày thường đi làm bả ngồi chung một văn phòng nhỏ với ba nữ đồng nghiệp khác, thứ Năm thì đi chơi bingo, thứ Sáu thì đi siêu thị Tesco mua đồ ăn cả tuần, còn thứ Bảy thì đi sinh hoạt câu lạc bộ Rotary với ổng.”
“Vậy còn giờ nào mà ngủ nghê lung tung?” Robin hỏi.
Trong tấm cửa sổ đen mờ đục đối diện, bóng của cả hai in trên đó cũng đang nghiêng ngả theo nhịp tàu, nhợt nhạt dưới ánh đèn sáng chói trên đầu. Gương mặt Robin trông cứng tuổi hơn nhưng thoáng vẻ mơ màng, còn Strike trông càng thô ráp và xấu xí hơn nữa.
“Tối thứ Năm.”
“Bà ta làm vậy thật hả?”
“Không, bà ta đúng là chỉ đi chơi bingo với một bà bạn tên là Maggie, nhưng trong suốt bốn ngày thứ Năm tôi theo dõi, bà ta luôn luôn cố tình về nhà trễ. Bà ta lái xe vòng vèo một hồi sau khi tạm biệt bà Maggie. Có hôm bà ta đi vô quán bia, ngồi một mình tuốt trong góc quán, có vẻ khép nép lắm, uống mỗi nước ép cà chua. Hôm khác thì bà ta ngồi trong xe ở cuối đường ngay gần nhà suốt bốn mươi lăm phút rồi mới lái xe về nhà.”
“Vì sao vậy?” Robin hỏi, con tàu rung lắc rầm rầm qua một đường hầm dài.
“Vấn đề là ở chỗ đó còn gì? Để chứng tỏ gì đó? Để ổng phải nghi ngờ? Chọc tức ổng? Trừng phạt ổng? Cố làm thêm chút gia vị vào cuộc hôn nhân tẻ nhạt? Tối thứ Năm nào bà ta cũng ráng về trễ.”
“Ổng rất đa nghi, nên cắn câu ngay. Ổng quay quắt muốn điên luôn. Ổng tin chắc là bà này đi gặp bồ mỗi tuần một lần, được bà bạn Maggie bao che cho. Ổng cũng có tự theo dõi rồi nhưng ổng nghĩ là bà ta biết trước nên hôm nào ổng đi theo thì bà ta chỉ đi chơi bingo thôi.”
“Rồi anh nói sự thật với ổng?”
“Ừ, nói hết. Ổng không tin lời tôi. Ổng rất tức tối, la hét om sòm rằng ai cũng mưu mô hại ổng. Không chịu trả tiền công điều tra luôn.
“Tôi sợ ổng làm gì bà vợ. Sai lầm ở chỗ đó. Vậy là tôi điện cho bà ta và kể là ông chồng trả tiền để tôi theo dõi nhưng tôi biết bà ta không có gì hết. Tôi nói luôn là ông chồng tức gần đứt dây thần kinh rồi. Tôi có khuyên là bà ta nên cẩn thận, đừng khích ổng quá. Bả không nói một tiếng, dập máy luôn.
“Ổng thường xuyên kiểm tra điện thoại của bà vợ. Ổng thấy có số của tôi, vậy là tự rút ra kết luận hiển nhiên.”
“Rằng anh đi kể với bà vợ vụ ổng thuê anh theo dõi?”
“Không, là tôi bị sắc đẹp của bả quyến rũ và trở thành bồ mới của bả.”
Robin lấy tay bịt miệng. Strike cười phá ra.
“Khách của anh toàn dân khùng khùng vậy hả?” Robin hỏi, sau khi bỏ tay xuống.
“Ông đó thì khùng thiệt, nhưng thường họ chỉ bị căng thẳng thôi.”
“Tôi đang nghĩ tới John Bristow,” Robin ngập ngừng nói. “Bà bồ ổng nghĩ là ổng tự lừa dối mình. Còn anh nghĩ là ổng có thể hơi… anh biết rồi đó, phải vậy không?” Cô hỏi. “Lúc anh với ổng ở trong phòng tụi tôi có nghe,” Robin nói thêm, hơi ngượng ngùng. “Ổng có nói gì mà ‘nhà tâm lý học tự phong’ đó.”
“Ra vậy,” Strike đáp. “Có thể… tôi đã đổi ý.”
“Ý anh là sao?” Robin hỏi, đôi mắt xanh xám trong veo mở to. Tàu đột ngột dừng lại; bóng người bên kia cửa sổ liên tục lướt qua, mỗi lúc một rõ nét hơn. “Vậy… ý anh là… có khi ổng nói đúng… là thật sự có người…?”
“Tới nơi rồi.”
Boutique màu trắng nằm ở lô đất đắt đỏ nhất ở London, trên phố Conduit, gần ngay chỗ giao nhau với phố New Bond. Với Strike những ô cửa đầy màu sắc ở đây trưng bày một đống hổ lốn những thứ không hề cần thiết chút nào. Nào là gối đính cườm, nến thơm đựng trong hũ bạc, rồi vải the phủ điệu đàng, áo thụng kaftan lòe loẹt trên người những mannequin không có gương mặt, túi xách tay kềnh càng, vừa xấu xí vừa phô trương… Tất cả được đặt trên một phông nền kiểu pop-art. Một màn tán dương chủ nghĩa tiêu thụ khiến Strike vừa ngứa mắt vừa bực mình. Hắn có thể tưởng tượng ra Tansy Bestigui và Ursula May ở đây, ngó nghiêng nhãn giá với con mắt sành sỏi, lựa túi xách bằng da cá sấu giá hàng ngàn bảng, hí hửng tiêu xài để bù lại những cuộc hôn nhân không tình yêu.
Robin đi bên cạnh, cũng ngắm nghía ô cửa trưng bày nhưng đầu mải nghĩ đâu đâu. Sáng hôm đó cô vừa nhận được lời mời đi làm chỗ mới ngay trước lúc Giải pháp Tạm thời gọi, khi Strike còn đang hút thuốc dưới nhà. Mỗi lần nghĩ đến chuyện phải quyết định nhận lời hay từ chối trong vòng hai ngày tới, Robin lại thấy nhói lòng. Cô thấy như đang cố tự thuyết phục rằng mình rất vui, trong khi thực ra lại vô cùng đau khổ.
Nhưng chắc là cô phải nhận lời thôi. Công việc mới có quá nhiều ưu điểm. Lương đúng y mức mà cô và Matthew mong muốn. Văn phòng tươm tất, vị trí thuận lợi ở phía Tây thành phố. Cô có thể đi ăn trưa với Matthew mỗi ngày. Thị trường lao động hiện giờ rất trì trệ. Đáng ra cô phải mừng mới đúng.
“Vụ phỏng vấn hôm thứ Sáu ổn không?” Strike hỏi, nhíu mắt nhìn một mẫu áo khoác đính kim sa mà hắn thấy xấu kinh hồn.
“Cũng được,” Robin trả lời mơ hồ.
Cô nhớ lại cảm giác phấn khích chỉ vài phút trước đó khi Strike ám chỉ về tên sát thủ. Không biết hắn ta đùa hay thật? Robin để ý thấy hắn đang nhìn chằm chằm vào đám đồ trang trí màu mè, rõ là hắn đang (trong giây lát Robin nhìn hắn với đôi mắt của Matthew và suy nghĩ bằng giọng điệu của Matthew) làm bộ nghiêm trọng. Matthew liên tục bóng gió rằng Strike là một tên bịp bợm. Dường như chồng sắp cưới của Robin nghĩ rằng thám tử tư là một công việc viển vông, hệt như phi hành gia hay chuyên gia huấn luyện sư tử vậy, tức là công việc mà người thường chẳng ai làm cả.
Robin nghĩ nếu cô nhận lời công việc nhân sự này, cô có lẽ không bao giờ biết (trừ khi một ngày kia báo chí đưa tin) cuộc điều tra sẽ đi tới đâu. Chứng minh sự thật, tìm ra lời giải, truy bắt tội phạm, bảo vệ kẻ yếu đuối: toàn là những việc đáng làm, vừa quan trọng vừa thú vị. Robin biết rằng nếu biết cô đang nghĩ vậy, Matthew sẽ cho là cô thật trẻ con và ngây thơ, nhưng cô không sao kiềm lòng được.
Strike đứng quay lưng về phía Vashti, nhìn thứ gì đó bên phía phố New Bond. Robin nhận ra hắn đang dán mắt vào chiếc thùng thư màu đỏ ngay bên ngoài cửa hàng Russell và Bromley, khe bỏ thư hình chữ nhật tối om như đang liếc nhìn lại cả hai người.
“Được rồi, đi vào thôi,” Strike quay về phía cô dặn dò. “Đừng quên cô là em gái tôi và tụi mình đang đi mua quà cho vợ tôi.”
“Nhưng thực ra mình tới đây để làm gì?”
“Tìm hiểu xem Lula Landry và cô bạn Rochelle Onifade làm gì ở đây hôm Landry chết. Hôm đó họ gặp nhau ở đây chỉ mười lăm phút rồi đi về. Tôi cũng không hi vọng gì lắm; đã ba tháng rồi, mà có khi lúc đó cũng chẳng ai để ý. Nhưng mà cứ thử xem sao.”
Tầng trệt của Vashti dành trọn cho áo quần. Một tấm biển chỉ dẫn với mũi tên chỉ lên phía cầu thang gỗ ở trên, dẫn tới một quán café và khu bày các món điểm tô cho “phong cách sống”. Có vài khách hàng nữ đang lựa đồ treo trên giá bằng thép sáng loáng. Họ đều gầy, da rám nắng, tóc dài gọn gàng trông như vừa mới đi sấy gội về. Nhân viên cửa hàng không ai giống ai; áo quần lập dị, tóc tai kỳ khôi. Một người trong số đó mặc cả váy ballet và mang tất lưới đang đứng sắp xếp lại chỗ trưng bày mũ.
Strike ngạc nhiên khi thấy Robin mạnh dạn đi thẳng về phía cô này.
“Chào cô,” Robin vui vẻ nói. “Cửa sổ ở giữa có một cái áo khoác đính kim sa đẹp quá. Tôi thử được không?”
Tóc cô nhân viên trắng xóa, bồng bềnh như kẹo bông, mắt kẻ màu mè và không hề có chân mày.
“Được thôi, không thành vấn đề,” Cô ta trả lời.
Nhưng rõ là cô ta nói dối: lấy cái áo ra khỏi cửa sổ trưng bày là cả một vấn đề. Đầu tiên là phải lấy xuống từ mannequin đang mặc, rồi phải gỡ hết mấy cái thẻ điện tử ra. Mười phút sau cái áo vẫn chưa được đem tới, cô nhân viên đầu tiên phải gọi thêm hai đồng nghiệp đến giúp một tay. Trong khi đó, Robin đi quanh cửa hàng, không nói gì với Strike, lựa ra vài bộ đầm và dây thắt lưng. Tới khi chiếc áo khoác kim sa được mang đến, cả ba nhân viên tham gia tháo gỡ đều tỏ ra hết sức hăng hái nhiệt tình. Cả ba đi theo Robin về phía phòng thay đồ, một người giúp Robin mang hết đám áo cô mới lựa thêm, hai người còn lại khiêng chiếc áo khoác.
Buồng thử đồ có rèm kéo là một khung sắt phủ lụa dày màu kem, trông như một cái lều. Strike tiến lại gần vừa đủ để nghe tiếng người nói bên trong. Hắn thấy tới lúc này đây, hắn mới nhận ra cô thư ký tạm thời tài giỏi tới mức nào.
Robin mang mớ áo quần trị giá cũng phải hơn mười ngàn bảng vào buồng thử đồ, riêng chiếc áo khoác kim sa cũng phải đến năm ngàn. Bình thường cô không có gan làm chuyện này nhưng sáng nay Robin thấy khác hẳn: cô trở nên liều lĩnh và bạo dạn. Cô đang chứng minh một điều gì đó với chính bản thân mình, với Matthew và thậm chí là với cả Strike. Ba nhân viên cửa hàng chộn rộn quanh Robin, thay nhau treo áo và vuốt thẳng mấy nếp gấp trên áo khoác. Robin không hề thấy xấu hổ rằng cô còn không thể mua chiếc thắt lưng rẻ nhất đang vắt trên cánh tay xăm trổ của cô nhân viên tóc đỏ. Cô cũng chẳng ngại gì khi nghĩ đến cả ba nhân viên cửa hàng sau một hồi đua nhau phục vụ sẽ không nhận được một đồng hoa hồng nào cả. Robin còn nhở cả cô nhân viên tóc hồng đi tìm chiếc áo khoác ngắn mạ vàng mà cô này cứ nói là rất hợp với Robin và sẽ rất đẹp nếu mặc chung với chiếc áo đầm xanh lá cây mà Robin đã lựa.
Robin cao hơn cả ba cô nhân viên. Khi cô đổi chiếc áo khoác thắt eo bằng chiếc áo khoác đính kim sa, cả ba cô gái trầm trồ xuýt xoa.
“Tôi phải đi ra cho ông anh xem,” Cô nói với ba người, sau khi soi gương kỹ càng. “Cái này không phải mua cho tôi, mấy cô biết đó, mà mua cho vợ của ảnh.”
Nói rồi Robin đi ra khỏi phỏng thử đồ, ba cô nhân viên vẫn lượn lờ theo sau. Mấy khách hàng giàu có đang lựa đồ bên giá quay lại liếc mắt nhìn Robin. Cô tỉnh bơ hỏi:
“Anh thấy sao?”
Strike phải thừa nhận rằng chiếc áo mà lúc nãy hắn thấy xấu kinh hồn trông khá hơn hẳn khi Robin mặc vào. Cô xoay một vòng, chiếc áo lấp lánh như da rắn.
“Cũng được,” hắn nói, ra vẻ cẩn trọng rất đàn ông. Mấy cô nhân viên mỉm cười lấy lòng. “Ừ, cũng khá xinh. Bao nhiêu vậy?”
“Với anh thì không đáng gì,” Robin nói, tinh nghịch liếc nhìn mấy cô nhân viên. “Chị Sandra sẽ rất thích cái này,” cô quả quyết với Strike. Bất ngờ, hắn nhe răng cười. “Với lại sinh nhật bốn mươi tuổi thì phải thế chứ.”
“Chị ấy có thể mặc kèm với đồ gì cũng được,” cô gái tóc kẹo bông hăm hở nói với Strike. “Áo này dễ phối lắm.”
“OK, tôi sẽ thử tiếp bộ đầm Cavalli,” Robin vui vẻ nói rồi quay lại phòng thử đồ.
“Chị Sandra có dặn tôi phải đi với ảnh,” cô kể với ba cô nhân viên khi họ giúp cô cởi áo khoác và kéo dây khóa chiếc đầm cô vừa chỉ. “Để chắc chắn là ảnh không có mua gì tầm bậy. Anh tôi tặng chỉ đôi bông tai xấu nhất thế giới hồi sinh nhật ba mươi tuổi, giá tiền cắt cổ mà chỉ chưa bao giờ đeo nổi.”
Robin không biết làm sao mình lại bịa ra câu chuyện đó; cô chỉ thấy thật hứng thú. Cởi xong áo len và váy, cô chui vào chiếc đầm ôm sát màu rắn lục. Càng bịa, Robin càng thấy Sandra trở nên thật hơn: một bà chị dâu được cưng chiều quá đâm phát chán, bèn đi than phiền với cô em chồng rằng ông chồng mình (một chuyên viên ngân hàng, mặc dù Robin thấy Strike trông chẳng giống chuyên viên ngân hàng chút nào) là người không hề có mắt thẩm mỹ.
“Vậy là chị dặn tôi dắt ảnh tới Vashti rồi bắt ảnh mở ví ra. Ôi, cái này xinh quá.”
Chiếc đầm còn hơn là xinh nữa. Robin nhìn mình trong gương; cô chưa bao giờ mặc thứ gì đẹp như vậy trong đời. Chiếc đầm màu lục được cắt rất khéo, khiến vòng eo của cô trở nên nhỏ xíu, tạo dáng đường cong uyển chuyển trên cơ thể và làm cho chiếc cổ trắng muốt của cô như dài ra. Robin giờ đây là nữ thần rắn, lấp lánh xiêm y màu xanh. Ba cung nữ đứng quanh thì thầm xuýt xoa ngưỡng mộ.
“Bao nhiêu?” Robin hỏi cô gái tóc đỏ.
“Hai ngàn tám trăm chín mươi chín bảng” cô gái trả lời.
“Không là gì với ảnh hết,” Robin đáp như không, bước ra khỏi phòng thử đồ để cho Strike xem. Strike đang mân mê mấy chiếc găng tay bày trên bàn tròn.
Bình luận duy nhất của hắn khi thấy chiếc đầm xanh là “Ừa.” Hắn gần như không nhìn cô luôn.
“Để coi, có lẽ Sandra không hợp màu này,” Robin nói, tự dưng thấy ngượng ngùng. Strike đâu phải anh trai hay bồ bịch gì của cô, có lẽ cô đã đẩy trò này đi quá xa… mặc đầm bó sát lượn qua lượn lại trước mặt hắn. Cô quay trở lại phòng thay đồ.
Robin vừa cởi đồ vừa nói:
“Lần cuối cùng Sandra tới đây có thấy Lula Landry ở trên quán café. Sandra có nói là ở ngoài trông Lula rất đẹp. Hơn trong hình nhiều.”
“Ồ vâng, đúng vậy,” cô gái tóc màu hồng đồng ý, tay ôm chiếc áo khoác ngắn mạ vàng trước ngực. “Hồi đó Lula tới đây hoài, tuần nào tụi tôi cũng thấy cổ. Chị muốn thử cái này không?”
“Hôm trước khi Lula chết cổ cũng có tới đây,” cô gái tóc kẹo bông vừa nói vừa giúp Robin mặc chiếc áo khoác vàng. “Ngay trong buồng thay đồ này nè, đúng y chỗ này luôn.”
“Thật vậy hả?” Robin trả lời.
“Cái này không kéo khóa lên hết ngực được, nhưng mở ra vậy trông rất đẹp,” cô tóc đỏ bình luận.
“Không, vậy không được rồi. Sandra to hơn tôi một chút,” Robin nói, không thương tiếc gì bà chị dâu tưởng tượng. “Tôi sẽ thử cái đầm đen kia. Cô mới nói là Lula Landry có tới đây ngay hôm cô ta chết?”
“Đúng vậy,” cô gái tóc hồng trả lời. “Buồn thật, quá buồn luôn. Chị có nghe tiếng cổ nói chuyện, đúng không Mel?”
Cô gái tóc đỏ xăm mình đang cầm một chiếc đầm đen có ren ậm ừ cho qua. Nhìn vẻ cô ta trong gương Robin thấy dường như cô ta không muốn nói ra là đã nghe thấy gì, cho dù cố ý hay vô tình.
“Hôm đó cổ nói chuyện với Duffield, đúng không hả Mel?” cô tóc hồng xởi lởi lại gợi chuyện.
Robin thấy Mel hơi cau mặt. Mặc dù Mel xăm trổ đầy mình, Robin có cảm giác cô ta mới là cấp trên của hai cô kia. Mel có vẻ rất ý thức giữ kín những chuyện sau tấm rèm lụa màu kem, như một yêu cầu công việc, trong khi hai cô gái kia có vẻ thích hóng hớt buôn chuyện, nhất là với một vị khách hàng sẵn lòng tiêu tiền của ông anh trai giàu có.
“Làm sao nghe được gì trong mấy cái lều này…” Robin bình luận, nín thở kéo chiếc đầm đen có đính ren lên, với sự giúp đỡ của cả ba cô nhân viên.
Mel hơi ngẩng lên.
“Nghe được hết. Người ta cứ vô đây rồi muốn gì nói đó. Làm ở đây không muốn nghe cũng không được,” cô trả lời, chỉ tay về phía tấm rèm lụa thô.
Bị bó chặt trong chiếc áo bằng da và ren, Robin thở hắt ra:
“Cứ tưởng Lula Landry phải rất cẩn thận, vì đi đâu cũng có cả đám phóng viên chạy theo.”
“Vâng,” cô gái tóc đỏ nói. “Vậy đó. Thực ra tôi không bao giờ đi nói lại những chuyện nghe ở đây cả, nhưng cũng có người làm vậy.”
Bỏ qua chuyện cô ta rõ ràng đã kể lại với đồng nghiệp, Robin tỏ ra cảm kích trước ý thức hiếm có của cô gái.
“Dù vậy tôi nghĩ cô cũng nên nói lại với cảnh sát nhỉ? Robin nói, kéo thẳng vạt áo, chuẩn bị cho đoạn kéo dây khóa.
“Cảnh sát chưa bao giờ tới đây,” cô gái tóc kẹo bông nói, có ý tiếc rẻ. “Tôi có nói là Mel nên đi gặp họ và kể lại hết nhưng chị ấy không muốn vậy.”
“Đâu có chuyện gì ghê gớm,” Mel nhanh chóng đáp. “Cũng sẽ không thay đổi được gì. Rõ ràng anh ta không có ở đó còn gì? Người ta có chứng cứ cả rồi.”
Strike tiến về chiếc rèm lụa ở mức gần nhất có thể mà không làm mấy vị khách khác hay đám nhân viên còn lại nghi ngờ.
Bên trong buồng thử đồ, cô gái tóc hồng đang cố kéo khóa áo lên. Lồng ngực Robin từ từ được ép vào một chiếc corset khung xương may chìm trong áo. Strike hơi ái ngại khi nghe tiếng Robin hỏi, nghèn nghẹn vì khó thở.
“Ý cô là Evan Duffield không có ở nhà của Lula khi cô ta chết?”
“Vâng,” Mel trả lời. “Nên chuyện Lula nói gì với anh ta trước đó đâu có quan trọng phải không? Anh ta không có ở đó kia mà.”
Cả bốn người cùng nhìn vào Robin trong gương.
“Tôi không nghĩ…,” Robin nói, nhìn hai phần ba bầu ngực bị ép phẳng dưới mặt vải cứng, trong khi phần còn lại ở phía trên đổ dồn ra cổ áo, “chị Sandra sẽ mặc vừa bộ này. Nhưng cô không thấy là,” Robin nói tiếp, thở dễ hơn một chút vì cô gái tóc kẹo bông vừa kéo dây khóa áo xuống, “cô nên kể lại với cảnh sát là Lula đã nói gì, rồi để họ xem có quan trọng hay không?”
“Tôi đã nói vậy rồi mà, đúng không hả Mel?” Cô gái tóc hồng lên tiếng. “Tôi cũng khuyên vậy còn gì.”
Mel lập tức tự vệ.
“Nhưng anh ta không có ở đó! Anh ta không hề tới nhà Lula! Anh ta chắc hẳn đã nói là bận gì đó, không muốn tới nhà cổ, vì cổ cứ nói là ‘Vậy thì tới sau cũng được, em sẽ đợi, không sao cả. Đằng nào chắc đến một giờ em mới về nhà. Tới đi mà, đi mà.’ Cứ như là nài nỉ anh ta vậy. Với nữa, lúc đó có bạn cổ ngay trong phòng thử đồ. Cô bạn đó cũng nghe hết; nên chắc có kể lại với cảnh sát rồi còn gì?”
Robin thử chiếc áo khoác lấp lánh một lần nữa để có cớ nán lại. Cô xoay người trước gương, nói như vừa nghĩ ra thêm điều gì:
“Có đúng là Lula nói chuyện điện thoại với Duffield không?”
“Tất nhiên rồi,” Mel nói, như thể Robin vừa chê cô ta không được thông minh lắm. “Không lẽ Lula còn muốn gặp ai khác lúc khuya như vậy? Lula có vẻ rất tha thiết.”
“Trời ơi, đôi mắt của ảnh,” cô gái tóc kẹo bông xen vào. “Duffield mới tuyệt vời làm sao. Lại nói chuyện rất có duyên nữa. Anh ấy có đến đây một lần với Lula. Trời ơi là sexy!”
Mười phút sau, Robin đã kịp thử thêm hai bộ nữa cho Strike ngắm. Hai người đồng ý trước mặt mấy cô nhân viên rằng chiếc áo khoác đính kim sa có lẽ là ổn nhất. Hai người nhất trí (mấy cô nhân viên cũng đồng ý) rằng ngày mai Robin sẽ dẫn Sandra đến xem trước khi quyết định mua. Strike ký tên Andrew Atkinson để giữ chỗ mua chiếc áo trị giá năm ngàn bảng, viết thêm một số điện thoại vừa bịa ra. Hai người chào tạm biệt mấy cô nhân viên rối rít niềm nở rồi ra về, cứ như thể vừa tiêu một đống tiền ở đó xong.
Họ đi bộ hơn bốn mươi mét trong im lặng, Strike châm lửa đốt một điếu thuốc, rồi nói:
“Thật xuất sắc.”
Robin đỏ mặt tự hào.
5
Strike và Robin chia tay ở ga New Bond Street. Robin lên tàu về lại văn phòng để gọi điện cho hãng BestFilms và tìm địa chỉ bà cô của Rochelle Onifade trong danh bạ trên mạng, cùng lúc cố tránh mặt Giải pháp Tạm thời (“Cứ khóa quách cửa lại”, Strike khuyên cô).
Strike mua một tờ báo rồi lên tàu tới Knightsbridge. Sau đó vì vẫn còn khá nhiều thời gian, hắn đi bộ đến nhà hàng Serpentine, nơi Bristow hẹn gặp ăn trưa.
Hắn đi qua công viên Hyde Park, dọc theo những lối đi bộ rợp bóng mát và cắt ngang con đường đất Rotten Row dành cho người đi ngựa. Hắn đã kịp ghi lại phần lời khai của cô gái tên Mel trên tàu điện. Giờ đây trong khung cảnh xanh tươi ngập nắng, tự dưng hắn lại nghĩ đến hình ảnh Robin mặc đầm xanh ôm sát lúc nãy.
Phản ứng của hắn làm cô hơi hẫng, hắn có biết điều đó; nhưng trong khoảnh khắc đó tự dưng hắn cảm thấy một sự gần gũi kỳ lạ, một sự thân mật mà hắn không hề muốn lúc này, đặc biệt là đối với Robin, mặc cho cô có thông minh, chuyên nghiệp và chu đáo đến đâu nữa. Hắn thích làm việc cùng cô và rất cảm kích chuyện cô tôn trọng sự riêng tư của hắn, không hề tò mò. Có trời mới biết, Strike vừa nghĩ vừa né một chiếc xe đạp vừa băng qua, hắn hiếm khi gặp người có tính cách như vậy trong đời, phụ nữ càng hiếm. Nhưng hắn thích sự có mặt của cô lúc này một phần cũng vì hắn sắp tạm biệt cô. Việc Robin sẽ sớm rời văn phòng cũng như chiếc nhẫn đính hôn trên tay cô vậy – chúng tạo ra một thứ ranh giới yên vui. Hắn thích Robin; hắn rất biết ơn cô, thậm chí (sau buổi sáng hôm nay) hắn còn rất ấn tượng với cô. Nhưng hắn vẫn còn thị giác bình thường và ham muốn chưa hề suy giảm, cứ mỗi ngày nhìn Robin cúi người trên màn hình máy tính là hắn lại được nhắc nhở rằng cô rất gợi cảm. Không hẳn là đẹp, không như Charlotte; nhưng vẫn hết sức hấp dẫn. Sự thật đó đập ngay vào mắt hắn khi Robin bước ra khỏi buồng thử đồ trong bộ đầm bó sát màu xanh, làm hắn ngay lập tức phải nhìn ra chỗ khác. Hắn nghĩ cô không cố ý khiêu khích gì, nhưng hắn cũng rất thực tế. Hắn hiểu rõ sự thăng bằng mong manh ở thời điểm hiện tại, hắn phải hết sức cẩn thận, nếu không muốn lại trượt chân. Robin là người duy nhất thường xuyên nói chuyện với hắn lúc này. Hắn không thể chủ quan về sức đề kháng của mình. Hắn còn đoán được, từ mấy lần cô tỏ ra né tránh hay do dự, rằng vị hôn phu của Robin không ưa gì chuyện cô thôi cộng tác với trung tâm môi giới để đi làm tạm bợ cho hắn. Tốt nhất là nên kiềm lại tình bạn đang nảy nở giữa hai người; đặc biệt là không nên ngây mặt ra mỗi khi hắn thấy cô mặc chiếc áo len bó.
Strike chưa bao giờ đến Serpentine. Nhà hàng này nằm trên mặt hồ, nơi người ta tới bơi thuyền. Một tòa nhà ấn tượng, trông như một kiểu chùa chiền viễn tưởng, khác xa với những gì Strike từng thấy. Mái nhà dày nặng, màu trắng, tựa như một cuốn sách khổng lồ đang mở và đặt úp xuống, bên dưới đỡ bằng những khung cửa kính xếp theo hình zigzag. Một cây liễu rủ khổng lồ phủ bóng bên cạnh nhà hàng, cành lá quét xuống mặt nước.
Mặc dù trời dịu mát, gió nhè nhẹ, khung cảnh quanh hồ vẫn rực rỡ dưới ánh nắng. Strike chọn một bàn ở ngoài trời sát mép nước, gọi một vại Doom Bar và đọc báo.
Mười phút sau giờ hẹn mà Bristow vẫn chưa tới. Nhưng một người đàn ông cao lớn, mặc complet đắt tiền, tóc hung đỏ dừng lại bên cạnh bàn của Strike.
“Anh Strike?”
Ông này khoảng gần sáu mươi tuổi, hàm bạnh, xương gò má cao, trông giống một diễn viên suýt có cơ nổi tiếng chuyên đóng các vai doanh nhân giàu có trong phim bộ. Với trí nhớ hình ảnh đã được tôi luyện, Strike ngay lập tức nhận ra ông ta từ những tấm ảnh mà Robin tìm thấy trên mạng. Chính là người đàn ông cao lớn trông như đang khinh khỉnh mọi thứ xung quanh trong đám tang của Lula Landry.
“Tony Landry. Cậu của John và Lula. Tôi ngồi đây được không?”
Nụ cười của ông ta có lẽ là ví dụ hoàn hảo nhất của một cái nhăn mặt xã giao giả dối mà Strike từng thấy; chỉ vừa kịp để lộ hàm răng trắng trong giây lát. Landry cởi áo khoác, phủ lên lưng ghế đối diện với Strike rồi ngồi xuống.
“John bận việc ở văn phòng,” ông ta nói. Gió làm tóc ông ta xộc xệch, lộ ra chỗ hói tóc hai bên thái dương. “Nó có nhờ Alison gọi báo anh biết. Tôi tình cờ đi ngang qua nghe được, nên tôi muốn tới đây nói trực tiếp luôn. Cũng là có dịp gặp riêng anh. Tôi vẫn đang chờ anh liên lạc; tôi biết là anh đang dần dần gặp hết những người có liên quan tới cháu gái tôi.”
Ông ta rút từ trong túi áo vét ra một cặp kính gọng thép, đeo vào và đọc tờ thực đơn. Strike uống bia, chờ đợi.
“Tôi nghe nói anh đã nói chuyện với bà Bestigui?” Landry hỏi, đặt tờ thực đơn xuống, mở mắt kính ra và bỏ vào túi trở lại.
“Đúng vậy,” Strike đáp.
“Được rồi. Tansy chắc chắn là có ý tốt, nhưng cô ta đang phí công vô ích khi lặp lại một câu chuyện mà cảnh sát đã chứng minh dứt khoát là không thể có thật. Không ích lợi gì cả,” Landry lặp lại, ra vẻ kẻ cả. “Tôi cũng nói vậy với John rồi. Nó phải ưu tiên hàng đầu lợi ích của thân chủ và những gì tốt nhất cho cô ta.”
“Tôi dùng món giò muối nấu đông,” ông ta nói với cô phục vụ bàn vừa đi ngang qua, “và nước lọc. Loại đóng chai. Thôi thì,” ông ta tiếp tục câu chuyện với Strike, “tốt nhất là cứ nói thẳng nhé, anh Strike.
“Vì nhiều lý do thiện ý, tôi không ủng hộ chuyện đào bới những chuyện quanh cái chết của Lula. Tôi cũng không mong anh đồng ý với tôi. Anh kiếm tiền bằng cách đào xới bi kịch gia đình của người khác mà.”
Ông ta lại nhếch mép lần nữa, trông vẫn hung hăng chứ chẳng vui vẻ gì.
“Không phải là tôi tuyệt đối không thông cảm với anh. Ai cũng phải kiếm sống, và chắc hẳn nhiều người nói rằng nghề của tôi cũng ăn bám không kém gì nghề của anh. Mặc dù vậy, sẽ có lợi cho cả hai chúng ta nếu hôm nay tôi nói rõ một số chuyện mà tôi nghĩ là John đã không kể với anh.”
“Trước khi ông bắt đầu,” Strike đáp, “cho tôi hỏi John bận gì vậy? Nếu anh ấy không đến được thì tôi sẽ sắp xếp một cuộc hẹn khác; chiều hôm nay tôi phải đi gặp vài người. John vẫn còn vương vụ Conway Oates à?”
Hắn chỉ biết rằng Conway Oates là một nhà tài phiệt người Mỹ, theo như lời Ursula. Nhưng tên tuổi của vị khách hàng quả có tác dụng như hắn muốn. Thái độ trịch thượng, luôn muốn làm chủ tình huống và vẻ tự tin của kẻ bề trên biến sạch. Landry giờ giận dữ và sốc.
“John không… chẳng lẽ nó lại có thể…? Chuyện đó tuyệt mật trong công ty!”
“Không phải John,” Strike đáp. “Bà Ursula May có nhắc đến chút trục trặc quanh vụ đất đai của ông Oates.”
Landry hắng giọng, lắp bắp. “Tôi rất ngạc nhiên… Tôi không nghĩ Ursula… bà May lại…”
“Vậy hôm nay John có tới không? Hay ông đã kịp giao cho anh ấy việc gì làm trong suốt buổi trưa?”
Hắn thích thú nhìn Landry vật lộn với cơn nóng giận, cố gắng kiềm chế bản thân và làm chủ tình hình.
“John sẽ tới sau,” cuối cùng ông ta nói. “Tôi hi vọng, như tôi đã nói, sẽ làm rõ được một số chuyện riêng với anh.”
“Được rồi, như vậy thì tôi cần dùng mấy thứ này,” Strike đáp, rút từ trong túi ra cuốn sổ và cây viết.
Landry cũng hốt hoảng như Tansy khi nhìn thấy những vật đó.
“Không cần ghi chép gì cả,” ông ta nói. “Những việc tôi sắp nói đây không liên quan gì… hoặc ít ra, không liên quan trực tiếp gì… đến cái chết của Lula. Tức là,” ông ta giải thích cặn kẽ, “sẽ không thay đổi gì kết luận tự tử cả.”
“Sao cũng được,” Strike đáp. “Tôi cần phải ghi lại kẻo quên.”
Landry trông như sắp phản đối nữa, nhưng rồi đổi ý.
“Được rồi. Đầu tiên anh phải hiểu là cháu trai của tôi John bị ảnh hưởng sâu sắc bởi cái chết của em gái nó.”
“Cũng dễ hiểu mà,” Strike bình luận, nghiêng cuốn sổ để ông luật sư không thể đọc được, rồi viết mấy chữ ảnh hưởng sâu sắc, chỉ để chọc tức ông ta.
“Vâng, dễ hiểu. Tôi không định nói là người làm thám tử tư như anh nên từ chối một thân chủ chỉ vì người ta bị căng thẳng, hay trầm cảm… vì như tôi đã nói, ai cũng phải kiếm sống… nhưng trong trường hợp này…”
“Ông nghĩ John tưởng tượng ra hết?”
“Tôi không định nói như vậy, nhưng nói vậy cũng chẳng sai. John phải chịu quá nhiều đau khổ trong đời hơn nhiều người khác. Có lẽ anh không biết chuyện nó từng mất đi một đứa em trai…”
“Tôi có biết. Charlie là bạn học cũ của tôi. Vì vậy mà John thuê tôi.”
Landry nhìn hắn, ra vẻ vừa ngạc nhiên vừa ngờ vực.
“Anh học trường Blakeyfield Prep à?”
“Chỉ một thời gian thôi. Trước khi mẹ tôi nhớ ra là không có đủ tiền trả học phí.”
“Tôi hiểu rồi. Tôi không biết chuyện đó. Nhưng dù vậy có lẽ anh cũng không biết hết được… John luôn là đứa… nói như từ của chị tôi là… dễ bị kích động. Bố mẹ nó phải thuê cả bác sĩ tâm lý sau khi Charlie chết, anh biết đó. Tôi không phải là chuyên gia tâm thần gì, nhưng tôi thấy cái chết của Lula như là một cú đẩy cuối cùng…”
“Nói vậy hơi kỳ, nhưng tôi hiểu ý ông,” Strike đáp, viết vào sổ Bristow chập mạch. “Nói chính xác thì John bị đẩy cú cuối cùng này ra làm sao?”
“Nhiều người cho rằng vụ điều tra của anh vừa vô lý vừa vô ích,” Landry đáp.
Strike vẫn giữ cây viết ngay trên cuốn sổ. Hàm của Landry cử động như đang nhai gì đó, rồi ông ta dứt khoát nói ra:
“Lula là một đứa bị rối loạn lưỡng cực, cãi nhau với thằng bồ không ra gì xong thì nhảy lầu tự tử. Không có gì bí hiểm hết. Một chuyện vô cùng tệ hại với cả gia đình tôi, đặc biệt là người mẹ tội nghiệp của nó, nhưng chẳng có gì hay ho cả. Tôi buộc phải kết luận rằng John đang bị suy sụp, và nếu anh không ngại tôi nói thẳng thì…”
“Ông cứ nói.”
“…sự tham gia của anh chỉ kéo dài chuyện nó không thể chấp nhận sự thật.”
“Là Lula tự tử?”
“Đó cũng là kết luận chung của cảnh sát, chuyên gia y tế và điều tra viên. John lại quyết tâm đi chứng minh có án mạng, để làm gì tôi hoàn toàn không biết. Tôi không hiểu nổi làm vậy thì sẽ có lợi cho ai.”
“Những người trầm cảm thường hay thấy tội lỗi. Họ hay nghĩ rằng đáng ra họ có thể làm điều gì đó để cứu vãn tình thế. Tất nhiên nghĩ vậy rất vô lý. Nhưng kết luận có án mạng sẽ làm cả gia đình thấy nhẹ lòng hơn, so với kết luận tự tử, không phải vậy sao?”
“Không ai trong gia đình tôi phải hối tiếc chuyện gì cả,” Landry nói, giọng đanh thép. “Lula được chăm sóc y tế ở mức tốt nhất, từ khi vừa mới phát bệnh. Nó muốn gì cha mẹ nuôi đều chu cấp. Nó đúng nghĩa là được chiều quá hóa hư. Mẹ nó sẵn sàng chết vì nó, mặc dù bà chẳng được đền đáp lại gì cả.”
“Ý ông là Lula vô ơn?”
“Cần quái gì phải ghi lại chỗ đó. Hay anh định bán lại cho đám báo chí giẻ rách?”
Strike nhận thấy Landry đã hoàn toàn vứt bỏ vẻ khôn khéo ban đầu khi mới đến. Cô bồi bàn mang thức ăn đến. Ông ta không hề cảm ơn, chỉ trừng mắt nhìn Strike cho tới khi cô ta đi khỏi. Rồi ông ta nói:
“Anh đang bới móc vào những chỗ không nên bới, chỉ có làm hại người khác thôi. Nói thẳng là tôi quá choáng, khi tôi biết John đang bày trò gì. Quá choáng.”
“John chưa bao giờ nói với ông chuyện anh ta nghi ngờ kết luận tự tử à?”
“Nó rất sốc, đương nhiên rồi, cả nhà tôi ai chẳng thế, nhưng tôi nhớ rõ là nó không nói gì đến án mạng cả.”
“Ông có thân với John không, ông Landry?”
“Chuyện đó thì liên quan gì?”
“Giúp lý giải vì sao John không nói với ông.”
“John với tôi có quan hệ công việc hoàn toàn hòa thuận.”
““Quan hệ công việc”?”
“Đúng vậy, anh Strike. Chúng tôi là đồng nghiệp. Chúng tôi có cặp kè như hình với bóng ngoài giờ làm không? Không có. Nhưng cả tôi và John đều đang chăm sóc chị gái tôi – phu nhân Bristow, cũng là mẹ của John, hiện giờ đang bệnh rất nặng. Ngoài công việc chúng tôi chỉ nói chuyện bà ấy.”
“Tôi thấy John rất hiếu thảo.”
“Nó chỉ còn mỗi bà mẹ mà, giờ tới lượt bà ấy sắp qua đời, tình hình tâm thần của nó cũng chẳng làm sao khá hơn được.”
“John đâu chỉ có mỗi phu nhân Bristow. Còn có cả Alison nữa, đúng không?”
“Tôi không biết vụ đó nghiêm túc tới đâu.”
“Có lẽ một trong những mục đích của John khi thuê tôi là tìm ra sự thật, cho mẹ anh ấy an lòng nhắm mắt?”
“Sự thật sẽ không giúp gì được cho chị tôi cả. Không ai thích thú chuyện mình phải trả giá cho quá khứ.”
Strike không hỏi gì. Đúng y như hắn đoán, ông luật sư không kiềm được, tiếp tục giải thích ngay:
“Yvette thích làm mẹ một cách kỳ cục. Chị ấy rất mê trẻ con.” Ông ta nói như thể đó là một điều gì kỳ khôi, bệnh hoạn. “Giả mà kiếm được ông chồng đủ sức chắn hẳn chị ấy cũng không biết xấu hổ mà đẻ sòn sòn cả hai chục đứa con đấy. Lạy trời Alec bị vô sinh… John nói chuyện đó chưa?”
“Anh ấy có nói Ngài Alec Bristow không phải là cha đẻ, nếu ý ông là vậy.”
Vừa mới thất vọng vì không phải là người đầu tiên nói ra cái tin đó, Landry chộp ngay lấy cơ hội thứ hai.
“Yvette và Alec nhận nuôi hai đứa con trai, nhưng lại không hề biết dạy dỗ chúng. Nói toạc ra, chị ấy là một bà mẹ tồi tệ. Không kiểm soát, không kỷ luật; chiều chuộng tuyệt đối và không bao giờ nhìn thẳng vào sự thật. Tôi không có ý đổ lỗi hết cho Yvette… ai biết dòng giống chúng thế nào… nhưng John là một đứa rên rỉ, hay làm quá và lúc nào cũng bám mẹ nhằng nhẵng. Còn Charlie vô cùng nghịch ngợm… kết quả là…”
Landry đột ngột dừng lại, má ông ta lốm đốm đỏ.
“Kết quả là rớt xuống mỏ đá?” Strike gợi ý.
Hắn nói vậy để xem Landry phản ứng ra sao. Hắn không phải thất vọng. Vẻ mặt ông ta làm hắn nghĩ đến một đường hầm thu nhỏ dần, một cánh cửa xa xôi đóng sầm lại: chấm dứt hoàn toàn.
“Nói thẳng ra là vậy. Làm gì thì cũng đã quá muộn. Yvette la hét bấu víu vào Alec, ngất xỉu ngay trên sàn nhà. Nếu chị ấy biết trị nó một chút thôi, thằng nhỏ đã không cố ý cãi lời. Tôi có mặt lúc đó.” Landry nói, lạnh lùng. “Cuối tuần đó tôi có đi thăm anh chị. Hôm đó là ngày Chủ nhật Lễ Phục Sinh. Tôi đi bộ ra ngoài làng, khi trở về thì thấy cả nhà đang đi tìm nó. Tôi chạy thẳng ra mỏ đá. Tôi biết quá rồi, anh hiểu không. Thằng bé đã bị cấm tới mỏ đá… nên đương nhiên là nó ở đó.”
“Ông tìm thấy Charlie đúng không?”
“Đúng vậy.”
“Cảnh tượng đó hẳn là vô cùng đau đớn.”
“Vâng.” Landry nói, hầu như không mở miệng. “Đúng thế.”
“Và sau khi Charlie chết thì chị gái ông và Ngài Alec nhận nuôi Lula?”
“Đó cũng chính là việc ngu ngốc nhất mà Alec Bristow từng đồng ý làm,” Landry nói. “Yvette rõ ràng là một bà mẹ tồi; làm sao mà khá hơn được khi đang đau khổ vì mất con? Tất nhiên chị ấy lúc nào cũng muốn có một đứa con gái, để tha hồ mặc đồ màu hồng cho nó. Còn Alec thì nghĩ rằng có đứa con gái sẽ khiến chị ấy vui. Yvette muốn gì ông ta cũng chiều hết. Ông ta mụ cả người khi Yvette đến làm thư ký ở công ty, ông ta đúng kiểu dân phía Đông thành phố, rất là thô. Còn Yvette thì lúc nào cũng thích người hơi thô tháp một chút như vậy.”
Strike tự hỏi thật ra khúc mắc trong lòng ông Landry là gì.
“Ông không thân với chị gái lắm à, ông Landry?” Strike hỏi.
“Chúng tôi hoàn toàn hòa thuận; chỉ có điều tôi không mù quáng trước con người của Yvette, anh Strike à, những đau khổ của chị ấy cũng không phải tự dưng mà có.”
“Sau khi Charlie chết chắc họ khó xin con nuôi lắm?” Strike hỏi.
“Rất khó, nếu Alec không phải là triệu phú,” Landry cười nhạt. “Tôi biết nhà chức trách có đặt vấn đề về sức khỏe tâm thần của Yvette, vả lại cả hai lúc đó đều đã lớn tuổi. Đáng tiếc là họ không từ chối thẳng thừng. Nhưng Alec chạy chuyện gì cũng lọt, lại quen biết nhiều chỗ lạ đời từ hồi còn chạy chợ kia. Tôi không biết chi tiết, nhưng chắc chắn là phải có bôi trơn. Nhưng cũng không xin được một đứa da trắng. Ông ấy lại mang về nhà một đứa trẻ con không rõ gốc gác, để bà vợ trầm cảm, hay bị kích động và không hề biết suy xét nuôi dạy. Tôi chẳng ngạc nhiên gì với những chuyện sau đó. Lula vừa yếu đuối như John lại vừa hoang dại như Charlie, và Yvette thì vẫn không biết phải trị nó ra sao.”
Vừa hí hoáy viết để chọc tức Landry, Strike vừa nghĩ không biết liệu niềm tin vào chủng tộc của ông ta có liên quan gì đến chuyện Bristow bị ám ảnh về những người bà con da đen của Lula. Hẳn là Bristow từng tiếp xúc với quan điểm của ông cậu qua nhiều năm. Trẻ con hấp thụ cách nhìn của người thân ở mức sâu sắc, khó xoay chuyển. Bản thân Strike, thẳm sâu trong tâm trí, trước cả khi người ta nói với hắn, đã biết rằng mẹ hắn không như những người mẹ khác, rằng (nếu hắn tin vào những thứ quy ước ngầm chi phối thế giới người lớn) mẹ hắn đã làm chuyện gì đó rất đáng xấu hổ.
“Ông có gặp Lula hôm cô ta chết, đúng không?” Strike hỏi.
Lông mi của Landry nhợt nhạt, trông gần như trắng.
“Xin lỗi?”
“Vâng…” Strike cố ý lật lại mấy trang giấy, dừng ngay ở một trang trống không. “…ông có gặp cô ấy ở nhà chị của ông, đúng không? Lúc Lula ghé thăm phu nhân Bristow?”
“Ai nói với anh như vậy? John à?”
“Có hết trong hồ sơ cảnh sát. Không đúng vậy sao?”
“Đúng vậy, nhưng tôi không hiểu việc đó thì liên quan gì đến những việc tôi đang nói.”
“Xin lỗi, lúc mới đến ông có nói rằng ông đang đợi tôi liên lạc. Vậy nên tôi cứ tưởng ông sẽ đồng ý trả lời vài câu hỏi.”
Thái độ của Landry như một người vừa bất ngờ bị chọc tức.
“Tôi không có gì để thêm vào lời khai bên cảnh sát cả,” cuối cùng ông ta lên tiếng.
“Tức là,” Strike nói, tiếp tục lật cuốn sổ trống trơn, “ông có ghé qua thăm chị buổi sáng hôm đó, có gặp Lula, rồi lái xe xuống Oxford dự hội nghị luật gia đình?”
Landry lại nghiến hàm.
“Đúng vậy,” ông ta đáp.
“Ông tới nhà phu nhân Bristow lúc mấy giờ?”
“Chắc khoảng mười giờ,” Landry đáp, sau khi im lặng vài giây.
“Rồi ông ở lại đó bao lâu?”
“Chừng khoảng nửa tiếng. Có thể lâu hơn một chút. Tôi không nhớ.”
“Rồi ông lái xe thẳng từ đó tới Oxford?”
Đằng sau vai Landry, Strike trông thấy John Bristow đang hỏi một cô phục vụ; trông ông ta hơi nhếch nhác, thở không ra hơi, như vừa chạy đến. Ông ta cầm theo một cái túi da hình chữ nhật. Ông ta nhìn quanh, vẫn còn thở hổn hển, và khi nhìn thấy Landry từ đằng sau, Strike thấy ông ta thật sự hoảng sợ.
6
“John,” Strike lên tiếng, lúc vị thân chủ của hắn xuất hiện.
“Chào anh Cormoran.”
Landry không nhìn ông cháu trai, cầm nĩa và dao lên xắn miếng thịt đông đầu tiên. Strike đứng dậy, xích ra một chút để Bristow có thể ngồi xuống đối diện ông cậu.
“Anh đã nói chuyện với Reuben chưa?” Landry lạnh lùng hỏi Bristow, sau khi nuốt xong miếng thịt đông.
“Rồi. Cháu có nói là chiều nay sẽ qua đó giải thích hết mấy chỗ tiền đặt cọc và bản vẽ.”
“Nãy giờ tôi hỏi cậu của anh về buổi sáng trước khi Lula chết. Lúc ông Landry đây ghé thăm mẹ anh.” Strike nói.
Bristow liếc nhìn Landry.
“Tôi muốn biết cụ thể khi đó ai nói gì làm gì,” Strike nói tiếp, “vì theo như lời tài xế đón Lula sau đó, cô ấy có vẻ rất đau khổ.”
“Đương nhiên là nó đau khổ rồi,” Landry lên tiếng cắt ngang. “Mẹ nó bị ung thư.”
“Tôi tưởng phẩu thuật là để chữa cho hết?”
“Yvette phải cắt hết tử cung. Rất là đau đớn. Chắc hẳn Lula rất đau khổ khi nhìn thấy mẹ như vậy.”
“Hôm đó ông có nói chuyện gì nhiều với cô ấy không?”
Ông Landry ngập ngừng trong tích tắc.
“Chỉ hỏi thăm thôi.”
“Còn hai người có nói chuyện với nhau không?”
Bristow và Landry không nhìn nhau. Một vài giây sau, Bristow lên tiếng:
“Tôi đang làm việc trong thư phòng. Tôi nghe tiếng Tony bước vào, có nghe cậu nói chuyện với mẹ và Lula.”
“Ông không ghé vào thư phòng chào anh John à?” Hắn quay sang hỏi Landry.
Landry nhìn Strike, cặp mắt nhạt màu hơi long lên giữa hai hàng lông mi trắng.
“Anh Strike, thực ra không ai ở đây có nghĩa vụ trả lời anh cả,” Landry đáp.
“Đương nhiên là không,” Strike đồng ý, hí hoáy viết thêm mấy dòng không rõ ràng trong sổ. Bristow nhìn ông cậu. Landry có vẻ nghĩ lại.
“Tôi nhìn qua cửa thư phòng thì thấy John đang tập trung làm việc, nên tôi không muốn quấy rầy nó. Tôi ngồi xuống với Yvette một lúc nhưng chị còn rất mệt sau khi dùng thuốc giảm đau, nên tôi ra về, để Lula ngồi với chị. Tôi biết,” Landry đáp, giọng hơi ai oán, “Yvette thích Lula ở bên hơn bất kỳ ai.”
“Danh sách cuộc gọi của Lula cho thấy cô ấy gọi vào máy di động của ông liên tục sau khi ra khỏi nhà phu nhân Bristow.”
Landry giật mình.
“Ông có nói chuyện với cô ấy trên điện thoại không?”
“Không. Hôm đó tôi tắt chuông, tôi bị trễ giờ.”
“Tắt chuông thì máy vẫn rung chứ?”
Hắn tự hỏi phải như thế nào đây thì Landry mới chịu rời đi. Hắn thấy ông ta sắp chịu hết nổi rồi.
“Tôi có liếc qua điện thoại, thấy Lula gọi nhưng quyết định cứ để đó đã,” Ông ta nói ngay sau đó.
“Ông không gọi lại cho cô ấy à?”
“Không.”
“Cô ấy không để lại lời nhắn gì à, để giải thích vì sao lại gọi?”
“Không.”
“Vậy thì kỳ lạ quá nhỉ? Ông vừa gặp cô ấy ở nhà mẹ, hai người không nói chuyện gì quan trong, vậy mà nguyên buổi chiều hôm đó cô ấy liên tục gọi cho ông. Không lẽ cô ấy không có chuyện gì khẩn cấp cần nói? Hay muốn tiếp tục câu chuyện với ông ở nhà mẹ chẳng hạn?”
“Lula là loại con gái có thể gọi cho người khác liên tục ba mươi lần chỉ với một cái cớ nhỏ nhất. Nó rất được cưng chiều. Nó cứ nghĩ người ta nghe tên nó là phải nhao hết cả lên.”
Strike liếc về phía Bristow.
“Nó… đôi khi… hơi bị như vậy,” ông anh Lula lẩm bẩm.
“Anh nghĩ em gái anh hôm đó buồn, hoàn toàn chỉ vì mẹ mới mổ xong còn yếu à?” Strike hỏi Bristow. “Tài xế riêng của Lula, Kieran Kolovas-Jones lại khăng khăng rằng sau khi ra khỏi nhà phu nhân Bristow, tâm trạng cô ấy thay đổi hoàn toàn.”
Trước khi Bristow kịp trả lời, Landry bỏ thức ăn lại, đứng dậy và mặc áo khoát.
“Kolovas-Jones có phải là thằng nhóc da màu trông hơi lạ lạ đó không?” Ông ta hỏi, nhìn cả Strike và Bristow. “Cái thằng hay nhờ Lula xin việc người mẫu và đóng phim phải không?”
“Đúng là anh ta có đóng phim.” Strike đáp.
“Được rồi. Hôm đó sinh nhật Yvette – sinh nhật cuối cùng trước khi bệnh tái phát, xe của tôi bị hư. Lula và thằng đó đến đón tôi đi ăn sinh nhật. Gần hết cả chuyến đi, Kolovas-Jones cứ nhằng nhẵng nhờ Lula đánh tiếng với Freddie Bestigui để xin cho nó thử vai. Đúng là thứ được đằng chân… Lại còn suồng sã. Đương nhiên,” ông ta nói thêm, “tôi càng ít biết về đời tư tình cảm của cô cháu nuôi thì càng tốt.”
Landry vứt một tờ mười bảng xuống bàn.
“Liệu về văn phòng sớm đấy, John.”
Ông ta chưa đi, rõ là đang đợi Bristow trả lời. Nhưng Bristow không chú ý. Anh ta mở to mắt nhìn chằm chằm vào bức hình trên trang báo Strike đọc dở khi Landry xuất hiện. Trang báo có hình một người lính da đen còn trẻ mặc đồng phục Tiểu đoàn 2, Trung đoàn lính hỏa mai Hoàng gia.
“Gì ạ? Vâng. Cháu sẽ về ngay,” ông ta trả lời ông cậu đang lạnh lùng nhìn chằm chằm, vẫn chưa định thần. “Xin lỗi,” Bristow quay sang nói với Strike, khi Landry vừa đi khỏi. “Là Wilson… Derrick Wilson, anh biết đó, người bảo vệ… ông ấy cũng có một đứa cháu đang ở Afghanistan. Tôi cứ tưởng… lạy Chúa… nhưng mà không phải nó. Tên khác. Cuộc chiến tranh này thật là tồi tệ. Có đáng phí mạng người như vậy không?”
Strike nghiêng người, sức nặng cơ thể nhấc khỏi cái chân giả. Cuộc đi bộ qua công viên lúc nãy không làm chân hắn đỡ đau hơn chút nào. Hắn ậm ừ cho qua chuyện.
“Đi bộ về nhé,” Bristow nói, sau khi cả hai đã ăn xong. “Đi một lát cho thoáng.”
Bristow lựa lối đi gần nhất, qua những bãi cỏ mà thông thường Strike sẽ tránh nếu đi một mình, vì đi bằng chân giả trên cỏ tốn sức hơn nhiều so với trên mặt đường nhựa. Hai người đi ngang qua đài phun nước tưởng niệm Diana, Công nương xứ Wales. Dòng nước có chỗ rì rầm, có chỗ chảy róc rách, có chỗ lại phun ào ạt dọc theo rãnh dài bằng đá granite xứ Cornwall. Bristow đột ngột lên tiếng, như thể Strike vừa hỏi vậy:
“Tony không thích tôi lắm. Ông ấy thích Charlie hơn. Người ta nói là Charlie trông y hệt Tony lúc còn bé.”
“Tôi thấy ông ta nói chuyện về Charlie không được tình cảm lắm trước khi anh đến, và dường như ông ta cũng chẳng ưa gì Lula.”
“Ông ta không thể hiện chính kiến về vụ di truyền à?”
“Có nhưng không trực tiếp.”
Thực ra, thông thường ông ta chẳng ngại nói thẳng. Chính điều đó làm tôi với Lula càng gắn bó, vì cậu Tony cho rằng hai đứa tụi tôi gốc gác chẳng ra gì. Với Lula còn tệ hơn nữa; ít ra bố mẹ đẻ của tôi ắt hẳn là người da trắng. Tony không phải là người không có thành kiến. Năm ngoái công ty nhận một thực tập sinh người Pakistan, một trong những thực tập sinh giỏi nhất mà tụi tôi từng có, vậy mà Tony làm cô ta phải bỏ đi.”
“Vì sao anh lại làm việc cho ông ta?”
“Công việc khá tốt. Lại là công ty gia đình; ông ngoại tôi sáng lập ra, nhưng thật ra điều đó không ích lợi gì. Không ai muốn mang tiếng con ông cháu cha cả. Nhưng chúng tôi là một trong những công ty hàng đầu về luật gia đình ở London. Với lại mẹ tôi rất vui khi thấy tôi đang theo bước của ông ngoại. Ông ta có đụng chạm gì tới bố tôi không?”
“Không hẳn. Ông ta có bóng gió là Ngài Alec chắc phải chạy chọt gì mới xin được Lula.”
“Vậy à?” Bristow tỏ vẻ ngạc nhiên. “Tôi không nghĩ vậy. Lula lúc đó đang ở bên bảo trợ xã hội. Tôi chắc chắn bố tôi làm theo đúng thủ tục.”
Hai người im lặng một lát. Bristow lên tiếng, hơi rụt rè.
“Anh… không giống bố anh lắm.”
Đây là lần đầu tiên Bristow công khai thừa nhận rằng ông ta có dùng Wikipedia khi đi tìm thám tử tư.
“Không giống gì cả,” Strike đồng ý. “Thực ra tôi giống y như ông cậu Ted.”
“Tôi đoán là anh và bố anh không… ý tôi là, anh không theo họ của ông ấy?”
Strike không thấy bực mình trước sự tò mò của một người có gia đình cũng không bình thường và đầy thương tích như gia đình của hắn.
“Tôi chẳng bao giờ dùng họ đó cả,” hắn trả lời, “Tôi chỉ là một sự cố ngoại tình ngoài ý muốn, làm Jonny mất một bà vợ và mấy triệu bảng đền bù ly dị. Tôi với ông ấy không hề thân thiết gì.”
“Tôi phục anh,” Bristow nói, “anh thật tự lập. Không dựa gì vào ông ta.” Strike không trả lời. Bristow nói thêm, có vẻ áy náy, “Tôi hy vọng anh không phiền chuyện tôi nói với Tansy bố anh là ai? Thực ra… nhờ vậy mà cô ta mới chịu nói chuyện với anh. Cô ta thích người nổi tiếng.”
“Không sao, miễn có được lời khai của nhân chứng.” Strike đáp. “Anh nói là Lula không thích Tony, vậy tại sao cô ấy lại lấy họ của ông ta để làm nghệ danh?”
“À không phải vậy, nó chọn Landry vì đó là họ của mẹ tôi trước khi lấy chồng; không dính dáng gì đến Tony cả. Mẹ tôi rất vui. Với cả tôi nghĩ hình như đã có một người mẫu tên Bristow rồi, nên Lula muốn đổi cho khác đi.”
Cả hai đi qua những người đi xe đạp, những người ngồi ghế đá ăn uống, những người dắt chó đi dạo và mấy tay trượt patin. Strike cố đi bình thường, mặc dù chân phải hắn càng lúc càng đau.
“Tôi không nghĩ Tony từng yêu ai trong đời cả, anh biết không,” Bristow đột ngột nói, khi cả hai dừng lại để nhường đường cho một đứa bé đội mũ bảo hiểm đang loạng choạng lướt qua trên ván trượt. “Trong khi đó mẹ tôi lại là người rất tình cảm. Mẹ tôi yêu thương cả ba đứa con, và đôi khi tôi nghĩ điều đó làm phiền lòng Tony. Tôi không biết tại sao. Tính ông ta vậy.”
“Sau khi Charlie chết, bố mẹ tôi tuyệt giao với Tony. Đáng ra tôi không được biết gì cả, nhưng tôi cũng có nghe được vài chuyện. Ông ta nói với mẹ tôi rằng mẹ tôi có lỗi trong vụ Charlie, rằng Charlie là đứa bất trị. Bố tôi đuổi ông ta ra khỏi nhà. Mẹ và Tony chỉ mới làm lành khi bố tôi qua đời.”
Strike thấy nhẹ cả người khi đến phố Exhibition, cái chân khập khiễng của hắn ít ra cũng đỡ lộ liễu hơn.
“Anh nghĩ giữa Lula với Kieran Kokovas-Jones có chuyện gì không?” hắn hỏi khi cả hai băng qua đường.
“Không, đó là do Tony tự động suy luận theo hướng xấu nhất đó thôi. Ông ta luôn nghĩ tới những điều tồi tệ nhất về Lula. Tôi chắc Kieran có xoắn xuýt con bé thật, nhưng Lula mê mệt thằng Duffield… buồn là ở chỗ đó.”
Họ đi dọc theo phố Kensington, bên trái là công viên xanh mướt, rồi đi vào địa phận những dinh thự hoành tráng của các lãnh sự quán và cơ sở đại học Hoàng gia.
“Tại sao anh nghĩ là cậu anh không vào chào anh một tiếng khi ông ta đến thăm mẹ anh vừa xuất viện?”
Bristow trông rất khó chịu.
“Hai người có cãi nhau chuyện gì à?”
“Không… không hẳn vậy,” Bristow đáp. “Công việc đang rất căng thẳng… tôi không thể nói ra. Phải bảo mật cho khách hàng.”
“Có phải vụ đất đai của Conway Oates không?”
“Làm sao anh biết?” Bristow hỏi ngay lập tức. “Ursula nói à?”
“Bà ta có nhắc tới.”
“Trời đất, Không giữ kín được cái gì hết. Gì cũng nói.”
“Ông cậu của anh cũng không tin được là bà May lại hớ hênh vậy.”
“Hẳn rồi.” Bristow nói, cười khinh miệt. “Chuyện là… tôi biết là tôi có thể tin tưởng anh. Mấy công ty như tụi tôi rất ngại những chuyện như vậy, vì khách hàng của tụi tôi toàn những người cực kỳ giàu có… nên bất kỳ dấu hiệu tài chính lệch lạc nào cũng vô cùng nguy hiểm. Tài sản của ông Oates vẫn còn đó, đúng hết; nhưng đám người thừa kế rất tham lam, nên suốt ngày nói là tài sản bị thất thoát. Thực ra với thị trường bất ổn như vừa rồi, cộng thêm những quyết định thiếu sáng suốt của Conway cuối đời, đáng ra họ phải mừng là vẫn còn chút gì mới phải. Tony rất bực về vụ này…ông ta thích đổ lỗi cho nhiều người. Cãi cọ cũng khá nhiều rồi. Tôi cũng đã chịu trận. Với Tony thì tôi chỉ đành vậy thôi.”
Strike đoán là đã gần đến văn phòng của Bristow, trông ông ta càng lúc càng u ám.
“Tôi vẫn chưa liên lạc được với một số nhân chứng quan trọng, John à. Anh có thể giúp tôi gặp Guy Somé được không? Nhân viên của ông ta không để ai lại gần cả.”
“Để tôi thử xem. Chiều nay tôi sẽ gọi cho Somé. Anh ta rất cưng Lula, chắc chắn sẽ muốn giúp.”
“Và cả mẹ ruột của Lula nữa.”
“À,” Bristow thở dài. “Tôi có địa chỉ bà ta ở đâu đó. Một người đàn bà ghê gớm.”
“Anh gặp bà ta rồi à?”
“Không, Lula có kể với tôi, rồi cả mấy thứ báo đăng nữa. Lula quyết tâm tìm cho được gốc gác, tôi nghĩ là Duffield xúi nó… Tôi nghi rằng chính Duffield tiết lộ chuyện này với báo chí, mặc dù Lula không tin vậy… Chuyện là, nó tìm được bà mẹ, một bà Higson nào đó. Bà ta kể rằng bố ruột của Lula là một sinh viên châu Phi. Tôi không biết chuyện có thật không. Nhưng rõ là đúng thứ Lula muốn nghe. Trí tưởng tượng của nó tha hồ bay bổng: hình như nó tin rằng mình là con gái bị thất lạc của một chính khách cao cấp, hay là công chúa của một bộ lạc nào đó.”
“Nhưng cô ấy không truy ra được ông bố à?”
“Tôi không rõ, nhưng,” Bristow đáp, thể hiện sự hào hứng thường thấy với bất kỳ hướng điều tra nào dính đến người da đen bỏ chạy trong đoạn phim. “Nếu có thì nó cũng sẽ không nói với tôi.”
“Tại sao?”
“Vì tụi tôi cãi nhau rất dữ dội vì chuyện đó. Mẹ tôi vừa có chẩn đoán ung thư tử cung thì Lula lại đi tìm Marlene Higson. Tôi nói với nó lúc đó mà đi tìm gốc gác thì không tế nhị chút nào, nhưng… một khi đã muốn gì thì nó chỉ nghĩ đến điều đó. Anh em tụi tôi rất thương nhau,” Bristow nói, bàn tay nhọc nhằn đưa lên vuốt mặt, “nhưng mà tuổi tác cách xa nhau quá, nên khó hòa thuận. Dù vậy, tôi cũng chắc rằng nó đã đi tìm bố, vì nó muốn làm vậy hơn bất cứ điều gì: đi tìm cho ra gốc gác da đen, để biết mình là ai mà.”
“Lula có giữ liên lạc với Marlene Higson cho tới khi cô ấy chết không?”
“Thỉnh thoảng. Tôi có cảm giác là Lula đang cố cắt đứt với bà ta. Higson là một người ghê tởm, làm tiền không biết xấu hổ. Bà ta bán chuyện đó cho bất kỳ ai muốn mua, không may là trên đời không thiếu cái thể loại háo chuyện. Mẹ tôi rất đau lòng.”
“Tôi muốn hỏi anh thêm vài điều.”
Ông luật sư cố ý bước chậm lại.
“Khi anh ghé qua nhà Lula sáng hôm đó để đưa hợp đồng, anh có thấy người nào trông như nhân viên công ty bảo trì không? Đến để kiểm tra hệ thống báo động?”
“Giống như thợ sửa chữa à?”
“Hay thợ điện. Có khi mặc đồ bảo hộ?”
Mỗi khi Bristow nhăn mặt suy nghĩ, hàm răng thỏ nhô ra hơn bao giờ hết.
“Tôi không nhớ… để xem… Khi tôi đi ngang qua căn hộ tầng hai, à… có một người đang đứng sửa gì đó trên tường… Có thể là người đó chăng?”
“Có thể. Trông anh ta ra sao?”
“Thực ra anh ta đứng quay lưng về phía tôi. Tôi không thấy được.”
“Wilson có đó không?”
Bristow dừng lại trên vỉa hè, trông hơi lung túng.
Một nhóm ba người cả nam lẫn nữ mặc complet hối hả bước qua, tay cầm hồ sơ.
“Tôi nghĩ,” ông ta ngắc ngứ, “Tôi nghĩ là cả hai đều ở đó, quay lưng về phía tôi khi tôi đi xuống cầu thang. Sao thế? Chuyện đó có liên quan gì?”
“Có thể là không liên quan,” Strike nói. “Nhưng anh có nhớ được gì không? Màu tóc, màu da chẳng hạn?”
Bristow càng bối rối hơn. Ông ta đáp.
“E là tôi không nhớ gì cả. Tôi nghĩ…” Ông ta lại nhăn mặt tập trung. “Tôi nghĩ anh ta mặc đồ màu xanh. Cùng lắm thì tôi nghĩ anh ta là người da trắng. Nhưng tôi không cam đoan gì được.”
“Anh không cần cam đoan gì đâu,” Strike đáp, “như vậy cũng rất có ích rồi.”
Hắn rút cuốn sổ ra, rà lại mấy câu hỏi mà hắn định hỏi Bristow.
“À còn nữa. Trong lời khai bên cảnh sát, Ciara Porter nói rằng Lula kể với cô ta là sẽ để lại hết cho anh.”
“À,” Bristow nói, không hồ hởi gì. “Vụ đó.”
Ông ta bắt đầu bước đi, Strike đi theo.
“Một trong những điều tra viên vụ án có kể với tôi rằng Ciara có nói như vậy. Một anh trung sĩ điều tra tên Carver. Ngay từ đầu anh ta đã tin rằng đây là vụ tự tử, anh ta nghĩ khi nói với Ciara như vậy hẳn Lula đã có ý tự tử. Một kiểu lý luận lạ đời. Mấy người tự tử có hay nghĩ tới di chúc không?”
“Vậy anh nghĩ Ciara Porter bịa chuyện à?”
“Không bịa,” Bristow, “có thể là nói quá. Tôi nghĩ rất có thể là Lula nói tốt gì đó cho tôi, vì hai tụi tôi vừa mới làm hòa khi sáng. Còn Ciara, sau khi đã tin rằng Lula định tự tử thì suy diễn đó thành di chúc nọ kia. Con bé đó… hơi mơ mộng.”
“Cảnh sát có đi tìm di chúc, đúng không?”
“À đúng vậy, cảnh sát tìm rất kỹ. Người nhà chúng tôi không nghĩ Lula có lập di chúc; luật sư của nó cũng không biết gì cả, nhưng họ vẫn tìm. Không thấy gì, mặc dù họ lục lọi khắp nơi.”
“Cứ tạm cho là Ciara Porter không nhớ sai những lời em gái anh nói, thì…”
“Nhưng Lula sẽ không bao giờ để hết lại cho tôi. Không bao giờ.”
“Tại sao không?”
“Bởi vì viết như vậy có nghĩa là không tính gì đến mẹ tôi, sẽ làm cho mẹ tôi vô cùng đau đớn,” Bristow tha thiết nói. “Chuyện không phải là tiền bạc… vì bố tôi để lại cho mẹ tôi rất nhiều rồi… mà là ý nghĩa của việc cắt đứt với mẹ tôi như vậy. Di chúc có thể làm cho người ta đau khổ đủ đường. Tôi từng thấy nhiều lần rồi.”
“Mẹ anh có lập di chúc chưa?” Strike hỏi.
Bristow giật nảy mình.
“Tôi… vâng, tôi nghĩ là có.”
“Cho tôi hỏi ai là người thừa kế được không?”
“Tôi chưa xem,” Bristow đáp, giọng cứng đơ. “Chuyện này thì…?”
“Đều có liên quan hết, John à. Mười triệu bảng là một số tiền không hề nhỏ.”
Bristow dường như đang nghĩ xem Strike có ý xúc phạm hay chỉ thiếu tế nhị. Cuối cùng ông ta nói:
“Vì không còn ai thân thích gì, tôi nghĩ chắc hẳn tôi và Tony là người thừa kế chính. Có thể là một vài tổ chức từ thiện nào đó, mẹ tôi rất hào phóng với các tổ chức từ thiện. Tuy nhiên, tôi chắc anh cũng hiểu,” cổ Bristow lại nổi lên những chấm đỏ hồng. “Tôi không vội gì muốn biết những chuyện này, không muốn nghĩ tới chuyện phải xảy ra trước đó.”
“Đương nhiên rồi.” Strike đáp.
Họ vừa đến văn phòng của Bristow, một tòa nhà tám tầng nghiêm nghị, phía trước có cổng vòm tối đen. Bristow dừng lại ngay lối vào, nhìn Strike.
“Anh vẫn còn nghĩ là tôi tự dối mình không?” Ông ta hỏi, vừa lúc có hai người phụ nữ mặc complet đen đi ngang qua.
“Không,” Strike trả lời, thật thà. “Không, tôi không nghĩ vậy.”
Vẻ mặt không có gì nổi bật của Bristow tươi lên một chút.
“Tôi sẽ gọi cho anh về Somé và Marlene Higson. À… chút nữa thì tôi quên. Máy tính xách tay của Lula. Tôi đã sạc điện luôn rồi, nhưng mà có mật khẩu. Mấy người bên cảnh sát tìm ra được mật khẩu, có nói với mẹ tôi nhưng mẹ tôi không nhớ là gì cả, còn tôi thì không biết. Biết đâu có ghi lại trong hồ sơ cảnh sát?” Ông ta hỏi, tỏ vẻ hy vọng.
“Tôi không nghĩ vậy,” Strike đáp, “nhưng cũng không thành vấn đề. Từ khi Lula chết thì máy tính để ở đâu?”
“Cảnh sát giữ, và sau đó là ở nhà mẹ tôi. Gần như hết thảy đồ đạc của Lula đều còn ở nhà mẹ tôi. Mẹ tôi vẫn chưa thể nghĩ đến giải quyết kiểu gì.”
Bristow đưa cho Strike chiếc túi da đựng máy tính và chào tạm biệt; rồi, gồng nhẹ hai vai, ông ta bước lên bậc thang và biến mất sau những cánh cửa của hãng luật gia đình.
7
Mỏm chân cụt của Strike càng lúc càng đau đớn khi hắn đi về phía khu Kensington Gore. Mồ hôi rịn ra dưới lớp áo khoác dày. Xa xa, cây cối trong công viên lung linh trong nắng chiều yếu ớt. Strike tự hỏi phải chăng hắn đang đuổi theo một cái bóng dưới lòng hồ sâu đầy bùn đất, hay biết đâu đó chỉ là một trò nghịch của ánh sáng, hay chút ảo ảnh trên mặt hồ gió đùa. Phải chăng hắn đang nhìn thấy những vết bùn li li bám lại sau cú quẩy đuôi? Hay cảm giác xao động trong lòng của hắn lúc này chỉ là cơn ậm ạch sau bữa ăn quá nhiều rong biển hôm trước? Liệu quả thật có gì đó đang nấp kỹ, ngụy trang bằng lớp bùn đất dưới đáy hồ, khéo đến nỗi những chiếc lưới đã giăng đều bất lực?
Strike đi ngang qua cổng Queen’s Gate ở công viên Hyde Park trên đường về trạm tàu Kensington. Chiếc cổng trang trí có màu đỏ như sắt gỉ, chạm trổ đủ loại biểu tượng Hoàng gia. Vốn rất tinh ý, hắn nhận ra một bên cột chạm hình hươu mẹ và hươu con, trong khi bên kia lại là hươu đực. Mắt người thường tự động ghi nhận tính đối xứng và cân bằng ở cả những nơi không hề có. Giống đó, mà khác một trời một vực… Máy tính xách tay của Lula Landry liên tục đập vào chân mỗi khi hắn lê bước, càng lúc càng nặng nhọc.
Strike về đến văn phòng lúc năm giờ kém mười phút. Lúc này hắn vừa thấy đau chân vừa thấy hoang mang bất lực. Robin đều đều báo cáo những chuyện chẳng có gì bất ngờ. Cô vẫn chưa thuyết phục được nhân viên trực điện thoại ở hãng phim của Bestigui để đặt hẹn và không tìm ra thuê bao nào của Viễn thông Anh quốc ở khu vực Kilburn đăng ký tên là Onifade.
“Đương nhiên, bà cô của Rochelle có thể mang họ khác, đúng không?” Robin vừa phân tích vừa cài nút áo khoác chuẩn bị ra về.
Strike gật đầu đồng ý, trông hắn rã rời. Hắn ngồi phịch xuống chiếc sofa đã sờn cũ ngay khi vừa bước qua cửa văn phòng. Robin chưa bao giờ thấy hắn như thế. Mặt hắn nhăn nhó khổ sở.
“Anh có ổn không?”
“Ổn. Lúc chiều Bên Giải pháp Tạm thời có gọi nữa không?”
“Không,” Robin trả lời, kéo thắt lưng áo khoác. “Chắc họ tin lời tôi lúc tôi nói tôi là Annabel? Lúc đó tôi có cố giả giọng Úc.”
Strike nhe răng cười. Robin đóng tập báo cáo lấy đọc trong lúc chờ Strike về, đặt gọn gàng lên kệ. Cô chào tạm biệt Strike rồi ra về. Hắn vẫn ngồi tại chỗ, bên cạnh là máy tính xách tay của Lula đặt trên mấy chiếc gối tựa xác xơ.
Khi không còn nghe tiếng bước chân của Robin nữa, Strike với tay khóa cửa gương lại, tạm lờ đi cái quy định tự đặt là không hút thuốc trong văn phòng ngày thường. Miệng ngậm thuốc, hắn xắn quần lên rồi tháo đai giữ khúc chân giả vào đùi. Hắn tháo tiếp miếng lót, kiểm tra vết thương cũ.
Đáng ra mỗi ngày hắn đều phải kiểm tra xem da mỏm chân có bị tấy không. Lớp sẹo đã sưng lên từ khi nào, nóng ran. Hắn có đủ loại kem thoa và phấn đặc trị để sẵn trên kệ trong nhà tắm ở chỗ Charlotte, chuyên dùng cho phần da dẻ mấy hôm nay chịu áp lực quá sức. Biết đâu Charlotte đã quẳng lọ phấn ngô và kem Oilatum vào một trong những chiếc thùng vẫn chưa được mở? Nhưng hắn không đủ sức để lục lọi tìm kiếm, mà cũng chưa muốn gắn chân giả vào lại. Vậy là hắn cứ ngồi nguyên trên ghế sofa hút thuốc, chân ống quần rỗng thả xuống nền nhà, trầm tư một hồi lâu.
Tâm trí hắn lan man từ chuyện này sang chuyện khác. Hắn nghĩ về gia đình, về những cái tên, cả về tuổi thơ của hắn và Bristow, bề ngoài thì vô cùng khác, nhưng thực ra lại có nhiều điểm giống nhau. Gia đình của Strike cũng có những bóng ma, chẳng hạn như người chồng thứ nhất của mẹ hắn. Bà Leda Strike hầu như không bao giờ nhắc tới ông này, trừ lúc kể lể rằng chính ông ta làm bà không muốn cưới kiếc ai nữa. Trái lại, mợ Joan luôn nhớ rõ những chuyện mà mẹ hắn chỉ láng máng mơ hồ. Mợ nói rằng khi đó Leda mới có mười tám tuổi, lấy chồng được hai tuần thì bỏ đi. Mợ kể thêm rằng ông Strike, người chồng đầu tiên của mẹ hắn là dân kiếm sống theo các hội chợ lưu động. Ông gặp mẹ hắn khi hội chợ đến St Mawes, khi ấy bà đồng ý lấy ông ta chỉ vì muốn có một chiếc đầm và cái họ mới. Sau đó Leda trung thành với họ Strike, không đổi nữa, mặc dù vẫn dan díu với nhiều người khác. Strike ra đời, mang họ của một người không hề ruột thịt, chưa từng biết mặt và đã biệt tăm từ lâu.
Strike vừa hút thuốc vừa nghĩ ngợi, cho tới khi ánh sáng ban ngày trong văn phòng dịu lại, mờ hẳn. Cuối cùng hắn gắng gượng đứng dậy trên một chân, vịn tay vào nắm đấm cửa và đường gờ trang trí trên tường. Strike lò cò đến lục lọi trong đám thùng giấy chồng lên nhau trước văn phòng. Moi ra được mấy hộp kem phấn đặc trị dưới đáy thùng, hắn xoa kem, cố làm dịu vết thương tấy lên từ cái đêm vác túi trên vai đi bộ gần hết London.
Ngày đã bắt đầu dài ra. Tám giờ tối mà trời vẫn còn sáng, chẳng bù với hai tuần trước. Strike đi ăn tối ở nhà hàng Wong Kei, lần thứ hai trong mười ngày qua. Nhà hàng này chuyên các món Trung Hoa, có mặt tiền sơn trắng và khung cửa sổ nhìn thẳng ra tiệm “Chơi là thắng” bên kia đường. Hắn thấy đau kinh khủng khi lắp chân giả trở lại, càng khổ sở hơn khi đi bộ xuống phố Charing Cross sau đó. Nhưng Strike chẳng muốn động đến cặp nạng thép màu xám – kỷ vật từ hồi mới ra viện mà hắn cũng vừa mới tìm thấy dưới đáy thùng.
Strike một tay gắp mì xào Singapore ăn, tay kia vẫn mân mê máy tính của Lula đặt trên bàn ngay cạnh ly bia. Vỏ máy tính màu hồng đậm, có in hình hoa anh đào. Strike không nhận ra rằng ngay lúc này đây trông hắn thật kỳ cục: Một gã to lớn, đầu tóc bù xù, chúi đầu vào chiếc máy tính màu hồng cực kỳ nữ tính, nho nhỏ xinh xinh. Hai nhân viên phục vụ áo đen trông thấy, tủm tỉm cười.
“Sao rồi, Federico?” một thanh niên xanh xao, đầu tóc bù xù cất tiếng hỏi hắn lúc tám giờ rưỡi. Người mới đến ngồi ngay ghế đối diện với Strike. Anh ta mặc quần Jeans, áo thun màu mè, mang giày Converse và đeo túi chéo trước ngực.
“Không đến nỗi,” Strike lầm bầm. “Mày sao rồi? Uống gì không?”
“Bia.”
Strike gọi đồ uống cho vị khách mới đến. Hắn quen gọi anh chàng này là Khỉ Con, không nhớ là vì sao. Khỉ Con có bằng hạng Ưu ngành khoa học máy tính, nhìn bộ dạng bề ngoài không ai biết được gã kiếm được rất nhiều tiền.
“Không đói lắm, mới ăn burger hồi làm ra.” Khỉ Con vừa nói vừa nhìn xuống thực đơn. “Thôi ăn xúp cũng được. Cho một chén hoành thánh,” anh ta quay sang nói với người hầu bàn. “Laptop ngộ vậy, Fed.”
“Không phải của tao,” Strike đáp.
“Công việc hả?”
“Ờ.”
Strike đẩy chiếc máy tính về phía Khỉ Con. Anh chàng ngó nghiêng, vừa tò mò, vừa coi thường, đúng kiểu dân sành công nghệ.
“Thứ cùi bắp,” Khỉ Con tươi tỉnh phán. “Anh trốn đâu mất biệt vậy Fed? Bà con rất lo lắng.”
“Bà con tử tế quá,” Strike đáp, miệng đầy mì xào. “Khỏi lo đi.”
“Mấy hôm trước em có tới nhà Nick và Ilsa, nói toàn chuyện anh. Bà con đồn là anh rút vào hoạt động ngầm sao đó. Ồ cảm ơn,” anh chàng nói với người chạy bàn khi chén hoành thánh được mang ra. “Gọi tới nhà anh suốt, không ai bốc máy hết. Ilsa đoán chắc là chuyện dính tới đàn bà.”
Strike chợt nhận ra cách tốt nhất để thông báo vụ hủy hôn với Charlotte là thông qua anh chàng vô tư này. Khỉ Con là em một người bạn lâu năm của Strike. Anh chàng hầu như không biết gì và cũng không quan tâm mấy đến tình sử dài dòng đau khổ giữa hắn và Charlotte. Thực tình Strike tránh mặt đám bạn chỉ vì ngại những màn an ủi và phân tích mổ xẻ. Hắn hoàn toàn không muốn giả vờ vẫn đang sống với Charlotte. Strike nói với Khỉ Con rằng Ilsa đã đoán đúng, rồi nhờ nhắn lại cho đám bạn từ nay về sau đừng điện đến nhà Charlotte nữa.
“Chán nhỉ,” Khỉ Con đáp bàng quan. Anh chàng này luôn quan tâm đến máy móc nhiều hơn các thể loại tâm sự đau khổ. Khỉ Con chỉ tay vào chiếc máy tính Dell, hỏi liền: “Anh muốn em làm gì giờ?”
“Cảnh sát có coi qua rồi,” Strike đáp, nhỏ giọng lại mặc dù trong nhà hàng chỉ có mỗi hắn và Khỉ Con là không nói tiếng Quảng Đông. “Nhưng tao muốn nhờ mày coi lần nữa.”
“Bên cảnh sát nhiều người giỏi lắm. Chắc em không tìm ra cái gì khác đâu.”
“Có thể họ không biết phải tìm cái gì,” Strike nói, “hoặc tìm được nhưng không nhận ra. Họ chỉ quan tâm đến mấy cái email gần nhất, mà tao xem hết chỗ đó rồi.”
“Vậy em còn tìm gì nữa?”
“Tất cả mọi hoạt động trên máy trước và trong ngày Tám tháng Giêng. Những từ khóa tìm kiếm được dùng gần nhất, mấy thứ đại loại vậy. Tao không có mật khẩu nhưng không muốn hỏi cảnh sát, trừ khi hết cách thôi.”
“Chuyện đó không thành vấn đề,” Khỉ Con đáp. Anh chàng gõ lại những yêu cầu của Strike vào điện thoại di động, thay vì chép tay. Khỉ Con nhỏ hơn Strike mười tuổi, gần như không bao giờ dùng tới cây viết. “Máy của ai vậy?”
Strike trả lời. Khỉ Con cảm thán ngắn gọn:
“Cô người mẫu hả? Oa chà.”
Con người, dù đã chết hay nổi tiếng đến mấy thì cũng chỉ gây ấn tượng đến vậy với Khỉ Con. Không thể nào sánh được với các bộ truyện tranh hiếm, những món đồ công nghệ và những ban nhạc mà Strike chưa bao giờ nghe tên. Sau khi nuốt liền mấy muỗng hoành thánh, Khỉ Con hớn hở hỏi ngay chuyện công xá.
Sau khi Khỉ Con đã ra về với chiếc máy tính hồng kẹp dưới cánh tay, Strike cũng lê bước trở lại văn phòng. Tối hôm đó hắn lau rửa chân phải cẩn thận, thoa kem vào vết sẹo đang tấy đỏ và rát buốt. Lần đầu tiên trong nhiều tháng, hắn uống thuốc giảm đau trước khi chui vào túi ngủ. Hắn nằm trên giường, chờ cơn đau lịm dần đi và suy nghĩ có nên đi khám lại ở khoa phục hồi chức năng không. Hắn từng được giải thích rất nhiều lần về hai triệu chứng của hội chứng co thắt, kẻ thù số một của bệnh nhân khuyết chi: da mưng mủ và sưng tấy. Hắn ngờ mình đang chớm bệnh nhưng cứ nghĩ tới hành lang bệnh viện đầy mùi thuốc sát trùng là rùng mình, lại thêm mấy vị bác sĩ cứ chăm chắm vô cái phần cơ thể không còn nguyên vẹn của hắn. Hắn thấy ngại vô số cuộc hẹn tái khám sau đó, mỗi lần chỉ để điều chỉnh chiếc chân giả một chút xíu. Vậy mà hắn từng hy vọng sẽ không bao giờ phải trở lại cái chỗ ngột ngạt trắng toát đó. Hắn còn sợ họ sẽ khuyên hắn nên để cái chân nghỉ ngơi, nên hạn chế vận động, thậm chí buộc hắn phải dùng nạng trở lại. Strike rùng mình nghĩ đến ánh mắt người qua đường hiếu kỳ nhìn ống quần buộc túm của hắn, rồi cả giọng lanh lảnh của đám trẻ con tò mò hỏi han.
Điện thoại di động trên sàn nhà (đang cắm sạc ngay gần giường) rung lên, báo có tin nhắn.
Vui lòng gọi cho tôi lúc nào tiện, nói nhanh thôi. Charlotte.
Strike không tin vào thần giao cách cảm, vậy mà khi nhìn thấy tin nhắn đó, không biết cơn cớ vì sao mà hắn nghĩ ngay là hẳn Charlotte đã biết được hắn vừa thông báo vụ chia tay với Khỉ Con. Cứ như thể hắn vừa giật mạnh sợi dây vô hình vẫn nối giữa hai người.
Hắn nhìn chằm chằm vào tin nhắn như thể hy vọng đọc được vẻ mặt Charlotte qua màn hình màu xám nhỏ xíu.
Vui lòng. (Tôi biết anh không cần phải gọi: nhưng lần này tôi xuống nước đề nghị anh). Nói nhanh thôi (Tôi có lý do chính đáng để nói chuyện với anh, ta có thể bàn chuyện nhanh chóng và suôn sẻ, không cãi vã gì đâu.) Khi nào tiện. (Tôi tử tế đấy chứ, ra ý không có tôi thì anh vẫn có chuyện khác để lo.)
Hoặc, có lẽ là: Vui lòng (Anh mà từ chối tôi thì anh khốn kiếp lắm nha Strike, anh xúc phạm tôi như vậy chưa đủ hả?) Nói nhanh thôi. (Tôi biết anh nghĩ tôi sẽ làm ầm lên; nhưng, đừng lo, lần gặp cuối anh quá khốn nạn mà, tôi chẳng thiết nữa) Khi nào tiện. (Bởi vì nói thẳng ra, lúc nào mà anh chẳng xếp tôi tít sau quân đội và mấy trò nhăng nhố khác của anh.)
Bây giờ thì có tiện không? Hắn bâng khuâng tự hỏi, vẫn đau đớn vì thuốc chưa ngấm. Hắn nhìn đồng hồ: mười một giờ mười phút. Rõ là cô ta vẫn còn thức.
Strike để điện thoại xuống sàn nhà. Chiếc điện thoại nằm yên lặng, tiếp tục sạc pin. Hắn gác cánh tay lông lá che mắt để khỏi nhìn những vệt sáng trên trần nhà do đèn đường chiếu qua mành cửa. Tự dưng, mặc dù không hề muốn, hắn mường tượng Charlotte ngay trước mắt, như lần đầu tiên hắn thấy cô ta ngồi một mình trên bệ cửa sổ trong một buổi tiệc tùng thời sinh viên ở Oxford. Trong đời hắn chưa bao giờ thấy gì đẹp đẽ hơn vậy. Đám con trai chung quanh dường như cũng giống hắn, không ngớt liếc mắt, vờ vĩnh nói cười to tiếng và diễu qua diễu lại trước cô gái đang ngồi im lặng.
Khi nhìn thấy Charlotte lần đầu tiên, Strike - mới mười chín tuổi, thấy lòng rộn ràng hệt như những ngày thơ ấu, khi hắn vừa thức dậy và nhận ra tuyết đã rơi trắng vườn nhà cậu Ted và mợ Joan. Hắn muốn đặt những bước chân đầu tiên lún sâu vào lớp tuyết trắng mịn màng, khiêu khích và quậy tung bề mặt tĩnh lặng đó.
“Mày say rồi,” một đứa bạn lên tiếng cảnh báo sau khi Strike tuyên bố ý định sẽ đến bắt chuyện với Charlotte.
Strike gục gặc đồng ý, nốc cạn vại bia thứ bảy và khệnh khạng đi đến khung cửa sổ nơi Charlotte đang ngồi. Hắn mơ hồ nhận ra đám đông chung quanh đang dõi theo, dường như đang chờ đợi một chuyện buồn cười sắp xảy ra vì Strike khi ấy đã rất to con, đầu tóc như Beethoven, thân hình như dân đấm bốc còn áo thun dính đầy nước cà ri.
Cô ta ngước lên nhìn hắn. Hai mắt mở to, tóc đen dài, khe ngực mềm mại, trắng trẻo lộ ra sau làn áo sơ mi.
Nhờ tuổi thơ lăn lóc rày đây mai đó, kết bạn với đủ loại người, Strike có kỹ năng xã giao cực kỳ tốt. Hắn biết cách hòa vào đám đông, biết làm người khác cười, biết cả cách làm người ta chấp nhận mình. Vậy mà đêm đó, lưỡi hắn tê dại, thừa thãi. Hắn còn nhớ khi đó hắn đi đứng hơi loạng choạng.
“Anh cần gì hả?” cô ta hỏi.
“Vâng,” hắn đáp. Rồi hắn lấy tay kéo áo thun ra, cho Charlotte thấy chỗ dính nước cà ri. “Cô biết làm sao tẩy hết cái này không?”
Cô ta không nhịn được (dù rõ là rất cố), bật cười khúc khích.
Một lúc sau, một anh chàng tên Jago Ross đẹp trai, chải chuốt, dân có số má (Strike từng thấy mặt và nghe tiếng ông kễnh này) chạy vào phòng cùng với đám bạn con nhà quý tộc. Đập vào mắt họ là Strike và Charlotte ngồi cạnh nhau trên bệ cửa, say sưa chuyện trò.
“Sao mà đi nhầm phòng vậy Char cưng,” Ross nói, thể hiện quyền sở hữu qua giọng điệu vừa kiêu căng vừa mơn trớn. “Tiệc của Ritchie ở trên lầu kia.”
“Tôi không đi đâu cả,” cô ta đáp, mỉm cười nhìn gã nhà giàu. “Tôi phải giúp anh Cormoran giặt áo đã.”
Vậy là cô ta đá cậu bạn trai dân trường Harrow[1] ngay giữa bàn dân thiên hạ để theo Cormoran Strike. Đó cũng là khoảnh khắc vinh quang nhất trong cuộc đời mười chín năm của Strike. Trước mặt đám đông, hắn đã bế bổng được Helen thành Troy ngay trước mũi vua Menelaus. Hắn sửng sốt lẫn vui sướng tột độ, không thèm băn khoăn chút nào về phép màu vừa xảy ra mà chỉ đơn giản chấp nhận nó.
[1. Một trong bốn trường tư nội trú cho nam sinh rất nổi tiếng ở Anh, đa phần học sinh là con nhà giàu có, quý tộc - ND]
Sau này Strike mới biết được rằng mối duyên nợ tình cờ, tưởng như số phận an bài đó lại hoàn toàn do Charlotte sắp đặt. Mấy tháng sau cô thú nhận rằng chuyện cố ý đi nhầm phòng chỉ vì muốn trừng phạt một tội lỗi vớ vẩn của Ross. Cô ta quyết ngồi đó, đợi một người đàn ông bất kỳ đến làm quen. Với Charlotte, Strike chỉ là vũ khí để tra tấn Ross. Cô ta đã lên giường với hắn ngay sau đó, chỉ để thỏa sự cay cú và giận dữ, chứ chẳng phải vì cuồng nhiệt yêu đương như hắn lầm tưởng.
Trong đêm đó Charlotte đã bộc lộ tất cả những uẩn khúc trong con người cô ta, cũng chính là những điều liên tục giằng xé rồi lại níu kéo hai người về sau. Charlotte là kiểu người luôn tự làm tổn thương chính mình, bất cần và cũng sẵn sàng làm tổn thương người khác. Cô ta không ngờ lại bị Strike lôi cuốn đến vậy. Nhưng Charlotte cũng luôn ý thức được vị trí cố hữu an toàn của mình trong một thế giới kín cổng cao tường, hoàn toàn xa lạ với Strike, nơi có những giá trị mà cô ta vừa khinh bỉ vừa không bao giờ chối bỏ.
Rồi bắt đầu mối duyên lẫn nợ và mười lăm năm sau, Strike nằm trên chiếc giường xếp, đau đớn đủ đường, chỉ ước gì có thể xóa sạch Charlotte khỏi trí nhớ.
8
Khi Robin đến văn phòng sáng hôm sau, cánh cửa gương vẫn còn khóa. Đây là lần thứ hai Robin gặp tình huống này. Cô dùng chìa khóa dự phòng (Strike đã để cô giữ luôn chìa khóa) mở cửa bước vào. Cô tiến lại gần cánh cửa phòng bên trong, đứng im nghe ngóng. Sau vài giây, cô nghe rõ tiếng ngáy ngủ, dù nghèn nghẹn nhưng không lẫn vào đâu được.
Tình huống trước mắt thật khó xử. Một mặt, giữa Robin và Strike dường như đã có một thỏa thuận ngầm rằng không ai nhắc đến chiếc giường xếp hay bất cứ dấu hiệu nào cho thấy Strike ăn ở luôn trong văn phòng. Mặt khác, Robin đang có chuyện rất gấp, cần phải nói ngay với ông sếp tạm. Cô ngập ngừng, suy tính tới lui. Dễ nhất là cứ đá thúng đụng nia ở phòng ngoài để gián tiếp đánh thức Strike. Như vậy hắn sẽ có thời gian mặc áo quần và dọn dẹp phòng trong. Nhưng làm vậy sẽ mất một lúc khá lâu, việc mà cô sắp báo không chờ được. Vậy là cô hít một hơi thật sâu và gõ rầm rầm vào cánh cửa.
Strike mở mắt ngay lập tức. Trong giây lát còn mơ màng hắn ê chề nhận ra ánh sáng ban ngày đang chiếu vào từ cửa sổ. Rồi hắn nhớ đã đặt điện thoại xuống sàn nhà sau khi đọc tin nhắn của Charlotte và sau đó quên không đặt giờ báo thức.
“Đừng vào!” Hắn rống lên.
“Anh uống trà không?” Robin gọi qua cánh cửa.
“Ừ, à… cảm ơn. Tôi sẽ ra ngay,” Strike nói to, thầm ước giá như cánh cửa phòng trong có khóa. Cái chân giả vẫn đang dựa vào tường còn trên người hắn chỉ độc mỗi cái quần đùi.
Robin vội vàng chạy ra ngoài văn phòng đổ nước vào ấm đun trong khi Strike loay hoay chui ra khỏi túi ngủ. Hắn nhanh chóng mặc áo quần, luống cuống đeo chân giả, xếp giường vào trong góc và đẩy bàn làm việc về chỗ cũ. Mười phút sau khi Robin gõ cửa, hắn bước ra phòng ngoài, người ngợm sực nức thuốc khử trùng. Robin đang ngồi đó, mặt mày hớn hở.
“Trà của anh nè,” cô nói, chỉ tay về phía tách trà bốc khói.
“Tuyệt vời, cảm ơn cô. Đợi tôi một lát,” Hắn đáp, ra hành lang đến phòng vệ sinh đi tè. Lúc kéo khóa quần lên, hắn nhìn thấy mặt mình trong gương, đầu bù tóc rối, lại còn chưa cạo râu. Như thường lệ, hắn tự an ủi rằng tóc tai hắn có chải hay không thì cũng vậy.
“Có tin mới,” Robin lên tiếng, khi hắn vừa mở cánh cửa gương vào lại văn phòng, cảm ơn cô lần nữa và cầm tách trà lên.
“Gì kia?”
“Tôi tìm ra Rochelle Onifade rồi.”
Hắn hạ cái tách xuống.
“Cô đùa. Làm sao mà…”
“Tôi thấy anh có ghi lại trong hồ sơ là cô ta có đi điều trị ngoại trú ở bệnh viện St Thomas,” Robin hào hứng kể, mặt đỏ bừng nói gấp gáp, “vậy là tối hôm qua tôi gọi cho bệnh viện, giả vờ là cô ta, rồi nói là tôi quên mất giờ hẹn. Họ nói mười giờ rưỡi sáng thứ Năm. Như vậy anh có khoảng,” cô nhìn vào màn hình máy tính, “năm mươi lăm phút để đến đó.”
Tại sao hắn không nghĩ ra chuyện nhờ Robin làm việc này?
“Cô đúng là thiên tài, thiên tài thiệt mà…”
Hắn loay hoay đánh đổ trà nóng ra bàn tay, rồi sốt ruột bỏ luôn cái tách xuống bàn Robin.
“Cô có biết chính xác…?”
“Khoa tâm thần, ngay phía sau tòa nhà chính,” Robin vui vẻ trả lời, “Anh thấy không, anh đi thẳng vào từ phố Grantley, qua bãi đậu xe thứ hai…”
Cô quay màn hình máy tính lại để hắn xem bản đồ của bệnh viện St Thomas. Strike nhìn xuống cổ tay, sực nhớ ra là đồng hồ vẫn còn ở trong phòng.
“Nếu anh đi ngay bây giờ thì vẫn kịp.” Robin giục hắn.
“Được rồi… để tôi lấy mấy thứ.”
Strikie nhanh chóng lấy đồng hồ, ví tiền, bao thuốc lá và điện thoại. Hắn vừa ra đến cửa gương, luống cuống nhét ví vào túi quần sau thì Robin lên tiếng:
“Ừm… anh Cormoran…”
Robin chưa bao giờ gọi tên hắn thân mật như vậy. Chắc vì thế mà nghe giọng cô rất rụt rè. Nhưng hắn ngay lập tức nhận ra Robin đang chỉ tay vào bụng hắn, đầy ý nhị. Strike cúi xuống, thấy nút áo cài xộc xệch. Một khoanh bụng lông lá chường ra, trông như thảm xơ dừa đen.
“À… ra vậy… cảm ơn cô…”
Robin lịch sự quay mặt vào màn hình máy tính khi hắn mở nút áo ra cài lại.
“Tạm biệt cô.”
“Chào anh,” Robin đáp, mỉm cười khi hắn chạy ào ra ngoài, nhưng chỉ vài giây sau hắn quay trở lại, thở hổn hển.
“Tôi cần cô xem thêm giùm một chuyện.”
Robin đã cầm sẵn cây viết trong tay.
“Hội thảo Luật ngày bảy tháng Giêng ở Oxford. Ông Tony Landry, cậu của Lula có tham dự. Nội dung về luật gia đình quốc tế. Tìm hết mọi thứ có thể, đặc biệt là những gì liên quan tới ông này ở đó.”
“Rõ rồi.” Robin vừa nói vừa viết.
“Cảm ơn, cô đúng là thiên tài.”
Strike quay trở ra, đi cà nhắc xuống cầu thang.
Robin ngồi xuống bàn làm việc, ngâm nga một mình. Nhưng chút hào hứng vừa nãy nhanh chóng trôi xuống theo ngụm trà. Vậy mà Robin cứ nghĩ là Strike sẽ rủ cô đi cùng đến gặp Rochelle Onifade sau hai tuần cô bỏ công tìm kiếm.
Sau giờ cao điểm, tàu điện ngầm vãn khách hẳn. Strike tìm ngay được chỗ ngồi, thấy nhẹ cả người. Mỏm chân hắn vẫn còn buốt. Hắn đã kịp mua một gói kẹo the bạc hà cực mạnh trước khi lên tàu. Hắn ngậm bốn viên cùng một lúc, cố lấp liếm vụ chưa kịp đánh răng. Hắn vẫn cất bàn chải và kem đánh răng trong túi thể thao, mặc dù sẽ tiện hơn nhiều nếu cứ để luôn trên chậu rửa mặt trong phòng vệ sinh. Strike thấy bóng mình trên cửa sổ tàu tối đen, tóc tai bù xù, trông lôi thôi lếch thếch. Mà tại sao cứ phải giả vờ có nhà riêng trong khi Robin thừa biết chuyện hắn ngủ luôn trong văn phòng chứ.
Với trí nhớ và khả năng đọc bản đồ khá tốt, Strike dễ dàng tìm thấy lối vào khoa tâm thần ở bệnh viện St Thomas. Hắn đến nơi lúc mười giờ hơn, không hề bị lạc. Hắn bỏ ra năm phút, đi loanh quanh xem ngoài hai cánh cửa tự động còn có lối vào nào khác từ phố Grantley không. Rồi hắn đứng dựa vào bức tường đá ở bãi đậu xe cách đó khoảng chừng mười tám mét. Đứng đó hắn có thể thấy rõ người ra kẻ vào.
Cô gái mà hắn đang tìm kiếm có lẽ là người vô gia cư, chắc chắn là dân da đen. Lúc ở trên tàu hắn suy nghĩ xem làm sao để nhận ra cô ta và thấy chỉ có một cách duy nhất. Khoảng mười giờ hai mươi, một cô gái da đen, cao, gầy, vội vã bước vào. Hắn gọi to (mặc dù cô này trông có vẻ chải chuốt, ăn mặc rất gọn gàng):
“Rochelle!”
Cô ta ngẩng lên xem ai vừa gọi, nhưng vẫn tiếp tục đi, như thể cái tên đó không có liên quan gì tới mình rồi biến mất sau cánh cửa. Sau đó là một cặp, cả hai đều da trắng, rồi một nhóm người đủ độ tuổi và chủng tộc mà Strike đoán là nhân viên bệnh viện. Nhưng để cho chắc ăn hắn lại gọi tiếp:
“Rochelle!”
Vài người trong số đó liếc nhìn hắn, nhưng ngay lập tức quay lại câu chuyện đang nói dở. Strike tự an ủi rằng chắc họ đã quá quen với những hành vi có phần lập dị của những người hay lui tới đây. Hắn đốt thuốc, tiếp tục chờ đợi.
Mười giờ rưỡi, vẫn không có thêm cô gái da đen nào đi vào. Hoặc là cô ta bỏ lỡ cuộc hẹn, hoặc đã vào bằng cửa khác. Một cơn gió nhẹ thổi qua gáy Strike khi hắn ngồi đó, hút thuốc, theo dõi và chờ đợi. Tòa nhà bệnh viện to sừng sững, trông như hộp bê tông khổng lồ với những ô cửa sổ hình chữ nhật, hẳn có nhiều lối vào ở mỗi mặt tiền.
Strike duỗi thẳng chân phải vẫn còn đau đớn và nghĩ tới việc đi khám bệnh trở lại. Nội chuyện đứng gần bệnh viện lúc này cũng làm hắn thấy rầu rĩ. Bụng hắn sôi rột roạt. Trên đường đến đây có một hàng McDonald. Nếu đến giữa trưa mà vẫn chưa tìm ra cô ta, hắn sẽ đi đến đó làm một bữa.
Hắn gọi “Rochelle!” thêm hai lần nữa khi thấy phụ nữ da đen ra vào tòa nhà. Cả hai cô đều quay lại nhưng chỉ xem ai vừa gọi, một người còn liếc hắn khinh khỉnh.
Mười một giờ hơn, một cô gái da đen thấp, đậm người đi ra khỏi bệnh viện. Cô này đi chân chữ bát, trông vụng về, lấc cấc. Hắn biết chắc là cô ta đã không đi vào từ cửa này, không phải chỉ vì dáng đi dễ nhận ra mà còn vì cô ta mặc một chiếc áo lông giả màu hồng đỏ rất nổi nhưng không ăn nhập gì với chiều cao và cân nặng cả.
“Rochelle!”
Cô gái dừng lại, quay đầu nhìn chung quanh, vẻ cau có, không biết ai vừa gọi mình. Strike đi cà nhắc tới trước cô gái. Cô ta nhìn hắn trừng trừng, nghi ngại.
“Rochelle? Rochelle Onifade? Chào cô. Tôi tên là Cormoran Strike. Tôi nói chuyện với cô một lúc có được không?”
“Tui luôn đi vô từ đường Redbourne,” cô ta nói năm phút sau đó, sau khi Strike giả vờ kể lể rối rắm vụ hắn tìm cô ta như thế nào. “Tui đi ra hướng này, định chút nữa ăn McDonald.”
Vậy là cả hai đến tiệm hamburger. Strike mua hai cốc cà phê và hai cái cookie cỡ lớn rồi mang về phía bàn cạnh cửa sổ, nơi Rochelle đang ngồi đợi. Vẻ mặt cô ta vừa tò mò vừa nghi ngờ.
Rochelle trông rất thô kệch. Da mặt nhờ nhờn màu đất nung đầy mụn mủ và sẹo rỗ. Đôi mắt nhỏ sâu hoắm. Hàm răng mọc chen chúc, vàng khè. Mái tóc duỗi lộ ra mười phân tóc màu đen ở gốc, tiếp theo là khoảng mười lăm phân màu đồng đỏ chói gắt. Cô ta mặc quần jean bó chặt ngắn quá cỡ, mang túi xách tay màu xám bóng và giày thể thao trắng toát, trông rất rẻ tiền. Tuy nhiên, Strike nhận thấy chiếc áo lông giả mềm mại, mặc dù cực kỳ chói mắt và không hề hợp với Rochelle, lại dường như thuộc một đẳng cấp khác. Bên trong áo có một lớp lót bằng lụa in hoa văn (Strike thấy khi cô ta cởi áo khoác ra). Chiếc áo đính một nhãn hiệu của Ý mà Strike nghe đến bao giờ, không phải là hàng Guy Somé như hắn đoán từ email của Lula Landry.
“Anh không phải nhà báo thiệt hở?” Cô ta hỏi, giọng trầm, khàn khàn. Lúc còn ở bên ngoài bệnh viện Strike đã phải giải thích khá lâu là hắn không dính gì đến báo chí cả.
“Tôi không phải là nhà báo. Như tôi đã nói, tôi quen anh trai của Lula.”
“Anh là bạn của ổng hở?”
“Ừ. Cũng không hẳn là bạn. Ông ấy thuê tôi. Tôi là thám tử tư.”
Ngay lập tức cô ta tỏ ra sợ hãi.
“Anh muốn gì?”
“Không có gì phải lo lắng cả…”
“Sao muốn gặp tui?”
“Không có gì rắc rối hết. John chỉ không chắc là Lula tự tử thật, chỉ có vậy thôi.”
Lúc này Strike chắc chắn rằng cô ta còn ngồi lại chỉ vì sợ nếu bỏ đi giữa chừng hắn sẽ ra tay giữ cô lại. Cô ta sợ rúm ró cả người, mặc dù cử chỉ và lời nói của Strike không hề tỏ ra đe dọa.
“Cô không phải lo lắng gì cả,” hắn động viên Rochelle. “John chỉ muốn tôi xem lại sự việc, tức là…”
“Ý ổng là tui có dính gì tới chuyện cổ chết hở?”
“Không, tất nhiên là không rồi. Tôi chỉ mong là cô có thể kể tôi nghe tâm trạng Lula ra sao trước khi cô ấy chết, hôm đó cô ấy làm gì. Cô hay gặp Lula mà, đúng không? Tôi nghĩ chắc cô biết nhiều về Lula.”
Rochelle vừa chớm định nói gì đó, rồi đổi ý và cầm cốc cà phê nóng hổi lên, nhấp thử.
“Vậy ra ông anh cổ muốn chứng tỏ cổ không tự tử? Giống như có đứa nào đẩy xuống?”
“Ông ấy nghĩ có khả năng là như vậy.”
Rochelle ngẩn mặt ra, như đang suy nghĩ gì đó.
“Mà mắc gì tui phải nói với anh. Anh đâu phải là cảnh sát thiệt.”
“Đúng rồi. Nhưng chắc hẳn cô cũng muốn tìm ra…”
“Cổ nhảy lầu,” Rochelle Onifade đanh giọng.
“Tại sao cô chắc chắn vậy?”Strike hỏi.
“Tui chỉ biết vậy thôi.”
“Vậy mà ai biết Lula cũng rất bất ngờ.”
“Cổ bị chầm cảm. Cổ uống thuốc chữa bịnh đó. Giống tui vậy. Nhiều khi bịnh làm mình vậy. Bịnh mờ.” Rochelle đáp, hai chữ cuối nghe như “mịt mờ.”
Mịt mờ, Strike thoáng nghĩ. Mấy hôm nay hắn rất khó ngủ. Mịt mờ, nơi chốn cuối cùng của Lula Landry, cũng là nơi tất cả, kể cả hắn lẫn Rochelle đều đang đi đến. Có người đang chầm chậm đi đến đó, như mẹ của Bristow… Cũng có khi cõi mịt mờ mở ra bất ngờ, chẳng hạn như khi người ta rơi xuống mặt đường bê tông, vỡ sọ tại chỗ.
Strike chắc rằng nếu hắn lấy cuốn sổ ra lúc này thì cô ta sẽ ngậm chặt miệng lại hay đứng dậy bỏ về ngay lập tức. Vậy là hắn tiếp tục hỏi han, cố tỏ ra tự nhiên. Hắn hỏi cô ta vì sao đến khoa này, rồi gặp Lula lần đầu tiên ra sao.
Rochelle vẫn hết sức nghi ngại, ban đầu cô ta trả lời nhát gừng, nhưng dần dần cô ta nói nhiều hơn. Chuyện đời Rochelle thật đáng thương. Bị lạm dụng từ nhỏ, được nhà nước nhận bảo trợ, rồi phát bệnh tâm thần nặng, qua nhiều gia đình nhận nuôi tạm bợ, gây gổ đánh nhau và cuối cùng trở thành vô gia cư năm mười sáu tuổi. Rochelle chỉ được điều trị bệnh tâm thần hẳn hoi sau khi bị tai nạn xe hơi. Cô ta được đưa vào bệnh viện sau tai nạn nhưng không làm chủ được hành vi, khiến việc chữa trị vô cùng khó khăn. Cuối cùng người ta đành phải mời bác sĩ chuyên khoa tâm thần đến. Bây giờ Rochelle đang dùng thuốc, nếu uống đều thì triệu chứng cải thiện đáng kể. Strike thấy mủi lòng: với Rochelle, lớp trị liệu ở bệnh viện St Thomas, nơi cô ta từng gặp Lula, lại là một sự kiện quan trọng mỗi tuần. Cách cô ta nói về anh bác sĩ tâm thần trẻ tuổi phụ trách nhóm bệnh nhân của khu ngoại trú khá trìu mến.
“Vậy là cô gặp Lula ở đó?”
“Ông anh cổ không kể chiện đó hở?”
“Ông ấy không nhớ chi tiết.”
“Ờ, Lula vô nhóm tui. Cổ được giới thiệu tới.”
“Rồi hai người nói chuyện với nhau.”
“Ờ.”
“Rồi thành bạn bè?”
“Ờ.”
“Cô có hay ghé nhà Lula chơi không? Tắm hồ bơi?”
“Bộ tui tới đó không được hở?”
“Không phải. Tôi chỉ hỏi vậy thôi.”
Cô ta hơi dịu xuống.
“Tui không thích bơi lắm. Vui gì chuyện nhúng ngập mặt dưới nước. Tui đi tắm bồn mát-xa. Rồi tụi tui đi mua sắm này nọ.”
“Lula có hay nói chuyện với cô về mấy người hàng xóm không, mấy người ở cùng tòa nhà đó?”
“Mấy người Bestigui đó hả? Cũng có. Cổ không ưa gì họ. Con mẹ đó là đồ chó cái.” Rochelle nói, tự dưng đổi giọng giang hồ.
“Tại sao cô nói vậy?”
“Anh gặp bả chưa? Bả nhìn tui bộ như con này là rác rưởi.”
“Lula thấy bà ta ra sao?”
“Cổ cũng không ưa gì bả hay lão chồng. Cha đó tởm lắm.”
“Tởm sao?”
“Tởm là tởm thôi chớ sao,” Rochelle đáp, có phần mất kiên nhẫn, nhưng rồi thấy Strike im lặng, cô ta nói tiếp. “Chả cứ kè kè đi theo mời cổ xuống nhà dưới chơi mỗi khi bà vợ đi khỏi.”
“Lula có xuống không?”
“Không đời nào,” Rochelle đáp.
“Chắc cô hay nói chuyện với Lula lắm?”
“Ừ, nói hoài, mà ban… Ừ, vậy đó.”
Cô ta nhìn ra cửa sổ. Trời chợt đổ mưa, người đi đường luống cuống. Những giọt mưa trong suốt rắc lấm tấm lên tấm kính cửa cạnh chỗ họ ngồi.
“Ban đầu?” Strike hỏi. “Sau đó thì không nói chuyện nhiều nữa hả?”
“Tui sắp phải đi đây.” Rochelle trịnh trọng thông báo. “Tui có công chuyện.”
“Những người như Lula,” Strike nói, dò dẫm, “hay chướng. Có nhiều lúc không được tử tế. Vì họ muốn cái gì là được…”
“Tui không phải là người hầu,” Rochelle giận dữ nói.
“Có lẽ vì vậy mà Lula thích cô? Vì Lula thấy cô cư xử ngang hàng, chứ không như mấy người bám đuôi…”
“Đúng rồi, y vậy đó.” Rochelle đáp, có vẻ xuôi xuôi. “Tui thấy cổ cũng chẳng ghê gớm gì.”
“Cô cũng thấy tại sao Lula muốn kết bạn với cô đó, tại cô thẳng thắn…”
“Đúng rồi.”
“Rồi hai người có điểm chung là cùng có bệnh, đúng không? Vậy nên cô hiểu Lula hơn mấy người khác.”
“Tui da đen nữa,” Rochelle nói, “cổ muốn thấy như người da đen thiệt sự.”
“Lula có nói gì với cô về chuyện đó không?”
“Có chứ.” Rochelle đáp. “Cổ muốn biết cổ ở đâu ra, thuộc về chỗ nào.”
“Cô ấy có nói chuyện đi tìm gia đình ruột thịt không?”
“Ờ, có chứ. Rồi cổ… ừm…”
Rochelle đột ngột dừng lại.
“Cô ấy có tìm ra ai không? Người cha chẳng hạn?”
“Không. Không tìm ra. Kiểu gì mà tìm được.”
“Vậy sao?”
“Ờ, vậy đó.”
Cô ta bắt đầu ăn rất nhanh. Strike sợ là ăn xong cô ta sẽ đứng dậy bỏ đi mất.
“Hôm cô gặp Lula ở Vashti, Lula có buồn phiền gì không?”
“Có, cổ buồn lắm.”
“Có nói cho cô biết tại sao không?”
“Chả cần lý do gì hết. Bịnh mờ.”
“Nhưng cổ có nói là đang buồn, đúng không?”
“Ờ,” Rochelle trả lời, sau một thoáng ngập ngừng.
“Hai người hôm đó hẹn đi ăn trưa đúng không?” Strike hỏi tiếp. “Kieran kể với tôi là có lái xe chở Lula tới gặp cô. Cô biết Kieran chứ? Kieran Kolovas-Jones?”
Gương mặt Rochelle dịu lại, khóe miệng hơi nhếch lên.
“Ờ, tui có biết tay đó. Ờ, cổ tới Vashti gặp tui.”
“Nhưng không ở lại ăn trưa?”
“Không. Cổ mắc đi đâu đó.” Rochelle đáp.
Cô ta cúi đầu uống cà phê, cốc giấy che ngang mặt.
“Vậy tại sao Lula không gọi điện trước cho cô? Cô có điện thoại mà, đúng không?”
“Ờ, tui có điện thoại.” Cô ta gằn giọng giận dữ, rút trong túi áo khoác ra một con Nokia đời đầu, đính đầy hạt cườm hồng màu mè.
“Vậy tại sao Lula lại không gọi điện báo, để cô khỏi phải đi tới Vashti cho mất công?”
Rochelle gầm gừ.
“Vì cổ không muốn dùng điện thoại, sợ mấy người đó nghe trộm.”
“Nhà báo à?”
“Ờ”
Cô ta đã ăn gần hết bánh.
“Nhưng nhà báo chắc không quan tâm lắm tới chuyện hôm đó Lula không tới Vashti được, nhỉ?”
“Ai mà biết.”
“Lúc đó cô không thấy có gì kỳ lạ hả, Lula đi một đoạn dài như vậy chỉ để tới nói rằng cô ấy không ở lại ăn trưa được?”
“Ờ.” Rochelle đáp. Rồi cô ta tuôn nguyên một tràng:
“Nếu có tài xế riêng thì mắc mớ gì? Thích đi đâu thì kêu họ chở đi, khỏi tốn thêm tiền, chớ gì? Cổ đi ngang qua, sẵn chạy vô nói với tui là không ở lại được vì mắc về nhà gặp con khốn Ciara Porter.”
Rochelle có vẻ ân hận vì lỡ dùng từ “con khốn”. Cô ta mím môi lại, như thể ngăn không cho mình nói thêm những thứ như vậy nữa.
“Vậy hôm đó Lula chỉ làm có chừng đó thôi? Cô ấy đi vào trong cửa hàng, nói với cô là ‘Tôi không ở lại được. Tôi phải về nhà để gặp Ciara’ rồi đi về?”
“Ờ, đại loại,” Rochelle đáp.
“Kieran nói hay chở cô về tận nhà mỗi khi cô đi chơi chung với Lula.”
“Ờ,” cô ta đáp. “Nhưng hôm đó cổ bận, được chưa?”
Rochelle rõ là không biết cách che giấu vẻ ấm ức ganh tị.
“Kể lúc trong cửa hàng đi. Hôm đó hai người có thử áo quần gì không?”
“Có” Rochelle đáp, sau khi im lặng một lúc. “Cổ có thử đồ.” Lại ngập ngừng. “Áo đầm dài hiệu Alexander McQueen. Ông đó cũng tự tử heng.” Cô ta nói thêm, vẻ xa xăm.
“Cô có đi vào phòng thử đồ với Lula không?”
“Có.”
“Lúc trong phòng thử đồ thì sao?” Strike hỏi dò.
Cặp mắt của Rochelle làm Strike nhớ đến cặp mắt một con bò đực hắn từng phải đối mặt lúc còn nhỏ xíu: sâu hoắm, nhìn thoáng qua thấy lạnh lùng, khó hiểu.
“Cổ mặc cái đầm vô.” Rochelle trả lời.
“Cô ấy không làm gì khác hả? Không gọi cho ai hả?”
“Không. À mà có. Hình như có gọi.”
“Cô có biết cổ gọi cho ai không?”
“Tui không nhớ.”
Cô ta lại uống cà phê, nâng chiếc cốc giấy lên che hết mặt.
“Phải gọi cho Evan Duffield không?”
“Cũng có thể.”
“Cô cố nhớ xem Lula nói gì?”
“Không nhớ.”
“Một nhân viên cửa hàng có nghe thấy Lula có nói chuyện điện thoại. Hình như Lula hẹn gặp ai tại nhà tối khuya hôm đó. Cô nhân viên nghe là hình như hẹn lúc một hai giờ sáng.”
“Vậy hả?”
“Như vậy thì chắc không phải là Duffield rồi, vì Lula đã hẹn gặp anh ta trước đó ở Uzi mà?”
“Anh biết nhiều quá hả?” Rochelle mỉa.
“Ai cũng biết hôm đó hai người gặp nhau ở Uzi,” Strike đáp. “Báo đăng vậy mà.”
Rất khó nhận ra đồng tử Rochelle giản nở ra sao, vì hai mống mắt cũng có màu đen thẫm.
“Ờ ha.” Rochelle đấu dịu.
“Có phải Lula gọi cho Deeby Macc không?”
“Không có!” Cô ta ré lên, bật cười. “Cổ không có số của ông đó.”
“Mấy người nổi tiếng chắc dễ xin số lẫn nhau.” Strike đáp.
Vẻ mặt Rochelle đanh lại. Cô ta nhìn xuống màn hình trống trơn trên chiếc điện thoại hồng lòe loẹt.
“Tui nghĩ cổ không có,” cô ta nói.
“Nhưng cô có nghe thấy Lula hẹn gặp ai tối khuya hôm đó không?”
“Không,” Rochelle đáp, không nhìn vào mắt Strike, lắc cặn cà phê quanh cốc. “Tui không nhớ gì như vậy hết.”
“Cô có biết việc này quan trọng ra sao không?” Strike nói, cố không làm Rochelle sợ. “Nếu Lula quả thật có hẹn gặp ai vào đêm cô ấy chết? Cảnh sát không hề biết chuyện này, đúng không? Cô vẫn chưa nói gì với cảnh sát hết?”
“Tui phải đi,” cô ta nói, nuốt trọn miếng bánh cookie cuối cùng, nắm lấy dây đeo túi xách và trừng mắt nhìn Strike.
Strike cố gạn:
“Gần tới trưa rồi. Để tôi mời cô thêm món gì nhé?”
“Không cần.”
Nhưng cô ta vẫn đứng yên tại chỗ. Strike tự hỏi không biết Rochelle túng thiếu ra sao, có được ăn uống thường xuyên không. Ở Rochelle có một điều gì đó làm cho người ta cảm động, trái với vẻ cáu kỉnh bề ngoài: vừa kiêu hãnh dữ dội vừa dễ tổn thương.
“Thôi được rồi,” cô ta đáp, thả túi xách ra rồi ngồi phịch trở lại xuống ghế cứng. “Cho tui một cái Big Mac.”
Strike sợ rằng cô ta sẽ bỏ đi khi hắn đến quầy mua bánh, nhưng khi hắn mang hai khay thức ăn quay lại, Rochelle vẫn ngồi đó. Cô ta còn miễn cưỡng nói cảm ơn.
Strike thử cách khác.
“Cô thân với Kieran lắm hả?” hắn hỏi, lần theo chút tươi tỉnh trên gương mặt cô ta khi nhắc đến tên anh chàng lái xe.
“Ờ,” cô ta đáp, hơi lung túng. “Tui gặp ảnh hoài. Ảnh hay lái xe cho Lula.”
“Anh ta nói là Lula có viết gì đó khi ngồi sau xe trên đường tới Vashti. Cô ấy có đưa cho cô xem không?”
“Không,” cô ta trả lời, ăn ngấu nghiến khoai tây chiên, rồi lại nói tiếp. “Tui không thấy cái gì như vậy hết. Mà sao anh hỏi, cổ viết gì vậy?”
“Tôi không biết.”
“Chắc là viết ra mấy món cần mua hở?”
“Cảnh sát cũng nghĩ vậy. Cô có chắc là hôm đó cô không thấy Lula mang theo một mẫu giấy, giấy viết thư chẳng hạn, hay một phong bì gì đó?”
“Ờ. Tui chắc mà. Kieran có biết chuyện anh đi gặp tui không?” Rochelle thắc mắc.
“Có, tôi có nói là sẽ đi gặp cô. Anh ta nói hồi trước cô ở St Elmo.”
Rochelle trông có vẻ hài lòng.
“Giờ cô ở đâu vậy?”
“Mắc gì tới anh?” cô ta đốp chát, giận dữ xù lông trở lại.
“Không mắc gì tới tôi hết. Tôi chỉ hỏi thăm vậy thôi.”
Rochelle hừ mũi một tiếng.
“Giờ tui có chỗ riêng ở Hammersmith rồi.”
Cô ta nhai nhóp nhép một lúc, rồi tự dưng nói thêm mà không đợi Strike hỏi gì cả.
“Tụi tui hay nghe nhạc Deeby Macc trong xe. Tui, Kieran với Lula.”
Rồi cô ta bắt đầu đọc rap:
Khỏi cần hydroquinone, đen từ trong ra ngoài
Dám coi thường Deeby, thì lo đi mua quan tài
Tao cứ lái Ferrari – kệ mẹ Johari – tao không có điên à
Có tiền là có tất
Mít-tờ Jake, biết không, biết không hả.
Gương mặt Rochelle đầy hãnh diện, như thể cô ta vừa làm cho Strike cứng họng, hết đường hỏi tiếp.
“Bài Hydroquinone,” cô ta nói tiếp. “Trong album Jake on My Jack.”
“Hydroquinone là gì vậy?” Strike hỏi.
“Kem trắng da. Hồi đó tụi tui hay bật cửa sổ xe xuống rồi cùng rap.” Rochelle nói. Nụ cười ấm áp khi nhớ lại chuyện cũ khiến gương mặt thô kệch của Rochelle sáng hẳn lên.
“Hẳn là Lula rất háo hức muốn gặp Deeby Macc?”
“Ờ, cổ rất háo hức,” Rochelle trả lời. “Cổ biết ổng thích cổ, cổ vui lắm. Kieran cũng rất nóng ruột, cứ nhờ Lula giới thiệu hoài. Ảnh cũng muốn gặp Deeby.”
Nụ cười của Rochelle tan dần, cô ta rầu rĩ vọc cái hamburger, rồi nói:
“Anh hỏi đủ chưa? Tôi phải đi giờ.”
Cô ta bắt đầu ăn vội chỗ còn lại, nhồm nhoàm.
“Lula có hay dẫn cô đi chỗ này chỗ kia không?”
“Có,” Rochelle vừa nhai vừa nói.
“Cô có hay đi Uzi với Lula không?”
“Có đi. Một lần.”
Cô ta nuốt thức ăn rồi bắt đầu kể những nơi cô ta từng đến khi mới kết bạn với Lula. Mặc cho Rochelle cố tỏ ra là không hề bị choáng ngợp trước lối sống của cô bạn người mẫu triệu phú, câu chuyện cô ta kể nghe lãng mạn như cổ tích. Cứ như thể Lula kéo Rochelle ra khỏi thế giới ảm đạm của nhà trọ St Elmo và những buổi trị liệu, mỗi tuần một lần lại đưa cô ta đến những nơi vui vẻ xa xỉ. Strike để ý thấy Rochelle hầu như không đề cập đến cá tính của Lula, mà chủ yếu kể về cô như là chủ nhân tấm thẻ nhựa thần kỳ, có thể mua được mọi loại túi xách, áo khoác, đồ trang sức, và cả anh chàng Kieran thường xuyên xuất hiện như ông thần đèn, sẳn sàng đem Rochelle đi khỏi St Elmo. Cô ta mô tả kỹ càng, rất tha thiết những món quà Lula đã mua tặng, các cửa hàng hai người thường đến, nhà hàng rồi quầy bar, những nơi toàn người nổi tiếng. Vậy mà dường như không có điều gì gây ấn tượng với Rochelle cả, vì mỗi khi thốt ra một cái tên cô ta lại kèm theo một câu chê bai.
“Thằng đó đểu.” “Con đó giả tạo thấy ớn.” “Mấy người đó chẳng có gì ghê gớm.”
“Cô có gặp Evan Duffield không?” Strike hỏi.
“Nó?” Giọng nhát gừng của Rochelle đầy khinh bỉ. “Nó là thằng khốn nạn.”
“Vậy sao?”
“Ờ, vậy đó. Hỏi Kieran thì biết.”
Dường như Rochelle và Kieran đứng về một phía, hai người duy nhất tỉnh táo nhận ra đám bạn bè khốn nạn dở hơi của Lula.
“Khốn nạn ra sao?”
“Đối xử với Lula chẳng ra quái gì.”
“Như thế nào kia?”
“Bán chuyện của cổ cho báo,” Rochelle nói, với tay bốc chỗ khoai tây chiên còn lại. “Có lần cổ thử hết mọi người. Kể mỗi người nghe một chuyện, để xem chuyện nào bị lộ ra báo. Tui là người duy nhất ngậm miệng lại, còn ai cũng bán cổ hết.”
“Cô ấy thử những ai?”
“Ciara Porter. Thằng Duffield. Rồi cái ông Guy Summy nữa.” Rochelle phát âm chữ “Guy” giống như Strike từng nhầm. “Nhưng rồi cổ nghĩ không phải ổng. Nói là ổng bị gài sao đó. Nhưng mà ổng lợi dụng cổ cũng thua gì ai.”
“Lợi dụng ra sao?”
“Ổng không muốn cổ làm cho ai khác. Muốn cổ chỉ làm cho công ty ổng, để mình ổng nổi tiếng.”
“Vậy là sau khi Lula biết cô ấy có thể tin cô…”
“Ờ, cổ mua điện thoại cho tui.”
Rochelle sựng lại một giây, rồi nói tiếp.
“Để mà khi nào muốn là nói chuyện được liền.”
Cô ta với tay chụp cái Nokia màu hồng, kéo nó một đường trên bàn rồi nhét sâu vào túi áo khoác.
“Vậy thì giờ cô phải tự trả tiền điện thoại nhỉ?” Strike hỏi.
Hắn cứ nghĩ kiểu gì cô ta cũng sẽ đốp chát, chửi hắn nhiều chuyện, nhưng không. Rochelle đáp:
“Nhà cổ không biết họ vẫn đang trả tiền.”
Dường như chuyện này khiến cô ta khá đắc chí, theo kiểu hơi gian manh.
“Áo khoác cũng của Lula tặng à?” Strike hỏi.
“Không,” cô ta gằn giọng, tức tối tự ái. “Tui tự mua. Tui đang đi làm.”
“Vậy hả? Cô làm ở đâu vậy?”
“Mắc gì tới anh?” Cô ta hỏi lại.
“Tôi chỉ hỏi lịch sự vậy thôi.”
Khuôn miệng rộng của Rochelle thoáng nở một nụ cười mong manh, ngắn ngủi. Cô ta dịu lại.
“Tui làm ca chiều trong tiệm gần nhà.”
“Cô đang ở nhà trọ mới hả?”
“Không,” cô ta nói. Strike cảm thấy khó mà dò thêm được. Hắn đổi hướng.
“Chắc cô sốc lắm lúc nghe tin Lula chết?”
“Ờ, sốc,” cô ta nói, dường như không suy nghĩ, rồi sau đó mới nhận ra mình vừa nói gì, vội vã thêm vào. “Tui biết cổ bị chầm cảm, nhưng mà không nghĩ cổ làm vậy.”
“Vậy cô thấy hôm đó Lula không có vẻ gì là sắp tự tử cả?”
“Đâu biết. Tui gặp cổ có chút xíu mà.”
“Lúc cô nghe tin Lula chết, cô đang ở đâu vậy?”
“Trong nhà trọ. Nhiều người biết tôi quen với Lula, Janine đánh thức tui dậy để báo tin.”
“Và ngay lập tức cô nghĩ là Lula tự tử?”
“Ờ. Tui phải đi giờ. Tui đi đây.”
Rochelle dứt dạt, trước khi Strike kịp nghĩ ra thêm cớ để níu cô ta lại. Cô ta loay hoay mặc chiếc áo lông kệch cỡm rồi khoác túi xách qua vai.
“Cho tui gởi lời thăm Kieran.”
“Được rồi. Tôi sẽ nhắn.”
“Bái bai.”
Rochelle lạch bạch đi ra khỏi tiệm ăn, không hề ngoáy nhìn lại.
Strike nhìn theo Rochelle đi ngoài cửa sổ, đầu cô ta cúi xuống, hàng chân mày nhíu lại. Hắn cứ nhìn vậy cho tới khi Rochelle đi khỏi tầm mắt. Trời đã tạnh mưa. Vẻ lơ đãng, hắn kéo khay thức ăn của Rochelle về phía mình và ăn hết mấy miếng khoai tây chiên còn sót lại.
Rồi hắn đứng bật dậy, nhanh đến nỗi cô nhân viên đội mũ lưỡi trai vừa tiến đến dọn bàn giật bắn cả người, nhảy lui lại một bước và khẽ kêu lên. Strike vội vã ra khỏi McDonald, ngược lên phố Grantley.
Rochelle đứng ở góc đường, nổi bật với chiếc áo lông màu hồng đỏ trong đám người đi bộ đang chờ đèn tín hiệu đổi màu. Cô ta nói liên tục vào chiếc điện thoại màu hồng. Strike đuổi kịp Rochelle, hòa vào đám người đằng sau cô ta. Khi Strike khệnh khạng chen vào, người ta liền xích ra để tránh hắn.
“…muốn biết hôm đó cổ hẹn gặp ai… à, với lại…”
Rochelle quay đầu lại nhìn xe cộ và nhận ra Strike đang ở ngay sau lưng. Cô ta thôi áp điện thoại vào tai, bấm nút tắt cuộc gọi ngay lập tức.
“Gì nữa?” Cô ta hỏi, giọng hung hăng.
“Cô gọi ai vậy?”
“Anh lo thân anh đi!” Cô ta giận dữ nói. Những người đang đứng đợi cũng ngoái lại nhìn. “Anh theo dõi tôi hả?”
“Ờ.” Strike đáp. “Nghe này.”
Đèn tín hiệu đổi màu, chỉ có mỗi Strike và Rochelle là không bắt đầu bước đi. Đám người chung quanh chen lên, hối hả sang đường.
“Cho tôi xin số điện thoại của cô được không?”
Đôi mắt bò tót trừng trừng nhìn Strike, vẫn vô hồn, lạnh nhạt và bí hiểm.
“Để làm gì?”
“Kieran nhờ tôi xin số cô.” Hắn nói dối. “Lúc nãy tôi quên mất. Anh ta nói là hình như cô để quên kính râm trong xe.”
Strike không nghĩ là Rochelle tin lời hắn hoàn toàn, nhưng một lúc sau cô cũng đọc số điện thoại, hắn viết lại vào mặt sau tấm danh thiếp.
“Có vậy thôi hả?” Cô ta lại hung hăng. Cô ta đi băng băng đến giữa đường, nơi có chỗ đứng chờ sang đường cho người đi bộ. Đèn tín hiệu lại đổi màu. Strike đi cà nhắc theo sau Rochelle. Cô ta tỏ vẻ giận dữ và bực mình vì hắn cứ bám theo.
“Gì?”
“Tôi nghĩ là cô biết điều gì đó mà không nói với tôi, Rochelle à.”
Cô ta trừng mắt nhìn hắn.
“Cầm lấy cái này,” Strike nói, rút ra thêm một tấm danh thiếp từ túi áo khoác. “Nếu cô muốn kể thêm cho tôi gì nữa thì cứ gọi, được không? Gọi vào số di động đó.”
Cô ta không trả lời.
“Nếu Lula bị giết thật,” Strike lên tiếng, một chiếc xe vừa chạy ngang qua, nước mưa lấp lánh trong rãnh thoát ngay dưới chân hai người, “mà cô biết điều gì đó, cô cũng có thể bị nguy hiểm, thủ phạm có thể quay sang hại cô.”
Câu nói của Strike làm Rochelle thoáng nhếch mép cười, có vẻ tự đắc và coi thường. Rõ là Rochelle không nghĩ cô ta đang gặp nguy hiểm. Cô ta nghĩ mình an toàn tuyệt đối.
Hai người đi bộ khi đèn tín hiệu chuyển màu xanh. Rochelle hất mái tóc khô cứng, gấp gáp qua đường. Cô ta đi đứng lạch bạch, thô kệch, điện thoại nắm bằng một tay còn tay kia giữ chặt tờ danh thiếp. Strike đứng một mình giữa đường, nhìn theo Rochelle, cảm thấy vừa bất lực vừa bất an. Có thể cô ta chưa bao giờ bán câu chuyện của Lula cho báo chí. Nhưng Strike không tin là cô ta mua nổi chiếc áo khoác hàng hiệu trông có vẻ đắt đỏ (mặc dù hắn thấy vô cùng xấu xí) chỉ bằng tiền lương phụ việc bán hàng.
9
Ngã tư phố Tottenham Court và Charing Cross vẫn còn ngổn ngang. Lòng đường đầy những rãnh đào rộng, các lối đi dựng bằng tấm nhựa trắng và đám công nhân đội mũ bảo hộ. Strike vừa đi vừa hút thuốc, len giữa hai hàng rào thép, ngang qua đám máy đào ầm ĩ đầy gạch đá, rồi mấy người thợ làm đường la hét gọi nhau và sau cùng là những cái máy khoan ồn ào.
Strike thấy rã rời, đau đớn. Chân phải đau buốt, người ngợm vẫn chưa tắm rửa, lại vừa ăn những thứ dầu mỡ nặng bụng. Hắn đột ngột rẽ ngang phố Sutton Row, tránh xa tiếng ồn đào xới trên đường để gọi cho Rochelle. Cuộc gọi vào thẳng hộp thư thoại, có thu sẵn giọng khàn khàn của cô ta: Rochelle đã cho số thật. Strike không để lại lời nhắn nào, hắn đã nói hết những gì cần nói, vậy mà hắn vẫn không thấy yên tâm. Hắn nghĩ biết đâu lúc nãy nên kín đáo đi theo, xem thử cô ta sống ở đâu.
Strike quay lại phố Charing Cross, mệt mỏi lê bước về văn phòng qua những lối đi tạm có che tấm nhựa. Hắn nhớ lại cái cách Robin đánh thức hắn buổi sáng hôm nay: cú gõ cửa tế nhị, tách trà nóng, cố ý tránh không nhìn cái gường xếp. Đáng ra hắn không được sơ suất đến vậy. Quay mặt chỗ khác khi Robin mặc đầm bó sát vẫn chưa đủ. Từ xã giao đến gần gũi vẫn còn nhiều con đường khác. Lúc sáng hắn không hề muốn giải thích chuyện vì sao hắn ngủ luôn trong văn phòng, hắn rất sợ những câu hỏi riêng tư. Vậy mà hắn lại hớ hênh, Robin đã gọi hắn là Cormoran, rồi lại nhắc hắn cài nút áo. Đáng ra hắn không được ngủ quên.
Strike leo lên cầu thang sắt, ngang qua cánh cửa đóng chặt của Crowdy Graphis. Hắn quyết định ngày hôm đó hắn sẽ tỏ ra hơi lạnh lùng một chút với Robin, để bù lại vụ hở bụng lông lá hồi sáng.
Vừa nghĩ xong hắn nghe thấy tiếng cười lảnh lót. Hai giọng nữ đang trò chuyện vọng ra từ văn phòng.
Strike đứng im, dỏng tai nghe và bắt đầu hoang mang. Hắn vẫn chưa gọi lại cho Charlotte. Hắn cố nghe thử có phải giọng cô ta không. Hắn chẳng ngạc nhiên gì nếu Charlotte đến thẳng văn phòng, niềm nở với cô nhân viên tạm thời, vừa tìm kiếm đồng minh vừa kể lể mọi chuyện theo ý cô ta. Hai giọng phụ nữ lại cười rộ lên lần nữa, hắn vẫn không nhận ra được là ai.
“Ê Stick,” giọng nói vui vẻ cất lên khi hắn mở cánh cửa gương.
Lucy em gái hắn đang ngồi trên chiếc sofa cũ kỹ, tay cầm tách cà phê, dưới chân chất đống những túi mua hàng từ Marks and Spencer và John Lewis.
Strike chưa kịp thở dài nhẹ nhõm vì người khách không phải là Charlotte, thì lại bắt đầu lo lắng không hiểu Lucy và Robin vừa nói những chuyện gì và hai người đã biết gì về những chuyện riêng tư của hắn. Hắn choàng tay ôm Lucy, để ý thấy Robin đã đóng cánh cửa phòng riêng của hắn lại.
“Robin nói sáng nay anh bận đi do thám,” Lucy luôn có vẻ hào hứng mỗi khi được đi mua sắm một mình, không phải kèm theo Greg và mấy thằng nhóc.
“Thám tử thì phải đi do thám chứ.” Strike đáp. “Mới đi shopping hả?”
“Đúng rồi, Sherlock.”
“Đi uống cà phê không?”
“Có sẵn đây rồi nè, Stick,” cô em gái trả lời, giơ tách cà phê lên. “Hôm nay anh không có tinh ý gì cả. Chân đau hả?”
“Không.”
“Anh có gặp Chakrabati chưa?”
“Mới gặp,” Strike nói dối.
“Nếu không có gì,” Robin nói, vừa mặc áo khoác. “Tôi đi ra ngoài ăn trưa chút nhé. Tôi vẫn chưa nghỉ trưa.”
Vụ cố tỏ thái độ lạnh lùng với Robin mà hắn vừa định bụng mấy phút trước, bây giờ rõ là vừa không cần thiết vừa nhẫn tâm. Cô tế nhị hơn bất kỳ người phụ nữ nào Strike từng gặp.
“Được rồi, Robin, cô cứ đi.” Hắn đáp.
“Rất vui được biết chị, Lucy,” Robin nói, rồi vẫy tay và biến mất sau cánh cửa gương đóng lại.
“Em rất thích cổ,” Lucy nhiệt tình nhận xét, ngay khi tiếng bước chân của Robin nghe đã xa. “Cổ rất hay. Anh nên giữ cổ lại làm cố định luôn.”
“Ừ, cổ làm rất tốt.” Strike trả lời. “Hai người cười chuyện gì vậy?”
“Ả, chuyện chồng chưa cưới của cổ… nghe rất giống Greg. Robin nói anh đang làm một vụ quan trọng lắm. Không sao. Cổ rất kín đáo. Cổ chỉ nói là một vụ tự tử nhiều nghi vấn. Vậy thì chắc tệ lắm.”
Lucy nhìn hắn đầy ẩn ý, Strike cố tình không hiểu.
“Không phải vụ đầu tiên. Hồi tại ngũ anh cũng có làm mấy vụ như vậy rồi.”
Nhưng hắn đoán là Lucy không thèm nghe gì nữa. Em gái hắn hít một hơi sâu. Hắn biết cô sắp nói chuyện gì.
“Stick, anh với Charlotte chia tay rồi hả?”
Đằng nào cũng phải nói.
“Ừ, chia tay rồi.”
“Stick!”
“Không có sao hết, Luce à. Anh ổn mà.”
Vẻ háo hức lúc nãy của Lucy biến mất hoàn toàn, thay vào đó là sự giận dữ và thất vọng. Strike kiên nhẫn chờ đợi, vừa mệt mỏi vừa đau đớn, trong khi Lucy tuôn nguyên một tràng: nào là cô rảnh quá mà, thể nào Charlotte kiểu gì cũng sẽ diễn lại trò đó; cô ta lôi kéo hắn khỏi Tracey, làm hắn phải dở dang sự nghiệp trong quân đội, cô ta làm hắn khổ sở, thuyết phục hắn vào ở chung rồi bây giờ đá hắn như vậy…
“Là anh bỏ đi, Luce à,” hắn đáp. “Còn anh với Tracey đã chấm dứt từ lâu trước khi…” nhưng nói gì cũng vô ích, như thể cố làm dung nham núi lửa đang trào ra phải chảy ngược vào trong: tại sao hắn lại không nhận ra rằng Charlotte sẽ không bao giờ thay đổi, rằng cô ta chỉ quay lại vì bốc đồng nông nổi, vì khi đó hắn bị thương và được tặng huy chương? Con đàn bà phản trắc đó chỉ giả vờ đóng vai thiên thần hộ mệnh rồi lại chán ngay; đúng là loại người nguy hiểm thâm độc, chỉ muốn phá hoại đời người khác, làm cho người ta đau đớn thì mới thấy sung sướng được…
“Anh bỏ đi mà, là quyết định của anh…”
“Từ đó đến giờ anh ở đâu? Chuyện xảy ra khi nào? Con đĩ đó… không, em xin lỗi, Stick… nhưng em sẽ không giả vờ nữa… nó gây cho anh đủ chuyện qua chừng đó năm… Trời ơi, Stick, tại sao anh không cưới Tracey?”
“Luce, làm ơn, đừng nói chuyện đó nữa.”
Hắn dẹp mấy túi đồ John Lewis qua một bên, trong túi có mấy cái quần đùi và bít tất con trai. Hắn ngồi xuống bên cạnh Lucy. Hắn biết trông hắn lúc này rất nhếch nhác luộm thuộm. Lucy sắp bật khóc, được ngày đi shopping đang vui thì lại nghe chuyện này.
“Chắc anh không muốn nói với em vì anh nghĩ là em sẽ phản ứng như vậy?” Cuối cùng Lucy nghẹn ngào lên tiếng.
“Cũng có nghĩ tới.”
“Được rồi, em xin lỗi.” Lucy nói, giận dữ. Đôi mắt vẫn ngân ngấn nước. “Nhưng mà cái con đĩ đó… Trời ạ, anh phải nói với em là anh sẽ không bao giờ quay lại với nó nữa. Làm ơn hứa vậy đi.”
“Anh sẽ không quay lại với cô ta nữa.”
“Giờ anh ở đâu? Chỗ Nick và Ilsa hả?”
“Không. Anh thuê một chỗ ở Hammersmith.” (nơi đầu tiên hắn nghĩ đến, giờ đây luôn làm hắn liên tưởng đến người vô gia cư) “Một phòng ngủ.”
“Ôi Stick… tới ở nhà em đi!”
Hắn nghĩ ngay đến căn phòng dành riêng cho khách sơn tuyền một màu xanh và nụ cười gượng gạo của Greg.
“Luce, anh hài lòng với chỗ ở mới. Anh chỉ muốn tập trung làm việc và ở một mình một thời gian.”
Mất nữa tiếng sau hắn mới tiễn được Lucy ra khỏi văn phòng. Ban đầu Lucy ân hận vì đã nổi nóng, rối rít xin lỗi, nhưng ngay sau đó lại cố thanh minh, vậy là thêm một bài công kích Charlotte nữa. Cuối cùng khi Lucy cũng chịu đi về, hắn tiễn em gái xuống cầu thang, xách giùm mấy túi đồ và luôn tiện cố tránh không cho Lucy nhìn thấy đám thùng đựng đồ vẫn còn ngoài hành lang, rồi tống tiễn cô em gái vào một chiếc taxi đen ở cuối phố Denmark.
Lucy nhìn hắn qua cửa sổ xe, gương mặt tròn trịa lem nhem mascara. Hắn cố nhe răng cười, vẫy tay chào rồi đốt thêm một điếu thuốc nữa, thầm nghĩ những kỹ thuật tra tấn tù nhân ở Guantanamo so với màn cảm thông chia sẻ của Lucy xem ra hãy còn nhẹ chán.
10
Mỗi khi mua bánh mì ăn trưa Robin thường mua luôn cho Strike, nếu trưa hôm đó hắn cũng có trong văn phòng, rồi tự thanh toán lại bằng tiền chi vặt trong hộp.
Hôm nay cô không vội quay trở lại. Cô để ý thấy rằng, mặc dù Lucy có vẻ không nhận ra, nhưng trông Strike rất buồn khi nhìn thấy cô và Lucy đang nói chuyện. Gương mặt của hắn khi mới về lại văn phòng trông rầu rĩ như lần đầu tiên cô gặp hắn.
Robin hi vọng là cô đã không nói với Lucy những điều Strike không muốn cô nói. Lucy không hẳn là cố ý dò hỏi, nhưng hỏi nhiều câu rất khó trả lời.
“Cô đã gặp Charlotte chưa?”
Robin đoán đây ắt hẳn là cô vợ cũ hay người yêu xinh đẹp, người chạy ào ra khỏi văn phòng hôm đầu tiên cô đến làm việc. Hai người suýt tí nữa va vào nhau, nhưng như thế không đủ tính là “đã gặp”. Cô trả lời:
“Tôi vẫn chưa.”
“Lạ thật.” Lucy khẽ cười gượng gạo. “Tôi cứ nghĩ ắt hẳn cô ta muốn gặp cô.”
Tự dưng lúc đó Robin thấy cần trả lời:
“Tôi chỉ là nhân viên tạm thời thôi.”
“Vậy thì đã sao.” Lucy nói, có vẻ hiểu ý câu đó hơn cả Robin.
Chỉ tới lúc này đây, khi đi thẩn thơ giữa những kệ hàng đầy những gói khoai giòn, không tập trung chọn lựa, Robin mới lờ mờ nhận ra Lucy định nói gì. Robin đoán ắt hẳn Lucy có ý khen cô xinh đẹp, chỉ có điều cứ nghĩ đến khả năng Strike đang tán tỉnh mình là cô cảm thấy thật khó chịu.
(“Matt, nói thật, anh mà thấy anh ta… anh ta to như gấu, mặt mày như mấy tay đấm bốc mới bị ăn đòn. Không hề quyến rũ một chút nào cả, kiểu gì cũng phải trên bốn mươi tuổi, rồi…” cô cố gắng tiếp tục tấn công ngoại hình của Strike, “anh ta còn có mái tóc như tổ chim nữa.” Matt chỉ nguôi ngoai chuyện Robin vẫn còn đi làm cho Strike sau khi cô đã chính thức chấp nhận chỗ mới ở công ty tư vấn truyền thông.)
Robin lấy bừa hai gói khoai giòn vị muối và giấm rồi tiến thẳng đến quầy tính tiền. Cô vẫn chưa nói với Strike rằng cô sẽ nghỉ việc sau hai tuần rưỡi nữa.
Nói xong chuyện Charlotte, Lucy chuyển sang dò hỏi tình hình làm ăn của văn phòng thám tử quèn của ông anh. Robin cố nói hết sức mơ hồ, cô suy luận rằng nếu Lucy không biết gì về tình hình tiền nong của Strike, ắt hẳn hắn đã có ý giấu em gái. Robin nghĩ rằng Strike chắc muốn cô em gái nghĩ công việc của hắn đang rất tốt, nên cô kể rằng vị thân chủ mới nhất là người rất giàu có.
“Ly dị à?” Lucy hỏi.
“Không,” Robin nói. “Là một vụ… nhưng mà tôi có ký cam kết bảo mật rồi… thực ra là điều tra lại một vụ tự tử.”
“Trời ơi, tội nghiệp Cormoran quá.” Lucy nói, giọng lạ lùng.
Robin bối rối, không hiểu ý.
“Ảnh chưa nói gì với cô hả? Thực ra nhiều người biết. Mẹ của tụi tôi cũng nổi tiếng, mẹ tôi là… như người ta hay nói, fan nữ cuồng, có phải gọi vậy không?” Nụ cười của Lucy trở nên gượng gạo, giọng nói của cô ta mặc dù cố tỏ ra bình thản, nhưng vẫn trở nên chua chát. “Trên internet có hết. Giờ cái gì cũng có trên đó nhỉ? Mẹ tôi chết vì chơi thuốc quá liều, người ta nói là tự tử, nhưng Stick luôn nghĩ là có tay ông chồng cũ nhúng vào. Nhưng chẳng chứng minh được gì cả. Stick rất giận. Chuyện đó kinh khủng, tồi tệ lắm. Có vẻ vì vậy mà vị thân chủ đó chọn Stick – Tôi đoán lại là một vụ chơi thuốc nữa hả?”
Robin không trả lời, Lucy vẫn nói tiếp:
“Lúc đó Stick bỏ ngang đại học rồi xin vào quân cảnh. Gia đình rất là thất vọng. Ảnh rất thông minh, cô biết đó, chưa có ai trong nhà tôi vô được trường Oxford, trừ ảnh ra. Vậy mà ảnh dứt khoát nhập ngũ. Nhưng như vậy cũng hợp với Stick. Ảnh làm việc trong đó cũng rất tốt. Tôi cứ nghĩ phải chi ảnh đừng có giải ngũ. Ảnh mà cứ ở trong đó, ngay cả với cái chân bị thương vậy vẫn…”
Robin vẫn cố tỏ ra dửng dưng, không hề chớp mắt.
Lucy nhấp trà.
“Cô ở Yorkshire mà cụ thể là khu nào?”
Câu chuyện sau đó nhẹ nhàng hơn hẳn, cho tới khi Strike bước vào. Lúc đó, hai người vẫn còn đang cười chuyện Matthew ra tay sửa sang đồ đạc trong nhà, qua sự mô tả của Robin.
Nhưng giờ đây khi Robin quay trở lại văn phòng, mang theo bánh mì và hai túi khoai giòn, cô thấy mình càng tội nghiệp Strike hơn nữa. Cô đã biết chuyện hắn vừa chia tay với vợ (hay cô bồ khá lâu năm), phải ngủ ngay trong văn phòng, và bị thương khi tại ngũ. Hôm nay cô biết thêm mẹ hắn chết không minh bạch trong hoàn cảnh rất bi đát.
Robin thừa biết mặc dù thấy tội Strike, cô vẫn không kiềm được sự tò mò. Một lúc nào đó, cô sẽ lên mạng tìm kiếm những thông tin xoay quanh cái chết của Leda Strike. Nhưng cùng lúc, cô lại cảm thấy tội lỗi vì đã vô tình biết thêm được một phần đời của Strike mà hắn không muốn cô biết, như khi nhìn thấy chỗ bụng lông lá lúc sáng. Cô biết hắn là một người rất kiêu hãnh và tự chủ. Đó cũng là những cá tính mà cô rất thích và ngưỡng mộ ở Strike, mặc cho Matthew chế nhạo chuyện hắn ta ngủ giường xếp, đồ đạc thì đóng thùng để ở ngoài hành lang, rồi ăn uống tạm bợ. Matthew cho rằng sống như vậy thì chỉ có loại trác táng hoặc vô tích sự.
Robin ngờ ngợ nhận ra không khí trong văn phòng có chút gì khác thường. Strike đang ngồi trước máy tính của cô, gõ phím liên tục. Hắn cảm ơn khi cô đưa bánh mì nhưng không nghỉ giải lao mười phút để nói chuyện như thường lệ.
“Tôi cần máy tính khoảng vài phút nữa, cô ngồi đợi ở sofa được không?” Hắn hỏi, tay vẫn gõ phím.
Robin không biết Lucy có kể lại với Strike những chuyện hai người vừa nói. Cô hi vọng là Lucy không nói gì cả. Rồi tự dưng cô thấy tức tối vì đã có cảm giác tội lỗi, suy cho cùng cô có làm gì sai. Sự bực bội đó khiến cô kiềm lại, không hỏi Strike xem hắn đã gặp được Rochelle Onifade chưa, mặc dù cô rất muốn biết.
“A ha,” Strike lên tiếng.
Hắn vừa tìm thấy chiếc áo khoác gắn lông màu hồng mà Rochelle mặc sáng nay trên trang web của hãng thời trang Ý. Chiếc áo mới được tung ra chỉ có hai tuần, bán giá một ngàn năm trăm bảng.
Robin đợi Strike giải thích tiếng cảm thán vừa rồi. Nhưng hắn vẫn im lặng.
“Anh có tìm ra cô ấy không?” Robin hỏi khi hắn quay ra, tháo lớp giấy gói bánh mì.
Hắn kể lại chuyện đi gặp Rochelle nhưng không còn vẻ nhiệt tình và cảm kích như lúc sáng, khi hắn liên tục gọi cô là “thiên tài”. Giọng Robin khi cô báo cáo kết quả mấy cuộc điện thoại cũng lạnh lùng không kém.
“Tôi gọi cho Hiệp hội Luật gia hỏi về hội thảo ở Oxford ngày bảy tháng Giêng.” Cô nói. “Tony Landry có tới dự. Tôi giả vờ là một người gặp Tony trong hội thảo nhưng sau đó đánh mất danh thiếp của ông ấy.”
Trông hắn chẳng có vẻ gì quan tâm đến những thông tin đó, cũng không thèm khen ngợi sự nhanh trí của Robin. Cuộc nói chuyện vãn dần trong sự bất mãn của cả hai.
Màn đối đầu với Lucy khiến Strike thực sự mệt mỏi, hắn chỉ muốn ngồi một mình. Hắn cũng ngờ rằng Lucy đã kể cho Robin nghe về Leda. Lucy rất xót xa người mẹ chịu tai tiếng từ khi còn sống tới lúc chết đi, nhưng thỉnh thoảng lại hành động rất vô lý, đụng ai cũng muốn kể cho bằng hết, đặc biệt là những người không hề quen biết. Có lẽ là một kiểu xả hơi tâm lý, bởi Lucy vốn rất kín tiếng với đám bạn bè trung lưu về quá khứ của mình. Cũng có thể là một cách tự vệ, vì em gái hắn luôn lo lắng vì không biết người ta biết gì về mình rồi, nên cứ phải nói hết ra những chuyện không hay ho, trước khi đối phương kịp dò đến. Nhưng hắn không muốn Robin biết gì về bà Leda, về cái chân cụt, hay về Charlotte, hay bất cứ mọi chủ đề đau đớn nào mà Lucy luôn sẵn sàng tra hỏi mỗi khi gặp hắn.
Trong lúc mệt mỏi chán chường, Strike đánh đồng Robin với đám đàn bà nhiều chuyện cứ không để cho hắn yên. Hắn đâm ra cau có với cô một cách vô lý. Hắn định đem hồ sơ ra quán Tottenham ngồi làm việc hết buổi chiều, để tha hồ ngồi một mình suy nghĩ mà không bị ai cắt ngang hay tra hỏi gì cả.
Robin cảm nhận rõ sự thay đổi đó. Nhìn cách Strike im lặng nhai bánh mì, cô phủi sạch vụn bánh trên áo rồi nghiêm nghị và nhanh chóng báo cáo lại những tin nhắn khi sáng.
“John Bristow có có gọi đến, để lại số di động của Marlene Higson. Ông ấy cũng đã liên lạc được với Guy Somé, có thể gặp anh mười giờ sáng thứ Năm tại studio trên phố Blunkett nếu tiện. Chỗ đó ở Chiswwick, gần Strand-on-the-Green.”
“Tốt lắm. Cảm ơn.”
Sau đó hai người hầu như không nói gì nữa. Strike ngồi lì quán Tottenham gần hết buổi chiều, quay lại văn phòng lúc đã năm giờ kém mười. Đến lúc đó cả hai vẫn chưa hết bối rối. Hôm đó cũng là lần đầu tiên hắn thấy nhẹ người khi Robin đứng dậy ra về.
Con Chim Khát Tổ Con Chim Khát Tổ - Robert Galbraith (J.k.rowling) Con Chim Khát Tổ