Số lần đọc/download: 0 / 7
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:45 +0700
Chương 5
P
ripyat* là thành phố của khoa học, được xây dựng ngay hàng thẳng lối dành cho các chuyên gia kỹ thuật, nó lung linh trong ánh trăng đang nhú dần lên. Từ tầng cao nhất của tòa nhà văn phòng trong thành phố, Arkady lướt ánh mắt về phía quảng trường trung tâm đủ rộng để chứa được toàn bộ cư dân của thành phố trong ngày Quốc tế Lao động, ngày Giải phóng và Quốc tế phụ nữ. Đó là nơi tổ chức các bài diễn văn, hát quốc ca và điệu múa truyền thống của đất nước, nơi bọn trẻ xếp thành hàng chỉnh tề để lên tặng những bó hoa bọc trong giấy bóng kính. Bao quanh quảng trường là khu vực rộng lớn của một khách sạn, một nhà hàng và một rạp hát. Đại lộ rợp bóng cây trải dài quanh các khu chung cư, công viên rậm rạp, trường học và trong phạm vi giới hạn ba cây số, đèn hiệu màu đỏ của lò phản ứng nhấp nháy liên tục.
Arkady chìm vào bóng tối của văn phòng. Anh chưa bao giờ nghĩ tầm nhìn ban đêm của mình đặc biệt tốt nhưng anh vẫn thấy rõ các cuốn lịch, giấy tờ vương vãi trên sàn, ống huỳnh quang vỡ vụn, tủ tài liệu đổ sập vào một đống chăn và tia sáng phản chiếu lóe lên từ những vỏ chai vodka rỗng. Tấm áp phích trên tường in tuyên bố gì đó mà dòng chữ đã bị mờ gần hết. “Tự tin vào tương lai…” là các chữ anh có thể luận ra. Với vẻ mệt mỏi được che giấu, bản thân anh cũng khó mà đọc được.
Một đốm lửa nhỏ thu hút sự chú ý và kéo anh tới gần cửa sổ hơn. Anh đã bỏ lỡ nơi nào đó. Các tòa nhà trống rỗng, đèn đường bị vỡ. Cánh rừng xung quanh ngày càng lấn lại gần và khi gió ngừng thổi, cả thành phố liền trở nên tuyệt đối tĩnh lặng, không một ánh đèn, không tiếng ô tô hay thậm chí cả tiếng bước chân. Toàn thành phố chẳng hề có dấu vết của con người cho đến khi đốm lửa lập lòe của một điếu thuốc hiện ra từ khoảng không đen đặc của khách sạn, xuyên ngang quảng trường.
Arkady phải sử dụng đèn pin lúc xuống cầu thang vì mảnh vỡ nằm lăn lóc khắp nơi: giá sách, bàn ghế, rèm cửa, vỏ chai rượu, luôn có vỏ chai rượu, và mọi thứ bị bao phủ bởi các mảnh thạch cao vỡ trắng xóa, khiến tòa nhà trông như một hang động với măng đá, thạch nhũ mọc cả trên trần lẫn dưới sàn. Ngay cả khi tòa nhà có điện thì hệ thống thang máy rỉ sét vẫn bị kẹt cứng. Mặt ngoài của nó có vẻ vẫn nguyên vẹn, nhưng bên trong trông giống như bị đạn pháo bắn phá, tường thủng lỗ chỗ, đường ống nứt vỡ còn sàn nhà thì trĩu nặng băng đá.
Ra đến bên ngoài, anh liền tắt đèn pin, thong thả đi ngang qua quảng trường. Cánh cửa ra vào của khách sạn bị xích lại với nhau. Chẳng vấn đề, anh bước vào qua cửa kính bị vỡ, bật đèn pin, lướt qua sảnh rồi rón rén đi khẽ nhất có thể quanh các xe đẩy tay chất đống ở đầu cầu thang. Cửa mấy căn phòng trên tầng bốn đều mở toang, hình dáng của giường và tủ hiện ra lờ mờ. Trong một căn phòng, giấy dán tường bong ra cuộn thành một cuộn lớn; trong một phòng khác, phần thân của bệ xí màu ngà nằm lăn lóc trên thảm. Cửa sổ trong căn phòng thứ ba bị che lại bằng một cái chăn, Arkady kéo nó ra cho ánh trăng tràn vào. Đến lúc này, anh mới ngửi thấy mùi hăng hăng của lửa vừa bị dập tắt. Phần ruột lò xo của một tấm đệm bị moi ra, móc vào một cái lắp bánh ô tô tạo thành vỉ nướng và chảo rán tạm thời đang đựng đầy than đá, nước cùng làn khói mỏng. Anh bật đèn pin. Một chiếc va li đang để mở chứa một bàn chải, bao thuốc, dây câu cá, một lon thịt bò hộp cùng một chai nước khoáng, một máy cắt ống nước, một cái cờ lê bọc trong giẻ lau. Nếu chủ nhân của chúng đã nhìn trộm từ sau tấm chăn kia thì Arkady cũng chẳng bao giờ biết. Anh phát hiện ra anh ta hiện đã đi tới rìa quảng trường.
Arkady vội lao xuống cầu thang, hai bậc một, lướt qua một cái bàn bị lật ngửa, vấp phải đám rèm nhàu nhĩ của khách sạn bị bỏ lại. Đôi lúc, anh cảm thấy mình như thợ lặn đang lặn xuống một con tàu bị chìm, tầm nhìn và thính giác của anh bị phóng đại bởi luồng sáng mờ nhạt. Lúc bị ngã, anh chợt nghe thấy tiếng cửa đóng sập ở xa xa, phía cuối quảng trường. Từ trường học.
Giữa hai cánh cổng trường là một tấm bảng đen, đề dòng chữ, “Ngày 29 tháng 4 năm 1986.” Arkady bật đèn pin, chạy xuyên qua phòng cất mũ áo với các bức tường được vẽ hình công chúa cùng một con hà mã đang chèo thuyền. Phòng ở các tầng thấp dành cho lớp tiểu học với bảng chữ mẫu, tranh in màu sáng sủa về những đứa trẻ ở nông trại, với đàn bò vui vẻ, đang tươi cười giữa mấy cửa sổ toang hoác và bàn ghế đổ ngổn ngang như rào chắn. Tiếng bước chân vang lên từ tầng trên. Khi chạy lên cầu thang, một màn biểu diễn nghệ thuật của bọn trẻ chợt kích động tâm trí Arkady. Các bức ảnh học sinh ngồi ngay ngắn trong phòng âm nhạc dẫn anh tới một căn phòng thực sự với chiếc đàn piano gãy nát, vài chiếc ghế cỡ trung bình đặt quanh những chiếc trống lẫn mộc cầm vỡ vụn. Bụi tung mù mịt theo từng bước chân; cứ mỗi lần hít thở, Arkady lại nuốt phải từng ngụm bụi.
Trong phòng ngủ trưa, các khung giường xiêu vẹo với những tư thế hết sức quái dị như thể chúng đang trong một vũ điệu hoang dã nào đó. Tập sách ảnh vẫn đang mở Bác Ilyich* đến thăm một ngôi làng ngập tuyết, Hồ Thiên Nga, ngày Quốc tế Lao động ở Matxcova. Arkady nghe thấy một tiếng đóng cửa nữa. Anh chạy xuống cầu thang thứ hai dẫn tới lối ra khác của ngôi trường và bị đống mặt nạ phòng độc cho trẻ em làm chậm lại. Thùng đựng được mang đến và lật ngược trong cơn hoảng loạn. Những chiếc mặt nạ được làm giống đầu cừu với đôi mắt tròn và ống thở cao su. Arkady đẩy mạnh cửa, quá muộn. Anh lia đèn pin khắp quảng trường và chẳng thấy gì.
Tuy nhiên, nói ‘không thấy gì’ cũng chẳng đúng, nơi này rất sống động với các nguyên tử Xesi, Stronti, Plutoni hay hàng trăm đồng vị khác nhau không lớn hơn một hạt bụi lơ lửng đâu đây. Một hạt phóng xạ: chỉ là một chấm nhỏ. Rất nguy hiểm nếu tới gần. Chỉ cần lùi một bước cũng tạo nên sự khác biệt rất lớn. Vấn đề là nó cực kỳ nhỏ, chỉ bằng một hạt bụi, có thể tan trong nước và bám vào bất kỳ thứ gì, nhất là đế giày. Cỏ mọc cao ngang ngực từ các dải phân cách trên đường khiến máy đo bức xạ lại nhảy thêm một vạch. Ở tận cùng của quảng trường, phía đối diện ngôi trường là một khu vui chơi nhỏ với Crazy Chair*, sân chơi ô tô đụng và một vòng đu quay Ferris nổi trên nền bóng đêm như một sự trang hoàng mục nát. Tại bãi ô tô đụng, kim đồng hồ của máy đo phóng xạ quay tít mù, khiến chiếc máy kêu vang.
Arkady quay lại khách sạn, tới căn phòng có vỉ nướng bằng đệm lò xo và dán vào lon thịt bò tờ giấy có số điện thoại di động của anh cùng ký hiệu quốc tế của đồng đô la Mỹ.
Arkady dựng xe máy dưới tán một hàng cây tổng quán sủi. Anh không phải tay lái giỏi nhưng cưỡi một con Uralmoto như thế này giống như sự trừng phạt. Anh lạng lách trên đường cao tốc, tắt đèn pha và lượn ra khỏi thành phố qua lớp cỏ mọc dày.
Góc phần tư diện tích này của Ukraine là thảo nguyên, vùng đất bằng phẳng được ngăn cách bởi các rặng cây, ánh trăng đủ sáng để soi tỏ hàng thông hai bên đường. Chúng đã chết khô, chuyển sang màu đỏ và đứng im lìm tại chỗ, ngay hôm sau ngày xảy ra thảm họa. Ngược lại, đồng cỏ lại xóa hết mọi dấu vết dẫn tới lò phản ứng.
Cái chết đã quá hào phóng với nơi này, thậm chí có cả một nghĩa trang dành cho xe cộ. Arkady dừng lại bên hàng rào gỗ và dây thép gai, một cái cổng được buộc lỏng lẻo với dòng chữ cảnh báo ‘Cực kỳ nguy hiểm’ và ‘Cấm mang bất kỳ thứ gì ra khỏi đây’. Anh cởi dây buộc cổng rồi lái xe vào.
Vô số xe tải đang nằm xếp hàng. Xe tải hạng nặng, xe chở dầu, xe đầu kéo, xe san phẳng, xe khử độc, xe cứu hỏa, hàng loạt xe tải, xe buýt, xe lưu động và cả ngàn xe ủi đất, máy xúc đất, xe trộn xi măng cùng từng hàng, từng hàng xe tải quân sự, xe chuyên chở binh sĩ. Bãi xe dài như một nghĩa địa Ai Cập, nhưng là cho máy móc chứ không phải con người. Dưới ánh đèn pha xe máy, trông chúng như một mê cung bằng kim loại. Một gã khổng lồ vươn thẳng cánh tay lên trên không và Arkady nhận ra anh đang đi bên dưới cánh quạt của một chiếc trực thăng cẩu. Có thêm nhiều trực thăng nữa ở đó, mỗi chiếc đều được đánh dấu mức độ nhiễm xạ bằng sơn. Rồi ở giữa bãi xe, anh chợt thấy con BMW của Timofeyev, bám đầy bụi sau chuyến đi dài từ Matxcova.
Một tia lửa lóe lên dẫn Arkady tới chỗ hai người đang cắt rời một chiếc xe chống đạn bằng dụng cụ hàn hồ quang điện. Phế liệu bị nhiễm xạ từ bãi xe bị cấm bán cho các gara ở Kiev, Minsk và Matxcova. Hai người này mặc bộ đồ lao động, đeo mặt nạ dùng trong phẫu thuật, nhưng họ rất quen thuộc với Arkady vì họ chính là người đã bán chiếc xe máy này cho anh, nhất là Bela, viên quản lý bãi xe, một người Hungary tròn trịa đang dùng chiếc khăn tay to tướng lau đám bụi văng từ lớp đất thô khỏi trán. Văn phòng của Bela là một chiếc xe lưu động nằm cách đó vài mét. Bụi xuyên qua cửa sổ, bám đầy các bản đồ đặt trên bàn làm việc của ông ta. Mỗi bản đồ là một phần bãi xe, thể hiện rõ vị trí từng chiếc một. Bela đã phân loại bãi xe hết sức thông minh, tạo dấu hiệu đánh dấu một hàng đầy đủ ở đây, một xe hoàn chỉnh ở kia. Bản thân chiếc xe lưu động lại chẳng hề di chuyển đi đâu; ở vị trí này, nó cũng đã bị nhiễm phóng xạ như những chiếc xung quanh. Bela không quan tâm, ông là vua của vương quốc bị nhiễm độc; với thức ăn đóng hộp, nước uống đóng chai, ti vi và đầu máy video, ông ta tự coi mình thuộc về nơi này. Ông ta vẫy Arkady lúc anh lướt xe qua, lượn vòng quanh một núi lốp xe rồi đi ra cổng.
Tại vị trí này, hai mắt anh luôn dán chặt vào các lò phản ứng. Chuỗi mắt xích cùng dây thép gai bao quanh thứ đã từng là một hệ thống đồ sộ của tháp làm lạnh, bể chứa nước, kho nhiên liệu, hồ làm mát, các trạm truyền tin của tháp thông tin. Bốn lò phản ứng này đã đáp ứng một nửa nhu cầu điện của Ukraine và giờ đang hấp thu từng chút điện để được thắp sáng. Ba cái đầu trông giống những nhà máy không có cửa sổ. Nhưng cái thứ tư thì đã được gia cố và bao bọc bởi lớp vỏ che chắn bằng thép lẫn chì cao ngang tòa nhà mười tầng, trông giống hệt quan tài hay ngôi mộ, mới là thứ luôn khiến Arkady có cảm giác rằng nó như chiếc mặt nạ rỉ sét của một người khổng lồ bị chôn đến tận cổ, nhất là trong đêm tối. St. Petersburg có bức tượng The Bronze Horseman* điêu khắc bằng đồng, còn Chernobyl có lò phản ứng hạt nhân số Bốn. Nếu nó có mở mắt và vươn vai đứng dậy khỏi mặt đất, Arkady cũng không hoàn toàn bất ngờ.
Cách nhà máy mười cây số là một trạm kiểm soát với thanh chắn ngang xù xì đối trọng làm từ một khối gạch bằng than xỉ. Tuy quần áo Arkady đang mặc là quân phục, nhưng vì anh là người Nga, còn nhân viên canh gác ở đây lại là người Ukraine, nên họ vẫn xem xét kỹ lưỡng giấy tờ của anh với vẻ hoài nghi, rồi chậm chạp nâng thanh chắn lên.
Qua trạm kiểm soát là hàng tá ‘ngôi làng trong danh sách đen’ hay ‘ngôi làng cấm’ và các cánh đồng mà bù nhìn được thay thế bởi các biển hiệu cảnh báo hình thoi. Arkady ngoặt xe vào lối mòn trên con đường đất xưa cũ, vượt qua đoạn đường xóc nảy dài hàng trăm mét, ngổn ngang bụi rậm và cây cối dẫn tới một ngôi làng toàn các căn nhà một tầng. Hầu hết người dân được đề nghị di tản, nên phần lớn trông chúng đều vô cùng hoang tàn, trống trải, song một số vẫn lộ ra dấu hiệu của cuộc sống: Hàng rào cọc nhọn vá víu, một chiếc xe trượt chở củi và khói lượn lờ từ ống khói. Chỉ cần một chiếc khăn và một ngọn nến cũng sẽ khiến cửa sổ chuyển màu đỏ hoặc xanh.
Arkady lái xe qua ngôi làng, rẽ lên một lối mòn xuyên qua cánh rừng dài hàng trăm mét nữa tới khu vực rừng thưa quang đãng, có hàng rào thấp bao quanh. Anh bật đèn pha, rọi vào một chữ thập đánh dấu vị trí ngôi mộ làm bằng sắt sơn trắng và được trang trí bằng hoa nhựa, vì hoa hồng và hoa lan chẳng thể sống được ở đây. Không ai được phép chôn cất ở đây kể từ khi thảm họa xảy ra; đất bị nhiễm phóng xạ quá nặng và bị cấm đào xới. Tại cổng nghĩa trang, Lev Timofeyev được phát hiện đã chết, đúng một tuần sau vụ tự tử của Pasha Ivanov.
Báo cáo ban đầu của lực lượng dân quân tự vệ rất ít ỏi: trên người nạn nhân không có giấy tờ, không tiền bạc, không đồng hồ đeo tay, được phát hiện bởi ‘một người cư trú bất hợp pháp tại địa phương’, nguyên nhân cái chết được xác định là do tim ngừng đập. Vài ngày sau, nguyên nhân được đính chính là ‘một vết cắt dài năm centimet ở cổ bằng một con dao sắc, không răng cưa, cắt đứt khí quản và tĩnh mạch cổ’. Sau đó bên dân quân tự vệ liền giải thích về sự nhầm lẫn này với một lưu ý là do thi thể đã bị chó sói cắn xé. Arkady tự hỏi lời bào chữa này có phải xưa như trái đất không nhỉ. “Bị sói cắn xé.”
Anh dỏng tai lên bởi cú bổ nhào lặng lẽ của một con cú và tiếng kêu yếu ớt đánh dấu sự kết thúc của một con chuột. Lá xoay tròn quanh chiếc xe. Toàn bộ Chernobyl đã được trả về với tự nhiên. Đôi khi nó len lỏi vào lúc anh đang nhìn ngắm.
Một cách nữa để quan sát Chernobyl là sử dụng phương thức vòng tròn đồng tâm với tâm điểm là các lò phản ứng trong bán kính mười, ba mươi kilomet. Thành phố chết của Pripyat thuộc vòng tròn bên trong, còn thị trấn cũ của Chernobyl, nơi các lò phản ứng được đặt theo tên, thì ở xa hơn, thuộc vòng ngoài. Cả hai vòng tròn này tạo nên Khu vực cấm.
Các trạm kiểm soát chặn trên mọi con đường ở khoảng cách mười và ba mươi kilomet. Nhà cửa ở Chernobyl đã bị bỏ hoang, nhưng cả khu tập thể lẫn nhà ở vẫn được xây dựng cho lực lượng an ninh, và quán cà phê trong thị trấn chính là nơi diễn ra mọi hoạt động xã hội của Khu vực cấm. Quán cà phê trông như được dựng vội trong một ngày cuối tuần. Hai mươi người thì thoải mái, nhưng năm mươi thì sẽ phải chen lấn và còn gì thoải mái hơn những cú huých từ người khác, hay ngon hơn cá khô và kẹo thanh, các loại hạt lẫn khoai tây chiên? Arkady mua đậu phộng, bia rồi len vào một góc để quan sát các cặp đôi đang nhảy điệu gì đó trông vừa giống hip-hop, lại vừa giống polka*. Đàn ông đều mặc đồng phục rằn ri của quân đội mà họ gọi là quân phục, còn phụ nữ thì đều toát mồ hôi, ngoại trừ vài cô thư ký trẻ hơn không thể chịu được cảnh để mình trở nên nhếch nhác cho dù sống ngay cạnh thảm họa. Một nhà nghiên cứu có sinh nhật vào ngày hôm nay liên tục phải đáp lại những lời chúc tụng với champagne và rượu mạnh. Khói thuốc mù mịt đến nỗi Arkady cảm thấy như anh đang ở dưới đáy một bể bơi.
Một nhà nghiên cứu tên là Alex mang tới cho Arkady một ly rượu mạnh.
“Cạn ly nào! Anh ở cùng chúng tôi được bao lâu rồi Renko?”
“Cảm ơn.” Arkady uống một hơi cạn ly rượu và phải nín thở vì lo sợ có thể bị nổ tung.
“Chính là thế đấy. Mọi người xung quanh anh đều đang cố uống say. Đừng vênh váo. Bao lâu?”
“Ba tuần.”
“Ba tuần và anh thật thiếu thân thiện. Hôm nay là sinh nhật của Eva, còn anh thì vẫn chưa tặng cô ấy một nụ hôn.”
Eva Kazka là một phụ nữ trẻ với mái tóc bông xù đen nhánh khiến Arkady liên tưởng tới một con mèo bị ướt. Cho dù cô đang mặc quân phục.
“Tôi đã gặp tiến sĩ Kazka. Chúng tôi đã bắt tay nhau.”
“Cô ấy tỏ ra không thân thiện à? Đó là vì đồng nghiệp của anh ở Matxcova đã rất ngu ngốc. Đầu tiên, họ xéo nát mọi thứ và rồi họ lại sợ hãi giẫm phải bất cứ thứ gì. Lúc anh đến thì tình anh em đã bị ném vào nhà xí rồi.” Alex là một người cao ráo với cái mũi dài đặc trưng của người hay chỉ trích. Anh ta tỏa sáng như sĩ quan trong Lực lượng quân đội hoàng gia Anh khi bước vào cùng hai hạ sĩ trong đồng phục rằn ri và mũ len. “Câu lạc bộ người hâm mộ của anh. Họ yêu thích cách anh đã làm phức tạp cuộc sống của họ. Anh đã bao giờ cảm thấy mình là người ít được ưa thích nhất trong Khu vực cấm chưa?”
“Tôi hả?”
“Hoan hô. Anh phải rũ bỏ cuộc điều tra ra khỏi đầu và tận hưởng cuộc sống. Cho dù anh ở đâu, anh vẫn chính là anh, như họ đã từng nói ở California.”
“Ngoại trừ một điều là họ sống ở California.”
“Rất đúng. Thử trường hợp đại úy Marchenko nhé. Với ria mép và bộ quân phục, ông ta trông giống một nghệ sĩ của nhà hát tỉnh bị bỏ rơi. Cả đoàn đã bỏ đi và chẳng để lại gì cho ông ta ngoài bộ quần áo. Còn các hạ sĩ khác như anh em nhà Woropay, Dymtrus và Taras, tôi coi chúng như những thằng bé sống hoang dã theo bản năng.”
Arkady phải thừa nhận viên đại úy có một tiểu sử kinh điển. Anh em nhà Woropay có khuôn mặt xanh xao, lốm đốm mụn trứng cá của tuổi dậy thì muộn và vai đủ rộng để biết rằng họ vừa được nhấc khỏi giá treo. Chúng rời mắt khỏi Arkady để cười với đại úy.
“Tại sao Marchenko lại đi cùng chúng?” Arkady hỏi.
“Môn thể thao vua ở đây là khúc côn cầu. Đại úy Marchenko dẫn dắt một đội và anh em Woropay là hai ngôi sao của ông ta. Làm quen với môn thể thao này đi. Anh đang ì ra như một con vịt. Mọi người nói anh bị lưu đày và sếp anh ở Matxcova muốn bắt anh ở đây mãi mãi.”
“Sẽ có ích nếu tôi tìm ra chân tướng vụ án này.”
“Nhưng anh lại không làm được. Chờ đã, tôi muốn nghe về nó.”
Các bàn khác bắt đầu hát mừng Eva Kazka và khuôn mặt cô đang trở nên ngớ ngẩn một cách hạnh phúc. Với Arkady, các nhà nghiên cứu được miêu tả rất khác nhau, có thể là một nhà khoa học xuất sắc hay thất bại, nhưng luôn ngu ngốc vì họ là những kẻ tình nguyện chứ không bị buộc phải đến đây. Alex chạy sang với bạn bè của mình trong chốc lát để tru lên như một con sói và thó lấy chai rượu mạnh trước khi quay lại với Arkady.
“Bởi vì mọi người nghĩ anh là kẻ điên rồ,” Alex nói. “Anh đến Pripyat. Chẳng ai còn bận tâm về Pripyat nữa. Anh đi xuyên rừng trên một chiếc xe máy phát sáng trong bóng đêm. Anh có biết tí gì về nhiễm xạ không?”
“Tôi đi một con xe có gắn thiết bị đo phóng xạ. Nó an toàn và không phát sáng.”
“Chẳng ai thèm ăn cắp nó đâu, tôi phải nói thế. Vậy, điều tra viên Renko, anh đang tìm kiếm cái gì trên vùng đất hoang tàn nhất hành tinh này?”
“Tôi đang tìm kiếm những người cư trú trái phép. Đặc biệt là người đã phát hiện ra Timofeyev. Vì không biết tên ông ta nên tôi đã hỏi tất cả những người mình tìm được.”
“Hẳn anh đang nói đùa. Anh nghiêm túc à? Anh điên rồi. Sau một năm tìm hiểu, chúng tôi đã phân loại những người sống ở đây thành ba loại: trộm cắp, người nhặt rác và người định cư bất hợp pháp.”
“Báo cáo phía cảnh sát cho biết ‘một người cư trú trái phép’ đã phát hiện ra xác Timofeyev. Vì trong đó không nêu rõ tên, nên tôi đã phải hỏi tất cả những người định cư bất hợp pháp mà tôi tìm ra.”
“Loại cảnh sát nào anh có thể gặp được ở Chernobyl chứ? Nhìn anh em Woropay kìa. Khó khăn lắm chúng mới có thể viết đúng tên mình, chứ đừng nói là một báo cáo. Anh đã kết hôn chưa? Có đứa trẻ nào đang chờ anh ở nhà không?”
“Không.” Arkady thoáng nghĩ tới Zhenya, nhưng thằng bé khó có thể được coi là gia đình. Với Zhenya, anh chẳng là gì ngoài một phương tiện giao thông đưa nó tới công viên. Vả lại, Victor đang trông nom thằng bé.
“Vì thế anh lao vào một nhiệm vụ bất khả thi ở vùng đất nhiễm phóng xạ bị lãng quên này. Anh, hoặc là một kẻ bị ám ảnh hoặc là một điều tra viên tận tâm.”
“Lần đầu tiên anh nói đúng.”
“Vậy thì chúng ta phải uống vì điều đó.” Alex rót đầy ly của họ. “Anh có biết rượu bảo vệ anh khỏi phóng xạ không? Nó đào thải phân tử oxy bị ion hóa. Tất nhiên, thiếu oxy thậm chí còn tệ hơn, nhưng bất cứ người Ukraine nào cũng biết rượu có ích cho anh. Vang đỏ là tốt nhất, rồi đến rượu mạnh, vodka, vân vân.”
“Nhưng anh là người Nga.”
Alex đặt ngón tay lên môi. “Suỵt. Tôi tạm thời bị coi là một kẻ điên. Hơn nữa, người Nga cũng uống vodka để đề phòng. Câu hỏi thực sự là, có phải anh cũng điên không? Tôi và bạn bè phục vụ cho khoa học. Ở đây có nhiều thứ thú vị để tìm hiểu về tác động của phóng xạ với tự nhiên, nhưng tôi không nghĩ cái chết của vài doanh nhân Matxcova lại đáng để dành một phút tại đây, chứ đừng nói là một tháng.”
Trong những ngày lùng sục các căn hộ ở Pripyat hay nông trại ẩn sâu trong rừng, Arkady đã tự hỏi bản thân như vậy rất nhiều lần. Anh vẫn chưa tìm ra câu trả lời. Mà lại có thêm nhiều câu hỏi nữa.
“Của ai?” Arkady hỏi.
“Ý anh là gì?”
“Cái chết của ai thì xứng đáng? Chỉ người tốt thôi à? Hay các Thánh? Làm sao chúng ta có thể quyết định vụ án mạng của người nào xứng đáng để điều tra? Làm sao chúng ta quyết định kẻ giết người nào cần thả cho đi?”
“Anh định bắt giữ tất cả bọn giết người sao?”
“Không. Thực tế là rất khó.”
Alex nhìn Arkady với đôi mắt buồn rầu. “Chà, anh hoàn toàn mất trí rồi. Tôi lấy làm sợ đấy. Tôi không nông nổi mà nói thế đâu.”
“Alex, anh có định nhảy với em hay không?” Eva Kazka kéo tay anh ta. “Vì những kỷ niệm xưa.”
Arkady ghen tị với họ. Đó là đức tính cần thiết trong hoàn cảnh này. Nói chung, binh lính không thể có sức khỏe tốt khi đóng quân ở Chernobyl. Đất nước Ukraine thậm chí còn nghèo hơn cả Nga và ‘trợ cấp độc hại’ chẳng là gì bởi nó liên tục bị trả muộn hoặc lãng quên hoàn toàn. Và xét trong môi trường như vậy, chẳng có gì hay hơn ngoài chuyện uống rượu say. Các nhà nghiên cứu thì lại là chuyện khác. Đó là những nhóm khác nhau của rất nhiều dự án, nhưng giống như một nhóm đàn ông tóc dài, đám phụ nữ khá bừa bộn và có chung tính dí dỏm của các nhà khoa học trong tình huống một mảnh thiên thạch đang lao vào trái đất. Công việc có những trở ngại nhất định nhưng chắc chắn vẫn độc nhất vô nhị.
Kazka tựa đầu lên vai Alex trong một vũ điệu chậm rãi. Dù phụ nữ Ukraine được coi là xinh đẹp với đôi mắt nai giàu cảm xúc, nhưng cách Kazka nhìn người khác trông như cô có thể cắn đứt đầu kẻ nào dám tâng bốc mình. Cô quá nhợt nhạt, quá u buồn. Cách cô cùng Alex khiêu vũ cho thấy họ có quan hệ trong quá khứ và đang trong thời kỳ đình chiến tạm thời của một cuộc chiến. Arkady lấy làm kinh ngạc vì anh thậm chí vẫn còn suy xét được, nếu xét từ tình trạng bị cô lập về mặt xã hội của anh.
Tại sao anh lại ở Chernobyl? Bởi vì Timofeyev? Vì Ivanov? Cuối cùng Arkady đã bị thuyết phục là do vụ tự tử của Pasha. Vụ tự tử của người đã rơi vào trạng thái tồi tệ. Một nhóm đo phóng xạ trong bộ đồ chuyên dụng bằng chì đã tỉ mẩn tìm kiếm và phát hiện ra đống muối trong tủ quần áo của Ivanov có dấu hiệu bị nhiễm Xesi 137 dạng muối, có lẽ với tỉ lệ là một trên một triệu hạt, nhưng như vậy đã là quá đủ. Đó là cây kim trong đống cỏ khô. Nhìn bề ngoài thì muối Natri Clorua (NaCl) và muối Xesi Clorua (CsCl) không thể phân biệt được. Ảnh hưởng của chúng lại hoàn toàn khác nhau. Cầm một gam Xesi 137 tinh khiết trong ba giây có thể gây chết người và dù muối Xesi Clorua dạng hạt có hình dáng nhỏ hơn, nhưng thực sự ở dạng pha loãng vẫn là một cú đấm. Dạ dày Pasha bị nhiễm xạ đến nỗi lần khám nghiệm tử thi thứ hai đã bị buộc hoãn lại và cả nhà xác phải sơ tán. Sau đó, ông ta được chôn cất trong quan tài lót chì. Lọ muối mà Victor tìm được trên vỉa hè bên dưới thi thể Ivanov mới là thứ nóng nhất trong tất cả, một quả bom bắn ra tia gamma, nóng tới nỗi làm kính chuyển sang màu xám. Thật may mắn, cái lọ đã được giữ trong phòng lưu giữ bằng chứng đang để trống, rồi được chuyển đi bởi một đội sử dụng kẹp và đặt trong một hộp chứa đôi, lót chì dày mười centimet. Arkady và nhóm người này đã tới những nơi ở của Pasha trước đó mà ông ta đã đột ngột rời đi và nhận thấy tòa biệt thự cùng tòa nhà liền kề cũng chứa đầy các bẫy chết người tương tự. Ivanov có biết không? Ông ta đã ra lệnh bỏ trống tòa nhà liền kề cùng điền trang, không cho phép ai bước vào căn hộ và luôn mang theo một thiết bị đo phóng xạ. Chắc chắn ông ta biết.
Tòa lâu đài xây dựng từ trước Cách mạng của Timofeyev cũng trong tình trạng như vậy. Ông ta không cấm du khách tới thăm vì chẳng có cá tính mạnh mẽ như Pasha, nhưng hành lang cùng các căn phòng mạ vàng nơi ông ta ở là một ổ phóng xạ. Không khó hiểu tại sao ông ta lại lo lắng và sút cân. Sau khi tung tăng khắp lâu đài của Timofeyev với thiết bị đo phóng xạ, Arkady và Victor đã tới gặp bác sĩ quân y để đề phòng. Ông ta kê cho họ viên iot và đảm bảo rằng lượng bức xạ họ tiếp xúc cũng không nhiều hơn lượng một hành khách bay từ St. Petersburg tới San Francisco hấp thụ. Tuy nhiên, họ vẫn nên đi tắm, vứt bỏ quần áo và có thể sẽ cảm thấy buồn nôn, rụng tóc, đặc biệt là bị chảy máu cam, bởi vì Xesi tác động lên tủy xương nơi hình thành tiểu cầu. Victor đã hỏi nên làm gì để hạn chế chảy máu cam. Vị bác sĩ trả lời rằng nên mang theo một chiếc khăn tay.
Ivanov và Timofeyev đã phải sống với tâm trạng lo lắng như thế chăng? Tại sao không ai trong số họ báo với cảnh sát rằng có kẻ đang cố giết mình? Hay báo động cho đội an ninh NoviRus? Cuối cùng, tại sao Timofeyev lại lái xe bảy trăm kilomet từ Matxcova tới Chernobyl? Nếu là để bảo vệ mạng sống của ông ta thì có vẻ biện pháp này không hề hiệu quả.
Cuộc khám nghiệm tử thi của Timofeyev ngay khi được tìm ra tại nghĩa trang của ngôi làng chính là một trò hề. Nghĩa trang này đã bị nhiễm xạ, các gia đình được đề nghị chỉ đến thăm mộ một ngày mỗi năm, và điều đầu tiên các cậu bé trong lực lượng dân quân tự vệ làm là kéo Timofeyev tới khoảng cách an toàn để kiểm tra và lật đi lật lại xác ông ta. Do ví và đồng hồ đeo tay của nạn nhân đều đã bị mất nên họ không xác định được danh tính hay tầm quan trọng của ông ta. Và vì trời mưa, họ liền quăng cái xác lên một chiếc xe tải rồi chở đi. Họ phỏng đoán đó là một doanh nhân và có ông chú hay bà dì chôn cất ở nghĩa trang này nên mới bí mật về thăm, rồi lên cơn đau tim và ngã gục. Không ai thắc mắc về chuyện xe của ông ta ở đâu hay tại sao giày ông ta lại dính đầy bùn do đi bộ. Chernobyl không có cả điều tra viên lẫn nhà nghiên cứu bệnh học, còn Kiev thì tỏ ra không hứng thú với những cái chết do nguyên nhân tự nhiên ở các tỉnh. Timofeyev được bảo quản trong phòng lạnh và ý tưởng ông ta là người Nga chứ không phải Ukraine chưa từng xuất hiện trong đầu bất kỳ ai, cho đến khi chiếc BMW với biển số Matxcova được tìm thấy trong bãi xe hai ngày sau đó. Và rồi ai đó đã nhìn Timofeyev trong phòng giữ lạnh rồi chợt nhận thấy rằng cổ họng ông ta đã bị cắt.
Một trận náo động lớn bắt nguồn từ Matxcova. Công tố viên Zurin đã đích thân tới Chernobyl cùng mười điều tra viên nữa, không bao gồm Arkady, để hợp tác với các điều tra viên từ Kiev nhằm tìm ra sự thật. Họ chẳng phát hiện được gì hết. Hiện trường ở nghĩa trang đã bị phá nát, đầu tiên là bởi đàn sói, rồi đến hành động vội vã di chuyển thi thể Timofeyev. Nếu có máu trên nền đất thì cũng đã bị nước mưa rửa trôi, vì vậy chẳng thể xác định nghĩa trang có phải là nơi ông ta bị cắt cổ hay không. Không có bức ảnh nào chụp cái xác đúng vị trí của nó tại hiện trường. Bản thân cái xác bị nhiễm xạ thì quá nặng nên không thể khám nghiệm hay thậm chí là thiêu được, người ta đành chôn trong một quan tài đóng kín. Viên cảnh sát lập báo cáo ban đầu đã biến mất, có lẽ là với ví cùng đồng hồ của Timofeyev. Các nhà điều tra từ Matxcova và Kiev càng ở lâu thì càng trở nên buồn bực vì họ phải lặn lội từ ngôi làng đầy phóng xạ này sang ngôi làng nhiễm xạ khác. Người dân trong làng lén lút trở về nhà dù biết rằng họ không được ở đó và từ một cuộc gặp gỡ với giới chức sắc để chắc chắn rằng họ sẽ có trong tay vé xe buýt một chiều tới tầng hầm ảm đạm nào đó trong thành phố, họ liền lẩn như trạch, hay ẩn nấp trong các căn nhà nhỏ ở những ngôi làng cấm khác. Và rồi vài tuần sau đó, các điều tra viên ném thẻ của họ lại rồi bỏ đi, bớt kênh kiệu hơn rất nhiều so với lúc mới đến. Những công tố viên khác có thể sẽ thừa nhận thất bại, nhưng Zurin đã thể hiện sự tài giỏi, năng lực vượt qua mọi tai ương của mình. Ông ta xử lý tình huống bằng cách tình nguyện cử Arkady tới Chernobyl với tư cách là cố vấn cho lực lượng dân quân ở đó. Động thái này vừa biểu thị sự hợp tác giữa các nước anh em, vừa thỏa mãn nhu cầu điều tra sâu hơn, lại ngẫu nhiên tạo khoảng cách dễ chịu giữa ông ta và điều tra viên cố chấp nhất của mình. Đồng thời, Zurin cũng gây khó khăn nhằm khiến Arkady hầu như không có khả năng điều tra ra sự thật. Về phía mình, nếu không có các thám tử giúp đỡ hay được tiếp cận bất kỳ người bạn nào của Timofeyev, hoặc một vị linh mục đáng mến hay nhân viên xoa bóp, người mà Timofeyev có lẽ đã chia sẻ mối lo âu của mình, thì việc cách xa Matxcova như sao Diêm vương với mặt trời, cũng đồng nghĩa rằng Arkady đã bị bỏ mặc theo đuổi những bóng ma. Đối mặt với trò ảo thuật của Zurin, anh cũng bị sững sờ.
“Renko! Điệu cuối rồi!” Alex kéo Arkady ra khỏi góc ngồi và ném anh vào vòng tay của một nhà nghiên cứu vạm vỡ. “Đừng cứng đơ như que củi thế! Vanko cần bạn nhảy.”
Khuôn mặt xanh xao và mái tóc xơ cứng, Vanko trông giống một tu sĩ cuồng tín hơn là nhà sinh học. “Anh là người đồng tính à?” anh ta hỏi Arkady. “Tôi không nhảy cùng người đồng tính. Một người đàn ông ngay thẳng được chấp nhận trong mọi trường hợp.”
“Được thôi.”
“Anh cũng không tệ lắm. Mọi người đều bảo anh sẽ bỏ đi trong vòng một tuần giống như những kẻ khác. Nhưng anh vẫn tiếp tục, tôi ngưỡng mộ điều đó. Anh muốn có người dẫn đường không?”
“Bất cứ khi nào?”
“Không vấn đề, tôi sẽ dẫn anh đi. Nhưng không phải ở đây. Đây là quán cà phê ở tận cùng thế giới. Nếu anh muốn biết nơi tận cùng thế giới thực sự như thế nào thì chính là thế này. Không quá tệ.”