The worth of a book is to be measured by what you can carry away from it.

James Bryce

 
 
 
 
 
Tác giả: Selma Lagerlöf
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: hoang viet
Số chương: 9
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2503 / 24
Cập nhật: 2015-12-10 13:31:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Con Quỷ Con
ụ quỷ già dạo chơi trong rừng, gùi đứa con trên lưng trong một chiếc giỏ bằng vỏ cây. Quỷ con trông thật thô kệch và xấu xí. Tóc dựng đứng và cứng như lông lợn rừng, răng nhọn hoắt và đầu ngón tay không có móng mà lại có vuốt. Song quỷ mẹ vẫn thấy nó rất xinh xẻo.
Mụ đi tới một quãng rừng thưa. Tại đây có một con đường bị rễ cây đâm lồi lõm gồ ghề chạy băng qua; và trên đường, một nông dân đang cùng vợ cưỡi ngựa đi tới.
Thoáng thấy họ, mụ quỷ già định lẩn vào rừng sâu, song thấy vợ người nông dân đang bế một đứa trẻ trên tay, mụ liền đổi ý. "Ta rất muốn xem xem con của loài người có xinh xắn bằng con ta không?" Mụ thì thầm như vậy rồi ngồi thụp xuống nấp sau một bụi rậm chờ đợi.
Khi vợ chồng người nông dân đi qua, mụ nghển cổ nhìn đứa trẻ, nhưng hai con ngựa chợt thấy cái đầu to xù gớm ghiếc của mụ, liền lồng lộn chồm lên. Tay bế con, vợ người nông dân suýt ngã ngựa. Ba ta sợ hãi kêu lên, rồi bất giác vươn người nắm lấy dây cương. Lát sau, hai vợ chồng biến mất trên mình ngựa phi nước đại.
Mụ quỷ cái thở phì phò thất vọng vì không thỏa mãn được tính tò mò, cũng chẳng nhìn thấy được đứa trẻ. Nhưng mụ bỗng bình tâm lại: đứa trẻ nằm ngay trên đất, trước mắt mụ. Người mẹ đã đánh rơi con khi ngựa chồm lên. May sao đứa bé rơi xuống một đống cành con và lá khô nên không bị sây sước gì. Nó gào khóc vì quá sợ, nhưng khi mụ vợ lão quỷ cúi xuống, nó rất kinh ngạc và thích thú nên nín bặt, rồi đưa tay kéo bộ râu đen sì của mụ.
Mụ quỷ cái ngây người nhìn đứa trẻ của loài người. Mụ ngắm nghía những ngón tay mảnh mai thanh thoát với những chiếc móng hồng, ngắm đôi mắt xanh trong và cái miệng xinh xinh đỏ thắm. Mụ sờ vào mái tóc mượt như tơ, vuốt đôi má đứa trẻ và mỗi lúc một ngạc nhiên hơn. Chưa bao giờ mụ thấy một em bé trắng trẻo đến thế, hồng hào và thanh tú đến thế.
Bỗng nhiên mụ quỷ giật mình giật cái giỏ trên vai xuống, kéo đứa con của mụ ra và đặt nó cạnh đứa trẻ kia. Nhìn chúng khác nhau một trời một vực, mụ không thể tự chủ được và rú lên. Trong lúc này, vợ chồng người nông dân bắt đầu điều khiển được ngựa, họ quay trở lại tìm con. Mụ quỷ nghe tiếng họ lại gần, nhưng vẫn chưa ngắm thỏa thuê đứa trẻ kháu khỉnh. Cuối cùng, khi đã sắp trông thấy họ, mụ nảy ra một quyết định bất ngờ: để đứa con mụ lại trên mặt đất, bên bờ rãnh, nhấc đứa trẻ xinh xắn đặt vào giỏ, khoác lên lưng rồi lủi mất.
Mụ vừa đi khuất thì hai vợ chồng người nông đân xuất hiện. Họ là những người giàu có, được vị nể, chủ nhân của một trang trại đẹp trong cái thung lũng phì nhiêu nằm dưới chân núi. Họ lấy nhau đã lâu năm mà chỉ sinh được đứa con này, vì thế họ rất đau lòng khi mất con.
Người vợ đi trước và là người đầu tiên nhìn thấy đứa trẻ nằm trên mặt đất đang gào khóc. Lẽ ra nghe tiếng gào dữ tợn không phải của con người này bà phải nhận ra rằng nó không phải con bà. Song tâm trí bà đang rối bời nên bà chẳng còn nhận biết được gì nữa, bà chỉ cảm thấy sung sướng khi thấy con không bị ngã chết.
- Con đây rồi, - bà gọi chồng rồi trườn xuống đất.
Khi ông chồng tới nơi, thấy vợ ngồi bên vệ đường, vẻ ngơ ngác như không tin vào con mắt mình nữa.
"Trước đây răng con tôi đâu có như nanh ác thú thế này, - bà lẩm bẩm. - Tóc con tôi đâu có như lông lợn rừng thế này? - Bà rên rỉ, giọng mỗi lúc một tuyệt vọng hơn. - Trước đây, con tôi đâu có vuốt ở đầu ngón tay.
Ông nông dân tưởng vợ đã hóa điên, vội nhảy xuống ngựa.
- Mình hãy nhìn con đi, rồi nói cho tôi biết nó làm sao thế này. - bà vừa nói vừa đưa đứa trẻ cho chồng. Ông bế nó lên, nhưng vừa cúi nhìn nó, ông liền khạc nhổ liên hồi rồi quẳng nó ra xa.
- Đó là một con quỷ con. - ông kêu lên. - Nó không phải là con chúng ta.
Bà vợ vẫn ngồi bệt dưới đất như bị tê liệt. Bà chậm hiểu và không thể tự giải thích được cái điều vừa xảy ra.
- Mình xử lý thế nào với đứa trẻ này? - Bà hỏi.
- Vậy mình không thấy là một đứa bé được đem đánh tráo sao? Bọn quỷ đã ăn cắp con chúng ta khi ngựa lồng và để lại một con quỷ con.
- Thế con ta bây giờ ở đâu? - Bà rên rỉ.
- Ở chỗ bọn quỷ ấy. - Ông nói chẳng giữ lời.
Cuối cùng người vợ đã hiểu ra rằng nỗi bất hạnh của mình là ghê gớm đến mức nào. Mặt bà tái mét khiến chồng bà tưởng đâu bà sắp tắc thở.
- Chúng chưa thể mang con chúng ta đi xa đây được, - ông nói để trấn tĩnh vợ. - Chúng ta sẽ lùng sục khắp rừng.
Ông buộc ngựa vào gốc cây rồi đi sâu vào trong rừng. Bà vợ đứng dậy định đi theo, nhưng chợt thấy con quỷ con nằm gần chân mấycon ngựa mà ngựa thì đang dậm chân lo lắng vì thấy đứa trẻ. Bà rùng mình ghê sợ khi nghĩ phải chạm tay vào con quỷ con, nhưng rồi bà vẫn nhấc nó ra chỗ khác để ngựa khỏi dẫm phải.
- Kìa, cái lúc lắc con nó cầm khi bà đánh rơi nó, - ông chồng thốt lên. - Thế là mình tìm đúng hướng rồi đấy!
Bà vợ vội chạy tới, rồi hai vợ chồng cùng dấn sâu thêm vào rừng. Nhưng họ không tìm thấy dấu vết gì của con, cũng như của mụ quỷ. Người mẹ đáng thương khóc lóc và vặn vẹo đôi tay. Người cha buồn bã nghiến chặt hai hàm răng, lặng lẽ bước đi không nói một lời nào để an ủi vợ. Ông thuộc một dòng họ khá giả lâu đời, dòng họ này sẽ tuyệt diệt nếu ông không có con trai. Ông oán vợ đã đánh rơi con, nhưng thấy vợ tuyệt vọng, ông không dám trách móc gì.
Ông giúp vợ trèo lên lưng ngựa; người vợ khi đã ngồi vững trên yên mới nhớ tới con quỷ con.
- Bây giờ ta biết làm gì với con quỷ con này? - Bà hỏi chồng.
- Ừ nhỉ. Nó đâu rồi?
- Nó kia kìa, dưới bụi cây ấy.
- Nó nằm đấy là tốt rồi. Nó cứ việc nằm đấy! - Ông đáp rồi cười chua chát.
- Nhưng chúng ta không thể để nó làm mồi cho thú dữ được! Bà phản đối.
- Sao lại không? Cứ để nó đấy! - Ông trả lời cộc lốc và đặt chân vào bàn đạp.
Trong thâm tâm, bà thấy chồng có lý: lo lắng cho con quỷ con này đâu phải việc của vợ chồng bà. Bà bèn thúc ngựa đi theo chồng, nhưng ngựa vừa chạy được vài bước thì bà lại thấy không đành lòng.
- Dù sao nó cũng là một đứa trẻ, - bà nói. - Tôi không thể để nó bị chó sói ăn thịt. Ông cho tôi xin nó được không?
- Không đời nào. Nó nằm đấy là tốt rồi.
- Nếu bây giờ ông không để tôi mang nó theo thì chắc chắn tối nay tôi đành quay lại đây tìm nó, - bà nói giọng tuyệt vọng.
- Có lẽ bọn quỷ bắt trộm được con tôi rồi mà vẫn chưa thỏa mãn, cho nên chúng còn làm cho vợ tôi đâm điên đâm dại ra nữa, - ông rên rỉ. Tuy vậy, ông vẫn quay lại và tìm con quỷ con rồi trao nó cho vợ, vì ông rất yêu và đã quen nhượng bà trong mọi việc.
Ngày hôm sau, câu chuyện bất hạnh đã lan truyền khắp vùng. Những người giàu kinh nghiệm và khôn ngoan đến nhà vợ chồng người nông dân để khuyên nhủ và báo trước những điều có thể xảy ra. Một bà cụ khuyên:
- Người nào chẳng may bị quỷ đánh tráo con thì phải lấy một cái gậy thật to mà đánh con quỷ con.
- Tại sao lại phải ác nghiệt với nó như vậy? - Vợ người nông dân hỏi. - Nó xấu xí thật, nhưng nó có làm gì xấu đâu?
- Vì nếu ta đánh bật máu con quỷ con, mẹ nó sẽ phóng tới như gió, lao vào đứa con, vứt trả con bà rồi mang con nó bay đi. Tôi đã thấy nhiều người tìm được con bằng cách ấy.
- Thật đấy, - một bà hàng xóm tán thành. - Nhưng những đứa trẻ ấy có đứa nào sống được lâu đâu.
Vợ người nông dân ngồi nghe nhưng thầm nghĩ rằng mình không thể nhẫn tâm làm như vậy được.
Buổi tối khi ngồi một mình với con quỷ nhỏ, bà thấy thương tiếc con vô hạn và khao khát được gặp con đến cháy lòng.
"Có lẽ mình đến phải thử dùng gậy như người ta khuyên mất", bà nghĩ vậy nhưng rồi bà không thể nhẫn tâm làm như thế được.
Đúng lúc đó, chồng bà bước vào, tay cầm một cây gậy to. Bà biết ngay rằng ông sắp làm cái việc mà bà không dám làm. "Càng tốt - bà nghĩ thầm. - Mình thật ngốc quá. Mình không bao giờ dám hành hạ một đứa trẻ vô tội, ngay cả khi phải cứu con mình".
Nhưng khi ông chưa kịp giáng đòn đầu tiên vào đứa trẻ thì bà đã lao tới, cản tay chồng lại.
- Không, không, ông đừng đánh nó, - bà kêu lên. - Tôi xin ông, đành đánh nó nữa!
- Thế bà không muốn gặp lại con nữa sao? Vừa nói ông vừa cố gỡ tay ra.
- Có, có chứ! Nhưng không phải bằng cách này! - Bà vợ phản đối.
Người nông dân lại giơ gậy lên, nhưng bà vợ đã lao vào che cho con quỷ con, thành ra chính bà lại bị đánh.
- Lạy Chúa! - Ông kêu lên. - Tôi thấy hình như bà cố tình bắt con chúng ta phải sống mãi với lũ quỷ...
Ông chờ một lát, nhưng bà vẫn lấy thân mình che cho con quỷ con. Ông đành quẳng gậy và bước ra, bực tức và thất vọng. Ông không hiểu tại sao lại không thực hiện nổi ý định của mình, mặc dầu trái ý vợ, nhưng hình như vợ ông có một cái gì đó bắt ông phải chịu khuất phục.
Thêm vài ngày nữa trôi qua trong nước mắt và buồn tủi. Bao giờ cũng vậy, đối với một người mẹ, mất con là một chuyện đau đớn, nhưng còn đau đớn gấp đôi khi biết rằng con mình bị đánh tráo. Nhìn đứa trẻ tiếm vị, nỗi thương tiếc con lại càng trỗi dậy trong lòng khôn nguôi.
Một buổi sáng, bà nói với chồng:
- Tôi không còn biết cho thằng bé này ăn gì nữa. Tất cả mọi thứ tôi đem cho nó, nó đều không chịu ăn.
- Chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả, - ông đáp. - Vậy bà không biết rằng giống quỷ chỉ sống bằng ếch nhái, chuột bọ thôi sao?
- Nhưng tôi làm sao mà ra ao câu ếch cho nó được.
- Tất nhiên rồi. Tôi thấy rằng nó mà chết đói thì đó là dịp may, - ông đáp.
Gần một tuần trôi qua mà vợ chồng người nông dân vẫn không làm cách nào cho đứa bé ăn. Bà đặt quanh mình nó rất nhiều thức ăn ngon lành, nhưng mỗi khi bà cố cho nó ăn thử, nó lại nhăn mặt và khạc nhổ.
Một buổi chiều, khi con quỷ con đang đói lả hầu như sắp chết, một con mèo chạy vào phòng, miệng ngậm một con chuột. Bà chạy tới, giằng lấy con chuột vứt cho con quỷ rồi vội vã bước nhanh ra ngoài để khỏi nhìn thấy nó ăn.
Khi người nông dân thấy vợ mình bắt cóc và nhện cho con quỷ con ăn, ông không thể che giấu sự kinh tởm được. Thành thử, ông cũng không thể nó với vợ một lời âu yếm nào nữa.
Tuy nhiên, bà vẫn đủ uy lực đối với ông khiến ông không bỏ nhà ra đi.
Nhưng bọn đầy tớ thì không còn kính trọng bà chủ chút nào. Họ bắt đầu không vâng lời bà như trước. Ông chủ thì làm ra vẻ không nhận thấy gì cả, và bà vợ hiểu rằng nếu bà còn giữ con quỷ con trong nhà, cuộc sống của bà sẽ chỉ còn là một chuỗi hình phạt vô tận. Nhưng tính bà vẫn cứ thế: trước một kẻ bị mọi người căm ghét, bà cảm thấy mình có một trách nhiệm bức thiết là phải giúp đỡ kẻ đó. Và, càng phải chịu khổ vì con quỷ nhỏ bao nhiêu, bà càng chăm sóc nó tận tình bấy nhiên sao cho chẳng ai có thể làm hại nó.
Hai năm đã trôi qua như vậy. Một ngày kia, vợ người nông dân một mình ngồi trong nhà vá chiếc áo choàng cho đứa trẻ. Vừa khâu bà vừa than thở: "Thật chẳng sung sướng gì khi phải nuôi con của kẻ khác." Bà làm vội vàng vì cái áo có không biết bao nhiêu là chỗ rách lớn. Nước mắt cứ tuôn ra làm mờ mắt bà. Bà nghĩ tiếp: "Nếu đây là cái áo cho con ta thì chắc chắn ta sẽ chẳng than vất vả. Ta khổ nhiều vì con quỷ này. Tốt hơn là đem nó vào rừng sâu, rồi bỏ mặc nó đấy".
Một lát sau, bà lại nghĩ: "À mà ta có thể dứt bỏ nó một cách nhẹ nhàng hơn. Chỉ cần ta không để ý canh chừng nó, chắc chắn nó sẽ chết đuối dưới giếng, hoặc nó sẽ làm bắn lửa bén vào áo khi chơi bên lò sưởi, hoặc nữa nó sẽ bị chó cắn hay ngựa đá chết. Nó thật là liều lĩnh, thật là hung ác. Tất cả mọi người và cả súc vật trong trại đều ghét nó. Và nếu ta không biết để ý trông nó, mọi người sẽ thủ tiêu nó ngay lập tức".
Bà đứng dậy và đưa mắt nhìn đứa trẻ đang nằm ngủ cuộn tròn trong góc phòng. Nó đã lớn nhiều, và còn xấu xí hơn cả lúc bà nhìn thấy nó lần đầu: cái mồm giãn ra như mồm thú, lông mày dựng đứng như hai túm lông đuôi súc vật, mặt đen thủi đen thui.
"Vá quần áo cho mày, chăm sóc mày, những cái đó chưa có nghĩa lý gì, - bà lẩm bẩm. - Đó mới chỉ là những nỗi khổ đau nhỏ nhất mà ta phải chịu đựng vì mày. Nhưng chồng ta kinh tởm ta, bọn đầy tớ trai khinh bỉ ta, bọn đầy tớ gái chế giễu ta, con mèo nó cũng khạc phì phì khi trông thấy ta, cả con chó cũng nhe răng với ta. Tất cả chỉ tại mày thôi.
"Có lẽ ta sẽ chịu đựng được sự khinh ghét của mọi người và của cả súc vật, - bà thở dài - nhưng đau khổ cho ta nhất là mỗi khi nhìn thấy mày, ta lại thương tiếc như điên như cuồng đứa con trai của ta. Hỡi ôi, con yêu quý của mẹ, con ở đâu? Phải chăng con đang ngủ trên đám rêu, hay trong đống lá bên bọn quỷ dữ ở tít tận rừng sâu?"
Cánh cửa bật mở. Bà hấp tấp cúi đầu khâu tiếp. Chồng bà bước vào, mặt tươi tỉnh. Đã từ lâu chưa bao giờ ông ăn nói dịu dàng với bà như hôm nay.
- Hội chợ làng mở rồi đấy. Chúng ta sẽ tới đó xem nhé, bà nghĩ sao?
Lòng bà đầy vui sướng, bà đáp rằng bà không còn muốn gì hơn.
- Vậy bà chuẩn bị nhanh nhanh lên nhé, - ông nói, - chúng ta sẽ phải đi bộ, vì ngựa ở ngoài đồng cả rồi. Nhưng nếu ta đi tắt đường núi thì sẽ kịp thôi.
Vài phút sau, bà chủ ăn mặc chỉnh tề xuất hiện trên ngưỡng cửa. Đây là niềm sung sướng nhất đối với bà từ lâu nay. Mải vui, bà đã hoàn toàn quên con quỷ nhỏ. Bất chợt, một ý nghĩ lóe lên: "Hay là chồng ta tìm cách đưa ta đi xa để bọn đầy tớ giết chết đứa trẻ kia chăng?" Bà quay ngay vào nhà rồi trở ra với đứa bé lộc ngộc trên tay.
- Bà không thể để nó ở nhà được sao? Người chồng nói nhẹ nhàng, không hề giận dữ.
- Không. Tôi không dám rời nó ra đâu.
- Thôi được, nếu bà muốn vậy, - ông nói giàn hòa, - nhưng bế nó vượt núi sẽ nặng nhọc lắm đấy.
Hai vợ chồng lên đường. Họ đi rất vất vả vì đường dốc cheo leo. Họ phải vượt qua đỉnh núi trước khi tới đường cái làng. Chẳng mấy lúc bà thấm mệt, rồi hầu như không bước được nữa. Bà để đứa bé to sù cho nó tự đi một mình một chút nhưng không được.
Chồng bà có vẻ rất tử tế. Từ ngày mất con, chưa bao giờ bà thấy ông vui như hôm nay.
- Bà đưa thằng bé cho tôi bế một lúc, - ông đề nghị, - bà mệt quá rồi đấy.
- Không sao đâu, - bà trả lời. - Vả lại, tôi cũng muốn ông không phải bận tâm đến nó.
- Nhưng làm sao tôi lại có thể để bà phải chịu vất vả một mình, - ông vừa nói vừa đỡ lấy đứa bé.
Ở quãng này, đường lại rất xấu, vừa trơn vừa gồ ghề. Con đường chạy men một hẻm núi sâu. Đường rất hẹp, chỉ đủ cho một người qua. Bà vợ đi sau. Bà bỗng thấy sợ chồng có thể vấp ngã cùng đứa trẻ trên tay.
- Đi từ từ thôi ông ạ, - bà gọi với vì thấy chồng hình như đi nhanh và thiếu thận trọng.
Bà vừa dứt lời, quả nhiên ông chồng bước hụt một bước, suýt đánh rơi đứa bé.
"Nếu đứa bé bị rơi xuống, có lẽ ta sẽ dứt bỏ được nó mãi mãi", - một tiếng nói thì thầm từ đáy lòng bà. Nhưng ngay lúc đó bà chợt hiểu ra rằng chồng bà có ý định ném đứa bé xuống vực rồi làm như chẳng may đánh rơi nó.
"Đúng. Đúng rồi. Ông ấy đã sắp xếp cuộc đi chơi này để dứt bỏ con quỷ nhỏ, sao cho ta không thể biết là ông ta cố tình. Nghĩ cho cùng, cứ để ông ấy làm như vậy có lẽ hơn cả." Ông chồng lại vấp vào rễ cây một lần nữa, và đứa bé lại suýt tuột khỏi tay ông.
- Ông đưa thằng bé đây cho tôi, kẻo cùng ngã với nó mất thôi, - bà nói.
- Thôi, ông đáp, - Tôi sẽ cẩn thận hơn mà.
Nhưng ngay lập tức, ông trượt chân lần thứ ba. Ông vội đưa tay túm lấy một cành cây, làm đứa bé rơi tuột xuống. Bà vội bám sát gót chồng. Tuy đã có lúc bà tự nhủ rằng thật là hạnh phúc làm sao nếu dứt bỏ được đứa bé, bà vẫn lao tới, túm được vạt áo nó và kéo nó lên.
Người chồng quay lại. Nét mặt ông đổi khác hẳn, trông thật dữ tợn.
- Sao bà không nhanh được như vậy hôm đánh rơi con, - ông giận dữ hét lên.
Khổ tâm, điếng người, bà im lặng không đáp. Thế ra sự tử tế của chồng bà chỉ là vờ vịt. Bà cảm thấy tủi cực nên khóc òa lên.
- Tại sao bà khóc? - Ông nghiêm khắc nói. Con quỷ kia ngã lại là một điềm đau khổ đến thế chăng? Thôi ta đi đi. Nếu không sẽ muộn mất.
- Tôi không còn lòng dạ nào đến hội chợ nữa.
- Tùy bà, - ông đáp, - Vả lại, tôi cũng chẳng muốn đi nữa.
Hai vợ chồng quay về nhà. Vừa đi, người chồng tự hỏi không biết mình còn sống nổi với vợ đến bao giờ nữa. Nếu như ông cố thêm một lần cuối; giằng lấy thằng bé trong tay vợ thì có lẽ vợ chồng ông sẽ lại chung sống hạnh phúc. Đang chuẩn bị đấu tranh với vợ, bất chợt ông bắt gặp phải đôi mắt bà đang nhìn ông đau đớn và lo âu. Cái nhìn ấy, một lần nữa, lại khuất phục ông. Thế là tình hình lại y nguyên như cũ.
Lại hai năm nữa trôi qua. Cho tới một đêm hè kia, nhà người nông dân bỗng nhiên bốc cháy.
Khi mọi người tỉnh giấc, toàn bộ căn phòng đã chìm ngập trong lửa khói, kho thóc chỉ còn đống than hồng. Chẳng ai nghĩ đến việc dập lửa hay cứu tài sản, mà chỉ còn đủ thời gian lao ra ngoài.
Ông chủ điểm lại nhân số trang trại, thấy đủ cả. Lúc đầu, chẳng ai nghĩ tới con quỷ con. Đứng giữa đám gia nhân, ông nhìn nhà mình đang làm mồi cho ngọn lửa. Ông nói:
- Ta rất muốn biết, ai đã gây ra tai họa này?
- Còn ai nữa, - bọn đầy tớ trả lời. - Chỉ có con quỷ con kia thôi. Dạo này nó chẳng hay chơi trò nhặt các mẩu gỗ, cành cây rồi đem đốt là gì?
Một chị đầy tớ tiếp lời:
- Mới hôm qua đây thôi, nó chất một đống cành khô ở kho thóc. May là tôi ngăn kịp khi nó sắp châm lửa.
- Thế thì nó không đốt hôm qua mà là hôm nay rồi, - một anh đầy tớ nói. - Chính nó đã gây thảm họa cho ông đấy.
- Ước gì nó vẫn còn ở trong đó! - Ông chủ nói - Nếu như vậy thì bị cháy nhà ta cũng chẳng phàn nàn gì.
Ngay lúc đó, mọi người thấy bà chủ lao ra, từ ngôi nhà ngập lửa, tay kéo thằng quỷ con.
Ông chủ nhà giận uất người, nhảy xổ tới, giằng lấy đứa bé và lại ném nó vào đống lửa.
Lửa bốc ra ngùn ngụt từ các ô cửa sổ; nóng rực, khói dày đặc. Như người mất hồn, sợ tái mặt bà chủ đưa mắt nhìn chồng trong giây lát, rồi lại lao ngay vào nhà theo thằng bé, chẳng ai kịp ngăn cản.
- Cả mày nữa, cứ ở lại đó luôn đi? - Người chồng thét, giận sôi lên.
Nhưng vợ ông đã trở ra cùng đứa trẻ. Tay bà bị bỏng, tóc cháy xém. Khi bà đi qua sàn, chẳng ai thèm nói với bà một lời. Bà đi ra giếng, dập tắt mấy tàn lửa bám vào váy, rồi ngồi bệt xuống cỏ, dựa vào thành giếng. Đứa bé con quỷ nằm trên đùi bà, chẳng mấy chốc đã ngủ, còn bà thì vẫn ngồi nguyên, đôi mắt u buồn nhìn chằm chằm về phía trước. Những người đi qua chẳng ai buồn để ý tới bà, hoặc đều tránh xa, thì thấy bà quá ư thiểu não.
Rạng sáng, khi ngôi nhà chỉ còn là một đống tro tàn và đã cháy xém, người chồng tới tìm bà.
- Tôi không chịu nổi cuộc sống này nữa. - ông nói. - Phải xa bà, tôi rất tiếc, chắc bà cũng biết, song tôi không thể sống với một con quỷ được. Tôi đi đây và sẽ không trở về nữa.
Thấy chồng nói thế rồi bỏ đi, bà tưởng như tim mình bị đứt ra khỏi lồng ngực. Bà những muốn chạy theo giữ chồng lại, nhưng con quỷ con vẫn đè nặng trên gối bà. Bà cảm thấy không còn đủ sức đẩy nó ra nữa.
Người nông dân đi vào trong rừng, lòng tự nhủ rằng có lẽ đây là lần cuối cùng mình đi trên con đường thân thuộc này. Đúng lúc ông đi tới lưng chừng dốc, một chú bé chạy tới gặp ông. Người chú mảnh mai và dong dỏng như một cây non. Mái tóc mềm như tơ, đôi mắt ngời sáng. "Nếu con ta còn, chắc nó cũng như thế này đây" - ông thở dài nghĩ thầm. Nhẽ ra ta phải có người thừa kế như thế, chứ đâu phải con yêu quái kinh tởm mà vợ ta cứ cố sống cố chết nuôi nấng..."
- Chào cháu bé, ông nói, - cháu đi đâu đấy?
- Cháu chào bác, - chú bé trả lời - nếu bác đoán được cháu là ai thì cháu sẽ cho bác biết cháu đi đâu.
Nghe giọng nói của chú bé, người nông dân bỗng thất sắc.
- Giọng cháu nói y như người trong nhà ta vậy. Nếu con trai ta không bị bọn quỷ bắt, ta sẽ nghĩ cháu là nó đấy.
- Cha ơi, cha đoán đúng đấy, - chú bé nói. - Vì cha đã đoán đúng, nên con xin nói cho cha biết là con đi tìm mẹ con đây.
- Đừng đi con ạ, - ông ngăn lại. - Vì mẹ con giờ chỉ yêu thương một mình con quỷ đen kinh tởm thôi.
- Cha tin vậy sao? - Chú bé nhìn thẳng vào mắt ông, hỏi.
Sung sướng tột độ vì gặp lại con, mắt ông rưng rưng ngấn lệ.
- Thôi, con ở lại đây với cha, vừa nói ông vừa bế thốc chú bé lên. Như sợ mất con lần nữa, ông ôm chặt lấy chú bé và đi tiếp.
Cháu bé láu táu nói chuyện.
- Thật may mà cha bế con cẩn thận hơn hôm cha bế con quỷ!
- Con nói gì vậy? - Người cha ngạc nhiên hỏi.
- Cha không nhớ lần đó sao? Hôm ấy mẹ thằng quỷ cũng bế con đi phía bên kia vực; mỗi lần cha vấp và suýt để rơi thằng quỷ con thì mẹ nó cũng làm hệt như vậy. Chưa bao giờ con sợ đến thế. Lúc cha định ném nó xuống vực, mẹ nó cũng sắp quẳng con xuống đó. Ôi, nếu mẹ con không túm kịp nó thì...
Người nông dân bước chậm lại, ngắt lời con:
- Giờ con hãy kể cho cha nghe con sống ở đó ra sao, ở nhà lũ quỷ ấy.
- Đôi lúc cũng khổ sở lắm, - chú bé trả lời. - Nhưng mẹ con đối xử tốt với thằng quỷ con thì chúng cũng không đối xấu với con đâu.
- Đôi lúc chúng cũng đánh con chứ?
- Chỉ lúc cha đánh con chúng thôi.
- Thế chúng có cho con ăn uống tử tế không? - Người cha hỏi tiếp.
- Mỗi khi mẹ con cho thằng quỷ ăn cóc và chuột, chúng cho con ăn bánh mì trắng và bơ. Nhưng khi cha mẹ cho nó ăn thịt nấu chín và bánh mì, chúng lại bắt con ăn rắn rết và cỏ gai. Tuần đầu con suýt chết đói đấy. May mà mẹ con đã thương hại thằng quỷ con!...
Nghe con nói vậy, người nông dân lúc này đã bước chầm chậm liền quay ngoặt trở lại con đường dốc núi.
Sau một hồi im lặng, ông lên tiếng:
- Không biết cha nghĩ có đúng không, hình như người con có mùi khói?
- Có gì lạ đâu cha, - chú bé trả lời. - Đêm qua chúng đã ném con vào đống lửa khi cha xô con quỷ vào ngôi nhà đang cháy. Nếu mẹ không có đấy thì...
Người nông dân sải chân bước, nhưng bỗng đứng chững lại:
- Con nói cho cha biết, vì sao lũ quỷ đã thả con về.
- Khi mà mẹ con hy sinh cái mà mẹ con quý hơn tính mệnh, thì chúng không còn có uy lực gì đối với con nữa.
- Mẹ con đã hy sinh cái mà mẹ con quý hơn tính mệnh ư? - Người cha hỏi lại.
- Đúng vậy đấy cha ạ, - chú bé trả lời. - Tức là mẹ con đành để cho cha ra đi, chỉ vì muốn cứu thằng quỷ con.
Vợ người nông dân vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, bên bờ giếng. Bà không ngủ, nhưng giống như người bị cóng lạnh. Bà không thể cử động, mà cũng chẳng nhìn thấy gì quanh mình; dường như bà đã chết. Bỗng nhiên bà nghe có tiếng chồng gọi từ rất xa. Thế là trái tim bà lại hồi hộp. Cuộc sống trở lại với bà. Mở to đôi mắt, bà nhìn quanh như vừa bừng tỉnh sau một giấc ngủ mê mệt. Trời đã sáng rõ. Mặt trời chiếu rực rỡ. Chim sơn ca hót vang. Trong một ngày như thế, lẽ nào có điều bất hạnh xảy đến được. Nhưng rồi đôi mắt bà dừng lại trên đống tro tàn gạch xám mà trước đây là ngôi nhà của bà, trên những con người có đôi tay đen xì và mặt đỏ rực. Bà thầm nhủ rằng bà tỉnh dậy chỉ để bước vào một cuộc sống còn đau buồn hơn trước. Vậy mà bà cứ cảm thấy dai dẳng, rằng nỗi phiền muộn đau khổ dằng dặc của bà đã chấm dứt. Bà đưa mắt tìm con quỷ. Nó không còn nằm ngủ trên gối bà nữa, và chẳng thấy nó đâu. Giá vào lúc khác, chắc bà đã vội đi tìm nó. Nhưng lúc này, bà linh cảm thấy việc đó là vô ích.
Lại một lần nữa bà nghe thấy tiếng chồng gọi. Tiếng vang lại từ phía khu rừng. Cùng lúc đó, chồng bà xuất hiện trên con đường hẻm dẫn về trang trại. Nhưng tất cả mọi người đêm qua đến chữa cháy đã chạy ùa tới chỗ ông và che lấp ông đi. Bà chỉ còn nghe thấy tiếng gọi liên hồi của chồng.
Tiếng gọi của ông báo hiệu một nguồn vui vô tận. Bà ngồi như đóng đinh tại chỗ. Cuối cùng, chồng bà tách khỏi đám đông và tới đặt trên gối bà một đứa trẻ xinh xắn.
- Con trai chúng ta đấy! Người ta đã trả lại nó cho chúng ta đây, - ông nói - Chính bà, chỉ một mình bà đã cứu con thoát khỏi tay bọn quỷ đấy!
TÔ CHƯƠNG dịch
Chiếc Xe Của Thần Chết Chiếc Xe Của Thần Chết - Selma Lagerlöf Chiếc Xe Của Thần Chết