A truly good book teaches me better than to read it. I must soon lay it down, and commence living on its hint.... What I began by reading, I must finish by acting.

Henry David Thoreau

 
 
 
 
 
Tác giả: Patrick White
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 102 / 66
Cập nhật: 2020-06-24 21:49:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5
ột số người khác cũng đến ở khu vực này. Thỉnh thoảng họ đi ngang qua, chở bàn ghế và đệm trên những chiếc xe bò, có người ngồi chễm chệ trên xe một ngựa kéo vừa mới sơn đen. Đôi lúc có người lạ vào nhà Parker xin nước đổ vào túi đựng. Nhưng hầu hết họ đều chậm chạp không nhận ra đã có người ở đó, nên gia đình Parker nhìn họ chăm chăm một lúc lâu, mỗi khi họ nhìn ngang nhìn ngửa.
Một người đàn bà, bị váng đầu đến ngồi một lúc ngoài hành lang, lấy khăn tay thấm sũng nước, lau mặt, rồi bảo nơi này sao mà vắng vẻ thế.
Amy Parker không trả lời. Chị chưa biết tới sự vắng vẻ, chị không liên tưởng đến những ngày phiên chợ. Thế rồi mọi người lại bỏ đi, và lập tức sự im lặng lại bao trùm lên nơi có sự hiện diện mỏng manh của họ. Có tiếng gì gần như tiếng những chiếc chuông tĩnh lặng vào cái buổi sáng rực rỡ màu sắc. Chị sung sướng.
Lúc này nhà chị đã có khóm hồng trồng đối diện với hàng hiên, một loại hồng bạch mà chị đã từng nghĩ tới, nói đến và anh đã mang từ thành phố về cho chị. Cây hồng đó nay đã là bụi hồng có cành lá tua tủa, với những bông hồng to cánh mỏng như giấy cuộn vào nhau, sực mùi thuốc lá. Có vẻ lạnh. Nó thuộc về cái ánh sáng xanh ẩm ướt phía bên kia của căn nhà, nơi có hàng cây dâm bụt, cành lá mỗi ngày mọc một um tùm. Nhưng bụi hồng của Amy Parker hãy còn xanh, căng nhựa sống. Những bông hồng như cẩm thạch cứng cáp dưới ánh trăng. Những bông hồng bạch lấp lánh trước ánh sáng ban trưa chói chang hoặc đung đưa những cánh hoa mỏng tang xuống màu vàng xanh của cây dâm bụt.
- Chị là người sinh ra để trồng hoa đấy, - người đàn bà có chiếc xe ngựa dừng lại đó nói, dù cho chị ta chỉ định nói có một nửa như thế.
- Chỉ có một bụi hồng ấy mà, - Amy Parker nói khẽ.
- Trồng loại cây cảnh thì chẳng có ích gì, - người đàn bà trên xe nói, - nhưng tôi cho là mình thích là được rồi.
Amy Parker không ưa người đàn bà đó, chẳng kém gì trước đây chị ghét bà thím Fibbens, tuy người này còn trẻ.
- Cũng phải làm cái gì chứ. - Amy Parker nói.
- Ồ - người thiếu phụ khịt khịt mũi, và giá chị ta mà là con ngựa cái kéo xe đó, chắc Amy đã đập nhẹ vào đuôi rồi. - Chúng tôi có nuôi lợn, hai con lợn sề trong chuồng, một con lợn đực non trông đẹp lắm, và lại còn những con gà mái tơ nữa, ngoài ra chúng tôi cũng trồng trọt và dù nếu đúng là ta ở vùng trũng sương muối, mùa xuân này chúng tôi vẫn trồng khoai tây.
Chị ta vừa uốn giọng nghe cho tròn vành gọn tiếng, đầu vừa ngoảnh đi ngoảnh lại, mớ tóc đen cuộn bóng nhẫy hai má đỏ ửng, trông người đàn bà to lớn đó lúc này chẳng khác gì con ngựa kéo xe.
- Vậy không thể nói là không làm gì, - chị ta nói, - trừ hoa hồng ra.
- Tôi sẽ trồng hoa hồng, - Amy Parker nói, giọng bướng bỉnh.
- Chị không cáu tôi đấy chứ? - Người thiếu phụ hỏi - Ấy là nghĩ sao tôi nói vậy. Nhà tôi cứ bảo đấy là bản tính của đời tôi, nhưng rút cuộc người đàn bà nào cũng phải thở, mà nếu có đôi lời xen vào hơi thở như vậy thì đã sao.
Amy Parker bắt đầu thấy thích trò chuyện.
- Song ở đây cô quạnh quá, - người đàn bà thở dài. - Tôi sinh trong một vùng đầm lầy, đúng như vậy, nhưng đi đâu cũng gặp người đồng đạo.
Amy Parker tựa người vào cổng. Cuộc đời chị chưa bao giờ hoang vắng, nay có lẽ đang lâm vào cảnh đó, có nhiều điều nói lên điều đó, trừ sự việc là hiện nay còn có bà bạn đây đến ở, người đàn bà béo lùn ngồi trong xe kia.
- Chúng tôi ở đây có hai người thôi, - Amy Parker nói.
- À, ra vậy. - Người đàn bà nói.
Nhưng chị ta ngồi có vẻ thẫn thờ. Chị ta ngồi nhìn về phía trước. Bộ mặt vui vẻ trở nên buồn tẻ và đám tóc cuộn bóng nhẫy dầy cộm dần xõa xuống.
- Thôi, - chị ta nói, cứ như đang giằng lời ấy ra khỏi cái gì đó đang chi phối con người chị, - tôi ra thành phố mang theo vài thứ. Ngày hôm nay, cả ngày mai nữa chồng tôi không có nhà. Anh ấy có một nỗi khổ cực, có thể nói thế, không coi đấy là sự tiêu khiển của nhà quý phái cũng được. Đó là đặc quyền của anh ấy, chắc rồi chị sẽ biết, được nát rượu như ông chúa hoặc như thằng con hoang, rồi quẳng những chai rượu đi khiến cho vợ anh ấy thế nào cũng có ngày vỡ mắt cá chân vì cái đám chai lỏng chỏng khắp sân ấy.
Chị ta vấn tóc gọn lại như cũ rồi cầm cương giật mạnh.
- Tôi kể chị biết thế thôi, - chị ta nói, - vì xem ra ta đã quen nhau rồi, dẫu sao anh ấy cũng không quá tồi đâu.
Chị ta tặc lưỡi, cầm cả nắm dây cương quật, còn chị ta hích mông trên tấm ván, nếu một con ngựa tốt thì đã phóng đi rồi.
- Ngựa ốm à? - Amy Parker hỏi.
- Con kia mới ốm, - Người bạn mới của chị trả lời. - Con này không ốm. Nó ì thân xác đó.
Dù nói gì thì nói trông nó cứ gầy trơ xương, quanh vòng ngực có một, hai vết sầy da do dây cương gây ra, những chỗ đó và cả đôi mắt bị ruồi bâu kín.
- Lúc chạy rồi, nó phi tài lắm, - người đàn bà thở hổn hển. - Chỉ có cái nó mà đứng thì cứ lỳ ra đấy. Ê, đi nào! Mày điếc và mất cảm giác hay sao?
Chiếc xe cựa quậy cọt kẹt.
- Như đã nói đấy, bây giờ chúng mình đã quen nhau, coi nhau như láng giềng. Chúng tôi ở cách đây có đôi ba dặm thôi, nơi con ngựa cái màu hạt dẻ nằm chết ở ngay chỗ rẽ ấy. Chị có rảnh xuống chỗ tôi uống trà, nói chuyện thì vui biết mấy. Nhà dễ tìm lắm, thấy ngay vì còn đang làm dở dang. Chị chỉ cần tìm con ngựa già chết nằm trơ ra đó là thấy ngay thôi mà.
Chị ta hú gọi và chiếc xe miễn cưỡng chuyển bánh; vấp vào những hòn đá, lắc lư, còn chị ta ngả người xuống, người nhễ nhại mồ hôi, vất vả nói đôi lời. Những nốt ruồi hiện rõ trên chiếc áo diện nhất và cả chiếc áo vét dệt mà chị ta làm rơi quả trứng vào hôm đó. Chị ta mỉm cười xinh xắn, người đàn bà hàng xóm ấy. Làn da bóng của chị ta khiến cho bà bạn đứng nghe có thiện cảm.
- À, - chị ta gọi với, - tôi quên mất, tôi là O’Dowd.
Ngay sau khi Amy Parker nói tên mình, rất mạnh dạn vì không phải là tên Fibbens, bà láng giềng liền bỏ đi. Lại chỉ còn cây với cối.
Người thiếu phụ đi vào nhà, vừa đi vừa nghĩ về người bạn của mình. Chị ta đã là bạn của mình, chắc từ trước đến giờ chị ta cũng chưa có một ai làm bạn. Sáng hôm đó, lúc cọ rửa bàn, lúc đập thảm, lúc cọ nồi, chị suy ngẫm những lời của bà bạn láng giềng. Một số đồ vật trong nhà, lúc này qua con mắt nhìn mới mẻ của người thiếu phụ trông trở nên hoàn toàn lạ lẫm. Ví dụ chiếc giường với những núm đồng to bự phản chiếu lóng lánh vào những cột giường bằng sắt trông xỉn hơn. Vì vậy người thiếu phụ đi quanh nhà và cười với con chó mà chị chưa bao giờ thấy thích, còn nó nhìn thẳng vào chị, cặp mắt ngạc nhiên nhưng không khoan thứ, chỉ mỗi đầu mũi đỏ như miếng gan của nó là khẽ động đậy.
- Anh Stan, - chị nói với chồng đang ở phía sau con chó không xa lắm, - chúng mình có một láng giềng vừa qua đây. Tên chị ta là O’Dowd, còn anh chồng là một tay nghiện rượu nặng.
- Người Ai-len đã đến đây, - Stan Parker nói, rồi đặt mũ xuống và đổ đầy nước vào chậu, rửa ráy trước khi ăn tối.
- Thế thì sao, - chị nói. - Ở đây cô quạnh quá.
- Kể từ phút này.
- Có người trò chuyện thì cũng tốt thôi.
- Thế còn anh thì sao?
- Ồ, - chị nói, - anh ấy à! - Vừa nói chị vừa xếp thành chồng những củ khoai tây to, còn bốc khói.
Anh không thể giết chết niềm vui nồng nhiệt của chị.
- Điều đó hoàn toàn khác - chị nói.
Chị dọn bữa tối cho anh, mắt cứ nhìn xuống khiến anh thấy khó chịu.
- Em nên để ý đến đồ đạc trong nhà, - anh vừa nói vừa tọng đầy mồm những miếng khoai tây ngon lành.
- Sao cơ, chị ấy là người thật thà đấy chứ, - chị nói, - cứ qua lời ăn tiếng nói thì rõ.
- Cái gã mang Kinh Thánh cũng thế, anh chồng nói với giọng tức giận hơn bởi đang ăn khoai nóng.
Anh ngồi bẻ bánh mì, trông xương cổ tay to đến bất hợp lý.
Chị im lặng không nói nữa. Con gà mái hoa mơ chị thích bước vào nhà mà chị đôi lúc cho phép nó nhặt nhạnh các thứ dưới bàn, và giờ đây trong cảnh yên lặng, tiếng gà mổ vào sàn nhà rắn nghe rõ mồn một. Nó tựa như nhịp phách những lời vừa nói.
Nhưng Amy Parker không thể từ bỏ tình bạn, cũng không từ bỏ chồng mình được. Cả hai đều hòa trộn vào nhau trong buổi trưa oi ả này. Một nỗi buồn man mác, dễ chịu xâm chiếm tâm hồn chị, không xót xa gay gắt, mà êm dịu ngọt ngào như chén trà pha đặc khiến đôi mắt chị mơ màng, xa vắng.
Vừa lúc đó người chồng đặt chén xuống đi ra ngoài. Chưa giải quyết được gì. Trong quan hệ của họ đây là lần đầu tiên có điều không ổn, và cái không khí buồn man mác kéo dài suốt cả buổi chiều oi ả đó.
Thì đã sao? Chị tự nhủ, khi bực tức và khó chịu luồn mũi kim qua chiếc tất mà chị đang mạng. - Chẳng có gì quan trọng cả. Cuối ngày thế nào cũng có giông đây. Mồ hôi đọng trên môi chị. Một làn gió nhẹ làm cây xào xạc. Mây đang tích tụ đúng hướng. Do mải suy nghĩ chị bị kim đâm vào ngón tay, chị mút tay rồi cuộn tròn đôi tất lại. Trong lúc đó, những đám mây lớn cứ chuyển động, dồn nén, xô đẩy nhau. Cơn gió nhẹ, mới đầu thoáng qua, sau trở nên ẩm ướt và ghê sợ hơn. Nó nhấc bổng mọi đồ vật. Người thiếu phụ ở trong nhà đứng dậy đóng cửa cốt để giữ một ảo tưởng về sự an toàn, giá mà chỉ là một ảo tưởng. Vì những đám mây đen đang bùng nổ trên đầu chị. Rồi gió cuốn tấm len xám xịt của những đám mây bị giằng xé kia trôi trên bầu trời, băng băng hơn máu trong huyết quản, khiến chị bắt đầu thấy ghê sợ.
Gió bắt đầu đập mạnh vào chiếc lều gỗ mà chị bị hãm mình trong đó.
Anh ấy đâu rồi? Chị thầm hỏi, quay vào trong nhìn. Miệng chị há hốc ra vì sợ hãi.
Ngay lúc ấy chồng chị đã xuống chỗ nhà kho nhỏ mà anh đang dựng lên. Tiếng búa của anh lúc đầu nghe còn có vẻ đùa giỡn và gây ấn tượng nay không còn nghe thấy nữa, cây búa cũng chỉ là loại sắt tồi. Nhưng anh đã phá lên cười. Trước cơn bão mỗi lúc một mạnh, anh lại thấy vui. Anh ngẩng mặt nhìn những đám mây trôi băng băng. Anh cười, để lộ răng, vẻ căng thẳng, ngờ vực vào bầu trời. Yết hầu trông lộ hẳn nhưng không có ý nghĩa gì trong cổ họng anh. Và đột nhiên cả con người anh hoàn toàn vô nghĩa. Anh chỉ còn là một vật non nớt măng sữa. Tiếng cười tan đều trong cổ họng anh. Chiếc quần treo lòng thòng bên hông và thổi dính chặt lấy đôi cẳng chân như hai cái gậy của anh.
Cả trái đất chuyển mình, gió chuyển động thổi bật cây cối ngả rạp xuống và anh có nguy cơ bị cuốn theo.
Lúc còn bé, anh đã nằm trên chiếc ghế sofa cứng đệm nhồi lông ngựa và bị hút theo cuốn Kinh Cựu ước trên những đợt sóng của khoái cảm và sợ hãi. Còn giờ đây, anh phải quỳ gối, sắp bị quật vào đầu, một tia chớp đã thắp sáng trí nhớ anh. Chúa thổi từ những đám mây, còn con người sẽ thất tán như lá cây. Không còn có khả năng nói được ai đứng về phía nào. Mà liệu có thể nói được không? Bị vây quanh giữa những vật vô tri vô giác như đất đá và cây cối đang ào ào cuốn trôi đầy giận dữ, anh không tin chắc nữa. Trong tình trạng đó, anh bị một niềm bất hạnh choán lấy, nghiêng về thể xác nhiều hơn, chưa đến mức sợ hãi, song anh cứ thấy thích ngước nhìn lên ngắm bầu trời xem có nét gì thể hiện thiện cảm không.
Nhưng bầu trời mỗi lúc một đen. Một luồng gió thổi đều đều khiến anh bắt đầu thấy sợ.
Bỗng anh thấy vợ mình chạy, tay chân chị vật lộn với gió và với chính ngay quần áo trên người. Nhìn thân hình chị oằn oại như anh chưa từng thấy và bộ mặt hốc hác, phờ phạc đến kỳ lạ, đột nhiên anh cảm thấy đấy không phải là cô gái anh đã cưới trong nhà thờ ở Yuruga, đã yêu cũng như đã giận dỗi nhau, song anh buộc lòng phải loạng choạng chạy lại. Để chạm vào chị.
Hai người đứng ôm nhau trong bão tố.
- Chúng mình làm gì bây giờ? - Chị khóc, miệng vẫn giữ nguyên hình thù kỳ quái đó.
- Chẳng làm được gì nữa, - anh kêu lên, - mong sao cơn bão sẽ tan.
Họ ôm chặt lấy nhau. Họ tìm kiếm khuôn mặt gầy guộc của nhau.
Khi sự đụng chạm làm cho họ tỉnh táo lại, trong giây lát họ lại là mình. Đôi bàn chân họ chênh vênh bám lấy mảnh đất.
- Em sợ, anh Stan ạ, - chị nói.
Nhẽ ra anh phải nói đôi điều để chị an tâm, nhưng vì cũng sợ nên anh đã không nói gì. Tuy vậy, anh vuốt ve chị, nên chị thấy dễ chịu hơn.
Gió vẫn thổi.
Con bò vàng, ưỡn cái bụng căng phồng hết sức theo gió, chạy điên cuồng loanh quanh. Con chó gục xuống bên chân chủ, nằm bẹp gí và trố mắt như đôi mắt cún con. Gà bay toán loạn, hay đúng ra, là những túm lông đang bay. Gió cuốn băng một tấm tôn, nó văng đi và kêu lanh canh như tờ giấy bạc.
- A a a a, - người thiếu phụ ôm cái cổ đã từng vững chắc của chồng và khóc.
Những cây to gãy gục… Hai, ba cây bị quật đổ. Đánh sầm một cái. Nghe như thuốc súng. Cây cối kêu răng rắc, tan tành. Con bò vàng nhảy tránh những cành cây, hất sừng lên. Hai vợ chồng bị thổi lao vào nhau trông nhẹ nhàng như hai thanh củi. Họ nằm, nhìn vào mắt nhau, còn con chó liếm bàn tay họ từ từ, song thô bạo, cứ như nó phát hiện ra một vị mới mẻ.
- Chúng ta hãy còn sống, - người đàn ông cười, vẻ sợ sệt.
Mưa như trút vào miệng anh.
- Tội cho con bò quá, - chị kêu lên.
- Nó có làm sao đâu.
- Vâng em cũng biết thế, - chị thét lên.
Trong cơn mưa như trút nước.
Tấm chăn ướt lạnh bao lấy họ cho đến khi thân thể họ trần trụi, chỉ còn mưa xối xả bám chặt lấy người. Nước mưa chảy xuôi theo rãnh tràn qua những gốc cây lởm chởm và rơi thẳng tuột tựa như gió đã đi qua. Chỉ còn mưa rơi.
- Chúng mình ngồi đây làm gì? - Anh cười, nhìn vào tấm thân trần trụi trẻ trung mới mẻ của mình.
Chị nhìn thấy đầu anh còn xanh với mái tóc ướt bệt vào đầu.
- Đúng, hẳn chúng mình hơi điên đấy, - chị nói.
Chị nhìn anh mà cứ thấy ngỡ ngàng, đồng thời lại muốn xin lỗi vì có những hành động hoặc cảm xúc thái quá. Dường như về mặt lý trí nhẽ ra chị không phải sợ hãi đến thế, dẫu cho lúc này ngồi bên những cây bị quật đổ với người thanh niên trần trụi mới mẻ kia. Chị nghĩ mình mà có con trai chắc nó cũng giống thế, với bộ răng bóng loáng, nước da mượt mà, cái đầu sạch và đẹp. Chị muốn hôn, song nó sẽ làm hỏng mất cái thuần khiết hiện tại sau những gì họ đã trải qua. Vì vậy chị vội đứng dậy, vuốt lại cái đã từng là cái váy, vì có nhiều điều phải làm, nên không có lý do gì để cho rằng cuộc sống của họ sẽ đổi khác vì lo nghĩ đến nó.
- Mưa bão cuốn sạch sành sanh lán trại cũ. - người chồng nói, - Nhưng để sót lại lán mới, nên ta còn đó.
- Cả con bò già cũng suýt bị cuốn nốt, - người vợ bất lực nói.
Con chó rũ những gì còn lại của nó, vì giờ đây nó chỉ còn là một bộ xương.
Người đàn ông và người đàn bà tiếp tục đứng trong mưa, ôm lấy nhau, không phải họ cần nương tựa nhau vì gió đã lặng, mà họ đã quen, vả lại họ cũng muốn thế.
- Ít nhất chúng ta sẽ có cái này, Stan Parker nói, và anh nhớ đến những hình ảnh nặng nề trôi qua những trang sách trong thời thơ ấu của mình khi đứng trước nạn hạn hán, nạn đói và chiến tranh, và cả những bãi sa mạc rộng lớn của nỗi bất công trần tục và thần thánh khi anh nằm trên cái ghế sofa đệm nhồi lông ngựa. Và anh đã có mặt ở đây, vẫn còn mò mẫm qua những sự kiện riêng tư hơn. Anh không thể nào lý giải được ánh chớp vạch lên cuộc đời họ.
- Anh đi kiếm xem có được mẩu củi khô nào không, anh Stan, - người vợ nói khi đứng trong ngôi nhà còn nguyên vẹn, và vắt khô tóc.
Anh đi kiếm củi khô, một lát sau trên bếp lửa leo lét, một ngọn lửa nhỏ vừa phải. Và chẳng mấy chốc, bên ngoài xuất hiện những mảng mây xám lửng lơ, và cái ráng chiều màu da cam rực sáng nơi xa xa mang trong nó một điềm báo trước như tia chớp mà lúc nãy chẳng ai tìm cách lý giải.
Stan Parker bận việc buổi tối nên không thử lý giải làm gì. Anh mệt mỏi. Dưới bầu trời màu da cam anh cũng thấy yên lòng. Những sự việc vừa rồi đã làm anh kiệt sức. Anh chưa học nhìn xa trông rộng, nên qua mức tiến bộ mà anh đạt được, anh đã đi đến kết luận rằng mình là tù nhân trong tâm trí con người mình cũng như trong huyền bí của thế giới thiên nhiên. Chỉ thỉnh thoảng đôi bàn tay chạm vào nhau, sự im lặng không còn nữa, hình thù một cái cây đột nhiên xuất hiện hoặc một vì sao đầu tiên hiện lên báo sự giải thoát cuối cùng.
Nhưng không phải lúc này. Mà anh cũng không đòi hỏi điều đó.
Đôi bàn chân nặng nề của anh lê bước vào nhà, lòng anh tràn ngập sung sướng khi nghe thấy tiếng vợ mình ngồi xoa mạnh vào da thịt để sưởi ấm bên bếp lửa.
Cây Người Cây Người - Patrick White Cây Người