Books support us in our solitude and keep us from being a burden to ourselves.

Jeremy Collier

 
 
 
 
 
Tác giả: John Dickson Carr
Thể loại: Trinh Thám
Dịch giả: Lệ Thanh
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 378 / 33
Cập nhật: 2020-07-09 16:12:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5
rong một, hai phút, Mark Despard ngồi im, mắt đăm đăm nhìn vào đôi tay chắp lại của anh. Rồi anh nói:
- Tôi cho rằng điều này là vẫn thường như thế đó. Những nghi ngờ tích lũy trong đầu óc của một con người mà hắn không hề ý thức, thế rồi bỗng nhiên như có điều gì đó đã kết tinh lại... Dẫu thế nào đi nữa, chính từ lúc đó mà tôi đã hiểu. Tôi quay lại nhìn để bảo đảm là Lucy không trông thấy gì, bởi vì nàng quay lưng về phía tôi, tay tựa lên thành giường. Ánh sáng yếu ớt của cây đèn ngủ dịu dàng lấp lánh trên lớp áo sa tanh đỏ ối của nàng.
Tất cả những triệu chứng của căn bệnh bác Miles lởn vởn quay về trong tâm trí tôi và tôi ngạc nhiên khi không nghĩ sớm hơn đến một vụ đầu độc bằng asenic.
Từ hành lang vọng lên tiếng của Edith đang gọi điện thoại.
Tôi lặng lẽ khóa cánh tủ lại và đút chìa khóa vào túi quần. Rồi tôi ra hành lang, về phía Edith. Chúng tôi cần một bác sĩ, bởi cô y tá ngày hôm sau mới trở lại. Tôi cố nhớ những phương pháp cấp cứu trong trường hợp bị ngộ độc bằng asenic, nhưng không tài nào. Edith vừa gác máy, nàng có vẻ bình tĩnh mặc dầu đôi tay hơi bối rối. Ở đầu dây bên kia, chẳng có tiếng trả lời của bác sĩ Barker. Nàng trở lên lầu trong khi tôi chuẩn bị gọi một bác sĩ khác, nhưng Lucy đã xuất hiện ở khoang cầu thang và nói:
- Em nghĩ rằng bác đã từ trần.
Đúng thế. Không một cơn co giật nào. Trái tim của ông chỉ đơn giản ngưng đập và ông ngưng khổ đau. Khi tôi lật ngửa ông ra để xem ông đã thật từ trần chưa, bàn tay tôi luồn dưới gối và tôi lôi ra một sợi dây mà có lẽ ban nãy tôi đã nói với các bạn rồi đấy. Đó là một sợi dây bình thường, dài khoảng ba mươi phân và gồm có chín gút ở khoảng cách đều nhau. Cho đến bây giờ, tôi vẫn thắc mắc cái đó nghĩa là gì...
- Hồi sau đó? Tiếp tục đi chứ! Partington hỏi đột ngột.
- Sau đó? Không gì cả. Chúng tôi nghĩ không nên đánh thức những người còn lại trong nhà, bởi vì chỉ còn vài tiếng nữa là trời sáng. Lucy và Edith đi ngủ, nhưng không tài nào chợp mắt. Tôi bảo rằng tôi sẽ canh xác bác Miles, và như thế tôi sẽ có dịp để giấu cái tách. Tôi cũng viện lý do là Ogden chưa về và tôi phải tỉnh thức, nếu lỡ hắn ta có say sưa gì.
Lucy trở về phòng của chúng tôi. Edith rưng rức khóc. Chúng tôi như thầm trách vì không chu đáo với bác Miles trong tối hôm nay, nhưng tôi đã biết ông chết vì nguyên nhân khác.
Sau khi phủ tấm drap lên mặt bác Miles, tôi gói cái tách và chiếc ly trong khăn tay. Không, tôi không lưu ý tới những dấu tay, đơn giản, tôi chỉ muốn giấu đi những tang chứng này cho đến khi tôi quyết định một biện pháp đối phó.
- Anh không có ý định tiết lộ?
- Nếu được gặp bác sĩ kịp lúc, có lẽ tôi đã nói: Bác sĩ chớ lo ngại về chứng viêm dạ dày ruột, ông bác tôi đã bị đầu độc. Nhưng, vì bác Miles đã chết rồi... Part, bạn phải hiểu cho tôi! Mark nói với một vẻ cuồng nhiệt man dại. Bạn hãy nhớ rằng tôi đã gần như...
- Nào hãy bình tĩnh, Partington cắt ngang. Anh hãy tiếp tục câu chuyện đi.
- Tôi cất chiếc ly và và cái tách vào ngăn kéo ở trong phòng làm việc của tôi, phía dưới nhà. Rồi phải chôn xác con mèo. Tôi nhớ có một bồn hoa vừa xới đất. Tôi đi lấy cái xẻng và chôn nó trong một cái hố khá sâu. Edith chẳng thể hay biết chuyện này và nghĩ rằng chú mèo đã đi lạc. Khi tôi vừa xong việc, tôi thấy ánh đèn pha của xe Ogden. Trong một lúc, tôi ngỡ rằng hắn trông thấy tôi, nhưng tôi đã vào nhà trước hắn.
Ngày hôm sau - sau khi nghe câu chuyện của bà Henderson, tôi mang chiếc ly và cái tách đến một dược sĩ quen biết, đủ kín đáo để tôi tin tưởng, và yêu cầu ông ta phân tích chất lượng. Sữa hoàn toàn vô hại. Phần còn lại trong tách là sữa trộn lẫn với rượu vang và một quả trứng gà cùng với hai hạt asenic trắng.
- Hai hạt? Partington quay nhìn, nhắc lại.
- Đúng. Như thế là nhiều lắm phải không? Theo như tôi đọc được...
- Với phần còn sót lại trong tách, thì như thế là quá nhiều đấy. Biết bao trường hợp chết ngay tức khắc vì hai hạt asenic, nhưng theo như tôi được biết thì đó là số lượng để gây tử vong. Nhưng, nếu đó là phần còn sót lại trong tách, thì đương nhiên cái tách phải chứa một liều lượng khủng khiếp...
- Thường thì liều lượng để gây tử vong là bao nhiêu?
- Không thể định được. Như tôi đã nói, có trường hợp chỉ cần hai hạt cũng đủ tiêu đời, nhưng đôi khi có những nạn nhân đã nuốt đến hai trăm hạt, vậy mà cứu được. Trong dạ dày của Langelier, bị đầu độc bởi Madeleine Smith tại thành phố Glasgow vào năm 1857, người ta đã tìm thấy tám mươi bảy hạt. Chính vì thế mà luật sư bào chữa đã cho rằng đây là một vụ tự vận, vì không ai có thể vô tình ngốn một số lượng asenic cỡ đó. Có một phán quyết ở Scotland cho rằng “Không chứng cớ” và điều này có thể được hiểu: “Không can án, nhưng chớ có tái phạm!”
Bỗng nhiên, Partington trở nên ba hoa và tỏ ra thích thú với đề tài của mình:
- Cũng còn vụ án Marie d'Aubrey, xảy ra vào năm 1860, ở Versailles. Một vụ án bẩn thỉu. Hình như chẳng vì một lý do nào, mà chỉ vì thích thú một số đông nạn nhân của mình phải chết... Có người ngã gục sau khi nuốt mười hạt, kẻ khác chịu đựng đến một trăm hạt. Như Madaleine Smith, Marie d'Aubrey không may. Bà bị lên đoạn đầu đài...
Trong lúc Partington trò chuyện, Stevens đã đứng dậy ngồi lên trên góc bàn giấy. Chàng cố gật gù và làm như theo dõi câu chuyện của vị bác sĩ, nhưng mắt chàng không rời khỏi cánh của phòng và vì thế cái ổ khóa cổ xưa đã để lọt một điểm sáng lung linh trên lớp gỗ... Nhưng chỉ mới đây, không còn thấy gì nữa, như có ai đó đang áp tai vào lỗ khóa...
- Dẫu thế nào, Partington tiếp, đó không phải là điều quan trọng: khi xét nghiệm tử thi, tôi biết ngay. Nhưng điều cốt yếu là thuốc độc đã được hấp thụ từ lúc nào. Nếu anh biết giờ giấc chính xác thì rất tiện. Anh thấy chứ, khi nạn nhân trúng một liều asenic khá mạnh, những triệu chứng sẽ xuất hiện từ vài phút cho đến một tiếng đồng hồ sau đó, tùy theo độc được thuộc dạng lỏng hay dạng đặc. Và từ sáu cho đến hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau khi trúng độc, nạn nhân sẽ tắt thở. Đôi lúc cũng có thể kéo dài, bởi có những trường hợp cái chết chỉ đến sau đó mấy hôm. Vậy vào lúc chín giờ rưỡi, anh thấy sức khỏe của ông bác vẫn khả quan. Rồi anh trở về vào lúc hai giờ rưỡi sáng và ông đã qua đời ít lâu sau đó. Đúng thế không?
- Vâng.
- Chúng ta phải đặt một giả thuyết là ông bác của anh, tuy bị căn bệnh làm hao tổn, còn là nạn nhân của một vụ đầu độc kéo dài và chỉ một liều lượng khá mạnh mới có thể kết thúc nhanh như thế. Cần nhất là biết ông bác đã trúng cái liều sau cùng đó vào lúc nào...
- Tôi có thể biết đích xác, Mark nói ngay. Đó là vào lúc mười một giờ mười lăm.
- Vâng, Stevens xen vào, hẳn đây là câu chuyện kỳ lạ của bà Henderson mà anh có nói với chúng tôi. Còn ngại ngùng gì mà anh không thuật lại?
Stevens e ngại rằng mình hẳn bị cuốn hút vào cuộc. Chàng có vẻ bồn chồn hơn thường lệ, nhưng Mark xem ra không để ý đến chàng. Bỗng nhiên dứt khoát, anh nói:
- Vào lúc này, tôi sẽ không kể chuyện đó cho mấy bạn.
- Tại sao vậy?
- Bởi vì các bạn sẽ nghĩ rằng tôi điên hoặc là bà Henderson bị loạn óc. Tin tôi đi, tôi đã suy nghĩ lại hàng trăm lần, không tài nào chợp mắt... Nhưng tôi biết rằng phần còn lại của câu chuyện này thật không thể tưởng tượng nổi với bất cứ ai. Các bạn có thể nghĩ rằng tôi muốn thông đồng với các bạn khi yêu cầu hỗ trợ để khai quật hầm mộ. Dẫu sao, cái chết của bác Miles cũng phải được làm sáng tỏ. Các bạn có chấp nhận cho tôi hai tiếng đồng hồ ân huệ? Đó là tất cả những gì mà tôi cần để kiểm chứng lại phần đầu của câu chuyện này.
- Này Mark, anh đã đổi thay, tôi không còn hiểu anh nữa. Câu chuyện mà nãy giờ anh kể cho tôi và anh Stevens đây, chẳng có gì là quái đản lắm. Đó là một tội ác có đôi chút quỉ quái, nếu anh muốn thế, nhưng tôi còn biết nhiều chuyện kinh dị hơn. Còn gì ly kỳ trong những điều anh không muốn kể ra?
- Chuyện một người đàn bà đã chết từ lâu mà nay vẫn còn sống, Mark bình thản đáp.
- Anh lệch lạc rồi...
- Không, tôi hoàn toàn sáng suốt. Hẳn nhiên, tôi không tin điều đó có thể xảy ra, cũng như tôi không thể tin rằng Lucy liên quan đến cái chết này. Có hai giả thuyết, và cả hai điều vô lý như nhau. Phải nói rằng, có một mối nghi ngờ đã thâm nhập vào tâm trí tôi, tôi muốn loại bỏ nó đi để có thể yên vui... nhưng nếu tôi nói ra lúc này, thì chỉ có trời mới biết rồi các anh sẽ nghĩ thế nào... Trước hết, các bạn có chịu giúp tôi khai quật hầm mộ?
- Đồng ý, Stevens nói.
- Còn anh, Part?
- Tôi đã vượt ba ngàn dặm để đến đây, rồi chẳng lẽ lại trở về, ông bác sĩ làu bàu. Nhưng phải biết rằng anh không thể xỏ mũi chúng tôi nữa, sau khi tôi đã xét nghiệm tử thi! Với chuyện này, tôi cóc sợ tai tiếng! Tôi tự hỏi tại sao Edith...
Có ánh giận dữ trong đôi mắt nâu của ông, nhưng ông lại nhã nhặn trong khi trông thấy Mark, lần thứ ba, rót đầy ly rượu. Ông hỏi:
- Chúng ta sẽ quật mồ như thế nào?
Mark đáp ngay, nhanh nhẹn và chính xác:
- Được lắm! Được lắm! Chuyện này không khó nhưng cần phải có sức lực, thời gian và sự cố gắng. Cần có bốn người, người thứ tư sẽ là lão Henderson. Chúng ta có thể tin tưởng lão, hơn nữa lão cũng quen với loại công việc như thế này. Mặt khác, vợ chồng lão sống trong một ngôi nhà nhỏ trên đường dẫn tới nhà mồ. Chúng ta không thể đụng chạm được gì ở nơi này mà không qua mắt được lão... Với lý do này hoặc ký do nọ, tôi đã loại bỏ mọi người, ngoại trừ Henderson. Như vậy chúng ta khỏi sợ phải bị quấy rầy. Về công việc...
Từ hơn một thế kỷ rưỡi nay, ngôi nguyên đường cách nhà năm mươi thước vẫn được khóa kín. Người ta đã đến đó bằng một lối đi lát đá không qui cách trông rất ngoạn mục và bên cạnh lối đi là căn nhà mà dạo xưa được dành cho một tu sĩ mà giờ đây của vợ chồng Henderson. Ngõ vào hầm mộ nằm bên dưới lối đi.
Chúng ta phải nhấc lên khoảng hai thước khối đá lót và, vì phải tiến hành nhanh chóng, nên đương nhiên phải có hư hại. Chúng ta sẽ sử dụng một chục cái đòn bẩy bằng thép để thọc sâu xuống những phiến đá. Bên dưới chúng là một lớp đất và sỏi dày khoảng hai mươi phân, rồi đến những tấm đá lớn chận kín huyệt. Tấm đá này dài khoảng hai mươi thước, rộng một thước và cân nặng nửa tấn. Cái khó nhất là làm sao phải luồn đòn bẩy bên dưới và nâng tấm đá lên. Tôi biết đó là một việc nặng nhọc...
- Chắc rồi, Partington nói, vỗ tay vào đùi với vẻ dứt khoát, tốt hơn ta nên tiến hành càng sớm càng tốt. Nhưng này, anh đã muốn không ai biết... Vậy anh có tin rằng sau khi chúng ta đã gây ra những chuyện hư hại như thế, liệu, chúng ta có thể sắp xếp lại như cũ hầu không ai có thể phát hiện?
- Dĩ nhiên là với tôi hay Henderson thì có thể nhận thấy ngay, nhưng những người khác thì chắc hẳn là không. Những lớp đá lót không qui cách này chẳng hề được tu sửa và trong khi mai táng, không ít phiến đã đã bị vỡ.
Mark đứng dậy với vẻ như không muốn ngồi yên nữa, và nhìn đồng hồ.
- Bây giờ là chín giờ rưỡi. Vì tất cả chúng ta đều đồng ý nên chúng ta sẽ tiến hành càng sớm càng tốt. Chẳng có ai ở đó để quấy rầy chúng ta. Chúng tôi đến đó trước, còn anh, Ted, ăn tối đi rồi đến gặp chúng tôi. Nhớ mặc quần áo cũ...
Anh ta ngưng bặt trong một vẻ cảnh giác, rồi nói tiếp:
- Trời, tôi quên Marie mất! Anh nói sao với chị ấy bây giờ? Anh không kể lại cho nhà anh chứ?
- Không đâu, Stevens nói, liếc mắt về phía cửa, không, tôi sẽ không nói gì. Anh để mặc tôi.
Chàng nhận thấy họ ngạc nhiên vì cái giọng nói của chàng nhưng, vì bận lo nghĩ nhiều chuyện, họ đã tin tưởng chàng ở điểm này. Trong căn phòng ngập khói thuốc và với cái bụng đói, chàng cảm thấy đầu óc hơi quay cuồng khi chàng đứng dậy. Điều này làm chàng nhớ lại một cái gì đó có liên quan đến đêm 12 tháng tư, khi mà Marie và chàng ghé về ngôi nhà miền quê này. Và đêm đó chàng đã đi ngủ thật sớm. Chút nữa là chàng đã ngủ gục trên tập bản thảo đang đọc dở. Marie đã nói là do ảnh hưởng của không khí thôn dã.
Stevens đưa Mark và Partington ra hành lang. Chẳng thấy Marie đâu. Stevens nhìn ánh đèn xe của Mark xa dần trong đêm rồi chàng thận trọng khóa cửa và lặng nhìn ống cắm dù bằng sứ màu nâu. Marie đang ở trong bếp. Chàng nghe tiếng di động của nàng và tiếng hát nho nhỏ Il pleut, il pleut, bergère..: bản nhạc mà nàng rất thích. Ted băng qua phòng ăn, và đẩy cánh của ăn thông ra căn bếp.
Ellen, hẳn nhiên, đã về rồi. Marie đang làm xăng uých với thịt gà đồng cùng xốt cà và sà lách. Khi trông thấy chàng, nàng đưa bàn tay đang cầm con dao lên, vuốt lại lọn tóc. Nàng có vẻ nghiêm nghị trong ánh mắt và tuy vậy, trên bộ mặt của nàng có cái gì đó như muốn mỉm cười.
Trong căn bếp trắng tinh này, và với tiếng rì rì của chiếc tủ lạnh, toàn bộ câu chuyện đó xem ra rất phi lý.
- Marie, chàng gợi chuyện.
- Em biết, nàng nói. Anh có việc cần đi, nhưng trước tiên anh phải ăn tối đã, nàng chỉ tay về những chiếc săng uých.
- Sao em biết là anh phải đi?
- Đương nhiên, em đã nghe lén ở cửa! Trông các anh, người nào cũng có vẻ bí ẩn... Em biết làm sao hơn? Chuyện này làm hỏng buổi tối của chúng ta, nhưng em hiểu anh cần phải đến đó, nếu không anh sẽ bị ám ảnh về chuyện này mãi. Khi em bảo rằng anh và Mark Despard quá quan tâm đến những chuyện không lành mạnh, tức là em đã nghĩ đến vụ này rồi...
- Thế em đã biết trước?
- Không hẳn thế! Nhưng Crispen chỉ là một xó xỉnh đủ để ngồi lê đôi mách, nhảm nhí. Sáng nay em ra phố và nghe thiên hạ xì xầm là có chuyện gì đó không ổn ở Despard Park. Chuyện gì đó. Chẳng ai hiểu đó là chuyện gì cũng như tin đồn này đã xuất phát từ đâu. Nếu có ai hỏi kẻ nào đã loan tin đó, thì họ bảo rằng họ không nhớ... Anh sẽ thận trọng chứ anh?
Bỗng nhiên, không khí của căn phòng như có vẻ huyền ảo. Maire đặt cây dao xuống mặt bàn lót men và bước đến cạnh Ted, nàng cầm lấy tay chàng.
- Ted, hãy nghe em, em yêu anh... Anh biết em yêu anh chứ?
Chàng biết chứ, và chàng không thể làm gì hơn là ôm chặt nàng vào.
- Ted anh hãy nghe em. Bao lâu mà chúng ta còn sống thì mối tình của chúng ta không thể tan vỡ. Em hiểu anh đã nghĩ gì trong đầu. Ngày nọ, em có nói với anh về chuyện một ngôi nhà ở Guibourg và bà dì Adrienne của em và anh biết không... Nhưng đó chẳng phải là điều khiến anh phải suy tư. Đừng mỉm cười trịch thượng như thế với em! Em lớn tuổi hơn anh nhiều, nhiều lắm và nếu bỗng nhiên anh trông thấy khuôn mặt em nhăn nheo và vàng úa đi...
- Thôi! Em cuồng trí rồi Marie!
Nàng đứng đó miệng há hốc. Rồi nàng tự động cầm lấy con dao.
- Vâng, em điên rồi, nàng nói. Bây giờ anh hãy cho em bày tỏ điều này. Đêm nay, anh sẽ đi khai quật một nấm mồ và theo em nghĩ - đó chỉ là một ý nghĩ thôi — anh sẽ chẳng tìm thấy gì.
- Ừ, anh cũng nghĩ như thế.
- Không, anh không hiểu đâu. Anh chẳng thể nào hiểu được! Nhưng em van anh, anh chớ có dấn sâu vào vụ này. Nếu vì yêu em, em xin anh điều đó, anh có thuận không? Em van anh hãy suy xét cho kỹ những lời em nói với anh, đừng nhọc công tìm hiểu, nhưng hãy tin em.
Bây giờ, anh hãy ăn những cái săng uých này đi và uống một ly sữa rồi hãy thay quần áo sau. Anh nhớ mặc chiếc áo lạnh dài tay và cái quần vải dạ cũ ở trong tủ dành cho bạn bè đấy. Em quên chưa mang chúng bỏ tiệm nhuộm, một năm qua...
Rồi, như nàng Charlotte của chàng Werther, Marie tiếp tục cắt bánh mì. (Một nhân vật trong tác phẩm Nỗi đau của chàng Werther của Goethe, văn hào Đức. N.D).
Căn Phòng Rực Lửa Căn Phòng Rực Lửa - John Dickson Carr Căn Phòng Rực Lửa